HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

SỐ 1723

QUYỂN 09

Sa-môn Khuy Cơ soạn tại chùa Đại Từ Ân

 

PHẦN ĐẦU

PHẨM ĐỀ-BÀ-ĐẠT-ĐA

Chia làm ba môn :

1. Vì sao có phẩm này 2. Giải thích tên phẩm 3. Giải đáp các chướng nạn.

I. Vì sao có Phẩm này có ba:

1/ Luận giải là một trong sáu thứ thọ ký, tức loại thứ tư vô oán ký, nói: Thọ ký cho Đề-bà-đạt-đa điều đó nói lên Đức Thế tôn không có oán ác nên có phẩm này.

2/ Trong bốn phẩm khen ngợi tôn trọng lưu thông đây là phẩm thứ ba nói lên người trì kinh này đáng tôn trọng. Không tiếc thân mạng để cầu pháp này; đối với kẻ thù dùng thân làm giường nên có phẩm này.

3/ Nói lên diệu dụng kinh này lợi ích vô biên thành đạo cũng mau tức là đại chúng trong biển hội Long Nữ thành đạo, cho nên có phẩm này.

II. Giải thích tên Phẩm: Gọi là Đề Bà Thiên, Đạt-Đa Thọ, là em họ của Phật con của Hộc Phạn, từ cầu trời mà được, trời trao cho nên gọi là Thiên Thọ.

III. Giải đáp các chướng nạn: Phẩm này cũng nêu rõ từ Cung rồng vọt hiện lên, Long nữ thành đạo. Vì sao chỉ đặt tên Thiên Thọ?

Đáp: Vì Thiên Thọ có duyên tốt chính Đức Thích-ca truyền, các tên khác tuy nói lên đức thù thắng chẳng phải việc của Phật nên không dùng làm tên phẩm, lại từ đầu đặt tên Thiên Thọ là việc xưa, Long nữ xưa vọt hiện lên v.v… hiện việc.

Hỏi: Vì sao cung rồng xuất hiện Long nữ thành đạo không riêng

làm phẩm mà hợp chung Thiên Thọ?

Đáp: Văn-thù thuận duyên bạn lành chẳng trái với duyên lành của mình Thiên Thọ không như vậy, nói lên kinh đáng trọng, nên dùng thuận duyên đặt tên phẩm khuyên người trì kinh không dùng nghịch duyên đặt tên phẩm, đều là bạn lành trì kinh nên hợp làm phẩm.

-Kinh: “Lúc bấy giờ Đức Phật bảo cho đến không có lười mỏi”.

-Tán: Phẩm này văn chia làm hai phần:

  1. Nêu Thiên Thọ tự thân Phật trái duyên bạn lành, muốn hiển bày chỉ nên trì kinh bất luận oán thân đều là bạn lành.
  2. Nêu Văn-thù và tất cả chúng sanh thuận duyên bạn lành, nói kinh lợi ích nhiều năng lực nhanh chóng.

Phần đầu lại có ba: Trước nêu Phật xưa trọng pháp để cầu kinh, kế nói Thiên Thọ do trải qua đời sau thành Phật: “Bảo bốn chúng như Đề-bà-đạt-đa v.v…” sau kết nghe kinh đạt được lợi ích v.v… “Đức Phật bảo các Tỳ-kheo trong đời sau cho đến” Văn đầu văn có hai: Trước nêu xưa cầu pháp, sau nêu kết hợp xưa nay; tức phần văn sau kệ. Phần đầu lại có hai: 1. Văn xuôi và kệ nêu cầu pháp. 2. hai hàng tụng lý do cầu pháp Văn xuôi chia làm ba: Đầu nêu cầu pháp, kế nói vị vị tiên hứa, sau nói thuận theo. Cầu pháp có ba: Trước nói cầu pháp, kế nói tu hành, sau nêu tìm cầu: Đánh trống ra lệnh cho đến Đây là phần đầu.

-Kinh: “Trong nhiều kiếp cho đến tâm không lui sụt”.

-Tán: Nêu tu hành có bốn:

  1. Địa vị cao có khả năng.
  2. Hạ tâm năng thắng.
  3. Tài vật khó cho có thể cho năng bố thí.
  4. Địa vị khó bỏ có thể bỏ.

Đây là hai phần đầu.

-Kinh: “Vì muốn đầy đủ cho đến giao việc trị nước cho Thái tử”.

-Tán: Đây là hai thứ sau. Thuở ấy nhân dân cho đến. Ở đây nêu địa vị khó bỏ có thể bỏ tài vật khó cho có thể cho. Trước nói ý bố thí, sau nói sự bố thí. Trong sở thí thì đầu là ngoại tài, sau nội tài, tổn khí là phế bỏ, quân (vua) là chính, quen là sự, nay bỏ quân chính chẳng phải mình gánh vác.

-Kinh: “Đánh trống rao lệnh cho đến cung cấp hầu hạ”. Đây nêu tìm cầu.

-Kinh: “Bấy giờ có vị tiên cho đến sẽ nói cho Đại vương nghe”.

-Tán: Đây là nói tiên hứa.

-Kinh: “Vua nghe vị tiên nói cho đến thân tâm không mỏi mệt”.

-Tán: Dưới nêu thuận theo cung phụng có hai: Đầu là nóiviệc khó có thể làm, sau việc khó có thể làm lâu. Đây là phần đầu. Cho đến: Tức nói thời gian này trải qua vô lượng sự nghiệp, nghĩa là bị đánh mắng cũng chưa hề lui sụt.

-Kinh: “Thuở đó theo phụng thờ cho đến hầu hạ vị tiên không thiếu thốn”.

-Tán: Việc khó làm có thể làm lâu dài.

-Kinh: “Lúc ấy Đức Thế tôn cho đến thân sẽ làm tôi tớ”.

-Tán: năm hàng rưỡi tụng chia làm ba:

  1. Hai hàng tụng cầu pháp.
  2. Một hàng rưỡi tụng vị tiên hứa.
  3. Hai hàng tụng thuận theo. Đây là hai hàng đầu.

-Kinh: “Giờ có tiên Trường Thọ cho đến Ta sẽ nói cho ông nghe”.

-Tán: Đây là vị tiên hứa. Tiên A tư Hán dịch là vô tỷ.

-Kinh: “Khi vua nghe tiên nói cho đến thân tâm không lười mỏi”.

-Tán: Ở đây nói thuận theo.

-Kinh: “Khắp vì các chúng sanh cho đến nay vẫn nói cho ông nghe”.

-Tán: Đây hai hàng tụng lý do cầu pháp. Khuyên bày siêng năng học.

-Kinh: “Đức Phật bảo các Tỳ-kheo cho đến là nhân thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa”

-Tán: Đây là nói kết hợp xưa nay có hai: Trước kết hợp, sau lãnh nhận gánh vác. Lãnh nhận gánh vác có hai: Đầu lãnh mười một biệt đức, sau lãnh hai thứ biệt đức, nghĩa là thành chánh giác độ chúng sanh.

-Kinh: “Phật bảo bốn chúng cho đến trú vị không lui sụt”.

-Tán: Dưới nêu Thiên Thọ do trải qua đời sau thành Phật. Hành tổn hại nên cận tuy đắm chìm, do năng lực kinh nên sẽ thành quả thù thắng. Kinh Vô Cấu Xứng nói thị hiện làm ma vương phần nhiều là Bồ-tát giải thoát bất khả tư nghì, chỉ có Hương Tượng mới có khả năng đấu sức sừng Hương Tượng đánh đấu chẳng phải lừa có khả năng đánh được, cho nên biết Thiên Thọ thị hiện làm. Thọ ký có hai: Đầu là thọ ký hiện tại, sau thọ ký sau khi diệt độ. Hiện tại có bốn: 1. Tự thể. 2. Tên cõi. 3. Trú tuổi thọ. . Lợi ích.

-Kinh: “Sau khi Đức Phật Thiên Vương Niết-bàn cho đến đến bực không lui sụt”.

-Tán: Đây thọ ký sau khi diệt độ có bốn: 1. Pháp trú. 2. Xây tháp. 3. Cúng dường. 4. Lợi ích.

-Kinh: “Phật bảo các Tỳ-kheo cho đến từ hoa sen hóa sanh”.

-Tán: Dưới đoạn thứ ba kết nghe kinh được lợi ích. Tín tâm không nghi ngờ có đủ năm đức:

  1. Không đoạ vào ba đường ác.
  2. Sanh gặp Phật hiện tiền.
  3. Thường nghe kinh này.
  4. Sanh trong trời người thọ lạc.
  5. Ở trước Phật hóa sanh.

Nói về nạn có tám: Nghĩa là ba đường ác là ba. . Sanh trước Phật sau Phật. . Các căn không đủ. 6. Tà kiến thế trí biện thông. 7. Biên địa tức thuộc Bắc châu. 8. Trời trường thọ : Thành Thật luận nói bốn luân bẻ gãy tám nạn: 1. Trú thiện xứ sanh giữa nước trừ năm nạn nghĩa là ba đường ác biên địa và trời trường thọ. 2. Nương theo bạn lành nghĩa là gặp Phật, trừ sanh trước Phật sau Phật. 3. Phát chánh nguyện nghĩa là chánh kiến, trừ tà kiến thế trí biện thông. . Gieo trồng gốc lành đời trước trừ các căn không đủ. Nay nói không đoạ địa ngục v.v… là lìa ba đường hiểm nạn, sanh trước Phật là trừ sanh trước Phật sau Phật, thường nghe kinh này trừ tà kiến thế trí biện thông, sanh trời người thọ lạc trừ các căn không đủ, Phật tiền hóa sanh trừ biên địa, Bắc châu và Trường thọ thiên.

-Kinh: “Bấy giờ hạ phương cho đến nên trở về bổn quốc”.

-Tán: Phẩm Dưới đoạn thứ hai nói Văn-thù thuận duyên bạn lành nói kinh, ích lợi nhiều nhanh chóng, trong đây chia làm bốn:

  1. Trí Tích thỉnh trở về.
  2. Đức Thích-ca giữ lại.
  3. Văn-thù hiện ra.
  4. Trí Tích luận bàn.

Đây nói phần đầu. Nghiệm ý văn này, Trí Tích thỉnh trở về nêu rõ nói kinh xong cho nên biết tám phẩm chánh tông là tốt nhất.

Hỏi: Vì sao bạch Đa-bảo mà Phật Thích-ca giữ lại đợi?

Đáp: Thị giả thỉnh trở lại nên bạch Đa-bảo vì đạo chủ khách nên Thích-ca giữ lại.

-Kinh: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cho đến có thể trở về bổn quốc”.

-Tán: Đây nói đức Thích-ca giữ lại.

-Kinh: “Lúc đó ngài Văn-thù -sư -lợi cho đến đến núi Linh Thứu”.

-Tán: Đây nói Văn-thù hiện ra có hai: Vọt lên rồi đến núi, sau từ hoa sen xuống cung kính làm lễ. Đây là đầu.

Hỏi: Ngài Văn-thù nêu đầu kinh và đáp Di-lặc đều ở trong hội, vì sao ở đây nói từ Cung rồng xuất hiện?

Đáp: Lợi ích nhiều nguyên nhân đi ở đều lợi ích, Phật mở đầu nói Nhất thừa liền ẩn mà không hiện, nay vì chứng nghiệm mới từ cung rồng hiện lên, cũng đâu có sai. Từ biển vọt lên bèn đến linh nói.

-Kinh: “Từ hoa sen xuống cho đến rồi ngồi một phía”.

-Tán: Đây từ hoa sen xuống làm lễ cung kính, đã đến lễ Thế tôn cũng an ủy hỏi Bồ-tát.

Hỏi: Phân thân đã còn không riêng gì hai Thế tôn, vì sao Văn-thù lễ riêng hai bậc Thánh?

Đáp: Hợp gần nghiêng qui về, chưa hẳn cần phải lễ khắp, gần gũi đến cung kính không hẳn lễ khắp phân thân. Lại hiện tiền dễ lễ, chỗ xa khó trở về, cho nên biết đông độ bực thượng nhân riêng lễ hai bực thánh. Quan Âm nhận châu nhưng chia làm hai phần, phân thân còn ở cũng giống có gì sai lầm.

-Kinh: “Bồ-tát Trí Tích cho đến số được bao nhiêu”.

-Tán: Nêu Bồ-tát Trí Tích bàn luận, có hai: Trước nói số sở hóa nhiều ít, sau biện rõ sở hóa nhanh chậm. Kệ sau Trí Tích hỏi v.v… Đầu hiển hai lợi ích:

1. Chúng Sở độ.

2. Sở hóa khó, đều từ Thanh-văn để nhập Đại thừa, sau cùng có hai lợi ích: 1. Đạo thành nhanh chóng. 2. Chuyển thân ác. Bỏ tướng mạo súc sanh chuyển chất người nữ đều do lực kinh mà được như vậy.

Văn đầu có sáu:

  1. Hỏi hóa nhiều ít.
  2. Đáp: Số vô ương.
  3. Cung rồng vọt lên.
  4. Văn-thù chỉ bày.
  5. Trí Tích tán dương.
  6. Văn-thù nói hóa độ.

Đây là phần đầu.

Nhân giả: Chu lễ nói nhân giả có sáu đức:

  1. Nhân là trịnh huyền thương người và vật gọi là nhân.
  2. Trên dưới gần gũi gọi là nhân.
  3. Quí hiền thân nhân gọi là nhân.
  4. Giết thân thành người gọi là nhân. Nhân là nhẫn.
  5. Tốt sống ác chết gọi là nhân.
  6. Thiện ác đều nhẫn gọi là nhân.

-Kinh: “Văn-thù-sư-lợi cho đến sẽ tự chứng biết”.

-Tán: Đáp số vô ương. Tu du là chốc lát. Có chỗ nói tự sẽ chứng biết người Thanh-văn không sánh với đây được.

-Kinh: “Ngài Văn-thù chưa dứt lời cho đến nghĩa không của Đại thừa”.

-Tán: Cung rồng hiện ra có hai: Trước hiện ra đến núi, sau nói đức hóa độ của Văn-thù.

-Kinh: “Văn-thù -sư -lợi cho đến việc đó như vậy”.

-Tán: Văn-thù chỉ bày.

-Kinh: “Bây giờ Bồ-tát Trí Tích cho đến khiến mau thành Bồđề”.

-Tán: Trí Tích tán dương.

-Kinh: “Văn-thù -sư -lợi cho đến Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.

-Tán: Văn-thù bảo hóa.

-Kinh: “Bồ-tát Trí Tích cho đến mau được thành Phật chăng”.

-Tán: Dưới nói về sở hóa nhanh chậm, có bốn:

  1. Trí Tích hỏi.
  2. Văn-thù đáp.
  3. Trí Tích nghe.
  4. Long nữ hiện.

Đây là hỏi.

-Kinh: “Văn-thù -sư -lợi cho đến có thể đạt đến Bồ-đề”.

-Tán: Văn-thù đáp có mười sáu đức:

  1. Long.
  2. Nữ.
  3. Tiểu.
  4. Tuệ lợi.
  5. Trí căn.
  6. Đắc pháp tổng trì tức văn trì.
  7. Đắc định.
  8. Hiểu rõ pháp.
  9. Đắc không lui sụt.
  10. Biện tài.
  11. Từ niệm.
  12. Đầy đủ đức.
  13. Nhanh biện luận.
  14. Lời nói nghĩa xâu xa.
  15. Nhân từ khiêm nhượng.
  16. Hòa nhã.

Như trên đây đã nói người nữ nhanh chóng đắc Bồ-đề. Khoảnh Sát-na là thời gian rất ngắn. Luận Câu Xá chép: Một trăm hai mươi sátna là đát sát-na lượng, sáu mươi đát sát-na là một lạp phược, ba mươi lạp phược là một tu du, ba mươi tu du là một ngày đêm, ba mươi ngày đêm là một tháng, mười hai tháng là một năm, ở trong đó phân nửa giảm đêm. Kinh Hoa Nghiêm chép: Thập Tín Bồ-tát tám tướng thành đạo, nay hoặc nói đây khuyên bày mọi người. Kinh Già-da Thiên Đỉnh Thiên tử Tịnh Quang hỏi có bao nhiêu loại phát tâm? Văn-thù Đáp có bốn: 1. Chứng phát tâm là nhập sơ địa. 2. Hành phát tâm là sáu địa kế. 3. Bất thối phát tâm là Bát địa, Cửu địa. . Nhất sanh bổ xứ phát tâm nghĩa là Thập địa. Nay đây Long nữ hoặc loại thứ tư phát tâm hóa làm Long nữ, tiểu mà năng học Pháp Hoa, mau đắc Bồ-đề, khuyến khích mọi người chẳng phải là thật như vậy. Văn kinh Thù Vấn Bồ-tát nói: Loại đầu trong bốn hạng này đã hơn Thanh-văn, kế hơn Độc giác, kế hơn Bất định địa, sau an trú định địa. Căn cứ tăng hơn làm luận không trái với kinh trước. Kinh Pháp Ấn nói Bồ-đề tâm có bảy. Luận phát Bồđề tâm có mười phát tâm. Bồ-tát địa có bốn duyên mười thứ phát tâm, sợ văn rườm rà nên thôi.

-Kinh: “Bồ-tát Trí Tích cho đến liền thành chánh giác”.

-Tán: Trí Tích nghi có bốn: 1. Thời gian dài. 2. Hành sâu rộng. 3.

Trùm khắp các nơi. . Ý rộng lớn mới đắc Bồ-đề. Cho nên sanh nghi.

-Kinh: “Nói luận chưa xong cho đến độ thoát khổ chúng sanh”.

-Tán: Long nữ hiện, có bốn: 1. Long nữ hiện khen ngợi. 2. Thu Tử trình bày nghi. 3. Long nữ thành đạo. . Chúng đương thời được lợi ích. Đây là phần đầu có hai: Trước hiện rồi trở về chỗ cung kính, sau dùng tụng khen ngợi. Trong ba hàng rưỡi kệ tụng có hai: hai hàng rưỡi khen ngợi, một hàng sau trình bày thành thật. Đây là phần tụng kệ.

-Kinh: “Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất cho đến việc ấy khó tin”.- Tán: Ngài Thu Tử ban đầu, nêu sau giải thích. – Kinh: “Vì sao cho đến mau được thành Phật.” – Tán: Ở đây giải thích ba điều:

1. Thân uế không đắc, sao có thể nương thắng pháp, thắng nhân.

2. Thời gian ngắn không đắc quả Đại thừa mầu nhiệm.

3. Chướng ngại không đắc, lìa chướng không ngăn ngại mới viên mãn giác ngộ. Kinh Siêu Nhật Nguyệt Tam-muội nói: Thượng tòA-tỳkheo nói với Tuệ Thí rằng: Thân người nữ không thể được thành Phật đạo, có ba việc ngăn năm việc ngại. Sao gọi là ba: Tại gia tùy theo sự kềm chế của cha mẹ, xuất giá theo sự kềm chế của chồng, chồng chết theo con, cũng đồng nghĩa ba tòng của sách thế tục. năm thứ ngại đồng với đây.

Tức Kinh kia nói:

1. Không được làm Phạm thiên, vâng giữ hạnh thanh tịnh không có hạnh dơ cấu, tu tứ đẳng tâm khéo đạt tứ thiền và thăng Phạm thiên, dâm túng vô độ chính vì người nữ, cho nên không được làm Phạm thiên.

2. Không được làm Đế thích: Mạnh mẽ ít dục mới làm Đế thích tạp ác quá độ cũng vì người nữ.

3. Không được làm Ma vương, Thập thiện đầy đủ tôn kính tam bảo, kính thờ cha mẹ, khiêm cung, kính thuận trưởng già mới làm Ma vương, khinh mạn không thuận theo mất chánh giáo cũng vì người nữ.

4. Không được làm Luân vương: Hành Bồ-tát đạo từ mẫn với các loài cúng dường tam tôn, Tiên Thánh cha mẹ mới làm Luân vương, chủ bốn thiên hạ, hóa hành thập thiện, tôn sùng đạo đức, mới làm Luân vương không có hạnh thanh tịnh cũng vì người nữ.

5. Không được thành Phật: Tâm hành Bồ-tát thương xót tất cả chúng sanh đại từ bi dẫn đến Đại thừa, tiêu năm ấm hóa sáu suy, hành tam Tam-muội giải hai vô ngã chứng vô sanh nhẫn thông đạt tất cả, mới được thành Phật, người nữ không có việc này nên không được thành Phật.

Bồ-tát Địa chép: Tất cả người nữ thành tựu phiền não các trí ô nhiễm, Chư Phật không dùng thân xấu năng chứng đại Bồ-đề vô thượng cho nên nói người nữ không được thành Phật.

-Kinh: “Bấy giờ Long nữ cho đến lại mau hơn việc đó”.

-Tán: Long nữ thành đạo có hai: Trước dâng châu khởi thí dụ, sau thị hiện thành đạo. Đây nói phần đầu có bốn:

  1. Dâng châu.
  2. Hỏi ngược lại.
  3. Thẳng đáp.
  4. Kết dụ.

-Kinh: “Đang lúc đó cả chúng hội cho đến giảng nói pháp mầu”.

-Tán: Thị hiện đạo thành, có hai:

  1. Thấy nhân.
  2. Thấy quả.

-Kinh: “Khi ấy trong cõi Ta bà cho đến đều xa kính lạy”.

-Tán: Chúng đương thời được lợi ích có bốn:

  1. Vui mừng kính lễ.
  2. Được lợi ích.
  3. Cõi Vô cấu rung chuyển.
  4. Chúng hội tin nhận. Đây nói phần đầu.

-Kinh: “Vô lượng chúng sanh được lãnh lời thọ ký”.

-Tán: Thế giới vô cấu rung chuyển, có hai: Trước nêu thấy động, sau nói lợi ích này. Do thấy cõi kia rung chuyển liền chứng đạo quả.

-Kinh: “Bồ-tát Trí Tích cho đến im lặng mà tin nhận”. – Tán: Chúng hội tin nhận.

 

PHẨM TRÌ

Phẩm này chia làm hai môn:

1. Vì sao có phẩm này. 2. Giải thích tên phẩm.

I. Vì sao có phẩm này lại có ba:

1/ Sơ lược bốn phẩm nói trong khen ngợi tôn trọng lưu thông, ba phẩm đầu khen ngợi người, pháp khuyên người lưu thông, một phẩm sau này là thời chúng vâng giữ.

2/ Nương mười hai phẩm nêu cảnh Nhất thừa, chia làm hai: Trên tám phẩm đầu chánh nêu quyền thật ba căn được thọ ký. Ba phẩm kế khen ngợi người khen pháp khuyên nên kính mến hành trì. một phẩm Trì đây vâng mệnh xả quyền, trì hành thật pháp nên có phẩm này.

3/ Luận nói lực trì có ba: Phẩm Pháp Sư, An Lạc hạnh, Khuyến trì. Pháp Sư thông năng trì sở trì, An Lạc Hạnh chỉ có sở trì, phẩm này chỉ nói năng trì. Cho nên có phẩm này.

II. Giải thích tên phẩm: Trì là giữ gìn không để hoại mất, viết chép cúng dường cho đến tu hành đều gọi là trì, chẳng phải thọ trì trong mười pháp hành. Trước chiêu mộ người nói kinh cũng là khen ngợi người viết chép đọc tụng cho đến nay đây nói trì, cho nên biết trì chung cả mười hạnh khiến pháp trú lâu, làm lợi ích cho chúng sanh nói chung là trì. Cũng có đề Kinh gọi là phẩm Khuyến trì. Luận này cũng nói: Nhân trước Phật khuyên mà khiến trì, hoặc trong phẩm này Phật lại nghĩ đến các Bồ-tát cũng tức là Khuyến trì. Lý tuy chưa rõ nhân kinh phần nhiều gọi là phẩm Trì.

-Kinh: “Lúc bấy giờ ngài Dược Vương cho đến nói kinh điển này”.

-Tán: Phẩm này phần lớn chia làm ba:

  1. Hai muôn Bồ-tát ở cõi này trì, do các chúng sanh gây ra nhiều nghiệp ác.
  2. Bốn loại Thanh-văn thỉnh ở phương khác trì, ở đây khó hóa không thể kham nổi.
  3. Nhìn lại tám muôn ức na do tha Bồ-tát, kia đây đều trì thế lực lớn mạnh.

Đầu văn có ba: Trước thỉnh hộ trì, kế nêu người ác, sau nêu không sợ bỏ thân để trì kinh, đây là phần đầu.

-Kinh: “Đời ác sau cho đến xa lìa đạo giải thoát”.

-Tán: Ở đây nói người ác có sáu: Đời ác, chúng sanh ác, căn tánh ác, phiền não nhiều ác, tham danh lợi ác, không muốn giải thoát. Thêm lớn bất gốc lành tức nhiều phiền não.

-Kinh: “Dù khó có thể giáo hóa cho đến không tiếc thân mạng”.

-Tán: Ở đây nói không sợ bỏ thân mạng để trì kinh. Do đầy đủ sáu ác tuy khó có thể giáo hóa con cũng không sợ người cần đáng nhiếp thọ thì nhiếp thọ cho họ, người nên chiết phục thì chiết phục, bỏ thân mạng trì pháp.

-Kinh: “Bấy giờ trong chúng cho đến nói rộng kinh này”.

-Tán: Dưới đoạn thứ hai nêu bốn hạng Thanh-văn thỉnh ở phương khác trì, có ba: Trước nói năm trăm, tiếp nói tám ngàn, sau ni chúng. Đây là đầu.

-Kinh: “Lại có bậc Hữu học và Vô học cho đến tâm không chân thật”.

-Tán đây nói tám ngàn người thỉnh. Trước nêu sau giải thích.

Nước đây có tám việc ác nên mong ở nước khác trì kinh:

  1. Chỗ ác.
  2. Người ác, tệ ác khốn cùng; tướng khinh bạc dễ phẫn nộ.
  3. Mạn ác.
  4. Đức ác.
  5. Sân ác.
  6. Trược ác, do gần ngoại đạo nên khởi các kiến.
  7. Siểm ác là dua nịnh dối trá, thân cúi thấp hèn ý ưa nịnh hót gọi là siểm, thân ngữ nịnh hót.

8. Tâm không chân thật, miệng nói có tâm không có. Luận Trí độ chép: Chúng sanh thế gian thiện hảo (tốt lành) ít, người tệ ác nhiều, hoặc tuy hành thiện mà thấp hèn xấu xa, hoặc tuy giàu sang xinh đẹp mà hành bất thiện hoặc ưa bố thí mà thiếu tài vật, hoặc giàu nhiều tài vật mà tự keo kiết tham lam, hoặc thấy yên lặng không nói liền cho là kiêu căng cao ngạo không vì thấp kém tiếp nhận vật, hoặc thấy thấp kém mà dẫn tiếp ân tuệ thấm nhuần khắp, liền cho là lừa dối nịnh hót, hoặc thấy có khả năng khéo ngôn luận liền cho là ỷ lại chút trí tuệ đầy kiêu mạn, hoặc thấy ngay thẳng không dối, liền cùng nhau dối trá lộng quyền sắp bị si độn lăng nhục, hoặc thấy điều hòa khéo nhã nhặn mềm mỏng liền cùng nhau chà đạp chê bai, nếu thấy người trì giới tu hành liền cho là sở hành giả bộ lập dị khinh thường bất kính. Mười thứ tệ ác như vậy chúng sanh thật khó giáo hóa nên nguyện ở nước khác trì. Trong Kinh Pháp Cổ chép: Ca-diếp bạch Phật: bạch Đức Thế tôn! Con không thể nào nhiếp thọ người ác, thà dùng hai vai gánh vác núi Tu-di đến trăm ngàn kiếp, cũng không thể kham nhẫn nghe người ác phạm giới diệt pháp, chê bai pháp, ô nhiễm pháp, âm thanh phi pháp. Thế tôn! Con thà làm tôi tớ phụ thuộc người khác chứ không thể chịu nghe cho người ác phạm giới, bội pháp, trái pháp, hoại pháp, âm thanh phi pháp. Thế tôn! Con thà đầu đội mặt đất sông núi trải qua trăm ngàn kiếp, không thể chịu nổi nghe người ác phạm giới diệt pháp tự cao hủy hoại người khác, âm thanh phi pháp: Thế tôn! Con thà thường chịu đui mù câm ngọng chứ không thể nào chịu nghe người ác hủy phạm tịnh giới, vì lợi xuất gia thọ nhận vật của tín thí, âm thanh phi pháp. Thế tôn! Con thà xả thân mạng mau nhập Niết-bàn chứ không thể chịu đựng người ác hủy phạm tịnh giới, theo tiếng ốc, mà thân hành siểm khúc, miệng nói luống dối, các ác âm thanh phi pháp như vậy. Cho nên các Thanh-văn này không nguyện ở cõi này trì kinh Pháp Hoa.

-Kinh: “Khi đó Di Mẫu của Phật cho đến mắt không tạm rời”.

-Tán: Đoạn thứ ba ni chúng thỉnh trì, có hai: Trước thọ ký sau trì kinh. Văn đầu có hai: Trước hai hạng được thọ ký, sau hai hạng vui mừng lãnh thọ. Đầu văn lại có hai: Mẹ và vợ. Nói về mẹ lại có hai: Thỉnh và thọ ký. Đây là thỉnh. Dì của Phật, chị em một nhà gọi là Dì.

-Kinh: “Bấy giờ Thế tôn bảo cho đến chánh đẳng chánh giác ư?”

-Tán: Dưới thọ ký có hai: Trước hỏi sau thọ ký. Đây là hỏi. Tiếng phạm là Kiều đáp Ma-hán dịch là Nhật Viêm chủng cũng gọi Cam giá chủng, là mẹ của Phật nên dùng tiếng Di để gọi, gọi lầm là Kiều Đàm Di, hoặc loại bùn đất nát loại phân trâu nên nói Di cho đến Cù đàm là họ. Nguyên nhân nói rộng kinh đây như Tây-vức ký.

-Kinh: “Kiều Đàm Di cho đến đều làm pháp Sư”.

-Tán: Trong phần Thọ ký: Trước nêu Phật đã nói cùng thọ kí nhân, sau thọ kí quả. Đây là thọ kí nhân.

-Kinh: “Ngươi dần dần đủ đạo hạnh cho đến chánh đẳng chánh giác”.

-Tán: Đây chính thọ ký quả, trước thọ kí Di mẫu sau chuyển ký.

-Kinh: “Bây giờ mẹ của La-hầu-la cho đến riêng chẳng nói đến tên tôi”.

-Tán: Dưới nói vợ có hai: Suy nghĩ và thọ ký. Đây là suy nghĩ .

-Kinh: “Đức Phật bảo cho đến A-tăng-kỳ kiếp”.

Tán: Đây thọ ký. Trước thọ kí nhân sau thọ ký quả, trong quả đầu tiên nói về thể sau tuổi thọ.

-Kinh: “Lúc đó bà Đại Ái Đạo cho đến lòng an vui đầy đủ”.

-Tán: Đây là hai loại vui mừng lãnh nhận. Trước văn xuôi sau kệ tụng.

-Kinh: “Các vị Tỳ-kheo ni cho đến giảng nói pháp này”.

-Tán: Thứ hai trì kinh.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến đại Bồ-tát”.

-Tán: Đoạn thứ ba, nhìn tám mươi muôn ức na do tha Bồ-tát trì, trong đó có hai: Phật nhìn thấy và thỉnh trì. Đây là phần đầu, dùng thân gia hạnh phát khởi tâm chúng khiến trì kinh do đó nhìn các Bồ-tát. Cho nên, trong luận này gọi phẩm Khuyến Trì là dùng thân khuyên. – Kinh: “Các vị Bồ-tát đó cho đếnphải làm thế nào?” – Tán: Dưới thỉnh trì, Văn xuôi có ba:

  1. Khen ngợi đức.
  2. Niệm thỉnh.
  3. Nói thỉnh.

Đây nói hai phần đầu. Trong đức đầu tiên nói vị thứ. A-duy-việttrí Hán dịch là Bất thối Bát địa trở lên. Từ câu: “Xoay bánh xe pháp cho đến” trở xuống là nói thành tựu đức. Tâm niệm có hai, như văn có thể biết.

-Kinh: “Lúc đó các vị Bồ-tát cho đến xa giữ gìn cho”

-Tán: Đây là nói thỉnh. Đầu tiên là thỉnh trì lược có bày hành, không có ba hành thí cho người , lắng nghe, cúng dường vì dễ nên lược.

Sau thỉnh hộ trì.

-Kinh: “Tức thời Bồ-tát cho đến chúng con sẽ nói rộng”

-Tán: Dưới có hai mươi hàng chia làm hai: một hàng đầu nêu sẽ nói, kế mười tám hàng tụng giải thích sẽ nhẫn thọ, sau một hàng tụng kết thệ. Đây là một hàng đầu.

-Kinh: “Có những người vô trí cho đến chúng con đều phải nhẫn”.

-Tán: Dưới mười tám hàng giải thích sẽ nhẫn thọ chia làm hai: mười sáu hàng tụng nhẫn trì. hai hàng tụng khuyên nói trì. Văn đầu có bốn:

  1. Một hàng tụng hủy mắng đánh đập nhẫn.
  2. Chín hàng rưỡi tụng ngã mạn chê bai nhẫn.
  3. Ba hàng tụng hủy mắng nhẫn nhục.
  4. Hai hàng rưỡi tụng xua đuổi im lặng nhẫn. Đây là một hàng đầu.

-Kinh: “Tỳ-kheo trong đời ác… lòng ngã mạn dẫy đầy.”

-Tán: chín hàng rưỡi tụng ngã mạn chê bai nhẫn có ba:

  1. Một hàng tụng tướng ngã mạn.
  2. Bảy hàng tụng chê bai nhẫn.
  3. Một hàng rưỡi tụng kết thành nhẫn.

Đây là phần đầu. Tà trí nên thế trí biện thông, siểm khúc nên khen ngợi việc làm của bạn, còn tướng hai thứ mạn kia có thể biết.

-Kinh: “Hoặc người mặc áo nạp cho đến như La-hán sáu thông “.

-Tán: bảy hàng tụng chê bai nhẫn, trong đó có bốn: hai hàng tụng hiển người ác, một hàng tụng nêu giả tu hành, hai hàng tụng chê bai sự tu hành, hai hàng tụng nói hành vi ác. Đây là hai hàng đầu. Tiếng phạn A luyện nhã đây gọi nhàn tịch xứ, lìa xa thôn một câu lô xá hơn sáu trăm bước.

-Kinh: “Người đó ôm lòng ác cho đến ưa nói lỗi chúng con”.

-Tán: Đây là nói giả tu hành.

-Kinh: “Mà nói như thế này cho đến mà giải nói kinh đó”.

-Tán: Đây là chê bai sự tu hành.

-Kinh: “Thường ở trong Đại chúng cho đến nói luận nghĩa ngoại đạo”.

-Tán: Đây nói hành vi ác, nói lỗi xấu của họ cho người khác nghe.

-Kinh: “Chúng con vì kính Phật cho đến đều sẽ nhẫn chịu”.

-Tán: Kết thành nhẫn.

-Kinh: “Trong cõi đời vẩn đục cho đến hộ trì lời Phật dặn”.

-Tán: Ba hàng chê bai nhẫn nhục chia làm ba: một hàng tụng việc nhẫn, một hàng tụng ý nhẫn, một hàng kết hộ trì.

-Kinh: “Thế tôn tự nên biết cho đến đều sẽ nhẫn việc đó”.

-Tán: Đây là xua đuổi nhẫn. Vì kinh này nên xua đuổi con con sẽ nhẫn. Tẩn là bài xích xua đuổi.

-Kinh: “Các thành ấp xóm làng cho đến xin Phật an lòng ở”.

-Tán: Đây hai hàng tụng khuyên nói trì.

-Kinh: “Con ở trước Thế tôn cho đến Phật tự rõ tâm con”. – Tán: Đây là kết thệ.

 

PHẨM AN LẠC HẠNH

Chia làm ba môn :

  1. Vì sao có phẩm này
  2. Giải thích tên phẩm.
  3. Giải đáp chướng nạn.

I. Vì sao có phẩm này có năm:

1. Là khoa đầu trong ba lưu thông. Bốn phẩm trên khen ngợi tôn trọng lưu thông, từ dưới bảy phẩm học hạnh lưu thông, học mở rộng kinh này chánh hạnh trợ hạnh không để bị tổn thương. Dù đã khen ngợi tôn trọng nếu không nói sở học năng hành chành vi ác hoằng kinh, đời mạt pháp phần nhiều khó khăn thường sanh tổn hoại, không thể mở mang, cho nên nói bảy phẩm học hạnh lưu thông:

  1. An lạc hạnh.
  2. Dũng xuất.
  3. Tuổi thọ.
  4. Phân biệt công đức.
  5. Tùy hỷ công đức.
  6. Pháp Sư công đức.
  7. Thường Bất Khinh.

Một phẩm An Lạc Hạnh là học hạnh mở rộng kinh, sáu phẩm Dũng xuất cho đến nói người năng hành trì kinh. Người do pháp để thành đức, pháp nhờ người để hoằng tuyên, nếu không hành theo sở học, người kia do đâu mà kiến lập đức, nên phẩm An Lạc hạnh hành để học. Nếu không có người năng hành thì pháp kia không do đâu mà lưu bố rộng cho nên Dũng xuất cho đến là nói người năng hành, nên sau phẩm trước có phẩm này.

2. Khoa sau mười chín phẩm làm chánh tông, trong đó có ba: Trên mười hai phẩm nêu cảnh Nhất thừa xong, kế ở dưới hai phẩm nêu hạnh Nhất thừa. Phẩm An lạc hạnh nêu hạnh sở hành, sau phẩm Dũng xuất nêu người năng hành cho nên tiếp có hai phẩm này.

3. Vì trừ trong bảy nhiễm mạn, thứ sáu là người tập công đức, nghĩa là người có công đức nói pháp Đại thừa mà chấp phi Đại thừa tăng thượng mạn vì đây nói hạt châu trong búi tóc. Cầu quả tam thừa là hạng người nhóm họp công đức. Xưa tuy tướng chung vì nói Đại thừa, tâm kia chưa quyết định lui sụt hay hướng về Nhất thừa mà sẽ vì thắng chấp phi Đại thừa, nói công huân nhỏ ít nên chỉ ban cho các vật khác. Như nay đã phát tâm định ưa thích Đại thừa lập công đã lớn nên cởi viên ngọc mà cho. Luận nói người thứ sáu nói pháp Đại thừa dùng pháp môn Nhất thừa này ban cho, khiến hàng Nhị thừa đồng thập địa hạnh mãn. Nay đức Như-lai thầm giải thích như cởi viên ngọc mà cho, nên có phẩm này.

4. Luận giải đệ thập vô thượng, lực trì trong bảy lực nghĩa là phẩm pháp Sư, An lạc hạnh, Phẩm trì. Phẩm An lạc hạnh nói hạnh sở trì, trước phẩm Trì đã nêu năng trì thì sẽ có hành sở Trì, cho nên có phẩm này. Tức văn bốn hạnh An lạc, đây là văn còn lại. Trước nói viên ngọc là văn sau.

– Luận chép: Sáu là thị hiện nói vô thượng cho nên nói chỉ cho viên ngọc trong búi tóc cho, dùng pháp này ban cho như cởi viên ngọc cho, pháp sở nói lại vô thượng. Tuy văn có khác nhưng đều nói châu, là phần còn lại của phẩm trước, nên có phẩm này.

II. Giải thích tên gọi: Lìa nguy nan sợ hãi gọi là an, thân tâm ưa thích gọi là lạc, oai nghi đáng làm khuôn mẫu lời nói có phép tắc, tâm trừ dòng siểm mạn, ý chí chứa từ bi, duyên từng trải không dừng lại gọi là hạnh. An lạc là quả, hạnh là nhân. An lạc hạnh là y chủ thích. Nếu khi tu nhân lìa các nguy hiểm sợ hãi, thích hợp thân tâm gọi là An lạc hạnh, tức trì nghiệp giải thích. Hành thông suốt đi ngay thẳng, hành kinh này thì thâu hoạch an lạc.

III. Giải đáp chướng nạn: Hỏi: Phẩm này cũng nêu việc cởi viên ngọc vì sao không lấy đó đặt tên phẩm? Đáp: Vì nêu thắng hạnh khen ngợi kinh thắng đức chẳng muốn đối cơ chính nêu việc viên ngọc cho nên chỉ lấy tên An Lạc Hạnh đặt tên.

-Kinh: “Lúc bấy giờ cho đến năng nói kinh này”.

-Tán: Trong phẩm này phần lớn văn chia làm hai: Trước khải thỉnh sau chỉ bày. Đây là phần đầu có hai: Trước tán dương việc ít có sau thỉnh nói nghi thức. Vì sao nói đời sau không có tổn thương.

-Kinh: “Đức Phật bảo ngài Văn-thù cho đến an trú trong bốn pháp”.

-Tán: Dưới chỉ bày có hai: Trước nhân hỏi Phật bảo bốn hạnh an lạc, sau cuối phẩm tụng, trong đó có hai hàng rưỡi tụng nhân tiên tổng bảo tướng quả an lạc. Tức câu “Người đọc kinh này thường không ưu não cho đến” Phần đầu bảo có ba: 1. Nêu đáp. 2. Hiển đáp. 3. Kết đáp. Sau kia hiển quả an lạc, tụng tiếp trước một rưỡi “sau khi ta diệt độ cho đến” đây tức là văn đầu, bốn pháp: Dưới bốn đoạn văn, đều có văn xuôi và kệ tụng mỗi mỗi là một hành: 1. Chánh thân hành. 2. Chánh ngữ hành. 3. Ý lìa hành vi các ác tự lợi. . Tâm tu các thiện lợi tha hành. Do bốn hạnh này nhiếp hết các hành. Do ngay thẳng nên không có ác nào không lìa, tự lợi hạnh mãn, do từ bi nên không có thiện nào không sanh, lợi tha hạnh mãn. Kinh từ nghĩa thù thắng nói thứ ba là ngay thẳng, thứ tư từ bi, thật sự đều thông. Căn cứ văn kinh ở dưới, trong phần đầu nói thân hành cũng nêu rõ tâm hành là thời giáo hành. Tâm kia an trú môn không hữu, do trú hai môn lấy làm căn bản dẫn các hành khác sanh; chẳng phải hạnh đầu cũng thông nơi tâm, hạnh đầu chỉ nêu lìa thân hành ác tu thân hành thiện, cho nên ở trong bốn hạnh đều nên nói có không hữu hai thứ, chỉ ở trong hạnh đầu nói hành không hữu, theo lệ ba hạnh còn lại đều có đầy đủ. Cho nên trú không hữu hai thứ là tu bốn hạnh, thông vận thân tâm. Bốn tên pháp: Pháp nghĩa là chấp trì, pháp là sở y, ba nghiệp là năng y, hai thứ này đều là hành sở hạnh. An là an xứ, trú là y chỉ, năng hành hạnh là an ở ba nghiệp, y trong bốn hạnh gọi là an trú bốn pháp. Hoặc pháp là nghĩa nhân, chủ yếu các Bồ-tát trước quán nhân pháp hai sự, thể không, tùy theo khả năng thân lìa tà ác, nói hợp phép tắc chánh thiện, diệt tướng dối gạt khởi tâm từ bi như dứt tự ung nhọt lìa chê bai hủy báng mở mang đại giáo mà chưa thôi, nhiều đời lợi ích mà không thoái mất là đại ý trong đây. Lại trước Phẩm Pháp Sư nói vào nhà Như-lai, tức là thứ tư đại từ bi tâm, mặc áo nhu hòa nhẫn nhục của Như-lai, ngồi tòa pháp không của Như-lai, đây là thứ nhất thông hành, diệt vọng tưởng nơi không môn, khởi chân tâm nơi của hữu, cho nên có thể dùng thân ngữ điều (hòa) mà lợi cứu giúp tâm ý thuận mà đạo viên mãn. Đây là lý do.

-Kinh: “Một là cho đến giảng nói kinh này”.

-Tán: Giải thích thân hành trong đó có ba:

1/ Nêu hành xứ, gần gũi xứ.

2/ Giải thích riêng.

3/ Kết cuối sau năm câu tụng, hoặc có bổn văn kinh văn xuôi, nay chọn là tụng làm chánh nêu đây. Xứ là xứ sở tức pháp trước, là nơi các hành tam nghiệp nương tựa thật hành, nơi đáng gần gũi, hành là du hành, an nghỉ hoặc trở lại đạo lý. Như thế gian nói: Ông làm ở đâu? Ý nói thuộc hành ở đạo lý nào! Kia nói bất cứ lúc nào tâm cũng thường du hành, an nghỉ trong xứ sở này, hoặc an tâm thần ở trong xứ sở đạo lý nên gọi là hành xứ. Thân là gần gũi phụ giúp, cận là huân tập gần gũi, xứ nghĩa đồng trước. Hành là thân tâm sở ứng gần gũi phụ giúp huân tập cận xứ gọi là gần gũi xứ. Hành nghĩa là bên trong thật hành chành vi ác an nghỉ thân tâm, gần gũi nghĩa là cảnh bên ngoài, ngoài duyên thân gần huân tập, đây hai thứ thô tướng sai khác, thân hành có thân sơ, có chung riêng gọi là gần gũi xứ, ba thứ còn lại không như vậy. Chỉ gọi chung An lạc hạnh.

-Kinh: “Văn-thù-sự-lợi cho đến là chỗ hành xứ của đại Bồ-tát”.

-Tán: Trong biệt giải thích chia làm hai: Trước nêu hành xứ sau gần gũi xứ. Hành xứ tức là nhân chung của bốn hành, khi khởi bốn hành phải y môn đây mới sanh khởi.

Hành xứ có ba: 1. Hỏi. 2. Giải thích. 3. Kết. Đây là hỏi.

-Kinh: “Nếu vị Đại Bồ-tát cho đến lòng chẳng kinh sợ”.

-Tán: Dưới giải thích có ba: Trước tu hạnh hữu, kế tu hữu không, sau cả hai hữu đều trừ bỏ. Đây là phần đầu, chỉ tu hạnh hữu, vì phi không nên chấp trước sanh tử không có chứng đắc. Chỉ tu hạnh không, vì phi hữu nên chấp trụ Niết-bàn. Không có lợi tha. Muốn nói rõ quán cả hai Không Hữu mà không chấp trước, khác nhau phàm phu và Nhị thừa. Như Kinh Vô Cấu Xứng nói: Hành không trú đạo. Lại chỉ tu hạnh hữu do phi không nên vọng tưởng càng thêm lớn, chỉ huân tu hạnh không vì phi hữu nên chân tâm không có nhân mà không sanh. Cho nên để diệt vọng tưởng nơi không môn, khởi chân tâm nơi cửa hữu, hữu không song quán mới thành Trung đạo tức là hành xứ đây.

Tu hạnh hữu có bốn:

1/ Trú nhẫn địa, lại như khi nói pháp có oán hại, năng nhẫn, khổ ép ngặt năng chịu, đế pháp năng ấn.

2/ Nhu hòa khéo thuận: Thân tùy hạnh mầu nói lời hay khéo, tâm không nghĩ ác, ngoài lìa thô thiển gọi là nhu hòa, trong khế hợp huyền tôn gọi là khéo thuận.

3/ Mà không vụt chạc: Nghĩa là không bộc phát cử chỉ thiếu kềm chế, suy nghĩ, với ba nghiệp phi lý đã chưa khéo đủ thì mỗi khi khởi đều phải xét kỹ, thong thả tư duy, trí là dẫn dắt trước, rồi sau động phát chánh kiến tiến lên, biết khó dễ, tiến lùi hợp thời, dù tư duy có khởi cũng không phi lý gọi là không vụt chạc (hấp tập).

4/ Tâm cũng không kinh sợ: Dù đối với Đại nghĩa từng chưa nghe người khác cật vấn trái với tông, ngược với mình, hoặc họ cúng dường, gần gũi, đánh mắng, hơi trái nghịch, danh lợi, oai thế, hủy nhục, xua đuổi, lợi suy, hủy dự, xưng cơ hiềm, khổ lạc, với tất cả các thứ này đều an ổn vững chắc bất động, tâm cũng không sợ. Nên có tụng nói: “Chư Phật thường dạo khắp thế gian, lợi lạc tất cả loài hữu tình, tám pháp nhiệt phong tà phân biệt, không thể khuynh động không chấp ngại.” Hoặc trú nơi nhẫn nhục địa là câu tổng, là biệt nói thường nhu hòa, thân khéo thuận an mà không kinh sợ, trong tâm thường cũng không sợ, ba nghiệp thuận lý đây mà hành nơi hữu, thì có kinh nào mở mang truyền bá mà gặp chướng ngại! Nhẫn nhục gọi là địa, địa là nghĩa sở y lớn lên, lấy nhẫn làm nương tựa lớn lên thiện, dụ cho địa. Lại nói từ dụ đặt tên, khi hành nhẫn như đất mà nhẫn chịu thuận, trái bất động, cho nên đào hang sâu mà đất không giận, dựng nhà cao mà đất chẳng thích, gặp muôn vật mà đều chuyển tải, nhậm trì đức dụng càng lớn, đào bới bĩ quấy nhiễu mà phát ra suối ngọt, gieo trồng xong đất chẳng mong mỏi ban cho. Cho nên hành ba nhẫn nêu đất đặt tên đáng nên suy nghĩ kĩ, đáng gọi là Đại Bồ-tát. Hoặc địa nghĩa là vị, ở trong tất cả địa vị thường hành nhẫn.

-Kinh: “Lại ở nơi pháp không cho đến tướng như thật”.

-Tán: Đây là nói tu hạnh không. Hành là nghĩa phân biệt chấp trước. Đối với pháp không phân biệt: Ở trong tất cả pháp chỉ thấy chúng sanh và pháp đều không mà không phân biệt chấp trước là có, mà quán các pháp tướng như thật, tức là đã quán ngã pháp hai không làm môn, lại quán tánh Như-lai tạng của các pháp. Chân lý pháp thể tướng như thật, thể pháp, ngã không có gọi là Không, Như-lai tạng kia gọi là tánh không. Chẳng quán hai môn không chẳng thấy tánh chân không, cho nên hai thứ này đồng gọi là quán không.

-Kinh: “Cũng chẳng thực hành không phân biệt.

-Tán: Trên nói quán không, hữu, sợ đắm trong không hữu cho nên nay quán bỏ cả hai, nghĩa là tuy quán không mà cũng không vin theo chấp đắm vào không, tuy quán hữu mà không phân biệt chấp đắm trong hữu, tương ứng đều vô trú mà nêu pháp quán. Nếu có sở trụ thì là phi trú, cho nên dưới có tụng rằng: Tuy y theo người không pháp không giải mà hai thứ này gọi chung nơi pháp mà không phân biệt vin theo, nhiếp theo lý không trái. Lại nữa đối với pháp, không phân biệt quán các pháp không. Tụng nói: Không hành thượng, trung, hạ, pháp hữu vi vô vi, cũng không hành, không phân biệt. Như thứ lớp tức không hành phân biệt ngã, ngã sở, quán chúng sanh là không. Tụng nói: Cũng không phân biệt là nam hay nữ. Do quán hai ngã, pháp này là không liền chứng tánh như thật của nhị không. Lại đối với pháp không phân biệt, nghĩa là không phân biệt nói pháp chỉ quán nghĩa chân như thật tướng, cũng không phân biệt là người được thọ hóa. tức quán ba sự hai thứ người, pháp thể tánh là không, mà quán chân như thật tướng là hữu. Lại tất cả pháp có hai: Vọng và chân, đối các pháp vọng nên không phân biệt chấp trước để xả bỏ các vọng, đối pháp tánh chân nên thường quán sát cầu chứng đắt. Tuy gây ra hành vi này cũng không tạo hạnh chân trí đối với thật tướng chấp là hữu, cũng không tạo Tục trí, hành phân biệt chấp là không. Cho nên Bát-nhã chép: Nên vô sở hành mà hành đó gọi là hành, không hành nên chẳng có chỗ nào, không hành, không phân biệt nên chẳng có chỗ nào không phân biệt. Không hành không phân biệt nên vọng huyễn đều trừ, không chỗ nào, chẳng hành, chẳng phân biệt nên chân tế đều đạt. Do đó, song tu chiếu rõ tất cả, nơi sự y tha trú nhẫn địa cho đến nơi lý thành thật quán như thật tướng, người pháp sở chấp đều soi chiếu là không.

-Kinh: “Đó gọi là Bồ-tát cho đến hành xứ”.

-Tán: Đây kết.

-Kinh: “Thế nào gọi là Đại Bồ-tát cho đến thân cận”.

-Tán: Dưới nói chỗ gần gũi có hai: Hỏi và giải thích. Đây là hỏi.

-Kinh: “Vị Đại Bồ-tát cho đến cuộc chơi biến hiện”.

-Tán: Dưới giải thích có hai:

a) Lìa duyên ác bên ngoại không thể gần gũi xứ, ngược lại nói lên không lìa duyên lành bên ngoài, có thể gần gũi xứ tức là cảnh ở cõi người.

b) Ngoại quán chân pháp có thể gần gũi xứ ngược lại hiển ngoại quán vọng pháp không thể gần gũi xứ, tức là cảnh pháp, lẫn nhau nói lên tức chia làm hai. Nhưng quán chân pháp nên có cả các hành khác, dẫn chung cả bốn hạnh. Dựa vào theo hạnh đầu mà rõ ràng không chỉ hành này. Văn đầu lại có hai: Giải thích và kết. Lìa các duyên ác bắt đầu tu giới hạnh, thường ưa ngồi thiền, kế tu định hạnh, sau gần gũi xứ quán cảnh không cho đến mới tu tuệ hành.

Đầu văn chia làm ba: Bốn phần đầu là một đoạn, kế một là một đoạn, sau năm là một. Trong phần đầu lại có hai: Nói lìa bốn và nêu không lìa. Trong đây có ba lìa:

  1. Tổn hại duyên.
  2. Ác kiến duyên.
  3. Hoại loạn duyên.

Bồ-tát tuy lại giáo hóa khắp chúng sanh nhưng mới tu hành thì phải phân biệt, người học không lâu cũng giống như vậy. Lại ở đây chấp nhận cho nói pháp dẫn dắt chúng sanh lợi lạc, mà chỉ hòa quang nhưng không được thuận theo đồng trần giao hảo, do đó lìa, ngăn đầu không ngăn sau, ngăn đồng không ngăn khác, ngăn thuận không ngăn trái, cho hóa độ mà không giao hảo nên không trái nhau. Nếu gần gũi vua cho đến hoặc chỉ tăng thêm sự tổn hại như trong luật nói. Nếu vào cung vua thì có mười lỗi. Ngô Vương đồng kéo xe để một đời vinh hiển Tần chúa nhường vợ chịu sĩ nhục ngàn năm, ngoại đạo tà nhân thường dò xét pháp thiếu sót lầm lỗi, cho nên luật không cho tự tay trao thức ăn huống chi là gần gũi. Ni-kiền-tử: Là ngoại đạo ly hệ. Viết sách thế tục: Là các loại thi ca làm văn, văn khắc trên bi thuộc bút viết. Thư theo Chu lễ có sáu nghề, năm gọi là lục thư nghĩa là hình tượng, biên chép nơi tre lụa cho đến như trong âm giải, nay nêu loại kia bốn phương Tây khác với ở đây. Lộ-già-da-dà: trước nói ác đáp đối với người, chánh nói lộ ca cũng là để ca dịch là ngoại đạo thuận thế. Nghịch lộ-đà-da-đà: Trước nói ác trưng cầu hỏi người, chánh nói phược ma lô ca cũng là để ca, nói ngoại đạo Tả Thuận Thế chấp trái với trước nên gọi là tả (trái) thuận thế tục. Dưới một là nói xuyên suốt cả hai xứ trên. Na la cho đến là thân múa vẽ văn hoa. Biến hiện vui chơi là làm trò huyễn thuật thế gian. Hung là ác. Nay đây từ đầu có gây ra lỗi hung ác nguy hiểm. Kinh A-hàm nói bậc trí trong lòng thường lo lắng tợ như trong ngục tù, kẻ ngu thường vui vẻ hớn hở như ở cõi trời Quang âm. Người trạo hý như voi trâu lừa không bị buộc móc câu vào mũi nên khó có thể cấm chế. Lại kệ nói: Ông đã cắt tóc mặc áo hoại sắc cầm bát đất đi khất thật vì sao ưa đắm pháp chơi đùa, đã không có pháp lợi ích mất công đức do đó không nên đâm nhau đánh nhau.

-Kinh: “Lại không gần gũi cho đến các luật nghi ác”.

-Tán: Nói nghiệp duyên ác. Chiên-đà-la dịch là người giết mổ không có luật nghi, nói đúng là Chiên-đồ-la, hán dịch là nghiêm sí, nghiệp ác tự hành trì nêu cờ, lay chuông linh đồng cầm cây trúc gọi là tự nêu, trong đây nêu ra sáu thứ, tạp tâm có mười hai, nghĩa là người mổ dê, nuôi heo – gà, bắt cá – chim, thợ săn, trộm cướp, kẻ đầu cơ, người giữ ngục, chú rồng, giết chó, rình săn.

Kinh Niết-bàn có mười sáu thứ: Trâu dê heo gà làm lợi nên mua, nuôi cho béo rồi đem bán, vì lợi nên mua, mua rồi giết mổ, tức là tám thứ trước. 9. là câu cá. 10. Thợ săn. 11. Cướp đoạt. 12. Kẻ đầu cơ. 13. Bắt chim. 1. Nói hai lưỡi. 1. Ngục tốt. 16. Chú rồng. Đối pháp quyển tám nói có mười bốn: Giết dê, nuôi heo, bắt chim, bắt cá, săn hưu, đặt bẩy, trộm cướp, đầu sỏ, hại trâu, trói voi, lập đàn, chú rồng, giữ ngục, gây chuyện, ưa làm tổn hại cho đến ý văn này nói, ý suy diễn rộng lại tổn hại sâu, đấm chắp lợi chướng khi sắp qua đời thân vẫn không dừng đều gọi là không có luật nghi cho nên nói ưa làm tổn hại cho đến Nên Kinh này nói các luật nghi ác. Lược âm ngư lại là bắt. Lại điền lạp là săn bắn, ngư bộ là chài lưới.

-Kinh: “Những người như thế cho đến không có tâm mong cầu”.

-Tán: Đây là nói không lìa, cho hòa quang hóa độ ma không cho đồng trần nên không gần gũi.

-Kinh: “Lại không gần gũi cho đến không có tâm mong cầu”.

-Tán: Đây là đoạn thứ hai, trước lìa sau không lìa. Nói người có duyên. Kinh Niết-bàn chép: Bồ-tát sợ Nhị thừa như tiếc thân mạng người. Tịch Điều Âm Thiên tử Sở Vấn kinh chép: Đức Phật bảo Vănthù-sư-lợi thí như có người đói khát tiều tụy, chịu đói khát chứ không hề ăn thức ăn có độc trộn lẫn, Bồ-tát cũng như vậy, thà sẻn tiếc ganh ghét phá giới ác khẩu đọa lạc vong niệm vô trí chứ không bao giờ hy vọng mong cầu quả vị Nhị thừa. Phật bảo Thiên tử, như người tham ăn là chất độc của Luân vương; cho nên người Nhị thừa trì giới tinh tấn tức là Bồ-tát phá giới đọa lạc nên không được gần gũi, cho đến vì nói pháp không mong cầu gần gũi lợi dưỡng cung kính.

-Kinh: “Văn-thù-sư-lợi cho đến, để làm thân hậu”.

-Tán: Đoạn thứ ba, đầu lìa thứ sáu nhiễm duyên lâu dài, thứ bảy duyên vô dụng, thứ tám duyên hiềm trách, thứ chín duyên không phép tắc, thứ mười tán loạn duyên. Sau nêu tự hành. Trong năm thứ lìa văn này có hai: Là duyên thứ sáu, thứ bảy. Thập tụng luật nói: Thí như người ăn thức ăn chín tất cả người nữ cũng giống như vậy khiến người ưa đắm không thể lìa bỏ. Luận Trí độ nói: gió mát không có hình còn có thể bắt được, rắn độc còn có thể xúc chạm nhưng tâm người nữ khó có thể chạm được. Cầm đao kiếm chiến đấu giặc địch còn có thể đánh thắng, giặc nữ hại người khó có thể ngăn cấm.

Luật Tứ Phần nói: Thường đến nhà người tại gia có năm lỗi:

  1. Thường thấy người nữ.
  2. Thấy thường gần gũi.
  3. Chuyển dần thân hơn.
  4. Liền nghĩ việc dâm dục.
  5. Hoặc khi đến chết gần chết khổ não, cho nên phải xa lìa.

Năm hạng người bất nam: sanh tiện, trừ khứ, ganh ghét, bán nguyệt, quán sái. Do có hai lỗi nam nữ phiền não thường cùng hành, người tốt khó được, không phải pháp khí, cho nên không được thân gần.

-Kinh: “Chẳng một mình vào nhà người cho đến cũng chẳng thích đồng thầy với chúng nó”.

-Tán: Trong đây có ba: Duyên thứ tám, chín và mười. Luận Dugià nói: Nên lìa mười bốn cấu nghiệp tàn ẩn sáu phương, lìa xa bốn bạn ác nhiếp bốn bạn lành. Lìa mười bốn cấu nghiệp. Trường A-hàm nói:

Thân ngữ ý nghiệp có bốn: Sát, đạo, tà, dâm, vọng ngữ, không y các thứ này làm các việc ác. Nhân ác có bốn: Tham, sân, si, mạn, không y bốn thứ này khởi ác nghiệp.

Lìa sáu thứ làm tổn hại tài pháp:

  1. Mê uống rượu.
  2. Đùa giỡn.
  3. Phóng đãng.
  4. Mê chấp kỹ nhạc.
  5. Bạn Ác tổn hại nhau.
  6. Thuận theo kia nói.

Trong sáu thứ này đều có sáu thứ như vậy hợp thành mười bốn cấu nghiệp. Tàng ẩn sáu phương. Trường A-hàm nói trong thành La-duyệt có con trưởng giả tên là Thiện Sanh, tương truyền thời xưa vào mỗi buổi sáng thường lễ sáu phương, khiến thần trong sáu phương thường hộ gia nghiệp. Một hôm tình cờ bỗng nhiên gặp Phật có phương pháp gì không: Đức Phật đáp có cùng ông khác nhau. Cha mẹ là phương Đông, Sư trưởng là phương Nam, vợ con là phương Tây, bạn thân là phương Bắc, nô bộc sai sử là Hạ phương, Sa-môn cao đức là Thượng phương. Trong sáu phương mỗi phương đều có năm việc, thường tàng ẩn trong sáu phương này, không sanh kiêu học, mà tùy kia thích ứng, hoặc năng trú trong sáu phương này nên nói tàng ẩn.

Xa lìa bốn bạn ác: Trường A-hàm nói:

  1. Như gần gũi bạn ác sợ mà phục, thật không có ý gần gũi.
  2. Nói tốt với bạn ác, thuận lời trái ý.
  3. Kính thuận bạn ác, tâm tuy kính thuận nhưng việc làm thiện ác đều từ vô tướng can ngăn tâm.
  4. Đồng sự bạn ác. Làm bạn với việc ác hoặc đồng uống rượu đùa giỡn dâm dật phóng đản cho đến ca vũ cho đến Trong bốn thứ này mỗi thứ có bốn, nói bốn việc đáng ác thường nên xa lìa.

Nhiếp bốn bạn lành: Trường A-hàm nói:

  1. Ngăn bạn không tốt, ngăn các việc ác.
  2. Thương xót bạn lành linh đinh khổ sở.
  3. Lợi người bạn lành việc vui cùng nhau vui.
  4. Đồng sự bạn lành việc thiện đồng nhau.

Trong mỗi hứ đều có bốn, đều rộng như kia không cần nói nhiều.

-Kinh: “Thường ưa ngồi thiền cho đến đó gọi là chỗ gần gũi ban đầu”.

-Tán: Đây nêu tu định hạnh và kết. Thường xa lìa nơi ồn ào ưa ở chỗ vắng khuyên người sơ học nên tự tĩnh trú, khuyên người học lâu thân tuy ở chỗ ổn ào mà tâm thường vằng lặng. Lý thật bốn hành các ác đều lìa, các thiện đều tu, lại bàn luận nói, kinh phần nhiều phát khởi, cho nên văn trên dưới chỉ nói hành vi ác để khuyên tu tập, trên nói cảnh người, dưới nêu cảnh pháp.

-Kinh: “Lại nữa cho đến chẳng chuyển”.

-Tán: Thứ hai gần gũi xứ. Trong học Tuệ hạnh có hai: Trước dạy quán sau kết. Dạy quán đầu tiên không quán sau hữu quán là quán chân tục hai đế. Không quán có mười tám câu làm ba giải thích. Trong đây chỉ quán biến kế sở chấp không, nói lên pháp chân như vô tướng nhất thể, dưới hữu quán mới dạy quán việc thế tục. Trong mười tám câu chia làm tám loại, đây có hai loại: ba câu đầu y ba tánh để hiển chân, do chân thể mầu nhiệm tự tánh khó biết nên y thuyên hiển. Cầu đầu y Biến kế sở chấp không để nói lên hiển người pháp đều không. Câu thứ hai Viên thành thật tánh. Câu thứ ba tánh Y tha khởi nhiễm pháp điên đảo, chân như tịnh pháp không điên đảo, kế ba câu y thường trú để hiển chân, hữu vi có ba phẩm: trung phẩm có thể biến động, có thể tùy hạ phẩm thối bại, có thể tùy thượng phẩm tiến chuyển, vô vi thì không như vậy.

-Kinh: “Như hư không ch có tánh thật cho đến chẳng khởi”.

-Tán: Ở đây có ba loại: Một câu đầu lìa hai thứ đắc để hiển chân như, hư không chẳng có tánh năng đắc sở đắc. Kế một câu nêu nội chứng để hiển chơn như, danh ngôn không sánh bằng, chỉ có trí chứng. Ba câu sau phi hữu vi để hiển bày chân như. Kinh Niết-bàn nói không có nhân duyên nên gọi không sanh do vô vi đây gọi là không xuất, không tạo nghiệp nên gọi là vô tác, đây gọi là chẳng khởi, thể không phải nhân duyên sanh, chẳng phải thể trước có từ nơi khác mới xuất, cũng chẳng phải từ nghiệp mới tác khởi.

-Kinh: “Không danh cho đến không chướng”.

-Tán: Ở đây có ba loại: Hai câu đầu lìa tướng thuyên chỉ để hiển bày chân, không danh không tướng. Kế một câu lìa vọng pháp để hiển chân, không vọng tướng năng thủ sở thủ. Bốn câu sau nêu thể mầu nhiệm để hiển chân. Kinh Đại Phẩm nói vượt cả ba đời nên vô lượng, vượt cả mười phương nên không biên, lìa hoặc chướng phẩm gọi là vô ngại, lìa sở trì chướng phẩm gọi là không chướng. Trong đây tổng hiển pháp tánh chân như, là như thật tướng không cõi chấp nhân pháp, cũng chẳng phải thể y tha điên đảo, thể tánh thường trú chẳng phải đắc hai thứ đắc. Cho nên, chỉ nội trí chứng chẳng phải nhân duyên tạo, lìa danh lìa nghĩa lìa năng sở chấp, chẳng phải ba đời mười phương nhiếp không có hoặc trí hai chướng, nên dùng lý này mà quán chân tánh, Tức trước nói: Ở nơi pháp không phân biệt mà quán các pháp như thật tướng. Hoặc ba câu đầu hiển Ngã như thật tánh cho nên Đại tự tại, kế ba câu hiển bày Thường không tiến thối; kế bảy câu hiển lạc vô sanh, kế năm câu hiển Tịnh ly vọng ba đời mười phương cho đến Do đối hai tánh nên thành bốn đức. Hoặc sáu câu đầu nêu cảnh Không hành, kế năm câu cảnh Vô tướng hành, bảy câu sau là cảnh Vô nguyện hành. Đồng quán chân như khởi ba quán.

-Kinh: “Chỉ do nhân duyên mà có cho đến cho nên nói”

-Tán: Đây là Hữu quán. Trên quán tất cả pháp chân không để khởi ưa thích, đây quán tất cả pháp vọng có mà sanh nhàm chán, chỉ quán ba cõi năm đường từ sanh tất cả pháp cảnh đều tác quán do nhân duyên mà có, từ hai chướng đảo hoặc bốn, bảy đảo hoặc tâm loạn đảo cho nên nói là hữu quán vi, chẳng phải chân thật có mà sanh tâm nhàm chán lìa bỏ. Kinh Nhân Vương chép: Thế giới hư huyễn khởi, thí như hoa đốm giữa hư không, như ảnh thật ra đều không có, vì nhân duyên nên giả dối có. Nhiếp luận cũng nói loạn tướng với loạn thể tương ưng, chấp nhận đó là sắc thức và cùng phi sắc thức, hoặc vô dư cũng không. Tâm gặp cảnh tục nên khởi quán này, hoặc đây giải thích phục nạn nghĩa là có người nạn vấn rằng: Nếu tánh không đây ngôn ngữ đạo đoạn vì sao lại nói là không? Do đối đãi từ kia điên đảo sanh, luống dối cho rằng có pháp nói là tánh không, chẳng phải thể của không là có hữu không cũng không. Vì thế Trung luận chép: “Nếu có đối tượng “bất không” tương ứng thì phải có đối tượng “không”. Đối tượng “Không” không thể đắc huống chi đắc ở “không”. Do đó, tức trả lời không cũng chẳng có thể, đây là dựa theo ba luận chẳng phải Trung đạo tông. Lại có chỗ giải rằng: Đây do đối đãi vọng chấp có pháp từ điên đảo sanh cho nên nói là không, chẳng phải không nhất định không. Nói nhân duyên: Là nhân do dựa vào duyên mà có. Kinh Vô Cấu Xứng nói: Nói pháp phi hữu cũng phi vô tất cả đều đối đãi nhân duyên lập, ý đây nói chân không phải thể thật không có, nhưng chẳng phải thể nhất định không, chỉ vì trừ bệnh kia mà chẳng trừ pháp này.

-Kinh: “Thường ưa quán sát pháp tướng như thế cho đến chỗ gần gũi thứ hai”.

-Tán: Đây là kết.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến và trụ gần gũi xứ”.

-Tán: hai mươi bảy hàng rưỡi tụng, chia làm có hai: hai mươi ba hàngđầu tụng hai xứ trước, bốn hàng rưỡi sau tụng đắc quả an lạc. Phần đầu lại có hai: hai mươi mốt hàng rưỡi tụng khuyến thị, hai hàng rưỡi tụng hai xứ trước. Đây là một hàng rưỡi đầu.

-Kinh: “Thường xa rời vua chúa cho đến đều chớ có thân gần”.

-Tán: hai mươi mốt hàng rưỡi tụng hai xứ chia làm ba: mười ba hàng rưỡi tụng về hai xứ thuộc pháp hữu của cảnh ngoài người, kế hai hàng rưỡi tụng về hành xứ thuộc pháp nội hữu và không, năm hàng rưỡi sau tụng chân pháp cảnh ngoài gần gũi xứ. Trong văn xuôi đầu tiền lìa vọng hữu, bên ngoài sau quán chân không bên ngoài. Đây tụng đầu lìa ngoại vọng gần gũi xứ, tiếp mới nêu nội hành xứ, sau tụng cảnh ngoài chân pháp gần gũi xứ. Tạm xem thế văn thấy hai hàng đầu tụng hành xứ cận xứ, và văn cùng kết cả hai. Nhưng phần đầu văn tụng không thấy văn nói hành xứ, chỉ dùng tụng nói ở đây ác duyên không có tâm sợ hãi, không có tâm mong cầu mà vì nói pháp, nghĩa do nhu hòa và thiện thuận cho đến mới không sợ hãi không mong cầu gọi là hành xứ. Cho nên văn song nêu, thật ra chỉ cận xứ.

Mười ba hàng rưỡi tụng ngoại gần gũi xứ trong đó có hai: Mười hai hàng rưỡi tụng cận xứ, một hàng tụng kết. Mười hai hàng rưỡi lại chia có hai: sáu hàng rưỡi tụng lìa năm duyên, sáu hàng tụng lìa bốn duyên, không tụng tán loạn duyên. Sáu hàng rưỡi đầu lại chia làm hai, bốn hàng rưỡi tụng lìa, hai hàng sau tụng không lìa. Bốn hàng rưỡi một hàng rưỡi tụng lìa bốn duyên: Tổn hại, Hoại loạn, Ác duyên. Ác kiến. ba hàng tụng lìa một duyên, nghĩa là bạn xấu kém. Trước khai sau hợp cũng chẳng thứ lớp tụng.

-Kinh: “Nếu những hạng người đó cho đến mà vì chúng nói pháp”.

-Tán: Tụng không lìa. Do quán không hữu để tâm du hành nghỉ ngơi nên không còn sợ cho đến gọi là hành xứ.

-Kinh: “Những gái góa gái trinh cho đến phải một lòng niệm Phật”.

-Tán: Đây sáu hàng tụng lìa bốn chỗ:

  1. Nhiễm lâu.
  2. không phải pháp khí.
  3. Không phải phép tắc.
  4. Hiềm trách.

Văn chia làm năm: một hàng tụng hai duyên: Nhiễm lâu và không phải pháp khí. hai hàng tụng lại ác nghiệp. một hàng tụng lại duyên hoại loạn nhiễm lâu; một hàng tụng duyên không phép tắc. một hàng tụng hiềm trách. Làm: năm nhà là xóm, năm xóm là làng, tức hai mươi lăm nhà ở. Phương ở trong một làng.

Pháp khất thực có mười ba thứ:

  1. Trụ chánh giới.
  2. Trụ chánh oai nghi.
  3. Trụ chánh niệm.
  4. Trụ chánh kiến.
  5. Y pháp.
  6. Y thời.
  7. Y xứ.
  8. Y thứ.
  9. Lìa tham.
  10. Lìa chấp trước.
  11. Lìa sân não.
  12. Lìa thô tháo.
  13. Lìa tâm kiêu mạn.

Trong đây bốn trụ đầu chánh khất thật, kế bốn trụ phép tắc, năm trụ sau xả phiền não.

Như Kinh nói rộng: khất thật làm hai việc:

  1. Vì tự giúp mình hành chánh đạo.
  2. Vì lợi sanh đầy đủ pháp bố thí xả.

Người nhận, người cho đều thành lục độ do đó hành khất thật. Kinh Anh lạc nói khất thật làm mười hai việc Kinh Bảo Vân nói: Hễ xin được gì đầu chia làm bốn phần: một phần như cho người đồng phạm hạnh, một phần như thí cho kẻ ăn xin nghèo một phần đem thí cho chúng sanh dưới nước trên đất liền, còn một phần tự ăn. Nhưng dùng một phần ăn cúng dường Chư Phật và các hiền thánh, song sau tự ăn phải nhớ tưởng ăn, như ăn thịt trứng ở đồng hoang v.v… nguyện được pháp thân lìa các lỗi lầm, nhớ Báo ân thí chủ tưởng ăn như vậy. Lại như Kinh Vô Cấu Xứng nói Đại Ca-Diếp hỏi bệnh tật Vô cấu chỉ bày.

-Kinh: “Đây gọi tên là cho đến có thể an vui nói”.

-Tán: Đây kết không sợ hãi gọi là hành xứ, lìa duyên ác bên ngoài gọi là cận xứ.

-Kinh: “Lại cũng chẳng vin theo cho đến hành xử của Bồ-tát”.

-Tán: Ở đây tụng hữu không pháp hành xứ, trước tụng pháp không, sau một hàng rưỡi tụng sanh không. Trước nói hai xứ tức hữu quán, tụng lại không tụng trụ nhẫn nhục cho đến.

-Kinh: “Tất cả các pháp cho đến đó gọi là cận xứ”.

-Tán: Ở đây năm hàng rưỡi tụng chân pháp gần gũi xứ bên ngoài chia làm ba: một hàng rưỡi đầu tụng trong mười tám câu: Sanh pháp hai không lìa hữu vi vô vi, kế hai hàng tụng như núi Tu-di tâm định; sau hai hàng tụng lẫn lộn các câu, tùy thích ứng như nghĩa nên biết.

-Kinh: “Nếu có vị Tỳ-kheo cho đến không có lòng e sợ”.

-Tán: Đây bốn hàng rưỡi tụng nêu quả an lạc chia làm hai: một hàng rưỡi nêu, ba hàng sau tụng giải thích. Lìa lỗi lầm sai trái do đó không e sợ.

-Kinh: “Văn-thù -sư -lợi này cho đến giảng nói Kinh Pháp Hoa”.

-Tán: Đây là kết.

-Kinh: “Lại Văn-thù-sư -lợi cho đến hạnh an lạc”.

-Tán: Thứ hai chánh ngữ có ba phần: 1. Nêu khuyên. 2. chỉ bày riêng, sau năm hàng tụng hiển bày quả an vui, đây là phần đầu.

-Kinh: “Hoặc miệng giảng nói cho đến tốt xấu hay dở của người khác”.

-Tán: Dưới chỉ bày riêng, Văn xuôi có hai: Trước lìa ác sau tu thiện: “Khéo tu tâm an lạc như thế cho đến” Trước lìa bảy ác đây tức bốn ác đầu. Luận Trí độ nói: tướng Thiện nhân không tự khen chê mình không khen chê người. Hoặc người chê pháp như: Kinh Bách Dụ nói: Có hai người con rửa chân cho cha v.v… mà chê bai lẫn nhau khiến chân cha bị gãy.

-Kinh: “Đối với Thanh-văn cho đến chẳng sanh tâm oán hiềm”.

-Tán: Đây lìa ba lỗi. Chẳng những chỉ lìa lời nói ác như vậy mà phải thuận theo nói kinh. Dưới đều y cứ theo đây biết nói thiện cũng vậy.

-Kinh: “Vì khéo tu như thế cho đến đắc nhất thiết chủng trí”.

Tán: Đây tu thiện có ba:

  1. Thuận ý vì nói.
  2. Đều dùng Đại thừa.
  3. Khiến đắc chủng trí.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến tùy chỗ hỏi mà nói”.

-Tán: Dưới mười sáu hàng rưỡi tụng chia làm hai: mười một hàng rưỡi tụng văn trước, năm hàng tụng quả an lạc. Tụng trước chia làm tám văn có hai: một hàng tụng chỗ ngồi, một hàng rưỡi tụng nghi thức phép tắc. Mặc y mới sạch sẽ, tắm gội nên gọi là tịnh. Chánh Pháp Hoa nói mặc y phục sạch sẽ. Đây dưới lại nói trong ngoài đều sạch thơm. Có nói nói: Y mới nhuộm là sai.

-Kinh: “Nếu có vị Tỳ-kheo cho đến hòa nhã vì đó nói”.

-Tán: Nếu gặp duyên đến dung mạo hòa nhã vì đó nói.

-Kinh: “Nếu có người gạn hỏi cho đến vào ở trong Phật đạo”.

-Tán: Tụng hỏi đáp. Dùng chứng đắc của mình khiến người khác được lợi ích.

-Kinh: “Trừ lòng người biếng trễ cho đến đều khiến chúng vui mừng”.

-Tán: Một hàng đầu tụng tự trừ ác nhiễm. Sau một hàng rưỡi chỉ bày lời đã nói, biếng khác là buông lung với biếng trễ.

-Kinh: “Y phục và đồ nằm cho đến là an vui cúng dường”.

-Tán: Một hàng tụng tự không mong cầu, sau một hàng rưỡi tụng dạy an tâm tưởng. Luận Trí độ nói: Đại từ thương xót vì chúng nói pháp. Không cơm áo, danh tiếng thế lực, vì đại từ bi nên tâm thanh tịnh đắc vô sanh nhẫn. Như có tụng rằng: Học rộng biện trí khéo nói năng, khéo nói các pháp chuyển tâm người, tự không như pháp làm điều bất chánh, thí như mây sấm mà không mưa, học rộng học rộng có trí tuệ, vụng về chậm chạp không khéo nói, không thể hiển phát pháp bảo tàng, thí như không sấm mà không mưa, không học vấn rộng không trí tuệ, không thể nói pháp không hạnh mầu, là pháp Sư tệ không hổ thẹn, thí như mây nhỏ không sấm mưa, học rộng trí lớn khéo nói năng, khéo nói các pháp chuyển tâm người, hành pháp tâm chánh không sợ hãi, như mây sấm lớn tuôn mưa khắp. Pháp Phật rộng lớn soi chiếu khắp, chiếu sáng Phật pháp kho trí tuệ, trì tụng giảng rộng rung chuông pháp, như thuyền Bátnhã vượt biển khổ, cũng như ong chúa hút các vị, nói như Phật nói tùy ý Phật, giúp Phật bày pháp độ chúng sanh, Pháp Sư như thế rất khó gặp. Được vào rừng chiên đàn mà chỉ chọn lấy lá xanh, đã vào núi báu mà lại lấy thủy tinh, có người vào trong Phật pháp mà không cầu Niết-bàn an vui, lại cầu lợi dưỡng cúng dường thì đều gọi là tự lừa dối, cho nên khiến không mong cầu mà nói pháp cho nghe.

-Kinh: “Sau khi ta diệt độ cho đến nói chẳng thể hết được”.

-Tán: Đây năm hàng tụng quả an vui chia làm ba: một hàng tụng là nêu, hai hàng tụng nói lìa ác, hai hàng tụng nói được pháp thiện.

-Kinh: “Lại Văn-thù -sư -lợi cho đến vạch tìm chỗ hay dỡ”.

-Tán: Thứ ba ý lìa các ác, tự lợi hành.

Trong văn xuôi có hai:

  1. Nêu hành.
  2. Nêu quả.

Nêu hành có hai: Trước dạy lìa ác, sau dạy tu thiện: “Phải ở nơi tất cả chúng sanh cho đến” Lìa ác có bốn, đây là hai phần đầu. Hành đầu có ba đều là ý nghiệp: 1. Lìa ganh ghét. 2. Lìa siểm khúc. 3. Lìa cuồng trá. Đây là thứ hai, hành không sai trái nhau, dưới đều thuộc ngữ nghiệp.

-Kinh: “Nếu hàng Tỳ-kheo cho đến có sự tranh cãi”.

-Tán: Hai thứ lìa ác sau:

  1. Không xúc não người.
  2. Không hý luận.

-Kinh: “Phải ở nơi tất cả chúng sanh cho đến cũng chẳng vì nói nhiều”.

-Tán: Tu thiện có ba:

  1. Tu ý nghiệp trụ trong ba tưởng.
  2. Tu thân nghiệp cung kính lễ bái.
  3. Tu ngữ nghiệp bình đẳng nói pháp ít nói quí lời nói.

-Kinh: “Văn-thù -sư -lợi cho đến tôn trọng khen ngợi”.

-Tán: Trong quả an lạc có bốn:

  1. Không não loạn.
  2. được bạn lành.
  3. Được chúng lắng nghe.
  4. Chuyển nhập pháp cho người.

Năm quả đây đều tương ưng với hành trước. Sợ văn phiền rộng nên không nói.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến rằng ngươi chẳng thành Phật”.

-Tán: Đây sáu hàng tụng chia làm ba: hai hàng đầu tụng lìa ác, kế ba hàng tu thiện, một hàng sau khuyên tu. Đây là hai hàng đầu. Đầu tụng lìa bảy ác, do ngay thẳng, sau tụng lìa ba lỗi để truyền trao. Ngụy trá tức là không thật.

-Kinh: “Phật tử đó nói pháp cho đến nói pháp không chướng ngại”.

-Tán: Đây nêu tu thiện chia làm ba: một hàng tụng chúng sanh tu bốn hành, tiếp một hàng kính Bồ-tát, sau một hàng khởi tưởng Phật như cha.

-Kinh: “Pháp thứ ba như thế cho đến vô lượng chúng cung kính”.

-Tán: Đây khuyên tu.

-Kinh: “Lại Văn-thù -sư -lợi cho đến sanh đại bi tâm”.

-Tán: Tâm tu các thiện hành lợi tha. Trong văn xuôi chia làm ba: Trước nêu hành pháp, tiếp “Văn-thù -sư -lợi vị đại Bồ-tát đó cho đến” nêu quả an lạc, sau “ở trong vô lượng cõi…” khen ngợi kinh thù thắng mầu nhiệm. Văn đầu có hai: Trước dạy từ bi, sau dạy suy nghĩ. Đây là phần đầu. Hành pháp duyên từ muốn cho pháp lạc, cho nên đối với hàng tại gia xuất gia khởi từ tâm, đây ở trong chủng tánh Bồ-tát khởi tâm không sợ sanh tử khổ, cho nên ở trong hàng không phải Bồ-tát, nghĩa là hạng nhất Xiển-đề Nhị thừa cho đến đối với hạng nhiều sợ các khổ nên khởi bi tâm, hạnh chúng sanh duyên bi và pháp duyên bi, sự thật từ bi hai loại đều vận. Nay căn cứ tăng thượng cũng không trái nhau.

Kinh Hoa Nghiêm nói: Phật tử Bồ-tát có mười thứ đại bi thường quán sát chúng sanh:

  1. Quán không chỗ qui y.
  2. Chạy theo tà đạo.
  3. Nghèo không gốc lành.
  4. Ngủ lâu trong sanh tử.
  5. Hành pháp bất thiện.
  6. Trói buộc ở Dục.
  7. Ở trong biển sanh tử.
  8. Bệnh tật lâu dài.
  9. Không ưa pháp thiện.
  10. Mất pháp Chư Phật.

-Kinh: “Phải nghĩ thế này cho đến không tín không hiểu”.

-Tán: Dưới dạy phải suy nghĩ có hai: Trước nghĩ hôn mê, sau nghĩ hóa đạo. Đây là nghĩ, người mất lợi được Như-lai phương tiện tùy nghi nói pháp, tức Kinh Pháp Hoa khai xưa hợp Tiểu thừa nói tam thừa, chỉ bày nay hợp Đại thừa nêu nhất thật, không gần gũi bạn lành nên chưa hề nghe, tâm không hiểu biết không tự giác ngộ, lại không hỏi người dù có nghe cũng không tin, dù có tin cũng không hiểu đó là tướng hôn mê.

-Kinh: “Người đó dù chẳng hỏi cho đến trú trong pháp này”.

-Tán: Đây nghĩ phải hóa đạo. Nghĩa là người được hóa độ nay dầu không nghe cho đến, sau kia trú nơi cửu địa hoặc là thất địa hoặc địa phàm thánh hoặc từ địa phương nào ta thành Phật rồi sẽ dẫn dắt đó trú trong pháp Đại thừa.

-Kinh: “Văn-thù-sư -lợi cho đến không có lỗi lầm”.

-Tán: Dưới nêu quả an lạc, có hai: Đầu nói chung không lỗi lìa các nguy sợ, sau nêu đắc quả an lạc thù thắng. Đây nói phần đầu.

-Kinh: “Thường được hàng Tỳ-kheo cho đến đều được vui mừng”.

-Tán: Dưới nêu đắc quả an lạc thù thắng có hai: Đầu tiên nói đắc ba đức, sau giải thích lý do. Đây là phần đầu.

  1. Đắc danh lợi.
  2. Các vị trời hộ vệ.
  3. Vấn nạn vui mừng.

-Kinh: “Vì sao? cho đến nghe mà ủng hộ”.

-Tán: Đây là giải thích lý do. Nghĩa sâu nên Phật ủng hộ, được Phật ủng hộ nên có đắc.

-Kinh: “Văn-thù -sư -lợi cho đến thọ trì đọc tụng”.

-Tán: Dưới khen ngợi kinh thắng diệu có hai: Đầu tiên nói thắng diệu, sau là dụ hợp thành. Đây là phần đầu.

-Kinh: “Văn-thù-sư-lợi cho đến hàng phục các nước”.

-Tán: Dưới nêu dụ hợp thành có hai: Đầu dụ pháp hợp xưa trao cho quyền phương tiện, sau dụ pháp hợp nay cho thật giáo. “Như vua Chuyển Luân thấy các binh tướng có công lớn v.v…” Văn đầu lại có hai:

a) Dụ và hợp.

b) Trong dụ có năm:

  1. Pháp vương thi hóa.
  2. Dụ Chúng ma phản nghịch.
  3. Dụ Bậc Thánh phục trừ.
  4. Dụ Tùy công trao đạo.
  5. Cuối cùng ban cho kinh này.

Đấy là phần đầu, sức mạnh là thắng sanh tử. Luân vương có bốn như Du-già nói: Kim luân mong gió thuận hóa, Ngân luân sai khiến mới hàng, Đồng luân chấn oai mới phục, Thiết luân gắng sức đánh mới định. Pháp thân tự thọ dụng tha thọ dụng, hóa thân như thứ lớp phối hợp dụ. Nay hóa Nhị thừa đã là hóa Phật, tức chọn Thiết luân vương làm dụ, khởi binh chiến; oai thế gọi là thần thông trí tuệ, các nước là sanh tử hoặc nghiệp, hàng phục là nghĩa đoạn diệt.

-Kinh: “Mà các vua nhỏ chẳng thuận mạng lệnh”.

-Tán: Dụ Chúng ma phản nghịch. Sanh tử Phần đoạn, Biến dịch và phiền não sở tri chướng phẩm, ba thứ ma đều thị hiện thiên ma cho đến gọi là các vua nhỏ phản nghịch Phật giáo hóa khó có thể dứt trừ gọi là không thuận mạng lệnh.

-Kinh: “Bấy giờ Vua Chuyển luân cho đến đem các đạo binh qua đánh dẹp”.

-Tán: Dụ Bậc Thánh phục trừ. Voi, ngựa, xe bộ bốn thứ gọi là các đạo binh, dụ cho Thanh-văn Duyên-giác đều có học – phàm – Thánh khiến kia phục đoạn gọi là đem binh qua đánh.

-Kinh: “Vua thấy binh chúng cho đến liền rất vui mừng”.

-Tán: Tùy công trao đạo dụ có hai: Trước mừng vui sau ban thưởng. Đây là phần đầu, trừ đoạn hoặc chướng và phần đoạn sanh tử ba loại ma, chẳng bị khuất phục thiên ma và sở tri chướng phẩm ba thứ ma quân gọi là chiến có công, thuận khế hợp tâm Phật nên rất vui mừng.

-Kinh: “Tùy công ban thưởng cho đến tôi tớ nhân dân”.

-Tán: Ban thưởng có ba:

1/ Nêu vô vi công đức. Trong hợp nói ban cho thành Niết-bàn.

2/ Dụ nội hữu vi hành đức ngũ căn ngũ lực cho đến.

3/ Dụ quả sai khác đức thiền định giải thoát cho đến như thứ lớp phối hợp kinh. Tướng chung phối hợp dụ, hoặc đoạn đức sanh không lý như ruộng vườn, chúng sanh rốt ráo không là nhà, nhân trạch diệt như tụ lạc, Vô học quả mãn trạch diệt Niết-bàn như thành ấp, hổ thẹn nhẫn nhục là y phục, ngũ phần pháp thân, lục hằng tức là trang nghiêm thiền định giải thoát cho đến làm các thứ châu báu, thất thánh tài làm vàng bạc v.v… lục thông làm voi ngựa xe, trí sanh không làm tôi tớ sai sử hiện tiền, bát thắng xứ làm nô tỳ thắng phục sở duyên, mười biến xứ cho đến làm nhân dân ở cùng khắp mọi nơi.

-Kinh: “Chỉ có viên ngọc trong búi tóc cho đến sẽ rất kinh lạ”.

-Tán: Dụ cuối cùng ban cho Đại thừa. Viên ngọc tức Đại thừa Pháp Hoa là tâm Phật đứng đầu gìn giữ nên nói trong búi tóc. Thấy công còn kém nhỏ không dứt bốn ma của phẩm trí chướng. Trước hội Pháp Hoa còn trụ, nơi quyền trí chưa vì nói đây. Quyến thuộc của vua là đại Bồ-tát, sẽ kinh lạ là thấy không thuận căn cơ mà nói pháp mầu nhiệm cho nên sanh kinh lạ.

-Kinh: “Văn-thù-sư-lợi cho đến vua của ba cõi”.

-Tán: Dưới hợp cũng có năm. Đây hợp pháp vương thí hóa.

-Kinh: “Mà các ma vương cho đến không chịu thuận phục”.

-Tán: Đây hợp chúng ma phản nghịch.

-Kinh: “Các tướng hiền Thánh của Như-lai đánh nhau với ma “.

-Tán: Đây hợp Bậc Thánh phục trừ.

-Kinh: “Những người có công cho đến khiến đều vui mừng”.

-Tán: Đây hợp tùy công trao đạo. Đầu vui mừng sau ban thưởng, Thiền định cho đến hợp dụ trung hạ hoặc tự (chữ). Thành Niết-bàn: hợp đầu hoặc tự, căn cứ trước dụ phối hợp nghĩa có thể biết.

-Kinh: “Mà chẳng nói cho nghe kinh Pháp Hoa”.

-Tán: Đây hợp cuối cùng ban cho Kinh này.

-Kinh: “Văn-thù -sư -lợi cho đến mà nay cho đó”.

-Tán: Dưới dụ pháp hợp nay thí thật giáo, có hai: Dụ đầu là pháp hợp nay ban cho thật, tức trị hạng người thứ sáu nhóm họp công đức tăng thượng mạn, sau dụ hợp ban cho bậc nhất. Tức trong Thập Vô thượng là nói vô thượng. Văn đầu có hai: Đầu dụ sau hợp. Đây là phần đầu, các binh chúng là Thập địa Bồ-tát, thật phá bốn ma, phá phân đoạn, đã có khả năng phá bốn ma Biến dịch vì nói. Kinh Vô lượng Nghĩa cũng gọi là Diệu Pháp Liên Hoa. Bậc Thánh Nhị thừa: Tùy thích ứng, toàn phá từng phần phá phân đoạn ba ma ắt sẽ năng phá Biến dịch bốn ma, phát tâm mong cầu Đại thừa ắt sẽ phá, như quân tướng thế gian công huân nhỏ đợi thi công mà thương thưởng, ý chí anh hùng nên ban tặng thưởng cho người có ý chỉ hèn kém, để khuyến khích họ tiến tâm cho nên nói vì ban cho đây còn chưa nhập vị thập địa, lại giáo ban cho viên ngọc, nhập thập địa rồi phần phá Biến dịch bốn ma bèn ban cho thể viên ngọc.

-Kinh: “Đức Như-lai cũng giống như vậy cho đến cũng rất vui mừng”.

-Tán: Dưới hợp có hai: Trước vui sau ban cho. Đây là phần đầu, rõ ràng đã phá phân đoạn bốn ma lại khởi tâm Đại thừa sẽ phá Biến dịch, có công huân lớn cho nên Đức Phật hoan kỷ trao cho kinh Pháp Hoa này; chẳng phải tất cả chỉ phá phân đoạn bốn ma, không phát đại tâm sẽ phá Biến dịch bốn ma gọi là công huân lớn mà đều ban cho kinh này, hàng thú tịch Thanh-văn hướng vắng lặng không ban cho, hàng thối tâm Hữu học cũng ban cho. Hoặc nay lại: Là căn cứ hàng thối tâm Nhị thừa Vô học đã phá phân đoạn bốn ma gọi là công huân lớn, không nói hướng vắng lặng.

Bốn ma có hai:

  1. Phân đoạn.
  2. Biến dịch.

Như chương phá ma nói: Nay tùy cốt yếu, thể tánh của ba ma, phân đoạn có thể tất cả. Cõi Dục đệ lục tha hóa Thiên tử, gọi là Thiên ma, Biến dịch ba ma lý cũng có thể biết. Bát địa trở lên chư đại Bồtát thị hiện làm thiên ma. Nên Kinh Vô Cấu Xứng nói: Thị hiện làm ma vương, phần nhiều là Bồ-tát giải thoát bất khả tư nghì, chỉ có long tượng mới có thể đánh nhau với long tượng, như trước đã nói. Nhưng kia vị hàng phục, thời hàng phục khác nhau như lý thú sớ. Nay y Kinh Đại Tập nói: biết khổ đoạn tập chứng diệt tu đạo, như thứ lớp năng hoại uẩn. Phiền não, tử, và cùng thiên ma. Lại nữa quán hữu lậu, đều là khổ các hành vô thường, các hành vô ngã Niết-bàn tịch tĩnh, như thứ lớp phá uẩn, phiền não, tử và thiên ma. Lại nữa, quán không, vô tướng, vô nguyện, đủ ba thứ này rồi hồi hướng Bồ-đề, như thứ lớp hoại bốn thứ. Lại nữa quán thân thọ tâm pháp như thứ lớp hoại bốn thứ. Luận Trí độ nói: Bồ-tát đắc đạo nên phá ma phiền não, được thân pháp tánh, nên phá uẩn ma, đắc đạo và thân pháp tánh nên phá tử ma, thường nhất tâm nhập Tam-muội bất động nên phá thiên ma.

-Kinh: “Kinh Pháp Hoa này cho đến mà nay nói đó”.

-Tán: Đây là nói ban cho. Kinh này là nhân Phật, bị nhiều người oán ghét chê bai mà nay ban cho như cởi viên ngọc ban cho.

-Kinh: “Văn-thù -sư -lợi cho đến mà nay mới cho đó”.

-Tán: Đây dụ hợp với đệ nhất, tức nói vô thượng, có hai: Một là:

Lý Sở thuyên đầu tiên nên đắc vô thượng.

-Kinh: “Văn-thù-sư-lợi cho đến mà bày nói”.

-Tán: Hai là giáo năng thuyên đầu tiên cho nên vô thượng.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến kinh của Phật khen ngợi”.

-Tán: Hợp đầu mười bốn hàng rưỡi tụng hành thứ tư, trong đó chia làm hai: bốn hàng đầu tụng hạnh an lạc, mười hàng rưỡi tụng kinh Thắng đức. Bốn hàng đầu có hai: một hàng tụng nói chung, sau ba hàng tụng riêng. Đây là một hàng đầu. Ai là từ, mẫn là bi.

-Kinh: “Đời mạt pháp về sau cho đến làm cho trí trong đó”.

-Tán: Đây ba hàng tụng riêng: một hàng một câu tụng khởi từ bi, một hàng ba câu khởi tư niệm.

-Kinh: “Thí như vua sức mạnh cho đến lấy viên ngọc ban cho”.

-Tán: Dưới mười hàng rưỡi tụng kinh Thắng diệu trong đó có hai: bốn hàng đầu tụng dụ, sáu hàng rưỡi sau tụng về hợp. Đây là hàng đầu. Trước ba hàng tụng dụ cho quyền, sau một hàng tụng dụ cho thật.

Quyền có ba dụ: 1. Vua. 2. Công. 3. Ban cho.

-Kinh: “Như-lai cũng như vậy cho đến nói các kinh điển đó”.

-Tán: Dưới sáu hàng rưỡi tụng hợp trong đó có hai: ba hàng rưỡi tụng hợp trước quyền, sau ba hàng tụng nay thật. ba hàng rưỡi đầu, nay cũng chỉ có ba: một hàng rưỡi tụng về pháp vương, một hàng tụng về công, một hàng tụng ban cho. Nói các kinh điển đó, là nói kinh này hợp với trước đã nói.

-Kinh: “Đã biết loài chúng sanh cho đến vì các thầy mà nói”.

-Tán: Nay hợp đây thật, có hai: một hàng rưỡi tụng hợp nay thật, một hàng rưỡi tụng hợp cho bậc nhất.

Kinh: “Sau khi ta diệt độ cho đến bốn pháp trên như thế”.

-Tán: Đây đoạn thứ ba kết thành bốn hạnh.

-Kinh: “Người đọc tụng kinh này cho đến như mặt trời chói sáng”.

-Tán: Dưới hai mươi mốt hàng rưỡi tụng đoạn thứ hai nêu thông quả an lạc, trong đó có ba: bốn hàng rưỡi đầu tụng nêu quả thức tỉnh, kế mười sáu hàng tụng nêu quả trong mộng, sau một hàng kết quả trước. Đây là phần đầu: một hàng rưỡi tụng tự thể không có sáu điều ác, một hàng tụng chúng sanh kính mộ các vị trời nên làm tôi tớ, một hàng tụng ba ác bên ngoài không xâm tổn, một hàng tụng trí tuệ thông minh không sợ sệt.

-Kinh: “Nếu ở trong chiêm bao cho đến mà vì chúng nói pháp”.

-Tán: Dưới nêu quả trong mộng có năm, đây là hai văn đầu. một hàng rưỡi tụng thấy Phật, một hàng rưỡi tụng thấy tự nói pháp.

-Kinh: “Lại thấy các Đức Phật cho đến chắp tay nghe nói pháp”.

-Tán: Đây sáu hàng rưỡi tụng thấy Phật thọ ký chia làm bốn: một hàng rưỡi tụng thấy Phật nói pháp. hai hàng tụng thân xứ chứng ngộ, một hàng tụng nêu thọ ký, hai hàng tụng chánh thọ ký.

-Kinh: “Lại thấy tự thân mình cho đến thường có mộng tốt đó”.

-Tán: Đây hai hàng rưỡi tụng thấy thân tịch tính tu hành thấy Phật.

-Kinh: “Lại mộng làm vua chúa cho đến như khói hết đèn tắt”.

-Tán: Đây bốn hàng tụng thấy thân xả tục thành đạo phân bốn: một hàng tụng thấy tu hành, một hàng tụng thành đạo, một hàng rưỡi tụng nói về lợi sanh, nửa hàng tụng nói về nhập diệt.

-Kinh: “Nếu trong đời ác sau cho đến các công đức như trên” cho đến.

-Tán: Đây kết quả trước.

Ngày 21 tháng 12 Niên hiệu Bảo An năm thứ 3 ở chùa Hưng Phước Viên Như Phòng kiểm duyệt xong, tăng Giác Ấn ở chùa Pháp Long vì muốn chánh pháp tồn tại lâu dài vãng sanh Cực Lạc.

 

PHẦN CUỐI

PHẨM TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT

Phẩm này chia làm ba môn:

1. Vì sao có phẩm này. 2. Giải thích tên phẩm.

3. Giải đáp chướng nạn.

I. Vì sao có phẩm này có ba:

1/ Bảy phẩm nói về học hành lưu thông, một phẩm trước nói các hạnh phải học, sáu phẩm dưới nêu người năng hành. Nói người năng hành chia làm bốn: một phẩm này chánh nêu người hiện tại đầy đủ an lạc hạnh lưu thông. Phẩm Tuổi thọ và Phân biệt công đức, nhân giải thích nghi đây mà lần lượt có. Phẩm Tùy Hỷ và Pháp Sư công đức nói rõ trợ giúp cho người chánh nương an lạc hạnh lưu thông, chứng đắc công đức; Phẩm Thường Bất Khinh nói tự thân Phật đến ở vị trụ nhân xa thực hành hạnh an lạc , hành nhẫn nhục v.v… lưu thông kinh này. Nay đắc Quả Phật khuyên các chúng sanh nên siêng năng tu học cho nên có phẩm này.

2/ hai phẩm nói hành Nhất thừa, trong phẩm trước nói hạnh sở hành, phẩm này nêu nhân năng hành, cho nên có phẩm này.

3/ Luận nói bảy thứ là thị hiện giáo hóa chúng sanh vô thượng cho nên từ đất vọt hiện ra vô lượng vị đại Bồ-tát. Trong đây nói rõ Đức Phật đã từng giáo hóa vô lượng Bồ-tát thực hành bốn hạnh này. Từ đất hiện lên trì kinh khuyên các chúng sanh vì sao không học, nên có phẩm này.

II. Giải thích tên phẩm: Dũng là vọt lên, xuất là hiển hiện, từ đất vọt lên mà hiển hiện gọi là phẩm Tùng địa Dũng xuất. Dũng là như 238 nước vọt lên nên gọi là dũng là vọt nhảy.

III. Giải đáp chướng nạn: Vì sao không nói từ bên đến mà nói từ đất vọt lên? Đáp: Y bốn hạnh để trì kinh, vượt ngoài đất sanh tử. Lại nêu rõ không lìa cõi này Phật từng hóa đã đã vượt địa vị sanh tử nên không nói từ bên đến mà nói từ đất vọt lên.

-Kinh: “Bấy giờ các Bồ-tát ở phương khác cho đến mà nói rộng”.

-Tán: Trong phẩm này văn có bốn:

  1. Phương khác thỉnh trì.
  2. Như-lai không hứa.
  3. Phương khác vọt lên.
  4. Bồ-tát sanh nghi. Đây là phần đầu.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Phật bảo cho đến nói rộng kinh này”.

-Tán: Như-lai không hứa có hai: Trước Phật ngăn thôi, sau nói rõ. Lại nói rất nhiều nên nói sáu muôn, thật chẳng phải chỉ như vậy, hiển Phật hóa công. Ngăn thôi người khác, không hứa, dù khiến người khác hộ cũng có lỗi gì!

-Kinh: “Lúc Phật nói lời đó cho đến đồng thời vọt ra.

-Tán: Đây từ đất vọt ra có tám thứ:

  1. Từ đất vọt ra.
  2. Bay lên hư không khen ngợi lễ bái.
  3. Nêu thần lực.
  4. Chúng cùng thấy.
  5. Đạo Sư thăm hỏi.
  6. Thế tôn ủy dụ đáp.
  7. bốn vị tùy hỷ.
  8. Như-lai khen ngợi.

Văn đầu chia làm năm:

  1. Đất nứt.
  2. Thánh vọt hiện.
  3. Tướng tốt.
  4. Trụ xứ.
  5. Chúng quyến thuộc.

Đây là hai phần đầu tiêu biểu phá sanh tử. Đất nứt hiển đến Bồđề nên vọt hiện ra.

-Kinh: “Các vị Bồ-tát đó cho đến trụ giữa hư không”.

-Tán: Đây là tướng tốt và trú xứ, hành an lạc hạnh đắc quả, tượng hảo chứng chân tánh mà đắc Nhất thừa nên trụ giữa hư không.

-Kinh: “Các vị Bồ-tát đó cho đến chẳng có thể biết được”.

-Tán: Đây nêu chúng quyến thuộc có ba: 1. Lý do. 2. Liệt số. 3. Kết.

Liệt số có tám: 1. Hằng hà sa. 2. Phần hằng sa. 3. Na do tha. 4.Muôn. 5. Ngàn. 6. Trăm. 7. Chục. 8. Một.

-Kinh: “Các vị Bồ-tát đó cho đến hai đấng Thế tôn”.

-Tán: Bay lên hư không khen ngợi lễ bái có ba:

  1. Đến tháp.
  2. Lễ dưới chân.
  3. Cung kính khen ngợi.

-Kinh: “Các vị Bồ-tát đó cho đến cho là như nửa ngày”.

-Tán: Thần lực của Phật có ba:

  1. Khen ngợi thời gian dài.
  2. Thọ nhận cũng lâu.
  3. Rút ngắn thời gian.

Luận này nói Kinh này nói kiếp thời gian ngày đêm năm tháng; nay dùng ngày đêm hợp số không phế bỏ hai mươi lăm ngày thành năm mươi tiểu kiếp, hoặc lại năm mươi ngày, năm mươi tháng và năm, khen ngợi đức càng sâu thời gian dài có thể rút ngắn hết, thọ nhận khen ngợi thần lực cũng đồng, khen ngợi thời gian thần lực biến bổn tâm kia, thần thông của bậc Thánh có thể kéo dài, rút ngắn quang cảnh, chúng sanh ái pháp rồi thì quên mệt nhọc, huống chi có bậc Thánh ngầm giúp sao có thể liền sanh chán mỏi. Cho nên, bốn chúng cho là như bữa ăn, pháp thật nuôi dưỡng giữ gìn, thần thông chế ngự cho nên trải qua nhiều kiếp năm tháng mạng không thiếu.

-Kinh: “Bấy giờ bốn chúng cho đến cõi nước hư không”.

-Tán: Bốn chúng mọi người đều thấy.

-Kinh: “Trong chúng Bồ-tát đó cho đến xướng đạo Sư”.

-Tán: Năm đạo Sư thăm hỏi có bốn:

  1. Liệt danh.
  2. Đức hạnh.
  3. Hỏi thẳng.
  4. Kệ hỏi.

Đây là hai phần đầu. Hạnh cao đức rộng lớn lìa ác tiến thiện nên tên gọi có bốn loại.

-Kinh: “Ở trước đại chúng cho đến sanh mỏi nhọc chăng?”.

-Tán: Ba là hỏi thẳng, bốn là kệ hỏi.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến vào trong trí tuệ Phật”.

-Tán: Thế tôn an ủi đáp, có hai: Nêu và giải thích. Trong giải thích có ba:

  1. Thấy đối với các Đức Phật gieo trồng cội lành.
  2. Tức liền thọ hóa.
  3. Còn xa sự hội nhập cũng được theo ban đầu, tuy không theo cũng theo.

Hai phần đầu hai là khen ngợi Bồ-tát, một phần sau là nói Thanhvăn, hoặc hai phần đầu nói hội xa, một sau nói hướng về vắng lặng. Do không ngu đối với pháp nên nhập hiểu trí tuệ Phật chẳng phải nhập chứng.

-Kinh: “Bấy giờ các Đại Bồ-tát cho đến chúng con đều tùy hỷ”.

-Tán: Nêu bốn người tùy hỷ.

-Kinh: “Khi đó Đức Thế tôn cho đến phát tâm tùy hỷ” – Tán: Nêu Như-lai khen ngợi.

-Kinh: “Bấy giờ ngài Di-lặc cho đến thăm hỏi đức Như-lai.

-Tán: Đoạn thứ tư nói Bồ-tát sanh nghi có tám:

  1. Tâm niệm.
  2. Giảng nói.
  3. Người khác hỏi.
  4. Phụ đáp.
  5. Khen ngợi hứa.
  6. Chính đáp.
  7. Chúng suy nghĩ.
  8. Trình bày thỉnh.

Đây là phần đầu.

-Kinh: “Lúc đó ngài Di-lặc cho đến nguyện Đấng Lưỡng Túc nói”.

-Tán: Thứ hai: Giảng nói có mười chín hàng rưỡi tụng chia làm ba:

  1. một hàng tụng tổng trình bày nghi thỉnh.
  2. mười sáu hàng rưỡi tụng thỉnh việc nghi.
  3. hai hàng trình bày ý chúng nghi.

Đây là một hàng đầu.

-Kinh: “Là từ nơi nào đến cho đến là từ chốn nào đến”.

-Tán: Mười sáu hàng rưỡi tụng việc nghi chia làm năm: hai hàng tụng nơi đến, chín hàng tụng số đến, hai hàng tụng hạnh hóa, hai hàng rưỡi tụng tên nước, một hàng tụng không biết. Đây là hai hàng đầu có ba:

  1. Lý do.
  2. Khen ngợi đức.
  3. Nơi đến.

-Kinh: “Mỗi mỗi các Bồ-tát cho đến còn chẳng thể biết hết”.

-Tán: Chín hàng tụng số đến, có ba: một hàng tụng chung, bảy hàng tụng riêng, một hàng tụng kết.

-Kinh: “Các vị oai đức lớn cho đến tụ tập Phật đạo nào”.

-Tán: Hai hàng tụng hạnh hóa, có năm câu hỏi.

-Kinh: “Các Bồ-tát như thế cho đến chưa hề thấy việc này”.

-Tán: Hai hàng rưỡi tụng về tên nước.

-Kinh: “Con ở trong chúng này… mong nói nhân duyên đó”.

-Tán: Một hàng tụng nói về không biết.

-Kinh: “Nay trong đại hội này cho đến cúi mong quyết tâm nghi.”

-Tán: Hai hàng tụng trình bày ý chúng nghi.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cho đến từ chỗ nào mà đến”.

-Tán: Thứ ba: Là chúng khác hỏi.

-Kinh: “Lúc ấy các Đức Phật cho đến do đây mà được nghe”.

-Tán: Đây thứ tư là phụ đáp.

-Kinh: “Bấy giờ đức Thích-ca việc lớn như thế”.

-Tán: Đây là thứ năm khen ngợi hứa. Có hai: Trước khen sau hứa. Đây là khen. A-thị-đa Hán dịch là Vô-năng-thắng là tên ngài Di-lặc, A-dật-đa-là lầm.

-Kinh: “Các thầy nên chung lòng cho đến thế mạnh lớn của các Đức Phật”.

-Tán: Dưới hứa có hai: Một là: Văn xuôi nói mặc giáp tinh tấn, khải là binh giáp, khiếp tâm mạnh mẽ vui ưa nghe pháp, tâm không lui sụt gọi là ý vững chắc, vì nghĩa sâu xa sợ kia nghi lui sụt. Đây nói bốn lực:

  1. Tuệ lực: Phẩm Tuổi thọ Như-lai bí mật pháp báo hai thân và trí tánh tướng.
  2. Thần thông lực: Tức thần thông Phật hóa thân.
  3. Phấn tấn lực: là quyết định tạo tác, sư tử sắp làm việc gì thì, trước thu lông mình lại, thoắt duỗi thân ra nhanh chóng, quyết định làm nay ta quyết định nói tự sở tác việc mầu nhiệm của ba thân.
  4. Oai mãnh lực: Chánh tác sở tác chỉ bày có uy chế phục dẹp phá, dẹp phá những người không có lòng tin, hoặc do trí tuệ nên mạnh 22 nhanh, do thần thông nên oai mãnh; hoặc trí tuệ là pháp báo hai thân. Dưới hóa thân là thần biến, ký tâm, giáo giới. Ba luân công dụng như thứ lớp.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến các thầy một lòng nghe”.

-Tán: hai là: Kệ tụng. Gồm hai hàng tụng đầu khuyên chớ sanh nghi hứa sẽ nói, hai hàng sau tụng Đức Phật răn dạy lắng lòng nghe lời dạy thật.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến khiến phát đạo tâm”.

-Tán: Dưới thứ sáu chánh đáp có ba: Trước bảo ta hóa, kế nói trụ hạnh, sau cuối một hàng tụng kết khuyên sanh tin. Đây là phần đầu.

-Kinh: “Các vị Bồ-tát đó cho đến nghĩ tưởng chân chánh”.

-Tán: Dưới là nói trụ hạnh, có sáu, đây có hai:

  1. Trú xứ.
  2. Giải kinh.

Thông minh văn tuệ, tư duy tư tuệ, tức niệm tu tuệ.

-Kinh: “A-dật-đa cho đến cầu tuệ vô thượng”.

Tán: Đây có bốn:

  1. Ưa vắng lặng.
  2. Tinh tấn.
  3. Ưa trí sâu.
  4. Cầu tuệ vô thượng.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến khiến phát đại đạo tâm”.

-Tán: Kệ tụng khuyên sanh tin bảy hàng rưỡi tụng trước chia làm năm. Đây là một hàng rưỡi tụng nói về Phật hóa.

-Kinh: “Chúng đó là con ta cho đến vì để cầu Phật đạo”.

-Tán: một hàng rưỡi tụng ưa vằng lặng, một hàng sau tụng tinh tấn. Không vằng lặng là ồn ào.

-Kinh: “Tại thế giới ta bà… đều sẽ được thành Phật.

-Tán: một hàng rưỡi tụng trú xứ và trí tuệ sâu, hai hàng sau tụng kết thành ta hóa. Ở nơi thành Già-da này, xưa đến hóa, chẳng phải nay hiện tại Già-da, như nói thường ở núi Linh nói, chẳng phải nói luôn ở núi, mà là nói núi ấy thường ở thành đây cũng vậy.

-Kinh: “Ta nay nói lời thật cho đến giáo hóa các chúng đó”.

-Tán: Kết khuyên sanh tin.

-Kinh: “Lúc bấy giờ ngài Di-lặc cho đến chánh đẳng giác”.

-Tán: Đây thứ bảy chúng nghĩ.

-Kinh: “Liền bạch Phật rằng cho đến hơn bốn mươi năm”.

-Tán: Thứ tám trình bày thỉnh, có hai: Một là văn xuôi có ba:

  1. Nêu sự khó.
  2. Nêu dụ khó.
  3. Chánh trình bày khó tin. Nêu sự khó có hai:
  4. Nêu nơi chốn năm tháng thành đạo.
  5. Chánh trình bày việc khó.

Đây là phần đầu. Thành Già-da rất nguy hiểm vững chắc ít người ở, chỉ có Bà-la-môn đều có ngàn nhà, đây đều là dòng họ vị tiên, chẳng có việc tai biến, vua chúa quí trọng tôn kính, dân trong thành rất giỏi mọi người các nước đều biết, tức là cảnh trong nước Ma-kiệt-đa. Đức Phật ngồi dưới gốc cây Bồ-đề tiếp cận rất gần phía nam cho nên nói không xa. Lại nói Già-da là nơi Phật đản sanh là thủ đô của nước Caduy-la, Đức Phật thành đạo dưới gốc cây Bồ-đề nước Ma-kiệt-đà mà, đều ở giữa Thiên-trúc cách nhau rất gần cho nên nói không xa. Từ khi đắc đạo Bồ-đề đến nay mới hơn bốn mươi năm: Trong nghĩa đây lược có hai nói:

1. Có các bộ nói: Mười chín tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo. Kinh Bổn khởi Nhân Quả nói: mười chín tuổi xuất gia, Kinh Tư Duy vô tướng Tam-muội nói: ba mươi tuổi thành đạo. Luận Trí độ nói: Khi Đức Phật sắp Niết-bàn bảo Tri-bạt-đà-la: Năm ta mười chín tuổi xuất gia rồi cầu Phật đạo, xuất gia đến nay hơn năm mươi năm, không nói lúc thành đạo, thật Phật thọ tám mươi năm. Đây có nói giải: mười chín tuổi xuất gia sau năm năm theo vị tiên hành lạc hạnh, sáu năm hành khổ hạnh, ba mươi tuổi thành đạo. Cho nên bảo Tu-bạt-đà-la là hơn năm mươi năm. Trong Luận Trí độ dùng nghĩa đây tức y đây nói. Nay nói thành đạo hơn bốn mươi năm là vừa bảy mươi năm.

2. Cũng có các bộ và trong Đại thừa nói: hai mươi chín tuổi xuất gia ba mươi lăm tuổi thành đạo. Tăng Nhất A-hàm, Trung A-hàm, Tạp A-hàm, Kinh Xuất Diệu, Luận Hòa-tu-mật đều nói hai mươi chín tuổi xuất gia. Kinh Bi Hoa. Luận Thiện Kiến đều nói ba mươi lăm tuổi thành đạo. Kinh Bổn khởi nói: Đức Phật muốn xuất gia nên chỉ trong bụng Da-du nói: sau sáu năm ngươi sẽ sanh con trai, liền sau sanh ra La-hầula. Đức Phật xuất gia sáu năm khổ hạnh đêm Thành đạo La-hầu-la mới sanh. Chỉ nói La-hầu-la sáu năm ở trong thai không nói mười một năm ở trong bụng mẹ, cho nên biết hai mươi chín tuổi xuất gia ba mươi lăm tuổi thành đạo, trong sáu năm gồm cả Tu-lạc hạnh. Nơi chỗ A-lam-calam ngồi tu đắc Vô sở hữu xứ định, nơi chỗ Uất-đầu-lam-tử học đắc Phi tưởng xứ định. Pháp Sư Bồ-đề-lưu-chi dẫn Kinh Kệ nói: tám năm làm trẻ con, bảy năm làm đồng tử, bốn năm học ngũ minh, mười năm thọ ngũ dục, sáu năm hành khổ hạnh là ba mươi lăm tuổi thành đạo. Trong bốn mươi lăm năm giáo hóa chúng sanh. Chân Đế Tam Tạng và Hòathượng Tây-vức ký đều nói hai mươi chín tuổi xuất gia ba mươi lăm tuổi thành đạo. Kinh Kim Quang Minh nói: Phật tuổi thọ tám mươi năm. Nay nói thành đạo hơn bốn mươi năm tức năm bảy mươi tuổi hoặc bảy mươi lăm đều tính. Năm đầu thành đạo hợp thành bốn mươi mốt năm gọi là hơn bốn mươi năm.

-Kinh: “Thế tôn! Thế nào cho đến chánh đẳng giác”.

-Tán: Dưới chánh trình bày việc khó, có hai: Trước trình bày ba việc, sau kết khó tin. Trình bày ba việc:

  1. Thời gian ngắn làm việc lớn.
  2. Thời gian ngắn chúng nhiều.
  3. Thời gian ngắn đức cao siêu.

Đây là nói việc đầu, đã đến địa vị cao thượng sẽ thành Bồ-đề gọi là việc lớn.

-Kinh: “Thế tôn cho đến chẳng đặng ngắn mé”.

-Tán: Thời gian ngắn mà chúng nhiều. Trước nói thời gian ngắn, xuyên suốt cả hai văn dưới.

-Kinh: “Chúng đó từ đâu nhẫn lại cho đến thường tu phạm hạnh”.

-Tán: Thời gian ngắn đức thù thắng. Quán từ lâu đến nay gặp duyên trồng cội lành, chẳng phải thời gian ngắn tu hành.

-Kinh: “Thế tôn cho đến đời rất khó tin”.

-Tán: Kết thành khó tin, do ba việc này nên khó tin Phật hóa.

-Kinh: “Thí như có người cho đến việc đó khó tin”.

-Tán: Thứ hai nêu dụ khó. Sắc đẹp dụ tướng tốt Phật trang nghiêm, tóc đen tiêu biểu Đức Phật dù tám mươi tuổi mà không có tướng già, trong tất cả thời ưa quán sát tất cả nơi chốn xưa. Đại Bát-nhã nói tám mươi tướng tốt trong đó nói: thường trẻ không già ưa xem xét nơi chốn cũ. Hai mươi lăm tuổi là tiêu biểu Đức Phật tuy xuất vượt sanh tử mà thị hiện nơi hai mươi lăm cõi. Vì trên tiêu biểu Phật thành đạo rất gần. Giả như tám mươi tuổi chỉ bằng hai mươi lăm tuổi, chỉ người một trăm tuổi tiêu biểu các Bồ-tát được hóa độ có đức cao địa vị xa trăm phước trang nghiêm, nói ta sanh ta nuôi dưỡng khiến cho họ đạo thêm lớn thì việc ấy khó tin.

-Kinh: “Đức Phật cũng như vậy cho đến rất là ít có”.

-Tán: Thứ ba chính trình bày nghi có ba: Trước nêu việc nghi, tiếp “Ngày nay cho đến” chánh nêu ý nghi. Sau “Chúng con dù cho đến” trình bày lý do nghi. Đây là phần đầu có hai: Nêu thời gian ngắn thành Phật, và nêu lại Bồ-tát có bảy đức rất lớn, bảy đức của Bồ-tát: 1. Tu thời gian dài. 2. Hết lòng tinh tấn. 3. Định tự tại. . Đắc thần thông. . Tu phạm hạnh lâu dài. 6. Năng huân tập pháp. 7. Khéo hỏi đáp. Cho nên là báu quí trong loài người.

-Kinh: “Ngày nay Đức Thế tôn cho đến việc công đức lớn này”.

-Tán: Đây chính trình bày ý nghi.

-Kinh: “Chúng con dù là tin cho đến cũng không sanh nghi”. Tán: Đây là trình bày lý do nghi, có ba: Trước nói tự có thể thông suốt, kế là trình người khác còn mê hoặc, sau chính thỉnh dứt trừ lòng nghi. Dù tự không nghi mà thị hiện tướng không hiểu, để thỉnh trừ lòng nghi của chúng con. Tin tùy nghi Phật nói tin thành tựu thông suốt, Đức Phật biết, chứng thành tựu, nên lời Phật nói không luống dối không lầm lẫn.

-Kinh: “Bấy giờ ngài Di-lặc cho đến phân biệt nói như thật”.

-Tán: Hai là kệ tụng: Mười bốn hàng tụng chia làm ba: năm hàng đầu tụng nêu việc khó, kế hai hàng tụng dụ khó tin, bảy hàng sau tụng trình bày nghi thỉnh. Năm hàng đầu có ba: một hàng tụng xuất gia thời gian gần, ba hàng tụng Bồ-tát đức cao khó tin. Một hàng tụng đại chúng thỉnh trừ nghi.

-Kinh: “Thí như người trẻ mạnh cho đến mọi người đều chẳng tin”.

-Tán: Hai hàng tụng dụ khó tin. Tóc bạc mặt nhăn: Đây cùng văn xuôi xen nhau làm rõ, nói cha sắc đẹp tóc đen là nêu đủ tướng xem xét xưa, nói con tóc bạc mặt nhăn là Tu-lâu tướng trạng có thiếu sót. Tóc bạc là tiêu biểu có thánh đạo tu đã lâu, mặt nhăn là hình tượng tướng tốt chưa đủ

-Kinh: “Thế tôn cũng như vậy cho đến trụ hư không phương dưới”.

-Tán: Bảy hàng tụng trình bày nghi thỉnh chia làm hai: bốn hàng tụng nêu việc nghi, sau ba hàng tụng chánh trình bày nghi thỉnh. Bốn hàng đầu có ba: Nửa hàng tụng Phật thành đạo gần, kế ba hàng tụng khen ngợi Phật thành đạo có mười đức, sau nửa hàng tụng nói về trú xứ.

-Kinh: “Chúng con từ Phật nghe cho đến mà trụ bậc bất thối”.

-Tán: Ba hàng sau chánh trình bày nghi thỉnh, có bốn: Nửa hàng tụng tự không nghi, kế nửa hàng tụng người khác còn mê hoặc, kế một hàng tụng lỗi lầm nghi, sau một hàng tụng chính trình là bày thỉnh.

 

PHẨM TUỔI THỌ

Phẩm này chia làm ba môn :

1. Vì sao có phẩm này. 2. Giải thích tên phẩm.

3. Giải đáp các vấn nạn.

I. Vì sao có phẩm này có năm:

1. Trong bảy phẩm học hạnh lưu thông, từ phẩm Dũng Xuất trở xuống sáu phẩm là nói người năng học hạnh, trong đây chia làm bốn đoạn, đoạn thứ hai là Tuổi thọ và Phân biệt công đức, nhân giải thích nghi trước mà lần lượt sanh khởi. Trước nói Bồ-tát từ đất vọt lên, đều do Phật hóa độ, vị cao, chúng nhiều, thời hội sanh nghi. Nay nói pháp thân vốn không sanh diệt, hóa Phật gần thành, báo thân chứng từ lâu hóa nơi chúng đây đâu có nghi gì ư! Cho nên từ Dũng xuất về sau là nói phẩm Thọ Lượng.

2. Trong mười chín phẩm làm chánh tông, năm phẩm dưới nói về quả Nhất thừa. Trong đây chia làm hai: Hai phẩm đầu nói quả đã mãn, ba phẩm sau nói quả chưa mãn. Hai phẩm đầu lại có hai: Trước chánh là nói quả đã mãn, sau nói về thời chúng do đây chứng đắc khác nhau, nên có phẩm này.

3. Luận nói đối trị trong bảy mạn, nói hạng người thứ bảy không có công đức, đối với bậc nhất thừa không nhóm họp gốc lành mà tăng thượng mạn không chấp làm bậc nhất, vì đối trị đây nói dụ thầy thuốc, luận lại nói: Người thứ bảy căn chưa thuần thục vì muốn họ thuần thục nên thị hiện Niết-bàn lượng, hiện tại chưa tụ tập gốc lành nên gọi là căn chưa thuần thục, khiến họ chứa nhóm gốc lành hy vọng bậc nhất thừa thị hiện Phật nhập Niết-bàn có phần hạn gọi là lượng, khiến tụ tập gốc lành sau mới điều hóa. Thầy thuốc đã ở phẩm này nên có phẩm này.

4. Luận chép: Thứ tám thị hiện thành đại Bồ-đề vô thượng thị hiện ba thứ Phật Bồ-đề, ba thân Phật ở đây cho nên có phẩm này, đây là văn còn lại. Vì trong bảy dụ chỉ nói dụ thầy thuốc ở văn sau, không nói ba thân Phật ở văn đầu.

5. Thứ chín thị hiện Niết-bàn vô thượng nên nói dụ thầy thuốc, trừ trong bảy mạn nói thầy thuốc, tức là hóa căn cơ chưa thuần thục, thị hiện nhập diệt khiến kia căn thuần thục, nay nói thầy thuốc hiện Phật nhập Niết-bàn, hóa diệt thật không diệt, chẳng phải như Nhị thừa diệt mà làm diệt cho nên gọi là vô thượng đây chính là nghĩa còn lại trong bảy dụ.

II. Giải thích tên phẩm: Như-lai là tên gọi chung pháp thân, báo thân, hóa thân, thọ là tuổi thọ, lượng là hạn lượng. Phẩm này nói ba thứ thân mạng Phật thể đồng hạn lượng, giữ gìn pháp tánh tùy nguyện duyên, ứng căn cơ chúng sanh mà thọ nhận tự thể, nay nói ba thân Phật này thọ mang đồng hạn lượng nên gọi là phẩm Như-lai tuổi thọ.

III. Giải đáp chướng nạn: Vì sao không lấy hai chữ thầy thuốc làm tên phẩm mà lấy tuổi thọ làm tên phẩm?

Đáp: Do tuổi thọ ba thân mới mượn thí dụ thầy thuốc cho nên từ gốc Tuổi thọ đặt tên không dùng Y Sư đặt hiệu Phẩm.

Lại hỏi: Khoa đầu phẩm chép: Trước trình bày tuổi thọ trừ căn chưa thuần thục người tăng thượng mạn không nhóm họp công đức, vì sao chẳng phải là chánh tông Pháp Hoa mà chính là thuộc phần lưu thông?

Đáp: Đương cơ ứng thời tức thuần thục Nhất thừa chính hợp Thanhvăn nên làm chánh tông, thị hiện diệt, sau hóa sơ căn chưa thuần thục nên chẳng phải chánh nói. Cho nên, tuy nói nơi tuổi thọ mà không thọ ký cho Thanh-văn; tuy nói nơi Y Sư cũng không có Thanh-văn thọ ký, vì đây mà Trí Tích trước thỉnh trở về, nếu không vậy thì giữa đường thỉnh trở lại làm sao mau được. Do đó phẩm này chỉ là lưu thông, nói là chánh tông thì không có chướng ngại ấy.

-Kinh: “Lúc bấy giờ Đức Phật bảo cho đến lời nói chắc thật của Như-lai”.

-Tán: Phẩm này có ba: Trước Đức Thích-ca ba phen bảo, tiếp Di-lặc bốn phen thỉnh, sau Như-lai chánh bảo. Đây là phần đầu. Ba thân quả mầu nhiệm địa vị ở quả cùng tột, bậc thượng trí còn không thể lường biết phàm phu ngu muội do đâu mà hiểu được. Sợ tâm kia nghi miệng chê bai nhân pháp mà có tổn thương, cho nên bảo tin chắc chắn rồi mới trình bày chánh nói, cũng sợ tại không chuyên nghe pháp giáo, ý không chú trọng huyền tông. Lại chúng sanh tánh độn nghe không thể hiểu khiến pháp nhập tâm nên ba phen bảo dạy nói ba thân làm ba phen bảo.

-Kinh: “Lúc đó đại chúng Bồ-tát cho đến tin nhận lời Phật”.

-Tán: Đây Di-lặc bốn phen thỉnh. Đức Phật đã từ bi ba phen bảo Đại chúng đâu được coi thường, cho nên thêm bốn phen thỉnh là là tiêu biểu tâm mong cầu xem trọng pháp, ba phen bảo là chỉ bày nói ba thân, bốn phen thỉnh, ba thân đều có bốn, cầu bốn đức, mong bốn trí, cứu giúp bốn loài là ý đây vậy.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến sức bí mật thần thông của Như-lai”.

-Tán: Dưới Như-lai chánh bảo. Đầu tiên văn xuôi chia làm hai: Trước dạy bảo nghe chỉ bày, sau chánh nói tuổi thọ. Đây là phần đầu. ba phen thỉnh từ đầu, bí mật là pháp báo hai thân thể sâu xa mầu nhiệm, Thần thông là hóa thân ứng vật hiện, được Đức Phật thầm hộ trì gọi là bí, nghĩa sâu khó hiểu gọi là mật, diệu dụng vô phương gọi là thần thể không chướng ngăn gọi là thông, hai thể đây uy thế khó có gì khuất phục nên gọi là lực. Lại Đối Pháp cho đến nói: Có bốn bí mật, trong Phương Quảng Đức Phật bí mật đều nên hiểu rõ.

  1. Khiến nhập bí mật: nghĩa là vì người Thanh-văn nói hữu sắc cho đến, vì muốn họ không sợ hãi dần dần nhập Thánh giáo chẳng phải tất cả hữu;
  2. Tướng bí mật: Nghĩa là y tam tự tánh nói tất cả pháp đều không tự tánh không sanh diệt cho đến phá chấp hữu tướng nói là không, chẳng phải tất cả không;
  3. Đối trừ bí mật: Đức Phật vì đối trừ các lỗi nên nói các giáo, lại trừ tám chướng nên nói tối thượng thừ
  1. Trừ khinh Phật.
  2. Trừ khinh pháp: Nên nói ta từng tên là Thắng Quán Như-lai pháp thân không sai khác.
  3. Trừ biếng nhác: Như nói nguyện sanh thế giới cực lạc đều được vãng sanh cho đến
  4. Trừ tiểu thiện sanh hỷ túc, nơi một gốc lành, hoặc hủy hoại hoặc khen ngợi.
  5. Trừ tham hành xưng tán cõi Phật phú lạc trang nghiêm.
  6. Trừ mạn hành xưng tán Chư Phật hoặc có tăng hơn.
  7. Trừ ố tác hối hận chướng ngại tu thiện, nói đối với Phật bình đẳng tuy hành khinh chê, nhưng loài hữu tình kia cũng sanh lên cõi trời.
  8. Trừ bất định tánh chướng, khiến xả Thanh-văn thấp kém, ý ưa thích đại, thọ ký đại Thanh-văn sẽ được thành Phật. Lại nói Nhất thừa lại không có hai.

Chuyển biến bí mật: Như nói giác ngộ không vững chắc hay là kiên, cố khéo trú nơi điên đảo cực phiền não quấy nhiễu, đắc Bồ-đề tối thượng. Ẩn mật như vậy danh ngôn giải thích khiến có sai khác, trong đây bí mật tức là loại thứ ba đối trừ bí mật. Do khinh của đức Phật và tham mạn hành nói thân Phật khác lấy làm tự thể xưng tán Phật. Như dưới Kinh nói “Trong đây nói Đức Phật Nhiên Đăng”, như vậy đều dùng phương tiện phân biệt. Nói thần thông là giáo hóa nhiều chúng dùng thần lực hóa khiến sanh phát ý.

-Kinh: “Tất cả thế gian cho đến chánh đẳng giác”.

-Tán: Dưới chánh là nói về tuổi thọ. Căn cứ luận chia làm hai đoạn:

  1. Nêu Bồ-đề vô thượng.
  2. “Các người thiện nam ta xưa hành Bồ-tát đạo cảm thành tuổi thọ cho đến” là nêu lại tướng Niết-bàn vô thượng sai khác của hai thân báo hóa.

Trong văn đầu luận chia làm ba đoạn, thị hiện ba Đức Phật Bồđề: 1. Ứng hóa Bồ-đề thích ứng gặp mà vì thị hiện, cho nên như Kinh đều nói Như-lai xuất cung dòng họ Thích-cách thành Già-da không xa ngồi nơi đạo tràng đắc vô thượng chánh đẳng giác, tức là văn này. 2. Báo Phật Bồ-đề: Thập địa hạnh mãn đắc thường Niết-bàn, như Kinh chép: Này người Thiện nam! Ta thật thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na do tha kiếp, tiếp văn dưới. 3. Pháp Phật Bồ-đề: Nghĩa là Như-lai tạng tánh tịnh Niết-bàn thường thanh tịnh bất biến, cho nên như Kinh nói: “Như-lai như thật biết thấy rõ tướng của ba cõi cho đến, chẳng như ba cõi mà thấy nơi ba cõi. Vì sao vậy?.”… Đây y nghĩa vô thượng đầu đầy đủ có ba thân dùng làm ba nghĩa, Phật thân thêm bớt các giáo nói khác nhau, hoặc gọi chung một Phật bảo, hoặc phân biệt làm hai.

Phật Địa luận chép: 1. Sanh thân. 2. Pháp thân, Pháp thân, thật báo đều gọi là pháp thân, thật công đức. Tha báo, hóa thân đều gọi là sanh thân. Lại Bát-nhã luận nói hai: 1. Chân Phật. 2. Phi chân Phật. Chân Phật là pháp thân, phi chân Phật là báo, hóa thân. Hoặc chia làm ba: Tức đây nói tam Phật Bồ-đề; hoặc nói bốn thứ: Kinh lăng già nói: 1. Ứng hóa Phật. 2. Công Đức Phật. 3. Trí tuệ Phật. . Như như Phật. Một là hóa thân. Hai, ba là báo thân; sau là pháp thân.

Kinh Kim Quang Minh lại nói bốn thứ: 1. Hóa phi ứng: Đức Phật vì chúng sanh hiện các hình rồng quỉ cho đến không làm thân Phật gọi là hóa phi ứng. 2. Ứng thân phi hóa: Là Địa tiền Bồ-tát thấy thân Phật y định mà hiện chẳng phải thuộc năm đường gọi là ứng phi hóa, tức bốn gốc lành thấy một đại thiên một ứng thân. 3. Vừa ứng vừa hóa: Nghĩa là các Thanh-văn thấy thân Phật hiện thấy tu thành nên gọi là ứng, thấy người đồng loại nên gọi là hóa. . Phi ứng phi hóa: Nghĩa là chân thân Phật, ba loại trước hóa sau là pháp báo. Phật Địa luận cũng nói bốn: 1. Thọ dụng phi biến hóa: Nghĩa là tự thọ dụng thân. 2. Biến hóa phi thọ dụng: Nghĩa là biến hóa thân hóa, giống Địa tiền. 3. Cũng thọ dụng cũng biến hóa: Nghĩa là tha thọ dụng thân hóa thập địa Bồ-tát. . Phi thọ dụng phi biến hóa: Nghĩa là pháp thân.

Kinh Hoa Nghiêm nói có mười Đức Phật:

  1. Vô Trước Phật an trú thế gian thành chánh giác, Phật Địa luận gọi Hiện Đẳng giác Phật.
  2. Nguyện Phật nguyện xuất sanh, kia gọi là Hoằng thệ nguyện Phật.
  3. Nghiệp báo Phật tín thành tựu nên các hành đều là nhân, lại nói nhất tín, kia gọi là Nghiệp dị thục Phật.
  4. Trí Phật thuận theo thế gian không đoạn tuyệt, kia gọi trú trì Phật.
  5. Phật Niết-bàn thị hiện diệt độ, kia gọi là biến hóa Phật.
  6. Pháp giới Phật ở tất cả chỗ không nơi nào là không hiện.
  7. Tâm Phật hiện an trú hai thứ trên tên đồng với kia.
  8. Tam-muội Phật thành tựu vô lượng công đức vô sở trước, đó gọi là định Phật.
  9. Tánh Phật khéo quyết định, đó gọi là bổn tánh Phật.

10. Như ý Phật bao phủ khắp kia gọi là Tùy lạc Phật. năm vị trước là Thế Tục Phật, năm vị sau là Thắng Nghĩa Phật, tùy thích ứng ba thân nhiếp năm vị trước là hóa thân nhiếp dùng tên thế tục, một loại pháp giới là pháp thân, nhiếp bổn tánh một thứ chung pháp và thọ dụng, còn lại ba, hoàn toàn là thọ dụng. Luận nói năm thứ này là thắng nghĩa, tuy pháp và thọ dụng khác nhau hình trước biến hóa mà đều là thắng nghĩa. Xét thấy Vô Cấu Xứng Phẩm Quán Như-lai và Sớ Kinh Lăng Già Sớ chép: Đại Tuệ! Pháp thân Phật nói pháp lìa phan duyên, lìa năng quán sở quán, lìa sở tác tướng lượng cho đến Đại Tuệ! Báo Phật nói tất cả pháp tự tướng đồng tướng, nhân tự tâm hiện huân tập tướng, Cũng nói thí như nhà ảo thuật huyễn tạo các hình tượng, những người ngu chấp cho đó là thật, mà các hình tượng kia không thể được, đó gọi là phân biệt luống dối pháp thể. Đại Tuệ, Hóa Phật nói các pháp thí, giới, nhẫn tinh tấn, thiền định, trí tuệ, âm giới, nhập v.v… Luận Bát-nhã nói ứng hóa chẳng phải Phật chân thật cũng chẳng phải nói pháp bằng nhau Suy tìm suy công về gốc chỉ có Pháp thân, tông chỉ kinh kia tông linh nói chân pháp thân, nương văn tiện nên lược nêu nghĩa Phật. Tam Thân thành Phật như Di-lặc Sớ, biệt nghĩa như Phật Địa và Duy thức cùng Pháp uyển nói.

Tuy nói thân Phật có thêm bớt khác nhau mà nay dùng loại để luận chẳng quá hai thứ: 1. Hóa. 2. Chân. Địa tiền Bồ-tát và Nhị thừa thấy gọi là hóa thân, báo pháp hai thân gọi là chân thân, do lý này nên nói rõ tam Phật Bồ-đề. Trong đây chia làm hai: 1. Nói tam thừa thấy thân Phật kiến sanh nghi, 2. Nói tam thừa không biết chân thân. Đây là phần đầu.

-Kinh: “Nhưng, người thiện nam na do tha kiếp”.

-Tán: Dưới nêu tam thừa không biết chân thân chia làm ba: Trước nói thành Phật từ lâu đến nay, kế giải thích thời gian thành đạo đến nay, sau kết luận nói trước. Như vậy từ khi ta thành Phật đến nay rất là lâu xa cho đến Đây là đầu, luận giải thích chỉ nói báo thân thành đạo, căn cứ thật báo thân tu, sanh giác mãn gọi là thành, pháp thân tu, hiển chứng viên gọi là thành, cũng đâu có lỗi gì. Trong đây tuy nêu báo thân thành đã lâu, mà sau giải thích cũng hiển nghĩa thể pháp thân.

-Kinh: “Ví như năm trăm ngàn cho đến biết được số đó chăng”.

-Tán: Dưới giải thích thời gian thành đạo đã lâu, có hai: Trước nói rõ báo thân Phật Bồ-đề, thành đạo đã lâu, vì chúng sanh nói gần. Sau “các người thiện nam Như-lai giảng nói Kinh điển…”. thầm nói pháp thân. Do chứng đây nên thành đạo thật đã từ lâu, ứng vật mà quyền hiện. Trước là trí năng chứng, sau là lý sở chứng, trí đoạn hai đức trí, và trí như thứ lớp nói. Văn đầu có ba: Trước nêu dụ hỏi, kế Di-lặc v.v… đáp, sau Phật giải thích rộng . Đây là phần đầu.

-Kinh: “Di-lặc Bồ-tát cho đến vô lượng bô biên”.

-Tán: Đây Di-lặc cho đến đáp có ba:

  1. Trình bày chung về vô lượng.
  2. Nói Nhị thừa không biết.
  3. Kết luận là vô biên.

Có nói nói A-duy-việt-trí, nên từ A-bệ-bạt-trí là địa vị không lui sụt.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Phật bảo cho đến A-tăng-kỳ kiếp”. Tán: Dưới Đức Phật rộng giải thích chia làm hai: Trước bảo báo thân thành đạo thật lâu, sau “các người thiện nam nơi chặn giữa đó cho đến” là bảo hóa thân giải thích sự nghi nạn kia. Văn đầu có hai: Nêu thành đạo đã lâu xa nhiều kiếp, sau nêu thường trú xứ. Đây là phần đầu có hai: Trước nêu rõ sau bảo giải thích kiếp nhiều.

-Kinh: “Từ đó đến nay cho đến dẫn dắt lợi ích chúng sanh”.

-Tán: Ở đây nói thường ở trú xứ. thân Tự thọ dụng thật cùng khắp pháp giới tướng trạng khó thấy vẫn tùy theo tiểu tình để giải thích tự thể, nêu dụng hiển thể nói chỗ riêng ở, có chỗ khởi dụng tức ngay ở thân, cũng như hư không rộng lớn trùm khắp mọi nơi hiện tướng rõ ràng không ngăn ngại, thể thật báo pháp đều viên chứng xứ liền nói lên, cho nên từ báo thân nêu dụng hiển bày riêng. Lại nói dẫn dắt lợi lạc thập địa Bồ-tát là thân tha thọ dụng là nêu người hiểu biết để hiển rõ thành đã lâu chẳng phải tự báo.

-Kinh: “Các người thiện nam cho đến phương tiện phân biệt”.

-Tán: Dưới bảo hóa thân giải thích nghi nan kia, có ba: Trước nói về giải thích, kế giải thích, sau “các người thiện nam Như-lai thấy các chúng sanh cho đến” là kết giải thích. Đây là phần đầu. Chúng khác có nghi nói: Thành đạo đã lâu thường giáo hóa đây, khoảng giữa thời gian đó có Phật Nhiên Đăng, Tỳ-bà-thi v.v… thành đạo nhập diệt nói pháp độ sanh, lại là ai ư? Nay nêu giải thích nói: Trong khoảng thời gian đó nói Phật Nhiên Đăng cho đến thành đạo nhập diệt, như vậy đều dùng trí tuệ phương tiện, khéo léo phân biệt nói nơi Đức Phật khác chẳng phải lìa thân ta mà có riêng Đức Phật kia.

-Kinh: “Các người thiện nam cho đến các căn lợi độn”.

-Tán: Dưới giải thích riêng nghi có hai: Trước nói lý do, sau tùy thích ứng mà độ v.v… là nói lên sai khác. Đây là phần đầu. Do các chúng sanh phát tâm tu hành nguyện thấy Phật gọi là đến chỗ ta. Quán năm căn lợi độn sai khác, vì người lợi căn nói thành đạo đã lâu, vì người độn căn nói hiện thành đạo gần, vì người lợi căn nói thành chánh giác, vì người độn căn nói nhập Niết-bàn, vì người lợi căn hiện thân lớn, vì người độn căn hiện thân nhỏ, vì hàng lợi căn nói pháp sâu, vì hàng độn căn nói pháp cạn, mỗi nơi tùy ứng, cảm hiện sai khác.

-Kinh: “Tùy theo chỗ đáng độ cho đến phát tâm vui mừng”.

-Tán: Đây là hiển bày sai khác. Do các chúng sanh căn tánh sai khác, Đức Thế tôn tự nói danh tự khác nhau, thành đạo đến nay đã lâu mau mà thân lượng lớn nhỏ khác nhau, đây là thành đạo và hiện nhập diệt thị hiện tướng khác nhau, nói nhất thừa Nhị thừa, Ba thừa, bốn thừa pháp phương tiện khác nhau, ứng khả tâm kia đều khiến vui mừng. Như ngọc để trên không vân đẹp rỗng suốt chiếu sáng nhìn rõ, quầng sáng, hoa văn đẹp, tầm nhìn có hạn. Bóng trăng đáy nước dễ hiện rõ, nước đục bóng trăng liền biến mất hoàn toàn. Vật khí nguyên vẹn, nát vụn thể hiện khác nhau, tối sáng chiếu đến còn có sai khác, đây chính là báo hóa thân sai khác. Văn này có hai giải thích: 1. Không phế bỏ đức Thích-ca thật thành đạo từ lâu, hóa, thân hiện mới thành. 2. Đâu có phế bỏ ý thú bình đẳng trong bốn ý thú bình đẳng là đối trị bí mật trong bốn bí mật, trừ chướng khinh Phật pháp và phát nạn hành nói Phật khác để tự xưng tán Chư Phật; hoặc có tăng hơn. Nếu không như vậy thì Đức Phật Nhiên Đăng trước đâu có thọ ký, đây cũng hóa hiện đâu có sai trái nhau.

-Kinh: “Các người thiện nam cho đến nên nói như thế”.

-Tán: Đây là kết giải thích. Thiện ít đức mỏng tội nhiều cấu trọng tương ưng khí nhỏ mà nói mới lên chánh giác, đối đại căn nói thật thành đạo đã lâu, phương tiện hóa sanh khiến nhập đạo, thời thời hiện xuất khiến khát ngưỡng.

-Kinh: “Các người thiện nam cho đến đền thật chẳng dối”.

-Tán: Dưới thứ hai thầm nói pháp thân, do chứng đây nên thành đạo thật lâu ứng vật hiện quyền, có ba: Đầu tiên nêu ứng vật nói chỉ bày khác nhau mà đều nói thật chẳng dối, tiếp giải thích do chứng pháp thân nên năng hiện đây căn cứ thật chân lý vốn không có việc này, sau “Bởi các chúng sanh cho đến” là giải thích lý do ứng vật hiện quyền. Đây là phần đầu có ba: 1. Nêu. 2. Hiển. 3. Kết chẳng dối. Nói là ngôn nói, chỉ là thị hiện, thân thì thể bên trong, sự là sự nghiệp. Nói thân mình nghĩa là nói thân ta từng làm vua Tát-đỏa-vương, vua Thi-tỳ v.v… Nói thân người khác, là như nói Di-lặc xưa làm vị tiên Nhất-thiết-trí quang, Đức Phật A-di-đà làm Tỳ-kheo Pháp Tạng v.v… Chỉ thân mình là hiện làm thân Thích-ca tự ra đời, Thắng-man xa thỉnh Phật hiện giữa hư không cho đến Chỉ thân người khác là hiện làm Tỳ-bát-thi Phật ra đời hiện thế gian mở tháp hiện Đa-bảo cho đến chỉ việc mình là hiện làm Thích-ca với các sự nghiệphàng phục ma thành đạo nói pháp hiện thần thông cho đến. Chỉ việc người là thị hiện các sự nghiệp làm Đại Thông Trí Thắng hiện thần thông rung chuyển một đất phát ra ánh sáng thành đạo v.v…

vì độ chúng sanh năng hiện việc đây đều thật không dối.

-Kinh: “Vì sao? cho đến không có sai lầm”.

-Tán: Do chứng pháp thân, nhưng chân lý vốn không có việc này, có lý do gì năng vì nói chỉ bày đều không luống dối, do thấy như thật chân lý này, đây có năm câu: Như thật thấy nói thấy thông suốt năm chỗ (xứ). Câu đầu y theo vọng xứ để hiển bày pháp thân. Luận nói tướng ba cõi, nói cõi chúng sanh tức cõi Niết-bàn, không lìa cõi chúng sanh có Như-lai tạng tánh tướng. Phẩm Phương Tiện chép: tướng thế gian thường trú tức là đây vậy. Câu thứ hai y thường tịnh để hiển bày pháp thân. Luận nói không có sanh tử hoặc thối hoặc xuất, nghĩa là thường thanh tịnh bất biến, thối là đắm chìm, xuất là lìa trói buộc; hoặc tức sanh diệt, nghĩa là pháp sanh tử có thối có xuất, chân thật không có việc này nên nói thường thanh tịnh. Câu thứ ba y theo bất tức bất ly để hiển bày pháp thân. Luận nói cũng không tại thế và diệt độ, nghĩa là thể Như-lai tạng chân như, bất tức cõi chúng sanh bất ly cõi chúng sanh, không tại thế nên bất tức cõi chúng sanh, không diệt độ nên bất ly cõi chúng sanh. Câu thứ tư y lìa bốn tướng để hiển pháp thân luận nói chẳng thật chẳng hư chẳng như chẳng dị, nghĩa là lìa bốn thứ tướng, bốn thứ tướng là vô thường sanh tướng thật có, diệt tướng là giả, trú tướng là như, biến tướng là dị, pháp thân không có các tướng kia nên bốn đều phi. Câu thứ năm ý Phật nội chứng chẳng phải phàm phu sở đắc để hiển bày pháp thân. Luận nói chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi, Như-lai năng thấy năng chứng pháp thân như thật mà phàm phu không thấy, cho nên kinh nói Như-lai thấy rõ không có sai lầm. Luận giải thích đây chỉ thuộc câu thứ năm, tợ như tổng kết các câu trên. Câu này nói chánh trí của Như-lai năng phân biệt rõ ràng, không nluống dối tướng ba cõi mà năng chứng thể tánh chân như pháp thân ba cõi, cho nên nói Như-lai thấy rõ không có sai lầm.

-Kinh: “Do các chúng sanh cho đến chưa hề tạm bỏ”.

-Tán: Dưới giải thích lý do ứng vật hiện quyền. Các món tánh là giới, dục là thắng giải, hành là tâm hành, nhớ tưởng là biến thú hành, do đó nên Phật sự không phế bỏ các lời nói chỉ bày. Trước nói báo thân thật thành đạo từ lâu, mắt Phật nhìn thấy chúng sanh các căn lợi độn nên nói khác nhau.

-Kinh: “Cũng thế, từ khi ta thành Phật đến nay cho đến thường trú bất diệt”.

-Tán: Đây là nói rõ tam thừa không biết trong thân chân thật, thứ ba kết thành trước nói.

-Kinh: “Các người thiện nam cho đến lại còn hơn số trên”.

-Tán: Ở trên nêu Bồ-đề vô thượng, dưới đoạn thứ hai lập lại hiển báo hóa hai thân tướng Niết-bàn vô thượng sai khác. Trong đây có hai: Trước nói pháp hai thân thường trụ sanh diệt, sau dụ nói hai thân thường trụ sanh diệt. Văn đầu lại có hai: Trước nêu hai thân thường trụ sanh diệt, sau “Lại người thiện nam! Chư Phật Như-lai pháp đều như vậy cho đến” là giải thích thành trước nói pháp chân thật không luống dối. Phần đầu lại có hai: Trước nêu báo thân tùy cõi chúng sanh và bổn nguyện lực đều vô tận, nên tuổi thọ thường trú. Sau nêu hóa thân tùy chúng sanh thân và ý lạc cho nên hiện có khởi diệt. Đây là phần đầu. Ta khi xưa tu hành Bồ-tát đạo nguyện độ chúng sanh tận mới nhập vô dư, do cõi chúng sanh vô tận kỳ hạn nên nay đắc quả viên mãn hạnh nguyện không mất, nên tuổi thọ bất tận lại gấp bội số trên.

-Kinh: “Nhưng nay chẳng phải thiệt diệt độ cho đến giáo hóa chúng sanh”.

-Tán: Dưới nêu hóa thân tùy chúng sanh thân, và ý lạc nên hiện có khởi diệt, có ba: 1. Nêu. 2. Giải thích. 3. Thành. “Vì vậy nên Như-lai dùng phương tiện nói v.v…” Đây là nêu ra. Nhưng nay báo thân chẳng phải thật diệt độ mà liền giả tuyên bố sẽ diệt độ, đây chính là hóa tướng phương tiện thị hiện hóa chúng sanh.

-Kinh: “Vì sao cho đến sa vào trong lưới nhớ tướng vọng kiến”.

-Tán: Dưới giải thích có hai: Trước nói bổn tánh ác, sau nói lại sanh ác.

Đây là phần đầu, Bản tánh ác có sáu:

  1. Người đức mỏng không thể cảm được thắng nhân thắng pháp.
  2. Không trồng gốc lành thì không có nhân để sanh quả.
  3. Nghèo cùng không có tài pháp ý chỉ theo Tiểu thừa thấp kém.
  4. Thấp hèn tự khinh thân mình.
  5. Đắm dục phiền não hôn mê.
  6. Sa vào trong lưới nhớ tưởng vọng kiến, tà kiến dối trá thông minh lầm hành loạn học.

-Kinh: “Nếu thấy Đức Như-lai cho đến tâm cung kính”.

-Tán: Ở đây nói lại sanh ác, có năm:

  1. Kiêu tứ buông lung.
  2. Ôm lòng chán nản không ưa thân gần nhiếp thọ.
  3. Có tâm biếng nhác, bị trói buộc không thể tự quán xét.
  4. Không nghĩ gì khó gặp thấy Phật không sanh tâm mong gặp.
  5. Không sanh tâm cung kính, không khởi khát ngưỡng tu thuận theo nghiệp, đây nói do kia bổn tánh ác nên thấy Phật lại sanh ba thứ ác đầu, nên không nghĩ gì khó gặp và tâm cung kính.

-Kinh: “Cho nên đức Như-lai cho đến mà nói diệt độ”. Tán: Dưới thành có ba. Đầu tiên là nêu, kế là giải thích, sau là kết.

-Kinh: “Lại Người thiện nam cho đến đều chân thật chẳng dối”.

-Tán: Giải thích thành trước nói pháp nhĩ chẳng dối, ý ở đây nói báo thân pháp thân nguyện độ tất cả chúng sanh đều hết, thường trú bất diệt, pháp vốn như vậy, hóa thân thuận theo chúng sanh thương ghét vui chán mà thị hiện có sanh tử. Kinh Niết-bàn chép: Như-lai không nhập Niết-bàn. Kệ nói: Giả sử quạ và chim, đồng đậu trên một cây, cũng như thân huynh đệ, chính vậy nhập Niết-bàn, giả sử rắn chuột sói, đồng ở trong một hạng, thương nhau như anh em chính vậy nhập Niết-bàn, giả sử nhất Xiển-đề, hiện thân thành Phật đạo, mãi thọ vui bậc nhất, chính vậy nhập Niết-bàn, Như-lai thấy tất cả, cũng như La-hầu-la, tại sao xả từ bi, mãi mãi nhập Niết-bàn. Đối với ba dụ trước mỗi dụ lẽ ra nói một hàng tụng sau, sợ văn rườm rà nên nói chung một. Thế thì nhập Đại Niết-bàn ba việc viên mãn, người Nhị thừa chưa đắc, hóa tướng nhập diệt từ đây diệt rồi đến phương khác lại hóa, ở đây lại sanh, thân trí đã không mãi mãi không có, đâu đồng Nhị thừa nhập diệt! Do đây nên nói Niết-bàn vô thượng.

-Kinh: “Thí như vị thầy thuốc cho đến khéo trị các thứ bệnh”.

-Tán: Dưới đoạn thứ hai dụ nói hai thân thường trụ sanh diệt, có hai: Trước dụ nói thường trụ sanh diệt, sau dụ vấn đáp biện rõ đây không luống dối.

Dụ có mười hai:

  1. Khéo đạt cơ nghi dụ.
  2. Bi thương khởi hóa dụ.
  3. Quán cơ đạo ẩn dụ.
  4. Gặp duyên hoặc khởi dụ.
  5. Cứu sanh thành đạo dụ.
  6. Thấy Phật đều vui dụ.
  7. Ứng cơ nói pháp dụ.
  8. Cơ thuần thục đạo thành dụ.
  9. Cơ chưa thuần thục nhàm chán pháp dụ.
  10. Khiến mong cầu thị hiện diệt dụ.
  11. Luyến Phật ái pháp dụ.
  12. Đắc Thánh thấy Phật dụ.

Đây là dụ đầu. Chỉ như Nhị thừa luyện căn tương đối, chúng sanh ít đắc là độn, chúng sanh đắc nhiều là lợi, siêng đối lại với nhau, sanh đắc ít là lợi, sanh đắc nhiều là độn, nay nói đối sau. Đây là hai dụ đầu. Hợp đầu chúng sanh thấy Phật đều dạy phát tâm. Dụ thứ ba thứ tư, hợp là thứ hai chúng sanh căn thuần thục siêng tu, không mất bổn tâm mà dần tu chưa thuần thục, biếng trễ là mất bổn tâm mà lại lui sụt. Dụ thứ năm, sáu, bảy, tám, chín hợp là thứ ba chúng sanh căn cơ thuần thục siêng tu, thấy Đức Phật Thích-ca mà Vô học viên mãn, liền phát đại tâm thọ sanh tử Biến dịch, chưa thuần thục biếng trễ, tuy nay thấy Phật mà còn chưa chứng trú nơi địa vị phàm phu. Thứ mười, mười một, mười hai hợp là thứ tư chúng sanh xưa căn chưa thuần thục, biếng trễ gặp Phật Di-lặc thảy đều đắc đạo, cũng phát đại tâm trước thọ Biến dịch sanh, căn thuần thục siêng tu đắc đạo cũng được thấy Đức Phật kia, cho nên nói đều khiến được thấy Di-lặc tức là tên khác của ta. Hoặc nói ba sanh. Bốn dụ đầu là sanh thứ nhất. Phật bắt đầu thị hiện Niết-bàn, kia không thấy Phật liền khởi phiền não, kế năm dụ là thứ hai sanh, là Phật Thích-ca trung hiện Niết-bàn. Căn thuần thục siêng tu đạo trú nơi vị Hữu học, dần đoạn phiền não gọi là khỏi bệnh, chẳng phải đều đoạn tận thành đạo Vô học. Kia căn chưa thuần thục đoạ nên còn trú nơi vị phàm phu mà còn chưa chứng. ba dụ sau là sanh thứ ba căn thuần thục siêng thì đều được Vô học, chưa thuần thục đọa cũng đắc Hữu học, hai hạng này cuối cùng đều thấy Đức Phật Thích-ca đều phát đại tâm, cho nên trong thọ ký Hữu học Vô học thảy đều có, vì các loại đây chỉ bày có Niết-bàn, tức đại ý dụ trong phẩm này.

Thầy thuốc có đầy đủ bốn đức:

  1. Biết thể bệnh.
  2. Biết nhân bệnh.
  3. Biết bệnh diệt rồi không sanh.
  4. Biết bệnh diệt rồi lại sanh.

Kinh Niết-bàn chép: “Đại từ thương chúng sanh nên nay ta qui y, khéo nhổ các tên độc, nên xưng đại y vương, y thế gian trị bệnh, tuy lành rồi lại sanh, bệnh do Như-lai trị, rốt ráo không còn sanh, thuốc cam lồ của Phật, bố thí cho chúng sanh, chúng sanh đã uống rồi, không chết cũng không sống.” Cho nên, dùng thầy thuốc dụ trí tuệ Phật hiểu biết suốt sanh tử, thông đạt là ứng căn cơ cứu giúp, nêu rõ luyện phương thuốc là năng am hiểu giáo và lý khéo trị các bệnh nghĩa không còn tái phát, đồng bốn đức của thầy thuốc.

-Kinh: “Người ấy nhiều con cái cho đến cho đến số trăm”.

-Tán: Từ thương xót khởi hóa dụ, có hạt giống Nhị thừa mới gọi là con cho nên nói mười, hai mươi bao gồm tánh Bồ-tát làm bất định, nói đến số một trăm là tu một trăm hạnh, đầu giáo vị phát tâm.

-Kinh: “Do có việc nêu đến nước xa khác”.

-Tán: Đây là Quán căn cơ đạo ẩn dụ. Khi căn cơ chúng sanh còn chưa thuần thục mà chúng sanh phương khác căn cơ hợp, hóa thân liền ẩn đến phương khác hóa, hoặc đến tịnh độ uế độ hành hóa gọi là nước khác.

-Kinh: “Sau lúc đó các người con cho đến lăn lộn trên đất”.

-Tán: Gặp duyên hoặc khởi dụ. Không có Phật về sau, do tri thức ác phiền não liền khởi mê say tâm kia gọi là uống thuốc độc lăn lộn trên đất sanh tử. Kinh Niết-bàn chép: Nghèo cùng không cứu giúp cũng như người bệnh khổ, không thuốc tùy tự tâm, ăn chỗ không đáng ăn, chúng sanh phiền não bệnh, thường bị các kiến hại, xa lìa pháp y sư, ăn uống thuốc độc tà. Người căn thuần thục hoặc chưa thuần thục tuy đều khởi hoặc, mà người căn thuần thục thì mê hoặc nặng liền lui sụt, căn cơ đã thuần thục mê hoặc nhẹ vẫn tu hành.

-Kinh: “Bấy giờ người cha từ nước xa trở về nhà”.

-Tán: Dụ Cứu giúp chúng sanh thành đạo dụ. Ngày xưa hóa độ thị hiện ở nơi nhà sanh tử, đây duyên mới thuần thục nên vì hiện thân, hoặc xưa hóa cảnh vốn ở gọi là Nhà.

-Kinh: “Các con uống thuốc độc cho đến lại ban tuổi thọ cho chúng con”.

-Tán: Thấy Phật đều vui mừng dụ. Trước vui mừng sau thỉnh. Người mất bổn tâm là người căn cơ chưa thuần thục mất thanh tịnh khởi nhiễm. Người không mất bổn tâm là người tâm vốn thanh tịnh các căn thuần thục; vui mừng ý nghiệp, lễ bái thân nghiệp, hỏi thăm là ngữ nghiệp, ba nghiệp qui y thỉnh nói pháp yếu. Lại ban cho tuổi thọ nay xin tuệ mạng.

-Kinh: “Cha thấy các con cho đến không có có các bệnh hoạn”.

-Tán: Ứng theo căn cơ nói pháp dụ có hai: Trước cầu phương tiện khéo léo mầu nhiệm, sau thí giáo thiện quyền. Y theo các kinh phương tức giáo pháp Chư Phật ba đời, cầu thuốc lý tốt, như tìm cỏ hảo hạng, kia học giới định tuệ gọi là sắc hương mỹ vị, hoặc dứt ác, hành thiện, lợi sanh ba pháp, không gì thiếu sót gọi là đều đầy đủ, như thứ lớp phối hợp, trí tuệ phân biệt nghĩa đồng với đâm nghiền, truyền bá thô diệu nghĩa đồng với giả xay. Nay trước ba học ba hành tùy theo thuận hành gọi là hòa hợp, người tu học hoặc diệt thì khuyên uống thuốc.

-Kinh: “Trong các con cho đến bệnh trừ hết được lành mạnh”.

-Tán: Căn cơ thuần thục đạo thành dụ, nghĩa là hạng người căn đã thuần thục đắc đạo, sắc hương hai thứ dụ cho phước tuệ, hai thứ đắc đạo giải thích như trước đã giải. Dũ là bệnh lành.

-Kinh: “Ngoài ra những người thất tâm cho đến mà cho là không ngon.

-Tán: Người căn chưa thuần thục nhàm chán pháp dụ, có hai: Không chịu uống, và giải thích lý do. Người căn chưa thuần thục tuy ban đầu ít cầu pháp, sau không chịu tu hành mà phiền não quá sâu dày nên nhàm chán pháp.

-Kinh: “Người cha nghĩ rằng cho đến khiến chúng uống thuốc này”.

-Tán: Khiến mong cầu thị hiện diệt dụ, có ba: Trước nghĩ lập quyền phương, kế giáo pháp giữ lại, sau chỉ bày nói nhập diệt. Đây là phần đầu. Vì phiền não sâu dày, giáo pháp mầu nhiệm không vâng theo nên lập ra quyền phương khiến các con chịu theo tu.

-Kinh: “Nghĩ thế rồi liền bảo cho đến chớ lo không lành”.

-Tán: Đây là giáo pháp giữ lại. Đạo thành đã lâu giả nói là già suy, lúc nhập diệt đã gần nay lưu giáo lại. Các thầy hãy y theo đây tu hành, phiền não ắt diệt cho nên chớ lo.

-Kinh: “Bảo thế rồi cho đến cha các ngươi đã chết”.

-Tán: Bày nói nhập diệt lại ẩn trước hóa gọi là đến nước khác; sai người về nói nhập diệt, nói cha các thầy đã chết, cha thật không diệt chỉ tạm thôi giáo hóa ở đây.

-Kinh: “Bấy giờ các con cho đến không chỗ cậy nhờ”.

-Tán: Luyến Phật ái pháp dụ, có hai: Trước nghĩ Phật từ bi thương xót, nghĩ mình côi cút, sau bi cảm y giáo mà hoặc khổ đều dứt. Đây là phần đầu. Đầu tin nghĩ đến Phật, sau là luyến mến pháp, Đức Phật hiện đời từ bi cứu giúp che chở khiến không còn hoặc khổ, nay Đức Phật đã diệt độ không còn chỗ nương tựa khiến con côi cút.

-Kinh: “Lòng thương bi cảm cho đến bệnh độc đều lành”.

-Tán: Ở đây nêu bi cảm y giáo mà hoặc khổ dứt trừ. Gia hạnh đế quán gọi là tỉnh ngộ, nhập thánh như nương theo uống thuốc thì hoặc khổ đều dứt. Độc dụ cho phiền não, bệnh dụ cho các khổ.

-Kinh: “Người cha nghe các con cho đến các con đều thấy”.

-Tán: Đắc Thánh thấy Phật dụ. Nếu khiến đắc Thánh Nhị thừa Vô học mà thấy Phật, nhập Biến dịch sanh tử thấy Phật hóa thân tịnh độ an trú từ lâu, nghĩa đồng trở về mà khiến kia thấy; hoặc Địa tiền đắc nhập Thập địa báo độ thấy Phật. Đây tuy hóa Phật thượng vị lên dần, mà lý y cứ ở đây cũng vậy.

-Kinh: “Các người thiện nam cho đến có lỗi luống dối”.

-Tán: Đây dụ vấn đáp biện rõ đây không luống dối: 1. Hỏi. 2. Đáp. 3. Thành. Đây nói hóa thân như thầy thuốc thị hiện chết, báo thân như cha thật thể thường tồn, nghĩa Niết-bàn như nói chương khác.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến thường trụ đây nói pháp”.

-Tán: Đây có hai năm hàng rưỡi tụng chia làm hai: hai mươi hàng rưỡi tụng Bồ-đề vô thượng, năm hàng sau tụng Niết-bàn vô thượng. Văn đầu có ba: mười sau rưỡi tụng nêu hai thân báo hóa, tiếp tám hàng tụng nêu báo hóa hai cõi, sau hai hàng tụng kết khuyến không nghi. mười hàng rưỡi đầu lại có ba: ba hàng đầu tụng báo hóa hai thân, kế sáu hàng tụng báo thân Phật người vô duyên không thấy, người có duyên được thấy, một hàng rưỡi sau tụng kết lý do báo thân Phật thấy v không thấy, đây là ba hàng đầu: hai hàng tụng nói báo thân, sau một hàng tụng nói về hóa thân.

-Kinh: “Ta thường ở nơi đây cho đến dầu gần mà chẳng thấy”.

-Tán: Dưới sáu hàng tụng nói báo thân Phật. Vô duyên không thấy, có duyên được thấy. Trong đây có hai: một hàng tụng vô duyên không thấy, năm hàng tụng có duyên được thấy. Đây là một hàng đầu. Chúng sanh điên đảo tự không thấy Phật, huống chi gia thêm thần thông ẩn, khiến không thấy, sợ thấy sanh lỗi nên thần thông che lấp, cũng như mặt trăng mặt trời tự sáng, người mù không thấy là lỗi của người mù chứ chẳng phải lỗi của mặt trăng mặt trời.

-Kinh: “Chúng thấy ta diệt độ cho đến chẳng tự tiếc thân mạng”. – Tán: Dưới năm hàng tụng có duyên được thấy Phật chia làm hai: hai hàng đầu tụng đối đãi chúng sanh căn cơ thuần thục có duyên, ba hàng sau tụng hiện thân nói pháp. Đây là hai hàng đầu. Có bảy duyên căn cơ thuần thục: 1. Tu hành cúng dường. 2. Sanh tâm khát ngưỡng. 3. Tin phục không chê bai thuận hành. 4. Ngay thẳng chân thật lìa kiêu mạn cho đến 5. Mền mõng từ bi chịu đựng. 6. Một lòng muốn thấy chuyên nghĩ mong gặp. 7. Không tiếc thân mạng khinh thân trọng đạo.

-Kinh: “Giờ ta cùng chúng tăng cho đến chỉ nói ta diệt độ”.

-Tán: Hiện thân nói pháp có hai: Nửa hàng đầu tụng hiện thân, hai hàng rưỡi sau tụng nói pháp. Nói pháp có hai: Đầu một hàng nói thân tại đây hiện có Niết-bàn, sau một hàng rưỡi tụng hóa nhập Niếtbàn phương khác lợi ích, ở núi Linh nói hiện tại, hoặc hiện có ở Linh nói.

-Kinh: “Ta thấy các chúng sanh cho đến hiện ra vì nói pháp”.

-Tán: Đây là kết báo thân Phật lý do thấy và không thấy.

-Kinh: “Sức thần thông như vậy cho đến trời người thường đông đúc”.

-Tán: Dưới tám hàng nói về báo hóa hai cõi, có hai: năm hàng đầu tụng tướng cõi báo hóa, ba hàng sau tụng lý do vô duyên không thấy, có duyên được thấy tịnh độ. Đây là hàng đầu. Trứơc tụng trú xứ, kế tụng quyến thuộc. Kiếp tận là cõi an ổn là tịnh độ, Bồ-tát trời người thường ở trong hội.

-Kinh: “Vườn rừng các nhà gác cho đến như thế đều đầy dẫy”.

-Tán: Trong đây có ba:

  1. Tướng cõi.
  2. Cúng dường.
  3. Lìa sợ hãi.

Cõi hóa độ lo sợ khổ não đầy dẫy, tịnh độ lìa các thứ đó. Trong tướng cõi có sự có công đức. Như Kinh Vô Cấu Xứng nói tổng trì là vườn rừng, rừng cây đại pháp cho đến đều nên nói theo đó, nghĩa Tịnh Độ kia như nói ở chương khác. Luận chép: Cõi tịnh của ta không hủy hoại mà chúng thấy đốt cháy hết, là báo Phật Như-lai chân thật tịnh độ thuộc bậc nhất nghĩa đế không như cõi hóa thế gian thuộc về tục đế. Nhạc âm có hai: 1. Lư các trái lại là thô tháo thưởng thức. 2. Năm giáo trái lại với thỏa thích, chỗ tốt đẹp đáng sanh vui mừng.

-Kinh: “Các chúng sanh tội ác cho đến không nghe tên tam bảo”.

-Tán: Dưới ba hàng tụng vô duyên không thấy có duyên được thấy chia làm hai: một hàng đầu tụng vô duyên không thấy, sau hai hàng tụng nói có duyên được thấy. Đây là một hàng đầu, có bốn chướng hoặc nghiệp, báo, pháp, không nghe tên Tam bảo có ba chướng gọi là chúng sanh tội, nghiệp chướng gọi là nghiệp ác.

-Kinh: “Người tu các công đức cho đến vì nói Phật khó gặp”.

-Tán: hai hàng tụng có duyên được thấy chia làm hai: một hàng tụng tu ba nhân thấy Phật ở Tịnh độ, một hàng tụng thấy Phật tuổi thọ có ngắn dài. Tu ba nhân: 1. Công đức. 2. Nhu hòa. 3. Ngay thẳng. Thân ngữ ý ba nghiệp tu thiện, lợi sanh, diệt ác ba thứ; hoặc giới định tuệ học, hoặc thi giới tu như thứ lớp nên biết, vì ứng thường thấy nói tuổi thọ vô lượng, vì không ứng thường thấy nói Phật khó gặp.

-Kinh: “Trí lực ta như thế cho đến lời Phật thật không dối”.

-Tán: Kết khuyên không nghi ngờ. Ánh sáng trí tuệ chiếu soi không còn nghi ngờ độ tất cả chúng sanh cho nên tu nghiệp lâu chứng đắc, do bi nguyện này nên tuổi thọ lâu dài.

-Kinh: “Như thầy thuốc khéo léo cho đến không thể nói luống dối”.

-Tán: Dưới năm hàng tụng nói về Niết-bàn vô thượng, có hai: một hàng đầu là dụ, bốn hàng sau hợp. Đây là một hàng đầu, cuồng tử là người căn cơ chưa thuần thục.

-Kinh: “Ta là cha trong đời cho đến mau thành tựu thân Phật”.

-Tán: Đây bốn hàng tụng hợp chia làm bốn: một hàng tụng hiện thân sai khác, một hàng tụng vì ác sanh, một hàng tụng nói pháp sai khác, một hàng tụng nguyện thành Phật.

 

PHẨM PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC

Phẩm này có chia làm ba môn:

1. Vì sao có phẩm này. 2. Giải thích tên phẩm. 3. Giải đáp các nạn vấn.

I. Vì sao có phẩm này có ba:

1. Bên cạnh hai phẩm giải thích nghi các Bồ-tát từ đất vọt hiện lên, tức là trước nói quyền thật hai Phật, lý trí hai thân, nhiếp chung nền tảng muôn đức, tóm thâu rốt ráo Ba minh, thần thông tột bậc, màu nhiệm tận cùng, người nghe tâm trí khế, ngộ, hợp, chân, hoặc thông suốt ắt nên chứng đạo. Nay nêu rõ các cấp bậc tiến tu nên có phẩm này.

2. Trong năm nói quả Nhất thừa, hai phẩm đầu hai nêu rõ quả đã mãn, nhân nơi phẩm trước chánh đã nêu rõ quả mãn, nên phẩm này biện rõ thời chúng nhân đây chứng đắc khác nhau cho nên có phẩm này.

3. Luận giải trong thập vô thượng, thứ mười là lực thắng diệu vô thượng, là phần Tu đà còn lại nói: Luận lại tự nói: Từ đây sắp xuống thị hiện pháp lực và lực tu hành, pháp lực tức oai thần của kinh lực tu hành tức công đức cao quý do năng sở hành. Pháp lực có năm môn:

  1. Chứng.
  2. Tín.
  3. Cúng dường.
  4. Nghe pháp.
  5. Đọc tụng trì nói.

Chứng là chúng Thanh-văn nghe Phật tuổi thọ, có mười một ngôi vị chứng Thánh. Tín nghĩa là tám thế giới cát bụi số Bồ-tát phát tâm tin hiểu. Cúng dường nghĩa là trời mưa hoa cho đến ba môn trên đây đều ở đầu phẩm này. Nghe pháp nghĩa là giữa và sau phẩm bao gồm nghe pháp tùy hỷ. Trong phẩm Tùy hỷ. Đọc tụng trì nói nghĩa là phẩm Pháp Sư công đức nói người đọc tụng trì nói được công đức, đến văn sẽ giải. Luận tự giải rằng: Ở bốn môn đầu, Bồ-tát Di-lặc thị hiện, đều bảo với Di-lặc, một phẩm sau hàng Bồ-tát Thường Tinh Tấn thi hiện, nên chỉ bảo với Thường Tinh tấn.

Do pháp lực này chỉ nhiếp ba phẩm, tu hành lực kia nhiếp mười một phẩm: 1. Pháp Sư. 2. An lạc hạnh. 3. Trì. . Thần lực. . Dược vương. 6. Diệu âm. 7. Quán âm. 8. Đà-la-ni. 9. Diệu trang. 10. Phổ Hiền. 11. Chúc Lụy. Hợp mười bốn phẩm đều là nghĩa thứ mười thắng diệu lực vô thượng. Do nêu rõ chứng, tín, cúng dường ba thứ nên sau phẩm Tuổi thọ có phẩm này.

II. Giải thích tên phẩm: Công là công lao lực dụng nghe pháp, đức là đạo công lực thể tức phước tuệ, đức do nghe pháp mầu mà đắc gọi là công đức. Đây là nói về giải thích nghĩa, phân biệt các sự công đức, phẩm này nói về giải thích phân biệt sự công đức kia cho nên gọi là phẩm Phân Biệt Công Đức.

III. Giải đáp các vấn nạn: Hỏi: Do đâu Thanh-văn nghe thật quyền mà ngộ lãnh bèn được thọ ký, Bồ-tát nghe chân thật hóa mà lãnh giải biết không thọ ký ư?

Đáp: Bồ-tát được thọ ký Đức Phật đã nói số, chỉ nói chứng nhân không nói quả đương lai. Thanh-văn sơ ngộ thành Phật sự khó, nhân chứng chưa thành tạm thọ ký quả đương lai.

Hỏi: Do đâu nói thừa quyền thật Bồ-tát ký chứng đều thiếu?

Đáp: Bồ-tát đã biết trước quyền thật chỉ nghe thân mà đạo chứng, Thanh-văn chưa chứng hóa chân chỉ nghe thừa để được thọ ký, Bồ-tát không lấy bỏ còn Thanh-văn chưa chứng.

Hỏi: Khoa đầu nói: Vì sao nói quyền thật để thọ ký cho Thanh-văn mới là tông chỉ? Nói chân hóa để chứng Bồ-tát mà thuộc lưu thông?

Đáp: Pháp Hoa khai dụ dẫn chánh là đối quyền thật để trình bày tông chỉ không nói ứng chân đâu thể nói thân làm tông chỉ! Chỉ là nhân trước dũng xuất giải Thích-các nghi kia, mà chẳng phải nêu khai dẫn dụ cho nên chẳng phải tông chỉ.

-Kinh: “Lúc bấy giờ trong Đại hội cho đến được lợi ích lớn”.

-Tán: Phẩm này chia làm hai: 1. Văn xuôi và tụng nói chúng đương thời trong hội đạt được lợi ích hiện tiền dần tiến lên, 2. Văn xuôi và tụng nêu so sánh lượng hơn kém lợi ích thời sau.

Đầu văn có bốn: 1. Nêu thời lợi ích. 2. Phật nói về lợi ích. 3. Cúng dường lợi ích. 4. Tụng thọ lợi ích. Đây là phần đầu.

-Kinh: “Khi đó Đức Thế tôn cho đến pháp luân thanh tịnh”.

-Tán: Dưới Đức Phật bảo lợi ích có hai: Trước nói chứng đắc, sau nói tín phát. Văn đầu có hai:

  1. Sáu môn đầu dựa theo ngôi chứng đắc.
  2. Năm môn dựa theo sanh chứng đắc.

Đây là phần đầu. Căn cứ theo luận, trong năm môn pháp lực ở phẩm này có ba: 1. Chứng: Mười một vị đầu. 2. Tín: Tám thế giới Bồ-tát phát tâm. 3. Cúng dường là trời mưa hoa cho đến y nghĩa cao quý luận làm giải thích, tâm không lãnh thọ. Vô sanh pháp nhẫn luận này nói sơ 26 địa, tức căn cứ đắc vị đầu tiên, thời gian dài ở Thất địa, liên tục kế tiếp Bát địa, viên mãn nói Phật địa. Vô sanh là cảnh vô sở chấp, sanh pháp là giáo giải thích vô sanh giáo, Địa tiền xưa nghe chưa thể trí chứng, nay trí chứng ấn gọi là vô sanh, biến kế sở chấp gọi là tướng vô sanh, y tha khởi tánh là tự nhiên vô sanh, viên thành thật tánh hoặc khổ vô sanh. Văn trì nơi Tam địa Phật địa cho đến nói. Thập Địa luận nói ở nơi Ngũ địa. Tam địa ly định chướng, Ngũ địa định tự tại, Nhạo nói biện tài ở ngũ địa, giải năm minh luận biện tài đầy đủ. Duy Thức chép: Tại địa thứ chín căn cứ thành mãn. Triền-đà-la-ni tại thất địa. Nay tùy theo xoay vần trở lại không và tu hành che chở trong hữu tình. Thất địa thời gian dài vô tướng và quán hữu tình. Di-lặc Thượng Sanh nói: Di-lặc đắc Thập địa là căn cứ thành mãn, bất thối pháp luân tại Bát địa đủ bốn bất thối. Thanh tịnh pháp luân ở Thập địa, vô tướng lìa chướng làm thể thanh tịnh. Lại đây là công đức pháp chỉ tùy nghĩa nói chúng không cần thứ lớp phối hợp các địa.

-Kinh: “Lại có cõi nước tiểu thiên cho đến chánh đẳng giác”.

-Tán: năm vị này dựa vào sanh chứng đắc. Luận nói đây đắc sơ địa Bồ-đề lìa sanh tử phần đoạn, tùy phần chứng đắc thấy chân như Phật tánh gọi là đắc Bồ-đề, chẳng đắc quả mãn Phật vị Bồ-đề. Cũng có giải thích nói: y Kinh Niết-bàn nói tám đời là người bốn hằng sa giải một phần mười sáu nghĩa. Bốn đời là người năm hằng sa giải tám phần nghĩa. Ba đời là người sáu hằng sa giải mười hai phần nghĩa. Hai đời là người bảy hằng sa giải mười bốn phần nghĩa, một đời là người tám hằng sa giải mười sáu phần nghĩa. Tuy có đây giải thích nói tám hằng sa là Đệ thập địa mà nay y luận này đắc sơ địa Bồ-đề, không nói đắc Phật địa nên không theo giải thích này.

-Kinh: “Lại có tám thế giới cho đến tâm chánh đẳng giác”.

-Tán: Đây là nói tín phát.

-Kinh: “Lúc Đức Phật nói cho đến khen ngợi Chư Phật”.

-Tán: Thứ ba cúng dường có bảy:

  1. Mưa hoa.
  2. Mưa hương.
  3. Tấu nhạc.
  4. Mưa trang sức.
  5. Đốt hương.
  6. Bồ-tát lên cõi trời.
  7. Ca tụng của đức Phật.

Chuỗi châu ma-ni tuy vừa ý mà chưa thù thắng, châu như ý mới trên hết, hương không bay xuống phương dưới nên nói chín phương.

-Kinh: “Khi ấy ngài Di-lặc cho đến vui mừng đầy khắp thân”.

-Tán: Thứ tư lãnh thọ lợi ích có mười chín hàng tụng chia làm ba: hai hàng đầu nghe pháp vui mừng, tiếp mười lăm hàng tụng lý do lợi ích, sau hai hàng tụng kết thành vui mừng. Đây là hai hàng đầu.

-Kinh: “Hoặc trụ vị bất thối cho đến được quả báo thanh tịnh”.

-Tán: Dưới mười lăm hàng tụng nguyên nhân lợi ích, chia làm ba: bảy hàng tụng chứng, một hàng tụng tín, bảy hàng tụng cúng dường. Đây là phần đầu có ba: ba hàng tụng vị chứng, ba hàng tụng sanh chứng, một hàng tụng kết.

-Kinh: “Lại có tám thế giới cho đến đều phát tâm vô thượng”.

-Tán: Đây tụng tín.

-Kinh: “Thế tôn nói vô lượng cho đến ca vịnh các Như-lai”.

-Tán: Bảy hàng đầu tụng cúng dường có hai: một hàng đầu tụng nêu khen ngợi, sau sáu hàng tụng cúng dường. Cúng dường có bảy: Nửa hàng tụng mưa hoa, một hàng rưỡi tụng mưa hương, nửa hàng tụng trổi nhạc, nửa hàng tụng mưa y, một hàng tụng đốt hương, một hàng rưỡi tụng lên trời, nửa hàng ca tán.

-Kinh: “Như thế các việc cho đến để giúp tâm vô thượng”.

-Tán: Đây kết thành khen ngợi vui mừng. Người gốc lành đầy đủ được nghe danh hiệu Phật, để trợ tâm vô thượng của Phật, tu hành thuận theo tâm Phật, hoặc khiến kia đầy đủ gốc lành, trợ giúp chúng sanh kia sanh vô thượng tâm gọi là trợ.

-Kinh: “Lúc bấy giờ Đức Phật bảo cho đến không có hạn lượng”.

-Tán: Dưới đoạn thứ hai so sánh công đức hơn kém nói về thời sau lợi ích; chia làm hai: Trước văn xuôi và tụng nghe tuổi thọ của Phật sanh tùy hỷ tín hiểu lợi ích, cùng với phẩm Tùy hỉ công đức thành đồng bộ, sau văn xuôi, tụng nghe tuổi thọ của Phật giải trì đọc tụng lợi ích, cùng với phẩm Pháp Sư công đức bên dưới làm đồng bộ. Trước lãnh giải tùy hỷ sau chánh tu hành. Văn trường đầu hàng có ba: Nói chung tín hiểu, tiếp so sánh hơn kém, sau hiển bày nghĩa không lui sụt. Đây là phần đầu, tùy hỷ công đức sau, đắc Bồ-đề đâu có lường được.

-Kinh: “Nếu có người thiện nam cho đến không thể biết được”.

-Tán: Đây so sánh hơn kém, Nhất thừa thể kia tức tuệ hữu vi và trí vô vi do đó trừ Bát-nhã là nghĩa trên hết. Kinh này tuy nói xuất sanh Nhất thừa mà thể tánh rộng lớn đầy đủ. Kinh Thắng-man nói Nhất thừa, tuy không nhiếp nhập mà chỉ lấy vô vi tuệ làm Nhất thừa kia dù đã Hằng hà sa kiếp hành sáu Ba-la-mật không bằng có người tay cầm quyển kinh, rồi nói trừ Bát-nhã cho nên biết kinh này lấy chung cả lý trí làm Nhất thừa, lý trí Nhị thừa hội nhập về Nhất thừa. Nếu chỉ lấy chân lý thì đồng kinh Thắng-man lấy làm Nhất thừa, cũng nên dùng chung lục độ so sánh, đều xuất ra sanh nghĩa, vì sao trừ tuệ. Thân Kim Cương Bát-nhã luận của Thiên chép: Số, lực, không tương tợ, thắng, cũng vậy. 1. Số thắng; 2. Lực thắng thắng thời; 3. Không tương tợ thắng và dụ thắng; . Nhân thắng là nhân quả thù thắng. Văn này có hai: Tính đếm, thí dụ cho đến hai thứ còn lại cũng không sánh bằng nên nói cho đến.

-Kinh: “Nếu người thiện nam cho đến không có lẽ đó”.

-Tán: Đây là hiển nghĩa bất thối, tín, vị, chứng, hành tùy ứng bất thối.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến hành năm Ba-la-mật”.

-Tán: Dưới mười chín hàng rưỡi tụng chia làm hai: mười bốn hàng đầu tụng so sánh, năm hàng rưỡi sau tụng năng tín, không tụng phần Văn xuôi đầu. Mười bốn hàng đầu lại có hai: Mười hai hàng tụng hành năm độ, sau hai hàng tụng so sánh một tín. Trong mười hai đầu lại có ba: một hàng nói chung, mười hàng tụng năm độ, một hàng tụng kết thành. Đây là nói chung đầu.

-Kinh: “Ở trong các kiếp đó cho đến để hồi hướng Phật đạo”.

-Tán: Dưới mười hàng tụng năm độ chia làm năm, đây ba hàng tụng bố thí đệ tử Thanh-văn, ruộng có ba thứ:

  1. Tôn thắng.
  2. Bần khổ.
  3. Trung dung.

Ân cha mẹ thuộc ruộng tôn thắng, nay cúng dường ruộng này. Ruộng ân hai thứ đều trên hết, thâu nhiếp cả y dược cho đến trong đó, nên tứ sự đều đủ.

-Kinh: “Nếu giữ gìn cấm giới cho đến một lòng không biếng trễ”.

-Tán: một hàng tụng giới. Hai hàng tụng nhẫn, một hàng tụng cần (tinh tấn).

-Kinh: “Trong vô lượng ức kiếp cho đến tận nguồn các thiền định”.

-Tán: Đây ba hàng tụng định.

-Kinh: “Người ấy trăm ngàn kiếp cho đến như trên đã nói rõ”.

-Tán: Đây một hàng tụng kết thành.

-Kinh: “Có thiện nam tín nữ cho đến phước đó nhiều như thế”.

-Tán: Đây hai hàng tụng so sánh một tín.

-Kinh: “Nếu có các Bồ-tát cho đến nói tuổi thọ cũng thế”.

-Tán: Dưới năm rưỡi tụng nêu người năng tín chia làm ba: một hàng tụng tín, ba hàng tụng phát nguyện, một hàng rưỡi hàng tụng kết thành. Phát nguyện có hai: Tổng và biệt. Đây là hai phần đầu .

-Kinh: “Nếu có người thân tâm cho đến nơi đây không có nghi”.

-Tán: Đây là kết thành, đủ có sáu đức:

  1. Thâm tâm hết lòng ưa pháp.
  2. Thanh tịnh không cầu danh lợi.
  3. Ngay thẳng.
  4. Học rộng.
  5. Tổng trì.
  6. Giải lời Phật mới tin không nghi.

-Kinh: “Lại A-dật-đa cho đến nhất thiết chủng trí”.

-Tán: Dưới đoạn thứ hai giải trì đọc tụng lợi ích, trong văn xuôi có bảy:

  1. Hành giả công đức vô biên năng sanh chủng trí.
  2. Hành giả thấy báo thân tịnh độ.
  3. Hành giả đầu đội đức Như-lai.
  4. Hành giả tự mình xây tháp Phật tăng phòng cúng dường.
  5. Hành giả thực hành lục độ tự lợi chóng đắc chủng trí đến đạo tràng.
  6. Hành giả thực hành lục độ lợi tha hướng đến đạo tràng.
  7. Chỗ của hành giả ở nên xây tháp cúng dường.

Đây là văn đầu có hai: Trước nghe tuổi thọ Phật khởi tuệ vô thượng, sau đối với một bộ kinh này khởi văn trì năng sanh chủng trí sẽ chứng đắc.

-Kinh: “A-dật-đa cho đến nuôi lớn tin hiểu sâu chắc”.

-Tán: Hành giả thấy báo thân tịnh độ có bốn:

  1. Thấy báo thân Phật.
  2. Thấy Tịnh độ.
  3. Thấy Bồ-tát chúng.
  4. Kết thành trước ắt sẽ thấy.

Kiến giải trí Phật như báo Phật, đây dùng trí thấy chẳng phải dùng mắt thấy.

-Kinh: “Và lại sau khi Như-lai diệt độ cho đến đầu đội đức Như lai”.

-Tán: Hành giả đầu đội Phật, nghe kinh tùy hỷ rồi tin hiểu sâu, huống chi đọc tụng thọ trì. Kính trọng Phật cho nên gọi là đầu đội.

-Kinh: “A-dật-đa… cúng dường chúng tăng”.

-Tán: Hành giả tự xây tháp Phật tăng phòng cúng dường có ba đầu tiên là: Nêu, tiếp giải thích, sau là kết. Đây là nêu.

-Kinh: “Vì sao? Cho đến cúng dường chúng tăng”.

-Tán: Giải thích có hai: Lược, và rộng. Đây là lược. Toàn thân Xá-lợi ở đây tức là xây tháp nơi chúng học tức là Tăng phương, thọ trì đọc tụng chân thật hành cúng dường, cho nên nói tức là hai thứ cúng dường đây.

-Kinh: “Thời đem Xá-lợi Phật cho đến làm việc cúng dường đó rồi”.

-Tán: Dưới đây rộng giải thích, có hai: Trước giải thích tức là xây tháp cúng dường, sau giải thích tức là xây cất Tăng phòng cúng dường.

Đây là phần đầu, có ba:

  1. Lượng.
  2. Vật cụ
  3. Thời.

Người này chắc chắn nêu vượt cõi cõi Dục. Lại tạm nêu rất nhỏ là đến cõi Phạm thiên, nhỏ dần là có thể thực hành căn lành nhỏ, nêu tiểu làm dụ, nội pháp cúng dường hơn ngoại tài.

-Kinh: “A-dật-đa cho đến và Tỳ-kheo tăng”.

-Tán: Đây giải thích là xây tăng phường cúng dường có hai: Trước chỉ ít sau chỉ nhiều. Chỉ ít có bốn:

  1. Số.
  2. Lượng.
  3. Tăng trú.
  4. Tư cụ.

Đầy đủ ba mươi hai sở là chỗ an trú của tứ phương Tăng sanh trong tám đường. Bát-đa-la là tu bát giải thoát. Một cây đa-la cao bảy nhận, tương truyền giải một nhận là bảy thước, tám cây đa-la tính có thể biết. Ngoài ra các thứ khác đều có tiêu biểu tùy nghĩa nên biết cho đến “Như vậy Tăng phường lầu gác v.v…” là chỉ nhiều, tức là tạo lập Tăng phường v.v… như trước mà hiển số nhiều.

-Kinh: “Cho nên ta nói cho đến cúng dường chúng Tăng”.

-Tán: Hành giả thực hành lục độ tự lợi mau đắc chủng trí có ba:

Trước pháp, tiếp dụ, sau hợp, mau thành chủng trí.

-Kinh: “Nếu người đọc tụng cho đến giỏi gạn hỏi đáp”.

-Tán: Hành thực thực hành cả lục độ lợi tha vì hướng đạo tràng.

Đạo tràng là chánh đẳng giác tánh, trước là Bồ-đề đây là Niết-bàn, có hai: Trước nêu lục độ lợi tha, sâu kết đã đến đạo tràng. Đây là phần đầu, xây tháp Tăng phường cúng dường là tài thí, khen ngợi tam thừa là vô úy thí, nói kinh Pháp Hoa này là pháp thí. Ngoài ra, giới, nhẫn, an, cần, tuệ như thứ lớp lợi tha. Trong nhẫn đồng chỉ nại, oán hại nhẫn, nhẫn nhục không sân là an chịu khổ nhẫn, chí niệm vững chắc quán sát rõ là pháp nhẫn, đắc định sâu cần nhiếp thiện đều là lợi tha.

-Kinh: “A-dật-đa cho đến ngồi dưới cội đạo thọ”.

-Tán: Kết rồi đến đạo tràng, hướng chân và hóa hai đạo tràng, giác thọ tự vinh như sanh thọ.

-Kinh: “A-dật-đa cho đến như tháp của Phật”.

-Tán: Chỗ hành giả ở nên xây tháp cúng dường.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến như trên đã nói”.

-Tán: Đây kệ có mười chín hàng rưỡi tụng chia làm năm: một hàng đầu nêu chỉ ba thứ trước, kế bảy hàng rưỡi tụng loại thứ tư tức mình xây tháp tăng phòng cúng dường, kế ba hàng tụng loại thứ năm hành giả thực hành lục độ tự lợi mau đắc chủng trí, kế ba hàng tụng loại thứ sáu hành kiêm lục độ lợi tha vì hướng đến đạo tràng, sau năm hàng tụng loại thứ bảy nơi hành giả ở nên xây tháp cúng dường. Đây là phần đầu.

-Kinh: “Đó thời là đầy đủ cho đến đầy đủ các cúng dường”.

-Tán: Dưới bảy hàng rưỡi tụng loại thứ tư chia làm hai: bốn hàng rưỡi tụng tức xây tháp cúng dường, ba hàng sau tụng xây Tăng phường cúng dường. Đây là phần đầu có ba: hai hàng tụng xây tháp, một hàng rưỡi tụng cúng dường, một hàng tụng kết.

-Kinh: “Nếu hay trì kinh này cho đến các thứ đều nghiêm tốt”.

-Tán: Đây là xây Tăng phường cúng dường.

-Kinh: “Nếu có tâm tin hiểu cho đến phước ấy cũng như thế”.

-Tán: Tụng loại thứ năm kiêm hành lục độ tự lợi mau đắc chủng trí, chỉ luận 1 thí không nói năm độ.

-Kinh: “Huống nữa trì kinh này cho đến công đức không thể lường”.

-Tán: Tụng loại thứ sáu kiêm hành lục độ lợi tha vì hướng đến đạo tràng, cúng dường tháp miếu, “khiêm hạ các Tỳ-kheo…” đều thuộc tinh tấn độ.

-Kinh: “Nếu thấy pháp sư đây cho đến kinh hành và ngồi nằm”.

-Tán: Tụng loại thứ bảy nơi hành giả ở nên xây tháp cúng dường chia làm bốn: Nửa hàng tụng kính như Phật, một hàng rưỡi tụng biết đạo thành, một hàng rưỡi tụng nên xây tháp, một hàng tụng nơi Phật thường ở cho đến.

Ngày 21 tháng 6 Niên hiệu Bảo An năm thứ ba Tăng Giác Ấn ở chùa Pháp Long viết xong .

Cùng năm ngày 2 tháng 12 để ở chùa Hưng Phước Viên Như phòng kiểm duyệt xong, Tăng Giác Ấn vì muốn chánh pháp tồn tại lâu dài vãng sanh cực lạc.

Ngày 21 tháng năm Tân hợi niên hiệu Thiên thừa năm đầu phụng truyền thọ ở chùa Dược Sư Thiện Minh phòng đắc nghiệp rồi nhiếp giải thích và sao xuất, truyền thọ đã xong Tăng Giác Ấn.

 

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10