THÀNH DUY THỨC LUẬN CHƯỞNG TRUNG XU YẾU
Chùa Đại từ ân, Sa-môn Khuy Cơ soạn thuật.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỄN THƯỢNG

Nhưng, trước tiên năm môn mười nghĩa vẫn dùng ba môn tổng thâu:

  1. Nói về Đồng dị trong luận
  2. Nơi chốn giáo quy
  3. Nêu thuật giải thích đề văn.

– Trong phần nói về Đồng dị lại mở làm ba:

  1. Vì đối Dị tông hiển bày riêng biệt của tự tông
  2. Vì đối Dị giáo hiển bày thể của Tự giáo
  3. Vì hạng đầy đủ cơ cảm mà rộng nói thời cơ.

– Trong nơi chốn giáo quy lại mở làm ba:

  1. Mười hai phần giáo, phần nào nhiếp thuộc
  2. Hai tạng ba tạng v.v… tạng nào nhiếp thuộc
  3. Một Thừa, hai Thừa v.v… Thừa nào nhiếp thuộc.

– Trong nêu thuật giải thích đề văn lại mở làm ba:

  1. Tự thuật luận năm tháng, người soạn
  2. Giải thích luận đề mục
  3. Giải nghĩa luận bản văn.

– Lại giải luận này có ba môn biện thích:

  1. Tự thuật luận Sở nhân
  2. Giải thích luận đề mục
  3. Phán thích bản văn.

Tự thuật luận Sở nhân: Trong Du-già Luận Thích lược ghi: Các loài hữu tình từ vô thỉ đến nay đối với pháp thật tướng do không biết nên cố chấp, khởi hoặc phát nghiệp, luân hồi năm nẻo, đức Như Lai xuất hiện nơi đời, tùy nghi giảng nói, ở trong diệu lý khiến các hữu tình rõ đạt các pháp phi không phi hữu, xa lìa nghi chấp, khởi hành trong xứ tùy ứng diệt chướng, mỗi tự tu mãn, đắc Tam-bồ-đề, chứng lạc tịch diệt. Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, nhân Đại Thiên bộ chấp khởi lắm thứ đắm trước hữu kiến, Bồ-tát Long Mãnh chứng Địa cực hỷ, tham cứu nhặt nhóm giáo nghĩa Không, Vô tướng của Đại thừa, tạo luận Trung Quán v.v… xiển dương chân yếu, phá trừ hữu kiến kia. Các Đại luận sư như Thánh giả Đề-bà v.v… tạo Bách luận v.v… hoằng dương Đại thừa. Do đó, chúng sinh lại chấp trước không kiến, Bồ-tát Vô Trước cũng lên bậc Sơ địa, chứng Pháp quang định, đắc thần thông lớn, tôn thờ Bồ-tát Di-lặc, thỉnh nói luận này. Lý không gì chẳng cùng, sự không gì chẳng tận, văn không gì chẳng giải thích, nghĩa không gì chẳng thuyên, nghi không gì chẳng dứt, chấp không gì chẳng phá, hạnh không gì chẳng tu, quả không gì chẳng chứng, chính vì Bồ-tát khiến các Thừa, Cảnh hạnh quả v.v… đều được khéo léo, chuyên tu đại hạnh, chứng đại Bồ-đề, khắp vì các chúng hữu tình không từng giảng nói trái ngược, lại gần vì các Thừa khác, khiến nương tự pháp, tu hành tự phần, đắc chứng tự quả. Do vậy, năm phần trong tông thịnh hành ở bốn chủ, tương ưng mười chi, truyền lưu khắp năm xứ Ấn.

Bấy giờ có Bồ-tát Phiệt-tô-bạn-đồ, Hán dịch là Thế Thân, là người em cùng mẹ với Bồ-tát Vô Trước, chứng quả vị ở Minh đắc đạo gần đến Cực hỷ, cũng thông rành cả ba Thừa, ban đầu học khắp các bộ phái, biết Tiểu thừa giáo chẳng phải cùng cực, mới xoay lại hướng đến Đại thừa, nhân nghe tụng kinh Hoa Nghiêm phẩm Thập Địa, A-tỳ-đạt- ma phẩm Nhiếp Đại Thừa, bèn hối lỗi quấy trước, rơi lệ với kiến chấp xưa, nắm dao muốn cắt lưỡi để tỏ bày nỗi lòng trung thực. Người anh ở xa cách ba do-tuần, buông duỗi một cánh tay ngăn cản sự tự hại đó, lấy điều lợi hại để giải bày rằng: “Ông tuy dùng lưỡi mà phỉ báng pháp, đâu phải cắt lưỡi mà tội trừ? Ông nên sớm tán dương giải thích Đại thừa để hối cải lỗi phạm xưa trước”. Bồ-tát Thế Thân vâng theo lời người anh chỉ dạy, nhân đó quay về với diệu lý. Người anh mới đem kinh Thập Địa mà trao cho và căn dặn chế tác bản Nhiếp Đại Thừa và khiến Thế Thân tạo luận thích đó. Nên hai bộ luận này do Bồ-tát Thế Thân làm lúc mới quay về với Đại thừa. Vậy mà, văn chứa đựng cả huyền tông, tình bao trùm cả diệu chỉ. Lại làm Hoằng luận, diễn xướng sâu mầu, khéo chọn cơ mầu, giỏi nêu tinh túy, bèn trước thuật luận Duy Thức Tam Thập Tụng, để diễn bày diệu thú của Đại thừa, sum la vạn tượng bao hàm trong một chữ, ngàn muôn lời dạy đầy đủ ở một lời, đạo vượt các vở sách, tiếng thơm ngời sáng muôn Thánh. Lược tụng đã hoàn tất, vừa mở bày rộng giải thích, cơ cảm chưa phù khế thì bất ngờ Bồ-tát thị tịch.

Lại có các Bồ-tát Hộ Pháp v.v… xem đọc văn luận tụng, mỗi mỗi tự làm luận thích nghĩa, tuy ngành ngọn cao vời, cành sớ nhánh ngọc, mà riêng chiếu sáng ngời, lan tỏa thơm ngát phải chăng chỉ có một mình Bồ- tát Hộ Pháp! Bồ-tát Hộ Pháp quả vị chứng đắc đã từ kiếp trước, nhưng ở địa vị tại hiền này, ngầm thêm vỗ vật, tùy cơ làm lợi ích. Năm hai mươi chín tuổi, ngài tự biết mạng sống có kỳ hạn, nhàm chán vô thường, chuyên tâm thiền tập, thề chẳng lìa cội Bồ-đề, suốt trọn ba năm, ngoài lúc rảnh rỗi thì chú giải chế tác luận thích đây, văn xa lý sâu, trí rộng danh cao, chấp phá hết ở một lời, gở rối cùng ở nửa bài tụng, văn khác như nước lửa, nhưng phù hợp tợ keo sơn, nghĩa đồng sông hồ mà thông thành trong đục, bờ mé mênh mông vút núi cao mà tiếp trời, gò đồi vời vợi hết hang hốc mà phẳng bằng, cúi xuống khoang sâu mà không đáy, ngẩng lên với cao mà chẳng ngằn mé. Văn thô nghĩa cạn, nhưng dòng phái chẳng cùng, câu dài tông rộng nhưng đào luyện có hạn, công vượt ngàn Thánh, đạo hợp trăm vua.

Bấy giờ có cư sĩ Huyền Giám, nhận biết cả lông lá của phụng gà, suốt thông cùng dấu ẩn của lân rồng, từng dốc hết của cải luôn vì cúng dường, chí ý kiên cố thành thực sâu sắc, hết tài vật đã nhiều năm. Bồ-tát dẫn dụ nhiều mối, đáp để lại luận thích đây mà răn bảo đó rằng: “Sau khi ta qua đời, phàm có người đến xem, ông nên dùng một lượng vàng mà thưởng cho họ, như gặp được bậc thông thần dĩnh ngộ thì sẽ có thể truyền thông”. Cuối cùng đã ẩn ngầm bặt tuyệt Huyền đạo, thanh danh Bồ-tát chấn động châu này, tiếng tăm luận thích vượt xa xứ kia, các loại có tánh linh ai mà chẳng ôm hoài khâm phục, sáng sớm được nghe đạo, chiều tối chết an lòng, đâu tiếc lận vàng thoi. Nếu đem đổi bậc hiền tài thì cũng giống như gò đồi chồng chất của cải, cả năm xứ Ấn Độ trông mong nhưng chưa kịp lưu hành.

Đại sư Huyền Tráng là bậc tuấn phát thiên tư, hiểu biết đều nhờ cầu học, không thần tích nào mà chẳng chiêm lễ, chẳng Thánh giáo nào mà chẳng mở đọc, nghe diệu lý ấy, ân cần nương nhờ mong cầu, cư sĩ Huyền Giám ghi nhớ di ngôn của Tiên thánh, hẳn Đại sư là thuộc hạng bậc hiền thời nay, mới dâng trao bản thảo đó và Ngũ Uẩn luận thích. Đại sư đọc xem như thấy được Thánh dung, mỗi lúc đặt để trong tay chẳng khác gì chân thuyết, từ phương Tây mưa đổ sớ ngọc, ở phương Đông rảo rong ngựa trắng, tuy diễn rộng lý mầu, tưởng thưởng lấy làm bí quyết, mãi đến lúc thần gá quán riêng, cảnh ẩn ánh sáng, sạch tai mắt để tư duy sâu, rỗng tâm linh mà giải thích diệu, bèn bảo: “Nay đây mới thỏa tâm ta vậy! Trọng Ni nói ta có ngọc đẹp cất giấu trong hộp, ai người khéo ra giá, nay ta bán cho”.

Khuy Cơ tôi xưa trước lẻ loi ngang trái, năm chín tuổi đã phải mồ côi. Từ đó, chỉ ý muốn nương gá ráng mây, thêm luôn mong xuất gia, tình tưởng trần tục vốn dứt từ nhỏ, đến năm mười bảy tuổi bèn dự vào chúng xuất gia, riêng vâng phụng minh chiếu, được làm thị giả. Từ khi dự phần trong số chúng ba ngàn vị, tức mừng vui với khuôn phép trong số bảy mươi vị, hẳn hợp với thiện nguyện. Sau lại vâng thừa văn bút, chẳng vì tư chất kém cỏi, bèn được theo cùng chúng phiên dịch, nhân việc ghi chép mà nhận được luận đây, công lao trước hết là phiên dịch riêng mười Luận thích, gồm có bốn người. Phưởng, Thượng, Quang và Cơ tôi đồng thọ, nắm bút chỉnh lời, kiểm văn xét nghĩa, thế rồi vào nề nếp, mỗi chuyện đều có các quan khác lo. Sau vài lần chầu hầu, Khuy Cơ tôi cầu xin ô thái ẩn. Đại sư cố hỏi, Khuy Cơ tôi mới ân cần thưa rằng: “Từ đêm mộng thấy Kim dung, sáng sớm rảo đến Bạch mã, ánh ngời tỏa sáng bờ tóc, linh trí theo nơi hai vai. Nghe năm phần mà dùng tâm mong cầu, quấy tám Uẩn mà xa trông, tuy được cặn bả của pháp môn, nhưng mất thuần túy của nguồn huyền. Nay phương Đông biệt xuất anh tài, đều nhắm đặt huyền tông, nay lại riêng đẹp lạ muôn phương, trội vượt ngàn xưa, chẳng lập công ở tham lẫn, có thể gọi là mất thời ấy. Huống gì các Thánh chế tác, mỗi mỗi vọng vang khắp năm xứ Ấn Độ. Tuy văn truyền đủ nơi kinh điển mà nghĩa chẳng đầy ở một bản, tình kiến mỗi riêng khác, người bẩm thọ không chỗ cậy nương, huống hồ thời nhiễm người bạc, mạng ngắn, tuệ cạn, soi sét chi ly mà chẳng rốt ráo, quấy yếu chỉ nguyên sơ mà khó tuyên, xin gom hết các lời để làm một bản, khải định thật hư, cân nhắc khuôn phép”. Lâu sau ngài bèn thuận cho, nên được luận đây mà hành hóa. Đại sư, lý bỏ lại ba hiền riêng tra kẻ quê vụng, với luận đây vậy, bao gồm bí yếu của các kinh, gồm hết yếu chỉ của các Thánh, không dính kẹt nào mà chẳng dung, không tối tăm nào mà chẳng soi sáng, ngửa trông thì chẳng cùng, cúi xét thì chẳng lường, xa vời mà không trí, thân gần mà có thức. Đó có ẩn gần năm Minh, mở bày tám Tạng, cửa sâu luôn đóng, đường huyền chưa thông, dụ như bông lông đầy gò, dùng lửa cháy ném vào đó, tợ khe sương băng dùng cảnh nóng rưới đó, thật là ánh đuốc của đêm dài, gương vàng của tối sớm. Tuy vốn lưu xuất từ năm xứ Ấn Độ, nhưng ở xứ ấy không luận thích mênh mang như thế, ngay như phần riêng làm của mười sư nhóm họp còn khó, huống gì góp nhặt văn từ sâu mầu đây, thật là chưa có. Đây mới là duyên khởi của luận này.

Giải thích đề mục: Tiếng Phạm gọi là Tỳ-nhã-để (Thức) Ma-trí- thích-đa (Duy) Tất-đề (Thành) Xa-tát-đát-la (Luận), đúng ra phải gọi là Thức Duy Thành luận, thuận theo tiếng Hán là Thành Duy Thức luận. Tiếng Phạm gọi Thành Duy Thức là gọi theo ngôn ngữ của họ, hoặc là Tỳ-nhã-để-ma-đát-thích-đa, Tỳ-thân-độ-ca (tịnh) Xa-tát-đát-la, phải gọi là Thức Duy Tịnh luận, nay gọi là Tịnh Duy Thức luận, ở cuối quyển 10 luận này giải thích: “Ba phần luận đây thành lập Duy thức, nên luận đây gọi là Thành Duy Thức luận, thì vốn gọi là Duy thức. Thích luận gọi là Thành”. Nhưng y cứ theo bản Tam Thập luận, ở dưới đề mục riêng chú thích: “Luận này cũng gọi là Thành Duy Thức luận, vì Tam Thập luận giáo thành lập Duy thức vậy”. Như trong kinh Thuyết Vô Cấu Xưng, Phật bảo gọi là kinh Thuyết Vô Cấu Xưng Bất Khả Tư Nghì Giải

Thoát Pháp Môn, nhưng đề mục kinh là kinh Thuyết Vô Cấu Xưng, phía dưới đề kinh có ghi chú là “cũng gọi là Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát”. Đây cũng như vậy, riêng cũng gọi là Thành. Vả lại như bài tụng cuối trong Nhị Thập Tụng luận do Bồ-tát Thiên Thân tạo ghi: “Ta đã tùy tự lược nghĩa Thành duy thức, cũng gọi là Thành Duy Thức”. Nhưng nay, Thích luận do Bồ-tát Hộ Pháp tạo phần nhiều so với luận gốc chỗ lập tên gọi chẳng đồng, Nhị Thập Duy Thức giải thích tên gọi là luận Duy Thức Đạo. Luận đây là cách gọi của Thành Thích luận, nên cuối luận ghi: “Bản luận đây gọi là Tam Thập Duy Thức”. Lại nói: Luận đây ba phần thành lập Duy thức, nên biết Duy thức là tên của Bản luận. Nay phần Thích gọi là Thành. Thành chẳng phải vốn xưng, chỉ lấy chánh danh Bản luận chẳng lấy tên riêng ghi chú. Hoặc có Duy bản chẳng phải giải thích danh, như Biện Trung Biên, hoặc có Duy thích chẳng phải tên gọi gốc, như Duy Thức Đạo luận. Hoặc có Bản, Thích hai tên, như Tạp Tập luận, nay chỉ giải thích tên gọi hoặc là tên gọi chung.

Thành Duy Thức đó, Thành của Duy thức, trong tiếng Tô-mạn-đa, thứ sáu thuộc chủ, thì thứ tám là chuyển thanh, thanh đây là luận biện trong thanh, chữ Tô ở sau, Mạn-đa là nghĩa sau, thì chữ Tô ở thanh sau. Tiếng Để-ngạn-đa có mười tám chuyển, biện trong tiếng đây, chữ Để ở sau, Ngạn-đa là nghĩa sau, thì chữ Để ở tiếng sau, là chọn lựa thanh ngôn đây, Tô-mạn-đa, là y chủ thích trong Sát-tam-ma-bà thích. Sát là Lục, Tam-ma-bà là Hợp, thì gọi là Lục hợp thích, trước lìa sau hợp, nên nhân luận sinh luận, một chữ đã không thuyên biểu, làm sao nói Sát có thể là Lục vậy? Nay y cứ Phạm bản, có ba chữ Sa-tra-đa, hợp lại mới thành từ Sát, nên chẳng phải một chữ có thuyên biểu.

Thành là cách gọi của năng thành, để thành lập làm công, Duy thức là danh của Sở thành, lấy giản trạch rõ ràng làm nghĩa, an giáo lập lý, gọi đó là Thành. Thức, nghĩa là năng liễu, vì thuyên bày năm pháp. Duy, có ba nghĩa. Thức thuyên bày năm Hữu, Duy chọn hai Không. Duy, nghĩa là giản trì. Hữu tâm không cảnh là nghĩa của Duy vậy, chọn bỏ cảnh giữ lấy tâm, nên nói giản trì là nghĩa của Duy, cũng là nghĩa quyết định, và nghĩa hiển thắng. Liễu, nghĩa là Liễu biệt, tác dụng thuyên biện là nghĩa của Thức, Liễu biệt ở cảnh là dụng của Thức. Ở đây nói Duy là: An Tuệ có một phần Duy, Nan-đà có hai phần Duy, Trần Na có ba phần Duy, trong đó có hai thuyết thật và giả. Hộ Pháp có bốn phần Duy, luận phần nhiều nương ba phần, giáo và lý có bốn phần.

Giải thích tên gọi Duy thức, như trong chương đó giải thích, hợp chung có mười nghĩa giải thích Thành duy thức:

1. Kinh nói Duy thức, luận giải gọi là Thành.

2. Bản luận gọi là Duy thức, Thích luận gọi là Thành,

3. Kinh và luận đều gọi là Duy thức, nay phần Thích gọi là Thành.

4. Tông gọi là Duy thức, Nhân và Dụ gọi là Thành. Luận bản lược nêu chỗ lập gọi là Tông, nay nghĩa rộng thành nên gọi là Nhân và Dụ, thuật đủ nguyên do, dẫn pháp Đồng dị để thành chỗ lập. Trong Nhị Thập luận ghi: “An lập Đại thừa, ba cõi Duy thức”. Trần Na giải thích: “Nhân và Dụ thành Tông, gọi là an lập”. Trong đây nói Thành, nghĩa cũng đồng.

5. Thể gọi là Duy thức, nghĩa thích gọi là Thành. Bản luận lược nêu thể đó, chưa nhận biết sai biệt nay rộng nói rõ nghĩa, đủ hiển bày sai biệt, nên gọi là Thành.

6. Tóm lược gọi là Duy thức, chưa giải nghĩa sau, rộng gọi là Thành, bày đủ chỉ thật. Hai giải sau đây y cứ Nhiếp Thích phần trong luận Du-già giải thích. Phàm giải thích kinh pháp, trước thể sau nghĩa, trước lược sau rộng.

7. Do giáo thành giáo

8. Do giáo thành lý

9. Do lý thành giáo

10. Do lý thành lý

Hỏi: Bốn giải thích sau đó, nương vào đâu mà được biết?

Đáp: Cuối luận có bài tụng ghi: “Đã nương Thánh giáo và Chánh lý”. Lại nói: Ba phần luận đây thành lập Duy thức, nên biết năng thành tựu thông giáo và lý. Ở đầu luận có bài tụng ghi: “Nay ta giải thích thuyết kia”. Thuyết thì giáo của bản luận ở lập hoặc lý của Sở nghiệp, hai nghĩa đều thông, cuối luận lại nói: “Do ba mươi bài tụng hiển bày lý Duy thức rất sáng sạch”. Kệ tụng ghi: “Phân biệt nghĩa tánh tướng Duy thức”. Nghĩa tức là lý, nên biết Sở thành cũng thông giáo lý.

Luận thì như trong Câu-xá ghi: “Dạy răn học chúng, nên gọi là luận”. Du-già giải thích là: “Hỏi đáp quyết trạch tánh tướng các pháp, nên gọi là luận”. Giải thích trước nương bi, vì lợi chúng sinh, giải thích sau nương trí, biện rõ các pháp. Thành Duy Thức tức luận, luận của Thành Duy Thức, căn cứ nghĩa thì biết.

Vì sao luận này gọi là Thành duy thức, chẳng gọi thành gì khác? Cũng thành các nghĩa khác nên muốn khiến chứng đắc lý trí Duy thức mà thành lập, như luận Du-già, đây thông giáo lý, từ nhiều Duy thức mà làm danh. Hoặc là nay chẳng trái nghịch, thành lập diệu lý Duy thức, như luận Thành Thật cũng thông giáo, lý, từ Sở thuyên làm danh, hoặc phá chấp thật ngoài tâm có cảnh, chẳng khéo tin học diệu lý Duy thức mà thành lập, như luận Thành Giả cũng thông giáo lý, thành là lập nghĩa. Hoặc là luận đây y cứ ở lý trí Duy thức sâu mầu mà thành lập, như hoa Thủy lục, luận Đối Pháp v.v… y cứ đó sinh khởi cũng vậy. Hoặc ngại sợ diệu lý Duy thức tán diệt, nay là lược nhiếp rộng tán nghĩa mà thành lập đó, như Nhiếp Đại Thừa. Lại, trong tất cả pháp, tâm là thù thắng nhất, như trong kinh Hoa Nghiêm ghi: “Tâm như thợ vẽ khéo, vẽ các thứ năm Uẩn, trong tất cả thế gian, không pháp nào chẳng tạo”. Do đó mà thành lập.

Hỏi: Căn cứ như phần Chánh tông ở sau, hoặc phân làm hai: một là nhân; hai là quả. Hoặc phân làm ba, như giải ở trong đó, hoặc phân làm bốn, nửa bài tụng đầu, gồm nêu phần cương yếu. Nửa bài tụng thứ hai mươi bốn rộng bày phần Năng biến. Thứ ba có chín kệ tụng tổng kết giải thích phần bên ngoài vặn hỏi. Thứ tư có năm kệ tụng, nương tu được phần lợi ích. Hoặc phân làm năm, trong phần thứ ba trước, mở một bài tụng nêu bày lại phần biến nghĩa. Các giải thích như vậy thì thành lập tùy chỗ đáng nghĩa, tại sao chỉ gọi là Thành Duy Thức luận?

Đáp: Từ chỗ ban đầu nói rõ gọi là danh, nó nương vào Sở biến của Thức, như luận Du-già. Lại, từ đoạn thứ hai làm danh, phần giữa cũng có nói Duy thức, nghĩa là các thức chuyển biến v.v…. Hoặc từ chỗ mới đầu, giữa và sau nói rõ làm danh. Ở đoạn thứ ba nói: “Cho đến chưa khởi thức, cầu trụ Duy thức tánh v.v… Hoặc hai đoạn sau ý muốn giải thích mới đầu lược nêu. Hoặc tuy chỗ nói rõ thông tất cả pháp không gì chẳng là Duy thức, nên chẳng gọi các thứ khác. Lại, vốn muốn thành lập nghĩa Duy thức. Trên đây là ý kết quy của việc thành lập tên gọi Duy thức.

Trong giải thích đề mục có năm Duy thức làm Sở quán, ba tuệ làm Năng quán. Lại, cảnh giáo lý hạnh quả năm thứ Duy thức, như trong chương đó giải thích. Xứ xứ trong cảnh Duy thức, trong kinh căn cứ có các Dị thuyết, hoặc nương Sở chấp, hoặc căn cứ tạp nhiễm. Hoặc tùy Sở chấp và Hữu vi, hoặc chỉ tùy Hữu vi, hoặc tùy chỉ sự, hoặc tùy tất cả pháp không hữu để nói rõ Duy thức, mỗi mỗi có thành văn nghĩa như chương thuyết, y cứ trong cảnh giáo lý hạnh quả năm Duy thức, luận đây chỉ có nghĩa nói rõ cảnh Duy thức, xả bỏ thủ cảnh bên ngoài vì tất cả cảnh chẳng lìa tâm, như văn nêu bày đủ; có nghĩa chỉ nói giáo Duy thức, thành giáo của bản luận, vì giải thích kia nói; có nghĩa chỉ lấy lý Duy thức, thành lập lý sở thuyết của bản giáo, vì phân biệt nghĩa tánh tướng của Duy thức; có nghĩa chỉ lấy hạnh Duy thức vì nói rõ năm vị tu Duy thức hạnh; có nghĩa chỉ lấy quả Duy thức, vì cầu đại quả an lạc, thân giải thoát vì đại Mâu-ni gọi là Pháp thân. Nay nương chánh nghĩa năm thứ đều phải, tuy nương phần thứ ba, nói là đã y cứ Thánh giáo và Chánh lý, phân biệt nghĩa tánh tướng Duy thức và nói: Nay ta giải thích thuyết kia cho rằng chỉ lấy giáo lý. Nói y cứ giáo lý thành tánh tướng kia, tánh tướng thì nhiếp hết tất cả. Tất cả đều lấy ở lý làm thù thắng.

Hỏi: Vì sao trong bốn y, khuyên y trí chẳng y thức? Luận đây gọi là Duy thức mà không gọi là Duy trí?

Đáp: Ba y còn lại cũng như vậy. Như phần giải thích danh trong chương Duy thức giải thích. Lại, Thích luận gọi là pháp, như Tông Luân thuật ký nói.

Trong phần “căn cơ tiếp nhận giáo hóa” có ba: một là Thuật dị, hai là Hội đồng, ba là Bị cơ. Thuật dị như kinh Pháp Hoa ghi: “Trong mười phương cõi Phật, chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba, trừ Phật phương tiện nói”. Vì giáo căn cứ có thể có một cơ, kinh Niết- bàn cũng ghi: “Sư Tử Hống là quyết định nói, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, chúng sinh cũng vậy, thảy đều có tâm. Phàm, có tâm là đều sẽ đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, nên các chúng sinh chỉ có Phật tánh”, lại căn cứ Nhiếp luận của Thiên Thân nói: “Vì thượng thừa hạ thừa có sai biệt, nên Bồ-tát Thanh văn mỗi mỗi có ba tạng, chẳng luận Độc giác, Bất định, Không tánh”. Có giáo rộng khác thì phân làm hai. Độc giác, Không tánh đều không có tạng khác. Thượng hạ trí lực của trung căn trong mười lực v.v… cũng chỉ có hai”. Căn cứ kinh Thiện Giới, luận Địa Trì lập làm hai: một là có tánh, hai là không có tánh. Vô thỉ Pháp nhĩ, vì sáu Xư thù thắng cũng có tánh, chỉ do căn lành trời người mà không tánh đó thành tựu. Theo kinh Pháp Hoa cũng có thể nói có ba, với người cầu ba Thừa thì đem ba Thừa trao cho, nên luận kia ghi: “Bốn loại Thanh văn chẳng vì hạng thú hướng tịch tăng thượng mạn mà thọ ký, có quả thừa nên chỉ nói có ba”. Theo kinh Niết-bàn cũng có ba, như người bệnh có ba:

1. Hoặc gặp hay chẳng gặp thầy thuốc quyết định có thể lành là Bồ-tát.

2. Gặp thì lành, không gặp thì chẳng lành là hàng Nhiếp thuộc.

3. Gặp và chẳng gặp đều chẳng thể lành là hạng người không tánh.

Theo kinh Đại Bát-nhã quyển 593, hội thứ 16 ghi: “Lúc Phật thuyết pháp bên cạnh bên cạnh ao Bạch lộ, Bồ-tát Thiện Dũng Mãnh thưa: Cúi mong đức Thế Tôn xót thương chúng con mà tuyên nói đủ cảnh trí của Như Lai. Nếu loại hữu tình ở Thanh văn thừa tánh quyết định, nghe pháp này rồi, chóng nương tự thừa mà được ra khỏi. Ở Vô thượng thừa tánh quyết định nghe pháp này rồi chóng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu loại hữu tình tuy chưa vào chánh tánh lìa sinh mà ở ba Thừa tánh chẳng định, nghe pháp này rồi đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Cúi mong Đức Như Lai giải đáp điều con hỏi!” Kinh đây chỉ nói người có chủng tánh vào Thánh đạo, nên không có hạng người thứ năm là không có chủng tánh, Đại bi xiển-đề. Lại, người đoạn thiện chưa thể vào Thánh, ở đây cũng chẳng nói. Lại, trong kinh Thắng Man ghi: “Chúng sanh lìa thiện tri thức, không nghe phi pháp, do căn lành trời người mà thành tựu, người cầu Thanh văn thì trao cho Thanh văn thừa, cầu Duyên giác thì trao cho Duyên giác thừa, cầu Đại thừa thì đem Đại thừa trao cho. Đó gọi là nhiếp thọ chánh pháp, có khả năng gánh vác bốn thứ trọng trách”. Trong đây, do chung theo riêng, có tánh làm ba, không tánh làm một. Lại y cứ ở cuối quyển 2 trong kinh Lăng-già bộ mười quyển, quyển 1 trong bộ bốn quyển nói, phần lớn cũng đồng:

“Phật bảo Đại Tuệ: Có năm thứ tánh chứng pháp:

  1. Tánh Thanh văn thừa.
  2. Tánh Bích-chi-phật thừa.
  3. Tánh Như Lai thừa.
  4. Tánh Bất định tánh thừa.
  5. Không tánh nghĩa là Nhất-xiển-đề. Đây có hai thứ:
  6. Đốt cháy tất cả căn lành thì phỉ báng Bồ-tát tạng.
  7. Xót thương tất cả chúng sinh, làm hết tất cả nguyện của chúng sinh giới là Bồ-tát.

Nếu chúng sinh chẳng vào Niết-bàn, ta cũng chẳng vào. Đại Tuệ thưa: Bạch đức Thế Tôn! Hai hạng người đó vì sao thường chẳng vào Niết-bàn? Phật dạy: Bồ-tát thường chẳng vào Niết-bàn chẳng phải đốt cháy căn lành là vì biết các pháp xưa nay là Niết-bàn, chẳng xả bỏ tất cả chúng sinh”. Trong luận Đại Trang Nghiêm quyển 1 phẩm Chủng Tánh nói có năm thứ chủng tánh. Ba thừa định và chẳng định. Bốn, đồng Du-già. Trong tánh thứ năm nói có hai thứ: một là Thời biên, hai là Tất cánh. Thời biên có bốn: Kệ tụng ghi:

“Một mực hành ác hạnh

Đoạn hết các Bạch pháp

Không có giải thoát phần

Thiện ít cũng không nhân”.

Tất cánh không là vì không nhân. Thời biên trong đây nên gọi là tạm thời. Tiếng Phạm gọi là Niết-ca-la A-ba-lợi-nật-phược-nam Đạt- ma. Niết là tạm, Ca-la là thời, A gọi là không, Ba-lợi là viên, Nật- phược-nam là tịch, Đạt-ma là pháp. Thì pháp tạm thời không viên tịch. Nếu thời biên v.v… nên nói Ca-la Án-đa-a-ba-lợi-nật-phược-nam. Án- đa là biên, các từ khác nghĩa đồng như trước. Còn Du-già nói về năm tánh như sớ.

Tiếp theo thuật về đồng, ngoài ra các văn khác như trước tự càng hòa hợp. Như kinh Lăng-già nói về hai thứ xiển-đề: một là đoạn thiện căn có đủ tà kiến; hai là Bồ-tát đầy đủ đại bi. Hạng trước là có lúc vào Niết-bàn, hạng sau không hẳn như vậy, vì chúng sinh giới vô tận thời, hữu tình không tánh chẳng thành Phật. Bồ-tát Đại bi không kỳ hạn thành Phật. Nhưng tánh thứ năm hợp có ba thứ: một, gọi là Nhất-xiển- đề; hai, gọi là A-xiển-để-ca; ba, gọi là A-điên-để-ca. Nhất xiển-để-ca là nghĩa Lạc dục, vì ưa thích sinh tử. A-xiển-để-ca là nghĩa chẳng lạc dục, vì chẳng ưa thích Niết-bàn. Hại hạng đây thông ở hạng người đoạn căn lành, bất tín, ngu si che lấp, cũng thông với Bồ-tát Đại bi, vì được đại trí đại bi huân tập. A-điên-để-ca gọi là Tất cánh vì rốt ráo không có tánh Niết-bàn, người không tánh đây cũng được hai tên trước. Hai hạng trước dài lâu sẽ thành Phật, hạng sau ắt chẳng thành. Kinh Lăng-già chỉ nói đủ hai tên trước có tánh xiển-đề. Luận Trang Nghiêm nói luôn hai thứ xiển-đề có tánh và không tánh. Luận Du-già và kinh Lăng-già thì nói hai hạng đoạn thiện quả cũng ắt sẽ thành, vì hiện tại họ chưa trở thành người đoạn thiện căn. Kinh Lăng-già nói Đại bi do hiện tại nhất định thành quả cho nên ắt không thành, vì chúng sinh giới không có lúc cùng tận. Không có chủng tánh là hiện tại và tương lai rốt ráo cả hai đều chẳng thành. Hợp kinh và luận thì xiển-đề có ba: một là đoạn thiện căn; hai là Đại bi; ba là không có tánh. Khởi hiện hành, tánh có nhân có quả.

Do ba hạng người đây và bốn tánh bốn câu trước phân biệt:

1. Nhan thành quả chẳng thành, gọi là xiển-đề đại bi.

2. Quả thành nhân chẳng thành, gọi là xiển-đề có tánh đoạn thiện.

3. Nhân quả đều chẳng thành, gọi là xiển-đề không tánh, Nhị thừa định tánh.

4. Nhân quả đều thành, gọi là đại trí tăng thượng, chẳng đoạn thiện căn mà thành Phật.

Tóm lại, kinh Niết-bàn căn cứ phần ít tất cả trong lý tánh và hạnh tánh, chỉ nói có một. Nhiếp luận căn cứ có tánh, căn lợi độn để nói rõ chỉ phân thượng hạ, kinh Thiện Giới y cứ có không mỗi loại riêng biệt, nói hai tánh có không. Lại nữa, kinh Niết-bàn y cứ có tánh lợi độn để phân làm hai, không tánh làm một, nên bị lỗi phân làm ba. Kinh Pháp Hoa giáo hóa chẳng định, chẳng phân biệt riêng. Tổng tướng nói ba, Bát-nhã nói thưa hỏi vào đạo, nói có tánh, chẳng phải không tánh. Kinh Thắng Man dụ như mang vác bốn thứ, ẩn tánh chẳng định, vì chung theo riêng chẳng vượt ba loại. Kinh Lăng-già ý cứ có tánh để biện sẽ thành và chẳng thành, tuy nói có năm, chẳng nói không có tánh. Trong luận Trang Nghiêm riêng phân biệt đầy đủ tánh của nhân quả đều chẳng hiện hành. Thứ năm lìa hai, chẳng nói đại bi. Luận Du-già luận chung có tánh không tánh của các loại chúng sinh, tuy bày năm thứ mà trong loại thứ năm chẳng nói Đại bi và đoạn thiện. Đại thừa có tánh, phần đông thừa nhận. Định tánh Nhị thừa và không có tánh, mọi người chấp nhận chẳng đều. Như luận Du-già quyển 67, Quyết Trạch phần nói.

Hỏi: Vì sao kinh Lăng-già chẳng nói không có tánh, luận Du-già chẳng nói Xiển-đề đại bi?

Đáp: Về căn cơ tiếp nhận sự giáo hóa thì thời và chúng mỗi riêng khác. Kinh Lăng-già hiển bày Bồ-tát Đại bi là tánh thứ năm, do năm thứ chủng tánh đều nói có nên ẩn không có tánh trong năm tánh mà không luận. Luận Du-già y cứ lý năm tánh loại sai biệt, giả sử đoạn thiện là vào trong tánh trước, căn cứ dụng tuy không có chủng nhưng Thể thì có, Đại bi đại thiện thì trong loại thứ nhất hoặc thứ tư, chỉ nói không có tánh là ở trong tánh thứ năm, do đó chẳng nói Bồ-tát Đại bi.

Quyết Trạch quyển 67, có năm vặn hỏi hữu tình không có tánh:

  1. Vặn hỏi nói không nghi khởi.
  2. Vặn hỏi hữu tình không căn.
  3. Vặn hỏi các cõi chuyển như nhau.
  4. Vặn hỏi nên đủ các cõi.
  5. Vặn hỏi không nên chuyển có. Đáp, tức có sáu:
  6. Đáp giáo lý đều trái
  7. Đáp giả thiết chẳng phải thông lệ
  8. Đáp chẳng phải dụ trái lý
  9. Đáp bình đẳng dụ không riêng biệt
  10. Đáp trái pháp chẳng đồng đều
  11. Đáp giả sử chuyển chẳng thành

Nghĩa là có vặn hỏi rằng: Vì sao mà có rốt ráo không pháp Niết- bàn ư? Nên hỏi vặn lại họ là: Các loại hữu tình các thứ giới tánh, vô lượng giới tánh, hạ liệt giới tánh, thắng diệu giới tánh là có hay là không? Nếu nói có là không có rốt ráo, không pháp Niết-bàn là chẳng xứng hợp đạo lý. Đây cũng trái lý, thì Duy thức nói có tánh Pháp nhĩ, không đây thì chẳng vậy. Nếu nói không là trong kinh nói các loại hữu tình có các thứ giới tánh cho đến thắng diệu giới tánh, chẳng xứng hợp đạo lý. Đây cũng trái kinh, không có tánh tức là hạ liệt giới nhiếp. Lại có vặn hỏi rằng: Hữu tình tuy có các thứ giới tánh cho đến thắng diệu giới tánh, mà nói hữu tình có căn không căn, như là không pháp Niết- bàn, tại sao chẳng phải như vậy? Hoặc nên thừa nhận hữu tình có căn không căn? Nên hỏi lại rằng: Các không căn ấy là hữu tình hay phi hữu tình? Nếu là hữu tình thì ngoài vật không căn, nên là hữu tình, giả thiết làm vặn hỏi, chẳng phải chỗ kẻ khác thừa nhận. Nếu chẳng phải hữu tình mà nói, sao chẳng thừa nhận hữu tình có căn không căn là chẳng xứng hợp đạo lý? Tánh chẳng phải không căn, làm sao lấy làm vặn hỏi? Lại có vặn hỏi rằng: Như làm Sát-đế-lợi rồi sau làm Bà-la-môn, Phệ- xá, Nhung-đạt-la, như vậy cho đến làm Na-lạc-ca rồi hoặc cho đến làm trời. Như vậy, tại sao chẳng làm không có pháp Niết-bàn rồi, lúc sau lại làm có pháp Niết-bàn ư? Nên hỏi vặn lại rằng: Các loài cùng chuyển là có tất cả cõi hay riêng có một ư? Nếu có tất cả, thì dụ chẳng tương tợ, nó không phải tất cả nên chẳng phải dụ. Nếu riêng có một, trước là Sát-đế-lợi v.v… mới là chuyển làm các loại khác, chẳng xứng hợp đạo lý, vì trái với Chánh lý. Lại có vặn hỏi rằng: Như Sát-đế-lợi v.v… đủ tất cả cõi, như vậy không có pháp Niết-bàn, tại sao chẳng có pháp giới Niết-bàn? Nên hỏi vặn lại rằng: Có cõi không cõi là hỗ tương trái nhau hay chẳng vậy? Nếu hỗ tương trái nhau mà nói không có pháp, tại sao chẳng có pháp Niết-bàn chẳng xứng hợp đạo lý? Vì hỗ tương trái nhau, nếu chẳng hỗ tương trái nhau thì hữu tình đây là không, cũng có pháp Niết-bàn chẳng xứng hợp chánh lý, vì không thể riêng biệt. Lại có vặn hỏi rằng: Hiện thấy một nơi có một thời gian không có chủng tánh vàng, hoặc có lúc thì có, cho đến một lúc không chủng tánh muối, hoặc có lúc thì có, hoặc ở một lúc có tánh các cõi hoặc có lúc thì không. Như vậy, trước không có chủng tánh pháp Niết-bàn, tại sao chẳng ở một lúc thành chủng tánh có pháp Niết-bàn? Nên hỏi vặn lại họ rằng: Như một nơi trước không có tánh này, sau có tánh này. Hoặc trước có tánh này, sau không có, như vậy trước có chủng tánh Thanh văn, sau đó không có tánh đó, cho đến trước có chủng tánh Đại thừa, sau đó không có tánh đó, trước có tánh bất định, sau không có tánh ấy ư? Nếu nói như vậy là thuận giải thoát thiện nên rỗng rang không có quả. Lại, nếu như vậy thì lập chủng tánh định chẳng xứng hợp đạo lý. Nếu chẳng như vậy thì ông nói trước trụ không tánh, sau trụ có tánh. Như một nơi có chủng tánh là trước trụ có tánh sau trụ không tánh, thì nơi đó chẳng xứng hợp đạo lý. Lại nên trách họ không có pháp Niết-bàn hạ liệt giới là vì đời nay chuyển thành có tánh là ở đời sau. Nếu là đời nay gặp duyên kia rồi ở trong hiện pháp, là có thể khởi thuận giải thoát phần thiện hay là không thể? Nếu nói có thể là hiện khởi thiện căn mà nói không có tánh chẳng xứng hợp đạo lý. Nếu nói không thể, họ gặp duyên tốt hiện pháp không thể khởi thuận giải thoát thiện, mà nói chuyển thành pháp Bát Niết-bàn là chẳng xứng hợp đạo lý. Nếu nói đời sau mới thành có tánh, là đời trước họ chứa nhóm thiện căn, đời sau gặp duyên mới khởi thiện kia, là trước chẳng chứa nhóm. Nếu nói trước chứa nhóm, ở đời này họ gặp ngay duyên tốt năng khởi thiện căn, mà nói đời sau mới thành có tánh là chẳng xứng hợp đạo lý. Lại, như nhân kia nên rỗng rang không có quả, nếu trước chẳng chứa nhóm thì người này trước sau tương tợ đều chưa nhóm chứa thiện, mà nói đời sau mới thành có tánh chẳng phải đời nay là chẳng xứng hợp đạo lý.

Chứng Nhị thừa định tánh như phẩm Mười Thế Gian trong kinh Hoa Nghiêm quyển 40 ghi: “Phật tử! Vị đại Bồ-tát ở cung trời Đâu-suất lúc sắp mạng chung, có mười thứ quả hiện. Quả thứ ba là ở trong bàn tay phải phóng ánh sáng lớn gọi là thanh tịnh cảnh giới, đều khéo nghiêm tịnh đại thiên thế giới. Trong thế giới đây nếu có các Bích-chi-phật Vô lậu rõ biết ánh sáng đó, liền xả bọ thọ mạng mà vào Niết-bàn. Nếu chẳng rõ biết thì cũng nhân sức ánh sáng đó mà chuyển dời đến trong các thế giới khác ở phương khác”. Trong luận Trang Nghiêm quyển 1 ghi: “Các hạng người khác thiện căn Niết-bàn có lúc hết, còn thiện căn của Bồ-tát thì không như vậy”. Lại nói: “Chúng sinh ba Thừa do cõi sai biệt, nên chủng tánh sai biệt”. Kinh Niết-bàn ghi: “Ở trong kinh, ta vì các Tỳ-kheo nói một Thừa một đạo một hạnh một duyên. Một Thừa như vậy cho đến một duyên, khéo vì chúng sinh làm Đại tịch tĩnh, trọn đoạn tất cả ràng buộc, sầu khổ, khổ và khổ nhân, khiến tất cả chúng sinh đến một cõi. Các đệ tử Ta nghe nói vậy rồi, chẳng hiểu ý Ta mà xướng rằng Như Lai nói Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán đều được Phật đạo”. Lại Nhiếp Đại Thừa làm mười nghĩa nên nói một Thừa, dẫn nhiếp tánh bất định. Lại, trong luận Pháp Hoa nói bốn thứ Thanh văn, là không vì thú hướng tịch tĩnh thọ ký. Kinh Lăng-già, luận Du-già có tánh sai biệt như vậy rất nhiều. Lập lượng rằng: Quả của Nhị thừa đáng lý phải có định tánh, vì thừa này bao hàm khắp như Đại thừa.

Người không chủng tánh chứng như kinh Niết-bàn quyển 36 ghi: “Này thiện nam tử! Nếu nói tất cả chúng sinh nhất định có Phật tánh, người như vậy gọi là phỉ báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu nói tất cả nhất định không có Phật tánh, người ấy cũng gọi là phỉ báng Phật pháp tăng”. Lại, trong kinh Niết-bàn ghi: “Thí như người bệnh, họ có ba thứ: một, nếu gặp thầy hay thuốc tốt hoặc chẳng gặp hẳn sẽ được lành; hai, nếu gặp thì lành, chẳng gặp thì không lành; ba, gặp hay chẳng gặp đều chẳng thể lành. Như vậy, thứ nhất là định tánh Đại thừa, kế tiếp là bất định tánh và thứ ba là định tánh Nhị thừa và không có tánh”. Lại, trong kinh Niết-bàn ghi: “Này thiện nam tử! Tranh cãi như vậy là cảnh giới Phật, chẳng phải chỗ các Thanh văn Duyên giác biết được. Nếu người nào đối với đây sinh tâm nghi ngờ là còn có thể dẹp hoại vô lượng phiền não như núi Tu-di, nếu đối với đây sinh khởi quyết định, đó gọi là chấp trước, chấp trước như vậy, chẳng gọi là thiện”. Lại, cũng trong quyển 36 ghi: “Này thiện nam tử! Tuy ta nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, chúng sinh chẳng hiểu Phật như vậy v.v… là tùy tự ý nói. Này thiện nam tử! Nói như vậy là Bồ-tát hậu thân còn chẳng thể hiểu, huống gì hàng Nhị thừa hay các Bồ-tát khác”. Lại, bảy người nói về sông Hằng, người thứ bảy thường chìm đắm. Lại, trong kinh Thiện Giới Phẩm Chủng Tánh ghi: “Người không chủng tánh tuy là phát tâm chuyên hành tinh tấn, trọn chẳng thể được Vô thượng Bồ-đề”. Lại, kinh kia ghi: “Người không chủng tánh chỉ do thiện căn trời người mà thành tựu”. Lại trong luận Trang Nghiêm nói pháp không Niết-bàn có hai: một là Thời biên, hai là tất cánh (rốt ráo), như trước đã nói. Lại, trong kinh Thắng Man ghi: Chúng sinh lìa thiện tri thức không nghe phi pháp, do thiện căn trời người mà thành tựu đó v.v… Trong kinh Kim Cang ghi: Mao đạo sinh, nay gọi là Ngu phu sinh. Tiếng Phạm gọi là Bà-la, Hán dịch là Ngu phu, vốn sai nhầm là Phược-la, mới nói là Mao đạo. Vô Tánh lập lượng rằng: Chỗ gọi là không tánh, quyết định nên có, có không hai tánh tùy một nhiếp. Như có tánh là, hoặc chỗ Thánh nói, như nói có tánh, trong các kinh luận, hoặc chỉ có chánh tông, không phần tựa và lưu thông, như luận Du-già v.v… hoặc chỉ có phần đầu và giữa mà không phần sau, như luận Hiển Dương v.v… Hoặc chỉ có phần giữa và sau không có phần đầu, như Tập luận, Nhị Thập Duy Thức v.v… hoặc ba phần đều có, như luận Thành Duy Thức v.v… Bản của pháp sư Chân Đế phiên dịch Nhị Thập Duy Thức, ba phần đều có, bản của Pháp sư Bồ-đề-lưu-chi phiên dịch và bản của Đại Đường (Pháp sư Huyền Trang) đồng không phần đầu mà chỉ có hai phần còn lại, không chỉ phần đầu và sau mà không cả phần giữa, vì người tạo luận hẳn có chỗ nói rõ.

Giải thích nghĩa “khể thủ”, như trong chương đó giải thích. Trong giải thích các quy kính Tam bảo, chỉ có quy Phật, chẳng có pháp Tăng, như kinh Địa Trì bản Cựu dịch ghi: “Kính lễ quá khứ vị lai và đời hiện tại tất cả Phật Thế Tôn”. Trong luận Phát Bồ-đề Tâm ghi: “Kính lễ không ngằn mé, khứ lai hiện tại Phật, Trí chẳng động như Không, Đại bi Tôn cứu thế”. Bài tụng đầu quy kính Phật trong luận Câu-xá cũng chỉ có kính Tăng mà chẳng có Phật và pháp. Như luận Biện Trung Biên ghi: “Kính lạy tạo luận này, chỗ thể Thiện Thệ sinh, và thầy dạy ta thảy, sẽ chuyên bày nghĩa đây”, chỉ không có kính pháp. Mở đầu Nhị Thập Duy Thức bản Cựu dịch chỉ quy kính Phật pháp, ghi: “Tu đạo chẳng cùng khác, năng nói nghĩa không đồng, đảnh lễ lý Đại thừa, sẽ nói lập và phá”, chỉ có kính lễ Phật và tăng mà không kính pháp, như luận Thập Trụ của Long Thọ ghi: “Kính lễ tất cả Phật và các chúng Bồ- tát, Thanh văn, Bích-chi-phật, vô ngã và ngã sở”, chỉ có kính lễ Pháp và Tăng mà không kính Phật. Như luận Kim Cang Bát-nhã của Thế Thân ghi: “Pháp môn cú nghĩa và thứ đệ, thế gian chẳng hiểu lìa minh tuệ, đại trí thông đạt dạy ta thảy, quy mạng thân vô lượng công đức”. Trong luận Tạp Tâm của Pháp Cứu cũng ghi: “Kính lễ tôn pháp thắng, chỗ nói ta đảnh thọ, ta Đạt-ma-đa-la, nói kia chưa từng nói”. Đây đều là kính lễ luận chủ và luận được tạo”. Có kính lễ cả Tam bảo, tức các bộ luận Hiển Dương, Đối Pháp, Nhiếp Đại Thừa, Phật Địa và luật Tứ Phần v.v… như vậy rất nhiều. Trong kính lễ Phật, chỉ có kính lễ Pháp thân mà không hai thân còn lại, như bài tụng quy kính đầu tiên trong luận Bát- nhã Đăng. Đầu kinh Lăng-già ghi: “Quy mạng biển Đại trí, Phật Tỳ- lô-giá-na”. Đây tuy chỗ đặt của kinh chủ, chỉ kính lễ Pháp thân. Trong kinh Niết-bàn ghi: “Nếu năng chấp Tam bảo thường trụ đồng chân đế, Phật tức là Pháp, Pháp tức là Tăng”. Trong kinh Thắng Man lại ghi: “Quy y nói đạo Nhất thừa, pháp và chúng ba Thừa”. Hai thứ đây chẳng phải quy y rốt ráo. Nếu có chúng sinh được Như Lai điều phục, cho đến quy y Pháp Tăng là hai quy y chẳng phải hai quy y, là quy y Như Lai. Tại sao? Vì không khác Như Lai, không khác hai, quy y Như Lai tức ba quy y. Đây là Như Lai chính là Sư Tử Hống, chỉ có kính lễ thân thọ dụng mà không lễ hai thân còn lại, như trong luận Phát Bồ-đề Tâm nói. Chỉ kính lễ Thật trí thật bi của Phật, chỉ kính lễ Hóa thân mà không hai thân còn lại, như Bảo Tích ghi: “Mắt tịnh tu rộng lớn như hoa sen sinh v.v…”. Có kính lễ Báo thân và Hóa thân mà không có Pháp thân, như kinh Địa

Trì bản Cựu dịch ghi: “Kính lễ đời quá khứ vị lai, hiện tại tất cả Phật Thế Tôn”. Có kính lễ đủ cả ba thân, như luận Hiển Dương ghi: “Thiện Thệ, Thiện Thuyết, diệu ba thân”. Luận Đối Pháp, luận Phật Địa mở đầu kính lễ đều đồng. Có đồng thể Tam bảo, như ở kinh Niết-bàn, kinh Thắng Man nói. Có thông cả đồng thể và biệt thể, như luận Đối Pháp v.v… nói. Không chỉ kính lễ biệt thể, chẳng phải đồng thể và chỉ kính lễ Nhậm trì tam bảo.

Trong kính lễ Phước điền lại có ba giải thích: một, kính lễ Niết- bàn mà chẳng phải Bồ-đề; hai, kính lễ Bồ-đề mà chẳng phải Niết-bàn; ba, đều kính lễ cả Bồ-đề và Niết-bàn. Thứ nhất, kính lễ Niết-bàn mà chẳng phải Bồ-đề là Niết-bàn có bốn nghĩa: Thể tánh tuy tịnh mà tại thiền, gọi là nhân phần. Phần, tức là vị. Nay chỗ kính lễ ý quy hướng mãn vị, lấy tánh Chân như làm nơi mê ngộ nương tựa, mê nên sinh tử, ngộ nên Niết-bàn. Có xả có đắc, chân tuy tánh tịnh, lúc lìa tạp nhiễm, giả nói là mới tịnh, gọi là chuyển y, tuy cũng đắc Bồ-đề, mà nay chẳng phải chỗ kính lễ. Ở quyển 9 ghi: “Hàng Nhị thừa mãn vị, gọi là thân giải thoát, tại đại Mâu-ni, gọi là Pháp thân”. Nay Duy thức tánh là mãn phần tịnh, gạt bỏ ở nhân vị, chẳng gọi là Pháp thân. Lại, Niết-bàn đây tùy giả thật đó, gồm có bốn thứ: Duy thức tánh và tự tánh thanh tịnh Niết-bàn. Mãn thanh tịnh là hai thứ Niết-bàn Hữu dư và Vô dư, cốt yếu lúc quả viên mới chứng đắc. Phần thanh tịnh tức là Vô trụ xứ Niết-bàn, thừa nhận quả vị Thập địa đã chứng đắc. Niết-bàn tuy có bốn, thể gần Chân như. Lại, văn luận sau ghi: Lại vì mở bày làm chấp ngã pháp, mê Duy thức, khiến đạt hai Không, đối với lý Duy thức, như thật biết”. Đây vì Chân như, mê ngộ nương tựa nên thiên lệch kính lễ. Lại, Niết-bàn của Nhị thừa chỉ mượn Trạch diệt, Đại Bát Niết-bàn, ba sự viên mãn.

Ba sự có hai:

1. Thể có ba, gọi là ba sự.

2. Nghĩa có ba gọi là ba sự, trí tuệ năng quán, Pháp thân sở quán, lìa các ràng buộc, gá nhờ trạch diệt v.v… gọi là giải thoát, gọi là thể có ba sự.

Tuệ bản tánh trên một Chân như nên gọi là Ma-ha-bát-nhã, quả vị của xuất triền, công đức pháp vốn gọi là Pháp thân. Tánh lìa sinh tử ràng buộc, gọi là giải thoát. Nghĩa trên một thể có ba nên gọi là nghĩa, ba sự tùy chỗ ứng đó, Nhị thừa chỉ được một giải thoát, ba Thừa đồng tòa. Nay quy kính Đại Bát Niết-bàn, gọi là Mãn phần tịnh. Tiếp đến, quy kính Bồ-đề mà chẳng phải Niết-bàn là Bồ-đề tức là pháp phẩm của bốn trí. Hai trí tại nhân có được, đó là trí Diệu quán và Bình đẳng, hai trí còn lại có được trong quả, nói chung là đã được nhân Bồ-đề. Nay hiển bày chỗ kính lễ, ý lấy ở mãn phần, tuy thông quả vị Nhị thừa. Nay lấy Đại thừa hai chướng đều hết gọi là thanh tịnh, vì Bồ-tát ý thú Bồ- đề mà không thú hướng Niết-bàn. Do đó, đoạn chướng chỉ đoạn Sở tri chướng, vẫn còn Phiền não chướng. Niết-bàn thông được, Bồ-đề riêng thành, nay hiển bày chỗ kính lễ khác với Nhị thừa và hiển bày đắc quả khác với Nhị thừa, nên chỉ kính lễ Bồ-đề mà chẳng kính lễ Niết-bàn.

Bài tụng trong Nhiếp luận ghi:

“Phiền não núp chẳng diệt

Như chú độc làm hại

Còn Hoặc đến Hoặc hết

Chứng Nhất thiết trí Phật”.

Nay luận nói Duy thức tánh, đây là Bồ-đề sự Duy thức tánh, cũng tức là Chân như, hiển thể tánh sở chứng của Bồ-đề, mà ý lấy người năng chứng Bồ-đề. Lại, Bồ-đề thông cả trí nhân quả. Hai trí trong nhân là phần thanh tịnh, hai trí trong quả là mãn thanh tịnh nên đều quy kính và sau cùng là quy kính cả Bồ-đề và Niết-bàn. Duy thức tánh là Niết- bàn, Mãn phần thanh tịnh là Bồ-đề, ý hiển bày Niết-bàn vốn tánh tịnh nên không nói Mãn phần. Đại Bồ-đề đó là pháp phẩm của bốn trí, nhân thời đã được mà chẳng tròn sáng, nay chỉ lấy quả mãn phần tịnh nên mỗi mỗi riêng khác. Phần thứ chín ở sau ghi: “Do luôn tu tập trí không phân biệt, đoạn hai chướng thô trọng của bản thức, nên khéo chuyển bỏ Biến kế sở chấp trên Y tha khởi, và khéo chuyển đắc tánh Viên thành thật trong Y tha khởi. Do chuyển phiền não đắc Đại Niết-bàn, chuyển Sở tri chướng chứng Vô thượng giác, thành lập Duy thức, ý vì hữu tình chứng đắc hai quả chuyển y như đây, nên nay quy kính”. Ở đây muốn nói, Thích luận chỉ kính lễ hai quả Bồ-đề và Niết-bàn, chẳng kính lễ gì khác, nên lời tựa trong đoạn sau ghi: “Đoạn chướng là đắc hai quả thù thắng”. Cho đến nói rộng là do đã chứng ở trước, nên luận sư này mới tạo luận. Nay Thích luận ý kính lễ phải đồng, tức lấy sở thú hướng làm pháp sở kính, nếu chẳng kính tức là chẳng thú hướng. Tuy có bảy giải thích quy hướng kính điền, nhưng nương nghĩa gốc, chỉ lấy nhân mà chẳng phải pháp trong bốn giải của sớ, bản và thích hai sư, vì Duy thức tánh trong chuyển thanh thứ bảy nói là thanh chứ không phải chỗ nương của thanh, vì tiếng thứ bảy thông cả căn cảnh. Đây là năng sai biệt, Mãn phần tịnh là làm sở sai biệt. Nói trong chuyển thứ tư, vì tất cả chỗ kính lễ đều lấy chỗ thứ tư làm thanh, nếu Duy thức tánh thì chỗ kính lễ cũng phải thuộc về chuyển thứ tư. Nhưng y cứ Tô-mạn-đa thanh thì có tám chuyển:

1. Nễ-lợi (hai chữ trên hợp thanh) Đề-thế (Hán dịch là Thể thanh, cũng gọi là Phiếm thuyết thanh);

2. Ô-ba-đề-xá-ni (Hán dịch là Nghiệp thanh, cũng gọi là sở thuyết thanh);

3. Yết-điệt-lợi (hai chữ trên hợp thanh) La-nê (Hán dịch là Năng tác cụ thanh, cũng gọi là năng thuyết thanh);

4. Tam-bát-la (hai chữ trên hợp thanh) Đà-nễ-kê (Hán dịch là Sở vi thanh, cũng gọi là sở dữ thanh);

5. Bao-ba-đà-nê (Hán dịch là Sở tùng thanh);

6. Sa-nhĩ-bà-giả-nể (Hán dịch là Sở thuộc thanh);

7. San-nể-đà-na-la-thê (hai chữ trên hợp thanh, Hán dịch là Sở y thanh);

8. A-mạn-đát-la (hai chữ trên hợp thanh) Nê (Hán dịch là Bình thanh).

Tổng cộng có tám chuyển, trong đây mỗi mỗi tiếng của một lời hai lời nhiều lời, hợp có hai mươi bốn tiếng. Lại có tiếng nam, tiếng nữ, tiếng phi nam phi nữ, lại mỗi thứ có hai mươi bốn, hợp cả tổng và biệt có chín mươi sáu tiếng. Tiếng nam tám chuyển là:

  1. Bà-bà-na.
  2. Bà-đa-na-đảm.
  3. Bà-bà-đa.
  4. Bà-bà-đê.
  5. Bà-ba-đa-bao.
  6. Bà-bà-na-đa-a.
  7. Bà-bà-để.
  8. Chuyển đầu tiên ở trên thêm chữ Hê.

Tiếng nữ tám chuyển là:

  1. Bà-bà-na-đế.
  2. Bà-bà-na-để-ma.
  3. Bà-bà-na-để-dạ (hai chữ trên hợp thanh).
  4. Bà-bà-na-đới.
  5. Bà-bà-na-để-dạ (hai chữ hợp) bao.
  6. Bà-bà-na-để-dạ (hai chữ hợp) tăng.
  7. Bà-bà-na-để-dạ (hai chữ hợp) ma.
  8. Chuyển đầu tiên ở trên thêm chữ Hê.

Tiếng phi nam phi nữ tám chuyển là:

  1. Bà-bà-đa.
  2. Bà-bà-đa.

Chuyển thứ ba ở dưới hơi gần tiếng nam, đã không có chữ riêng biệt do đó chẳng phát ra. Các chữ cước chú trên v.v… là y cứ tứ thanh mà gọi. Chú thích chữ “phản” là dùng phương pháp phiên chữ mà đọc, chú thích “hai hợp” là hai chữ đọc liền tiếng, chú thích “khinh trọng” là tùy khinh thanh hay trọng thanh mà đọc, trong đó cũng có toàn tiếng nửa tiếng, sợ dài dòng nên không trích ra đây, những chữ “Bà” đều đọc theo thượng thanh. Nhưng luận Du-già quyển 2, bảy chuyển thanh cũng gọi là bảy câu ví dụ, y cứ trong một tiếng nam, chỉ nêu bảy chuyển của một trượng phu, trừ cách gọi thứ tám. Trước là tổng mục tất cả trong tiếng nam nên đây chẳng đồng. Luận kia cũng gọi là Thất ngôn luận cú:

  1. Bổ-lô-sa (hiệp phu thể).
  2. Bổ-lô-sam.
  3. Bổ-lô-tư-noa.
  4. Bổ-lô-sa-da.
  5. Bổ-lô-sa-đa.
  6. Bổ-lô-sát-bà.
  7. Bổ-lô-sát.
  8. Thứ tám thêm tiếng gọi là Hê-bổ-lô-sa.

Nếu nói Mê-phú-để là thể riêng của tiếng nữ. Nếu nói Nạp- phùng-sách-ca là thể riêng của tiếng phi nam phi nữ. Nhưng có riêng đặt để, chỉ là bảy chuyển. Thứ tám mới là hô thanh của Phiếm nhĩ, lại không nêu riêng.

Duy thức tánh nói cảnh thứ bảy, lược có hai giải thích:

  1. Nương ba tánh.
  2. Nương hai đế.

Nương ba tánh là Duy thức luận quyển 9 ghi: “Duy thức tánh, lược có hai thứ: một là hư vọng, nghĩa là kế sở chấp; hai là chân thật nghĩa là tánh Viên thành thật. Lại có hai thứ:

  1. Thế tục nghĩa là Y tha khởi.
  2. Thắng nghĩa nghĩa là Viên thành thật, nên biết ba tánh đều gọi là Duy thức tánh”.

Ba tánh có hai thể:

1. Môn thường và vô thường; thường là Viên thành, chỉ cho Chân như, tất cả hữu vi đều y tha khởi.

2. Môn Hữu lậu Vô lậu.

Tất cả Vô lậu đều Viên thành thật, các pháp Hữu lậu đều y tha khởi. Bồ-đề Niết-bàn đều viên thành, như quyển 8 có luận về điều này.

Y cứ ba tánh đầu tiên lược có mười lớp:

1. Chỉ nói Chân như là viên thành, gọi là bản thật tánh, chứng thanh tịnh đây gọi là nội chứng tịnh;

2. Tổng nói Vô lậu là viên thành, Bồ-đề Niết-bàn đều là Duy thức tánh, gọi là Bồ-đề tánh, được ngộ tịnh, Bồ-đề, Bồ-đề đoạn đều gọi là Bồ-đề;

3. Tổng nói Hữu vi y tha, sự thức tánh, ngộ tục tịnh;

4. Chỉ nói Hữu lậu y tha. Huyễn thức tánh, đoạn trừ tịnh;

5. Chỉ nói sở chấp, vọng thủ tánh, khiển trừ đoạn tịnh;

6. Viên thành đối y tha, chân tục tánh, đoạn được tịnh;

7. Viên thành thật đối sở chấp, chân vọng tánh, khiển trừ chứng tịnh;

8. Do y tha khởi đối sở chấp, tâm cảnh tánh, khiển trừ đoạn tịnh;

9. Do viên thành đối y tha sở chấp huyễn thật tánh, thủ xả tịnh;

10. Do viên thành y tha đối sở chấp, không hữu tánh, khiển trừ ngộ tịnh.

Chỉ không do viên thành sở chấp đối y tha làm Duy thức tánh, vì cách vượt. Lại, lý không như vậy, y cứ hai Đế sau biện Duy thức tánh. Luận Du-già quyển 64 ghi: “Thế tục có bốn: một là Thế gian thế tục; hai là Đạo lý thế tục; ba là Chứng đắc thế tục; bốn là Thắng nghĩa thế tục”. Duy Thức quyển 9 ghi: “Thắng nghĩa đế có bốn: một là Thế gian thắng nghĩa; hai là Đạo lý thắng nghĩa; ba là Chứng đắc thắng nghĩa; bốn là Thắng nghĩa thắng nghĩa”. Nay, lược làm ba loại: một là tổng biệt tương đối; hai là các biệt khác tương đối; ba là các tổng khác tương đối; bốn lớp hai Đế như trong chương đó giải thích.

Thứ nhất: Tổng biệt tương đối, làm thành bốn câu:

1. Vì tục tổng đối chân biệt có một câu, vượt quá bốn tục của chân chỉ có một sau. Nghĩa là an lập, chẳng phải an lập Duy thức tánh.

2. Vì tục biệt đối chân gồm có bốn câu, chân của thắng tục cả bốn đều là:

a) Vì tục đầu tiên đối bốn chân khiển trừ ngộ tánh.

b) Vì tục thứ hai đối ba chân, đoạn tri tánh.

c) Vì tục thứ ba đối hai chân, giải tu hành.

d) Vì tục thứ tư đối một chân, giác chứng tánh;

3. Vì tục tổng đối chân, gồm chỉ cóm câu, nghĩa là chân tục Duy thức tánh;

4. Vì tục biệt đối chân, biệt có bốn câu: Mỗi mỗi lần lượt mỗi mỗi trông nhau làm bốn câu:

a) Tâm cảnh tánh. b) Sự lý tánh. c) Biệt tổng tánh. d) Chứng chỉ tánh.

Tục thứ nhất làm cảnh, chân thứ nhất làm tâm. Tục thứ hai làm sự, chân thứ hai làm lý. Tục thứ ba làm biệt, vì lý bốn Đế, chân thứ ba làm tổng, vì lý hai Không. Tục thứ tư làm thuyên, y cứ Không môn, chân thứ tư làm chỉ, phế thuyên luận. Tương đối như vậy, hợp thành mười câu.

Thứ hai, các biệt khác tương đối có hai loại: Loại một có bốn câu, nghĩa là vì tục thứ nhất đối Chân như, gọi là vọng như. Vì tục thứ hai đối gọi là sự như, vì tục thứ ba đối, gọi là lý như, vì tục thứ tư đối gọi là quán như. Loại hai có mười câu, nghĩa là vì tục thứ nhất đối bốn biệt chân làm bốn câu, vì tục thứ hai đối ba biệt chân làm ba câu, vì tục thứ ba đối hai biệt chân làm hai câu, vì tục thứ tư đối một biệt chân làm một câu. Như vậy hợp có mười bốn câu.

Thứ ba, trong các tổng khác tương đối có ba loại:

1. Vì hai tục đối chân có mười câu, vì hai tục thứ nhất biệt đối một trong chân có ba câu, chẳng đối chân thứ nhất, tức tục thứ hai, Thắng tục gọi là chân, vì nó đồng đều, tức vì hai tục đây đối hai chân có hai câu, cũng trừ chân thứ nhất, vì hai tục đây đối ba chân có một câu, như vậy hợp có sáu câu. Tiếp theo, vì tục thứ hai thứ ba đối một trong chân có hai câu, đối hai trong chân có một câu, không đối ba là vì cũng ngang bằng. Như vậy hợp có ba câu. Tiếp theo, vì tục thứ ba thứ tư đối chân chỉ một câu, các chân khác ngang bằng và thể kém nên chẳng thể làm câu.

2. Vì ba tục đối chân có bốn câu, nghĩa là vì ba tục thứ nhất đối chân một có hai câu, đối chân hai có một câu, trừ tục thứ nhất. Vì ba tục sau đối chân cũng chỉ một câu.

3. Vì bốn tục đối chân có một câu, chẳng đối ba chân trước, như vậy hợp có mười lăm câu, mỗi mỗi có tên riêng, sợ dài dòng nên tạm dừng ở đây, người trí cần tư duy.

Hai đế như vậy hợp có ba mươi chín câu Duy thức tánh, và trong ba tánh hợp có bốn mươi chín câu, không có vì tục đối chân khoảng giữa cách vượt làm câu, cũng không vì chân đối tục ngang bằng và kém pháp làm câu, bởi liền trở thành chẳng phải thắng nghĩa. Nếu thể không tức là tịnh khiển trừ, Hữu lậu tức là tịnh đoạn. Vô lậu là được ngộ tịnh, tùy theo đó mà biết đủ. Duy thức đây v.v… đều năng sai biệt, là cảnh của sở quy, sai biệt ở hai tịnh mãn phần. Nếu chỗ quy kính là Duy thức tánh, chỉ lấy tánh vốn thật thứ nhất trong ba tánh và tánh Bồ-đề thứ hai, chẳng phải lấy tất cả, ngoài ra chẳng phải đáng kính.

Hai câu tụng sau trong ý tạo luận lược có năm câu:

1. Chỉ vì pháp mà chẳng vì nhân, muốn khiến pháp nghĩa phải rộng lưu truyền, tuy luận nói phô lợi lạc hữu tình. Hữu tình lợi lạc, khiến pháp chẳng diệt, vì câu dưới thích câu trên, như nói “hữu tình nương giáo tu hành, chủng tánh Tam bảo chẳng đoạn tuyệt”. Do đây, trong luật nói: “Nay nói pháp Tỳ-ni, khiến chánh pháp trụ lâu”. Chẳng nói sự lợi sinh.

2. Chỉ vì hữu tình, chẳng vì chánh pháp, Bồ-tát tu hành vốn vì lợi sinh, tuy thích kia nói ý vì lợi lạc các hữu tình, nên hiển bày câu trên giải thích câu dưới. Trong luận Hiển Dương nói “Hiển Dương Thánh giáo từ bi”. Văn ước lược, nghĩa tròn đầy mà dễ hiểu.

3. Cả hai đều vì pháp lợi hữu tình, câu thứ ba thứ tư như lần lượt phối đó, nên trong luận Phật Địa ghi: “Vì pháp trụ lâu cứu quần sinh.”

4. Chỗ vì không trụ Niết-bàn, giải thích nói đại trí, lợi lạc đại bi, hai thứ huân tu nhanh chóng chứng đắc không trụ Niết-bàn. Sinh tử và Niết-bàn cả hai đều chẳng trụ. Nên luận Đối Pháp ghi: “Do ngộ Khế kinh và giải thích, bèn phát chánh cần và tham tống”, ý đây là được không trụ Niết-bàn, cũng có thể nói cả hai chẳng phải nhân pháp.

5. Tự lợi lợi tha, khiến pháp trụ lâu, ba nghĩa nên tạo luận, giải thích nói khiến pháp trụ lâu, lợi lạc thêm cho kẻ khác, hai đây đã thi thiết tức là tự lợi nên trong luận Nhiếp Đại Thừa ghi: “Vì lợi tự tha, pháp trụ lâu”.

Ta lược giải thích luận Nhiếp Đại Thừa, nên lập năm ý mà tạo luận. Trong luận Du-già giải thích: “Nay nói luận đây, nguyên do thế nào? Nghĩa là có hai duyên nên nói luận này: một là vì chánh pháp trụ lâu nơi đời; hai là vì lợi lạc các hữu tình. Lại có hai duyên: một là giáo đã ẩn mất, khiến khai mở lại, chưa ẩn mất thì gấp bội hưng thạnh; hai là các hữu tình có tánh tu thiện được quả tự thừa, còn không tánh tu thiện được quả trời người. Hai giải thích trên tùy lần lượt đó phối hai câu bài tụng sau. Lại có hai duyên: một là đối với nói không, kinh chẳng liễu nghĩa, như nói chấp trước ghét ganh hữu giáo xả bỏ không kiến; hai là đối với nói Hữu Kinh chẳng liễu nghĩa, như nói chấp trước ganh ghét không giáo xả bỏ hữu kiến. Thích đây chỉ vì lợi ích hữu tình trừ hai kiến. Hoặc năng học sở học phân nhân pháp nên tùy hai câu giải thích. Lại có hai duyên: Một là vì chủng tánh Bồ-tát chỉ nương Đại thừa giáo, khắp ở các thừa văn nghĩa hạnh quả, sinh trí xảo tiện, đoạn chướng tu thiện, chứng Bồ-đề Phật, cùng tận ngằn mé ở tương lai thường hai lợi vậy; Hai là vì chủng tánh các thừa khác và kẻ không tánh, cũng nương đại giáo, mỗi mỗi ợ tự thừa văn nghĩa hạnh quả sinh trí xảo tiện, đoạn phục chướng tu tự thiện, ra khỏi ba cõi, vượt ác thú. Duy thức giáo đây cũng được nói là thú tất cả thừa, đầy đủ không và hữu. Đều có thể phối hai câu và có nhân pháp. Lại có hai duyên: một là vì hàng ngoại đạo Tiểu thừa ngu si do dự sinh tiên hiểu vậy; hai là vì đối với ý kinh, tâm mê lầm phỉ báng sinh tâm tin. Đây chỉ vì hữu tình, cũng có thể ngược lại thứ lớp phối xem. Lại có hai duyên: một là vì ưa vui lược siên tu hàng, góp nhặt các kinh nghĩa pháp quảng yếu mà lược phân biệt; hai là vì ưa thích rộng siêng nói pháp, ở nơi mỗi mỗi pháp mở bày vô biên nghĩa riêng; Hai nghĩa đều thông cả pháp và nhân. Lại có hai duyên: Một là hiển bày thật tướng lập chánh luận vậy; Hai là trừ vọng chấp phá tà luận. Đây chỉ vì pháp, cũng có thể không vì nhân tức năng học. Lại có hai duyên: một là hiển bày Biến kế sở chấp tình có lý không, y tha viên thành lý có tình không, khiến bó tăng tích tổn giảm chấp; hai là hiển bày đạo lý, thế gian, chứng đắc, thắng nghĩa, pháp môn sai biệt, khiến tu hai Đế không hiểu biết điên đảo, đây chỉ vì pháp. Lại có hai duyên: một là vì khai mở Tùy chuyển lý môn chân thật, khiến biết hai tạng ba tạng chẳng trái nhau; hai là vì khai mở nhân duyên Duy thức không tướng lý môn Chân như, khiến tu quán hạnh có sai biệt. Lại có duyên: một là vì bày biện cảnh giới sai biệt, khiến biết tự tánh tướng trạng quả vị sai biệt của các pháp; hai là vì hiển bày tu hành sai biệt khiến biết ba Thừa phương tiện căn bản quả chứng sai biệt. Trong đây chỉ vì pháp mà chẳng phải nhân, cũng có thể thông cả nhân tức năng học. Tổng nói kệ tụng:

“Pháp tình, khai, hữu không

Tánh thông và trong ngoài

Lược, bày đồng, ba bốn

Hai bốn, cảnh hạnh quả”.

Sáu mươi hai thứ hữu tình, có kệ tụng:

“Năm, bốn, ba, ba, bốn

Ba, hai, và ba, bảy

Mười chín, bốn, bốn một

Nên hữu tình là nhiều”.

Năm nẻo là năm, bốn họ là bốn, nam nữ phi nam phi nữ là ba. Kém và diệu là ba. Tại gia xuất gia khổ hạnh phi khổ hạnh là bốn. Luật nghi chẳng luật nghi phi luật nghi phi chẳng luật nghi là ba. Lìa dục chưa lìa dục là hai, tà tánh định chánh tánh định chẳng định tụ định là ba. Năm chúng xuất gia cận sự nam cận sự nữ là bảy. Người tập đoạn, người tập tụng, người tịnh khí, tuổi già, trung niên, tuổi trẻ, quỹ phạm sư, thân giáo sư, đệ tử cùng ở gần, khách, người làm việc chúng tăng. Người tham cung kính lợi dưỡng, người chán bỏ, người nghe hiểu, người phước trí lớn, người pháp tùy pháp hạnh, người trì kinh người trì luật, người trì luận là mười chín. Dị sinh, kiến đế, hữu học, vô học là bốn, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai là bốn, Chuyển luân vương là một, hợp gọi là sáu mươi hai thứ hữu tình.

Luận, nay tạo luận đây v.v… là trong sớ có hai giải thích: một y nhân, hai y pháp. Đều y năng mê, nếu giải thích thứ hai y sở mê, sinh pháp ngã không, chấp hữu gọi là sai nhầm, chẳng ngộ không ngã gọi là kẻ mê. Vì trừ tình chấp khiến sinh chánh giải, chánh trừ sai nhầm đó, giải đoạn mê đó, chấp tình đoạn nên sở chấp bèn khiển trừ sinh chánh giải, nói khiển trừ sở chấp, sinh giải là đoạn hai lớp chướng v.v… rõ đoạn y tha, thanh tịnh y tha, viên thành nhiếp. Đại Bồ-đề, chân giải thoát, phàm phu, Nhị thừa, Bồ-tát, mỗi mỗi tự là đại bi, Bồ-đề v.v… các câu. Lại vì phàm phu đối Nhị thừa đối Bồ-tát, vì Nhị thừa đối Bồ-tát là câu đều được, như vậy hợp có sáu đối. Tự đối là ba, trông nhau là ba. Bồ-đề đó sánh như giải thoát, hợp làm mười hai câu. Nếu ngộ đoạn được quả giải hai lớp chướng, chướng chỉ hai chấp, vì căn bản vậy, tức chìm nghĩa sau là trùng nghĩa. Nếu khiển trừ sở chấp, đoạn y tha chứng viên thành, tức bốn giải trùng, hủy trách danh. Nếu ước về năm vị bốn đoạn khoa tức phân biệt nhanh mạnh gọi đó là trọng, vì thô mạnh vậy, chỉ kiến đạo đoạn, nghĩa đây có thể như vậy. Nếu nói căn bản gọi là trọng, là nghĩa gốc của an tuệ, trong tâm Hữu lậu đều có pháp chấp, những gì gọi là trọng? Sao gọi là khinh? Nếu phiền não chướng trong thức thứ sáu và thứ bảy gọi đó là trọng, vì phân biệt rộng vậy, kế chấp sâu. Phiền não của trong năm thức trước gọi đó là khinh, vì do kẻ khác dẫn, không chúng sinh chấp. Nếu sở tri chướng trong thức thứ sáu gọi đó là trọng, vì kế sâu giải rộng. Do cùng tuệ đồng dẫn sinh năm. Vì dẫn nghiệp nhân sinh thứ tám, hành tướng mạnh. Năm thức và thức thứ tám chướng gọi đó là khinh, vì chấp cạn giải lược, do kẻ khác dẫn sinh, hành Tịnh độ chẳng mạnh, chẳng phải hẳn tuệ chung đồng. Trong thức thứ bảy đều không pháp chấp. Do hai thứ khinh trong đây riêng biệt nên luận bèn nói do ngã pháp hai chướng sinh đủ. Nếu chẳng như vậy thì sao gọi là do và đủ? Chỉ là pháp chấp hẳn vướng kẹt nhân chấp. Chẳng phải nghĩa sư đây. Chẳng nói năm thức trước và thức thứ tám có chúng sinh chấp, chẳng nói thức thứ bảy có pháp chấp. Nếu nói hiện hành gọi là khinh, chủng tập gọi là trọng, do không chủng tập, hiện hành đều đoạn, chướng thông nhiếp cả ba, trọng chỉ chủng tập, do ngã pháp chấp, do có chủng tập, hai chướng sinh đủ. Ngoài ra hiện hành v.v… mới được sinh khởi. Nếu đoạn chủng tập thì hiện hành trọn diệt, chỉ chẳng thể nói tuệ thể gọi là chấp gọi là trọng. Ngoài ra, các tương ưng gọi là khinh gọi là chướng, chẳng nói tuệ luôn là biến hành. Nói thức thứ tám không tuệ chung cùng. Do đây nên biết trước nói là thiện.

Lại ước về nhân quả lưu chuyển hoàn diệt mà giải đó. Hoàn diệt có nhân quả vị. Nhân vị có ba chuyển y, đó là tâm, đạo và thô trọng. Hai không là tâm, pháp tánh tâm. Chánh giải là đạo, đoạn là trọng chướng gọi là thô trọng chuyển. Trong luận Đối Pháp quyển 8 ghi: “A- lại-da là thô trọng chuyển”. Đây gọi là hai chướng. Trong luận Phật Địa ghi: “Chỗ hai chướng phát, chỗ nghiệp được quả cũng gọi là hai chướng”. Tánh không kham nhậm, vì trái với vi tế, hý luận đều phải. Đây thông cục kia, nên chẳng trái nhau, nhưng do hai chấp sinh đủ hai chướng, nên mê không gọi là chấp, đoạn gồm tất cả, đến cứu cánh vị, đoạn thô trọng chướng, tâm đạo tròn đầy nên gọi là được hai quả. Nếu y cứ giải đây, chướng kia tùy đoạn. Trước giải về nhân vị, sau giải về quả vị. Trong nhân phân làm hai: Một là giải về ba chuyển y, do ngã pháp chấp, sau giải ngộ không sinh giải nguyên do đoạn chướng. Lại y cứ sáu chuyển y để thích văn đây, y cứ văn Duy thức chẳng y cứ luận nhiếp Đại thừa. Sinh chánh giải là tổn lực ích năng chuyển, tại địa tiền nên đoạn hai trọng chướng là thông đạt chuyển, kiến đạo vị nên do ngã pháp chấp cho đến chướng kia tùy đoạn là tu tập chuyển. Tại trong Thập Địa Tu Tập vị nên đoạn chướng là được hai thắng quả nên sau là quả viên mãn chuyển. Tại Phật vị nên tổng hình sau yếu kém nên gọi là Quảng đại chuyển, tức trong văn đây thông nhiếp năm chuyển. Lại làm năm nhẫn, sinh chánh giải vị là phục nhẫn. Trước kiến đạo nên đoạn trọng chướng vị là tín nhẫn, vì tương đồng thế gian. Hai chướng sinh tử đủ là thuận nhẫn, vì thuận xuất thế. Đoạn trong địa thứ tư ở ngã chấp, đoạn trong sinh đủ có gần xa. Năm địa đoạn hại bạn gọi là gần, sáu địa đoạn suy kém một phần, gọi là xa. Đoạn chướng là được hai thắng quả, sau là vô sinh nhẫn, đoạn suy kém một phần và vi tế tùy miên phải ở Phật địa được hai quả. Do đoạn tục sinh ra là tịch diệt nhẫn. Do địa thứ mười đoạn hai chướng, đến Phật địa riêng được hai quả, khi ấy chỉ lấy Phật Địa gọi là tịch diệt nhẫn, chẳng phải lấy mười địa riêng đoạn hai chướng tại địa thứ mười. Lại có bảy địa. Có mê nhầm là chủng tánh địa, lúc chưa vào pháp có mê nhầm. Sinh chánh giải là thắng giải hạnh địa, văn tư tu vị gọi là chánh giải. Đoạn trọng chướng, nghĩa là tăng thượng ý lạc địa do sau ngã pháp chấp cho đến chướng kia tùy đoạn là hành Chánh hạnh địa, Quyết định địa, Quyết định hạnh địa, đoạn chướng là được hai thắng quả là đến Cứu cánh địa. Mười Địa đoạn chướng, Phật địa đắc quả. Lại y cứ Phật pháp không gì vượt quá tu đoạn. Tạp nhiễm là đoạn đó, thanh tịnh là tu đó, trước đoạn sau đắc, như văn nói có thể biết. Bên trong của phàm thánh đều có tu đoạn. Trước sinh chánh giải là phàm phu vị, phục đoạn tu hành, sau đoạn trọng chướng là Thánh nhân đoạn đắc. Trong chân đoạn đắc phân kiến tu riêng biệt. Trong tu do ngà pháp chấp v.v… có ba cật nật: một vặn hỏi, Luận sư An Tuệ nói trong phiền não chướng có chẳng phải chấp là hàng Nhị thừa đoạn chín phẩm tu hoặc đoạn tám phẩm trước còn lại ngã kiến chưa đoạn. Thế nào là đã đoạn các chướng khác! Rõ biết các chướng khác chẳng từ ngã chấp v.v… sinh; 2. vặn hỏi, Luận sư An Tuệ trừ thức thứ bảy nói có hai Thủ đều là sở chấp, chứng vị hai không. Nếu do chấp diệt, chướng tùy đoạn là tất cả đều chấp, năm địa làm sao mới trừ hại bạn, nên khinh chấp tùy sinh ngã chấp, bốn địa đoạn đó; ba, nếu tất cả chướng đều từ chấp sinh, tại sao địa thứ sáu thứ bảy v.v… chướng của sở đoạn chẳng gọi là hại bạn, gọi là suy kém v.v… đều là chấp khởi đó? Đáp: Có ba giải thích: một là y cứ tận xứ cứu cánh đây làm luận, chẳng nói khoảng giữa; hai là chỉ nói chướng do chấp sinh, chấp đoạn chướng diệt, chẳng nói cuối chướng diệt đều tùy bản chấp đoạn với chín phẩm của Nhị thừa, nghĩa đó có thể biết; ba là tuy tâm Hữu lậu đều có pháp chấp, Bồ- tát chấp sinh có ba lúc đoạn, chưa chấp tùy gốc. Thức thứ sáu chấp có ba vị đoạn: một là đồng thời, hai là thân gần dẫn sinh, ba là thế lực xa vời. Cùng khởi là bốn địa chấp cùng đoạn, thân gần dẫn sinh gọi là hại bạn, thế lực xa vời sinh gọi là suy kém v.v… Nên chướng và chấp đoạn có trước sau, được trong quả đoạn. Đoạn chướng là được hai thắng quả, hiển bày nhân năng mãn quả, do đoạn tục sinh ra là hiển bày quả mãn, nên văn trong văn quả phân làm hai. Nay tổng kết loại trên giải văn, đoạn thứ hai có hai: một là nhân quả ba chuyển y, hai là phàm thánh đoạn đắc. Đoạn thứ ba có hai: một là ngộ đoạn đắc, hai là khiển đoạn đắc. Đoạn thứ tư có hai: một là thắng giải hạnh v.v… bốn vị, hai là trong sáu chuyển y chỉ thành bốn vị, bốn vị nhiếp sáu. Đoạn thứ năm cũng có hai: một là năm Nhẫn, hai là bảy Địa vì phân thành năm, như vậy hợp thành nghĩa của tám đoạn.

Lại vì mở bày lầm chấp trong ngã pháp v.v… vì ngoại đạo mở bày

làm nội đạo, vì Tiểu thừa mở bày làm Đại thừa, vì biên chủ mở bày làm trung chủ, vì sơ căn mở bày làm thục căn. Trên đây là y nhân. Lại mở Duy thức bày ngã pháp, trên đây tổng giải thích hai chữ mở bày, dưới đây có mười giải thích:

1. Trừ tà hiển chánh, ngoại đạo tà lầm chấp ngã pháp, mê Chánh lý Duy thức, khiến đạt hai không nên trừ tà hiển chánh;

2. Đoạn sai nhầm để rõ chân. Tiểu thừa lầm chấp ngã pháp, mê ở chân Duy thức, khiến đạt hai không, nên đoạn sai nhầm để rõ chân;

3. Dứt hư vọng giữ chân thật, lầm chấp ngã pháp, chẳng rõ hư vọng Duy thức, mê Duy thức là chẳng rõ chân thật Duy thức, khiến đạt hai không dứt vọng giữ chân;

4. Rõ thế tục, biết thắng nghĩa, lầm chấp ngã pháp chẳng rõ thế tục Duy thức, nương y tha khởi mà khởi hai chấp, mê Duy thức là chẳng rõ thắng nghĩa Duy thức, khiến đạt hai không nên rõ tục biết thắng. Tiếp theo hai giải trên, quyển thứ chín nói hai lớp Duy thức. Bốn giải trên đều là lấy Chân như. Tại Đại Mâu-ni gọi là Pháp thân vậy;

5. Thấy cảnh quán tâm, lầm chấp ngã pháp chẳng rõ cảnh Duy thức, mê Duy thức là chẳng rõ tâm Duy thức, khiến đạt hai không nên thấy cảnh quán tâm;

6. Trừ không nói hữu, lầm chấp ngã pháp tăng thêm không pháp, mê Duy thức là tổn giảm hữu pháp, khiến đạt hai không, nên trừ không nói hữu;

7. Diệt ngu khởi trí, lầm chấp ngã pháp ngu si tăng thêm, mê Duy thức là thiều chánh trí, khiến đạt hai không nên diệt ngu khởi trí, lưu lại hoặc nhuận sinh được chủng trí vậy;

8. Bỏ kém được thắng, lầm chấp ngã pháp, sinh tử pháp kém khởi, mê Duy thức nên Phật quả hai vị không, khiến đạt hai không nên bỏ pháp kém sinh tử, được Phật vị Bồ-đề Niết-bàn ưu thắng. Đoạn phiền não chướng được Đại Niết-bàn, đoạn sở tri chướng được vô lượng giác, ý thành lập Duy thức là nghĩa quả chuyển y đây;

9. Khiến đoạn chứng, lầm chấp ngã pháp có sở chấp chuyển, mê Duy thức nên chẳng ngộ y tha, khiến đạt hai không chứng viên thành thật;

10. Thô đạo tâm, lầm chấp ngã pháp thô trọng khởi, mê Duy thức nên Thánh đạo không, khiến đạt hai không chứng chân tâm, đối với lý Duy thức như thật biết. Các thích trên đây, tùy chỗ xứng đáng lý phối hợp giải thích.

Thư ba là phá tà chấp bên trong của tạo luận, lại giải mỗi mỗi có các Luận sư Đại thừa Tiểu thừa chấp:

Thứ nhất, Luận sư Thanh Biện y cứ Thế tục đế ngoài tâm có cảnh, cả hai đều chẳng phải không.

Thứ hai, Nhất thiết bộ trong Tiểu thừa, chấp tất cả pháp chỉ có giả danh, đều không tâm cảnh. Ngoại đạo không kiến cũng lại như vậy.

Thứ ba, Tiểu thừa chấp tâm ý thức nghĩa một văn khác. Luận Nhiếp Đại thừa nói tâm ý thức thể một là phải.

Thứ tư, Đại thừa thời thượng cổ, cũng có y cứ luận trang nghiêm chấp các tâm sở lìa tâm không thể, như ở sau, biện giải trong phần tâm sở hỏi đáp.

Nên bốn thứ trên mỗi mỗi thông Đại Tiểu hai chấp. Do đây, gồm nên có chín câu để phân biệt:

1. Thứ nhất thứ hai Tiểu thừa Đại thừa chấp cảnh chấp tâm phi không phi hữu, thứ ba thứ tư Đại thừa Tiểu thừa chấp tâm chấp sở chẳng phải nhiều chẳng phải khác.

2. Thứ nhất thứ hai Đại thừa Tiểu thừa, thứ ba thứ tư Tiểu thừa Đại thừa.

3. Thứ nhất thứ hai Đại thừa Tiểu thừa, thứ ba thứ tư Đại thừa Tiểu thừa.

4. Thứ nhất thứ hai Tiểu thừa Đại thừa, thứ ba thứ tư Tiểu thừa Đại thừa.

5. Thứ nhất thứ hai Đại thừa Đại thừa, thứ ba thứ tư Tiểu thừa Tiểu thừa.

6. Thứ nhất thứ hai Tiểu thừa Tiểu thừa, thứ ba thứ tư Đại thừa Đại thừa.

7. Cả bốn đều Đại thừa.

8. Cả bốn đều Tiểu thừa.

9. Mỗi mỗi trong bốn đều có Tiểu thừa Đại thừa, mỗi mỗi như thứ lớp, nên nói chấp cảnh chấp tâm phi không phi hữu, chấp tâm chấp sở chẳng phải nhiều chẳng phải khác.

Văn bản tụng của Thành Duy Thức y cứ luận Du-già quyển 38 ghi: “Nghĩa là các Bồ-tát lúc cầu chánh pháp phải cầu ở đâu? Phải ở nơi tất cả ngũ minh mà cầu:

  1. Nội minh xứ.
  2. Nhân minh xứ.
  3. Thanh minh xứ.
  4. Y phương minh xứ.
  5. Công nghiệp minh xứ.

Chư Phật nói năng gọi là Nội minh xứ. Như vậy cho đến tất cả thế gian công xảo nghiệp xứ gọi là Công nghiệp minh xứ. Đây mỗi mỗi có bao nhiêu tướng chuyển? Nghĩa là Nội Minh luận lược nêu hai tướng chuyển: một, hiển bày tướng chánh nhân quả; hai, hiển bày tướng đã làm chẳng mất, chưa làm chẳng được. Nhân Minh luận cũng hai tướng: một, hiển bày tướng xô dẹp luận khác thắng lợi; hai, hiển bày tướng thoát khỏi luận khác thắng lợi. Thanh Minh luận cũng hai tướng: một, hiển bày an lập giới là tướng năng thành lập; hai, hiển bày tướng nói khéo thắng lợi. Y Phương Minh luận có bốn thứ tướng: một, hiển bày bệnh thể; hai, hiển bày bệnh nhân; ba, hiển bày đoạn đã sinh bệnh; bốn, hiển bày đoạn đã chẳng sinh. Công Nghiệp Minh luận hiển bày mỗi mỗi công xảo nghiệp xứ riêng biệt, chỗ làm đã xong các thứ tướng khác. Bồ-tát trước đã học Nội minh xứ. Trong Nội minh xứ lấy chánh nhân quả mà làm tướng đó, nên đáng phân làm hai: một, chưa phát thú; hai, đã phát thú vị. Nêu luận Tam Thập Tụng, hai mươi lăm bài tụng đầu nói về tướng chánh nhân quả chưa phát thú vị, năm bài tụng sau nói về tướng chánh nhân quả đã phát thú vị. Trước, trong tướng chánh nhân quả chưa phát thú, lại phần làm hai; mười bảy bài tụng nói về tướng chánh nhân, do thức biến nên các pháp được sinh, lấy thức làm nhân. Tiếp đó, tám bài tụng nói về tướng chánh quả, do chủng thức nên sinh các phân biệt, quả của pháp thể và Dị thục v.v… quả của phân vị, trong đó nói về ba tánh v.v… văn của sáu bài tụng, nhân đó giải thích để ngăn vấn vặn hỏi, thuộc quả tướng nhiếp. Nếu các quả sinh Duy thức làm nhân, chỉ có thức là tại sao đức Thế Tôn nói có ba tánh v.v…? Nên thuộc ở quả, năm bài tụng sau đó đã phát thú vị, trong chánh nhân quả, văn lại phân làm hai: bốn bài tụng đầu hiển bày tướng chánh nhân, một bài tụng sau hiển bày tướng chánh quả. Trong hai vị đây, nghĩa gồm đủ nói về tướng đã làm chẳng mất, tướng chưa làm chẳng được. Nghĩa chưa thú đã thú đều đủ vậy, lý chuẩn cứ có thể biết. Có các ngoại đạo phần nhiều chấp là thường, nên nói rõ nhân tướng phá thường chấp đó. Có các Luận sư Tiểu thừa và Thất Đoạn luận v.v… phần nhiều chấp là đoạn, nói quả tướng phá đoạn chấp kia, nay vì phá đây nói rõ chẳng phải đoạn thường, nên mười bảy bài tụng nói về nhân được phân làm ba: Nửa bài tụng đầu nêu cảnh thức biến, ngã pháp không thật; mười bốn bài tụng rưỡi giải thích thể năng biến sở biến chẳng phải là ngã pháp; một bài tụng giải thích nghĩa biến. Hoặc hai mươi chín bài tụng đầu nói về tướng chánh nhân, hiển bày chẳng phải thường; một bài tụng sau nói về tướng chánh quả, hiển bày chẳng phải đoạn. Dùng nhân quả chánh pháp của Phật làm tông để phá thường đoạn kia. Nay nên nói tổng làm hai đoạn, nhân tướng có hai: hai mươi bài tụng đầu chánh chủ nói về thể nhân, vì chưa thú nhập; tiếp đó bốn bài tụng chánh chủ nói về nhân vị, đã phát thú. Bên trong của nhân thể, hai mươi bốn bài tụng trước nói về nhân thế tục, tiếp dó có một bài tụng nói về nhân thắng nghĩa. Tánh tướng cũng vậy. Hoặc nửa bài tụng đầu lược nói về nhân, hai mươi ba bài tụng rưỡi rộng nói về nhân, nêu và giải thích cũng vậy. Hoặc phân làm ba, đó là tánh tướng vị. Hai mươi bốn tụng trước nói về Duy thức tướng, tiếp đó một bài tụng nói về Duy thức tánh. Sau đó, năm bài tụng nói về Duy thức vị. Trong phần đầu có hai: một là nêu, hai là giải thích nghĩa, là nửa bài tụng đều lược thích vặn hỏi để nêu tông, hai mươi hai bài tụng rưỡi sau tùy chỗ nêu mà rộng giải thích. Trong rộng có ba: một, rộng nói về thể ba năng biến; 2. rộng nói về y thức sở biến; ba, rộng nói về những lời do giả mà nói. Hoặc gồm làm ba nghĩa là đầu, giữa, sau. Nửa bài tụng đầu gọi là đầu, tiếp đến hai mươi ba bài tụng rưỡi gọi là giữa, năm bài tụng sau gọi là sau. Đầu, giữa và sau, tất cả đều thiện. Nói rộng phần giữa phân làm ba: mười bốn bài tụng rưỡi đầu, rộng nói về thể ba năng biến, tiếp theo một bài tụng nói rộng về y thức biến, tám bài tụng sau rộng nói về giả nói v.v… Lại tổng phân làm ba: Nghĩa là cảnh, hạnh và quả. Hai mươi lăm bài tụng đầu nói về Duy thức cảnh, tiếp có bốn bài tụng nói về y cảnh khởi Duy thức hạnh, một bài tụng sau nói về y hạnh được Duy thức quả. Bên trong của biện cảnh nói về Chân tục đế. Hai mươi bốn bài tụng nói về Tục đế, tiếp đó một bài tụng nói về Chân đế. Trong nói về Tục đế phân làm hai: Trước nêu sau thích, như giải thích trong ba phần tướng tánh vị, tiếp theo ba phần trên như giải thích trong sớ. Lại, tổng phân ba nghĩa là lược, quảng và trung. Nửa bài tụng đầu gọi là lược, tiếp đến hai mươi ba bài tụng rưỡi gọi là quảng, năm bài tụng sau gọi là trung. Vì lợi căn mê ngã pháp, lợi căn mê ở thức, lợi căn mê hạnh vị. Hoặc mê sở chấp y tha viên thành như thứ lớp phối hợp. Hoặc phần đầu phá Hữu chấp, hai phần sau phá Không chấp, nên phân làm ba, chẳng thể tăng giảm. Hoặc tổng phân làm bốn: Nửa bài tụng đầu, tổng nêu phần cương yếu; mười bốn bài tụng rưỡi tiếp theo rộng bày phần năng biến. Tiếp theo, có chín bài tụng tổng kết giải thích phần vặn hỏi bên ngoài. Sau đó, năm bài tụng là phần y tu được ích. Trước chưa có nói nên tổng nêu tông, chẳng biết thức tánh thế nào, nên tiếp theo trình bày về năng biến, tuy thành lập vặn hỏi bên ngoài phải trừ nên đúc kết giải thích vặn hỏi. Đã như vậy rồi, nghe và tư duy lợi gì? Nên tiếp nói về tu được ích. Do đây thành bốn, chẳng tăng chẳng giảm. Hoặc tổng phân làm năm: một, lược nêu tông; hai, trình bày thức tánh; ba, nói rõ nghĩa biến; bốn, giải thích vặn hỏi bên ngoài; năm, tu thành quả. Tông, nghĩa là chủ nên nêu bày trước tiên. Tuy có thức ngôn nhưng chưa biết thức tánh, nên tiếp ở trước tùy tông bày biện giải. Tuy biết thể đó, nhưng chưa rõ nghĩa biến, nên tiếp theo thức thể mà nói nghĩa biến. Tuy nói nghĩa môn, nhưng ngăn ngừa vấn vặn hỏi chưa trừ, nên tùy nghĩa biến, tiếp giải thích vặn hỏi bên ngoài, đạt nghĩa tròn đầy, tùy giải thích vấn vặn hỏi rồi nên phải vào vị, nên phần làm năm. Trong đó, phần thứ ba nói về nghĩa biến, ở phần trước phân trong bốn khoa. Thứ ba, lìa khỏi phần đúc kết giải thích vặn hỏi bên ngoài, nghĩa ý có thể biết.

Luận: “Nếu chỉ có thức, tại sao thế gian và các Thánh giáo nói có ngã pháp?” Căn cứ luận Du-già giải thích là: Tổng hỏi về chỗ nói rõ tông yếu của luận đây. Hỏi là trước nghe ở các kinh nói tất cả duy tâm, nghĩa đó chưa rõ, nên đặt câu hỏi đây. Hoặc làm luận là trước tổng thọ thỉnh. Tông yếu của luận đều tại trong tâm, muốn vì người học mà phân biệt giải nói. Từ giả đặt vặn hỏi là để phát khởi nguyên nhân nói nên làm lời hỏi đây. Nếu không như vậy là trước không lược nói, thì không chấp nhận bỗng nhiên hỏi. Lại, phát khởi vặn hỏi lược có năm thứ: một, chẳng hiểu nên hỏi; hai, nghi hoặc nên hỏi; ba, thể nghiệm nên hỏi; bốn, khinh xúc nên hỏi; năm, vì muốn lợi lạc hữu tình nên hỏi. Nay là thứ năm chuyên vì lợi lạc các hữu tình, nên làm luận này. Đã đạt nên chẳng phải một hai. Tự hỏi nên chẳng phải thứ hai, nên y cứ thứ năm để phát khởi đầu mối vặn hỏi.

“Do giả nói ngã pháp, có các thứ tướng chuyển”. Luận sư An Tuệ giải thích: “Thân Phật, các pháp chẳng thể nói là ngã hay là pháp, vì chứng đắc không thể nói, chấp tập đều hết. Thi thiết ngã pháp chỉ tại nơi khác, trừ Phật ra, các hàng Dị sinh đối với kế sở chấp rốt cuộc không có nên ở trên đó riêng chấp làm ngã pháp. Đức Thế Tôn vì trừ vọng thật chấp, ở nghĩa tổng Vô thượng mà thi thiết, làm ngã pháp trong Thánh giáo, như luận dẫn nêu hai bài tụng trong kinh Hậu Nghiêm. Hộ Pháp cho rằng: “Thế gian nương tình khởi vọng chấp không, Thánh giáo y cứ đạo lý nhân duyên giả thi thiết làm ngã pháp”. Luận sư Nan-đà nói: “Nương trên Tướng phần khởi sở chấp ngã pháp, tùy kế chấp vọng tình nói là ngã pháp thế gian, tức nương trên y tha sở biến mà thi thiết làm ngã pháp Thánh giáo. Tại sao? Bài tụng đầu tiên đáp vặn hỏi nên nêu tông của luận. Luận Bát-nhã Đăng mới đầu giải thích tám Bất. Luận sư Thanh Biện có hai giải thích thuận thế tục giải. Nay lấy bài tụng đây nhiếp chỗ có nghĩa trong một bộ hết cả, do đó nêu phần đáp. Mười bốn bài tụng rưỡi sau nói rộng chỗ nêu ba thứ năng biến đây ở ba câu tụng sau, tiếp đến là một bài tụng các thức chuyển biến v.v… nói rộng câu tụng thứ ba “nó nương thức sở kiến”. Sau đó có tám bài tụng nói rộng hai câu bài tụng trên đây là do giả nói ngã pháp v.v… Hai câu tụng trước đáp vặn hỏi văn bên ngoài trái lý. Sáu bài tụng sau đáp vặn hỏi trái kinh, lời nói tuy tợ riêng biệt, ý đều nương chỗ tâm biến hiện mà nói. Sau đó năm bài tụng gồm nói rộng tu, nửa bài tụng đây nói về chỗ trải qua hạnh vị, nên trước đáp vặn hỏi tức nêu tông luận, tổng nhiếp đại ý của một bộ. Nửa bài tụng đầu phân làm ba: hai câu đầu tùy trước hỏi mà đáp, tiếp một câu tùy riêng nêu giải thích, ba câu sau tùy bày tự liệt, đây dùng nghĩa khoa, chẳng phải nương vào giải thích đoạn.

Ngã, nghĩa là chủ tể. Pháp là quỹ trì. Chủ là câu sinh ngã, không phân biệt. Tể là phân biệt ngã, có cắt đoạn. Chỉ là ngã thứ bảy. Tể là ngã thứ sáu, chủ là thế gian ngã, hay tạo tác hay thọ dụng. Tể là Thánh giáo ngã, vì nương dụng mà biện, đều thông làm năm giải thích: Thánh giáo pháp gọi là quỹ, vì nương dụng mà biện. Thế gian pháp gọi là trì, vì chấp thật tự thể năng tự trì, đều thông làm năm. Trong đây đều nương nghĩa tăng thượng mà nói. Bốn giải thích cùng nương thế gian Thánh giáo, giải thích thứ năm phối hợp riêng.

Hữu tình mạng giả v.v… Kim Cang Bát-nhã nói có bốn, tuy các tên gọi khác nhau, nay Pháp sư Bồ-đề-lưu-chi phiên dịch là: Ngã, chúng sinh, mạng giả, thọ giả. Trong luận của Bồ-tát Thiên Thân giải thích: “Thấy năm uẩn sai biệt, mỗi mỗi ấm là ngã, vọng thủ như vậy gọi là ngã tướng”, ý đây tổng chấp ba đời năm uẩn sai biệt làm ngã. Thấy thân tương tục chẳng đoạn, gọi là chúng sinh. Đây tính năm uẩn từ khoảng trước lại tương tục chẳng đoạn nên gọi là chúng sinh. Một báo mạng căn chẳng đoạn trụ, nên gọi là mạng giả. Đây tính hiện tại hiện có mạng. Mạng căn đoạn rồi lại sinh trong sáu đường, đó gọi là thọ giả. Đây thấy đời tương lai thọ lại khởi. Lý căn cứ đây gọi là dưỡng dục giả. Dưỡng là vị lai. Các nhà phiên dịch nhầm mất, gọi thọ giả là không đúng vì sinh giả là mạng giả. Ở trong các giáo nên riêng nói có thọ giả. Do đây kinh kia chỉ nói bốn thứ để duyên ba đời tổng biệt mà tính. Luận Du-già quyển 83 chỉ giải tám tên:

1. Ngã, ngã ngã sở thấy hiện tiền hành. Nêu có năng duyên để hiển bày sở duyên, ngã thể là có.

2. Hữu tình nghĩa là các Hiền thánh như thật rõ biết, chỉ có tánh đây, ngoài ra không pháp nào khác. Lại đối với kia có mến ái đắm trước. Tình là tánh vậy, mới đầu tổng nói nghĩa của hữu tình kia không thể có thể nêu bày, tức năm căn v.v… đều gọi là hữu tình. Đây tức là ngã, chỉ có tánh đây, ngoài ra không pháp nào khác, sau giải lấy ái làm tình, năng sinh ngã ái, nói là hữu tình, vì pháp tánh kia sinh ái trước. Nếu không có hữu tình, chỗ ái tình là ai?

3. Ý sinh là ý chủng loại, có năng tư lương thắng tác dụng. Hiển bày là ý loại nên gọi là ý sinh.

4. Ma-nạp-phược-ca y chỉ nơi ý mà có cao thấp. Nếu tổng thích nghĩa thì đây gọi là Nhu đồng. Nhu nghĩa là tốt đẹp, đồng nghĩa là tuổi trẻ, tuổi trẻ tốt đẹp gọi là Nhu đồng. Luận y cứ biệt thích, Ma-nạp nghĩa là cao, vì cao mạn kẻ khác. Phược-ca nghĩa là thấp, vì ty hạ kẻ khác. Do y chỉ ý, hoặc lăng mạn kẻ khác, hoặc ty hạ kẻ khác nên gọi là Ma- nạp-phược-ca.

5. Dưỡng dục giả, tăng nghiệp hậu hữu, vì làm dụng Sĩ phu. Mới đầu dưỡng vị lai, sau trưởng dưỡng hiện tại.

6. Bổ-đặc-ca-la do năng luôn luôn thủ các thủ, các Hiền thánh v.v… cũng gọi như thế, là từ thân cũ chưa đắc đạo mà nói.

7. Mạng giả là cùng thọ mạng hòa hợp hiện tại nên gọi là mạng giả. Thọ mạng là biệt, giả là tổng vậy, tổng giả cùng biệt mạng hòa hợp, hiện tại nên gọi là mạng giả.

8. Sinh giả nghĩa là xuất hiện đủ v.v…

Luận Du-già quyển 10 ghi: “Sinh là gì? Nghĩa là thai sinh và noãn sinh, lúc mới đầu gá sinh, các sinh thế nào? Nghĩa là tức ở thân phần kia viên mãn. Nhưng lúc chưa sinh, thú thế nào? Nghĩa là từ đó sinh ra. Khởi thế nào? Nghĩa là ra rồi tăng trưởng. Xuất hiện thế nào? Nghĩa là thấp sinh và hóa sinh thân phần liền khởi. Uẩn được thế nào? Nghĩa là các sinh vị, năm thủ uẩn chuyển. Giới được thế nào? Nghĩa là chỗ các uẩn nhân duyên nhiếp tánh. Xứ được thế nào? Nghĩa là tức các uẩn chỗ duyên khác nhiếp tánh. Các uẩn sinh khởi thế nào? Nghĩa là chỗ nuôi lớn của các uẩn thường ngày ăn uống. Mạng căn xuất hiện thế nào? Tức thọ lực khác các uẩn nên được tương tục trụ. Lược nghĩa trong đây, nghĩa là sinh tự tánh, hoặc sinh xứ vị, hoặc sở sinh hoặc chỗ nhân duyên nhiếp, hoặc chỗ Tru trì dẫn, hoặc câu sinh y trì. Sinh thứ nhất trong mười trước và thứ năm xuất hiện là sinh tự tánh. Thứ hai, ba, tư là sinh xứ vị. Thứ sáu, uẩn được là sở sinh. Thứ bảy, giới được, thứ tám xứ được, là thuộc về nhân duyên sinh. Thứ chín, các uẩn sinh khởi, là chỗ nhận trì dẫn. Thứ mười, mạng căn xuất hiện là câu sinh y trì. Nghĩa là sinh thì có đủ mười nghĩa đây. Vì tổng tác dụng nên chỉ nói tám. Hợp dụng Sĩ phu vào dưỡng dục giả phần nhiều tính. Nếu khai mở làm hai, tăng thêm nghiệp hậu hữu, gọi là dưỡng dục giả. Dục thân hiện tại, làm dụng Sĩ phu, gọi là Sĩ phu, đứng về đời mà khai mở. Trong kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã y cứ Phạm bản của Đỗ Hành Khải, năm Trinh Quán thứ 23 (650) thời Tiền Đường, tại cung Ngọc Hoa, ban đêm phiên dịch sáng sớm tiến dâng. Bản đã riêng biệt, so tên cũng khác. Trước tám sau chín, y cứ các bản Đại Bát-nhã v.v… và Năng Đoạn Kim Cương trong Tự bản của Đại sư Huyền Trang phân Phạm bản cũng có bốn. Do đó, phần Thích của Bồ-tát Thiên Thân v.v… chỉ có bốn chẳng phải nhiều. Trước tám của năng đoạn kia là: Hữu tình, mạng giả, sĩ phu, sổ thủ thú, ý sinh, Ma-nạp-bà, tác giả, thọ giả. Văn sau nói chín là ở tám đây thêm ngã, văn trước nhân nói độ tất cả hữu tình. Hữu tình là đầu tiên, lược không có ngã đó. Sĩ phu trong đây tức là dục dưỡng giả, vì thân hiện tại làm dụng Sĩ phu. Luận Du-già nói sinh giả tức tác giả, thuộc tám thứ được nói trong đây. Sáu thứ trước là tướng biệt hành, hai thứ sau thông tướng hành, nên trước nói tám, sau gồm nói ngã. Sáu tướng biệt hành, hai thông với tướng hành do đó có chín. Đại Bát-nhã một xứ nói mười ba, trong tám loại của luận Du-già, thêm sĩ phu, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả, khai mở dưỡng dục trong tám thứ của Du-già phân làm hai đời, nên nói Sĩ phu. Y cứ đây, chín thứ trước là tác dụng biệt, bốn thứ sau tác dụng thông, y cứ tác dụng biệt, hành tướng đơn mà nói. Hoặc nói mười lăm, thêm sứ tác giả và sứ thọ giả, y cứ hành tướng đơn, trùng, thông, biệt nói đủ. Mười ba trước là đơn nói, hai thứ sau là trùng. Chín thứ trước biệt, sáu thứ sau chung cho cả hành tướng, Đại Bát-nhã quyển 7 nói có mười bảy, trong mười lăm trước thêm khởi giả, sử giả. Hoặc nói trong mười bảy trước, thêm sử tri giả, sử kiến giả. Hai bản văn sau cũng y cứ hành tướng đơn trùng chung riêng, tất cả nói đủ. Do đây, các giáo nói số chẳng đồng.

Dự lưu đẳng là ngang bằng với hai mươi bảy Hiền thánh, mười ba trụ đẳng Bồ-tát. Hai mươi bảy Hiền thánh gồm:

  1. Tín giải
  2. Kiến chí
  3. Thân chứng
  4. Tuệ giải thoát
  5. Câu giải thoát
  6. Dự lưu hướng
  7. Dự lưu quả
  8. Nhất lai hướng
  9. Nhất lai quả
  10. Bất hoàn hướng
  11. Bất hoàn quả
  12. A-la-hán hướng,
  13. A-la-hán quả
  14. Cực thất phản hữu
  15. Gia gia
  16. Nhất gian
  17. Trung bát Niết-bàn
  18. Sinh bát Niết-bàn
  19. Vô hành bát Niết-bàn
  20. Hữu hành bát Niết-bàn
  21. Thượng lưu bát Niết-bàn
  22. Thoái pháp A-la-hán
  23. Tư pháp A-la-hán
  24. Hộ pháp A-la-hán
  25. Trụpháp A-la-hán
  26. Phạm đạt pháp A-la-hán
  27. Trụ bất động pháp A-la-hán.

Mười ba Trụ thánh như Sớ quyển 9 giải thích.

 

THÀNH DUY THỨC LUẬN CHƯỞNG TRUNG XU YẾU

QUYỂN THƯỢNG

PHẦN 2

Kệ tụng về phế lập và lìa hợp của ba thứ uẩn xứ giới ghi:

“Tùy tăng nói ngã sự

Là y sở hành đây

Sinh trì phân hẹp rộng

Không riêng căn sở duyên”.

“Tùy tăng nói ngã sự” nghĩa là lập năm uẩn phế lập lìa hợp. Luận Đối Pháp ghi: “Do đâu uẩn chỉ có năm? Vì hiển bày năm thứ ngã sự đó là: Thân ngã sự, thọ dụng ngã sự, nói năng ngã sự, tạo tác tất cả pháp phi pháp ngã sự, chỗ kia y chỉ ngã tự thể sự. Thứ lớp như thế phối hợp giải thích năm uẩn, nên chẳng giảm tăng, có lìa có hợp. “Là y sở hành đây, sinh trì phân hẹp rộng”, nghĩa là lập xứ giới, lìa hợp phế lập. Nghĩa xuất sinh là nghĩa xứ nên lược bỏ thức, y và sở hành đây là mười hai xứ, là nơi xuất sinh ra sáu thức đó, nên chẳng lìa là xứ. Nghĩa trì tự tánh, nghĩa năng nhậm trì, là nghĩa giới, nên nói rộng về sở y của thức và nói rộng thức này, đồng thời nói rộng về sở hành, thành mười tám giới là sáu căn sáu cảnh năng trì sáu thức. Tự thể của sáu thức năng trì dụng của thức. Thể năng tự trì, lìa thức lập giới. Thể chẳng tự sinh, chẳng lìa sáu thức để lập làm xứ, nên uẩn giới xứ chẳng giảm chẳng tăng, có lìa có hợp. “Không riêng căn sở duyên” là giải thích Thức thứ bảy, thứ tám chẳng nói riêng là xứ giới. Do vì lìa ngoài căn cảnh sáu thức, lại không có căn cảnh riêng có thể lập giới xứ cho nên chẳng lập. Luận Trung Biên quyển 2 giải thích nghĩa uẩn xứ giới bằng bài tụng:

“Phi nhất và tổng lược

Nghĩa phần đoạn là uẩn

Năng sở thủ thủ kia

Nghĩa chủng tử là giới

Năng thọ cảnh sở liễu

Nghĩa dụng môn là xứ”.

Nói rộng như luận này nói, mười loại ba khoa như Đối Pháp sao.

Trong đây tổng nêu ba môn phân biệt:

  1. Giải thích danh nghĩa
  2. Phế lập
  3. Mười loại sai biệt.

Các tướng như vậy, bên trong hỏi khởi, thuật nói ba Luận sư An Tuệ v.v… riêng hỏi. Tướng kia đều y chỗ thức chuyển biến mà giả thi thiết. Thế gian đối với đây khởi chấp, Thánh giáo y cứ nghĩa đây nói. Sở chấp, y tha tùy nên riêng nói. Đây là Luận sư Hộ Pháp và Nan-đà giải thích. Luận sư An Tuệ giải thích: Hai thứ tức y Biến kế sở chấp. Lại cùng chẳng đồng giải thích, tướng kia chỉ y Kiến phần Tướng phần gọi là sở chuyển biến, cùng biệt giải thích sau là trong đây, tự chứng cũng sở chuyển biến, sau căn cứ ngã pháp thông y, xưa nay đồng thừa nhận, chỗ Đại Tiểu thành, chỉ y kiến tướng. Đây căn cứ thật y nên đều là tự thể, chủng tử biến hiện hành. Hiện hành cũng biến làm chủng tử vậy, Chân như chẳng phải y nên luận chẳng nói.

Tướng kiến, đồng chủng biệt chủng sinh có hai giải thích: Có thuyết nói Tướng kiến đồng chủng sinh, nghĩa là không bản chất. Ảnh tượng tướng và Kiến phần đồng chủng sinh. Đó có bản chất, bản chất cũng đồng chủng sinh, tức một Kiến phần chủng sinh. Lúc hiện hành, ba pháp đồng một chủng đó là kiến, ảnh chất. Có thuyết nói kiến tướng biệt chủng sinh là bản chất, Kiến phần định biệt chủng sinh. Ảnh tượng tướng đó cùng Kiến phần và bản chất, hoặc dị hoặc đồng, chủng Tướng phần v.v… hiện hành làm nhân duyên nên vốn có Câu sinh. Hiện hành Tướng phần hoặc hòa hợp sinh, chủng mới cũ đồng sinh. Với hai phần này, Luận sư An Tuệ cũng nói chủng sinh, kiến và thể đồng. Hai thuyết Tướng phần, hoặc đồng hoặc dị. Tướng phần không thể, chủng tử là giả. Chánh nghĩa của Sư Hộ Pháp là ảnh chất hai tướng cùng kiến phân làm ba. Ba đây, chủng tử ba tánh giới trói buộc v.v… chưa cần đều đồng, tùy chỗ ứng. Tức chỗ trước nói Tướng phần biệt chủng là chánh nghĩa đây.

Bài tụng ghi:

“Tánh cảnh chẳng tùy tâm

Độc ảnh chỉ tùy kiến

Đới chất thông tình, bản

Tánh chủng thảy tùy ứng”.

Tổng nhiếp các cảnh, có ba loại:

1. Tánh cảnh. Thể các chân pháp gọi là tánh cảnh. Sắc là chân sắc, tâm là thật tâm, pháp chân thật đây chẳng định tùy tâm. Ba tánh chẳng định, như thật năm trần, chỉ tánh Vô ký, chẳng tùy năng duyên năm thức, thông ba tánh vậy, cũng chẳng tùy tâm đồng ở một trói buộc, như Thức thứ tám là một cõi trói buộc. Sở duyên chủng tử thông ba cõi trói buộc, thân tại cõi dưới lúc khởi hai thông duyên thiên nhãn nhĩ. Thân tại địa trên hai thức nhãn nhĩ thấy cảnh dục giới. Nhị thiền trở lên nhãn nhĩ thân thức duyên tự địa cảnh, thức sơ thiền trói buộc cảnh tự địa trói buộc. Các loại như vậy cũng chẳng tùy tâm, chỗ một chủng sinh. Do kiến tướng chủng mỗi mỗi thể riêng biệt.

2. Cảnh của độc ảnh chỉ từ Kiến phần, tánh trói buộc chủng tử đều định đồng. Như Thức thứ sáu duyên lông rùa, hoa đốm hư không, thạch nữ, Vô vi, giới khác duyên v.v… chỗ có các cảnh. Các loại như vậy đều là tùy tâm, không thể dụng riêng biệt, giả cảnh nhiếp vậy, gọi là độc ảnh;

3. Cảnh của đới chất, nghĩa là ảnh tượng đây có bản chất thật, như sở biến Tướng phần trong Thức thứ bảy được từ bản chất là vô phú Vô ký v.v… cũng từ Kiến phần là chỗ hữu phú nhiếp. Cũng được nói là từ bản chất chủng sinh, cũng được nói là từ Kiến phần chủng sinh, vì nghĩa chẳng định.

Tánh chủng thảy tùy ứng là nghĩa bất định, có hai tùy ứng:

1. Nghĩa hiển ba cảnh, các tâm tụ sinh. Có chỉ có một, có hai hai hợp có ba đồng tụ. Có một là, như trước đã nói. Có hai hợp là như Thức thứ tám duyên tán cảnh tự địa. Chỗ tâm vương duyên là tánh cảnh ở đầu, chỗ tâm sở duyên là cảnh độc ảnh, chỗ năm thức duyên là năm trần tự địa, là tánh cảnh đầu cũng được nói là cảnh của đới chất, như Thức thứ sáu duyên năm uẩn ở quá khứ và vị lai. Đắc là độc ảnh cũng được nói là cảnh của đới chất, huân thành chủng tử sinh bản chất. Có ba hợp là, như nhân thứ tám duyên định quả sắc, chỗ tâm sở duyên chỉ là độc ảnh, chỗ tâm vương duyên là thật tánh cảnh cũng được nói là cảnh của đới chất, chỗ thứ sáu duyên sắc của định quả, là bản chất.

2. Lại tánh chủng thảy tùy ứng là, hiển bày ba cảnh trên tùy chỗ đó ứng, hoặc tánh tuy đồng mà hệ chủng chẳng đồng. Như tại Hạ Địa duyên thượng giới Thiên nhãn nhĩ. Hoặc hệ tuy đồng tánh, chủng chẳng đồng. Như năm thức duyên năm trần tự giới. Hoặc chủng tuy đồng mà hệ chẳng đồng, ước về tụ mà luận đó tức có, một pháp luận tâm tức không, như Thức thứ tám, chỗ tụ tâm sở duyên cùng kiến đồng chủng, chỗ tâm vương duyên mà hệ chẳng đồng.

Hai hợp ba hợp tư duy chuẩn cứ có thể biết, dùng một bài tụng đây định thể các pháp ở trong tám thức hoặc nhân hoặc quả mỗi mỗi hành tướng ở pháp năm uẩn mỗi biệt điệp xuất, sợ nhiều phiền nên đây tạm thôi.

Biến, nghĩa là thức thể chuyển tợ hai phần, giải thích năng sở biến, y hai phần dưới đây giải thích năng sở y. Ngã pháp đều y chỗ thức biến. Nếu y tổng làm hai văn khoa là: Một văn giải thích trong câu thứ ba, hoặc là nội thức chuyển tợ ngoại cảnh. Giải thích năng sở biến, ngã pháp phân biệt huân tập lực nên dưới. Giải thích năng sở y, chỗ ngu phu kế chấp, phân làm hai văn. Năng sở biến là thức sở biến, năng sở y là kia y.

Ngã pháp phân biệt huân tập lực nên v.v… trong văn có hai vặn hỏi. Một, các thức lúc sinh tợ ngã pháp là đều do lực của ngã pháp phân biệt huân tập, hay cũng chẳng do? Nếu đều do là, tám thức năm thức không hai phân biệt, lúc sau sinh quả nên chẳng tợ hai. Nếu chẳng do là, trong đây tại sao chỉ nói ngã pháp huân tập làm nhân?

Đáp: Hai giải thích đều được. Giải thích đó đều do là tất cả Hữu lậu và hai phân biệt trong thứ bảy câu vậy hoặc hai phân biệt trong Thức thứ sáu dẫn vậy, lúc sau sinh quả đều tợ ngã pháp. Giải thích chưa hẳn là vậy, đây nói thứ sáu căn bản duyên khắp tất cả làm nhân duyên phát các thức khiến huân tập. Lúc sau sinh quả tợ ngã pháp cùng khởi. Hoặc chẳng phải ngoài tợ ngoài, Thức thứ sáu, thứ bảy kế chấp làm tợ ngoài được khởi, như Sư An Tuệ nói tám thức có chấp, chẳng phải hỏi đây.

Như người nằm mộng là, Bà-thích-noa Hán dịch là Lưu Chuyển, trước đây dịch Bà-la-na là nhầm. Lưu Chuyển là vua nước My-hy-la, dung mạo đoan chánh, tự cho là không ai sánh bằng, tìm kiếm người có dung mạo thù thắng, muốn so với họ để thấy mình đẹp hơn. Bấy giờ có người nói: “Trong thành Vương-xá có Đại Ca-chiên-diên hình dung rất đẹp trong đời không sai sánh bằng”. Vua bèn sai người đi nghênh đón Ca-chiên-diên đến. Vua ra ngoài cung để đón tiếp, vua chẳng bằng ngài, mọi người chỉ chăm nhìn Ca-chiên-diên mà chẳng ngó ngàn gì vua. Vua hỏi nguyên do, mọi người trả lời: “Ca-chiên-diên dung mạo hơn vua”. Vua hỏi: “Đại đức! Quả nay do nhân xưa trước thế nào?” Ca- chiên-diên đáp: “Xưa kia tôi xuất gia, vua làm kẻ xin ăn. Tôi đang quét chùa, vua đến xin ăn. Tôi quét đất xong, sai vua hốt phân, vua hốt phân xong tôi mới cho vua ăn. Do nghiệp nhân ấy, sinh trong trời người được quả báo đoan chánh”. Vua nghe như vậy rồi, sau đó xin xuất gia là đệ tử của Ca-chiên-diên. Sau lại cùng Ca-chiên-diên đi đến nước A-bát-địa, vào trong núi Tu đạo riêng tọa thiền một nơi. Vua nước A-bát-địa tên là Bát-thọ-đa, đem các cung nhân vào núi dạo chơi. Cung nhân thấy vua lưu chuyển hình mạo đoan chánh nên vây quanh ngắm nhìn. Vua Bát- thọ-đa thấy vua Bà-thích-noa nghi có dục ý, bèn hỏi rằng: “Ông là A- la-hán ư?” Vua Bà-thích-noa đáp: “Chẳng phải”. Lần lượt hỏi mỗi mỗi ở ba quả còn lại, đều đáp là chẳng phải. Lại hỏi: “Ông lìa dục chăng?” Lại đáp: “Chẳng phải”. Vua Bát-thọ-đa nổi giận bảo: “Nếu vậy tại sao ông vào trong các thể nữ của ta?” Và đánh đập Bà-thích-noa mình mẩy bầm dập ngất xỉu mà chết, đến tối mới tỉnh lại, bèn đến nơi Ca-chiên- diên. Ca-chiên-diên trông thấy vậy, tâm sinh xót thương. Các bạn đồng học với vua thăm hỏi chữa trị. Vua Bà-thích-noa nói với Ca-chiên-diên rằng: “Tôi đến xin thầy tạm được trở về nước cũ nhóm tập quân lính để đánh phá nước A-bát-địa, giết vua Bát-thọ-đa, công việc hoàn tất sẽ trở lại theo thầy Tu đạo”. Ca-chiên-diên bảo: “Vua muốn đi cũng được, nhưng tạm nghỉ lại một đêm đã”. Và Ca-chiên-diên an đặt một nơi tốt lành để cho ông ấy ngủ, muốn khiến ông ấy cảm mộng, mộng thấy nhóm tập binh lính chinh phạt A-bát-địa, quân mình bại trận, thân bị kia bắt, trói buộc tay chân, hoa đỏ đánh đầu, nổi trống muốn giết. Trong cơn mộng, vua kêu lớn thất thanh: “Nay con không trở về, xin thầy cứu giúp, làm nơi nương tựa để được thọ mạng lâu dài!” Ca-chiên- diên dùng thần lực từ ngón tay phát ra lửa, gọi vua khiến tỉnh, hỏi tại sao? Tâm vua chưa tỉnh, còn nói việc lửa cháy. Ca-chiên-diên dùng lửa soi chiếu mà hỏi vua: “Đây là xứ nào? Ông có thể tự xem”. Tâm vua mới tỉnh, Ca-chiên-diên bảo: “Nếu ông đánh nước kia, hẳn sẽ bị bại như chỗ mộng thấy”. Vua nói: “Xin thầy vì trừ ý độc”. Ca-chiên-diên giảng nói tất cả các pháp, thí như cõi nước giả danh không thật, lìa phòng nhà v.v… thì không riêng có cõi nước cho đến rộng nói các thứ nhân duyên đến một cực vi cũng chẳng phải sự thật, không đây không kia không oán không thân vua nghe pháp đó, được quả Dự lưu, dần sau đắc quả A-la-hán.

Cảnh giới chỉ thế tục có là, sớ có hai giải thích, nay lại nói thêm: Biến kế sở chấp, cảnh phàm phu nên chỉ thế tục có, y tha khởi tánh, cảnh trí Thánh phàm, thức cũng thắng nghĩa, hiển bày gần đó.

Bên trong của phá ngã, Số luận, Thắng luận lập ngã tông là: Ngã, ngã tánh là thường, thừa nhận không trước sau vậy, như hư không v.v… Lại, ngã thể khắp cùng, thừa nhận thường trụ vậy, như hư không v.v… chỗ trước lập tông tức là nhân đây, ngã thể thường khắp, thừa nhận tùy thân tạo nghiệp thọ khổ lạc v.v… vậy, như hư không, vặn hỏi thứ nhất lập lượng là: Hữu, hữu pháp sai biệt lỗi trái nhau. Ngã trên hữu pháp, chỗ ý thừa nhận nghĩa, tùy thân tạo nghiệp, thọ khổ lạc ngã, chẳng tùy thân tạo nghiệp, thọ khổ lạc ngã, là sai biệt của ngã hữu pháp. Nay tạo trái nhau là: Ngã của ông nên chẳng phải tùy thân thọ khổ lạc ngã, thừa nhận không trước sau, như hư không. Vặn hỏi thứ hai lập lượng là: Làm pháp sai biệt lỗi trái nhau, thể khắp cùng trên tự tướng pháp, ý chỗ thừa nhận nghĩa, tùy thân tạo nghiệp thọ khổ lạc thể khắp cùng chẳng phải tùy thân tạo nghiệp thọ khổ lạc, thể khắp cùng là sai biệt. Nay làm trái nhau là: Ngã của ông nên chẳng tùy thân tạo nghiệp thọ khổ lạc thừa nhận thường trụ vậy, như hư không. Vặn hỏi thứ ba lập lượng là: Nhân của tùy thân đã tùy một chẳng thành, ở trên đồng dụ không không, tức chẳng cộng chẳng định. Tông của thường khắp, không là đồng dụ, bình là dị dụ. Nhân tùy thân tạo nghiệp v.v… cả hai cũng đều chẳng phải có. Luận văn hoặc riêng tỷ lượng trái nhau vặn hỏi rằng: Ngã của ông nên chẳng tùy thân tạo nghiệp thọ quả, thừa nhận thường khắp vậy, như hư không. Đây riêng dùng tỷ lượng nêu bày, chẳng cần thuật bản lượng đó.

Ly hệ lập lượng là: Ngã của chỗ nói tùy thân chẳng định, chỗ thân có vậy, giống như ảnh v.v… trong vặn hỏi sau nên nói: Ngã nên có thể bẻ, chấp tùy thân vậy, giống như ảnh v.v… chẳng cần dùng co duỗi giải thích nghĩa tùy thân. Luận Du-già quyển 6, quyển 64 và luận Hiển Dương quyển 10 ghi: “Chấp ngã có bốn:

  1. Tức uẩn.
  2. Khác uẩn trụ trong uẩn.
  3. Khác uẩn trụ trong pháp lìa uẩn.
  4. Khác uẩn chẳng phải trụ trong uẩn cũng chẳng phải trụ trong pháp khác uẩn mà không có uẩn, tất cả pháp uẩn đều chẳng tương ưng”.

Ba loại sau đều thuộc về dị uẩn chấp, hợp làm hai ba loại. Một hai trong tánh nhiếp hết, nó chỉ phá ngoại đạo chẳng phá Tiểu thừa, nên không cùng uẩn chẳng tức chẳng lìa. Phá trong chẳng phải tức lìa, lại có lập lượng là: Chỗ ông chấp ngã, chẳng nên nói là ngã, ngã chẳng phải ngã kẻ khác, thừa nhận chẳng thể nói vậy, như Hữu vi, Vô vi. Nghĩa đây tuy có thể vậy, chẳng thuận ý văn, mới phá một ngã, chẳng phải tất cả. Luận đây lại chỉ phá một Sư chấp ngã, chẳng phải tất cả, giải thích này mới phá chung tất cả. Lại, chỉ nêu một pháp đủ làm đồng dụ, sao mượn Hữu vi Vô vi. Lại, luận tổng khiến ở ngã chẳng phải ngã tụ cũng nên chẳng thể nói, như Hữu vi Vô vi, sao được mới nói như Hữu vi Vô vi, ngã chẳng phải ngã kẻ khác, cho nên lẽ ra như sớ giải thích.

Trong phá tác dụng, lược có bốn loại:

  1. Sinh tử có dụng, Niết-bàn không có dụng.
  2. Tăng-khư v.v… không tác dụng động chuyển, các thứ khác có dụng ấy.
  3. Thêu dệt cũng không dụng tác thọ v.v…;
  4. Chánh vặn hỏi có dụng, đặt câu hỏi không có dụng.

Dục tham gọi là thủ, tuy văn của Đối Pháp đồng với Thập địa giải thích Thủ chi rằng: “Ái tăng thượng gọi là Thủ”. Đây tùy nghĩa tăng, chẳng phải lý chân thật, căn cứ thật mà nói, như luận Du-già v.v… ghi: “Tất cả phiền não gọi là Thủ chi”. Thủ uẩn cũng vậy, uẩn năng sinh thủ, như hoa quả cây, uẩn từ thủ sinh, như cỏ trấu lửa.

Chỗ Thức thứ bảy duyên Thức thứ tám cùng Kiến đồng một trói buộc, vì mặc tình duyên. Thức thứ sáu mặc tình duyên, tại sao? Tức tổng hoặc biệt, hoặc đồng địa chẳng đồng địa trói buộc, nên tư duy đó vậy, tùy chỗ duyên hiện hành trói buộc không tùy chủng, nhuận sinh kiến duyên sẽ sinh. Văn quyển 88 duyên khắp pháp ba cõi, hàng Nhị thừa trước phục tu vào Kiến đạo. Có thuyết nói Tu hoặc Kiến hoặc một lúc chóng đoạn, gia hạnh vui cầu vì trước bẻ gãy thế lực, có thuyết nói khởi Vô gián đạo đoạn. Nay lấy chóng đoạn, chẳng lấy biệt đoạn.

Nói khởi tướng tự tâm, có hai giải thích:

  1. Tức tướng ảnh tượng.
  2. Tức tướng sở chấp, tuy không thật thể, xứng tình mà hiện vậy, các thuyết nói về tướng tâm đều theo đây mà biết.

Hai ngã chấp đây tinh tế nên khó đoạn, sớ có ba giải thích:

1. Vì tướng hành kiến của Tu đạo vi tế, đi với Kiến đạo, hoặc trong Tu đạo tự mong tám thức trước là tế.

2. Vì Kiến đạo dễ đoạn nên gọi là tế, đạo trên khó trừ nên gọi là thô. Như tự phần thô tế trong ba tâm.

3. Kiến đạo đứng về năng trị đạo yếu kém, tướng sở đoạn từ phẩm đầu tiên gọi là tế, Tu đạo đứng về hành tướng tự phẩm, gọi là tế.

Khó đoạn, trong sớ giải thích cũng có ba:

  1. Thế đạo chẳng phục.
  2. Dần dần sơ đạo chẳng đoạn vì chẳng phải Kiến đạo.
  3. Khuyết đạo chẳng trừ, cốt yếu chín phẩm đầy đủ, đạo mới có thể đoạn.

Nay, thứ tư nếu vượt người quả thứ ba, Thức thứ sáu chấp, ở đây có năm giải thích:

1. Kiến đạo không thể đoạn, sau khi vượt đắc quả mà cũng chẳng đoạn, cần phải đến tâm Kim cương cùng Thức thứ bảy chấp một lúc đoạn.

2. Sau vượt đắc quả, riêng khởi đạo đoạn, nó đã chẳng chướng quả, tại sao địa kia mê hoặc, như Thức thứ bảy chấp đây cũng đâu có trái ngược.

3. Lúc vượt đắc quả, sau tướng Kiến đạo lại chẳng vượt quán, riêng khởi Thắng tấn đạo, Gia hạnh đạo v.v… đoạn hoặc tu đạo đắc quả thứ ba, các xứ chỉ nói tâm thứ mười sáu đã biết căn nhiếp mà dựng lập quả, tại sao trong đây sau khởi Tu đạo đoạn hoặc đắc quả. Vì sơ quả chẳng phải vượt qua.

4. Lúc vượt đắc quả, từ tướng Kiến đạo tức vào Tu đạo, không gián đoạn, giải thích thoát đoạn Tu hoặc đắc quả. Chẳng khởi gia hạnh, không duyên riêng khởi Gia hạnh đạo.

5. Lúc vượt đắc quả, tức một sát-na thân thật Kiến đạo, không gián đoạn, Kiến hoặc Tu hoặc cả hai đều đoạn, tuy đạo đời trước chẳng phục ngã chấp, do ý lạc thù thắng vào vị Kiến đạo.

Phục và chẳng phục trong một niệm đều đoạn, y cứ giải thích thứ nhất. Đạo luôn luôn tu, đoạn chẳng luôn luôn, y cứ giải thích thứ hai và thứ ba, đạo đoạn đều luôn luôn, y cứ giải thích thứ tư, trước lìa Vô sở hữu xứ sau đó muốn khởi thứ ba sau thành vô học, chỉ hai phẩm đoạn. Tóm lại, tùy chỗ xứng đáng trước mà thành nghĩa luôn luôn hoặc chẳng luôn luôn.

Vượt qua quả thứ tư chóng thủ hai quả là, tuy thiếu Hữu đảnh, thiếu tám phẩm trước, ngã chấp ba cõi mà không thể đoạn, lần lượt đắc quả. Trong Phi tưởng địa có hai nghĩa nói, nếu là chín phẩm đoạn, tám đạo trước cũng chẳng trừ đó, tức địa phẩm thứ chín. Nếu là một phẩm đoạn chỉ khuyết Hữu đảnh tức năng đoạn hết, nghĩa trước là chánh, nghĩa sau không có văn nói, ba mươi bốn niệm v.v… cần phải đủ chín phẩm. Thứ bảy cần yếu khuyết Hữu đảnh, thứ chín mới năng đoạn hết. Do khó đoạn đây nên luôn luôn đoạn. Đó là người vượt qua quả thứ tư, Thức thứ sáu chấp đạo luôn luôn tu, đạo chẳng phải luôn luôn, một phẩm đoạn vậy, lần lượt đắc quả, một địa mà giải thích, tám đạo trước luôn luôn tu, thân kiến phẩm thứ chín trừ, đoạn chẳng phải luôn luôn. Nếu gần chín chín địa mà luận, đạo đoạn đều luôn luôn nếu hồi tâm rồi chỉ tập luôn đoạn chẳng phải chủng.

Phân biệt hai chấp đã chẳng nói chung riêng, tức ngã của uẩn gồm hai mươi câu v.v… luận chỉ nói riêng, mà không có văn nói chung. Đây có hai giải thích:

1. Y cứ văn nghĩa thật không có chung, nhưng chưa thấy văn chỉ cùng Câu sinh trước chẳng đồng, do đó chẳng nói.

2. Giải thích thật có chung riêng vì đồng với trước nên lược mà chẳng luận, như uẩn chấp ngã lẽ đâu chọn lựa tổng ư? Giải thích này là thù thắng ngã của lìa uẩn chẳng nói chung riêng.

Hai ngã chấp đây, trước lúc Kiến đạo đoạn là như sớ có thể biết. Ba tâm Kiến đạo phân biệt hai chấp. Ba tâm Kiến đạo tại sao đoạn mới đầu, tại sao đoạn sau? Hai thứ đều thông, đều có lực của bạn tà, tư duy tà khởi. Một là lực tà giáo khởi nên đoạn sau, lực tư duy là đoạn trước, vì thô dễ đoạn. Giải thích thứ hai trái với đây, là lực tà giáo khởi là đoạn trước, như tiếp tục thiện căn trước thế mỏng kém. Lực tư duy tà khởi đoạn sau như tiếp tục thiện căn, địa ngục lúc chết tiếp tục, vì thế lực bền chắc. Giải thích thứ ba, tức uẩn kế chấp v.v… đoạn sau, vi tế nên uẩn ngã tương tợ, lìa uẩn kế chấp đoạn trước, vì thô mạnh. Giải thích thứ tư, bất định, trong chín Địa mỗi mỗi địa đều có thô tế. Thô là trừ trước, tế là đoạn sau. Do ở một lúc hành có thô tế, đoạn có trước sau, các phiền não đó cùng đây đồng lưu, tùy phẩm loại đó, nói đoạn trước sau. Luận về sức huân tập cho nên được thức có ghi nhớ. Hỏi: Tâm trước thiện, chẳng thiện huân nên sau có thể ghi nhớ, tâm trước nếu Dị thục, chẳng huân, sau chẳng ghi nhớ ư? Đáp: Tâm trước là năng huân, có chủng sau năng ghi nhớ. Tâm trước nếu Dị thục, chẳng huân sau chẳng ghi nhớ. Hỏi: Tâm trước là năng huân, có nhân quả năng ghi nhớ. Tâm sau nếu Dị thục, không nhân ghi nhớ chẳng phải quả ư? Đáp: Tâm trước là năng huân có nhân sau năng ghi nhớ, chưa hẳn cần đồng tánh, Dị thục đâu ngại ghi nhớ, như trước tâm sân, sau tâm thiện ghi nhớ, khác tánh làm nhân, khác tánh năng ghi nhớ. Phật ghi nhớ tất cả mọi sự từ vô thỉ. Hữu lậu túc mạng há chẳng thể ghi nhớ tâm Dị thục ư? Chỉ do lúc sau huân tập thù thắng nên có thể ghi nhớ việc trước, chẳng phải cần nhân đây sinh quả đây.

Đã có ba tướng, sao thấy là một? Đây là vặn hỏi ba đức mỗi mỗi nên thấy một, không đồng với sớ. Một căn lẽ ra được tất cả cảnh, vì căn không riêng biệt, một cảnh các căn được, vì cảnh không khác.

Phá các câu “thường” trong Thắng luận: phá chấp thường của Thắng luận thứ nhất vặn hỏi có dụng chẳng phải thường, thứ hai vặn hỏi không dụng tức là thức.

Trong phá vô thường: thứ nhất vặn hỏi có ngại chẳng phải thật, thứ hai vặn hỏi không có dụng tức là thức.

Trong phá thật đức: thứ nhất, vặn hỏi câu đại chẳng phải thật; thứ hai, vặn hỏi tánh cứng v.v… chẳng phải đức; thứ ba, vặn hỏi địa v.v… chẳng phải kiến; thứ tư, vặn hỏi câu sắc chẳng phải đức.

Trong câu “phá thật”: thứ nhất vặn hỏi có phá vô thường; thứ hai, vặn hỏi không ngại thành có, thừa nhận sắc căn thủ nên khiến thành có ngại.

Trong câu “phá hữu”, có bốn đoạn:

1. Lỗi pháp tự trái nhau. Họ nói: Hữu tánh, lìa ngoài câu thật có tự tánh riêng, vì thừa nhận chẳng phải không có, như đức nghiệp. Đây có lỗi bất định, vì câu thật là dị pháp dụ, vì nhân đi với nó là có. Nay nói: Lìa ngoài câu “thật”, không có tự tánh riêng, vì thừa nhận chẳng phải không có, giống như câu “thật”. Các sư ngoại đạo kia, nếu vì đức nghiệp như nhân dị hòa hợp làm lỗi bất định, chẳng phải lỗi bất định, vì nó bất định chẳng phải tự chung cùng. Luận đã dùng đức nghiệp làm đồng dụ, chỉ tỷ lượng trái nhau.

2. Có lỗi pháp tự tướng trái nhau. Họ nói: Có tánh lìa thật, có tự tánh riêng, thừa nhận khác thật vậy, như đức nghiệp, vì có tánh làm hữu pháp. Nay nói: Có tánh nên chẳng phải có tánh, nên thành tự tướng hữu pháp trái nhau. Nay nêu không có pháp làm dụ, cũng thành quyết định trái nhau.

Thứ ba, thứ tư đều cùng tỷ lượng trái nhau.

Van hỏi trong tánh đồng dị: Thứ nhất, lỗi tự tướng hữu pháp trái nhau. Họ nói: Tánh đồng dị, định khác thật riêng có, vì thừa nhận khác thật như đức nghiệp. Nay khiến đồng dị cũng chẳng phải đồng dị, nên thành tự tướng hữu pháp trái nhau, tại sao cũng gọi là thừa nhận khác thật v.v…? Nhân chẳng chỉ hiển bày có khác ở thật đức nghiệp, cũng hiển bày tánh thật v.v… chẳng phải thật tánh, như năng thành ngăn ngừa thật. Như vậy cũng năng thành ngăn ngừa tánh đồng dị, vì đều quyết định, nên thành tự tướng hữu pháp trái nhau. Lại chẳng chỉ có tỷ lượng và quyết định trái nhau và có tự tướng hữu pháp trái nhau. Nên luận nói là “cũng”, nếu không như vậy cũng nói liền trở thành không dụng. Lỗi tỷ lượng trái nhau là ba thứ thật đức nghiệp là không tánh riêng, trong câu sáu, câu mười tùy một nhiếp, như đại, hữu v.v…

Lại, hoặc thật tánh, định khác thật không, vì thừa nhận hiển bày thật. Ngoài ra, đức nghiệp tánh cũng vậy, cũng thành quyết định trái nhau. Vặn hỏi thật chẳng phải thật, cũng đồng đây phá, nhân lời nói bèn phá chẳng phải chánh vặn hỏi; Thứ ba, chuẩn cứ trên trở lại hai vặn hỏi, tổng biệt có khác, nghĩa lý không riêng; Thứ tư, tỷ lượng trái nhau, kia nói thật tánh, không có tánh riêng, thừa nhận chẳng phải mới đầu có ba, như đại hữu v.v… chẳng chỉ thiếu không có đồng dụ mà thành lỗi bất cộng bất định cũng thành tỷ lượng trái nhau; thứ năm, cũng tỷ lượng trái nhau.

Phá lìa thức thật có tự thể trong trí hiện lượng, tâm, tâm sở trong câu đức đáng lẽ có chọn lựa. Trong phá Đại tự tại thiên, luận văn nói có bốn nhân, như thứ lớp trở xuống vặn hỏi ở tông trên, nhưng lại hỗ tương làm nhân. Một nhân vặn hỏi ba tông cũng được, như lý nên biết.

Trong luận về Thanh, luận Du-già quyển 15 ghi: Xứ sở căn tài thi thiết kiến lập là như rễ cây là cội rễ gieo trồng cây. Cội rễ của thanh, gọi đó là căn tài tức là chữ, biện ra Thanh xứ sở gọi là xứ sở, gốc Thanh Minh. Nghĩa là kiếp mới đầu khởi, Phạm thiên sáng tạo một trăm vạn bài tụng Thanh Minh, sau mạng tuệ giảm, sau đó Đế Thích lược làm mười vạn bài tụng, tiếp đến có Tiên Ca-đa-một-la lược làm một vạn hai ngàn bài tụng, tiếp nữa có Tiên Ba-nị-ni lược làm tám ngàn bài tụng. Trên đây bốn luận đều gọi là xứ sở, nay hiện hành chỉ có hai loại sau, còn hai luận trước đều đã diệt mất. Thể chữ căn tài Thanh Minh luận có ba trăm bài tụng. Tiên Ba-nị-ni lại lược tạo thành Thanh Minh tụng có một ngàn bài tụng, gọi là Thanh Minh lược bản tụng. Sau đó có Bát Giới luận, có tám vạn bài tụng, gọi là Nhân Duyên. Lại có Văn Thích-ca lu- ận, một ngàn năm trăm bài tụng. Lại có Ôn-na-địa luận, hai ngàn năm trăm bài tụng. Năm Thanh Minh đây đều gọi là Căn tài, năng cùng căn bản xứ sở Thanh minh làm sinh trí giải thích gốc sở y. Nhưng Bồ-tát Hộ Pháp tạo hai vạn năm ngàn bài tụng, gọi là Tạp Bảo Thanh Minh luận, ở Tây phương lấy làm cực luận của Thanh Minh rốt ráo, rất thịnh hành ở đời, nhưng Thanh Minh luận có năm phẩm. Luận Du-già ghi: “Tương tục, Danh hiệu, Tổng lược, Bỉ ích, Tuyên thuyết”.

Thứ nhất, Tương tục là pháp hợp thanh hợp chữ làm một phẩm là phần thứ nhất.

Thứ hai, Danh hiệu nói về kiếp mới đầu, Phạm thiên ở mỗi mỗi pháp đều lập ngàn tên gọi. Đế Thích sau giảm làm trăm tên gọi, sau lại giảm làm mười tên gọi, sau nữa lại giảm làm ba tên gọi, gồm cả thảy làm một phẩm, là phẩm danh hiệu phần trong danh hiệu phẩm thứ hai.

Thứ ba, Tổng lược là căn bản lược yếu trong Thanh Minh.

Thứ tư, Bỉ ích là tiếp trong lược đó, khiến vật sinh giải thích hiểu gọi là Bỉ ích.

Thứ năm, Tuyên thuyết là tuyên thuyết rộng, nghĩa là rộng trong lược, với ba phẩm sau tức là phần sau.

Trong ba Thanh luận có chấp: Tất cả âm thanh đều là thường, có hai giải thích:

  1. Tất cả tất cả tức nội ngoại đều chấp thường.
  2. Phần nhỏ tất cả, nghĩa là tất cả Thanh bên trong thường.

Tuy có hai giải thích, giải thích trước là thù thắng. Vật ngoài tuy là chẳng thuyên, hiển bày duyên của sinh thanh cũng có tất cả vật chung cùng, cũng có mỗi mỗi riêng biệt, tùy nên có đó. Trong phá Tát-bà-đa có ba loại:

  1. Thuật tông đều chẳng phải.
  2. Phá riêng.
  3. Tổng kết.

Phá riêng lại có ba:

  1. Đồng luận Quán Sở Duyên.
  2. Tỷ lượng có thể biết.
  3. Tỷ lượng nói: Hòa hợp cực vi, chẳng phải lìa ngoài bản cực vi có thể tướng riêng biệt, tức là lúc không hòa hợp là cực vi như lúc không hợp.

Năm cảnh, lược lấy năm môn phân biệt:

  1. Giả thật.
  2. Hữu lậu Vô lậu.
  3. Ba tánh.
  4. Phân biệt Dị thục v.v…
  5. Thức duyên phân biệt.

Cực vi, năm môn phân biệt là:

  1. Biện về nhãn duyên.
  2. Vặn hỏi lỗi trái nhau.
  3. Nói về lợi thù thắng.
  4. Tâm sở quán nào cần phương tiện, chẳng phải sinh được.
  5. Tâm của năng duyên thuộc Đế nào.

Hữu lậu thông hai Đế, Vô lậu chỉ thuộc Đạo đế, nhưng chẳng phải chỉ có Khổ, thông thiện và bất thiện, chấp làm thật có. Vì chánh quán quán sát chẳng phải chỉ Khổ đế. Nhưng y cứ tư nguyện thiện ác phần hạn, đây là thân Phật là câu riêng của vô biểu, ngoài ra còn lại là câu chung của vô biểu. Do Phật vô biểu tuy là từng được chẳng phải niệm niệm mới sinh. Vì xưa trước phát nguyện chế phục nghiệp suy nghĩ rằng chúng sinh giới tận, ước mong ta mới tận, vì tâm không có cùng tận, hoặc thường có, ngoài Phật ra, hoặc đều chưa từng được. Do nguyện chế tư chẳng khô cạn. Chưa gặp phá duyên, hoặc thường tương tục, hoặc gặp duyên của Phạm xả, nguyện đã úa hết lại chẳng khởi mới, gọi là xả hoặc. Nhưng Định đạo vô biểu chỉ y cứ Thiện tư phần hạn. Biệt giải thích thoát vô biểu toàn y cứ Thiện tư nguyện phần hạn. Bất luật nghi vô biểu chỉ y cứ Ác tư nguyện phần hạn. Ở trong vô biểu thông y cứ thiện ác tư nguyện phần hạn, nên nay hợp nói.

Tăng trưởng vị lập là ngoài Phật ra, thân Phật tu như xưa chẳng tăng trưởng. Phát thân ngữ tư. Trong sớ chỉ nói là nghiệp chẳng phải biểu, vô biểu. Nghiệp của danh thân biểu, là nghiệp của động thân biểu, đây là Y chủ thích. Chỉ nói thân nghiệp cũng là nghiệp của động thân. Nếu nói thân biểu, là biểu của y thân, ngữ đó tức nghiệp của biểu phát ngữ, cũng nghiệp của ngữ biểu tùy ứng đều được. Hai tư, hai nghĩa của phần giữa, phần sau trong ba tư gọi là đạo, tư trước có khắp. Thẩm tư lự đó chỉ sinh một nghĩa ngay quả gọi là đạo.

Hỏi: Nếu thừa nhận chỗ tư phát thân ngữ lập vô biểu gọi là ý cũng do tư làm, nên phải lập biểu xưng, hỏi chỗ thân ngữ tư làm thì thừa nhận tên nghiệp, chỗ ý thức tư tạo cũng nên lập nghiệp xưng ư?

Đáp: Không như vậy, ngoài thân ngữ bày rõ biểu khác biểu. Ý chỉ bên trong giải thích tự biểu chẳng phải kẻ khác. Tạo tác gọi là nghiệp. Thể thân ngữ tạo tác. Thể ý tuy kẻ khác dẫn, chẳng phải tác chẳng gọi là nghiệp. Xúc, tác ý, v.v… đó đều do tư tác để thành ba tánh. Thể chẳng phải tạo tác, cũng chẳng gọi là nghiệp, cũng chẳng gọi là tự biểu. Chẳng phải vương chẳng phải thắng vậy. Quyển 59 ghi: “Thân ngữ gọi là nghiệp đạo, phát tư gọi là nghiệp”. Tham sân tà kiến gọi là đạo là tùy thuận Tát-bà-đa cùng với đây chẳng trái nhau. Trong biểu và vô biểu lược làm bài tụng là:

“Ác hoặc sinh nhà kia

Phát tâm khởi nhẫn lạc

Đó là bất luật nghi

Nghiệp đạo còn thích thành

Ít nhiều làm sự kia

Bèn thành nghiệp bất thiện

Ngoài ra lại có người

Phát tâm thảy cũng vậy

Đây do xả năm duyên

Thề xả và thọ giới

Mạng chung được thượng định

Giới mất hai hình sinh

Tỳ-kheo chẳng tự thọ

Từ khác chọn lựa vậy

Cận sự và cận trụ

Tự thọ cũng từ khác

Biểu nghiệp định từ khác

Vô biểu thông hai thọ

Tự thọ chỉ ý biểu

Chẳng biểu bày khác vậy

Xuất gia bỏ năm duyên

Xả học phạm trọng tội

Hình mất hai hình sinh

Đoạn thiện bỏ đồng phần

Cận sự do ba duyên

Xả học thiện căn đoạn

Và bỏ Chúng đồng phần

Cũng trước chẳng pháp diệt

Cận trụ cũng do ba

Nhật Xuất bỏ học xứ

Và bỏ Chúng đồng phần

Chẳng đoạn thiện pháp diệt

Định giới thông Vô sắc

Cận phần đầu là đoạn

Còn trì xa phần tánh

Gọi là Định luật nghi

Đạo giới chỉ chốn định

Chín sắc ba Vô sắc.

(Vì Kiến đạo thừa nhận y cứ năm Địa, Tu đạo cũng chỉ thông ba Vô sắc. Luận Du-già quyển 100 ghi: “Chín Địa năng hết lậu tức sáu Địa ở Sắc giới và năng tận lậu, tức chỉ Tu đạo, Kiến đạo chẳng y cứ khoảng giữa, ba y, năm y sinh vậy”).

Là đoạn y kiến tu

Đốn tiệm Vô gián đạo.

(Dự lưu vượt qua Thủ quả thứ tư, ở Dục giới có đoạn đối trị. Luận Đối Pháp quyển 13 ghi: “Dự lưu y chưa đến định được vượt thứ tư”, chẳng nói y Địa khác là nay làm hai giải thích, như quyển 10 ở sau giải thích. Đốn tiệm đoạn hoặc, văn trong sớ tự giải thích). Đây y ở phần xa

Tùy ứng và Hữu đảnh

(Vì thừa nhận có tâm du quán vậy).

Nếu khởi tâm phần khác

(Hai duyên định tán, duyên Hữu lậu Vô lậu đều không phải như vậy thì sai).

Liền xả giới tùy tâm”.

Luận: Nhưng y cứ tư nguyện thiện ác phần hạn v.v… là câu chung của tất cả vô biểu, cũng là câu riêng của thân Phật vô biểu. Thân Phật định giới cùng nhân chẳng khác, chỉ khác biệt thoát chẳng tăng trưởng. Tăng trưởng sau nói chỉ y cứ nhân vị, nên Phật biệt thoát vô biểu, chỉ y cứ tư nguyện phần hạn, nguyện cùng tận ở tương lai có thể xả nên chẳng đồng ở nhân, cho nên đây là câu riêng của Phật giới, câu chung của các vô biểu.

Hỏi: Nếu thừa nhận chỗ tư phát thân ngữ lập biểu danh, ý cũng do tư tác, nên phải lập biểu xưng ư?

Đáp: Thân ngữ tánh là nghiệp, có thể y cứ lập biểu danh, ý chẳng phải thể là nghiệp, làm sao được xưng biểu?

Hỏi: Thân ngữ tư tạo nên, tức thừa nhận lập tên nghiệp, ý thức tư tạo nên cũng nên lập tên nghiệp ư?

Đáp: Không như vậy. Tạo tác gọi là nghiệp, thể thân ngữ tạo tác, thể ý tuy kẻ khác dẫn chẳng phải tác nên chẳng gọi là nghiệp, xúc, tác, ý v.v… đó đều do tư tác để thành ba tánh, thể chẳng phải tạo tác, cũng chẳng gọi là nghiệp, nghĩa này nên tư duy. Quyển 59 ghi: “Thân ngữ gọi là nghiệp đạo, phát tư gọi là nghiệp”. Tham sân tà kiến gọi là đạo, là tùy thuận Tát-bà-đa cùng đây chẳng trái nhau.

Vặn hỏi trong bất tương ưng. Luận Hiển Dương quyển 18 ghi: “Các Bất tương ưng đều có hai lỗi nên là giả có: một là nhân lỗi; hai là thể lỗi”. Nhân lỗi là nếu sinh của sinh nên gọi đó là sinh, thì không quả riêng biệt sinh có thể được. Nếu sở sinh của sinh, gọi đó là sinh, thì chẳng nên gọi là năng sinh v.v… rộng như luận đó nói, nên nay vặn hỏi.

Phá thứ ba trong đắc, chánh phá có hai, trước là phá đắc, sau là phá phi đắc. Trong đắc lại có hai:

  1. Y cứ giáo lý đều trưng bày, tức là bảy vặn hỏi.
  2. Giả sử có nghĩa riêng biệt trưng bày, lại được ở pháp v.v…

Trong đoạn đầu lại có bốn:

  1. Dẫn giáo đều vặn hỏi.
  2. Phá chống chế tự tại gọi là thành.
  3. Do hiện tại có thể giả nói có.
  4. Phá chống chế của họ.

Nếu không đắc nghĩa là pháp chưa khởi nên trọn chẳng sinh là hiện tại hẳn có thiện chủng v.v… nên dù có nghĩa riêng biệt. Trong trưng bày có hai: Trước là hỏi về định, sau là phá riêng. Trong phá lại có hai: Như văn có thể biết, trước phá trong năng khởi có ba, như văn tự hiểu.

Trong thành, bất thành: Chủng tử thành thục, nghĩa là có hai Thừa và thế đạo thành, bất thành, không nói Bồ-tát. Hai chướng trước Kiến đạo của Bồ-tát trước Kiến đạo. Lẽ ra nói phiền não chủng của hai Thừa có thành và chẳng thành, sở tri thuần là thành. Bồ-tát thì nói cả hai, tư lương vị Câu sinh thành và chẳng thành, phân biệt thành và chẳng thành, gia hạnh vị thuần là chẳng thành. Câu sinh có cả thành và chẳng thành. Vào Kiến đạo rồi, Tu đạo thành và chẳng thành, Kiến đạo thuần chẳng thành. Tu đạo thứ bảy thuần là thành; Thứ sáu có thành và chẳng thành, phiền não chướng chẳng đoạn thuần là thành, sở tri chướng chủng có thành và chẳng thành, cứ như thế mà tư duy.

Dị sinh tánh chỉ nhiễm chủng hai chướng trên mà lập. Hỏi: Trí chướng chẳng chướng ở Nhị thừa, tức nói là vô phú, người không tánh hai chướng đều chẳng chướng ba Thừa. Thể sở tri chướng thuộc về tánh nào, đều nên chẳng phải nhiễm ư? Đáp: Có thể đoạn chủng khinh trọng chẳng chướng để gọi là Vô phú. Hai thứ vô tánh đều trọng cùng chướng Thánh đạo của ba Thừa đều gọi là Phú. Nếu chỉ thủ phân biệt chủng gọi là Dị sinh, tức một cõi thành ba cõi, nên gọi là ba cõi Dị sinh. Nếu thủ sinh hiện hành chủng, tức đã lìa dục nên gọi là các cõi Dị sinh. Thủ cùng tánh đồng địa Dị sinh của Thức thứ tám, thể đó tức được.

Đồng phần lược dùng mười môn phân biệt:

1. Giải thích tên gọi (như sớ, Quyết Trạch 52 ghi: Do các phần kia hỗ tương tợ tánh, gọi là Chúng đồng phần. Ý đây thì hiển chúng là các phần kia nhiều chẳng phải một nghĩa. Phần nghĩa là loại. Đồng nghĩa là tương tợ, tức nhiều loại đồng phần tương tợ gọi là Chúng đồng phần).

2. Sở y của hiện hành chủng tử (vặn hỏi đều thông, mạng căn nương đó mà lập, nên đây đều thông, như Đối Pháp giải thích).

3. Đẳng lưu Dị thục v.v… (tất cả đều thông, quyển 52 nêu các vị như âm thanh v.v… nên chung cả ba).

4. Sở y ba tánh (đều chung, quyển 52 ghi: các loại như tà kiến v.v… chư Phật cũng đồng vậy).

5. Nội ngoại sở y (các luận chỉ có nội, trong đây vặn hỏi kẻ khác, nên đều chung cùng ngoại).

6. Hệ chẳng phải hệ y (đều thông).

7. Tổng biệt sở y (Hữu lậu vị Vô lậu vị đều thông biệt tổng).

8. Sở y của kiến sở đoạn v.v…

9. Sở y của học v.v…

10. Chung riêng được xả.

Đã thông nhân pháp, tùy ứng xả đắc, chuẩn cứ theo Tiểu thừa nói. Nay dùng lý lập, có chỉ một đắc chẳng xả, nghĩa là báo thân Phật, có chỉ một xả chẳng đắc, nghĩa là vào tâm vị vô dư. Có trọn định đắc xả, nghĩa là hữu tình không tánh chết đây sinh kia. Có định chẳng xả đắc, nghĩa là vô vi v.v…

Hỏi: Tướng Hữu vi lấy giả lập đồng phần, tướng trạch diệt tợ thừa nhận giả lập ư?

Đáp: Không như vậy. Hữu vi thể dụng tương tợ có đồng phần trạch diệt, không thể lại không dụng nên chẳng lập đồng phần. Chân như là một, vì không tương tợ, chẳng nói đồng phần.

Bốn chánh đoạn là:

1. Luật nghi đoạn, nghĩa là ác pháp đã sinh muốn khiến nó đoạn nên khuyên gắng.

2. Đoạn đoạn, ác pháp chưa sinh, khiến chẳng sinh.

3. Tu tập đoạn, thiện pháp chưa sinh, khiến cho nó sinh.

4. Phòng hộ đoạn.

Thiện pháp đã sinh là muốn khiến nó trụ nên khuyên gắng, đều tức tinh tấn khuyên phát. Tuệ tự có thể dần phục hoặc, từ quả đặt tên nên gọi là chánh đoạn.

Mạng căn, dùng năm môn phân biệt:

  1. Thể.
  2. Danh.
  3. Dị thục phi Dị thục v.v…
  4. Hữu lậu Vô lậu v.v…
  5. Hỏi đáp phân biệt.

Hỏi: Mạng căn nếu chỉ là chủng tử, tại sao hiện hành chủng tử của tám căn trong địa ngục đều định thành thục?

Đáp: Lại, bảy căn có hiện chủng, mạng căn chỉ chủng, thông luận tám pháp, nên gọi là hiện chủng chẳng phải mạng căn có hiện hành. Lại, tám căn đây định hẳn thành thục, giả sử có chủng tử hiện hành đều định thành đó, chẳng phải nói mạng căn cũng có hiện hành. Lại, vì sở trì sáu xứ làm hiện, đó có gì lỗi ư? Đây do công năng nghiệp dẫn sai biệt, gọi là mạng căn. Phật do nguyện lực khiến chủng tử sinh hiện hành cùng với phần hạn của sắc tâm v.v… gọi là mạng căn.

Hỏi: Nhàm chán tâm nhập không tâm có tế tâm, nhàm chán sắc nhập Vô sắc có tế sắc, nhàm chán thân nhập không thân có tế thân không?

Đáp: Nếu nhàm chán thô thân cũng có tế thân, như thân Phật. Thô tế đều nhàm chán chẳng được có thân, so với tâm khác.

Hỏi: Nhàm chán tâm nhập vô tâm. Hai định gọi là vô tâm. Nhàm chán thứ nhất nhập thứ hai. Nhị thiền gọi là vô tâm ư?

Đáp: Nhàm chán tâm gồm nhàm chán sáu: Hai định gọi là vô tâm. Nhàm chán dưới chẳng phải tâm trên. Định trên chẳng phải vô tâm.

Hỏi: Nhàm chán sắc vào Vô sắc, tuy có tế sắc gọi là Vô sắc, nhàm chán dưới lên định trên, định trên gọi là vô tâm ư?

Đáp: Nghiệp sắc thượng địa không, tuy có tế sắc, gọi là vô tâm. Báo tâm thượng địa có, chẳng được gọi là vô tâm.

Hỏi: Tâm chủng phòng ngại ở tâm. Định thể chẳng phải tâm sắc, sắc chủng phòng ngại ở sắc, giới thể chẳng phải sắc tâm ư?

Đáp: Chỗ phòng ngại tánh là sắc, năng phòng ngại cũng là sắc thâu nhiếp.

Hỏi: Sở nhàm chán đã là tâm, năng nhàm chán nên là tâm nhiếp ư?

Đáp: Chỗ phòng ngại, chỗ phát đều là sắc, năng phòng ngại ở sắc cũng gọi là sắc. Chỗ nhàm chán tuy tâm không chỗ phát, năng phòng ngại ở tâm chẳng phải tâm sắc.

Hỏi: Tán sắc có thể vậy, Định đạo cộng giới không chỗ phát, sao có thể gọi là sắc. Ở trong vặn hỏi đây có thể gắng tư duy chọn lựa ư?

Đáp: Nhàm chán tâm nhàm chán tất cả, năng nhàm chán chẳng phải sắc tâm, phòng ngại sắc chỉ phòng ác, năng phòng ngại cũng gọi là sắc.

Hỏi: Nhàm chán tâm nhàm chán tất cả, năng nhàm chán chỉ tâm chủng, phòng ngại sắc chỉ phòng ác, năng phòng ngại nên hiện hành ư?

Đáp: Thông với hữu.

**********

Thượng tọa bộ lập hai tướng. Hóa địa bộ lập ba tướng:

  1. Sát-na diệt uẩn, tất cả sắc tâm.
  2. Một thời kỳ uẩn, nghĩa là thọ mạng. Cả hai phần này biện về tướng.
  3. Cùng sinh tử uẩn, tuy riêng có pháp mà chẳng phải ở tướng.

Chánh lượng bộ lập bốn tướng, sắc pháp một kỳ hạn nhiều thời sinh diệt, tâm tâm sở pháp, ngọn đèn, tiếng linh từng sát-na sinh diệt. Động v.v… thời gian dài, đại địa trải qua kiếp trụ. Luận sư Kinh bộ dường như thuận Tát-bà-đa, nên luận Câu-xá quyển 4 ghi: “Ý kia sinh dụng ở vị lai, ba tướng dụng hiện tại”, nhưng là giả lập, chẳng phải là vốn chấp. Tướng sở chấp của sư kinh bộ đó vốn cùng Đại thừa đồng đời. Các Luận sư Nhất thiết hữu xưa trước sinh tại vị lai, hiện tại một sát- na, ba tướng thời gian riêng biệt. Vị đầu tiên gọi là trụ, đây quả năng thủ có lực thù thắng. Dị và Diệt thì không thể, vì lực nó yếu kém. Trụ vị trở về sau khiến pháp suy kém, gọi là Dị vị. Dị vị trở về sau khiến pháp sau dụng không có, gọi đó là diệt. Nếu Luận sư Chánh Lý, sinh tại vị lai, ba thứ trụ dị diệt đồng một thời dụng, sinh khiến pháp sắc có dụng. Trụ khéo khiến pháp lấy ngay quả khởi, tức thời của trụ, Dị khéo khiến pháp sau chẳng kịp trở về trước, yếu kém so với trước. Pháp Hữu vi thế lực suy kém chẳng bằng trước, mà hoặc có thời pháp tăng trưởng là do các duyên khác đến khiến sinh, như vậy chẳng phải pháp tánh gốc. Pháp tánh gốc yếu, hẳn suy khác. Thời tăng trưởng đó dị nhưng thể tại tánh khiến pháp yếu. Diệt tức ở thời trụ khởi dụng khiến dụng đến sau niệm không. Nếu kinh chỉ nói có hai tướng, Luận sư Nhất thiết hữu nói: Nêu tướng trước và sau vì lược khoảng giữa, sinh chuyển khiến pháp có dụng, thời của có dụng ở hiện tại, thời vị lai sinh pháp chưa có dụng. Diệt nhân sinh khiến pháp sắp vô dụng. Trong sát-na sau chánh vô dụng. Trụ tuy có pháp chẳng bằng ở sinh. Dị tuy suy pháp, chẳng bằng ở diệ, cho nên lược trụ và dị, chỉ nói ở sinh diệt. Luận sư Chánh Lý nói: Đây hiển hai thời khởi dụng, vị lai khởi sinh công năng, khiến pháp vào hiện tại. Hiện tại có diệt thời, khiến pháp vào quá khứ. Dụng của Trụ và Dị cùng diệt đồng thời. Thời chẳng dị, do đó chẳng nói. Sinh diệt mới là có dụng, mới đầu của không dụng, chẳng nói sinh và trụ dị là hai dụng v.v…

Thứ ba, phá trong bốn tướng có hai đoạn: Trước tổng nêu các lỗi, sau phá riêng. Trong phá riêng có bảy:

  1. Vặn hỏi sáu chuyển không sai.
  2. Vặn hỏi năng sở chẳng khác.

Cả hai đều có tông, tỷ lượng trái nhau, lỗi bất định. Nghĩa là mới đầu, họ lập lượng: Ba tướng Hữu vi khác chỗ tướng pháp định biệt có thể, nói thuộc chủ, như y phục của Đề-bà-đạt-đa. Sau, Tỷ lượng là: Ba tướng Hữu vi, pháp khác sở tướng là năng tướng vậy, như tướng khói v.v… nên đều có hai lỗi.

Thứ nhất, vặn hỏi Tỷ lượng trái nhau. Danh, cú, văn của ngươi chẳng thật năng thuyên, thừa nhận khác tiếng vậy như sắc, hương v.v…;

Thứ hai, kết quy thanh thuyên.

Thứ ba, ngoại đạo chống chế rằng: Tiếng trên chẳng phải tên gọi của khác tiếng. Lập lượng là: Tiếng trên gãy khúc, định khác sở y thật có. Sắc uẩn trên gãy khúc vậy, như dài ngắn v.v…. Hai, nếu lấy dài v.v… của Đại thừa làm dụ, trong đồng dụ không lỗi sở lập, dài v.v… của Đại thừa chẳng phải khác sở y thật có thể. Ba, nếu lấy tự dài v.v… làm dụ, trong nhân có lỗi pháp kia sai biệt trái nhau. Trong sở y khác thật có, sở y khác biệt xứ thật có, sở y khác đồng xứ thật có v.v… là pháp sai biệt. Lập lượng là: Tiếng trên gãy khúc, định chẳng khác sở y Biệt xứ thật có trên sắc uẩn gãy khúc vậy, như dài ngắn v.v… hoặc văn tự v.v… xứ nhiếp chẳng riêng. Nên biết danh v.v… thật là vô dụng.

Thứ tư, ngoại đạo vặn hỏi: Trong tiếng gãy khúc, chẳng năng thuyên biểu, vì tiếng gãy khúc, như tiếng đàn sáo, luận chủ vì làm hữu pháp sai biệt trái nhau. Trong tiếng gãy khúc năng sinh danh chẳng năng sinh danh, là hữu pháp sai biệt. Lập lượng là: Trong tiếng ông gãy khúc, chẳng năng sinh danh, tiếng gãy khúc vậy, như tiếng đàn sáo. Đây là vặn hỏi y cứ tông khác.

Lại ai nói kia v.v… bày nghĩa tự tông, sợ trái tỷ lượng. Lập lượng là: Tiếng đàn sáo gãy khúc v.v… năng thuyên biểu. Có nhân nhận gãy khúc của tiếng lớn vậy, như tự thừa nhận tiếng bên trong kia lập lượng: Đại thừa tiếng chuông gió v.v… nên có thuyên dụng. Tiếng nhiếp như tiếng bên trong nói v.v… hoặc tiếng bên trong chẳng năng thuyên, tiếng nhiếp. Như chuông gió v.v… Tiếp theo nói: Lấy ngay lý đuổi theo, như chuông gió kia chẳng sinh danh v.v… Tiếng chuông gió của ta v.v… cũng chẳng năng thuyên. Lập lượng là: Tiếng chuông gió của ông v.v… nên sinh danh, tiếng nhiếp vậy, như tiếng bên trong nói.

Thứ năm, tiếng tranh cãi và thanh tức khác.

Thiên ái, tiếng Phạm là Một-kiếp, Hán dịch là ngu. Ngu có ba tên:

  1. Đề-bà, Hán dịch là Thiên.
  2. Nật-phược, Hán dịch là quang minh.
  3. Bát-thích-xà-bát-để, Hán dịch là Hóa chủ, Bát-thích-xà là sinh, Bát-để là chủ, xưa gọi là Thế chủ.

Ma-ha-ba-xà-ba-đề gọi là Đại sinh chủ, đây tức là Phạm vương. Ưu thắng của thế gian không gì hơn trời, yếu kém của thế gian, không gì hơn ngu, gọi ngu là trời điều đó nên vậy, gọi nô là lang quân v.v… Quang minh nghĩa là chiếu liễu, người ngu si ám điều gọi là quang minh, như gọi người bần là vật giàu có của cải, cũng như gọi người dốt là vật thông minh, Phạm vương thế gian đều chấp là cha, giống như họ sinh ra chỉ biết ngồi thẳng. Tuy năng sinh tất cả, đều không động tác, người ngu si dụ cho họ, tuy bị sai sử, trăm thứ đều làm, đều không chỗ biết, không nhận biết riêng chút ít, yếu kém từ ưu thắng mà gọi là sinh chủ, kẻ ngu si đây thật đáng thương nên gọi là Thiên ái, các nghĩa khác đồng thường.

Hỏi: Chữ là danh cú y cứ mà không nêu bày, Đại thừa lìa tiếng không có tự thể, sao gọi là chữ?

Đáp: Phương này chỉ có một tên gọi chữ, chữ đó khó hiểu, ở phương kia phần nhiều không có tên gọi một chữ, như nói chữ “sát”, có ba chữ hợp lại đó là Sa, sất, đa ba chữ hợp lại mới thành một chữ sát. Chữ “úm” như nói âm “ổ”, chữ không thuyên biểu, cho nên tuy giả lập cũng có chữ chuyển danh, cú, văn thân. Văn thân khác danh thân. Văn là hiển rõ nghĩa, vì hiển rõ hai phần kia, lại gọi là hiển, đây là sở y hiển nghĩa kia. Lại, danh tự không khác chuyển, như chữ bao, ế v.v… như trong sớ giải thích tên gọi khác v.v… Danh thân, danh nghĩa là gọi vời, danh nhờ đó mà gọi tên. Cú, tiếng Phạm là Bát-đà, như trong sớ giải thích gọi là Dấu vết.

Một là danh nghĩa là danh thân v.v… đều là Y sĩ thích. Thân là hai tổng, danh là một biệt. Thân của biệt danh gọi là danh thân. Hai danh tích tập gọi là thân, nên thân của nhiều danh cũng lại như vậy, vì một danh chẳng phải thân, chẳng phải Trì nghiệp thích, nhưng ba thứ đây, chẳng đơn gọi là danh, lại chẳng gọi là nhiều danh thân. Chỉ căn cứ danh thân v.v… là trong lời nói nhiếp cả hẹp rộng, nói đơn danh thân, tạm dùng hẹp nói, nhiều tức là rộng.

Hai là biện về sự sai biệt, trong luận ghi: “Danh thuyên tự tướng v.v…” Quyển 52 ghi: “Sở y của danh, cú lẽ ra là chữ, ở tất cả chỗ biết, chỗ thuyên sự”. Tướng cực hẹp là chữ, nếu vừa là danh, nếu rộng là cú.

Nếu chỉ y văn thấu rõ âm vận, chẳng khéo thấu rõ chỗ có nghĩa sự, nếu y chỉ danh, lại khéo thấu rõ tự tánh pháp kia, cũng rõ âm vận, chẳng khéo thấu rõ chỗ pháp giản trạch sâu rộng sai biệt. Nếu y với câu chung thì tất cả khéo rõ, Đối pháp cũng đồng. Luận Hiển Dương quyển 12 ghi: “Có chữ chẳng phải danh, nghĩa là một chữ. Có danh chẳng phải câu, nghĩa là một chữ danh”. Câu hẳn có danh, danh hẳn có chữ nên thành sai biệt, nếu năng hiển gọi là hiển, tại sao danh cú chẳng gọi là hiển? Vì chẳng phải gốc, nghĩa là biện tự thể của câu, thuyên do văn thân hiển. Như uống ăn có vị do mặn mới hiển đó. Ba cõi phân biệt, danh có hai thứ: một, ngôn thuyết, trong đây là phải, dùng tiếng làm thể, chỉ hai Địa trói buộc, vì tức tiếng nói. Hành của phát âm, chỉ có hai Địa. Đây tùy tiếng trói buộc. Hai thức địa trên không, Vô lậu tức nói có, ngôn ngữ trong Sơ định có, sao phòng ngại Định thứ hai có? Lại, trong luận ghi: Hiển nhiều do nó khởi, chẳng phải nói nó tương ưng. Năm thức đã vậy, ngôn ngữ lẽ ra cũng vậy. Vô lậu địa trên nói có, ngôn ngữ Hữu lậu là y địa trên ý phát cũng không lỗi, như dẫn năm thức tìm ngôn thuyết. Định tự tại sở sinh tiếng Vô sắc;

1. Cõi khởi ngôn thuyết cũng có lỗi gì? Hữu lậu ngôn ngữ hẳn thô, tại sao Địa trên khởi mà vô tầm tứ;

2. Hữu lậu, Vô lậu tức rõ ba tánh, chỉ hai tánh thủ cảnh gọi là thông ba cõi;

3. Giải thích phòng ngại vặn hỏi, tại sao bốn uẩn cũng gọi là danh? Vì cảnh năng thủ nên tương tợ như danh. Thể tướng chẳng phải hiển, vì nhờ danh mà hiển, danh tại tụ này, y danh hành cảnh. Quyển 56 ghi: “Thuận thú các thứ nghĩa cảnh sở duyên, đồng giải thích thứ nhất, hoặc ngôn thuyết gọi là cảnh sở duyên của các thứ phân biệt, đồng giải thích thứ tư, gọi là một danh”.

Hỏi: Vì sao hai danh trở lên mới gọi là thân? Một danh chẳng phải thân. Trong đây ba thứ đều gọi là thân v.v…. Danh và danh thân, nhiều danh thân chẳng vượt ngoài danh thân. Lại nữa trong ba thứ đó, hai danh thì gọi là thân, như nhiều danh thân danh thân, luận nói chỉ có hai thứ, tại sao gọi là nhiều?

Đáp: Thân tuy có hai, nhưng danh có nhiều. Thân của nhiều danh gọi là nhiều danh thân, chẳng phải danh của nhiều thân. Hoặc cách vượt gọi là nhiều, vì thân cũng có nhiều.

Đoạn hỏi vì sao chẳng lập bài tụng v.v… như trong sớ giải thích.

Mười bốn Bất tương ưng, đây tuy nói phi đắc, các luận phần nhiều nói Dị sinh tánh. Nay y lý Cộng hữu tạm nói mười bốn thứ. Dùng mười môn để phân biệt:

  1. Nguyên do của có.
  2. Phế lập.
  3. Tụ y xứ.
  4. Hiện hành chủng tử y.
  5. Hữu lậu vô lậu.
  6. Ba tánh.
  7. Kiến đoạn v.v…
  8. Năm vị.
  9. Lỗi của giới trói buộc.
  10. Chín địa.

Nhưng y cứ Đối pháp thì có hai mươi ba, trừ Bất hòa hợp, tuy nói có nhưng không giải thích riêng. Luận Du-già quyển 3, 56; Luận Hiển Dương quyển 1, Luận Bách Pháp v.v… lập hai mươi bốn, luận Ngũ Uẩn và luận đây lập mười bốn. Luận Hiển Dương ghi: “Lại có các chỗ khác chủng loại sai biệt như vậy nên biết, mỗi mỗi y một nghĩa để lập, thật có thể nói nhiều:

1. Nói nguyên do của sự có đó thuộc chủ ngôn luận v.v… , như luận Hiển Dương quyển 18 giải thích.

2. Phế lập tức văn trước.

3. Biện về tụ pháp y xứ.

Y xứ có ba: một là tâm, hai là tâm sở, ba là sắc. Vì có biệt y có tổng y, có một loại chỉ y tâm chủng, đó là mạng căn, chính là thuộc về đây. Cả ba chỉ nương sắc lập, đó là danh, cú, văn thân, tạm y cõi đây chẳng phải cõi Phật khác; bốn, hai pháp tâm, tâm sở lập, đó là hai định không tâm và quả Dị sinh tánh. Sáu, y ba pháp đó là đắc, chúng đồng phần, bốn tướng, thông y ba chủng lập, quyển 64 ghi: “Y gọi là phân lập định vô tưởng, diệt tận v.v… chỉ y tâm, tâm sở.

1. Biện về hiện hành, chủng tử y. Chỉ y chủng, đó là mạng căn. Hai là định vô tâm và quả Dị sinh tánh. Ba là chỉ y hiện, đó là danh, cú, văn. Sáu là chung cả chủng tử hiện hành, đó là đắc v.v…

2. Hữu lậu Vô lậu: một chỉ có Vô lậu, đó là diệt định. Ba chỉ có Hữu lậu, đó là vô tưởng định và quả Dị sinh tánh. Mười thông hai thứ, đó là: Đắc, đồng phần, mạng căn, danh, cú, văn, bốn tướng, Phật v.v… đều có vậy.

3. Biện về ba tánh, nay bốn chỉ có một tánh, hai chỉ có thiện, đó là vô tưởng, diệt định. Hai chỉ có Vô ký, đó là Dị sinh tánh, vô tưởng Dị thục chỉ vô phú. Bốn thông hai tánh đó là danh, cú, văn, mạng căn, bốn nhân chỉ vô phú Vô ký, quả chỉ là thiện. Sáu thông ba tánh, đó là đắc, đồng phần, bốn tướng.

4. Biện về kiến đoạn v.v… có ba, một chỉ có kiến đoạn, đó là Dị sinh tánh, một chỉ có chẳng đoạn, đó là diệt định, hai thông kiến đoạn tu đoạn, đó là vô tưởng định và quả. Quyển 53 ghi: “Chỉ kiến sở đoạn chẳng sinh”. Quyển 57 ghi: “Thiện pháp tu sở đoạn, đoạn duyên phược vậy”. Mười bốn thứ khác thông kiến đoạn, tu đoạn và chẳng đoạn.

5. Năm vị đó là kiến, tu v.v… Hai chỉ có tư lương, đó là vô tưởng định và quả. Tâm thứ sáu trong Thập Trụ mới chẳng thoái lùi, tức kinh Ưu-bà-tắc Giới nói Xá-lợi-phất qua sáu muôn kiếp Tu đạo còn thoái lùi, nên trở về trước còn chẳng khởi. Luận Du-già ghi: “Chẳng phải chỗ Thánh vào”. Lại, thứ bảy trong Thập Trụ gọi là tâm chẳng thoái lùi, về sau lại chẳng thể khởi. Một chỉ có hai vị, đó là Dị sinh tánh tại một và hai, một chỉ có hai vị khởi, đó là diệt định, chẳng phải một ba. Nếu xoay tâm có thể. Ba chỉ có bốn vị, trừ Kiến đạo, nghĩa là danh, cú, văn. Bảy thông năm vị, đó là đắc, đồng phần, mạng căn, bốn tướng,

6. Giới trói buộc. Hai chỉ có một cõi, đó là vô tưởng định và quả. Ba thông hai giới và phi giới, đó là danh, cú, văn. Một thông ba cõi, đó là dị sinh tánh. Một chẳng phải ba cõi, đó là diệt định. Bảy thông ba cõi và chẳng phải trói buộc đó là đắc, đồng phần, mạng căn và bốn tướng. Mạng căn, quyển 57 nói chẳng thông Vô lậu, vì chẳng nói Phật.

7. Chín địa, ba chỉ có một địa, đó là hai định không tâm và quả. Ba thông hai địa đó là danh v.v… Ba, hoặc năm Địa, tám địa, chín Địa, đó là Dị sinh tánh và bảy thứ khác.

Riêng dùng lượng phá trong ba Vô vi có hai: Trước thẩm định hỏi, sau tùy hai vặn hỏi. Trong vặn hỏi có hai: Trước vặn hỏi một, sau vặn hỏi nhiều. Trong vặn hỏi một có ba: một tổng nêu một thể khắp tất cả xứ, hai riêng vặn hỏi đó và ba nêu ra nhân kia chấp thể kia hai, lý lẽ ra như vậy. Trong riêng vặn hỏi phân làm ba, là ba Vô vi. Trong hư không có bốn: một thể nên thành nhiều, hai nên hỗ tương khắp cùng, ba nên chẳng phải dung thọ, bốn có nên lẫn lộn. Có đồng xứ chẳng lìa sắc là lỗi bất định, là như sắc xứ, xứ không riêng biệt. Hư không tức sắc xứ, là như hương xứ v.v… không riêng biệt nên không chẳng phải sắc xứ.

Thừa nhận không nhân quả là trong Đại thừa Vô vi là quả lìa hệ trong mười nhân: Quán đãi, nhiếp thọ, dẫn phát, định dị, đồng sự, nhân không trái nhau. Đắc là quán đãi, nhiếp thọ, đồng sự, trái nhau, nhân không trái nhau. Năng đắc quả tăng thượng, nay căn cứ tông khác, lại là đồng phẩm cũng không có lỗi, vì định có tánh.

Thuật về tự tông, trong Vô vi có hai, trước tổng nêu kinh nói, nêu số làm rõ, sau tùy liệt bày. Trong đoạn sau có hai giải thích, vì hai riêng biệt. Trong đoạn trước có hai: một hiển bày ý thức biến, hai là giải thích chữ “thường”. Trong y pháp tánh có năm: một, là nêu y pháp tánh; hai là hiển thể pháp tánh; ba là hiển nghĩa y; bốn là kết y giả; năm là giải thích các tên gọi. Môn phế lập nên lập một, đó là Chân như, ngoài ra chẳng phải thật. Lại có thể lập hai, thuận thế gian lập hai đó là không, chẳng phải chọn lựa. Chân như lập một hoặc nên lập ba. Chân là một, tùy chướng đoạn là một, thuận thế gian là một, nay thuận thế gian lập hai, tùy chướng đoạn lập ba, Chân lập một, tùy chỗ thích ứng mà nói riêng khai hợp.

Vô vi, dùng năm môn phân biệt:

1. Các giáo tăng giảm, hoặc nói ba, bốn, sáu, tám v.v…

2. Nêu thể.

3. Ba tánh phân biệt, thừa nhận ba tánh thức biến vậy, hai sở chấp v.v… ba tánh. Quyển 8 nói thông ba. Thứ hai đây chỉ nói hai tánh.

4. Đế nhiếp: gồm An lập chẳng phải an lập đế, chân đế tục đế, ba đế, bốn đế.

5. Giải thích vặn hỏi.

Trong đó có năm môn:

1. Một nhiều, tùy tâm nói nhiều, đứng về thể chỉ có một.

2. Nhân nào nhiếp, mười nhân, sáu nhân nên tư duy. Trong sáu nhân, chỉ năng tác nhân, ngoài ra đều là Hữu vi, mười nhân thông cả năm: một là Quán đãi nhân; hai là Nhiếp thọ nhân, cảnh giới y xứ; ba là Đồng sự nhân, đồng là sinh v.v… một sự nghiệp; bốn là Bất tương vi nhân, khiến Thánh đạo sinh; năm là Tương vi nhân cùng ngại pháp sinh pháp nhiễm ô trái nhau, nên nói là diệt, tánh lìa chướng v.v…. năm quả nhiếp nhiếp gì? Trạch nghĩa là ly hệ, hư không, phi trạch nhiếp quả tăng thượng.

3. Phàm thánh đắc, hư không chẳng phải trạch thông Thánh phàm đắc, tưởng thọ diệt, trạch diệt Chân như. Định chỉ Thánh và đắc, chẳng động hai thuyết.

4. Phục đoạn chướng đắc, tưởng thọ diệt thông cả phục và đoạn như thường. Vì sao trạch diệt chẳng phải phục đắc? Vì đã chẳng phải hại, tùy miên.

Bất động có hai giải thích:

Một là Nội đạo đắc chỉ đoạn đắc, ngoại đạo phục đắc, chấp là

Niết-bàn, diệt tâm tâm sở. Nội đạo không như vậy. Lại giải thích, nội đạo cũng phục đắc, như tưởng thọ phục đắc. Đây phục Tam thiền trở xuống, chẳng đắc phục Dục giới rồi hai tánh phiền não tăng mạnh vậy, như chẳng phục đắc Tam thiền trở xuống chướng đắc tưởng thọ diệt, đã biến khác thọ mạnh. Theo lý mà luận bàn, đã có phục Tam thiền trở xuống, hoặc được bất động, tức người ấy phục Tứ thiền trên được hưởng thọ, đây có lỗi gì.

Hai là Thọ mạnh nên luận chẳng thừa nhận đó. Nếu vậy, lại nên phục Dục giới chướng được chẳng động diệt. Đã thừa nhận hai tánh chướng khiến chẳng được phục được chẳng động. Tam thiền trở xuống chẳng chướng phục, chẳng năng được, thọ tưởng lỗi gì.

5. Hỏi đáp:

Vì sao trạch diệt ba cõi chỉ lập một. Định chướng riêng mở hai?

Đáp: Vì biến dị, chẳng biến dị cùng hiển ở phiền não.

Hỏi: Vì sao phục hoặc được phi trạch, cũng phục phiền não diệt, cũng được phục định chướng, tại sao chẳng phân làm hai mà chỉ phân hại và tùy miên?

Đáp: Định chướng thông ở sự quán đoạn, cũng có phục đắc, nghĩa là phiền não cần chỉ lý quán trừ nên không phục đắc. Giả sử có Dị sinh đắc định, phục phiền não cũng gọi là định chướng, vì vốn cầu định mà chưa cầu lý. Thắng đắc là ẩn mà khó biết, nên phân biệt nói khiến dễ thể nhập. Phàm đắc là có thể đoạn, lại phàm đắc dễ mà cùng hiển, sao lại phải khai mở trong pháp chấp.

Hỏi: Thứ bảy ảnh tượng nhiếp tướng về kiến có thể gọi là Hữu phú, nhiếp ảnh về chất có thể gọi là Vô phú, thì lẽ ra nhiếp tướng về kiến gọi là phân biệt, nhiếp ảnh về chất được gọi là Dị thục?

Đáp: Chẳng lìa kiến nên tánh loại có thể đồng, chẳng phải là năng duyên nên chẳng gọi là phân biệt. Thác chất vừa mới khởi có thể từ Vô phú, chẳng phải nghiệp quả nên chẳng từ Dị thục.

Hỏi: Chẳng phải là năng duyên, chẳng từ phân biệt, hữu phú lẽ ra phải vậy, chẳng phải là nghiệp quả chẳng từ Dị thục, Vô phú nên như vậy ư?

Đáp: Tánh thông nhiều pháp, hai tánh có thể từ kiến, quả nghĩa hạn cuộc chẳng từ phân biệt và gọi là Dị thục. Hai pháp chấp đây thô nên dễ đoạn. Lúc vào Sơ địa cho đến trừ diệt. Phần đầu có bốn thứ:

1. Địa vị, ban đầu tại Sơ địa đoạn chẳng phải các Địa khác.

2. Thánh đạo, ban đầu trong đó chỉ có Kiến chẳng phải Tu vậy.

3. Chân tướng, ban đầu tại chân Kiến đạo chẳng phải tướng Kiến đạo vậy.

4. Bốn đạo, ban đầu lại Vô gián đạo chẳng phải Giải thoát đạo.

Đây y cứ một tâm Kiến đạo, chẳng phải đoạn thô trọng giải thích. Tại bốn loại đây, ban đầu đoạn phân phá riêngp chấp. Nếu Giải thoát đạo đoạn thô trọng, ba tâm Kiến đạo v.v… tùy nghĩa nên nói, mê cạn hẳn sâu, nhân chấp hẳn pháp. Giải thích cạn chẳng phải sâu, nhân không chẳng phải pháp, ngộ sâu hẳn cạn, pháp không có nhân, mê sâu cũng cạn, pháp nhân đều khởi, nhưng nhân hẳn thường nhất. Hữu pháp chẳng kẹt nhân, nhân dụng hẳn kẹt thể, nhân chấp nhất định có pháp.

Duyên dụng hẳn y cứ thật có thể nghĩa là đây căn cứ Chánh Lý. Ngoại đạo, Tiểu thừa chấp trước, thể không gì chẳng được thành duyên, có nghĩa sở duyên. Quyển trước đã nói thừa nhận Tát-bà-đa v.v… vì có cực vi, thành nghĩa duyên mà không có sở duyên. Căn cứ tha tỷ lượng, chẳng phải chỗ tự thừa nhận, nay thuật về chánh nghĩa nên chẳng trái nhau. Đồng tụ tâm sở đồng thừa nhận duyên nhau, quyển 8 sau ghi: “Chớ thấy phần cảnh vì chẳng đồng chất”, ngăn lỗi thấy phần cảnh chẳng đồng chất, chẳng phải khiến biết năng duyên hẳn đồng là Kiến phần. Kiến phần thứ tám và Phật cùng pháp tương ưng tự thể chứng phần v.v… đồng một sở duyên, Kiến phần của tự nên chẳng trái nhau.

Hỏi: Pháp tâm, tâm sở pháp đã tự tương ưng, các Tự chứng phần đã chẳng đồng một sở duyên, sở duyên cũng chẳng tương tợ, tại sao nói là tương ưng? Chứng tự chứng phần là hỏi đồng. Tự chứng là thức thể, vì sao chẳng tương ưng? Phải đủ thời v.v… y, v.v… sự, v.v… xứ v.v…. Đây khuyết xứ v.v… mỗi duyên tự thấy chẳng phải kẻ khác vậy. Nghĩa này nên tư duy.

Ngã pháp nếu không y vì sao giả nói, nghĩa là chỗ tương tợ đã không nói ai là năng tợ, vì năng tợ giả nói không, tợ của cộng pháp cũng chẳng thành, chẳng được riêng giải thích nghĩa y ở thể v.v… là giả. Thế gian và Thánh giáo, hai tợ đều chẳng thành.

Trong phá Tiểu thừa chân sự có ba: Thứ nhất tổng nêu các lỗi, kế tiếp là nêu riêng, sau cùng kết y. Trong nêu riêng có ba: Thứ nhất nêu chẳng y chân chỉ y cộng tướng chuyển. Tiếp theo hiển thuyên trí có công năng thù thắng cũng chẳng phải lìa đây v.v…. Sau cùng tổng bày giả nói chẳng y chân sự, nhưng giả trí thuyên hẳn y tiếng khởi v.v…. Do đây, chỉ y dưới, tổng kết giả trí sở y.

Theo luận Phật Địa quyển 6 ghi: Nếu cảnh cộng tướng hai lượng sở tri, tại sao hai tướng y hai lượng lập? Có nghĩa hai tướng tại tán tâm vị y hai tướng lập, chẳng nói định vị. Nếu tại định tâm duyên tất cả tướng, đều thuộc hiện lượng, có nghĩa định tâm chỉ duyên tự tướng.

Nhưng do cộng tướng phương tiện dẫn nên duyên các cộng tướng chỗ hiển bày lý, là căn cứ phương tiện nói. Chẳng như vậy thì gọi là biết tự tướng. Do đạo lý này, hoặc nói Chân như gọi là không, vô ngã, các pháp cộng tướng. Hoặc nói Chân như do hai Không hiển bày, chẳng phải là cộng tướng. Như thật nghĩa là, hai tướng Nhân Minh so với đây có khác chút ít. Luận kia nói trên pháp chỗ có thật nghĩa đều gọi là tự tướng, vì trên các pháp, tự tướng cộng tướng vì mỗi mỗi gá tự thể, chẳng cùng thể khác. Nếu phân biệt tâm lập một chủng loại, thì năng thuyên sở thuyên thông ở các pháp, như chỉ xâu hoa gọi là cộng tướng. Đây cần tán tâm phân biệt giả lập cảnh tỷ lượng này, tất cả định tâm lìa phân biệt này đều gọi là hiện lượng. Tuy duyên các pháp khổ, vô thường v.v… cũng mỗi một pháp mỗi riêng có nên gọi là tự tướng. Chân như tuy là do cộng tướng hiển bày, vì là các pháp tánh tự thật. Tự có tánh nên cũng chẳng phải cộng tướng, chẳng thể lấy đó so với tất cả pháp chẳng một chẳng khác tức gọi là cộng tướng. Tự tướng cũng cùng cộng tướng chẳng một chẳng khác. Cho nên luận kia nói trên các pháp chỗ có thật nghĩa đều gọi là tự tướng, nghĩa kinh chẳng như vậy nên chẳng trái nhau, cũng chẳng phải lìa đây có phương tiện riêng, có hai giải thích:

1. Tức dùng giả trí thuyên thi thiết tự tướng làm giả sở y, do giả trí thuyên hiển nơi pháp vậy, như ngón tay chỉ mặt trăng v.v… nếu không như vậy tại sao nói là tự tướng năng chứng đắc.

2. Giả trí thuyên cảnh chẳng được tự tướng, cũng chẳng phải lìa hai thứ này lại riêng có phương tiện thi thiết tự tướng có thể làm giả sở y.

Hiển hai thứ này đã chẳng được tự tướng. Lìa đây cũng không có phương tiện có thể được tự tướng. Ý hiển bày tự tướng trừ ngoài chứng trí thì chẳng thể có được.

Quyển 49 lập bảy Địa:

  1. Chủng tánh địa.
  2. Thắng giải thích địa.
  3. Tịnh thắng ý lạc địa.
  4. Hành chánh hạnh địa.
  5. Quyết định địa.
  6. Quyết định hạnh địa.
  7. Đáo cứu cánh địa.

Trong quyển 47 có Chủng tánh, Thắng giải thích hạnh, Cực hỷ, Tăng thượng giới, Tăng thượng tâm, Tam tuệ Đế giác phần, Duyên khởi,

Vô tướng có công dụng, Vô tướng không công dụng, cho đến Vô ngại giải thích, Tối thượng Bồ-tát trụ, Tối cực Như Lai trụ. Chủng tánh địa tức Chủng tánh vị, Thắng giải thích hạnh địa là Thắng giải thích hạnh địa vị. Tịnh thắng ý lạc địa tức Cực hỷ trụ, Hành chánh hạnh địa tức Tăng thượng hoặc, Tăng thượng tâm, ba thứ Tăng thượng tuệ, có công dụng gia hạnh vô tướng trụ, Quyết định địa tức không gia hạnh không công dụng không tướng trụ. Có ba quyết định:

  1. Chủng tánh định.
  2. Phát tâm định.
  3. Bất hư hành định.

Trong Địa đây, Bồ-tát rơi ở quyết định thứ ba. Quyết định hạnh địa tức Vô ngại giải thích trụ. Đáo cứu cánh địa tức Tối thượng thành mãn Bồ-tát và Như Lai trụ hợp lập.

A-lại-da đó gọi là tại bốn Địa trước, Tỳ-bá-ca gọi là thông sáu Địa rưỡi. Trong Địa thứ bảy nhiếp Bồ-tát Địa thứ mười. A-đà-na gọi là suốt thông bảy Địa, nhưng y cứ tạp nhiễm vị, phần nhiều Dị thục thông A-lại-da. Lại mười ba trụ, thứ nhất gọi là thông chín, thứ ba gọi là thông mười ba, Dị thục gọi là gồm cả mười hai nên gọi là nhiều, y cứ sinh tử nêu nên chỉ lấy đây. Hai giải thích này y cứ chỗ duyên bất cộng, lấy cảnh ba tánh làm sở duyên là chẳng nói hai Thừa, hai Thừa hồi thú cũng thuộc đây. Hai giải thích của sớ thông với giải thích ba Thừa. Trên đây chọn tự thể mà gọi, hẳn đó chọn chẳng gọi là tâm, do đó đồng với tên gọi A-lại-da. Tên gọi ý không bằng Thức thứ bảy nên chẳng lấy. Lại chọn thức khác, nhiều là nghĩa tương tục. Tất cả thời, hành gọi đó là nhiều, nhiều thời hành. Dị thục là nghiệp quả. Dị thục quả trong năm quả. Sáu thức tuy có Dị thục mà chẳng phải nhiều. Thức thứ bảy tuy nhiều mà chẳng phải Dị thục vậy, chỉ có tên gọi này. Lại, nhiều là nghĩa rộng, tức là tổng nghĩa. Nghĩa của Dị thục tuy thông sáu thức, chẳng phải là tổng báo chủ nên chẳng lập nhiều tên gọi. Thức thứ bảy chẳng phải nhiều chẳng phải Dị thục nên gọi là Dị thục, các thức khác chẳng gọi vậy.

Lại, Tư lương là chọn lựa thức khác như sớ, lại chọn lựa tự. Tại sao đây gọi là ý? Có hai nghĩa:

  1. Y chỉ gọi là ý.
  2. Tư lượng gọi là ý.

Tại sao gọi tư lượng, chẳng gọi là y chỉ? Danh của y chỉ là cộng tha, nay chẳng cộng. Lại, y chỉ, danh gồm tha hiển tự. Vì năng y chỉ hiển bày sở y vậy, tên gọi của tư lượng, nghĩa tự hành tướng, vì hành hiển thể, vì duyên nhiều nên tương tục hằng khởi. Hành tướng duyên xa gọi đó là thẩm, nên dùng hành tướng tư lượng mà hiển tự tánh, chẳng gọi là y chỉ. Lại hiện chánh tư lượng gọi đó là ý. Luận Đối Pháp quyển 2 ghi: “Vô gián giác nghĩa là ý, tức lần lượt diệt căn”. Nay tư lượng đây là chánh tư lượng hiện hành, chọn lựa vô gián, nên gọi là hằng, hiển tư lượng đây bằng hiện tại. Lại, chọn lựa tên gọi của tự thể, tại sao chẳng gọi tâm thức, mà riêng gọi là ý? Luận Bách Pháp v.v… nói thức có tám thứ. Hữu tâm địa nói tám thức đều gọi là tâm, vì nghĩa của hằng thẩm tư lượng ưu thắng hơn các tên gọi khác. Nếu hằng tập khởi gọi là tâm, chẳng bằng Thức thứ tám. Nếu liễu cảnh gọi là thức, chẳng bằng sáu thức khác, nên dùng tên gọi ý mà nêu tự thể chứ không nói là tâm thức. Do đây chọn lựa thức khác có hai nghĩa, các thức khác đây chẳng phải hằng và chẳng phải thẩm, điều này như sớ giải thích. Thứ hai, tâm thức trong đây chẳng bằng Thức thứ tám, Thức thứ sáu. Hằng dụng của tư lượng tự thức ưu thắng hơn tâm thức. Chọn lựa trong tên gọi tự thể cũng có hai: một, chẳng chỉ y chỉ giải thích ý, chẳng phải nghĩa của y chỉ trong các luận hành đó gọi chung; hai, hiển thường hiện tại chẳng phải vô gián giác.

Lại, Liễu cảnh là:

  1. Chỉ hành tướng Kiến phần mà hiện tự thể.
  2. Chọn lựa thức khác có bốn nghĩa:
  3. Dễ cùng biết, thuộc của trẻ con đều biết có vậy.
  4. Cùng thừa nhận có.
  5. Thừa cùng thừa nhận, vì ba hành tướng thô.
  6. Sở duyên thô.

Chỉ thức thức sáu gọi là Liễu cảnh, các thức khác chẳng được gọi. Lại, tự thể có thể gọi là tâm ý. Vì sao chỉ gọi là thức, chẳng gọi là tâm ý v.v…? Vì hành tướng của Liễu cảnh thô nên dễ biết, hiển tự tánh của nó. Tâm ý chẳng như vậy, nhãn thức v.v… gọi là tâm, nghĩa khó biết. Hữu tâm địa ghi: “Tám thức đều là tâm”. Đối Pháp v.v… ghi: “Vô gián giác ý, nên chọn lựa tên gọi của tự thể nó”. Lại chọn lựa chẳng gọi Dị thục v.v…, tên gọi Dị thục v.v… tướng khó biết vậy, phần nhiều chẳng phải phần, ngoài ra những nghĩa riêng khác như Đối pháp sao và Biệt chương giải thích.

Thể tướng ngầm ẩn gọi đó là nhân, nên chỉ tại chủng. Thể dụng hiển hiện lập làm quả, gọi là kiến nên chẳng tại chủng. Nếu không như vậy, lẽ ra phải thông cả nhân quả.

Trong năng biến có tám câu, trước tiên gom chung nhân quả làm một câu, tiếp đến Đẳng lưu, Dị thục mỗi mỗi riêng nhân quả làm một câu, tiếp đến dùng hai tướng làm một câu, và sau cùng chuyển biến, biến hiện làm một câu, tổng cộng có hai mươi câu, nên suy xét. Có chỉ chuyển biến gọi biến, chẳng phải biến hiện gọi là biến, đó là tất cả chủng tử. Có chỉ biến hiện gọi là biến chẳng phải biến hiện gọi là biến, đó là nhân thứ tám và nghiệp quả hiện hành trong sáu thức, và công đức Phật, tất cả các tâm, tâm sở. Câu có đồng thời nghĩa là do bảy thức. Đều chẳng phải nghĩa là Tướng phần Dị thục chỉ là sở biến. Tất cả nhân vị có lực, vì Tướng phần là năng huân, cũng chuyển biến gọi là biến chẳng phải biến hiện gọi là biến, thuộc về câu thứ nhất. Tướng phần nghiệp quả sáu thức trong nhân đó và tất cả, Thức thứ tám, Tướng phần Phật quả, các tâm, tâm sở đều là câu thứ tư. Lại có nhân biến chẳng phải quả biến, đó là thành Phật rồi, bỏ tất cả chủng Hữu vi Vô lậu, Phật lại không hiện huân sinh, có quả biến chẳng phải nhân biến, đó là nghiệp quả trong Thức thứ tám, thứ sáu và Phật tất cả hiện tâm, tâm sở. Câu đồng thời nghĩa là do bảy Thức năng huân hiện hành và năng sinh chủng. Câu phi là tất cả Tướng phần trên Phật quả, chỉ lấy Đẳng lưu làm nhân quả năng biến làm bốn câu. Hoặc chỉ nhân Đẳng lưu chẳng phải quả biến. Quả của Bồ-tát Đại bi, chủng Vô lậu Pháp nhĩ chỉ có quả Đẳng lưu chẳng phải nhân biến, đó là Phật quả hiện tám thức. Câu có đồng thời tức nhân thứ bảy và sáu thức Vô lậu đều do oai nghi công xảo biến hóa làm chủng của nhân. Câu câu phi tức Tướng phần Phật quả. Trong phần dùng Dị thục làm nhân quả năng biến làm bốn câu, chỉ có ba câu, không có câu thứ ba. Chủng tử Hữu lậu thiện ác làm câu đầu. Nghiệp quả hiện hành chủng tử của Thức thứ tám và sáu thức làm câu thứ hai, không có câu thứ ba. Câu phi thì như lý mà tư duy.

Văn tụng các khoa đều thuật riêng.

Thức thứ bảy và sáu thức chẳng phải thiện ác và tâm nghiệp quả v.v… là ở tám thức, mỗi thức làm năm câu, sau riêng nên tư duy. Chân Dị thục đủ ba nghĩa:

  1. Nghiệp quả.
  2. Chẳng đoạn. 3. Khắp ba cõi.

Thức thứ bảy đủ hai nghĩa sau, chẳng phải nghĩa trước. Thức thứ sáu báo tâm đủ hai nghĩa trước và sau, chẳng có nghĩa giữa. Chẳng phải báo tâm đủ một nghĩa sau, chẳng có hai nghĩa trước. Báo tâm của năm thức đủ một trước, chẳng có hai nghĩa sau. Chẳng phải báo tâm, ba nghĩa đều không, nên chỉ Thức thứ tám riêng được tên gọi đó.

Trong mười nhân, Thức thứ tám hiện hành mong các pháp năng làm bao nhiêu nhân?

  1. Quán đãi.
  2. Nhiếp thọ, vì tác dụng, y xứ nhiếp thọ nhau.
  3. Đồng sự.
  4. Bất tương vi, vì chẳng phải ngôn thuyết.

Chẳng phải nhuận, chưa nhuận sinh quả sau, chẳng phải dẫn phát, định vị, chẳng thân dẫn tha sinh, chẳng phải định phân biệt sinh, nên chẳng trái nhau. Tư duy có thể biết, chủng thức mong các pháp năng làm bao nhiêu nhân? Có thể làm Quán đãi, Khiên dẫn, Sinh khởi, Nhiếp thọ, Dẫn phát, Định vị, Đồng sự, Bất tương vi hợp thành tám nhân, chỉ không có hai thứ Tùy thuyết và Tương vi.

Chuẩn cứ trong đây nói, ba tướng đều chỉ có hiện hành, vì hiện có thể thấy, chấp trì thù thắng, từ thù thắng làm tướng. Ba tướng của Thức thứ tám, Nhiếp luận quyển 2 nói lấy chủng làm nhân tướng, vì các pháp nhân duyên; hiện hành làm quả tướng, vì hai chủng sinh. Hiện hành chủng tử đều làm tự tướng, Hiện hành chủng tử đều làm tự thể. Lại, nói chỉ có hiện hành, xứ sở tàng gọi là sở tàng. Bản ý văn của bản luận như đây. Lại nói, tự tướng, nhân tướng chung giải thích hiện hành và tất cả chủng tử năng tàng, sở tàng của Thức thứ tám. Thể tự tướng thông tất cả chủng tương ưng lại phân biệt. Nhân tướng cũng thông. Quả tướng đó chỉ là hiện hành chủng tử của Thức thứ tám, trừ chủng tử khác, vì chẳng phải Dị thục. Quyển 4 nói, ba tướng đều lấy hiện hành và tất cả chủng tử cùng chuyển thức hỗ tương làm nhân quả. Nhiếp luận ghi: “Nói các pháp do huân tập sinh”, đây từ Dị thục kia cùng chuyển thức lại hỗ tương làm duyên sinh. Quả tướng cũng thông. Lại các pháp ở tạng thức, thức ở pháp cũng vậy v.v… tại nhân đủ ba tướng. Phật quả chỉ tự tướng, nhân tướng, không có quả tướng, chẳng phải huân, chẳng phải Dị thục. Nếu chuẩn cứ bài tụng ở Nhiếp luận nói chẳng chỉ Dị thục gọi là quả tướng, chỉ từ tha sinh, gọi là quả tướng. Phật quả hiện hành có thể gọi là quả tướng, tự chủng sinh. Giải thích trước là thù thắng, mong thứ khác làm nhân quả.

Hỏi: Ba tạng khuyến một chẳng gọi là A-lại-da, ba trì khuyết một chẳng gọi là chấp trì ư?

Đáp: Vốn lấy chấp tàng giải thích tạng, khuyết một chẳng gọi là chấp trì ư?

Đáp: Vốn lấy chấp tàng giải thích tạng, khuyết đây bèn mất tên đó. Vốn mỗi mỗi lấy chấp trì gọi là trì, khuyết một cũng gọi là chấp trì. Lại, ba cảnh có sai biệt, khuyết một cảnh còn gọi là năng trì. Tạng là dụng của sở tàng, khuyết một chẳng gọi là A-lại-da.

Hỏi: Thức thứ bảy khuyết nghĩa của một trong ba, nên chẳng gọi là Mạt-na ư?

Đáp: Nói Mạt-na, nhưng nghĩa chung có nhiễm, nghĩa riêng không còn gọi là Mạt-na, có tư lượng vậy, nghĩa là thân sinh tự quả trong bản thức. Nay chọn lựa Số luận, Số luận lớn bằng tàng trong tối thắng.

Nếu do tánh chủng tử bản thức thì cùng theo Vô ký cũng nên cùng theo một cõi trói buộc. Trói buộc là căn cứ nghĩa trói buộc. Kiến tướng trói buộc riêng, Vô ký là tánh. Tánh loại lại đồng, chẳng thể vặn hỏi vì đồng một tánh nên tương ưng chẳng phải sắc. Luận Du-già quyển 57, trong hai mươi hai căn ghi:

Hỏi: Có bao nhiêu Dị thục?

Đáp: Một là ưu, mười thiếu phần, nghĩa là tín v.v… năm, bốn thọ, ý, thông Vô lậu.

Hỏi: Không có bao nhiêu Dị thục?

Đáp: Mười một nghĩa là bảy sắc, mạng, ba Vô lậu. Mười thiếu phần, nghĩa là bốn thọ, ý, thông Vô ký. Tín v.v… năm thông Vô lậu.

Hỏi: Có bao nhiêu Dị thục trợ bạn?

Đáp: Ba sau cùng, năng trợ có pháp khả ái Dị thục, khiến chuyển rõ thạnh năng cảm quyết định Dị thục trời người.

Hỏi: Bao nhiêu là Dị thục?

Đáp: Một mạng căn, chín thiếu phần, bảy sắc, ý, xả.

Hỏi: Bao nhiêu loại có chủng tử Dị thục?

Đáp: Tất cả đều có.

Hỏi: Bao nhiêu chẳng phải Dị thục?

Đáp: Mười hai, nghĩa là tín v.v… năm, ba Vô lậu, bốn thọ, chín thiếu phần, đó là chín trước, chung với trưởng dưỡng thiện tánh v.v….

Hỏi: Bao nhiêu là Dị thục sinh?

Đáp: là tất cả những gì thuộc chủng tử vì do Dị thục sinh. Trong đây tuy có bảy câu hỏi, gồm ba môn phân biệt. Ba loại trước là một môn, tiếp theo hai loại là một môn, và hai loại sau là một môn. Câu hỏi thứ hai trong môn thứ hai, và câu hỏi thứ hai trong môn thứ ba, đúng là vặn hỏi tánh Vô ký trong chủng tử Duy thức. Hoặc làm hai môn: ba loại trước là một môn và bốn loại sau là một môn.

Chẳng phải huân khiến lớn có thể gọi là nhân duyên, nghiệp thiện ác cùng quả Dị thục làm nhân duyên là, nếu nghiệp hiện hành mong tự nghiệp chủng khiến tăng gọi là nhân, tức nghiệp chủng cũng khiến quả chủng tăng, nên gọi là nhân duyên. Nghĩa đây có thể vậy, nhưng chẳng phải đúng lắm. Mới đầu huân tập vị đã khiến quả chủng tăng, chẳng phải về sau. Chẳng phải nghiệp chủng khiến quả chủng tăng, chỉ nên như sớ giải thích. Trong đây Bồ-tát Hộ Pháp nói hiện hành mong chủng tử vốn không có nghĩa nhân duyên, chỉ là tăng trưởng. Vì sao có thể nói chủng tử hiện hành hỗ tương làm nhân duyên? Bồ-tát Hộ Pháp đã còn mới cũ, mong cái mới huân tập chính là nhân duyên, mong chủng vốn có là tăng thượng duyên, vì chẳng biện về thể.

Luận nếu vậy thì Chân như nên là giả có, đây có nhiều lỗi. Tông có tỷ lượng trái nhau, cũng có quyết định trái nhau, cũng có tự bất định. Tỷ lượng trái nhau là chủng tử nên chẳng phải nhất định giả, cùng pháp chẳng phải một hay khác, cũng như nói Chân như, là như bình v.v… cùng pháp chẳng phải một hay khác, nên chủng tử là giả. Như Chân như cùng pháp chẳng phải một hay khác, nên chủng thật có ư? Nên đây là lỗi bất định. Chủng tử dùng các môn phân biệt, như Biệt sao giải thích. Phần sau là chỉ giải thích vặn hỏi thứ hai trong tân huân, giải thích phần một và bốn trước thông với văn làm chứng, thứ tư giải thích tương vi, sau cùng có ba đoạn văn làm chứng khác nhau.

Trong phá tân huân, toàn văn có năm đoạn, như sớ giải thích. Thứ nhất, phá nghĩa bản tông, trong đó có ba: một, vặn hỏi đạo mới đầu không có nhân; hai là vặn hỏi trái nhau cùng khởi; ba là vặn hỏi phàm thánh chuyển đổi.

Trong phá Phân Biệt luận có ba đoạn: Thứ nhất thuật tông, kế tiếp phá riêng và sau cùng tự giải thích. Trong phá riêng có hai đoạn: Trước vặn hỏi lý Không chẳng phải nhân, sau vặn hỏi khởi tâm chẳng phải tịnh. Trong vặn hỏi khởi tâm chẳng phải tịnh có tám đoạn:

  1. Vặn hỏi tướng chuyển thể thường trụ.
  2. Vặn hỏi hai tánh lẽ ra đồng.
  3. Vặn hỏi ác và thiện đồng thời.
  4. Vặn hỏi chẳng đồng thời chẳng phải thiện.
  5. Vặn hỏi ác chẳng phải nhân.
  6. Vặn hỏi trị chướng tánh đồng.
  7. Vặn hỏi phàm phu khởi thánh.
  8. Vặn hỏi hiện hành chủng tử lẽ ra đồng, Đại chúng bộ v.v… không chủng tử.

Phá Phân Biệt luận mà nói thành chủng là, riêng phá các dị sư Đại thừa. Lại Kinh bộ riêng có chủng tử. Tát-bà-đa nghĩa nhân nghĩa chủng tử, nhân Hữu lậu vô lậu ở tương lai. Đại chúng so đây cũng vậy. Trong thân phàm phu có thể sẽ sinh nghĩa nhân của Vô lậu gọi là chủng tử, chẳng đồng Kinh bộ v.v… Lại, chẳng tương ưng Tùy miên cũng gọi là chủng tử v.v…

Thứ tư trong tương hợp tương vi có bốn đoạn:

1. Đoạn từ “trong các Thánh giáo tuy nói nội chủng” trở xuống là văn tổng hợp nội chủng trước, nhất định có huân tập và ba huân tập v.v…

2. Đoạn từ “nghe huân tập” trở xuống là văn tổng hợp Nhiếp luận trước nói nghe huân tập nghe tịnh pháp giới Đẳng lưu.

3. Đoạn từ “tánh Hữu lậu trong nghe huân tập” là tổng hợp văn Nhiếp luận trước là tánh chủng tử tâm thế gian và xuất thế gian.

4. Đoạn từ “nương chướng kiến lập chủng tánh riêng” trở xuống là văn tổng hợp luận Du-già trước nói hữu tình xưa nay chủng tánh sai biệt.

Hoặc phân làm năm đoạn, nếu làm bốn đoạn, tổng hợp văn của nhà nêu dẫn tân huân trước, nay làm năm khoa, cũng kết hợp với văn của Đối Pháp trước. “Tánh Hữu lậu trong nghe huân tập” trở xuống là văn tổng hợp Đối Pháp nói quyết trạch thiện căn khéo được kiến lập làm tánh Vô lậu và Tu đạo sở đoạn. “Đây là chánh nhân duyên vi tế ngầm ẩn vặn hỏi rõ” trở xuống mới hợp Nhiếp luận là xứ tánh chủng tử tâm xuất thế, nghĩa gồm hợp bên cạnh, ở lý là ưu thắng. Kinh Đa Giới trong tân huân trước tức là chứng cứ của nghĩa tân huân nhà đây, nên chẳng phải tổng hợp. Tổng hợp trong luận Du-già có hai: Trước hợp, sau vặn hỏi. Trong hợp có ba: Thứ nhất nêu, tiếp theo giải thích, sau cùng tổng kết. Trong vặn hỏi cũng có ba: Thứ nhất lập lý, tiếp theo phá chhíng chế và sau cùng phân bày vặn hỏi.

Luận Du-già quyển 5 kiến lập nhân có bảy tướng:

1. Pháp vô thường là nhân. Pháp không có thường năng làm nhân của pháp, đó là làm sinh nhân, đắc nhân, thành lập nhân, thành biện nhân, tác dụng nhân, tức ngay sát-na diệt thứ nhất trong sáu nghĩa.

2. Tuy pháp vô thường làm nhân của pháp vô thường, nhưng cùng tánh khác làm nhân, cũng cùng tự tánh niệm sau làm nhân, chẳng phải tức sát-na đây, tức ngay quả đồng thời thứ hai và hằng tùy chuyển thứ ba trong sáu nghĩa. Nó cùng tánh khác làm nhân tức là chủng mong ở hiện hành gọi là tánh khác. Duyên, chẳng duyên ngại, chẳng ngại ẩn hiển v.v… các thứ khác nên gọi là tánh khác, tức quả cùng có. Nó cùng tự tánh sau làm nhân chẳng phải tức sát-na đây. Chủng tử tương sinh gọi là tự tánh, trước sau cùng sinh, tức hằng tùy chuyển. Nên Duy thức ghi: “Đây hiển chủng tử tự loại tương sinh”. Nhiếp luận, Duy thức lấy quả thế gian riêng mở làm hai. Luận Du-già căn cứ một niệm nhân năng sinh hai quả, nhân không riêng nên hợp làm một, cũng chẳng trái nhau. Nếu các chủng tử sinh quả nên lấy thuyết trong sở huân. Đồng thân chẳng lìa nhau, tức vì người chết bảy trai tuần cầu phước, nào có người khác làm mà được tự thân thọ quả ưu thắng v.v… Lại, thân trong nẻo khác làm sao thọ quả? Có giải thích nẻo trước có tướng thiện ác khiến người chịu tội khéo phát tâm thiện. Lại, trong kinh ghi: “Phía trên địa ngục v.v… có phướn đen trắng bày tướng thiện ác, khiến người tội kia phát tâm thiện. Nếu vậy thì quỷ, súc sinh, người, trời, không có phướn đen trắng lẽ ra chẳng thọ quả. Có giải thích chỉ là thế tục kia nói, đâu hẳn được quả. Ta giết thì ta lại chạy tránh cũng là khó. Lại giải thích do người làm nguyện ưu thắng nguyện giúp khiến người chịu tội trong bảy phần được một. Lại do người chết từng có xứ phần làm việc thiện ác. Hiện tại là làm quả toại bản tâm. Có quả báo đồng nẻo có thể nhận chịu, nẻo khác thành khó. Lại không tướng nhận chịu hết, y cứ danh ngôn chủng sinh tự đồng loại. Có tướng nhận chịu hết, đó là nghiệp thiện ác được danh ngôn chủng cảm tánh khác, tiếp đến lúc khô héo, chẳng phải thiện ác chủng sinh tự thiện ác mà có khô héo.

3. Tuy cùng tánh khác và tự tánh sau làm nhân, nhưng đã sinh chưa diệt mới có thể làm nhân, chẳng phải chưa sinh đã diệt, tức ngay quả cùng có và hằng tùy chuyển trong sáu nghĩa. Duy Thức ghi: “Tuy nhân và quả có cùng chẳng cùng, nhưng lúc hiện tại có thể có dụng của nhân, chưa sinh đã diệt không có tự thể”, đây là chánh hiển thế của vi nhân, chẳng phải nghĩa của chánh chủng tử. Nhân của hiện hành được các quả v.v… đều cũng vậy. Nên Nhiếp luận, Duy thức dùng thông các pháp chẳng chỉ có chủng tử. “Nhân nói năng mà nêu ra” trong quả đồng thời, luận Du-già trước đã hợp hai làm một, nên Biệt môn nói thế của vi nhân, nên chẳng trái nhau. Hiện tại, quá khư, vị lai chẳng phải chủng tử.

4. Tuy đã sinh chưa diệt mới có thể làm nhân, nhưng được các nhân khác chứ chẳng phải không được, tức Đãi chúng duyên thứ năm trong sáu nghĩa.

5. Tuy được các duyên khác nhưng thành biến dị mới có thể làm nhân, chẳng phải chưa biến dị tức là môn “không có Biệt tướng” trong sáu nghĩa, thuộc về Đãi chúng duyên. Đãi duyên có hai: một là nhân thể chẳng có thể sinh quả nên đợi các duyên; hai là đợi duyên rồi mới biến dị. Luận Du-già căn cứ thể tức có khác, mở một làm hai. Nhiếp luận, Duy thức dùng nghĩa đợi duyên v.v… hợp hai làm một, cũng chẳng trái nhau, biến dị là nghĩa chuyển đổi.

6. Tuy thành biến dị hẳn cùng công năng tương ưng mới có thể làm nhân, chẳng phải mất công năng, tức tánh quyết định thứ tư trong sáu nghĩa.

7. Tuy cùng công năng tương ưng, nhưng hẳn tương xứng tương thuận mới có thể làm nhân, chẳng phải chẳng tương xứng tương thuận, tức dẫn tự quả trong sáu nghĩa.

Nói tóm lại, hợp quả đồng thời thứ hai và hằng tùy chuyển thứ ba trong sáu nghĩa. Nghĩa môn thứ hai, thứ ba của luận Du-già đối thuyết, mở Đãi chúng duyên thứ năm trong sáu nghĩa làm thứ tư, thứ năm trong luận Du-già. Ngoài ra, tất cả sáu và bảy không sai biệt. Xét luận Du-già sao quyển 5.

Trong Sinh dẫn nhân, luận Du-già v.v… ghi: “Chủng tử chưa đượm nhuần gọi là Khiên dẫn nhân, chủng tử đã đượm nhuần gọi là Sinh dẫn nhân. Ba tánh, mười nhân thảy đều như vậy”. Quả tuy hợp làm một, chẳng luận viễn, cận chánh, tàn sinh, dẫn, chủng năng sinh đó thông nghiệp và nhân duyên, chưa đượm nhuần bỏ quả xa gọi là Dẫn nhân. Đã đượm nhuần bỏ quả gần gọi là Sinh nhân. Chánh hợp năng dẫn sở dẫn nói là Dẫn nhân, năng sinh là nghĩa Sinh nhân. Ba tánh mười nhân tức là ba nghĩa của Sinh nhân, Dẫn nhân và hai không tánh hợp thành năm giải thích. Đã có chánh, tàn làm Sinh, Dẫn; cũng có nội ngoại, quả làm Sinh và Dẫn.

Nhân quả đồng thời trong ba pháp triển chuyển, vặn hỏi: Chủng tử cũ sinh hiện hành mới là nhân quả chủng sinh. Chủng tử và hiện hành mới huân thành là nhân quả hiện khởi, nếu là chủng tử mới không có lực sinh chỉ theo hiện hành sinh, thì lẽ ra hiện hành mới lực còn kém nhỏ làm sao khởi chủng tử mới?

Đáp: Hiện hành mới duyên đều đủ, chủng tử mới lẽ ra theo đó sinh, chủng tử mới chưa gặp duyên nên chẳng thể sinh hiện hành.

Hỏi: Chỗ hiện hành mới khởi tức nói duyên đã đủ, chủng tử mới cũng mới sinh, sao chẳng gọi là duyên đủ?

Đáp: Hiện hành mới năng huân bốn nghĩa đủ, nói hiện hành gặp duyên, chủng mới chưa gặp, gia hạnh dẫn nên chẳng gọi là duyên đủ, vì cần phải do thế lực gia hạnh trước dẫn dắt, chủng tử mới sinh hiện hành.

Hỏi: Năng huân bốn nghĩa đủ, tức nói hiện hành sinh chủng tử.

Chủng tử sáu nghĩa thành, nên nói có thể sinh hiện hành ư?

Đáp: Gặp và chẳng gặp duyên cả hai có khác, như trước đã giải thích.

Quyển 66 ghi: Năm tướng gọi là chấp thọ, tướng thứ nhất có ba:

1. Chỉ sắc gọi là có chấp thọ, đây ngăn tâm, tâm sở v.v… vì chẳng phải chấp thọ.

2. Tất cả nội căn, chỗ căn nương thuộc trong sắc gọi là chấp thọ; đây ngăn ngoài, chẳng thuộc căn sắc, vì chẳng phải chấp thọ.

3. Tâm, tâm sở nhậm trì chẳng xả bỏ gọi là chấp thọ, phải biết đây ngăn quá khứ, vị lai và đời hiện tại nương thuộc căn tóc, móng v.v… và ngăn sau khi chết chỗ có thân bên trong, vì chẳng phải chấp thọ. Chấp thọ có ba nghĩa:

4. Nghĩa sinh giác thọ, tức văn luận Đối pháp.

5. Năng sinh giác tụ loại, tức văn quyển 56.

6. Thân lãnh làm cảnh, an ách đồng nghĩa, tức văn đây và văn quyển 51 v.v….

Thứ hai, ba biến đều giải thích hạnh của thể, chỉ Năng biến thứ nhất giải thích hạnh chẳng phải thể. Đây có hai giải thích:

1. Luận đủ là chất, luận chẳng đủ là ảnh.

2. Biến thứ nhất có ba tướng, hai biến sau đều không, tự tướng tức tự thể.

Biến thứ nhất chỉ giải thích hạnh, chẳng thể lập lại bày rõ tự thể. Hai biến sau chẳng như vậy, hạnh và thể đều giải thích, giải thích đây ít năng.

Trong “đạt cảnh sở duyên không lìa thức”, nói hành tướng tương tợ, tuy quyển 3 có hai hòa hợp, nhưng không phân biệt trí duyên Chân như, sở duyên chẳng tương tợ, nên nói đồng nhất, văn Duy thức đây chẳng tận lý. Nếu căn cứ luận Du-già nói đồng nhất tức không có bản chất, tâm chỉ tương tợ nên chẳng thể đồng nhất. Nên hợp hai văn để làm chánh lý, lấy nghiêng một thứ có thể đều sai, chẳng phải giải thích đúng, nên như lý tư duy. Hoặc hai văn nói, luận Du-già đứng về tương tợ đồng nhất. Luận đây đứng về cảnh đồng nhất gọi là tương tợ, vì đồng một cảnh chuyển, cũng chẳng trái nhau. Giải thích sở duyên tương tợ cùng luận Du-già đồng nhất sở duyên có năm giải thích:

  1. Căn cứ văn kia.
  2. Căn cứ văn đây.
  3. Kia đứng về bản chất, đây y cứ ảnh tượng.
  4. Kia đây đều đồng.
  5. Kia y cứ Vô vi có duyên bản chất, đây y cứ Hữu vi không có duyên bản chất.

Tâm phân đã đồng nên đều có chứng, lượng này chẳng định. Trong phần thứ tư tâm phân nên có năng chứng. Thứ ba cũng vậy, tại sao không có? Lập bốn phần lượng rằng: Tâm, tâm sở pháp, trong một sát-na nhất định khéo tự hiển, vì năng hiển thứ khác, như đèn, mặt trời v.v… nhân này có pháp sai biệt trái nhau. Dụ có chỗ lập chẳng thành, vì đèn không có duyên lự, tâm có duyên lự. Luận như các đèn sáng mỗi mỗi khắp tợ một tướng mỗi mỗi riêng biệt. Luận Đối Pháp quyển 2 ghi: “Nhãn thức ở hai căn như hai đèn cùng phát một ánh sáng”. Điều này làm sao thông? Đây dùng pháp tùy thuyết của Tiểu thừa làm dụ, luận kia căn cứ nghĩa thể Đại thừa làm dụ, cũng chẳng trái nhau. Như nhân cùng tiếng cộng biệt tạo. Nếu vậy, như nhiều đèn cùng xứ, ảnh nó bèn khác làm sao cùng tạo? Nay chánh giải thích là như trong một chén có nhiều tim đèn, và nhân cùng tiếng, đại chủng thân gần cùng tạo một sắc, hai chén riêng đốt chẳng cùng phát sáng nên ảnh có riêng biệt. Sư thứ hai, trong biến ngoài xứ có ba:

  1. Phá tha.
  2. Bày tự.
  3. Giải thích phòng ngại. Trong phá tha có ba:
  4. Vặn hỏi Thánh lẽ ra biến uế.
  5. Vặn hỏi phàm lẽ ra biến tịnh.
  6. Vặn hỏi không dụng biến sau.

Trong sư thứ ba cũng có ba:

  1. Phá tha.
  2. Bày tự nghĩa.
  3. Giải thích phòng ngại.

Đây nói tất cả cùng thọ dụng v.v….

Trong phá có ba:

  1. Vặn hỏi khí vật hoại không có nhân.
  2. Vặn hỏi đã nhàm chán không có dụng.
  3. Vặn hỏi có thân không có ích.

Trên đây, thiên nhãn nhĩ thấy nghe, sắc thanh dưới chẳng gá bản chất, như quyển 7 giải thích. Thứ tám được tự tướng, kiến, tướng, dị giới nhiếp. Năm thức được tự tướng, nên thừa nhận Biệt giới thâu nhiếp, chẳng thừa nhận Biệt giới làm sao gọi được tự tướng? Quyển 7 giải thích chẳng thừa nhận, nay giải thích là thừa nhận dị giới không lỗi. Trước giải thích được xứ nghĩa tự tướng, nay giải thích được sự tự tướng.

Thắng định quả sắc đại chủng tạo, như luận Đối Pháp cuối quyển1 sớ, tuy có năm đoạn văn nói về tạo chẳng đồng. Nói biến thứ nhất là đại chủng, sau tạo sắc sinh đều là đồng trói buộc, có nghĩa đây nói Dục giới, Sắc giới địa định quả sắc, vì có thân sở y. Vô Sắc giới định quả sắc từ bản chất đại chủng tạo, trong định không có đại chủng vì không có thân sở y.

Định v.v… có giới địa tự tha chẳng định là, đây có năm:

  1. Định lực.
  2. Thông lực.
  3. Thiện pháp lực.
  4. Mượn thức lực.
  5. Đại nguyện lực.

Do hành đại nguyện dẫn địa sắc khác hiện tại trước, nhưng Thức thứ tám chỉ có một và hai, sau cũng thông các thứ khác, nhân tiện hiển đó, cũng không có lỗi, như Thức thứ tám Vô lậu ý dẫn định quả sắc, khiến thứ tám ở Dục giới biến, chẳng phòng ngại ở Dục giới có định quả sắc chủng, không năng dẫn biến. Như trong thứ tám duyên cảnh, trong sắc thanh xúc giả sắc duyên, duyên là pháp xứ, giả sắc tại sao chẳng duyên? Tâm nhậm vận và tám tâm sở đồng thời có phòng ngại, đây thật tùy chủng tử sinh gọi là nhân duyên biến. Đây là nghĩa chánh.

Thắng định quả sắc, lược dùng bảy môn phân biệt:

1. Phàm thánh khởi, như Đối Pháp sao, Sắc giới thông quả có thể thông phàm thánh, như văn của quyển 33. Nếu vô Sắc giới, Bồ-tát Tỳ- bát-xá-na duyên ba cõi và Vô lậu cũng có định sắc rót xuống như mưa và hương cung điện, hẳn cần phải là Thanh văn năng biến, chẳng phải là Địa tiền nên đều không phàm thánh đều năng khởi, có dụng không dụng tức thành sai biệt, như quyển 33 giải thích.

2. Y địa, có hai môn: Một là y năng biến, hai là y sở biến. Ở trong năng biến chỉ thông bốn định, như Duy thức sớ giải thích. Định lực thông Vô sắc, Sắc giới sáu địa, Vô sắc bốn địa cũng vậy. Ngoài ra bảy phương tiện làm dụng hẹp kém, giải thích chán trên dưới không có công năng thù thắng nên không thể biến. Hoặc phương tiện mới đầu chưa đến cũng không có tướng, có nghĩa là hành tướng phi tưởng nhỏ nhiệm mờ tối nên chẳng thể. Mới đầu gần phần địa cũng không thông rộng nên cũng chẳng thể. Trên đây tùy y thông Hữu lậu Vô lậu. Sở biến y là biến sắc, vô Sắc giới và cùng Vô lậu quyết định đều được, vì tùy năng biến. Ở trong Dục giới, như thân tại cõi dưới, ý dẫn định quả sắc cùng sắc loại cõi trên. Tương tợ và Vô lậu là Dục giới năm thức chưa hẳn năng quán, gọi là vô kiến vô đối. Cõi dưới, chỗ Thức thứ tám duyên cũng vậy, như nhãn nhĩ thông phù căn trần v.v… loại này rất nhiều. Nếu Tứ thiền có chút ít tạo tác giáo hóa Dục giới năng dẫn thô sắc tợ Dục giới là vì khiến chúng sinh ở Dục giới thọ dụng, tức khiến năm thức và sở duyên của Thức thứ tám đều do Dục giới trói buộc, tùy lực ý lạc khởi sắc quả cũng không ngăn ngại. Quyển 33 ghi: “Thần thông của bậc Thánh biến hóa khéo khiến người thọ dụng hoàn thành mọi việc”.

3. Hữu lậu Vô lậu, sở biến của phàm phu chỉ có Hữu lậu, không thể khiến người thọ dụng, chỉ khiến kẻ khác thấy. Quyển 33 ghi: “Sở biến của bậc Thánh thông cả Hữu lậu Vô lậu. Tại nhân thì năm thức và thức thứ tám đều chỉ có Hữu lậu, vì tướng và thế lực đồng, chỉ có tánh Vô ký. Tại quả chỉ có Vô lậu thiện, vì tự tha như nhau. Thức thứ sáu biến tự tha đều thông Hữu lậu, Vô lậu, thông thiện, Vô ký, vì lợi và hý khác nhau. Nhưng vô Sắc giới và khoảng giữa, chỉ là thiện tánh không thông quả, chỉ là định cảnh, Vô ký định thì chẳng thể vậy. Bốn quả Tĩnh lự tức thông Vô ký. Đây tại Địa thứ bảy trở về trước, Nhị thừa, Dị sinh, chẳng phải Địa thứ tám v.v…

4. Đủ cảnh ít nhiều, chẳng biến căn v.v… ở trong đó, như Đối Pháp sao giải thích.

5. Đại chủng tạo tánh, như Đối Pháp sao giải thích.

6. Định chung và riêng, như Duy thức sớ giải thích.

7. Sở nhiếp của giới xứ, trong nhân ý thức là sắc sở biến của Thức thứ tám. Năm thức chẳng được định thuộc pháp xứ, vì cảnh đối căn và quả đối nhân đều là định. Căn của năng duyên đều là ý xứ, ý giới, ý thức giới, do quả thuộc nhân, vì thuộc về định pháp xứ, chứ không phải thuộc về ảnh từ chất năm trần v.v…, vì năm thức chẳng thấy; cũng được từ chất làm danh, gọi là sắc, thanh, hương, vị, xúc v.v…. Nhưng có chẳng y chất mà biến, vì chẳng thuộc về ảnh từ chất. Nếu khiến năm thức được thọ dụng tức thông năm xứ bên ngoài và thuộc về pháp xứ. Pháp xứ nhiếp như đã nói ở trước. Năm cảnh nhiếp là vì cảnh đối căn, lìa nhân theo quả. Nếu cảnh ngoài năm thức là vì quả từ nhân gọi là Thắng định quả, cũng thuộc về pháp xứ. Ý thức và Thức thứ tám cùng cảnh theo nhau cũng vậy. Tại Phật quả, thật sắc sở biến của năm thức, ý thức, Thức thứ bảy và thứ tám từ năm thức nên đều gọi là năm trần, nếu không như vậy thì Phật quả mười tám giới làm sao gọi là Vô lậu? Luận Phật Địa, Duy thức rộng thành lập đó. Như tán tâm, năm trần sở biến của năm thức và Thức thứ tám đều là năm trần. Phật quả, giả sắc sở biến của ý thức, Thức thứ bảy, thứ tám như tám Thắng xứ v.v… chỉ là pháp xứ. Nếu năm thức v.v… cũng thuộc về năm cảnh ngoài, nay chỉ ở pháp xứ nói thắng định quả là do căn bản sắc ở trong nhân, phần nhiều năm thức chẳng duyên, tự thể nhỏ nhiệm gọi là vô đối kiến. Nếu chỗ thần thông v.v… phát thừa nhận năm kiến như luận Hiển Dương quyển 1 nói Thắng định quả pháp xứ sắc. Sở tác thành tựu cũng khiến kẻ khác thấy, tức chẳng phải vô kiến vô đối, chẳng phải như tán sắc gọi là vô kiến đối, từ gốc mà đặt tên, chẳng phải thật không có. Quyển 33 ghi: “Thần thông định của phàm phu còn khiến kẻ khác thấy”, tức y cứ nghĩa đây. Có thuyết nói Phật quả không có mười lăm giới, nếu không như vậy thì Thắng định quả sắc lẽ ra không chỉ có pháp xứ. Bồ-tát Hộ Pháp v.v… giải thích: đứng về An lập đế trong nhân vị, chỉ nói có xứ giới, chỉ pháp xứ nói Thắng định quả, nếu không như vậy tại sao kinh nói mười tám giới chủng thông Hữu lậu Vô lậu được thường sắc v.v…? Nên giải thích trước là hợp lý.

Trong nhân duyên cho nên biến v.v… sớ có bốn giải thích:

1. Nhân duyên là nghĩa mặc tình, phân biệt là nghĩa gắng gượng tư duy. Luận sư Nan-đà nói xúc v.v… năm pháp cũng hay thọ huân trì các chủng tử, biến đều có dụng, tức trái thành nghiệp nhiều giống sinh mầm. Quyển 3 sau tự sẽ giải thích rộng lỗi này.

2. Nhân duyên là nhân duyên thật của các pháp, phân biệt là bảy thức còn lại vì chẳng phải thật chủng tử. Chỉ lấy sở biến của Thức thứ tám làm nhân duyên thì nhân duyên ở đây nói là nghĩa gì? Nếu luận về Dị thục lẽ ra thông với năm tâm sở, tại sao chẳng như vậy? Nếu sở biến của năm thức chẳng phải thật pháp, tại sao gọi là được tự tướng? Nếu nói được xứ tự tướng chẳng phải sự tự tướng tức xanh vàng v.v… và bốn đại mà chẳng phải năm thức được thì thật là khác thường! Lúc lửa đốt thân lẽ ra chẳng biết đau nóng v.v… và bản thức được thật chẳng phải năm thức tức là lẽ ra năm trần thuộc về pháp xứ chẳng phải thuộc về năm cảnh. Thừa nhận năm thức được tự tướng nghĩa là tổng từ biệt, chỗ năm trần thâu nhiếp đã chẳng thừa nhận duyên tự tướng, tại sao dùng giả từ thật thuộc về năm trần? Như Thắng định quả sắc, vốn chỉ do ý biến, giả sử tuy năm thức được, vì từ ngọn theo gốc, gọi là Thắng định quả, thuộc về pháp xứ. Lìa gốc nói ngọn, vì cảnh đối căn, đáng lý thuộc về năm trần. Các sắc xanh vàng v.v… cả năm vốn chẳng được, chỉ là sở duyên của ý, lẽ ra thuộc về pháp xứ, vì sao cho thật từ giả thuộc về năm trần?

3. Giải thích rằng nhân duyên là tâm Dị thục. Nhân nghĩa là danh ngôn chủng tử, duyên nghĩa là nghiệp duyên thiện ác, nếu tùy đây sinh biến hẳn có dụng, bản thức xúc v.v… lẽ ra cũng như vậy. Nếu chẳng tự tại nên gọi là chẳng phải thì năm thức chẳng phải tất cả thời, vì là nghiệp quả. Ý đồng thời cũng vậy, vì sao biến hẳn có dụng. Lại, ý của xúc đầu là tâm của nghiệp quả. Nhân duyên biến nên lẽ ra cũng có dụng, do đây nên biết.

4. Thuyết thiện, nhân duyên là pháp thể thật từ chân chủng tử sinh, từ chân chủng tử sinh là sở biến có dụng, ngoài ra gọi là phân biệt.

Tánh cảnh chẳng tùy tâm, Độc ảnh chỉ từ kiến, Đới chất thông tình bản, Tánh chủng thảy tùy ứng, tánh cảnh toàn và một phần đới chất là nhân duyên biến. Độc ảnh và một phần đới chất là phân biệt biến. Nhưng đới chất cảnh có thể thông cả hai môn nhân duyên và phân biệt, tùy thuộc hai môn chủng và kiến. Nếu tâm sở duyên không có tâm dụng nghĩa là Kiến phần làm duyên của cảnh Tự chứng phần làm sao có dụng? Đáp: Vì tự thể nghĩa phần chẳng phải Tướng phần.

Biến Vô vi v.v… bèn không có thật dụng nghĩa là đồng lấy pháp bất tương ưng. Vô vi không thật, chỗ đồng chẳng tương ưng không có dụng, hợp mà làm văn, chẳng phải Vô vi không có dụng. Có giải thích Chân như chưa chứng thật, giả Vô vi không có dụng, cả hai đều chẳng duyên, hợp mà làm văn, nên nói không có thật dụng. Lại giải thích Chân như tuy không có tác dụng thật, nay nói dụng là lực dụng tức là lực của Chân như lìa trói buộc. Nay nói bản thức biến là Chân như chẳng như bản thể, không có lực của thật lìa trói buộc gọi là không có lực dụng. Chẳng phải không có tác dụng gọi là vô dụng. Đây giải thích là chánh. Lại, giả sử trong tâm ảnh tượng cũng không có thật dụng, do đó chẳng biến. Nói Thức thứ tám duyên ba loại cảnh, chẳng nói pháp xứ cảnh là y chẳng phải lực của định và thần thông vì là sở duyên của Pháp nhĩ, giả sử biến pháp xứ chẳng khác thân bên trong và khí vật bên ngoài, tức hai loại nhiếp hết.

 

Pages: 1 2