HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

SỐ 1723

QUYỂN 06

Sa-môn Khuy Cơ soạn tại chùa Đại Từ Ân

PHẦN ĐẦU

-Kinh: “Bấy giờ Phật muốn nói lại nghĩa này cho đến có một ngôi nhà lớn.”

-Tán: Đây là phần tụng, gồm một trăm sáu mươi lăm hàng tụng, chia làm hai:

1/ Tám mươi bốn hàng tụng rưỡi, tụng lại pháp dụ ở trước.

2/ Phật bảo Xá-lợi-phất: “Các thầy đều là con của ta, ta là cha của các thầy”. Tám mươi hàng rưỡi tụng này là đoạn lớn thứ ba, khuyên tin hiểu kinh này, vui mừng sẽ thành tựu được trí Phật.

Phần đầu có ba:

  1. Sáu mươi lăm hàng rưỡi, tụng lời thí dụ trên.
  2. Mười tám hàng tụng phần hợp nói trên.
  3. Một hàng tụng kết nói trước. Đó là nhân duyên thật cầu trong mười phương, chẳng có thừa nào khác trừ Phật phương tiện.

– Trong sáu mươi lăm hàng rưỡi đầu, tụng phần dụ nói lại chia làm hai:

  1. Năm mươi ba hàng rưỡi tụng về thí dụ quyền trước kia.
  2. Mười hai hàng tụng về pháp thật ngày nay.

Trong năm mươi ba hàng rưỡi lại chia làm bốn:

  1. Nửa hàng tụng về dụ ba cõi Phật có.
  2. Ba mươi hai hàng rưỡi, là tụng dụ nguy ách của năm đường.
  3. Mười bốn hàng là tụng về dụ: Thấy lập quyền phương tiện.
  4. Sáu hàng tụng: Dụ y theo lời dạy mà thoát nạn.

Nữa hàng tụng dụ ở văn xuôi có sáu ý nay chỉ có hai ý là chủ nhà và tướng nhà:

Trước nói có nhiều nhà ruộng, trong đây có một nhà lớn, là ba giải thích ở trên.

-Kinh: “Nhà đó đã lâu cho đến nền móng đều mục nát.”

*Tán: Đây là phần thứ hai có ba mươi hai hàng rưỡi tụng, về thí dụ sự nguy ách trong năm đường. Trong Văn xuôi có bốn, đây chia ra làm ba:

  1. Ba hàng tụng về sự hư nát của ngôi nhà.
  2. Nửa hàng tụng nói các rất nhiều người .
  3. Hai mươi chín hàng, tụng tai ách xảy ra khắp nơi.

Đây không tụng phần thứ tư nói các việc các con vui chơi.

Trong phần một nói nhà cửa hư mục lại chia làm hai:

– Bảy câu tụng nói chung về ngũ ấm vô thường trong ba cõi.

– Năm câu nói riêng về nghĩa sắc thân vô thường, vô ngã bất tịnh.

– Nói nhà đã lâu cũ, nói theo chiều dọc thì thức uẩn từ vô thỉ niệm niệm đều sanh diệt, cũng như sự huyễn gọi là lâu cũ. Nếu nói theo chiều ngang cũng thành tệ hại, chẳng phải dần dần mất. Xấu xa là mục nát, Tệ là hủ bại.

– Nhà phòng cao nguy là chỉ cho sắc uẩn vô thường. Vì lầu gác cao thì dễ sụp đổ. Nguy tất là không an, cũng như bọt nước không lấy gì làm chắc chắn. Các cột trụ đều gãy mục là chỉ cho hành uẩn vô thường, niệm niệm đều dời đổi hư hoại, khi nghiệp dứt thì chết là gọi là gãy mục, như cây chuối.

-Kèo cột nghiêng ngã: Là thọ uẩn vô thường, đã mất sự chánh thọ thì làm sao an ổn, giống như bọt nước.

– Nền móng nát rã: Cũng tức là hành uẩn nghiệp tư gọi là nền móng, vì để an trụ mạng căn . Hành nhiếp gồm nhiều pháp. Nghiệp quả cả hai đều khác nhau nên chia làm hai câu.

-Kinh: “Tường vách sụp đổ cho đến tạp uế rơi đầy khắp.”

-Tán: Đây là nói về tường vách sụp đổ là chỉ cho tưởng uẩn vô thường.

Bảy câu trên nói chung về năm uẩn vô thường ở ba cõi tùy theo nơi có mà đều như thế.

Năm câu dưới là nói riêng về nghĩa sắc thân vô thường. Ba câu nói về vô thường, một câu nói vô ngã, một câu nói về bất tịnh. Do đó mà thành ra không. Bùn trát là dụ cho thịt.

Trong Du-già quyển mười chín trích dẫn bài tụng kinh chép: Có thành lấy xương cốt làm thành. Lấy gân cốt làm đồ tô điểm. Trong đó có tham nhuế, mạn phú, được nhậm trì. Từ Thị giải thích: Thành gọi là bát thức, đầy xương cốt gạch đá. Gân cốt là dây, thịt làm đồ tô điểm hình hài làm thành, có rào vây quanh. Trong thành này có bốn thứ ác pháp được gìn giữ, hai pháp do chúng tại gia khởi và tham, sân. Hai pháp do chúng ngoại đạo khởi là Mạn (kiêu mạn) và phú (che). Tại gia thì do tham đắm dục tương ưng với hành ác. Ở trong chánh pháp còn không tin thọ, huống chi là có thể tu thiện. Nếu có người khuyên can liền sanh sân giận, ngoại đạo cậy theo ác nói pháp mà sanh kiêu mạn, không thể tự nhiên hướng về ngôi Tam bảo. Do che giấu không phát lộ ra các ác pháp, huống là có thể tin hiểu mà tu các pháp thiện. Hai thứ tâm này thành còn không thể vào huống là giữ lấy.

Kinh Niết-bàn cũng nói: Thân như là thành, có các thứ máu thịt xương cốt da ở trong đó, tay chân dùng để cầm dao mộc đối địch. Mắt là các lỗ khiếu. Đầu là giảng đường, tâm vương ở giữa cho nên lấy thịt làm đất bùn trét thành, da làm mái tranh, gân cốt làm cột xà. Trên là nói các pháp sắc thân vô thường.

“Bốn bề đầu cong gãy” câu này dụ nói vô ngã. Trong nhà chung quanh có chướng ngại, uốn khúc khó vượt qua. Biết rõ là vô ngã. Nếu có ngã thì thuân nhất không có uốn khúc, cũng không có chướng ngại. Tạp uế khắp nơi là dụ cho bất tịnh. Như ba mươi sáu vật đầy khắp trong thân Cõi Dục. Do ba nghĩa này, nên cũng thành không. – Kinh: “Có năm trăm người ở trong nhà đó.” – Tán: Tụng nói mọi người rất nhiều.

-Kinh: “Chim xí, hiu, điêu, thú… cho đến… cùng bay nhanh đi.”

-Tán: Đoạn thứ ba có hai mươi chín hàng tụng. Tai nạn nổi lên các nơi, chia ra làm ba:

  1. Mười bảy hàng rưỡi tụng nói chung về tướng các loài quỷ trùng cùng biến hóa ra.
  2. Mười hàng rưỡi tụng nguyên nhân trùng quỷ tạp uế khởi lên.
  3. Một hàng tụng kết thành các nạn trên. Nói chung các biến quái là tổng tướng của mười phiền não. Riêng nói khởi lên tức tướng hoặc trong Ba cõi.

– Văn xuôi nói tai họa nổi lên chỉ nói lửa đốt. Nay thêm loại trùng quỷ để nói các điều ác, muốn khiến cho chúng sanh nhàm chán sâu xa, như tam độc cho đến chê trách nên lập các thứ trên.

Trong mười bảy hàng rưỡi lại chia làm ba:

  1. Sáu hàng tụng về các thứ trùng độc chim quái. Có sự trì độn cho nên lấy làm dụ cho năm sử như tham v.v…
  2. Mười hàng tụng nói về linh thần dị quỷ: Hơi nhanh nhẹn nên dụ cho ngũ kiến.
  3. Một hàng tụng rưỡi là kết lại hai phần này.

Trong phần một này lại chia làm hai: Năm hàng rưỡi nêu riêng, nửa hàng kết ý nêu ra. Năm hàng rưỡi có năm ý:

  1. Nửa hàng dụ cho tham.
  2. Một hàng rưỡi dụ cho sân.
  3. Một hàng tụng dụ cho si.
  4. Một hàng tụng dụ cho nghi.
  5. Một hàng rưỡi tụng dụ cho mạn.

Đây là nói hai phần đầu.

Trong đây không phụ thuộc vào văn biệt giáo, chỉ có tương ưng các hành tướng tức là nghĩa phối hợp nhau. Thuận theo kinh xưa thì như vậy. Trong luận bổn không giải thích, vì lý chưa hẳn vậy, nghĩa phù hợp thì chưa hẳn là không đúng.

Tham ái có bốn:

  1. Hiện hữu ái.
  2. Hậu hữu ái.
  3. Tham hỷ câu hành ái.
  4. Hỷ, lạc mỗi thứ đều ái.

Ở đây đều căn cứ vào hành tướng riêng. Vì hiện có thể thấy. Chim xí, hiêu, điêu, thứu, như thứ lớp là bốn ái phẩm thượng: Các thứ quạ, chim thước, cưu, cáp như thứ lớp là bốn ái phẩm hạ. Hoặc tham tánh độn, tham hiện quái, tham đại lực, tham động thân, tham phi pháp, tham phát ngữ, tham thấp hèn, tham nặng về dâm, lần lượt hiện ra như thế. Tám thứ chim này lần lượt hiện ra các tham này, cho nên nêu ra làm thí dụ.

Dụ cho sân có mười một loại:

 

1. Ngoan: Âm là ngoan. Kinh Di Giáo giải thích là loại rắn ngắn màu đen. Trong Hán thư gọi là Huyền ngoan. Vĩ Chiêu giải thích là Huyền hắc, là loại rắn làm thuốc, là kỳ nhông, thằn lằn. Con lớn dài ba thước. Sắc màu đen tía, khéo mê hoặc người. Gồm có bốn tên khác là: Vinh nguyên (kỳ nhông), Tích dịch (thằn lằn), Yển diên (tắc-kè), Thủ cung. Trong Ngọc thiên đều gọi là xà y (rắn thuốc), ở trong nhà là thủ cung. Ở dưới đầm trạch thì gọi là yển diên… Theo đây thì trong kinh Di giáo gọi là Hắc ngoan, mượn làm chữ xà. Nay giải chữ Ngoan có hai nghĩa:

  1. Tích dịch.
  2. Hắc đoản xà.

Thế nên trong kinh Di giáo nói: Rắn ngủ đã ra, mới có thể ngủ yên. Do đó kia nói không lầm, chỉ gọi là Hắc ngoan mà không gọi là Vinh ngoan. Có người nói loài trùng nước ác tánh, hoặc nói là long (rồng), thật ra thì không đúng. Kia vốn là chữ long chứ không phải là chữ ngoan.

  1. Xà: Ngoài trên ra là bao gồm các loài rắn.
  2. Phúc: Phúc xà: Loại rắn này dài ba tấc, đầu lớn bằng cánh tay, vùng Giang nam gọi trùng là phúc, có răng rất độc, trên mũi có kim. Còn gọi là phản tỷ xà, màu sắc như lụa hoa, dài khoảng bảy tám thước.

Nếu cắn tay thì phải chặt tay. Loại này có nhiều ở vùng Lãnh nam.

2.Yết: Bò cạp.

3. Ngô công: Rít, có khi bắt rắn, thân sanh chân đỏ là loại lành.

  1. Do diên: Một loài côn trùng chân dài có sừng. Ở Giang Nam thường gọi là Ngô công.
  2. Thủ công: Thiểm Tây gọi là Bích cung. Trét máu vào tay của người nữ có tư tình, thì rửa không sạch, có thể dùng giữ cung nữ, nên đặt tên. Cũng có khi nói loài ở đá thì gọi là Tích dịch, ở đầm thì gọi là Yển diên, ở trong nhà thì gọi là Thủ cung. Gọi chung là Vinh nguyên.
  3. Bách túc: Trăm chân.
  4. Dứu: Chồn sóc (như loài chuột) cũng gọi là Sanh thử.
  5. Ly: Là loài giả mèo: chồn, mèo hoang.
  6. Hề thử: Trong Nói văn gọi là Tiểu thử (chuột nhắt). Trong Ngọc thiên nói có loài Thích độc ăn thịt người và các loài chim thú. Tuy đến chết mà vẫn không biết không đau. Trong Xuân thu gọi là loài ăn ngoài sừng trâu. Nay gọi là Cam khẩu thử. Các loài này phần nhiều độc hại, nên lấy đó để dụ cho sân. Tướng chung của sân duyên với mười việc mà được sanh:
  7. Thân mình.
  8. Sở ái hữu tình.
  9. Phi ái hữu tình.

4. Oán thân ở Quá khứ.

5. Oán thân ở Vị lai.

6. Ở oán thân hiện tại.

7. Cảnh không vừa ý.

8. Ganh ghét.

9. Thói quen trước kia.

10. Người thấy.

Tóm lại thì có một sân, mà biệt hành nêu ra có mười, phối hợp thành mười một. Năm thứ như phẫn hận v.v… trong tùy phiền não gọi là các thứ ác trùng. Gặp duyên sanh khởi thì gọi là ngang dọc xen đuổi chạy. Lại có các thứ: Mảnh lợi sân, Bỉ não sân, Báo oán sân, Hiện tướng sân, Sân độc hại, Sân bất đoạn, Sân ganh ghét, Sân phiền não, Sân tư thiết, Sân tổn sát, Sân tiềm kế. Như thứ lớp phối hợp, ngang dọc đuổi chạy là kết thúc phần sân ở trên.

-Kinh: “Nơi phân tiểu nhờm gớm cho đến mà nhóm họp trên đó.”

-Tán: Đây là dụ cho Si. Có ba mươi sáu thứ như phẩn uế v.v… Si tăng thượng nên các báu vật mặc vào thân như các loài bọ hung cùng bu lại chỗ hôi thối mà không biết đó là bất tịnh. Đam mê ngu si sanh tử ở trong ba cõi mà khởi ra bảy mươi chín thứ gọi là trùng. Các loài này chẳng phải một, cho nên trong Luận Du-già quyển chín chép: Nơi hôi thối đó không thể ưa thích, đáng nhàm chán ghê tởm. Xú nghĩa là ác khí, nghĩa là hơi thở, mùi hôi.

-Kinh: “Cáo, sói cùng dã can cho đến Xương thịt văng bừa bãi.”- Tán: Đây là dụ cho nghi.

Hồ (cáo): Trong Ngọc Thiên nói là loài quỷ tà, yêu thú nương vào cáo có ba đức. Màu sắc nó trung hòa. Trước nhỏ sau lớn. Khi chết sẽ giữ lấy đất.

-Dã can có màu vàng sanh như loài chó, chúng đi cả bầy cất tiếng kêu vang trong đêm, âm thanh như chó sói, ở trong hang động nơi núi sâu, hoặc cây cao lớn, thân hình loài cáo thì hơi lớn, dã can thì nhỏ. Hai hình thù lớn nhỏ khác nhau, cho nên trong Thiền kinh có nói: Thấy con dã hồ, lại thấy dã can, loài sói có thể phân biệt lo. Đây là vì những người nghi Tam bảo, Ba đời, Ba cõi, cho nên nêu ba đường này để thí dụ. Cắn thì gọi là tước. Dùng chân đạp thì gọi là tiễn đạp. Gân cốt thì gọi là tề, làm tổn thương da thịt thì gọi là thiết… Do đây mà xương cốt rời rã nát tan. Nghi phát ra ở miệng cũng như là liếm nhai. Tâm nghi đế lý như chân đạp. Nghi vào nhuyễn pháp của khổ tập như cắn chỉ đến răng. Nghi kiến pháp diệt đạo như cắn bị thương da thịt. Do đây mà cửa sanh tử nhiễu nhương đầy dẫy.

-Kinh: “Do đó mà bầy chó cho đến biến trạng như thế.”

-Tán: Một hàng rưỡi tụng về kết thúc. Mạn có bảy thứ chín thứ gọi là bầy chó, thường do nghi sanh ra nên gọi là “Do đó. Chữ phược có nghĩa là đánh. Toát là nắm giữ. Bác là dùng tay đánh. Ngọc thiên gọi là phạ, là phủ. Toát là dùng tay nắm giữ, giải thích là toát tốt, nghĩa là tạm nắm giữ hết. Trong Ngọc thiên và Tứ khuê đều gọi là toát. Nghĩa là ba ngón tay chụm lại, ở đây không phải nghĩa đó. Giơ tay lên cao đánh người thì gọi là bác. Mong người thuận theo mình thì gọi là toát. Ty liệt mạn là cho mình không bằng người như là gầy yếu đói khát. Tâm tuy cao ngạo mà run sợ thì gọi là sợ sệt, tiếp xúc đủ các việc sanh ra gọi là “nơi nơi”. Tâm thường không thấy đủ như tìm thức ăn uống, đều là tướng ty mạn. Tâm khinh mạn người thì gọi là cấu xé. Thân khởi khinh mạn thì gọi là giành giựt. Nghĩa là năm ngón tay xòe ra chụp lấy. Ngọc thiên nói năm ngón giựt lấy.

-Kinh: “Nơi nơi đều có cho đến ăn thịt người..”.

-Tán: Gồm mười hàng tụng nói về các thứ linh thần dị quỷ, dụ cho năm kiến, ở đây chia ra làm năm:

-Ba hàng rưỡi dụ cho tà kiến.

-Hai hàng tụng rưỡi dụ cho giới thủ.

-Một hàng rưỡi dụ cho thân kiến.

-Nửa hàng dụ cho kiến thủ.

-Hai hàng dụ cho biên kiến.

Trong phần đầu lại chia làm hai:

Một hàng dụ chung về tự thể của tà kiến.

Hai hàng rưỡi dụ về hành tướng sai khác.

Ly, mị trong Ngọc thiên gọi là lão vật tinh (loài vật tinh khôn). Thông tục thì cho các loài tinh quái, ở sơn trạch thì gọi là ly mị. Trương Bình Tử ở Tây kinh có bài phú: Loài sơn thần hình cọp thì gọi là ly. Thần trư ở ao đầm có đầu như người, có đuôi thì gọi là mị.

Võng, lượng là loại biến quái ở trong cây đá. Trong Xuân thu và Ngọc thiên đều gọi là thần. Thêm Dạ-xoa, ác quỷ thì có năm thứ. Dụ cho tà kiến duyên bác bỏ ngũ môn. Duyên bát bỏ năm pháp, tâm tâm sở v.v… thì có năm hành tướng: nghĩa là chê bai nhân quả, tác dụng, thực sự và phi tứ kiến, các tà kiến khác làm tổn thương thiện pháp. Hủy hoại ruộng tốt không thể sanh trưởng, thì gọi là nơi nơi có tổn hại như ăn thịt người.

-Kinh: “Thuộc loại trùng độc… đều tự giấu gìn giữ.”

-Tán: Hai hàng rưỡi tụng về hành tướng khác nhau. Trong đó chia làm hai:

1/ Một hàng do tà kiến sanh ra độn phiền não, lại do phiền não sanh ra tà kiến.

2/ Một hàng rưỡi tụng: Do tà kiến sanh ra các ác kiến và các pháp bất thiện. Các thứ phiền não khác gọi là trùng thú phu nghĩa là tín. Trong Ngọc thiên gọi là lão phục, là trứng nứt ra, là sanh, là loại trứng hóa ra gọi là phu. Trong Quảng nhã gọi là phu sanh. Có nơi gọi là trứng gà ấp mà chưa nở.

-Nhũ: nghĩa là nuôi con. Ngọc thiên gọi là sanh sản tăng tiến, sanh dưỡng tạo nên. Do vật biến hóa ra thì gọi là sanh, sản cũng gọi là sanh. Chim ấp trứng thì gọi là phu, thú nuôi con thì gọi là nhũ. Do tà kiến nên thêm lớn phiền não như bú mớm. Sanh ra các phiền não thì cũng như là sanh sản tà kiến bác bỏ ngũ môn. Phiền não nên sanh trưởng riêng thì gọi là mỗi mỗi gìn giữ nghĩa là tư dưỡng. Hoặc thuộc các thứ trùng thú tà kiến, sanh trưởng phiền não thì gọi là tự giấu gìn giữ.

-Kinh: “Dạ-xoa đua nhau đến cho đến thật đáng sợ.”

-Tán: Nói rõ do tà kiến sanh ra các ác kiến và hành bất thiện. Các thứ ác kiến như là Dạ-xoa, ngày ngày thêm lớn gọi là đua nhau đến. Do khởi ra phiền não sanh ra các hành ác gọi là tranh giành nhau. Ăn nghĩa là nuôi lớn, cho nên thân hành ác đầy khắp thì gọi là ăn đã no. Tà kiến càng nhiều thì gọi là tâm ác càng mạnh, phát ra lời nói thành ra đấu tranh cãi vã. Ba nghiệp tà kiến hành ác, thêm lớn làm tổn hại nhiều thì gọi là thật đáng sợ. Cho nên do tà kiến mà sanh ra ba hành ác. Chẳng phải do tà kiến mà sanh ra thân ngữ. Nhân nơi thế lực sanh ra từ xa, cho nên gọi là nói.

-Kinh: “Quỷ Cưu-bàn-trà cho đến chơi đùa phóng dật.”

-Tán: Đây gồm hai hàng rưỡi, tụng về giới thủ. Trong đây chia làm hai:

-Một hàng rưỡi dụ hành tướng cho chung.

-Một hàng tụng dụ cho hành tướng riêng.

Nhưng các vị cổ sư trước không theo chánh văn, phần nhiều lấy theo Tiểu thừa để giải thích giới tướng. Nay theo nghĩa Đại thừa tân văn mà giải thích.

-Cưu-bàn-trà nghĩa là đáng sợ. Quỷ là chỉ cho giới thủ, là chấp nặng thuận theo vào các kiến giới, sanh ra không duyên các pháp khác. Như ngồi trên đất cứng. Nếu chỉ chấp vào giới làm nhân trên hết, mà sanh ra thủ gọi là cách đất một thước. Hoặc chấp thuận theo giới cấm là nhân tốt như một thước. Lại chấp làm nhân như hai thước. Giới thủ phải có đủ hai tướng này. Nếu không thì thuộc về tà kiến. Không cần riêng phối hai thủ ở thượng giới, mà không nói các hoặc khác chung cả thượng giới. Tuy chấp vào ham Thích Cầu diệt quả xuất thế mà trở lại sanh vào trời người thì gọi là “qua”. Lại rơi vào đường ác thì gọi là “lại”. Thường đắm chìm trong sanh tử hư công khổ hạnh thì gọi là “dạo đi”. Chấp cho đó là trên hết trái với chánh đạo thì gọi là “buông lung”.

Chấp làm chánh nhân nhiễm đắm sanh tử thì gọi là đùa giỡn. – Kinh: “Nắm hai chân của chó cho đến làm cho chó để vui.” – Tán: Đây nói riêng hành tướng.

Hàng ngoại đạo cầu Niết-bàn giải thoát, chẳng phải pháp thật thù thắng. Sanh tử đáng ghét, dụ như là loài chó. Đắc giới cấm kia thì dụ như hai chân, Niết-bàn, như chân chó, giới cấm khác nhau nên có hai. Hoặc chấp là thắng là nhân nên gọi là hai. Chấp vào giới cấm như nắm chân chó, chấp hành thuận với mình như nắm chân chó dốc ngược. Tuyên dương khổ hạnh về Niết-bàn kia để khai thị chúng sanh cũng như đánh chó kêu thất thanh. Mê đắm hoặc là giới hoặc là cấm có thể đưa đến Niết-bàn, như lấy chân chèn cổ chó vậy, lấy sự an xứ này mà tu khổ hạnh để cầu Niết-bàn, nghĩa cũng giống như mê đắm vui chơi không xả bỏ. Tuy khổ mà cho là vui, lấy đó mà tự vui chơi nên gọi tự lạc.

-Kinh: “Lại có các quỷ cho đến kêu gào đòi ăn.”

-Tán: Đây là dụ cho thân kiến. Thân kiến câu sanh thường hành từ vô thỉ, nên gọi là “cao lớn”. Phân biệt khởi lên cùng với tánh bất thiện vô tàm vô quý. Dụ như lõa hình. Chữ khỏa có nghĩa là lộ, là không có xấu hổ. Bị vô minh che lấp thì gọi là đen xấu. Cố chấp vào năm uẩn không hề tạm lìa thì gọi là “thường ở trong đó.” Các phiền não nhân đó mà khởi ngã ngữ thủ nhân đây mà sanh thì gọi là “phát hung ác”. Nơi nơi rộng khởi ngã kiến thấm nhuần thêm lớn gọi là “Kêu la tìm thức ăn”.

-Kinh: “Lại có các loài quỷ cho đến cổ họng nhỏ như kim.”- Tán: Dụ cho kiến thủ.

Đầu nó to như núi, cổ họng lại nhỏ như kim nên không thể ăn uống. Kiến thủ cũng vậy, chấp vào các tự kiến là nhân là trên hết nên gọi là lớn như núi, không chấp nhận ý kiến người khác dụ như kim cực nhỏ.

-Kinh: “Lại có loài quỷ cho đến hoặc lại ăn thị chó ”- Tán: Hai hàng tụng dưới dụ cho biên kiến.

Ở đây chia làm hai:

-Một hàng tụng dụ cho hành tướng chung.

-Một hàng tụng dụ cho hành tướng riêng.

Đầu nó như đầu trâu, đầu có hai sừng. Tức trong biên kiến bao gồm cả thường kiến, chấp đoạn.

Thường đoạn này nương vào ngã kiến mà khởi sau. Như y theo đầu trâu có hai sừng. Hoặc ăn thịt người là dụ cho chấp đoạn; tổn hoại gốc lành, do chấp đoạn hoàn toàn không chịu tu như ăn thịt người. Hoặc lại ăn chó là dụ cho thường kiến, không ngăn ngại sanh thiện, mà tổn hại ít nên dụ như ăn thịt chó.

-Kinh: “Đầu tóc rối loạn cho đến kêu gào bỏ chạy.”- Tán: Dụ cho hành tướng riêng.

Do biên kiến này mà sanh ra bốn mươi bảy kiến trong sáu mươi hai kiến như tóc rối loạn. Do nơi kiến này mà làm điều trái pháp như ngoại đạo làm các việc tàn hại hung hiểm. Vọng kiến của ngoại đạo gọi là hung hiểm, là hung ác hiểm trở. Không lấy việc ăn chánh giáo và uống chánh lý để nuôi dưỡng tâm trí, như kẻ đói khát ép ngặt. Nội tâm đã vậy, ngoài phát ra lời chấp đắm như kêu la, thân gấp rút hành như “rong chạy”.

-Kinh: “Dạ-xoa ngạ quỷ cho đến sợ hãi vô lượng.”

-Tán: Đây là kết thúc hoàn thành. Ngoại đạo khởi lên các thứ phiền não luống dối điên đảo, như loại Dạ-xoa ngạ quỷ, ở chỗ thế tục khởi lên phiền não mê đắm vào vô trí như các loài ác điểu đường ác.

Đây nói lại phần ở trên. Do khởi phiền não không đạt đến chánh lý, bần cùng không có trí tuệ, như đói khát bức ngặt. Tại thế tục khắp sanh bốn vị: sanh, già, bệnh chết. Nơi nơi đều gặp ác duyên vì đó mà hoặc sanh ra, như đói chạy gấp trong bốn hướng. Ngoại đạo không thể nhìn đúng cửa chánh nhân Niết-bàn, vọng hành trì khổ hạnh mà quán xét chánh lý, như nhìn qua song cửa không thể hành đúng. Các ác nạn sợ hãi như thế có vô lượng. Đây là nói lược về khổ hoặc. Các nạn còn như vậy, huống chi các nghiệp ác, theo lý thì thí dụ đâu thể hết. Chữ khuy là nhìn là thấy chút ít.

-Kinh: “Nhà đó hư mục cho đến lửa phát cháy hừng hực”.

-Tán: Mười hàng tụng rưỡi nói lý do tạp nghiệp khởi dậy của loài quỷ trùng. Đây có ba:

  1. Hai hàng tụng nói chủ ở nhà đó không xảy ra tại họa.
  2. Một bài nói lý do lửa phát cháy, nhà cửa hư sụp.
  3. Bảy hàng tụng rưỡi nói sự nhiễu nhương phát tán của loài trùng quỷ.

Phần đầu. Ý nói nhân vị của Bồ-tát tại nhà và thành Phật tại thế

gian, làm lợi vật thì phiền não sanh tử tai nạn đều dứt, Phật nhập Niếtbàn, Bồ-tát ẩn mất. Từ đó các tai nạn phiền não sanh ra, cũng do chủ ở tại nhà mà nghiêm trị khuyên bảo con cái để cho tai nạn không sanh ra. Chủ nếu rời nhà thì không có người tu bổ nhà cửa, không dạy bảo khiến con cái buông lung nên tai nạn khởi lên làm cho nhà cửa sụp đỗ. Nhà Ba cõi khi Phật còn hiện tiền thì tai nạn không sanh ra. Do Phật không có ở đời nên tai họa dấy khởi, tức phụ thuộc ở một người. Đấy chính là dụ Phật, Bồ-tát vậy. Không do ngoại đạo mà chỉ do có Phật pháp nên nói một người. Lại thuộc có nghĩa là nhiếp thuộc, Ba cõi đều là sở hữu của Phật. Nói Phật là Giáo chủ, tất cả đều thuộc về Phật, Phật sắp nhập Niết-bàn, ẩn lìa cõi Ba cõi, nên gọi là vừa mới ra như ngôi nhà không có chủ. Hốt nhiên lửa nổi lên. Đây dụ cho các thứ phiền não làm tổn hại thân khí thế gian. Như lửa phá nhà, nên dùng chữ thuộc. Không có nguyên nhân mà có, tức là hốt nhiên lửa nổi lên. Từ sanh cho đến chết đều khởi các xúc nên gọi là bốn phía nhất thời. Do đây mà phát sanh ra vô lượng ác nghiệp, nên gọi là “Lửa phát cháy hừng hực).

-Kinh: “Rui mèn cây cột… tường vách đều nghiêng đổ.”

-Tán: Do lửa nổi lên thiêu đốt mà nhà cửa cháy rụi. Đòn tay là thọ uẩn rui mè là sắc uẩn. Bộc thanh (tiếng nổ) là dụ cho sanh khổ, chữ bộc là cháy dữ dội.

-Rung chuyển rã nát là dụ cho lão khổ. Chấn là rung chuyển lão khổ ở tại thân như sấm sét làm cho kinh động, thật là đáng sợ.

-Nát gãy là dụ cho bệnh khổ. Gãy tàn phá thân mạng, làm suy tàn sức lực trẻ trung.

-Rơi rớt là dụ cho tử khổ, phá hoại sự tuổi thọ. Sanh già bệnh chết và cột trụ hợp là hành uẩn vô thường, nó ở sau ba uẩn và trước tưởng uẩn.

-Nói bốn tướng đó là ý nói sanh già bệnh chết biến khắp năm uẩn. Tường vách xiêu đổ dụ cho tưởng uẩn trong ngoài vô thường. Trên là bốn uẩn vô thường: Thọ, sắc, hành, tưởng, Thức uẩn tức ở nhà. Trong văn trước đã nói trong nhà có lửa phát lên là nói chung năm uẩn có sanh già bệnh chết vô thường bại hoại, thật sâu xa có thể nhàm chán.

Hỏi: Trong nhà có nạn lửa, đều là phiền não. Vì sao có lúc nói là lửa, lúc nói là trùng quỷ?

Đáp: Ép ngặt thiêu đốt thân tâm nên dụ là lửa. Không biết được sự tổn hại nên thí dụ là trùng quỷ. Đều muốn kinh sợ nhàm chán, nên nêu ra các thí dụ. Thức là sở y, dụ đó là nhà. Phiền não y theo đó mà khởi lên dụ là lửa trùng, bốn uẩn đều là năng y nên nói do lửa đốt mà gãy đổ rơi rớt, không thể nói trùng quỷ cũng y theo lửa mà chơi.

-Kinh: “Các thứ quỷ thần cho đến không thể tự đi ra cho đến”

-Tán: Bảy hàng rưỡi tụng về sự nhiễu nhương của trùng quỷ. Có ba: Một hàng rưỡi dụ cho tai họa trong Cõi Dục. Ba hàng rưỡi dụ cho tai họa ở Cõi Sắc. Hai hàng tụng rưỡi dụ cho tai họa ở Vô sắc. Phần đầu nơi các quỷ thần đó là dụ cho các chúng ngoại đạo, xuất gia. Tại gia người thế tục ở Cõi Dục bị các khổ ép ngặt bèn cất tiếng kêu lớn cũng như các loài trùng thú. Cho nên trong Luận Thập Địa chép:

-Ngoại đạo biết sanh già bệnh chết mà sanh nhàm chán, cho nên cất tiếng kêu lớn. Nay có cả tại gia. Lại ở tại gia mà khởi lên tham, sân, si… tranh đấu. Ngoại đạo khởi lên các tà kiến rồi tranh đấu, cất tiếng kêu lớn. Đây là câu tổng kết. Do đó mà khởi ra các độn phiền não như tham… như các loài chim điêu, chim thứu v.v… Do khởi ra tà kiến mà phát ra lợi sử phiền não như Cưu-bàn-trà… đây là câu biệt. Tuy bị khổ ép ngặt kêu to, mà tục nhân tại gia do si ái mà sanh ra phiền não. Hàng xuất gia ngoại đạo lấy khổ muốn xả khổ. Đây đều gọi là bị bao vây trong vòng lo lắng sợ hãi không thể ra được. “Sảng sốt” có nghĩa là hoảng hốt bất an. Có lo sợ nên lo lắng, có lo lắng nên muộn phiền. Bố có nghĩa là kinh sợ, là kinh sợ ép ngặt vậy. Đây là y theo câu “Cất tiếng kêu to” mà giải thích. Nếu y theo cách giải thích sau giải thích thì thế tục và ngoại đạo khởi ra hoặc lợi độn đấu tranh. Vì đây mà vội vàng đến nơi sanh tử này mà lo sợ ngày đêm. Đâu biết là do lửa hoặc thiêu đốt, các loài trùng đáng làm thương hại, mà cầu mong ra khỏi. Nếu có muốn ra cũng không thể được.

-Kinh: “Đường ác độc trùng cho đến cũng ở trong hang đó.

-Tán: Ba hàng tụng rưỡi dụ cho tai họa Cõi Sắc. Ở đây có ba:

-Một hàng tụng dụ cho người tục ngoại đạo cùng sanh về cõi kia.

-Một hàng tụng dụ: Tuy là có cõi Tịnh định chiết phục phiền não mà phiền não cũng khởi trở lại.

-Một hàng tụng rưỡi dụ: Cầu lìA-dục mà chấp vào cõi kia là trên hết, mà phiền não lại sanh .

Đây là phần đầu: Định sâu trong cõi Sắc dụ như hang sâu. Người thế tục sanh về cõi kia như trùng. Hàng ngoại đạo, quỷ cũng sanh vào đó, nên nói là cũng trụ, Kinh: “Bạc phước đức cho đến uống máu ăn thịt.”

-Tán: Đây là dụ: Tuy có tịnh định chiết phục phiền não, nhưng phiền não lại khởi. Bậc Thánh có tịnh định nên phiền não không sanh.

Kia tuy có tịnh định mà không có phước tuệ chân thật nên gọi là phước đức kém. Lại bị các phiền não tham, sân, si, mạn, thân, kiến, biên kiến thiêu đốt, nên gọi là bị lửa đốt ép ngặt. Vì không thể diệt trừ các phiền não này, nên kiến thủ, phiền não vẫn đều khởi lên trái khuấy bài xích nhau nên gọi là tàn hại lẫn nhau. Chấp cho là đạo mình hơn như là uống máu duyên vào các kiến nhỏ nhiệm. Khởi ra giới thủ chấp chặt như là ăn thịt, duyên vào các sự thô.

-Kinh: “Thuộc loại dã can… bốn mặt đầy khắp.”

*Tán: Tuy cầu lìA-dục mà chấp kia cho là thù thắng, nên phiền não lại sanh ra. Loài dã can là thuộc phiền não nghi ở cõi Dục.

-Đều đã chết đó: Trước tiên là phục đoạn, do lấy định là cao quý, mà ở trong Cõi Sắc khởi ra các thứ phiền não là ái, kiến mạn nghi… gọi là đại đường ác. Các loài này lần lượt thêm lớn như tranh nhau đến ăn. Hoặc do lửa đã phát cháy cùng khắp. Từ định sanh ra hoặc nên không thể yêu thích như khói tanh. Biến sanh trong tứ định, không chỗ nào không có, nên nói phủ biét bốn bề.

-Kinh: “Loài ngô công do diên… liền bắt lấy mà ăn.”- Tán: Hai hàng tụng rưỡi dụ tai họa Cõi vô Sắc.

-Một hàng tụng rưỡi tụng về hoặc trong ba địa.

-Một hàng tụng dụ sanh hoặc của địa Hữu đảnh. Các thứ Ngô công là dụ cho hàng phàm phubị lửa hoặc Cõi Sắc thiêu đốt, cầu sanh về Vô sắc như ra khỏi hang huyệt. Chúng sanh trong ba cõi dưới… như quỷ Cưu-bàn-trà là dụ cho chúng ngoại đạo kia. Ngoại đạo phần nhiều chấp vào hai địa trên cho đó là cảnh Niết-bàn, bác bỏ phàm phu không chấp làm Niết-bàn diệu thắng, do như phàm phu khởi ra tà hoặc như quỷ trông thấy loài trùng liền tùy ý bắt ăn. Ăn đây có nghĩa là nuôi lớn, đuổi theo kia sanh nghiệp thêm lớn.

-Kinh: “Lại có các ngạ quỷ… sảng sốt chạy quàng lên.”

-Tán: Đây là dụ cho phiền não Hữu đảnh. Sanh vào ngoại đạo kia thì gọi là ngạ quỷ, Tam hữu đảnh thì gọi là “trên đầu”. Phiền não sanh lại gọi là lửa cháy. Không ăn theo chánh giáo, pháp nước… thì gọi là đói khát. Phiền não ép ngặt như là nóng bức. Thường không được an ổn gọi là sảng sốt. Chu chương có nghĩa là trôi khắp, chìm vào năm cõi thú gọi là chạy quàng lên, buồn bã.

-Kinh: “Nhà lửa như thế… các nạn chẳng là một”.

-Tán: Văn này kết nói các nạn ba ở trên.

-Kinh: “Chủ nhà lúc đó, đang đứng ngoài cửa.”

-Tán: Đoạn lớn thứ ba có mười bốn hàng tụng, là dụ thấy thiết

lập quyền phương tiện. Văn xuôi có bốn: Trong đây cũng vậy. Ba hàng tụng đầu là dụ thấy khổ sanh lòng bi. Năm hàng tụng kế dụ không cầu Đại thừa. Ba hàng tụng tiếp suy nghĩ tìm cách cứu khổ. Ba hàng tụng sau là chánh nói về Ba thừa.

Văn đầu có hai:

-Hai hàng tụng thấy khổ.

-Một hàng tụng sanh lòng bi.

Trong phần thấy khổ, hai cầu đầu là dụ cho Phật ra đời trong ba cõi. Một hàng tụng rưỡi nói lại nghe chúng sanh có nạn khổ càng khởi lòng từ bi.

Chủ đó nghĩa là thân vậy, là thượng là điển, là cảnh là thủ. Môn có hai thứ: Một là giáo môn, hai là hành môn. Phật trụ trong quả đã ra ngoài nhân môn. Tức là vị ở diệu lý, cũng là lý ra ngoài giáo môn, tức môn Nhất thừa. Cho nên nói ngoài cửa. Do trong Văn xuôi nói: “Ta tuy có thể từ cửa của nhà bị cháy mà ra an ổn…”.

Nay nói đứng ở ngoài có bốn nghĩa:

  1. Đứng đó tự như đợi con ra khỏi nhà.
  2. Tựa như sắp đi. Sắp đi vào cứu con nên gọi là đứng ở ngoài cửa.
  3. Đứng: Là tướng không đi, tức đợi căn cơ thuần thục mà vì cứu giúp nên chưa đi ngay.
  4. Đứng: Có nghĩa là khởi thành tựu chúng sanh ở trong sanh tử chưa khởi chưa thành Phật nên như là ngồi. Phật đã khởi mà lại thành, cho nên nói đứng.

-Kinh: “Nghe có người nói… ưa thích mê đắm.”- Tán: Đây là nghe chúng sanh ở nơi các nạn.

Phần Văn xuôi nói: “Trưởng giả thấy lửa cháy lớn.” Trong phẩm phương tiện nói: Ta dùng Phật nhãn quán xét. Nay, nói nghe người nói có hai nghĩa: Một là: Nói rõ về tự tha ảnh hưởng không chỉ thấy chúng sanh chìm trong cảnh khổ, mà cũng nghe Chư Phật ba đời đều truyền nói về các tướng thân sơ. Hai là: Mắt thấy khổ sanh gần gũi, cho nên gọi kiến pháp đợi căn cơ. Vì cứu giúp xa nên gọi là “nghe nói”. Từ vô thỉ, đến nay do buông lung buông lung mà khởi ra phiền não phân biệt nên nói: Trước đây vì dạo chơi mà chịu khổ quả trong Ba cõi, gọi là: “Lại trở vào nhà lửa này.” Do hoặc nghiệp từ vô thỉ đến nay, cảm nơi thức v.v… Trái với lý chân thật gọi là “vào đến”. Nhập có nghĩa là xứ, chẳng phải trước đã ra, nay mới gọi là vào, kia đã tu giải thoát phần tức là ra do vì không tu nên gọi là vào. Chủng tánh Ba thừa chưa phát ra hiện hành. Nếu có phát đại tâm mà thoái cầu tiểu quả gọi là thơ bé là ấu trĩ là ấu nhược (nhỏ bé). Ngu si che lấp thì gọi là vô trí. Khổ quả ở đây là do phóng dật lục tình, gọi là ham vui, tham nhiễm các cảnh thì gọi là ưa đắm.

-Kinh: “Trưởng giả nghe rồi… khiến không bị thiêu hại.”

-Tán: Tụng này là dụ sanh lòng bi. Vì khởi lờng từ bi vào nhà cứu thì gọi là kinh. Thuận theo sanh tử gọi là vào nhà lửa. Do vào trong nhà này nên sau đó cùng con tìm cách thoát ra. Ra vào cứu khổ không nghĩ khó khăn thì gọi tùy nghi cứu tế, ứng thời cứu khổ.

-Kinh: “Dụ bảo các con… nối tiếp không dứt.”- Tán: Năm hàng tụng: không cầu pháp Đại thừa.

Đây có hai:

1/ Bốn hàng tụng, thầm nói về các sự khổ để trao pháp Đại thừa.

2/ Một hàng tụng không sợ giữ Đại thừa.

Bốn hàng lại chia ra hai:

1/ Một hàng rưỡi tụng: Nói chung: hoặc khổ hoàn sanh lại.

2/ Hai hàng rưỡi tụng về ác xứ khiến cho nhàm chán. Phần đầu nói các thứ hoạn nạn là: nhà hư nát bị lửa cháy. Các thứ trùng quỷ nhiễu nhương bấn loạn. Ác quỷ là chỉ các kiến hoặc của ngoại đạo. Độc trùng là chỉ các dư hoặc của bạch y. Hai thứ này là duyên vào tất cả phiền não sanh ra họa lửa cháy mãi không dứt.

-Man diên là chỉ cho dáng mạo liên tục cũng như cỏ man kéo dài liên tục không dứt. Do từ nhà lửa sanh ra nên gọi là man diên. Nhân nơi nhà lửa bị hủy hoại nên gọi là khổ. Thứ lớp liên tục không dứt. Ý này nói rõ nhân nơi hoặc sanh ra khổ. Trong duyên sanh vô minh duyên hành mà sau có năm thức… ái, thủ, hữu duyên mà saucó sanh lão tử. Nhân khổ mà sanh ra hoặc, sanh tử nối tiếp không đoạn tuyệt. Do xúc thọ mà sau có ái thủ. Do lão tử mà sau lại hoàn có vô minh. Cho nên gọi sanh tử là luân chuyển.

-Kinh: “Loại độc xà nguyên phức… huống chi là lửa lớn.”- Tán: Đây là nói riêng.

Độc xà là chỉ cho sân, Dạ-xoa là ác nghiệp. Cưu-bàn-trà là giới thủ vậy. Dã can là chỉ cho nghi. Cẩu chỉ cho mạn. Điêu thứ là tham ái. Các thứ trăm chân như thế là chỉ cho các thứ phiền não. Đã thiếu pháp thực, đói khát nên sanh phiền não. Não đưa đến phân loạn thật là đáng sợ, đều là do hoặc tướng này. Đây là xứ sở khổ nạn cực ác. Đã không có gì là vui. Huống chi nhân của đại hỏa cảm lấy quả cháy nhà, ngày đêm ép ngặt, thì sao còn tham muốn. Hoặc lại có các phiền não như thế, các loài trùng quỷ nhiễu nhương. Khổ về tướng ác đã là nạn xứ. Huống chi đây là tổn hại về thiêu đốt. Trùng quỷ tức là lửa, sao lại khác nhau.

Nạn xứ có hai nghĩa:

  1. Nơi khó có thể an, Kinh Thi nói: Chẳng phải nơi ta ở nhàn cư là an ổn vậy.
  2. Xứ sở khổ nạn.

-Kinh: “Các con không biết… vui chơi mãi không thôi.”- Tán: Bài tụng này nói không mong cầu Đại thừa.

-Kinh: “Bấy giờ, trưởng giả… ta cùng sầu não cho đến”

-Tán: Đoạn thứ ba có ba hàng tụng. Nghĩ đến phương cách cứu khổ có hai: Một hàng tụng: Tâm từ bi càng chuyển sanh.

Hai hàng tụng sau là chánh suy nghĩ cứu khổ.

Hàng đầu: Chúng sanh do chịu khổ mà phiền não thêm lớn, Bồ-tát càng chuyển tâm từ bi.

-Kinh: “Nay nhà này… lập ra các phương tiện.”- Tán: Chánh suy nghĩ cứu khổ.

Đạm có nghĩa là đam mê vui chơi.

Miến là say loạn.

Hỷ hý là buông thả.

Các điều khác có thể biết.

-Kinh: “Bảo với các con rằng… các thứ xe diệu báu.”

-Tán; Ba hàng tụng của đoạn thứ tư, chánh nói về Ba thừa. Dụ chia làm ba:

-Một hàng tụng nói chung về việc cho xe.

-Một hàng tụng nêu các thứ xe ở ngoài.

-Một hàng tụng nói tùy theo xe cho.- Kinh: “Xe dê xe hươu… các con mau ra.” – Tán: Nêu các thứ xe đang ở ngoài.

Quả ở ngoài cửa nhân, lý vượt ngoài giáo. Cho nên nói: Ra ngoài cửa. Thể xe vô lậu không ràng buộc gọi là ngoài. Hoặc lìa Ba cõi không có chỗ thi hóa, ở ngoài môn Ba thừa. Phật đang trụ ở ngoài nhà, nên gọi con ra, nghĩa như trước đã giải thích.

-Kinh: “Cha chính vì các con… có thể dạo chơi.

-Tán: nói chỗ tùy theo của xe.

Đảo châu báu Niết-bàn là vô vi. Trước đã có, không nói là ta làm, xe là Bồ-đề, thể là hữu vi cho nên nói làm. Làm có nghĩa là khởi, xe trâu là chủng trí, do giáo hạnh sanh nên nói là làm. Hai xe trâu dê là giáo phương tiện lập ra. cũng nói là ta làm. Tuy đều cùng làm mà xe trâu là Thể, xe dê nai là danh. Cho nên đều là làm. Tùy căn cơ mà cứu gọi là “Tùy ý các con ưa thích.”

-Kinh: “Các con nghe nói… lìa hết khổ nạn.”

-Tán: Đoạn thứ tư có sáu hàng tụng rưỡi. Tụng y theo cha nói mà tránh nạn chia ra hai:

  1. Một hàng tụng rưỡi nói các con tránh nạn.
  2. Năm hàng nói tâm cha an ổn. Phần đầu, liền tranh nhau chạy ra. Đây là khuyến khích nỗ lực.

Chạy mau ra là tinh tấn dũng mãnh.

Đến chỗ đất trống đó là tùy theo sở ứng, lìa tam chướng, ở nơi đất nhị không. Tức là người Nhị thừa vô học và nhập Sơ địa, ra khỏi khổ nạn phần đoạn sanh tử vậy, là không sanh lại. Ác quả gọi là khổ, ác nhân gọi là nạn.

-Kinh: “Trưởng giả thấy con… ta nay rất vui mừng.”- Tán: Năm hàng tụng. Tâm cha an ổn. Chia ra có hai:

Một hàng tụng rưỡi thấy rồi thì tự vui mừng.

Ba hàng tụng rưỡi: Lòng cha vui mừng bảo với mọi người.

Ngã tư đường là dụ cho lý là chỉ cho tứ đế. Con đã ra khỏi đang trụ ngã tư đường, cha bèn ngồi vào tòa Sư tử, đắc vô úy. Đây là tiêu biểu cho tâm an. Do đây mà tiếp nói: Các con biết cha an tọa tòa Sư tử. Cho nên biết tòa Sư tử là chỗ cha ngồi. Cha rất thích ý nên nói rất vui mừng. Tức nói xưa đã đắc quả Bồ-đề. Sau sanh ra vẫn còn ở trong nhân nói pháp độ sanh. Nói về sắp cứu giúp. Nghĩa này cũng đồng với việc sắp cứu độ mà đợi các con. Cho nên nói đứng. Nay quả con đầy đủ đã ra khỏi nhà lửa. Cha không đứng đợi, tâm an ổn ngồi vào tòa.

-Kinh: “Các người con này… bốn phía cùng khởi lên.”

-Tán: Ba hàng tụng rưỡi vui mừng bảo với mọi người. Chia làm hai:

  1. Hai hàng tụng nói các con xưa ở trong khó khăn.
  2. Một hàng tụng rưỡi, Ta nay cứu xong nên được an tâm.

Gốc lành khó khởi thì gọi là sanh nuôi khó. Nuôi là nuôi lớn, vô minh lớn che mà thì gốc lành không có Đại thừa nên gọi là nhỏ dại không hiểu, chìm đắm trong Ba cõi thì gọi là vào nhà hiểm nạn. Hoặc xưa từng được giáo hóa mà nay đã quên, nên gọi là Tiểu thừa vào nhà lửa. Bôn ba trong thế tục như nhiều loài trùng độc. Bọn ngoại đạo tà học như ly mị đáng sợ. Phiền não xí thạnh như lửa dữ gặp duyên thì phát cháy, bốn phía đều cùng khởi.

-Kinh: “Mà các con này… ta nay vui mừng.”

-Tán: đây nói: Ta nay cứu được các con nên được xứng tâm, vui mừng. Lại bảo mọi người biết ý mình rất vui.

-Kinh: “Bấy giờ các con… ba thứ xe báu lạ.

-Tán: Trên có năm mươi ba hàng rưỡi tụng ở trên. Xưa nói quyền phương tiện, từ đây trở xuống. Mười hai hàng tụng nay nói thật. Phần Văn xuôi có bốn: Nay đây cũng như vậy.

-Ba hàng tụng đầu nói các con xin ba xe.

-Một hàng rưỡi tụng giải thích chí của cha thành tựu.

-Sáu hàng tụng: Cha chỉ cho một xe.

-Một hàng rưỡi cuối: Vượt hơn ý của con. Trước sau đều khác nhau.

Ba hàng đầu lại chia làm hai:

1/ Một hàng tụng rưỡi nêu việc xin ba xe.

2/ Một hàng tụng rưỡi nói lại cha trước đã hứa cho.

Hiểu được ý của cha không còn lo lắng. Cho nên nói: Biết cha an tọa.

-Kinh: “Như trước cha đã hứa… xin nguyện cấp cho.”

-Tán: Nói lại lời hứa của cha, nên dám trông mong cha. Người học đương cơ nguyện Phật ban cho. Chữ Duy là cúi mong. Cúi mong lời cha, dùng cầu Ba thừa.

-Kinh: “Trưởng giả giàu có lớn… tạo ra các xe lớn.”

-Tán: Phần thứ hai: giải thích thành tựu chí của cha, trưởng giả giàu có rất nhiều của báu hữu vi vô vi, chu cấp cho một nước dùng cũng không hết, huống chi là các con, cho nên lấy trân báu làm thành một xe lớn. Dạy các con tu tập quả đầy đủ cả đời.

Tóm lại: Tất cả vô lậu chủng trí năm uẩn là tướng của xe này. Bỏ sắc uẩn vô thường thì đắc được thường sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Nếu nói chân như là thể của xe này thì đó chính là đảo châu báu. Vì sao lại nói làm. Hóa thành lập ra cũng có thể nói là ta hóa làm.

Há nói đảo châu báu cũng là làm? Xe trâu đã làm là nói rõ thể Bồ-đề. – Kinh: “Tu sức trang nghiêm… các nơi đều rủ xuống.”

-Tán: Đoạn thứ hai có sáu hàng tụng: Cha chỉ cho một xe. Đây chia làm bốn:

  1. Bốn hàng tụng các tô điểm.
  2. Một hàng rưỡi tụng tướng trâu.
  3. Nửa hàng tụng người tùy theo.
  4. Nửa hàng tụng nêu chung cho xe.

Phần một có chín món trang nghiêm.

Trong đây có sáu:

  1. Tổng nghiêm.
  2. Lan thuẫn: Chấn song, lan can.
  3. Phong đạc (phong linh).
  4. Giao lạc (dây vàng xen thắt lại).
  5. Man cái (lưới mành kết châu báu)
  6. Hoa anh: Dùng hoa vàng làm tua để tô điểm, nên gọi là hoa vàng các chuỗi…

-Kinh: “Các màu tô điểm đẹp… để che ở trên.”

-Tán: Đây có ba thứ trang nghiêm. Các lụa mền mại, đệm cỏ lấy cỏ đệm thành hoa hoặc lấy cỏ làm đệm. Trong Ngọc thiên gọi là y thân (thân áo). Và lót ngồi tức thay thế gối đỏ. Văn xuôi lấy diệt định làm chỗ dựa nghỉ mệt, đây dùng khéo léo trí dụng khắp mạng trên đệm cỏ, nên dụ là lót ngồi, nghĩa tùy chỗ đối đãi có khác mà cũng không mâu thuẫn nhau.

Các thứ này có sáu đức:

  1. Thần dụng vô phương nên gọi là thượng diệu.
  2. Nhỏ nhiệm thâm mật khó biết thì gọi là tế.
  3. Tích công chứa hạnh dùng làm nhân hoa tu tập thành tựu thì gọi là điệp. Điệp là loại vải dệt bằng lông nhỏ. Nay thì lấy điệp hoa dệt làm vải.
  4. Vượt xa tất cả thần đức khó nghĩ bàn gọi là giá trị nghìn ức.
  5. Tự tánh lắng đọng rõ ràng thì gọi là trắng mới.
  6. Thể lìa hai chướng gọi là tịnh khiết. Dùng sáu đức trên làm trí diệu dụng ở sau, trùm khắp trong tịnh mạng gọi là trải trùm trên nệm.

-Kinh: “Có trâu trắng to lớn cho đến để kéo xe báu.

-Tán: Tướng trâu có bốn đức.

  1. Trâu trắng.
  2. Mập khỏe tức da dẻ sung mãn.
  3. Sức lực.. Đẽp đẽ.

-Kinh: “Nhiều người đi theo cho đến đồng ban cho các con.”- Tán: Nửa hàng trên tụng về khách theo.

Nửa hàng dưới là nói cho. Trong Ngọc thiên nói là dẫn đường. Ra tiếp khách thì gọi là tân. Vào tán lễ thì gọi là tướng. Lại nói là tân tiến (tiếp khách) là trần (trình bày). Nay dẫn đầu gọi là tân, tùy theo sau thì gọi là tùng, tướng mạo của xe này cũng đồng như Văn xuôi.

-Kinh: “Các con lúc ấy… tự tại vô ngại.”

-Tán: Đoạn thứ tư nói vượt xa ý muốn các con.

Dạo chơi bốn phương là dụ cho việc hóa độ tứ sanh, đắc trí giác, cho nên hớn hở, đắc diệt lý cho nên rất vui, đắc thần thông cho nên tự tại, lìa các chướng nên không ngăn ngại. Hoặc tự tại có mười: 1. Tài; 2. Tâm; 3. Thọ; . Nghiệp; . Sanh; 6. Thắng giải; 7. Nguyện; 8. Thần lực; 9. Pháp; 10. trí.

Như các chỗ khác nói thì có bốn tự tại: 1. Tướng; 2. Độ (cõi, đất); 3. Trí; 4. Nghiệp. Các nghĩa này đều giải thích được.

-Kinh: “Bảo với Xá-lợi-phất cho đến là cha của thế gian.”

-Tán: Sáu mươi lăm hàng rưỡi ở trên là tụng về phần dụ nói. Từ đây trở xuống mười tám hàng tụng là hợp nói. Y theo trước thì có hai:

  1. Mười một hàng tụng hợp với quyền trước.
  2. Bảy hàng tụng hợp với thật pháp nay.Hợp quyền xưa có bốn phần:
  3. Một hàng tụng, hợp nói Ba cõi, Phật có.
  4. Ba hàng tụng năm đường nguy vọng.
  5. Năm hàng tụng rưỡi là hợp nói: Thấy khổ thiết lập phương tiện.
  6. Một hàng rưỡi tụng hợp theo lời cha nói mà thoát.

-Kinh: “Tất cả chúng sanh… không có tuệ tâm.”

-Tán: Phần hai có ba hàng tụng. Hợp năm đường nguy vong. Lại chia làm ba:

  1. Một hàng tụng hợp nói mọi người rất nhiều, các con chơi giỡn trong đó.

Vô chủng tánh: Tuy không phải là con thật thì cũng là con nuôi.

  1. Một hàng tụng nói nhà có nguy cơ sụp đổ.
  2. Một hàng tụng nói tai họa xảy ra khắp nơi.

-Phần đấu nói: Tham đắm vui thế gian rất sâu dày, khởi ra nghiệp ác cũng sâu dầy. Cũng có bổn ghi là đắm sâu năm dục nhưng đây dùng nghĩa đầu làm chánh, chung cả ba cõi, thì không có tuệ tâm, không có thiện ý.

-Kinh: “Ba cõi không an… lửa cháy không dứt.”

-Tán: Một hàng đầu tụng nhà lửa nguy cơ sụp đổ. Năm uẩn đều bị ép ngặt bởi bốn khổ, thay đổi biến dời. Một hàng sau tụng tai nạn nổi lên khắp nơi, trong sanh già bệnh chết, đều có lửa phiền não thiêu đốt dữ dội.

-Kinh: “Như-lai đã lìa xa… an ổn ở trong rừng.”

-Tán: Năm hàng tụng rưỡi, hợp nói “Thấy khổ mà lập phương tiện”. Đây lại chia làm ba:

  1. Ba hàng tụng đầu hợp thấy khổ lòng bi sanh khởi.
  2. Một hàng tụng khai thị pháp Đại thừa mà chúng chẳng mong.
  3. Một hàng tụng rưỡi hợp chánh nói về pháp Ba thừa, không còn suy nghĩ phương cách cứu giúp.

Ba hàng đầu có ba ý:

  1. Một hàng tụng nói tự ra khỏi nhà lửa.
  2. Một hàng tụng nói nhà phụ thuộc mình ta.
  3. Một hàng tụng nói: Đã có năng lực.

Hàng đầu nói: Chứng Niết-bàn cho nên được vắng lặng. Ra khỏi sanh tử cho nên thong thả an ổn. Thường ở trong định, yên tịnh an xứ trong rừng. Định là rừng công đức, như có bài tụng:

“Voi đầu đàn chỗ vắng vẻ

Tâm phóng khóang vô ưu

Người trí ở núi rừng

Tiêu diêu vui vắng lặng.

-Kinh: “Nay Ba cõi này cho đến đều là con ta.”- Tán: Nhà thuộc nơi ta, chúng sanh đều là con ta. – Kinh: “Mà nay nơi chỗ này cho đến có thể cứu hộ.” – Tán: Đã có năng lực, chẳng phải khả năng khác.

-Kinh: “Tuy lại dạy bảo cho đến tham đắm sâu xa.”

-Tán: Một hàng tụng hợp nói không cầu Đại thừa. Giáo có nghĩa dạy bảo. Tuy có dạy bảo mà không tin Đại thừa, tham đắm sâu xa.

Hoặc nói là giáo chiếu. Chiếu có nghĩa là Huấn dụ. Đây là nói rõ sự dẫn dụ.

-Kinh: “Bởi thế nên phương tiện cho đến các đạo xuất thế.

-Tán: Hợp chánh nói về Ba thừa.

-Kinh: “Các người con đó thảy… hoặc bất thoái Bồ-tát.

-Tán: Hợp nói nghe lời cha mà tránh nạn. Tâm chắc chắn đó là không nghi tứ đế, được chứng chân đế. Đầy đủ lục thông thì đắc quả Ala-hán. Hai quả khác cũng có thể biết. Luận nói bất thoái là trụ Sơ địa trở lên, vượt ngoài phần đoạn sanh tử.

Ba minh là Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh. Theo thứ lớp đây có thể biết việc quá khứ, hiện tại, vị lai một cách thù thắng, không ngu ở ba đời.

-Kinh: “Xá-lợi-phất… đắc thành Phật đạo.”

-Tán: Bảy hàng tụng hợp nói thật pháp ngày nay. Chia ra hai:

Hai hàng tụng hợp nói cha chỉ cho một xe.

Năm hàng tụng sau khen ngợi công đức cao quý của Phật thừa.

Kinh: “Thừa này mầu nhiệm cho đến không còn pháp nào trên.”

-Tán: Tức năm hàng tụng khen ngợi công đức cao quý của thừa.

Ở đây chia làm bốn:

  1. Một hàng tụng khen ngợi bốn đức của thừa.
  2. Một hàng tụng nói bậc Thánh khen ngởi thừa này.
  3. Một hàng tụng là nói công cụ để vui chơi.
  4. Hai hàng tụng nói vui nhất thừa.

Hàng đầu nói bốn đức:

a. Thanh tịnh lìa chướng.

  1. Đệ nhất trên hết.
  2. Vô thượng chẳng pháp nào hơn.

– Kinh: “Thừa ấy, Phật vui ưa… lễ bái cúng dường.”

– Tán: Là pháp mà các Thánh khen ngợi. Không chỉ Phật vui mừng mà còn đáng được khen ngợi. Cũng để cho ba nghiệp của chúng sanh đều quy kính.

– Kinh: “Vô lượng ức ngàn cho đến và pháp khác của Phật.”- Tán: Tụng về các điều ưa thích của Phật.

– Kinh: “Chứng được thừa như thế cho đến mà thẳng đến đạo tràng”

Tán: Tụng vui bậc Nhất ngày đêm kiếp số thường được dạo chơi Ba thừa đều lên ngôi vị từ Sơ địa trở lên, nương theo chủng trí Nhất thừa này, trải qua hai A-tăng-kỳ kiếp mới đến quả vị Phật.

Nếu Nhị thừa nương vào giáo vô lậu và thừa hữu lậu. Trải qua một đại a-tăng-kỳ kiếp mới nhập vào Sơ địa. Như vậy thì gọi là ngày đêm kiếp số, ba thứ ý sanh thân. Nương theo xe vô lậu Nhất thừa, thẳng đến Đạo tràng quả vị Phật. Bồ-đề, Niết-bàn là nơi sanh đạo gọi là Đạo tràng. Hoặc nương theo nhân thừa của chủng trí, thì đến quả Đạo tràng Đại Niết-bàn của quả Phật vậy. Hoặc đến Đạo tràng chân như của Phật quả. Đây là nhân thừa, mới đến được quả thừa. Do đó mà ở trên nói chung về Giáo, Lý, Hạnh, Quả đều là thể của thừa.

– Kinh: “Vì nhân duyên cho đến trừ Phật dùng phương tiện.”

– Tán: Tụng lại đoạn lớn thứ ba trong phần Văn xuôi, kết lại lời văn đáp.

Nên biết chư Phật dùng năng lực phương tiện , đối với một Phật thừa phân biệt nói thành ba. Ở trên nói theo lí , trong mười phương mà cầu đế lý lại không có tự thể của Nhị thừa, trừ khi Phật dùng phương tiện giáo nói có ba, càng không có ba thể cực quả, trừ khi nói đó là nhân phương tiện có ba.

– Kinh: “Bảo với Xá-lợi-phất cho đến khiến ra khỏi Ba cõi.”

-Tán: Chính là dụ về hóa độ. Trong đoạn văn lớn có ba: Trên là tổng lược yếu chỉ, đáp về lý do hứa cho, và chánh nói về pháp dụ khiến cho người khai tỏ. Từ đây trở xuống có tám mươi hàng tụng rưỡi, khuyên tin hiểu kinh này, ưa thích trí Phậtở đương lai. Đây chia làm hai phần:

  1. Mười bốn hàng tụng rưỡi, nói pháp có quyền thật, khiến xả quyền mà giữ thật.
  2. Sáu mươi sáu hàng tụng nói về thị phi của người, khiến cho người học trừ lỗi.

Trong phần đầu lại có hai:

  1. Hai hàng tụng nói cha con tình sâu thấy khổ liền cứu nạn.
  2. Mười hai hàng tụng rưỡi chính là nói quyền thật, để cho người giữ và bỏ.

-Kinh: “Ta tuy trước đã nói cho đến chỉ có trí tuệ Phật.”

-Tán: Mười hai hàng tụng rưỡi chính là nói về quyền thật, khiến cho bỏ quyền giữ thật. Trong đây lại có hai:

-Một hàng tụng rưỡi, nói chung về xưa quyền nay thật.

-Mười một hàng tụng riêng về nay thật xưa quyền.

-Hàng rưỡi đầu: Ta tuy trước nói các thầy tuy diệt độ nhưng chỉ diệt phần đoạn sanh tử. Vì đắc quả Niết-bàn, hữu sau vì không có nối tiếp, nên Biến dịch sanh tử không thể chiêu biệt nghiệp, không chướng ngại vô học nhập vào vô dư. Đây Phật ẩn ý không nói ra là: Các thầy tuy đã diệt độ mà thật là chưa phải cảnh thật đại Niết-bàn diệt độ. Các thầy phải tu tập thêm, chỉ có tánh trí tuệ Phật làm pháp thân. Tướng là đại tuệ, là trí chứng lý. Hai chướng không sanh ra, liền được giải thoát, gọi là Đại Niết-bàn, ba việc đều đầy đủ.

-Kinh: “Nếu có Bồ-tát cho đến đều là Bồ-tát.”

-Tán: Mười một hàng tụng nói. Nay thật mà xưa quyền. Trong đây có hai:

-Chín hàng tụng rưỡi tụng về: Nay thật xưa quyền.

-Một hàng rưỡi là: Kết luận.

Chín hàng rưỡi đầu lại chia hai:

-Hai hàng tụng nói về thật pháp ngày nay.

-Bảy hàng tụng rưỡi nêu xưa quyền phương tiện.

-Kinh: “Nếu người tiểu trí cho đến chân thật không khác nhau”

-Tán: Bảy hàng tụng rưỡi nêu xưa thật. Trong đây lại có hai:

-Sáu hàng tụng nói quyền pháp Tứ đế.

-Một hàng tụng rưỡi giải thích được được quyền xứ.

Sáu hàng trên lại chia làm bốn phần nhỏ:

-Hai hàng tụng nói về khổ đế.

-Một hàng rưỡi tụng nói tập đế.

-Một hàng rưỡi tụng nói diệt đế.

-Một hàng tụng nói về đạo đế.

Đầu tiên là nói: Mê đắm sâu ái dục tức ái nhiễm nội thân, ham muốn cảnh ngoài đều là khổ đế. Hàng tụng đầu nói khổ đế mà ý không bỏ thế đế để vào chân đế. Hàng tụng sau nói chúng sanh vui mừng, nên nhập vào quả Thánh được pháp chưa hề có. Sự chân thật không khác giải thích là đế. Đế nghĩa là thật. Trong kinh Di giáo nói: Phật nói khổ đế là nói rõ sự thật về khổ không có gì là vui.

-Kinh: “Nếu có chúng sanh cho đến phương tiện nói đạo.”- Tán: Đây là tập đế.

-Nhân khổ là nghiệp phiền não tập đế. Đạo là nghĩa nhân, tức là thể của tập đế, là nhân của khổ đế. Lại nói đạo đế là đoạn ở nơi tập.

-Kinh: “Nguyên nhân có các khổ… gọi là đế thứ ba.

-Tán: Đây là diệt đế.

Tham là gốc khổ. Gốc còn thì khổ sanh. Nếu diệt gốc tham thì quả khổ liền diệt. Chỗ sở y đó là thân là khổ quả, vì diệt tập khổ mà nói diệt đế.

-Kinh: “Vì diệt đế cho đến gọi là đắc giải thoát.”

-Tán: Đây Trung đạo đế vậy. Do đạo đế mà chứng diệt lìa hết khổ phược gọi là chứng Niết-bàn được giải thoát.

-Kinh: “Người đó nơi pháp gì… tất cả được giải thoát.”

-Tán: Giải thích được được quyền xứ. Hai câu đầu là hỏi, bốn câu sau là đáp. Chỉ lìa mọi phiền não luống dối, nghiệp khổ của phần đoạn sanh tử thì gọi là đắc giải thoát. Chứng đắc hữu tác tứ Thánh đế. Chưa diệt tận nhị chướng, nhị nghiệp, nhị tử, tất cả pháp Không, giải thoát, vô tác tứ Thánh đế cho đến.

Hữu tác Tứ đế là: Sanh tử phần đoạn là khổ đế. Nghiệp phiền não là tập đế. Hữu dư y Niết-bàn là diệt đế, phẩm Trí sanh không là Đạo đế.

-Vô tác Tứ đế: Biến dịch sanh tử là khổ đế. Sở tri chướng là tập đế. Vô trụ Niết-bàn là diệt đế, phẩm Trí Pháp không là đạo đế. Cho nên trong kinh Thắng-man chép: Tám Thánh đế như thế, chẳng phải là pháp mà Thanh-văn, Duyên-giác chẳng thể biết được.

-Kinh: “Phật nói người này… khiến cho đến diệt độ.”

-Tán: Nói nay thật xưa quyền v.v… là một hàng rưỡi sau, kết luận có hai ý:

-Phật nói Nhị thừa trụ ở pháp quyền, nên chưa thật điệt độ. Người này chưa đắc Vô thượng đạo.

-Ý ta cũng không muốn khiến cho Nhị thừa trụ vào quyền đó tức phải đạt đến chỗ diệt độ vô dư. Ý là muốn giữ đạo Vô thượng Đại nhập Niết-bàn, không cho trụ ở phương tiện mà rốt ráo diệt.

-Kinh: “Ta là pháp vương… hiện ở nơi đời.”

-Tán: Trên nêu mười bốn hàng tụng rưỡi về pháp quyền thật, cho chúng sanh bỏ quyền giữ thật. Đây trở xuống sáu mươi sáu hàng tụng. Nói việc phải trái của người để tu học trừ điều lỗi. Đây chia làm bốn:

  1. Hai hàng tụng rưỡi: Phật nói ta biết căn khí chúng sanh nên nói ra. Các thầy không biết chớ giảng nói truyền bá bừa bãi.
  2. Tám hàng tụng nói tín là quả vị cao, đều trồng công đức căn bản đã lâu.
  3. Ba mươi sáu hàng tụng rưỡi nói người vô trí không tin tội tướng.
  4. Mười chín tụng: Vì người có trí nên nói ra. Hai hàng tụng rưỡi đầu lại chia làm hai:

-Một hàng đầu tụng: Ta biết căn khí cho nên nói.

-Một hàng rưỡi tụng “Các thầy không biết chớ giảng nói truyền”.

Hàng đầu nói: Là pháp vương nên biết bệnh cho thuốc. Pháp thì tự tại phân biệt pháp dược, khiến cho chúng sanh an ổn, phân biệt biết căn khí mà có thể ứng cơ nói cho nên hiện ở thế gian.

-Kinh: “Các thầy Xá-lợi-phất… chớ giảng nói truyền bá bừa bãi.

-Tán: Pháp ấn tức là diệu lý Nhất thừa. Tức là dạy Đại thừa khiến cho chắc chắn. Ta vì lợi ích chúng sanh nên nói pháp ấn này. Các thầy không biết bệnh cho thuốc, chớ giảng nói truyền bá bừa bãi sợ họa phát sanh.”

-Kinh: “Nếu có người nghe cho đến A-bệ-bạt-trí.”- Tán: Phần hai có tám hàng.

Tín là quả vị cao, đều gieo trồng cội gốc công đức đã lâu.

Trong đây có sáu hàng tụng. Một hàng tụng nói quả vị cao có thể tin. Một hàng tụng rưỡi đời trước có duyên gặp Phật, từng nghe rồi mới tin. Một hàng tụng rưỡi nói: Nếu có thể tin lời nói của các thầy tức là thấy Ta.

-Một hàng tụng về trí sâu xa có thể tin, thức cạn thì không thể tin.

-Một hàng tụng nói Nhị thừa tánh chắc chắn không thể tin đây.

-Hai hàng tụng sau nói về Nhị thừa bất định tánh mới thuận sanh tín.

Phần đầu nói. Nếu có người nghe kinh này mà tâm sanh tùy hỷ, cả thân tâm đều đảnh lễ cung kính mà tin thì biết người đó trụ vào bất thối địa.

A-bệ-bạt-trí: Hán dịch là Bất thoái. Cũng có bổn ghi A-duy-việttrí. Là sai. Trong tứ bất thối thì tín, vị, chứng, hạnh đều có thể như vậy nên nói căn tánh thuần thục.

-Kinh: “Nếu có người tin nhận cho đến cũng nghe pháp này.”

-Tán: Một hàng rưỡi tụng nói xưa gặp được duyên Phật, từng nghe mới tin có nhân đời trước.

-Kinh: “Nếu người có thể tin cho đến cùng các Bồ-tát.”

-Tán: Một hàng rưỡi tụng rằng: Nếu tin lời ông nói thì thấy được thân ta, Tỳ-kheo, Bồ-tát, Tam bảo đều không khác, vì đồng thể Tam bảo. Nếu biệt thể thì sẽ thấy được, mà là nhận thấy. Chúng ta đều muốn nghe pháp này, về lý không khác.

-Kinh: “Nói Kinh Pháp Hoa này cho đến mê hoặc không hiểu được.”

-Tán: Một hàng tụng nói về trí sâu có thể tin được lý sâu mầu. hiểu biết cạn thì không thể, vì là phàm phu ngu.

-Kinh: “Tất cả Thanh-văn cho đến sức kia không hiểu kịp.”

-Tán: Một hàng tụng chắc chắn Nhị thừa, không thể ngộ vì trái với bổn tâm. Người không ngu pháp: Có thể tin nghĩa mà không thuận theo tu hành.

-Kinh: “Ông Xá-lợi-phất… chẳng phải trí của mình.

-Tán: Một hàng tụng sau nói bất định tánh Nhị thừa, mới thuận sanh tín. Ông là tối thượng căn, còn phải tin lời của ta thì mới dần được chứng nhập. Huống chi là hàng Thanh-văn bất định khác. Bồ-tát nghe ta nói còn suy nghĩ lựa chọn để thể nhập. Nghĩa “còn” cũng là thường.

Theo ngọc thiên là nghĩa “ngõ hầu”.

-Kinh: “Lại Xá-lợi-phất!… chớ nói kinh này cho đến”

-Tán: Phần ba lớn có ba mươi sáu hàng tụng rưỡi: Người vô trí không thể tin tội tướng.

Đây có hai: Hai hàng đầu tụng ngoại đạo phàm phu. Nếu người có thất ác thì chớ vì họ mà nói.

-Ba mươi bốn hàng tụng rưỡi: Nếu vì họ mà nói thì họ sẽ không tin, gieo tướng nhân quả ác.

Hai hàng đầu lại chia hai:

-Một hàng tụng: Người đầy đủ bốn ác thì chớ nói.

-Một hàng tụng người có ba ác cũng chớ nói. Đầu tiên nói hạng người bốn ác là:

  1. Kiêu: Cây theo dòng họ sắc lực thông minh tài phú mà buông lung.
  2. Mạn: Đầy đủ cả bảy lấn hiếp mạn, chê khinh người. Mình ít đức mà cho là nhiều, như năm ngàn người rời hội Pháp Hoa đây.
  3. Lười biếng: Phóng dật túng tình không biết nhàm chán.. Ngã kiến: Bọn ngoại đạo.

Nếu nhàm chán sanh tử sâu xa mong cầu đạo xuất thế, hạ mình tôn trọng người, nhẫn tâm thọ pháp siêng năng không phóng dật, quán vô ngã diệt hết hoặc chướng, tin thuận kinh này thì mới vì họ mà nói.

Thế nên Phật nói người có đầy đủ bốn ác thì không nói pháp. – Kinh: “Hàng phàm phu biết cạn… cũng chớ vì họ mà nói.” – Tán: Hai hàng tụng nói người có ba ác.

  1. Người hiểu nông cạn trá hiện thông minh, sự hiểu biết không sâu xa.
  2. Người phiền não sâu nặng thân tâm buông lung ở ngũ dục thế gian, tham đắm rất sâu.
  3. Người phàm phu ngu độn không có chủng tánh, không thể nghe nghe diệu pháp. người nghe pháp là thuộc Nhị thừa định tánh, cũng chớ họ nói.

-Kinh: “Nếu người không tin… Hạt giống Phật ở thế gian.”

-Tán: Trở xưống ba mươi bốn hàng tụng rưỡi: Nếu nói ra thì chúng sẽ không tin, tướng nhân quả ác. đây chia làm hai: Bốn hàng tụng rưỡi nói không tin tức gieo nhân ác. Ba mươi hàng tụng sau nói không tin nên thọ quả ác. bốn hàng rưỡi đầu lại có hai: Một hàng tụng nói không tin, diệt hết gốc lành. Ba hàng tụng rưỡi vì không tin nên ác sanh.

Hàng đầu nói: Diệt nhân hữu lậu gọi là đoạn thế gian chủng. Diệt nhân vô lậu thì gọi đoạn Hạt giống Phật. Do tin kinh này, đầu tiên huân tập hạt giống hữu lậu thiện. Cho nên sanh vào trời người thọ sự diệu lạc thù thắng, mà nuôi lớn hạt giống pháp vô lậu như thế, rồi dần dần nhập vào Thánh, mới sanh vào vô lậu, lần lượt đắc quả thành Phật. Cho nên tin kinh này có thể làm nhân gần là trời người ở thế gian. Xa thì là nhân thành quả Phật, tương lai thành Phật được lợi lạc vô biên. Nếu tự mình không tin, chê bai chướng ngại, không cho lưu hành làm cho người khác không tin. Há chẳng phải là đoạn hai hạt giống đó sao? Mà chính hủy hoại mắt của trời người. Hoặc đoạn tất cả Hạt giống Phật của thế gian, tổn phá pháp hạt giống vô lậu. Cho nên kinh này nói: Nếu khuyên người phát Bồ-đề tâm thì Hạt giống Phật không đoạn. Cho nên nếu chê bai kinh này là đoạn tâm Bồ-đề tức đoạn Hạt giống Phật. Pháp mà không hành trì thì cũng đoạn pháp chủng. Đã không phát tâm không chứng Thánh đạo, cũng đoạn luôn tăng chủng. Nay lấy điều hơn hết mà nói thì chỉ là đoạn Hạt giống Phật.

-Kinh: “Hoặc có người xịu mặt… kinh điển như thế này.”- Tán: Ba hàng rưỡi tụng không tin nơi ác sanh. Có hai phần:

-Hai hàng tụng đối với pháp không tin nên khởi ra ba ác nghiệp.

Một hàng tụng rưỡi, với người không tin thì khởi ra bốn hành ác. Đây là phần đầu.

Xịu mặt có nghĩa là thân tướng không tin, hoặc nhăn mày. Người nghi hoặc là tướng tâm không tin. Người chê bai thì lời nói không có tướng tin. Trong đây nên nói: Nếu Phật còn tại thế hoặc đã diệt độ, có người chê bai như kinh điển này, hoặc lại nhăn mày, xịu mặt ôm lòng nghi hoặc, ông nên lóng nghe nói tội báo của người này trong văn trái ngược.

  • Kinh: “Thấy có người đọc tụng cho đến nay ông lại nghe…”
  • Tán: Đối với người không tin sẽ khởi lên bốn hành ác. Có bốn thứ mà người không tin: 1. Đọc; 2. Tụng; 3. Viết; . Trì. Theo lý thì hành chung mười thứ pháp hạnh, ở bên người đều khởi lên không tin. Trong đây lược nên chỉ nêu ra bốn thứ người khởi lên bốn hành vi ác.

Bốn hành vi ác : 1. Khinh tiện; 2. Oán hiềm; 3. Ganh ghét; . Kết hận. Lược nói bốn nhân tội rất nhẹ này. Sự thật thì các tội ác như: Đánh mắng, giết, trói, trộm cướp, chê bai, nói lỗi… đều là nhân của trọng tội, lược không nêu ra, mà lóng nghe quả đó.

  • Kinh: “Người này chết cho đến vô số kiếp.”
  • Tán: Ba mươi hàng tụng nói do không tin mà thọ tướng quả ác.

Chia ra làm hai:

  1. Hai mươi tám hàng tụng nói về quả của sự không tin.
  2. Hai bài kết lại.

Trong phần một lại có hai: Hai mươi hai hàng tụng riêng ba đường, thọ tướng dị thục quả. Sáu hàng tụng sau nêu chung ở bốn đường, thọ tướng hai quả đẳng lưu và tăng thượng. Phần đầu này lại có ba phần:

  1. Một hàng rưỡi tụng về thọ quả tướng địa ngục.
  2. Mười hàng rưỡi thọ quả tướng súc sanh.
  3. Mười hàng thọ quả tướng trong loài người. Đây không nói tướng ngạ quỷ. Ngạ quỷ phần nhiều do tham mà sanh ra. Không tin kinh này còn thiếu người sanh tham vì lược không nói chứ chẳng phải là không có. Trong quyển thứ nhất nói về năm đường, lấy sáu môn để phân biệt. Ở trên đã giải thích về ba môn là: một là danh, hai là thể, ba là khai hợp xong. Nay nói về ba môn còn lại: 1. Xứ sở; 2. Quả tướng; 3. Thọ lượng.

Xứ sở trong Nại-lạc-ca có ba:

  1. Căn bản.
  2. Cận biên.
  3. Cô độc.

Căn bản là tám địa ngục nóng, tám địa ngục lạnh.

  • Tám địa ngục nóng là:
  1. Đẳng hoạt.
  2. Hắc-thằng.
  3. Chúng hợp.
  4. Hào khiếu.
  5. Đại hào khiếu.
  1. Thiêu nhiên.
  2. Cực thiêu nhiên.
  3. Vô gián.

Tám ngục khổ khí này mỗi ngục đều rộng mỗi bề mười ngàn do tuần.

-Tám địa ngục lạnh là:

  1. Át-phù-đà dịch là pháo: Da thịt phóng lên vì rét.
  2. Pháo liệt: Da thịt nứt nẻ vì rét.
  3. Yết triết chiêm: A-tra-tra: Bị rét buốt cùng cực.
  4. Hổ hổ bà.
  5. Hoa sen sanh (ốt-bát-la).
  6. Hoa sen hồng.
  7. Hoa sen hồng lớn.

Dưới đây khoảng ba muôn hai ngàn du-thiện-na có Đẳng hoạt. Dưới Đẳng hoạt khoảng bốn ngàn du-thiện-na thì có bảy ngục Hắcthằng cho đến Như thế sáu ngục Nại-lạc-ca đều cách nhau hai ngàn do-tuần. Tám địa ngục lạnh này so ra nhỏ hơn địa ngục nóng. Trên đây là nói về địa ngục căn bản. Có nghĩa là địa ngục trên dưới lớp lớp chồng lên nhau. Lược tính thì ở tận đáy ngục Vô gián cách mặt đất này là mười hai muôn tám ngàn do-tuần. Giải thích đây không đúng. Vì núi Diệu cao cách mặt nước chỉ nói có tám muôn. Tức lớp vàng thấp xuống nhất định không thể như vậy. Cho nên có giải thích: Cách mặt đất này ba muôn hai ngàn do-tuần có ngục Đẳng hoạt. Dưới Đẳng Hoạt cách bốn ngàn do-tuần có bảy ngục khác, cách ngang nhau có mười ngàn dotuần, không nói trên dưới. Trong Du-già chỉ nói cách đây ba muôn hai ngàn do tuần có Đẳng hoạt. Dưới Đẳng hoạt cách bốn ngàn do-tuần có các địa ngục khác. Sơ hàn thì ở một bên Đẳng hoạt. Dưới đây hai ngàn thì có ngục lạnh Na-lại-ca. Ngục này rộng mười ngàn. Không nói riêng trên dưới đều cách bốn ngàn do-tuần, và mỗi mỗi địa ngục đều là mười ngàn.

Theo luận Bà-sa thì có hai nói. Trong Câu-xá thì cách hai muôn là đến đáy ngục Vô gián. Như vậy là rất gần.

-Gần biên tức là ngoài cửa tám địa ngục nóng, mỗi mặt đều có bốn cửa. Câu-xá nói là mười sáu tăng. Đó là: tro nóng, thây phân, dao nhọn, sông nóng.

-Cô độc: Ở dưới gốc cây vắng vẻ chốn núi non. Hoặc một hoặc nhiều nhiều nơi thọ tội. Loài bàng sanh vốn ở nơi biển lớn, chảy đến ở nơi khác. Chánh pháp niệm nói: Dưới đây cách năm trăm do-tuần có nước Diêm ma vương. Sau dời qua chỗ khác. Người trụ tám châu trong bốn đại châu. Mỗi mỗi đều có năm trăm tiểu châu, lấy đó làm quyến thuộc. Trời trụ ở cõi lục dục sắc vô sắc. Chư Thiên của Bốn đại vương ở tầng thứ tư khoảng lưng chừng núi Diệu cao. Trong Câu-xa nói trụ trên đỉnh Kim sơn. Trời Đao-lợi trụ ở đỉnh Diệu cao. Các cõi trời khác đều lần lượt trụ ở trên không. Từ đỉnh núi Tu-di cách dưới tám muôn duthiện-na trở lên mỗi tầng trời cách nhau gấp bội. Cõi trời Dạ-ma cách mặt đất mười sáu muôn. Trời Tri túc cách đất ba mươi hai muôn. Trừ cõi trời Vô Vân cho đến trở lên đều y cứ theo đây nên biết. Các tầng trời cõi vô Sắc ở tại cõi Dục sắc, tùy theo trước nhập định mà liền thọ quả. Chẳng phải trời căn bản phía bắc tại núi Diệu cao là Bắc hải trở xuống có các loài bàng sanh nhỏ, tùy theo ở nơi bốn châu, như trước đã nói.

-Tướng thọ quả là: Nghĩa là hữu tình Na-lặc-ca. Ở đây phần nhiều thọ dụng sự trị phạt cực khổ.

-Hữu tình bàng sanh phần nhiều là thọ dụng sự ăn nuốt cực khổ.

-Hữu tình ngạ quỷ phần nhiều là thọ dụng sự đói khát cực khổ.

-Hữu tình nhân thú: phần nhiều thọ dụng thiếu thốn nên truy cầu đủ loại cực khổ.

-Hữu tình cõi trời phần nhiều thọ dụng sự xuy não đọa lạc khổ.

Tướng chịu khổ của tám địa ngục nóng là:

1. Tướng khổ Đẳng hoạt: Hữu tình ở đây phần nhiều cùng nhóm họp. Do nghiệp tăng thượng sanh ra các thứ khổ cụ, lần lượt xuất hiện, lại tương tàn lẫn nhau, ngất xỉu ra đất. Kế là trên không trung có tiếng nói lớn: Chúng hữu tình này trở về ngục Đẳng hoạt, trở về Đẳng hoạt, như thế các khổ cụ lần lượt hiện ra, tiếp tục tàn hại lẫn nhau. Do nhân duyên này mà chịu khổ lâu dài. Nhẫn đến ở trong đời trước tạo ra các ác nghiệp chưa chưa thể ra.

2. Tướng khổ Hắc-thằng: Nghĩa là chúng hữu tình kia phần nhiều bị ngục tốt dùng dây đen trói lại, hoặc làm bốn phần hoặc làm tám phần. Hoặc làm thành các thứ đồ hoa văn tượng. Hoặc bị cưa bị chặt. Vì nhân duyên đó chịu khổ rất lâu. Nghiệp hết mới ra khỏi.

3. Tướng khổ chúng hợp: Nghĩa là chúng hữu tình kia hoặc lần lượt hòa hợp nhóm họp lại. Bấy giờ ngục tốt rượt đuổi ép ngặt vào giữa hai ngọn núi Thiết lớn ép lại, làm cho các cửa máu tuôn ra. Như thế núi Thiết đầu dê đầu ngựa sư tử, đầu hổ… lại chúng hòa hợp nghĩa như đặt, các hữu tình có tôi vào trong máng sắt lớn, ép như ép mía, khiến máu tuông ra. Lại có nghĩa từ trên núi thiếc lớn rơi xuống đất bằng thiếc bén, bị đâm, cắt, chặt, chém, cho đếnmáu tuôn xối xả. Chịu khổ như thế rất lâu, đến khi nghiệp hết mới ra.

Các khổ này có ba:

  1. Bị hai núi bức ép lại.
  2. Bị ép.
  3. Rơi từ núi Thiết.
  4. Tướng khổ ngục Hào khiếu (kêu gào).

Nghĩa là hữu tình tự tìm đến nhà kia, liền rơi vào nhà Đại thiết. Vừa rơi vào đó thì lửa liền bốc cháy thiêu đốt khắp nơi, thật là ép ngặt khổ sở, phát lên kêu gào đau đớn. Chịu khổ lâu ngày, nghiệp hết mới ra khỏi.

Tướng khổ ngục Đại Hào khiếu: Khác nhau với đây: Nghĩa là vào nhà kia như rơi vào thai tạng, khổ hơn trước kia, bèn phát ra tiếng kêu lớn.

1- Tướng khổ ngục Thiêu nhiên: Nghĩa là ngục tốt đem các chúng hữu tình này đặt vào vô lượng chảo nướng, dời chuyển qua lại tựa như là nướng cá trên cây xuyên bằng sắt làm cho hữu tình kia các lỗ chân lông lửa đều phát cháy lên. Sau đó đem hữu tình đó đặt vào lò thiếc đốt như trước. Chịu khổ lâu dài cho đến nghiệp hết mới ra. Ở đây có ba điều khổ: a. Phải trái đều bị thiêu đốt; b. Xuyên vào cây sắt nướng; c. Bị đánh bằng cây thiết.

2. Tướng khổ ngục Cực Thiêu nhiên: Đây có khác với trước. Nghĩa là dùng ba cây sắt nóng lớn xuyên xuống dưới lên hai vai và ra tới đỉnh đầu. Do đó mà các lỗ chân lông từ mắt tai mũi miệng đều phát ra lửa cháy. Lại quăng ném, dộc ngược tội nhân, hoặc bỏ vào chảo đầy tro nóng sôi sùng sục, khiến hữu tình nổi lên chìm xuống máu thịt da mạch thảy đều tiêu tan, chỉ còn là xương lại rớt ra đặt trên đất thiết nóng, tất cả lại hoàn như cũ, tiếp tục bị hành tội như trước. Các sự khổ như thế liên tục không dứt, trải qua thời gian lâu xa chịu khổ cho đến khi hết nghiệp mới ra khỏi. Khổ này có ba: a. Bị cây xuyên qua; b. Bị trói bằng dây sắt; c. Nướng trên lửa.

3. Là ở ngục Vô gián đại Na-lạc-ca, thọ các tướng khổ. Nghĩa là ở phương Đông có ba thứ đại thiết nóng bức cả trăm du-thiện-na. Có ngọn lửa đỏ rực bay đến đốt hữu tình đó, xuyên vào da thịt xương cốt, cho đến cháy đến tủy não như là đuốc mỡ. Như thế cả thân đều thành như bó đuốc. Thân và lửa hòa hợp lại chỉ còn nhìn thấy lửa, lửa từ bốn phương tụ lại không có gián đoạn, chỉ nghe tiếng kêu gào khổ sở, nên biết là có chúng sanh trong đó. Quỷ sứ lại lấy nia sắt bỏ đầy than trong đó thiêu đốt thân tội nhân. Sau đó đặt vào núi thiếc. Trên đưa xuống dưới lại đưa lên trên núi từ miệng lưỡi bị kéo ra, dùng trăm đinh thiếc đóng vào. Đóng rồi căng ra như căng da trâu. Lại dùng các hòn sắt nóng đốt vào miệng. Dùng lửa đồng rót vào miệng thiêu cháy cả yết hầu, triệt hết phủ tạng. Chịu khổ dài lâu như thế, cho đến khi nghiệp hết mới ra.

-Khổ này có sáu:

  1. Bốn phương lửa cháy lên.
  2. Bị tro sắt, nia đâm.
  3. Lên xuống núi sắt.
  4. Đinh sắt đóng vào lưỡi.
  5. Nuốt sắt nóng.
  6. Nước đồng rót vào miệng.

Trên đây đã nói các tướng khổ của Tám địa ngục nóng.

Tướng khổ cận biên là: Mỗi đại địa ngục đều có bốn phương, bốn bờ, bốn cửa. Có tường sắt bao quanh. Từ bốn cửa trở ra thì hai cửa ngoài đều có bốn khu vườn:

1. Cháy khét: Đầy khắp tới chân. Hữu tình chạy ra tìm nhà ở, rảo chạy đến đây, thì ở dưới chân thịt xương cốt đều bị cháy tiêu, khi giở chân lên thì da thịt hoàn lại như cũ.

2. Phẩn thỉ: là phân cứt. Các hữu tình trước đã cầu ra khỏi nhà này rồi, dần dần chạy đến đây rơi vào trong hầm phân cứt này phần nhiều có các thứ trùng củ tra thân dài một thước, mỏ trắng, đầu đen, xuyên vào trong da thịt người rút tỉa gân cốt, lấy hết tủy để ăn.

3. Vườn đao nhọn: Trong đây có ba: Một là: Đường đi có dao bén, để ngữa dao lên làm đường đi. Chúng hữu tình kia trước đã ra rồi nay lại đến đây. Khi chân bước xuống da thịt gân cốt thảy đều nát bấy, nhấc chân lên lại hoàn như cũ. Hai là vườn lá đao: Các hữu tình ra rồi, đến đây định ở dưới cây râm mát. Nhưng vừa ngồi xuống thì cơn gió nhẹ thổi đến lá kiếm rơi xuống, chặt bửa vào tứ chi thân thể, rơi nhào xuống đất, bị chó đen nhào tới giành ăn.

Ba là: Rừng đao kiếm: Bị chó đuổi nên chạy theo đây, leo lên cây bị đao kiếm chém, định nhảy xuống thì đao kiếm hướng lên đâm.

4. Sông nóng: Trong vườn có con sông lớn nước sôi sùng sục đầy khắp trong đó, các hữu tình tìm cầu nhà cửa. Từ ngục trên bước ra rồi thì rơi vào đây, cũng như bỏ hạt đậu vào trong chảo lớn, bị lửa thiêu đốt hầm nhừ. Tùy theo ngọn lửa đó tung lên rồi rớt xuống. Ở hai bên bờ sông có đầy ngục tốt tay cầm đao trượng và lưới lớn, vây quanh không cho tội nhân ra khỏi. Hoặc dùng dây hoặc dùng lưới trói lại rồi đem bỏ vào núi sắt nóng. Quỷ tốt lại hỏi: Các ngươi cần gì? Người tội đáp: Tôi chẳng còn biết gì nữa, chỉ bị đói khát ép ngặt khổ đau. Quỷ tốt liền lấy nước đồng rót vào miệng và lấy các viên sắt nóng đặt vào trong đó. Nếu người kia đáp: Tôi khát nước thì quỷ tốt lấy nước đồng rót vào miệng, chịu khổ lâu dài như thế đến khi hết nghiệp rồi mới ra. Ở trong địa ngục chịu khổ vô lượng. Xứ sở tuy nhỏ mà có nhiều thứ khổ cụ, chẳng thứ nào không đầy đủ.

-Tám địa ngục lạnh là:

  1. Địa ngục Pháo: Hữu tình thọ sanh ở đây thật là rộng lớn. Vì quá lạnh nên thân thể nổi ốc như ghẻ pháo.
  2. Địa ngục Pháo liệt : Cũng như pháo vỡ, lạnh làm vết thương lở loét máu mủ chảy ra.
  3. Hám triết cô.
  4. Hác hác phàm.
  5. Hổ hổ phàm.

Ba địa ngục này, khi hữu tình thọ tội tiếng kêu khác nhau nên lấy đó gọi tên.

6. Địa ngục Thanh liên hoa: Bị lạnh quá nên thân thể tách ra như hoa sen sanh.

7. Địa ngục Hồng liên: Lạnh quá nên thân thể tách ra như hoa sen đỏ.

8. Địa ngục Đại hồng liên: Thân thể tách ra như hoa sen đỏ lớn.

Hoặc trăm hoặc nhiều loại bàng sanh cùng tàn hại nhau, thọ muôn thứ khổ, như kẻ yếu bị kẻ mạnh hơn sát hại. Vì không được tự tại nên bị kẻ khác xua đuổi. Phần nhiều là bị roi vọt và làm vật tư sanh (nuôi dưỡng) cho hàng trời người. Do nhân duyên này mà sự khổ não đến cùng cực.

Cõi ngạ quỷ lược có ba thứ:

  1. Do chướng bên ngoài mà ngăn ngại sự uống ăn.
  2. Do nội chướng mà ngăn ngại sự uống ăn.
  3. Uống ăn không có chướng ngại.

Do bên ngoài chướng uống ăn đó là do keo kiệt san tham mà sanh vào trong loài ngạ quỷ, thường bị đói khát, da thịt máu mủ huyết đều khô khan, như là tro than, đầu tóc rối loạn, mặt mày đen tối. Môi miệng khô khan, thường dùng lưỡi liếm vào mặt, sợ hãi đói khát đến đâu cũng bị xua đuổi. Nếu đến ao suối thì bị các loài hữu tình khác cầm dao gậy đuổi bắt không cho tới gần. Hoặc nếu có đến được thì thấy nước trong sông đó chỉ là máu mủ, nên không muốn uống. Đó là do ngoại chướng mà làm trở ngại việc ăn uống.

Do nội chướng mà ngăn ngại việc ăn uống là: Hoặc do họng của hữu tình kia nhỏ như kim. Hoặc miệng như đuốc. Hoặc cổ nhỏ mà bụng quá to. Do nhân duyên này, nếu có đồ ăn uống không bị chướng ngại từ bên ngoài thì cũng không thể tự mình ăn uống được. Đó là do nội chướng làm trở ngại uống ăn.

Uống ăn không có chướng ngại đó: Nghĩa là có ngạ quỷ tên là Mãnh-diệm-man, mỗi khi ăn uống đều bị lửa thiêu đốt. Do đấy mà thường bị đói khát khổ sở.

Lại có ngạ quỷ gọi là ăn phẩn uế. Hoặc có một phần thì ăn phân nước tiểu. Hoặc một phần ăn các thứ nhàm ác, nhờm gớm, sống chín. Nếu có đồ mỹ vị thì không thể ăn được. Hoặc có một phần tự cắt thân thịt của mình mà ăn. Nếu có thức ăn khác thì không thể ăn được. Như thế thì gọi là uống ăn không có chướng ngại.

Ở trong cõi người phần nhiều là chịu khổ. Nghĩa là sanh ra những nơi đói khát thiếu thốn bần cùng khốn khó. Chỗ mong muốn không đầy đủ, ăn uống khổ sở thiếu thốn. Nếu như thời gian thay đổi, hoặc nóng hoặc lạnh thì ở nơi tối tăm cực khổ túng thiếu, làm việc gì cũng bị chướng ngại hư hao thiếu thốn lại bị biến hoại của già bệnh chết. Do khổ này mà ở trong Na-lạc-ca gọi chết là vui, cho nên ở cõi đó không lập là khổ.

Ở trong cõi Trời không giải thích chi tiết khổ có khổ bị đọa chết. Như trong kinh nói: Có chư Thiên khi sắp chết, thì trước tiên năm tướng suy hiện ra:

  1. Áo hiện ra dơ bẩn.
  2. Hoa trên đầu héo rụng.
  3. Hai nách ra mồ hôi.
  4. Thân bị nhờm gớm.
  5. Trời và Thiên tử không thích ngồi tòa của mình.

Lúc ấy chư Thiên này theo ngủ trong rừng, có các chư Thiên và thể nữ cùng đến vui chơi. Vị kia thấy vậy càng sanh ưu não, lại chịu khổ bị khinh thường. Do họ có phước đức rộng lớn thành tựu và lúc sanh thời Thiên tử ở trong ngũ dục rộng lớn. Vị Thiên tử cũ do phước đã cạn nên trông thấy liền sợ hãi mà chịu ưu khổ. Trên đây nói là chung cả lục dục thiên, phần dưới nói hai cõi Trời lại chịu sự khổ tàn hại chém giết xua đuổi. Do cùng với Phi thiên đấu chiến lẫn nhau. Thiên cùng Phi thiên trái ngược nhau. Tức cầm tứ trượng là kim ngân, pha lê, lưu ly, cùng đánh nhau chí tử. Bấy giờ chư Thiên và Phi thiên hoặc bị đứt tay chân, hoặc tàn phá thân thể, hoặc bị chết. Nếu thân bị thương hay đứt tay chân thì hoàn lại như cũ. Nếu bị đứt đầu thì chết. Thiên cùng Phi thiên đều có lực mạnh. Nhưng Thiên phần nhiều có thế lực mạnh hơn. Nhưng hai cõi này nếu bên nào bị thua, liền lui nhập vào tự cung, không được an ủi từ đồng loại. Do nhân duyên này liền ôm lòng ưu não. Nếu Thiên thắng liền vào của Phi thiên cướp lấy, gái đẹp, khởi đánh. Nếu Phi thiên đánh thắng liền vào thiên cung mong cầu bốn thứ Tô-đà vị mới sanh ra tranh chấp đánh nhau. Lại có một Thiên tử có lực mạnh, vừa mới phát phẫn nộ, các trời yếu kém hơn liền bị đuổi ra khỏi tự cung. Thế nên nói chư Thiên thọ ba điều khổ là: Khổ vì chết bị đọa, khổ bị lăng nhục, khổ vì bị tàn hại xua đuổi.

Trên là nói khổ ở Cõi Dục. Hữu tình cõi Sắc, Vô sắc không có những khổ như thế. Do hữu tình này chẳng phải chịu khổ khí. Nhưng do các khổ thô nặng. Nói kia khổ là có phiền não có định chướng. Đối với việc chết và ở không được tự tại. Do đây mà Ba cõi đều có khổ, không có gì ưa thích. Chỉ có cõi vô lậu thì vĩnh viễn dứt trừ các khổ thô nặng. Thế nên chỉ tu kinh này mới có được sự an lạc thắng nghĩa.

Trên là nói về quả tướng, tiếp nói thọ lượng: Người ở Thiệm-bộ châu tuổi thọ không nhất định. Cõi người lấy ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm. Hoặc có lúc tuổi thọ vô lượng tuổi, chính là kiếp thành hoại. Hoặc có một thời thọ tám muôn tuổi, là kiếp trụ, bắt đầu giảm; hoặc ở vào một thời, tuổi thọ dần dần giảm chỉ còn mười tuổi. Đây là thời tam tai nổi lên. Người ở Đông-tỳ-đề-ha, tuổi thọ tăng nhất định hai trăm năm mươi tuổi. Người Tây-cù-đà-ni tuổi thọ tăng nhất định lên năm trăm tuổi. Bắc Câu lô châu thọ nhất định một ngàn tuổi. Lại ở nhân gian năm mươi năm là một ngày một đêm ở Tứ Thiên vương, chư Thiên lấy số năm này làm tháng. Các tháng này tích tụ thành năm. Cõi kia tuổi thọ năm trăm tuổi. Ở nhân gian một trăm tuổi là một ngày một đêm ở cõi Tam thập tam thiên, lấy số này làm năm tháng thì Trời kia tuổi thọ ngàn tuổi. Như thế cho đến cõi Tha hóa tự tại thiên một ngày một đêm, và tuổi thọ tăng hơn trước gấp bội. Lại chư Thiên ở cõi Tứ Thiên vương đầy đủ năm trăm tuổi, bằng một ngày một đêm ở địa ngục Đẳng hoạt đại Na-lạc-ca. Lấy đây tích tụ làm năm tháng mà địa ngục tuổi thọ tới năm trăm tuổi. Như thế lấy thọ lượng của trời Đao-lợi tích ra tuổi thọ của địa ngục Hắc-thằng. Lấy thọ lượng của cõi trời Thời phần tích thành thọ lượng của chúng hợp. Lấy thọ lượng của cõi trời Tri túc tích thành thọ lượng của địa ngục Hào khiếu (kêu gào). Lấy thọ lượng của cõi trời Lạc biến hóa tích thành thọ lượng của địa ngục Đại hào khiếu. Lấy thọ lượng của trời Tha hóa tự tại thiên tích thành thọ lượng của ngục Thiêu nhiên (lửa cháy), thọ lượng của ngục Cực Thiêu nhiên bằng nửa trung kiếp. Tuổi thọ của Vô gián địa ngục là một trung kiếp. Nghĩa là như từ tám muôn tuổi giảm đến mười tuổi. Từ mười tuổi lại tăng lên tám muôn tuổi thì gọi là một trung kiếp. Đó là kiếp lượng của Vô gián địa ngục, Thọ lượng của phi thiên như trời Tam thập tam thiên. Thọ lượng của loài bàng sanh, ngạ quỷ thì không nhất định.

Lại tám địa ngục lạnh bằng tám đại địa ngục nhiệt, thứ lớp đối nhau, thọ lượng gần một nửa. Trong hai địa ngục Cận biên và Cô độc về thọ lượng thì không nhất định.

Trên đây đã nói về thọ lượng trong năm đường ở Cõi Dục. Thọ lượng của trời Phạm chúng là hai mươi trung kiếp của một kiếp. Trời Phạm phụ thọ đến bốn mươi trung kiếp trong một kiếp. Đại Phạm thiên thọ sáu mươi trung kiếp trong một kiếp. Trời Thiểu quang thọ tám mươi trung kiếp trong hai kiếp. Thọ lượng của chư Thiên trở lên dần tăng lên gấp bội, chỉ trừ cõi Vô vân nên biết cõi trời kia thọ lượng giảm ba kiếp. Cõi trời Không vô biên xứ thọ hai muôn kiếp. Thức vô biên xứ thọ bốn muôn kiếp. Vô sở hữu xứ thọ sáu muôn kiếp. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thọ tám muôn kiếp. Trừ Bắc Cu lô châu thì tất cả cõi đều có trung yểu (chết yểu). Tuy tất cả đều là hóa sanh thân chết mà không bị nhơ uế. Nhưng thời nay, người quỷ đều có thân và có nhơ uế. Trời và địa ngục cùng thức đều mất mà không có thân nhơ uế. Nhưng khinh Chánh pháp niệm nói: Một trăm ba mươi sáu địa ngục đó: Tám đại địa ngục mỗi mỗi đều có mười sáu cận biên, bốn cửa viên quán. Tính có một trăm hai mươi tám chỗ, cùng tám ngục căn bản, hợp thành một trăm ba mươi sáu, không tính Bát hàn và Cô độc. Nếu tính ở đây thì địa ngục rất nhiều. Trong luận Du-già nói: Cách đây khoảng ba muôn hai ngàn dotuần có địa ngục Đẳng hoạt, thì biết địa ngục ở dưới châu đây. Các nói Tiểu thừa nói khác nhau. Nếu y theo kinh Chánh pháp niệm thì đại địa ngục ở dưới núi Tu-di. Ở trên là nói tuổi thọ, về lượng của thân thì người ở Thiệm-bộ châu thân lượng không nhất định. Hoặc là cao lớn. Hoặc là nhỏ hẹp, nhưng đều tùy từ một tay, đến ba khủyu rưỡi. Người ở ba châu khác cũng tính như vậy. Thân hoặc cao lớn như trời Tứ Thiên vương thân lượng bằng một phần tư Câu-lư-xá. Thân ở tầng trời Ba mươi ba lại tăng lên một túc. Một túc là một phần tám của Câu-lư-xá. Thân của Đế Thích bằng nửa Câu-lư-xá. Thân lượng của Thời phần thiên cũng bằng nửa Câu-lư-xá. Trên đây là thân lượng củA-dục thiên, dần dần tăng lên một túc. Trời Phạm chúng bằng nửa du-thiện-na. Trời Phạm phụ bằng một du-thiện-na. Trời Đại phạm bằng một rưỡi du-thiện-na. Trời Thiểu quang bằng hai du-thiện-na. Các cõi trời trở lên dần tăng lên gấp bội. Trừ Vô vân thì nên biết cõi trời kia dần giảm ba thiện-na. Cõi Vô sắc vô hình thì không nói về thân lượng. Nhưng trong luận lại nói trời Sắc, Vô sắc biến thân khắp cả muôn ức. Kinh Nhân Vương liệt kệ chúng cõi Vô sắc. Kinh A-hàm thì nói cõi trời Vô sắc khi khóc rơi xuống như là hạt mưa mùa xuân (mưa bụi), đứng ở bên Phật đều là hóa làm. tùy thời lớn nhỏ mà chẳng phải thân nghiệp quả.

Trong đại địa ngục thân lượng không nhất định. Hoặc do thêm lớn nghiệp bất thiện rất năng mà cảm thân rộng lớn. Các nơi khác thì không như vậy. Địa ngục lạnh chỉ có một lượng gần gũi biên, Bàng sanh, Ngạ quỷ cũng vậy. Thân của chúng Phi thiên bằng thân cõi trời Đao-lợi: Đây là nói về thân căn bản Phi thiên. Như ở cõi này thân lượng liền nhỏ không nhất định. Dựa lược dựa theo nghĩa chính mà phân biệt các đường, tất cả nghĩa khác như lý nên biết. giải thích như kinh văn thì Tiếng Phạn gọi là A-tỳ chí, đây gọi là Vô gián. Du-già giải thích là chịu khổ không gián đoạn, lửa đốt không gián đoạn, do chê bai kinh này. Thọ đầy đủ một kiếp là trung một kiếp. Mạng tận cùng đến hết kiếp 0 này lại như thế lần lượt đến vô số kiếp.

Trong kinh Bát-nhã nói: Chê bai Đại thừa thọ tội địa ngục ở phương này hết thì sanh về Đông phương. Như thế trải qua lần lượt cả mười phương địa ngục. Hết mười phương địa ngục thì sanh lại đây. Cho nên kinh đây nói: “Như thế lần lượt đến vô lượng kiếp” không phải chỉ đọa vào ngục Vô gián, mà còn đọa vào ngục khác. Trong đây chỉ riêng nêu một chỗ rất ngặng. Đây tuy chỉ có một nghiệp mà từ khi mới thọ mà gọi là sanh báo. Ba thừa thông nghịch: Nghĩa là giết cha, hại mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp tăng.

Trong kinh Tát-giá-ni-càn-tử nói tội ngũ nghịch của Đại thừa là:

  1. Phá tháp hoại chùa, thiêu đốt kinh tượng, trộm tài vật của Tam bảo.
  2. Chê bai pháp Ba thừa, nói chẳng phải là Thánh pháp, làm chướng ngại lưu nạn, ẩn che tội lỗi.
  3. Đối với tất cả người xuất gia, có giới hay không giới, trì giới hay phá giới, đều đánh mắng quở trách, nói lỗi của người, đẩy họ vào lao ngục. Hoặc cởi cà sa bắt phải hoàn tục. Hoặc bắt bớ xua đuổi đánh đập.
  4. Giết cha hại mẹ, làm thân Phật ra máu, giết A-la-hán, phá hòa hợp tăng.
  5. Khởi đại tà kiến, chê bai cho là không có nhân quả. Trải qua thời gian lâu dài làm các nghiệp bất thiện. Nay không tin kinh này, đọa vào ngục Vô gián lần lượt cho đến vô số kiếp.

Câu-xá Luận chép: Trong tội ngũ nghịch phá hòa hợp tăng là nặng nhất. Nhất định phải chịu khổ trong ngục Vô gián một kiếp. Nay tội còn hơn đây, nên nói hết kiếp sanh lại…

-Kinh: “Từ địa ngục ra… thọ tội báo này.”

-Tán: Đoạn thứ hai có mười hàng tụng rưỡi. Thọ báo súc sanh có bốn phần:

  1. Ba hàng rưỡi thọ quả làm chó giả-can.
  2. Hai hàng tụng thọ quả làm lừa, lạc-đà.
  3. Hai hàng tụng thọ quả Dã can.
  4. Ba hàng tụng làm thân rắn.

Chữ Súc có nghĩa là lục súc. Nay từ đầu nói: Một nghiệp Đại thừa có thể cảm nhiều quả. Từ đầu đặt tên đều là do quả kia. Trong đây nói từ địa ngục ra thì đọa vào súc sanh. Phần dưới y theo đây nên biết.

-Kinh: Như làm Lạc-đà… mắc tội như thế.

-Tán: Hai hàng tụng nói làm lạc-đà, làm lừa. Đây có bốn quả:

  1. Mang nặng.
  2. Bị roi vọt.
  3. Nghĩ đến ăn uống.
  4. Vô tri.

-Kinh: “Có khi làm Dã can… hoặc có lúc phải chết.

-Tán: Thọ quả Dã can có bốn quả:

  1. Ghẻ lở.
  2. Chột mắt cũng không có hai. Nếu tin Tiểu thừa thì sẽ không tin Đại thừa, cho nên nói chột mắt.
  3. Bị đánh ném.
  4. Đến chết.

-Kinh: Chết ở đây rồi cho đến đắc tội như thế.

-Tán: Thọ quả thân mãng xà (trăn). Có năm:

  1. Thân to lớn.
  2. Điếc.
  3. Ngu xuẩn.
  4. Không chân.
  5. Ăn trùng nhỏ.

-Kinh: “Nếu được làm người chẳng đến chỗ nương tựa.”

-Tán: Có mười hàng tụng. Nói quả làm người xấu xí. Có hai phần:

  1. Bảy hàng tụng nói có ác báo.
  2. Ba hàng tụng sau nói không có quả thiện.- Bảy hàng đầu lại chia làm bốn phần:

-Ba hàng tụng về hình hình dung xấu ác.

-Một hàng tụng nói không nơi nương tựa.

-Hai hàng tụng nói không có phước đức.

-Một hàng tụng nói bị tai ương.

Có mười bảy hình dung xấu ác:

  1. Ám độn.
  2. Thấp, lùn.
  3. Hôi hám.
  4. Bệnh hoạn yếu đuối.
  5. Tật nguyền.
  6. Mù.
  7. Điếc.
  8. Lưng gù.
  9. Người không tin.
  10. Miệng hôi.
  11. Quỷ dựa nhập.
  12. Nghèo cùng.
  13. Hạ tiện (thấp hèn).
  14. Bị người sai xử.
  15. Thường bệnh.
  16. Gầy ốm.
  17. Không nơi nương tựa.

Một hàng tụng đầu là quả của ý nghiệp.

Một hàng tụng về quả của ngữ nghiệp.

Một hàng tụng quả của thân nghiệp.

Đều do ý dẫn đầu mà gây ra các tệ lậu.

-Kinh: “Tuy gần gũi người cho đến nhưng lại quên mất.”- Tán: Không nơi nương tựa.

-Kinh: “Nếu học theo ngành thuốc cho đến mà bệnh càng thêm nặng”.

-Tán: Nói về bạc phước, có hai quả có thể biết.

-Kinh: Hoặc người kia phản nghịch cho đến bất chợt phải tai ương.

-Tán: Nói bất chợt gặp tai ương. Tức người khác cưỡng lấy vật, trộm cắp, lấy vật phi lý. Là mắc tội phi lý vậy.

-Kinh: “Như người tội này cho đến không bao giờ được nghe pháp.”

-Tán: Ba hàng tụng về không có thiện quả. Có ba ý:

  1. Một hàng tụng nói không thấy Phật.
  2. Một hàng tụng nói không nghe pháp.
  3. Một hàng tụng nói về căn thường thiếut.

Kinh: Trải qua vô lượng kiếp cho đến các căn chẳng đầy đủ”. Tụng đầu nói một nạn sanh vào thời trước sau Phật. Tụng thứ hai nêu sáu nạn: Địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, Bắc châu, trời trường thọ sanh ở chỗ có nan. Thế trí biện thông là nạn vì tâm cuồng loạn không bao giờ được nghe pháp. Tụng thứ ba có một nạn là các căn không đầy đủ. Gồm có tám nạn, nên không có thiện.

-Kinh: “Thường ở địa ngục cho đến đắc tội như thế ấy”.

-Tán: Có sáu hàng tụng. Nói chung, trải qua bốn đường; chịu quả tăng thượng, đẳng lưu. Chia làm bốn: Nửa hàng đầu tụng về địa ngục. Nửa hàng tụng ngạ quỷ. Một hàng tụng súc sanh. Bốn hàng tụng người ác. Đây nêu ba phần đầu. Viên quán: Là lầu quán (quán trên lầu). Như nhà gọi là quán. Đường ác khác là ngạ quỷ v.v…. Vì chê bai chánh pháp nên ở nơi không thuận việc tu học, sanh vào cõi quỷ. – Kinh: “Nếu được làm người cho đến lấy làm y phục.” – Tán: Bốn hàng tụng của quả người ác. Có bốn:

Một hàng tụng các nghiêm ác.

Một hàng tụng các y phục xấu.

Nửa hàng tụng về hình trạng xấu.

Một hàng rưỡi tụng hành vi ác. Đây nói hai phần đầu. Á là câm không thể nói, âm là ngọng.

-Kinh: Thân thể thường hôi hám cho đến đắc tội như thế.

-Tán: Đây nói về hình trạng và việc làm xấu. Vì tham đắm ngã kiến sâu xa mà si mê tăng thượng. Tham sân cũng vậy.

-Kinh: “Bảo Xá-lợi-phất cho đến chớ nói kinh này.”

-Tán: Trên là hai mươi tám hàng tụng nói về quả của sự không tin. Đây là hai hàng tụng kết lại.

-Kinh: “Nếu có người lợi căn cho đến thì có thể nói kinh này cho đến”

-Tán: Có mười chín hàng tụng. Đã chỉ cho biết sự phải trái xong, để cho người học biết mà tránh ác làm lành. Trên đã nói ba đoạn, nay là đoạn thứ tư mười chín hàng tụng nói: Ở chỗ có người hiểu biết thì nên nói pháp. Có hai phần:

1/ Mười bảy hàng tụng: Nên nói tướng cho họ nghe.

2/ Hai hàng sau kết lại. Mười bảy hàng đầu lại chia làm ba:

  1. Một hàng tụng rưỡi: Từ lúc chưa phát tâm, đến nay, nhưng nghiệm đã có chủng tánh. Nên Phật nói kinh Pháp Hoa cho nghe.
  2. Mười hàng tụng rưỡi: Tuy đã phát tâm có tu tập lục độ mà có thể nói pháp cho nghe.
  3. Năm hàng tụng tuy có tánh tu tập lại có tâm trọng pháp cầu pháp mới có thể nói cho họ nghe pháp cho nghe.

Phần đầu nghiệm có sáu đức:

  1. Lợi căn nghe thì mau hiểu.
  2. Trí tuệ phân biệt phải trái.
  3. Sáng suốt không có mê muội
  4. Học rộng trước đã có học.
  5. Trí thức mạnh mẽ, tinh thần sảng khóai.
  6. Nói kinh Pháp Hoa, Thích Cầu Phật đạo chẳng phải cầu đạo khác. Người thích vượt ra thế tục. Hoặc mong cầu giác ngộ, không thích ngu mê thì mới nói pháp.

-Kinh: Nếu lại từng thấy cho đến mới có thể nói pháp.

-Tán: Tuy đã phát tâm, mà có tu tập lục độ.

-Một hàng tụng rưỡi từng tu tập pháp thí.- Một hàng tụng huân tập tinh tấn.

-Một hàng rưỡi tụng huân tập thiền định.

-Ba hàng tụng huân tập về giới.

-Một hàng rưỡi tụng huân tập về nhẫn.

Hai hàng tụng huân tập về Tuệ.

Một hàng đầu nói: Từng đã gặp Phật huân tập pháp thí đã lâu xa, nên có thể vì họ mà nói. Phần dưới đây cũng nghiêm xét tùy theo sự việc như Bồ-tát địa thì mới kham nói.

-Kinh: “Nếu người tinh tấn cho đến mới nên nói cho họ nghe.”- Tán: Một hàng tụng về cần, một hàng rưỡi tụng về định.

– Kinh: “Lại Xá-lợi-phất cho đến mới nên nói cho họ nghe.”

– Tán: Đây là ba hàng tụng về tu tập giới.

Một hàng tụng rưỡi nói về bỏ ác gần gũi duyên lành. Trong phẩm An Lạc Hạnh sẽ nói về tướng. Một hàng rưỡi sau tụng giữ tịnh giới vững chắc.

-Kinh: “Nếu người không sân cho đến có thể nói cho họ nghe.”

– Tán: Một hàng tụng rưỡi tu tập pháp nhẫn.

Hai hàng tụng về tuệ, an thọ ngay thẳng trong khổ nhẫn, nhẫn chịu sự oán hại nhẫn. Kính Phật và quán sát thật rõ pháp nhẫn.

– Kinh: “Nếu có Tỳ-kheo cho đến có thể vì họ mà nói.”

– Tán: Năm hàng tụng về cầu trọng pháp. Chia ra hai:

Hai hàng tụng rưỡi chuyên cầu Đại thừa.

Hai hàng rưỡi chân thật cầu Đại thừa.

Phần đầu lại có hai:

-Một hàng tụng về cầu pháp mà cung kính thọ.

-Một hàng tụng rưỡi không cầu kinh khác. Kinh khác là các kinh Tiểu thừa.

Kinh Thiện Giới nói: Học nội điển Đại thừa chưa rốt ráo, thì không nên học các thừa khác. Còn đối với Tứ minh luận, nếu nội học đã rốt ráo, hằng ngày thường trong đó hai phần học Đại thừa nội minh, một phần các kinh khác. Còn trong kinh này hoàn toàn không cho học một bài kệ trong kinh khác. Y theo sơ học để thường chuyên cầu. Học lâu gồm cả tu.

-Kinh: Như người dốc lòng cho đến có thể nói cho họ nghe.

-Tán: Đây là nói chân thật cầu. Có hai:

  1. Một hàng tụng về cầu pháp.
  2. Một hàng rưỡi nói không cầu. Dốc lòng đối với ngoại điển không xem nhẹ. Bỏ giáo pháp ngoại đạo, nên có thể nói cho họ nghe, lòng chí thành cảm thần, thì chắc chắn thành Thánh.

-Kinh: “Bảo với Xá-lợi-phất! cho đến Diệu Pháp Liên Hoa.”

-Tán: Đối với người hiểu biết thì nên nói cho họ nghe. Trong có hai: Trên là ứng vì nói tướng, ở đây là phần kết.

Tăng Viên Như Phòng viết xong tại chùa Hưng phước vào ngày 0 tháng 12 niên hiệu Bảo An năm thứ ba.

Chùa Pháp long, Tăng Giác Ấn, muốn chánh pháp tồn tại lâu dài, vãng sanh Cực lạc.

 

PHẦN CUỐI

PHẨM TÍN HIỂU

Chia làm ba môn:

  1. Lý do có phẩm này.
  2. Giải thích tên phẩm.
  3. Giải thích chướng ngại*

Phần đầu có hai ý:

1. Nói ngài Thu Tử là bậc thượng căn nghe pháp nói liền vui mừng lãnh thọ. Bốn hạng người trung căn, nương theo dụ nói mà tỏ hiểu, nên sau phẩm Thí dụ thì có phẩm Tín hiểu.

2. Luận giải thích chúng sanh có đủ bảy thứ phiền não tăng thượng mạn. Vì để đối trừ nên nói bảy thí dụ. Trong phẩm trước vì người Tăng thượng mạn thứ nhất, cầu thế lực, khởi điên đảo cầu công đức, cầu quả báo mầu nhiệm ở cảnh giới trời người. vì những người này mà Phật nói ví dụ nhà lửa. Phẩm này vì người Tăng thượng mạn thứ hai cầu Thanh-văn giải thoát, đều là tăng thượng mạn. Cho rằng: Thừa của ta không khác với thừa cùa Như-lai. Vì thủ chấp điên đảo như thế, mà cầu pháp Thanh-văn giải thoát, để đối trị hạng này nên nói thí dụ Cùng tử. Trước nói thừa vô vi, sau nói thừa không khác chỉ là một. Phật khuyên tin nhập Đại thừa, kia liền mê chấp. Nay so sánh đứa con cùng tử với Trưởng giả, thừa hữu vi khác với thừa trước để khuyên bỏ mê đắm. Cho nên kế phẩm trước lại phát sanh phẩm này.

* Giải thích danh: Lược có bốn môn:

1. Trừ nghi gọi là Tin, phá mê gọi là Giải. Bốn hạng người xưa nghi ngờ là mình không thể thành Phật, nên tâm không ưa thích Bồ-đề. Đối với chánh giác cũng không thể ngộ, do đó mà ngồi trong pháp tòa thân thể mỏi mệt. Đã nghe dụ nói cũng đồng như Thu Tử ở trước, tâm nghi hối liền dứt, cho nên gọi là tín hiểu. Tín tức là tịnh tâm nhẫn dục. Giải là diệu trí ấn chứng điều mong. Tin đã thành Phật hiểu ý Phật nói.

2. Tín dứt trừ bất tín. Giải là để phá sự bất giải, xưa hiểu liền ba thừa mà không tin một thừa. Hoặc tin ba mà không hiểu một. Nay thì hiểu một mà tin cả ba, hiểu ba mà cũng tin một. Vì tâm thanh tịnh lại biết nên gọi la Tín hiểu. Tín tức là tâm tịnh có thể hiểu. Giải là lý rõ ràng có thể đạt được. Giải sâu mà tin cạn, nên trước sau đều nói: Do tín mà thể nhập vào nền tảng Đại thừa. Do giải cho nên tác chứng căn bản của chân tông. Cả hai đều có thể, cả hai nêu ra nên gọi là tín hiểu. Tin tức là ấn thuận lại chỗ nghe mà đặt tên. Giải là ngộ hướng đến quyền thật mà gọi. Với quyền với thực thảy đều tín hiểu.

3. Tin thấy rõ là do người khác, giải là do tự ngộ. Trước đã nói Thanh-văn tin lời Phật nói, cho nên thuận theo kinh này, chẳng phải trí phân của mình nên hiển bày do nhờ Phật mà bốn người mới tin. Đã có tin rồi, tự so sánh mà giải sanh thì sẽ tự hiểu, nên gọi là tín hiểu. Tin là thuận với người dùng tâm tịnh, hiểu là rõ được mình mà có thể biết người. Đối với người và pháp cùng tin cùng hiểu.

4. Tín, giải cả hai đều có phân biệt: Hàng độn căn chánh kiến tin mà không hiểu. Người lợi căn tà kiến hiểu mà không tin. Người lợi căn chánh kiến cũng tin cũng hiểu. Độn căn tà kiến thì không tin không hiểu. Lại phàm phu sơ tâm tin mà chưa hiểu. Hàng Bồ-tát Thập địa chứng giải nên đã tin. Hàng Địa tiền nhập đạo do tin mà hiểu. Nhất Xiển-đề không tin không hiểu. Nay tóm lược cả hai là giải của tín là chẳng phải tín mà không giải, chẳng phải giải mà không tín. Tín mà hiểu đó gọi là tín hiểu. Đều giữ theo câu thứ ba. Tín là tâm tịnh định hướng, hiểu là trí sâu giác ngộ. Đối và giáo với lý đều tin đều hiểu. Đó là so sánh mà giải thích. Tùy theo nghĩa tăng đó mà hiểu được giáo ý thật quyền. Tín là trở về yếu chỉ của Nhất thừa, đối với lý chưa chứng nên không nói hiểu, dùng nghĩa luận chung nên đều duyên vào giáo lý, vừa tín vừa tức là trì nghiệp thích.

* Giải thích chướng nạn: Y theo Tỳ-bà-sa mà nói Thanh-văn có ba phẩm. Thượng căn chỉ có một, tức ngài Xá-lợi-phất, tự trong sáu mươi kiếp từng luyện căn. Hạng trung căn cũng một, như ngài Mụckiền-liên. Còn lại các Thanh-văn khác đều thuộc về hạ tánh. Vì sao hôm nay bốn hạng người lãnh hội đều là người trung căn?

Đáp: Ngài Thu Tử trước khi giác ngộ, chưa thấu hiểu được tông kia. Bốn người là trung căn đâu trái với lý này, chỉ là đối với các Thanh8 văn mà so sánh. Như nói trung phẩm chỉ có Mục-kiền-liên là để các Thanh-văn khác phát hướng về đại tánh quy tâm, bao gồm cả bốn người thì có gì sai! Vả lại, như sự ngộ không của Thiện Hiện, tài biện nói của Mẫn Từ, trì luật của Ba-ly, Đầu-đà như Ca-diếp. Mỗi vị đều có một hạnh cao quý đâu cần khả năng bằng nhau. Cho nên nói cả bốn vị đều là trung căn trung đâu trái với ý thú chân thật.

Hỏi: Vì sao trong luận bảy dụ gọi là cùng tử, mà trong kinh phẩm đề là tín hiểu?

Đáp: Tin hiểu là gốc mới có thể nói thí dụ, luận vì phá bệnh của cùng tử nên lấy đó đặt tên. Kinh là từ nơi pháp căn bản mà gọi là tín hiểu căn cứ ở nghĩa mạnh mà đặt tên, đâu mệt làm so sánh. – Kinh: “Bấy giờ Tuệ mạng cho đến vui mừng hớn hở.”

– Tán: Phẩm này trong văn chính có ba phần:

  1. Nêu sự vui mừng kính tín của bốn vị.
  2. Thuật lại sự lãnh hội của bốn vị.
  3. Trình bày sự mang ân của bốn vị. Như kệ tụng dứơi nói: “Ân lớn của Thế tôn”

Phần một nói hai ý: Vui mừng và Kính ngưỡng.

Tuệ Mạng nên gọi là Cụ thọ theo thế tục, đều là yêu thích thân mạng lâu dài. Bậc Thánh dùng trí tuệ quý giá làm tuổi thọ. Cả hai ước nguyện đều thành tựu nên nói Cụ thọ, chỉ nói tuệ mạng không thì chưa đủ. Lại trong kinh Bát-nhã, ngài Chân đế gọi tịnh mạng là y cứ vào đoạn đức. Tuệ mạng là y cứ vào trí đức, nay nói Cụ thọ là đầy đủ hai đức trí và đoạn . Nếu chỉ nói tuệ mạng thì nghĩa còn thiếu. Ba vị kia thì dùng tánh mà gọi, lược Tiểu lấy Đại để nêu tên. Thiện Hiện dùng đức để rõ đề, chỉ dùng tuệ mạng là nêu đức. Gần nghe dụ nói được điều chưa hề có, xa nghe thọ ký thì sanh vui mừng.

Nghĩa của chữ Dũng dược (hớn hở) thì xa gần đều nói, hoặc pháp chưa hề có tức là được thọ ký thành Phật.

– Kinh: “Liền từ chỗ ngồi đứng dậy cho đến mà bạch Phật rằng:” – Tán: Là nói về sự kính ngưỡng, tiêu biểu có chín nghĩa:

  1. Đứng dậy khỏi chỗ ngồi là tiêu biểu Nhị thừa phát đại tâm.
  2. Sửa y phục ngây ngắn, tiêu biểu thọ trì đầy đủ giới Bồ-tát.
  3. Vén y bày vai phải: tiêu biểu Nhất thừa là việc tốt lành.
  4. Quỳ gối phải xuống đất là tiêu biểu hàng phục tâm chấp Nhị thừa xưa kia.
  5. Nhất tâm là tiêu biểu chuyên cầu Đại thừa không thọ một câu kệ kinh khác.
  6. Chấp tay biểu thị tâm mê nghe Phật nói mà biết rõ pháp quyền thật.
  7. Cúi mình cung kính là tự thân tâm đều cúi mình thuận theo.
  8. Chiêm ngưỡng tôn nhan là biểu thị tâm quán giáo lý, thấy hai thân pháp thân và hóa thân.
  9. Bạch với Phật là thể hiện sự tín hiểu.

-Kinh: “Chúng con là bậc thượng thủ ở trong tăng cho đến Tammiệu Tam-bồ-đề.”

-Tán: Đoạn thứ hai nêu thuật lại sự lãnh hội của bốn người. Đầu tiên là phần Văn xuôi sau là kệ tụng. Văn xuôi nói ba phần. Lãnh hội pháp, lãnh hội thí dụ và lãnh hội hợp nói.

Lãnh hội pháp có hai ý: Xưa chúng con không mong, nay nói chúng con đều được. từ câu: “Chúng con hôm nay ở trước Phật v.v…” Là nói rõ xưa không mong. Phật xưa nói quyền nên con học theo pháp quyền. Trước khi có hội Pháp Hoa chưa mong cầu chứng được pháp thật của Nhất thừa, mà sẽ thành Phật. Nay đều được tức là nay nghe pháp Nhất thừa sẽ được thành Phật. lãnh hội được ý Phật trước nói quyền, sau giáo hóa thật. Ý đầu tiên văn có lược, rộng.

Lược có bốn ý: Đứng đầu trong tăng, đức cao vọng trọng. Tuổi đều già lụn, răng long sức yếu. Tự cho đã đắc Niết-bàn, khổ dứt tâm thư thái. Không còn đảm đương việc gì nữa, tánh tình an phận. Do bốn nghĩa này mà không có chí mong cầu, không có ý thắng tiến, cho nên xưa không mong cầu Đại thừa.

-Kinh: “Thế tôn xưa kia cho đến tâm không hỷ lạc.”

-Tán: Nói rộng về không mong cầu. Trước tiên là nói việc xưa, sau giải thích lý do.

Phần đầu lại có hai:

-Phần đầu: Chỉ tu tự hành. Khi Phật nói các kinh Bát-nhã, chỉ niệm không, vô tướng, vô tác. Về sau không thích Đại thừa. Đức Thế tôn xưa kia đã nói kinh Bát-nhã cho các Bồ-tát. Vì không thích ngộ nên thân tâm chúng con mệt mỏi, bèn tu tam quán. Dùng không mà nhiếp nhị hành. Nghĩa là không, vô ngã quán chúng sanh là Không, Vô tướng nhiếp bốn hành của bốn diệt đế. Quán Niết-bàn vô tướng, vô tác tức là Vô nguyện nhiếp mười hành khác. Khổ đế bên dưới có hai hành. Tập đế, Khổ đế mỗi đế có bốn. Quán các pháp hữu vi là tất cả Vô nguyện, các đế này có cả hữu lậu vô lậu, thuộc về ba tuệ, không nói Tam-muội. Các nghĩa khác đều như trong Du-già quyển mười hai có giải thích. Đây là y theo ba thứ quán của Thanh-văn. Nói không trình bày về Bồ-tát quán. Đối với pháp Bồ-tát là ba mươi bảy pháp phần Bồđề, lược làm bảy vị:

1. Tứ niệm trụ: Thân, thọ, tâm, pháp lấy tuệ làm tự thể. Nghĩa là do niệm lực mà tuệ ở nơi cảnh trụ.

2. Tứ chánh đoạn: Là luật dứt đoạn, đoạn đoạn, phòng hộ đoạn, tu tập đoạn. Lấy tinh tấn làm thể. Tinh tấn khởi dụng có thể tu đoạn.

3. Tứ thần túc: Là dục, cần, tâm, quán. Dùng định làm thể. Vì bốn thứ này mà tu định.

4. Ngũ căn: Tín, cần, niệm, định, tuệ. Theo tên gọi lấy năm căn làm thể, sanh ra thiện pháp.

5. Ngũ lực: Thể là ngũ căn. Vì khó khuất phục, cho nên lìa căn mà lập riêng.

6. Thất giác chi: Là trạch pháp, tinh tấn, hỷ, niệm, định, xả, khinh an.

Ba của biệt cảnh: Trạch pháp, niệm, định.

Ba của thiện số: Cần, xả, khinh an. Một là biến hành nghĩa là hỷ.

1. Bát thánh đạo: Là chánh kiến, chánh suy nghĩ, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh niệm, chánh định và chánh tinh tấn. Chánh suy nghĩ là lấy tuệ làm tánh, có thể phát ra ngôn ngữ chung cả Phật có. Chánh ngữ, chánh nghiệp là lấy không sân si phát ở thân, ngữ làm thể, phát ra từ không tham gọi là chánh mạng. Lìa năm tà mạng đều lấy sắc tư vô biểu làm thể. Các pháp khác như chính tên gọi Ba mươi bảy thứ hợp với thể thì có chín: 1. Tuệ; 2. Tinh tấn; 3. định; . Tín; . Niệm; 6. Hỷ; 7. Xả; 8. Khinh an; 9. sắc Vô biểu.

Biến hành có một: Là hỷ. Biệt cảnh có ba: Là niệm, định, tuệ. Thiện có bốn là: tín, cần, xả, khinh an. Sắc pháp có một là vô biểu. Như trong Sớ Vô Cấu Xứng, nói sở tu của Bồ-tát và Thanh-văn khác nhau, nên Bồ-đề phần gọi là pháp Bồ-tát.

– Thứ hai là du hý thần thông: Kinh Hoa Nghiêm nói Bồ-tát có mười pháp gọi là du hý thần thông:

  1. Hiện xả bỏ tuổi thọ cõi trời.
  2. Là hiện thọ sanh.
  3. Hiện là đồng tử đùa giỡn nhiều cách.
  4. Hiện làm người xuất gia.
  5. Hiện làm khổ hạnh.
  6. Hiện hướng về cây Bồ-đề.
  7. Hiện hàng phục ma quân.
  8. Hiện ưa thích vắng lặng, thành đạo Vô thượng.
  9. Hiện xoay bánh xe.
  10. Hiện nhập Niết-bàn.

Có khác với tám tướng mà trong luận nói.

– Thứ ba là thanh Tịnh Cõi nước Phật: Trong kinh Vô Cấu Xứng thứ nhất có mười tám loại nhân, hợp thành tám loại. Nghĩa là phát khởi tâm Vô thượng Bồ-đề, độn ý lạc, thiện gia hạnh, tăng thượng ý lạc, bốn thứ này đều như chính tên gọi.

Lục độ là sáu đều gọi là chỉ tức. Tứ vô lượng, tứ nhiếp sự, xảo phương tiện, Bồ-đề phần. Bốn phần này hợp gọi là phát khởi, gồm có tu thiện đều tu hồi hướng. Đây nói dứt là không rảnh, tự giữ, giới hạnh, mười nghiệp đạo thiện ba thứ này gọi là vắng lặng. Trong phẩm Hương đài của kinh ấy nói có tám:

  1. Suy nghĩ đối với hữu tình làm các nghiệp thiện mà không mong cầu thiện báo.
  2. Suy nghĩ thay thế chịu khổ cho người. Gốc lành của mình đều hồi hướng hết cho người.
  3. Suy nghĩ đối với hữu tình tâm đều bình đẳng, tâm không vướng ngại.
  4. Suy nghĩ đối với hữu tình, và điều phục tâm kiêu mạn của mình, yêu kính như Phật.
  5. Tín hiểu tăng thượng: Đối với các kinh chưa nghe đều không nghi ngờ không chê bai.
  6. Đối với việc lợi dưỡng của người mà không có tâm ganh ghét. Việc lợi dưỡng của mình không sanh kiêu mạn.
  7. Điều phục tự tâm: Thường tự xét lỗi của mình, không chê bai lỗi người.
  8. Thường không phóng dật, luôn tu thiện pháp

Tám pháp này nếu không hủy phạm, từ đây cho đến khi chết sanh về Tịnh độ khác. Điều này trong chương Tịnh độ có nói.

-Thứ tư là thành tựu chúng sanh: Bên ngoài hóa độ làm lợi ích muôn vật. Chành ác lợi tha, trong đây tức là bốn hạnh Bồ-tát Thất địa, là hạnh Bồ-đề phần. Đây là pháp Bồ-tát. Các thần thông hạnh, Ba-lamật hạnh, đây gọi là thanh tịnh Cõi nước Phật, thành tựu hữu tình hạnh. Đối với bốn thứ Đại thừa này, không sanh một ý niệm ưa thích thì không thể hướng đến mong cầu.

-Kinh: “Vì sao cho đến tâm ưa thích.”

-Tán: Đây là giải thích về lý do có hai:

  1. Đạo đã tròn đầy, tâm an ổn không lo khổ.
  2. Tuổi đã già suy, sức lực yếu kém cho nên đối với Đại pháp không tâm mong cầu ưa thích.

-Kinh: “Chúng con nay ở trước Phật… cho đến không cầu mà tự được…”

-Tán: Nói lên pháp đạt được ngày nay. Đắc pháp Đại thừa thì sẽ thành Phật. Đây có ba phần:

  1. Được thọ ký, tâm lãnh hội chung ở châu đầu tiên.
  2. Nghe pháp sanh vui mừng: Riêng lãnh thọ dụ nói, lãnh ngộ được hai điều này.
  3. Vui đạt được thiện lợi. Vô lượng châu báu tức là Đại thừa.

-Kinh: “Bạch Đức Thế tôn chúng con ngày nay cho đến vì rõ được nghĩa này.”

-Tán: Biệt trình bày về thí dụ có hai:

  1. Nói chung về nói dụ.
  2. Trình bày lời thí dụ.

Phật trước có nói: Những người hiểu biết, nhờ thí dụ mà được hiểu, cho nên nay cũng dùng dụ để lãnh hội ý Phật. – Kinh: “Thí như có người tuổi còn thơ bé cho đến – Tán: Trình bày lời thí dụ có hai:

  1. Dụ trước kia không mong cầu Đại thừa.
  2. Dụ bây giờ đã được.

Lại trong kinh nói: Trải qua ít lâu sau, cha biết ý con dần dần đã thông thái.” Tức là trước thì dụ trụ vào quyền mà không mong cầu Đại thừa. Sau dụ nghe thật pháp mà đắc được. Văn đầu lại có sáu:

  1. Dụ lúc phát tâm đầu tiên.
  2. Bỏ cha trốn đi, trở lại nơi dòng sanh tử.
  3. Dụ tuổi đã lớn trở về gặp Phật.
  4. Dụ cha mẹ nhớ con không chịu tu Đại thừa.
  5. Dụ cha từ xa nhìn thấy, bảo sứ giả rằng v.v… ” là hóa độ bằng pháp Nhị thừa.
  6. “Thế tôn! Lúc ấy trưởng giả bị bệnh v.v…” là dụ chỉ cho Đại thừa mà không mong cầu.

Đây là nói phần đầu. Bốn đoạn đầu đồng như trước đã nói. Hai muôn Phật đều dùng Đại thừa mà hóa độ. Đoạn thứ năm như trước nói: Dùng phương tiện dẫn dắt chúng sanh vào trong pháp của ta. Đoạn thứ sáu, như trước hội Pháp Hoa đã từng nói Bát-nhã, chỉ nghĩ đến pháp không mà chẳng sanh ưa thích. Nay đạt được trong đây mới khiến nhớ đến đạo thực hành thuở xưa, mà chỉ nói Pháp Hoa. Ấu nghĩa là yếu. Trĩ là nhỏ là tiểu. Đầu tiên là mười sáu vị vương tử, dạy cho họ phát đại tâm, lại còn thầm nói. Chưa tu hành rộng gọi là thơ bé.

-Kinh: “Bỏ cha trốn đi cho đến năm mươi năm”.

-Tán: Phần hai dụ cho việc lui sụt dòng sanh tử. Đối pháp dẫn kinh rằng: Nếu có chánh kiến Tăng thượng phẩm ở thế gian, tuy trải qua ngàn lần sanh cuối cùng cũng không đọa vào đường ác. Kia căn cứ vào hạng tăng thượng bắt đầu phát tâm. Nay nói phẩm hạ phát tâm lui sụt vào dòng sanh tử, tâm chưa vững chắc nên không chuyên ưa thích Phật gọi là bỏ cha. Trái với giáo lý thường thực hành hành vi ác, thì dụ như trốn đi. Đào thệ là nói xưa trốn đi (thệ là là: xưa), hành cũng có nghĩa là đi. Nước khác là chỉ cho sanh tử. Lâu ngày không được an vui. Phật pháp chính là nước cũ, lâu xa có thể khiến cho an vui. Trong kinh Niếtbàn, nói Phật pháp là nước khác, chẳng phải phần của mình, sanh tử là nước cũ là phần mình. Kia Đây, đối nhau đều khác nhau. Ở đây dùng hữu tánh và phát tâm về sau làm tự tha. Kia lấy vô tánh và trước khi chưa phát tâm làm tha tự, cũng không trái. Trước tuy dùng Ba cõi làm ngôi nhà lớn của Phật, mà nay cho là nước khác là vì thể nhiễm tịnh có khác nên nước chia ra có tha, tự. Lại y theo phàm tình thì cũng không trái ngược. Lại y theo đại bị, sanh tử làm nhà, nếu nói theo đại trí thì gọi là tha quốc. Trong dụ dưới nói thì gồm có năm nước:

  1. Ở lâu tại nước khác.
  2. Trở về nước mình.
  3. Đi khắp nước khác.
  4. Trải qua các làng ấp cõi nước.
  5. Cùng hội thân tộc quốc vương đại thần.

Phần đầu và phần thứ ba lấy sanh tử làm tha quốc, phần thứ hai lấy Phật pháp làm nước mình. Phần thứ tư cũng nói chung về Phật pháp. Nói pháp lợi ích rộng lớn như nước. Thứ năm tức là nước của nhân vương. Hoặc dụ bốn chúng của nước Phật pháp.

Hoặc mười cho đến năm mươi năm đó là trôi lăn trong năm đường.

Gọi là hạt giống là tư dưỡng trong mười nghiệp đạo.

-Kinh: “Tuổi đã lớn… trở về nước mình.”

-Tán: Trong đoạn thứ ba là dụ trở về thấy Phật, tức là chưa tâm lui sụt Bồ-đề. Trước đã từng thấy Phật, đời đời đã từng được Phật hóa độ. Trước đây gặp Phật được hóa độ pháp Đại thừa. Văn có ba phần:

  1. Con lớn tuổi rồi trở về nước.
  2. Cha trước đây đi tìm kiếm.
  3. Gặp con đến thành.

– Đây là nói phần một, trong đây có sáu:

  1. Căn tánh dần dần trưởng thành, là tập chủng tánh.
  2. Chưa tu phước tuệ, lại thêm sự khốn cùng.
  3. Trôi lăn trong bốn sanh khắp cả bốn phương.
  4. Mưu tính ra khỏi đường khổ, vì cầu cơm áo.
  5. Tâm văn tư tuệ, do chủng tánh ép ngặt, ngày ngày sanh thiện mà dần dần dạo đi.
  6. May gặp được Phật pháp, hướng về nước mình. Đầu tiên là dạy phát đại tâm, tuy lui sụt vào dòng sanh tử, mà nay trở về gặp Phật pháp, trụ ở trong đó thuận với sở tu trước kia nên gọi là nước mình.

– Kinh: “Người cha từ trước đến nay cho đến dừng lại ở một thành.”

– Tán: Nói cha trước đã mong tìm gặp. Lại có ba phần:

  1. Tìm con mà dừng lại thành.
  2. Của cải và rất đông người.
  3. Người đi buôn làm lợi rất nhiều.

Đây nói phần đầu.

Cha đó là hóa thân, Phật từ trước đến nay, tuy đã trải qua bao lần hóa độ dẫn dắt, chúng sanh tự thối lui. Cho nên nói trước nay tìm gặp con mà không được. Giữa đường dừng ở một ngôi thành là chỉ trong đường sanh tử. Thành là chỉ cho Đại thừa.

Kinh Vô Cấu Xưng chép: Lấy thành làm hộ pháp, nay dùng pháp Đại thừa làm thành, sắp nói pháp Đại thừa để dạy chúng sanh phát tâm.

Thành là dụ cho pháp Đại thừa.

-Kinh: “Nhà này rất giàu có cho đến đều đầy ắp.”

-Tán: Của cải rất nhiều. Có tám phần: Trong đây nói có hai:

  1. Bảy báu là dụ cho bảy Thánh tài đầy đủ.
  2. Có kho vô vi và kho hữu vi, các đức đều đầy đủ. Trong Bác Vật Chí chép: Cây Tùng chỉ trồng xuống đất ngàn năm hóa thành phục linh. Phục linh ngàn năm hóa thành hổ phách, còn gọi là hồng châu.

Quảng Chí chép: Chỗ sanh vật này ở bên và ở trên hư không sanh ra cỏ cây. Sâu cỡ tám, chín thước, lớn như cái đấu, lột phần võ trên, chính giữa thành hổ phách có nước lõng sánh như nhựa quả táo, rồi đọng cứng mới thành hổ phách; người xứ đó xứ dụng làm bát đựng.

-Kinh: Có nhiều tôi tớ cho đến trâu dê vô số.

-Tán: Đây có sáu loại:

  1. Điều phục phiền não làm tôi tớ, sai khiến tùy ý.
  2. Dùng phương tiện khéo léo làm các quan giúp đỡ.
  3. Dùng diệu nguyện và năng lực làm nhân dân.
  4. Lấy năm thông làm voi, ngựa.
  5. Ngũ thừa làm xe cô.
  6. Tám muôn bốn ngàn chúng hành làm vô số trâu dê.

-Kinh: Xuất ra thu vào làm lãi cho đến cũng đông nhiều”.

-Tán: Đây nói về việc khách làm lợi rất nhiều. Giáo chân đế tục đế là lời ích nhập xuất. Nhập vào Phật pháp xuất ra sanh tử. Hoặc dạy Ba thừa thì gọi là “xuất xuất sanh tử”. Giáo trời người thì gọi là nhập nhập sanh tử. Khiến cho pháp thiện dần dần sanh trưởng thì gọi là lời. Lời nghĩa là nuôi lớn mạng sống. Vì thương chúng sanh mà giáo hóa đến những nơi sanh tử nên nói: Lời lãi đến khắp nước khác. Đến các nơi Thánh chúng Ba thừa , giảng nói chánh pháp của Phật.

Tuyên Ni nói: Tìm giá tốt để địmh giá tức là đồng với đây. Loại này chẳng phải một nên gọi là rất nhiều, chữ Thương trong Nói văn nói là đi buôn bán. Ngọc thiên nói chung cho các thứ châu báu khác lạ trong bốn phương thì gọi là người đi buôn, có khi gọi là thương lượng, chẳng phải nghĩa ở đây. Thương là đem vật xa gần từ bốn phương nhóm lại. Mai là cố định, là vật cố định đợi người đến mua để cầu lợi. Mại cũng là tiếng nói phổ thông.

-Kinh: “Bấy giờ người con nghèo khổ cho đến dừng lại ở thành này.”

-Tán: Người con đi đến thành.

Ba thừa nội đạo gọi là xóm làng. Đây là câu tổng. Các pháp nói, các việc thần thông hiện có gọi là xóm ấp. Ý đây nói là: Đi dạo khắp nội đạo để cầu xuất ly, thì gọi là đến xóm làng. Văn trước đã nói con đã lớn tuổi trở về nước, tức đã trở về Phật pháp, cho nên biết, xóm làng không chung với ngoại đạo. Hoặc nghe nói pháp cạn sâu. Hoặc quán các thần thông có hơn kém gọi là trải qua các xóm ấp. Xóm rộng lớn thì dụ cho pháp sự nói. Ấp nhỏ dụ cho thần thông. Biết chư Thánh vì không ẩn tàng, trở về giáo nội Phật pháp Đại thừa thì gọi là đến thành của cha. theo ở sau giải thích: May mắn gặp được Phật pháp. Đầu tiên nghe Đại thừa gọi là đến thành cha. Phật tự trú trong Đại thừa, tức giữa đường trở về gặp được Đại thừa.

-Kinh: “Cha thường nghĩ đến con cho đến ôm lòng hối hận.”- Tán: Thí dụ về con không chịu tu Đại thừa. Có bốn:

  1. Cha thường nghĩ đến con.
  2. Con nhìn thấy kinh sợ bỏ chạy.
  3. Cha cho người đuổi theo bắt lại.
  4. Con lo lắng sợ hãi.

Đoạn văn đầu có hai: Trước nói chung về suy nghĩ. Sau nói riêng về suy nghĩ.

Đây nói về phần đầu: Năm mươi năm là nói việc trôi lăn trong năm đường. Chưa hề nói cho ai nghe việc này nghĩa là: Ta từ xưa đến nay chưa hề đối với chúng nói ta có dạy phát tâm Đại thừa. Nay thì thường nghĩ mong muốn cho chúng về của báu Đại thừa và ưa thích Nhất thừa. Chỉ thầm nghĩ mà chưa hề nói ra. Hối vì không sớm gặp con để dạy bảo, hận vì con không mau tìm ta nên gọi là hối hận. – Kinh: “Tự nghĩ ta đã già yếu cho đến mỗi khi nhớ đến con.” – Tán: Đây là suy nghĩ riêng.

Có hai: Đầu tiên nghĩ giao phó tài sản, sau đó nghĩ mình sẽ an vui.

Đây nói phần một. Việc tu hành đã lâu dài, đạo trước đã tròn đầy thì gọi là già cả. Phước tuệ vô cùng là nói nhiều tài vật. Tuy đã có Bồ-tát mà chưa hóa độ được Thanh-văn để kế thừa quả Phật, nên nói là không có con. Hoặc con còn nhỏ thì cũng gọi là không có con. Một mai chết đi là nói Phật nhập Niết-bàn, tài bảo Đại thừa sẽ tiêu tán hết. Căn cơ của bọn kia chưa thuần thục nên không thể gửi gắm, vì thế nên thương xót sâu xa thường nghĩ nhớ đến con.

-Kinh: “Lại khởi niệm nghĩ cho đến không còn lo lắng.”- Tán: Đây nghĩ cha đã an vui.

Không có con giao phó của cải, cho nên lo lắng. Con nay đã thoát khổ, thuận theo lãnh thọ há không vui sao?

-Kinh: “Thưa Thế tôn! cho đến Bấy giờ, đứng một bên cửa.

-Tán: Nói con thấy cha, kinh hãi bỏ chạy. Đây có ba việc:

  1. Đến cửa cha.
  2. Thấy cha.
  3. Bỏ chạy.

Ở đây là nói phần đầu. Thân tâm tinh tấn vì cầu xuất ly. Tâm như người làm thuê lần hồi chẳng phải là bổn tâm nên cầu Đại thừa. Do chủng tánh an bày mà may mắn đến với Đại thừa, nên gọi là đến nhà cha. Vì hạt giống Đại thừa gần sanh mà xa thuần thục nên nói may mắn mới gặp. Lại ở trong đây gặp được liễu nghĩa Đại thừa gọi là đến nhà cha. Giáo hạnh của Đại thừa có công năng giải thích lý, năng chứng các quả, gọi đó là cửa. Cùng tử lúc ấy, chưa thể chuyên cầu khắp tu hành hạnh chứng quả. Chỉ biết tướng chung có nghe chút ít, giáo, tu nhân nhỏ yếu gọi là dựa cửa. Bấy giờ, chưa hoàn toàn có thể nghe tu tập đại giáo, hành hạnh Đại thừa, chỉ cho biết cũng sẽ được, nghe Đại thừa nên gọi là lập, an xứ một lúc thì gọi là trụ. Lại người tiểu cơ chưa hề biết đại pháp thì không thể gọi là thẳng vào cửa. Tuy trong căn cơ nhỏ yếu nhưng cũng tin và tu tập nên gọi là đứng bên cửa. Ở trên lấy Phật pháp làm nước, tất cả pháp Đại thừa là thành. Trong Đại thừa liễu nghĩa chân thật, Trung đạo Đại thừa gọi là nhà của cha, tức gọi giáo hạnh là cửa. – Kinh: “Từ xa thấy người cha cho đến cung kính vây quanh.” – Tán: Nói cùng tử thấy cha, có bảy phần, ở đây có hai:

  1. Thấy cha ngồi.
  2. Kẻ sang người hèn đều hầu hạ.

Do cách Đại thừa, vị bất thoái còn xa, vá cách chân lí còn xa, nên gọi là xa thấy.

Phật dùng bốn vô úy làm giường, cũng lấy bốn tĩnh lự làm giường, lấy vô tham, vô sân làm ghế báu, để nâng chân giới, Giới học là chân đi. Người đầy đủ giới học là Bà-la-môn. Tuệ học là Sát-lợi. Định học là Cư sĩ. Lại có các chúng Ba thừa, Đại thừa, Độc giác, Thanh-văn đều cung kính vây quanh.

– Kinh: “Lấy châu báu anh lạc cho đến đứng hầu hai bên.” – Tán: Văn có hai:

  1. Tô điểm thân thể, lấy tam niệm trụ làm chuỗi anh lạc.
  2. Người giúp đỡ cung kính hộ vệ, diệu nguyện và năng lực làm nhân dân, nói về điều phục phiền não làm tôi tớ. Tâm trì tứ nhiếp là cần, phất trần trắng. Thể thanh khiết trừ hết cấu uế, không lìa thân tâm, gọi là đứng hầu hai bên.

-Kinh: “Dùng màn báu che cho đến uy đức rất tôn quý đặc biệt.”

-Tán: Ở đây có ba:

1. Các vật bên ngoài trang nghiêm.

2.Nêu tài sản.

3. Kết luận cao quý, tôn trọng.

Bốn vô lượng tâm và màn báu, bảy tịnh là Hoa, tổng trì là phướn. Năm phần Pháp thân và diệu định nhuần ở thân tâm, như nước thơm rưới đất. Dạy người dùng bảy giác như rải các hoa. Ngoài dùng muôn hạnh, lấy đó tô điểm như chưng bày các vật báu. Trên gọi là trang nghiêm, ngoài thí pháp tài gọi là xuất ra. Thân tự chứa đức thì gọi là thu vào thủ để giải thích trong trong tự lấy, cho để giải thích ngoài, ngoài cho người khác. Lại xuất ra thu vào, như trước, chúng. Chúng sanh căn cơ thuần thục gọi là lấy. Phật ứng thời hóa độ gọi là cho, trên là xuất ra thu vào. “Có các sự tô điểm dường ấy cho đến” Là kết luận tôn trọng cao quí. Đây là ban đầu hiện tướng hóa thân, tịnh độ là tướng đẹp mầu, nên con thấy, chạy đến chưa thấy báo thân cũng chẳng phải cõi uế.

– Kinh: “Cùng tử thấy cha cho đến hối hận vì đã đến đây.” – Tán: Đây nói người con bỏ chạy. Có ba phần:

  1. Hối hận vì đến đây.
  2. Khởi ý nghĩ.
  3. Chạy mau.

Đây là phần đầu. Thấy ví như biết chẳng phải mắt thấy, chẳng phải trí chứng. Vì nghe, suy nghĩ ví như biết. Mười lực vô úy gọi là có thế lực lớn. Hoặc dùng mắt thấy thần thông lớn của Phật thì gọi là thấy thế lực lớn. Chẳng phải khả năng mình tu, chẳng phải khả năng mình chứng, nên ôm lòng hoảng sợ. Ở đây thấy hóa thân, Tịnh độ. Do khuyên tu thành Phật nên suy nghĩ mình không thể hành trì, cầu sẽ chứng nên gọi là hối hận vì đã đến đây.

  • Kinh: “Trộm nghĩ rằng cho đến bắt buộc ta làm.”- Tán: Đây là khởi lên ý nghĩ.

Vua là vua Pháp thân, bậc đồng vua là Báo thân đồng nghĩa là tương tợ. Hoặc vua là vua của pháp, bằng vua như vua thế gian. Chẳng phải ta tinh cần mà có thể chứng. Gọi là chẳng phải chỗ ta ra sức làm thuê mà được vật. Xóm nghèo là chỉ người Nhị thừa. Không bằng xưa kia thân tâm siêng năng nhọc khổ, tha hồ có đất làm ăn, tức là nơi nương tựa để nuôi lớn đạo. Phước tuệ có thể cầu gọi là dễ được cơm áo. Hoặc Đại thừa trụ lâu, Phật gượng ép khuyên ta tu pháp mà không phải là pháp ta thích. Đây là trước kia chưa tâm lui sụt Đại thừa nên suy nghĩ như thế.

-Kinh: “Nghĩ như thế rồi vội bỏ đi.”

-Tán: Ở đây nói vội bỏ đi. Tự mình suy ra không thể tu hành đại hành liền lui sụt tâm Đại thừa tìm nơi khác làm gọi là vội bỏ đi. Đây là lúc còn chưa trụ vào Nhị thừa.

-Kinh: “Bấy giờ trưởng giả cho đến tâm rất vui mừng.”- Tán: Cha cho người theo bắt về. Đoạn này có ba phần:

  1. Thấy con nên vui mừng.
  2. Khởi lên ý nghĩ.
  3. Sai người bắt về.

Ở đây nói phần đầu, biết căn tánh Đại thừa của chúng sanh duyên đã gần thành thục cho nên thấy liền vui.

-Kinh: “Liền nghĩ rằng cho đến vẫn cố tham tiếc.”

-Tán: Khởi lên ý nghĩ: Mà chợt tự đến là vì căn tánh thuần thục. Thật là vừa thuận với bản tâm nguyện ý của Phật. Ta tuy tuổi đã già, thành tựu đạo đã lâu xa mà tâm đại bi vẫn còn tham tiếc sâu xa. Vì tình luyến thương con nên tâm đại bi rất thâm trọng. Cho nên nói là tham tiếc.

-Kinh: “ức liền sai người… mau đuổi bắt về.”

-Tán: Sai người đuổi bắt. Có hai: Trước đuổi sau bắt.

Lý vốn bặt cả nói năng. Dùng lời mà hiển bày ra thì không gọi là chánh lý. Giáo gọi là dạy người hầu, là Nhất thừa giáo. Hoặc hành có thể tu gọi là chánh chủ. Giáo tạm khai ngộ gọi là người bên cạnh. Bi tâm khởi lên nhanh chóng gọi là đuổi gấp. Nay khiến cho con nhập vào Đại thừa thuận theo sở tập trước kia gọi là bắt đem về. Tâm từ bi muốn hóa độ ngay nên gọi sử giả mau đuổi theo bắt về.

-Kinh: “Cùng tử kinh ngạc cho đến vì sao lại bắt tôi”- Tán: Nói con sợ hãi lo lắng. Có ba:

  1. Con kinh ngạc.
  2. Sứ giả càng gấp rút bắt.
  3. Con hôn mê.

Ở đây nói phần đầu. Tâm không mong cầu đại hạnh thì gọi là kinh ngạc. Tâm và miệng không chịu tiến tu mà lui sụt nên cất tiếng kêu oan. Thật tình tôi không mong muốn đại pháp gọi là không hề xúc phạm, vô cớ trao cho tôi pháp Đại thừa gọi là vì sao thấy liền bắt.

-Kinh: Sai người mau đuổi bắt đem về.

-Tán: Đây là nói sứ giả càng gấp bắt.

Tâm bi kích động nên giáo mang đến càng cấp thiết, khiến cho tu tập gọi là cưỡng bức đem về. Dùng làm nhân cho ngày nay nhập Đại thừa, cho nên ép ngặt. Chẳng phải khi ấy Phật không biết căn khí mà ép mang về.

-Kinh: “Bấy giờ gã cùng tử cho đến mê ngất ngã dưới đất.”

-Tán: Nói con hôn mê. Thực tình trong tâm không ưa thích Đại thừa gọi là không có tâm xúc phạm nên nghĩ là vô tội. Không muốn con mình học Tiểu thừa, bắt phải học đại nên gọi là “bị bắt tù”. Pháp tu khổ hạnh của Bồ-tát thật khó hành, quá sức mình sợ sẽ khổ nên nói chắc chắn phải chết. Tâm không an vui nên lại càng sợ sệt, thoái tâm không học Đại thừa lui vào sanh tử gọi là mê ngất té dưới đất, đất là chỉ cho nơi sanh tử.

-Kinh: “Cha từ xa đã nhìn thấy cho đến đừng nói với nó”.

-Tán: Dùng Nhị thừa hóa độ. Có sáu phần:

  1. Dạy phát quyền tâm.
  2. “Cùng tử vui mừng cho đến” khởi ý thích Tiểu thừa.
  3. “Bấy giờ trưởng giả muốn dẫn dụ..” khiến cho tu phần giải thoát .
  4. Cùng tử trước chịu lấy giá cả, bèn y theo đó mà làm.
  5. “Cha thấy con thương xót và lấy làm la..”, khuyên vào gốc lành.
  6. Bấy giờ trưởng giả dạy bảo làm việc sau đó thành tựu Thánh vị. Văn đầu có hai: Trước sai thả, sau sứ giả thả đi.

Trước sai thả lại chia làm hai: Một là ngưng dùng Đại thừa hóa độ, mà dạy nên phát tâm quyền, hai là giải thích lý do ở đây là nói phần đầu. Con còn ở xa nên nói cha từ xa nhìn thấy. Lại ngưng giáo hóa bằng Đại thừa, tạm thời khai thị chớ mang giáo hóa nên nói không cần đừng ép trao Đại thừa khiến tu đại hạnh gọi là chớ cưỡng bức đem đến. Dùng quyền giáo xảo Nhị thừa, tam quy y, ngũ giới cấm để thuận với tâm kia, như rưới nước lạnh vào mặt là để diệt trừ hối hận của cùng tử, điều phục mười triền, hoặc tạm dứt khổ tám nạn, được sanh về trời người hơi dần chán khổ, lại làm vui với bổn ý nên gọi là được tỉnh lại. Ngưng trao Đại thừa chớ nói với nó nữa, tức mê ngất đã hết. Lúc ấy giống như thức tỉnh nhập Thánh ngộ chân.

-Kinh: “Vì sao? Vì sao nói là con ta.”

-Tán: Giải thích ý sai thả. Biết tánh Thanh-văn từ lâu sanh gần thuần thục gọi là biết ý con kém cõi. Đức của cha quá lớn làm cho con khiếp sợ nên nói nạn của con. Hào là mạnh khoẻ. Theo Nam Tử Trí thì nói thống lãnh ngàn muôn người gọi là Hào. Biết có đại tánh, gọi là biết rõ con mình; có thể kế vị mà ẩn mật ngầm giáo hóa gọi là các phương tiện, chưa bảo đại chúng rằng: Trước ta hóa đạo có nhân Đại thừa, nên nói đó là con ta.

-Kinh: “Sứ giả nói cho đến đi đâu tùy ý.”

-Tán: Đây là sứ giả thả đi. Ngưng giáo hóa bằng đại giáo, kham học Nhị thừa, gọi là tùy ý đi.

-Kinh: “Gã cùng tử vui mừng cho đến vì cầu cơm áo.”- Tán: Phần thứ hai nói con khởi ý thích Tiểu thừa.

Thích hợp cơ nghi vốn có nên vui mừng. Đầu tiên phát tiểu tâm, gọi là được điều chưa hề có. Từ trong sanh tử phát ý tu Nhị thừa gọi là từ dưới đất đứng dậy. Đến xóm nghèo để tìm cơm áo. Công đức Nhị thừa ít gọi là xóm nghèo, mưu toan pháp vô lậu gọi là cầu y thực.

-Kinh: “Bấy giờ trưởng giả cho đến không có uy đức.”

-Tán: Khiến tu giải thoát phần. Nói pháp năm phép quán dừng tâm niệm xứ cho đến Văn có hai phần:

1. Thầm sai hai người. 2. Hai người y lời dạy. Phần một lại có ba:

  1. Sai hai người.
  2. Khiến truyền lời nói.
  3. Hỏi đáp.

Ở đây là nói phần đầu. Thật không có hai thể, lập giáo thì có hai thừa, nên nói thầm sai. Giáo phương tiện dạy Nhị thừa nên sai hai người. Trí tuệ thấp kém nên sắc lực tiều tụy. Thần thông không lớn thì gọi là không có uy đức, hoặc giáo nghiêng lệch nên sắc tiều tụy, lý thiếu nên không có uy. Hoặc đức của mình kém gọi là tiều tụy, lợi tha ít mà không có uy đức, đây dều là phát tâm Tiểu thừa. Đầu tiên dạy hành pháp Nhị thừa. Trong Quảng Nhã chép là tiều tụy, đây là chỉ sự âu sầu bệnh hoạn .

-Kinh: “Hai người hãy đến chỗ kia cho đến dắt về đây khiến làm.”

-Tán: Khiến cho truyền lời nói. Dạy khiến người kia nghe, gọi hai người nên đến kia, dùng phương tiện dần hóa gọi là từ từ nói. Học địa của Nhị thừa gọi là chỗ làm. Pháp vô lậu cao siêu, hơn cả giáo pháp lành trời người. Gọi là giá cả gấp bội, tâm cùng tử có thể theo đó mà tu học tức là khuyên đến tu học, gọi là khuyến làm.

-Kinh: “Như nói muốn gì? Cho đến cũng cùng ông làm.”- Tán: Đây là nói về hỏi đáp.

Nếu kia như hỏi tu hành pháp gì?

Đáp: Đổ phân tức là dứt phiền não! Tu pháp Đại thừa như giũa mài vật báu. Học Tiểu thừa cũng như nghề đổ phân. Chẳng những hành trì mà cũng có thể dứt hoặc. Vì giáo cũng giúp cho dứt. Phải nhờ uy thế nên nói là cùng nhau làm.

-Kinh: “Bây giờ hai người… trình bày đầy đủ các việc trên.”

-Tán: Hai người y theo giáo. Đem giáo pháp phù hợp căn cơ như cầu cùng tử. Dùng pháp xứng khí, khiến kia nghe biết. Cho nên nói được. Cách dứt phiền não thì gọi là trình bày việc trên.

-Kinh: “Bấy giờ cùng tử cho đến cho làm nghề hốt phân.”

-Tán: Đây là nói cùng tử y theo đó làm việc. Trước hỏi giá cả là ý nói đầu tiên phát tâm tu Bồ-đề Nhị thừa học văn tư tuệ, công đức thù thắng chân thật của Nhị thừa gọi là lấy giá cả. Sau đó mới hành trì năm pháp quán dừng tâm, niệm xứ quán v.v… dần dần chiết phục phiền não nên gọi là “tìm người đổ phân”. Chữ dữ là cho, là làm. Thuận dùng theo lời Phật nói nên gọi là “tìm vào giao cho”.

-Kinh: “Cha thấy con thương xót mà lấy làm lạ.”

-Tán: Từ đây trở xuống là khuyên vào gốc lành. Có ba phần:

  1. Tâm thương xót.
  2. Thân gần gũi.
  3. Cùng nói chuyện.

Đây là phần đầu. Thương xót không có tướng tốt, trí tuệ, lấy làm lạ vì tâm không cầu đại pháp.

– Kinh: “Lại một ngày khác cho đến dơ bẩn bất tịnh.”

– Tán: Thân gần gũi có hai ý:

  1. Thấy con.
  2. Thân đồng với con.

Đồng với: Từ câu “liền đến hốt phân” trở lên là Phật xa thế gian mà hóa độ phần giải thoát đầy đủ quả vị. Từ câu “thấy con thương xót” trở xuống là Phật gần gũi thế gian hóa độ, khai thị giáo cho chứng quả vị tbốn thiện căn. Khác với phần giải thoát trước gọi là ngày khác. Huống chi đây đều do nhiều kiếp tu hành. Phần vị đã khác nên nói riêng thời khác; biết căn chưa thuần thục, nên ngầm mật hóa. Lại không dùng Đại thừa giáo hóa có buộc, chỉ dùng Nhị thừa sanh không giáo hóa. Cho nên nói trong cửa sổ nhìn ra mà không nhìn thẳng. Cửa sổ đó là chỉ đạo, là hướng là lúc mới thành đạo sắp hướng về vườn nai, gặp nhau. Đây vẫn chưa phải là việc ngày nay sanh ra, cho nên nói là xa thấy, hoặc do cách Thánh vị còn xa cũng là xa thấy. Chưa được phước cao quý nên gọi là già yếu, suy kém. Không được trí thù thắng nên gọi là tiều tụy. Phiền não gọi là phân đất. Ác nghiệp gọi là bụi bặm. Khổ quả gọi là ô uế, hợp ba thứ này gọi là bất tịnh.

-Kinh: “Ông liền cởi châu anh lạc cho đến đồ hốt phân.”

-Tán: Đây là nói thân đồng. Hóa thân đầy đủ công đức tướng tốt, tròn sángở trong cõi Tịnh. Con trông thấy kinh hãi bỏ chạy. Nay hiện ra thân thế gian ở cõi uế nhơ bẩn, hóa tướng ẩn giấu, như cởi chuỗi anh lạc tô điểm trên thân. Cũng như Phật dùng thần lực ẩn thân, thường phát ra ánh sáng nhưng chỉ phát ra một tầm. Đó chẳng phải thân đẹp tướng tốt nên gọi là cởi áo tốt. Tướng đồng với hữu lậu thì gọi là mặc y phục rách rưới nhơ bẩn. Nói về có hữu lậu, phiền não nghiệp ác như thân lấm bụi.

Trước nói quyền giáo gọi là tay phải, dùng đó trước tiên. Cầm đồ hốt phân đó là nhân hạnh Nhị thừa hàng phục phiền não.

Dùng giáo thuyên hiển bày nghĩa cũng đồng như dùng tay cầm.

Phật tự nói về đồng hành trì dứt trừ phiền não, để nói về quyền giáo. – Kinh: “Bộ dạng đáng nể sợ cho đến để được gần con.” – Tán: Đây là phần cùng nói chuyện. Có hai:

  1. Nói chung là siêng làm.
  2. Nói riêng là dạy bảo.

Ở đây là nói phần đầu.

Nói về các tướng khổ đáng sợ, tâm từ bi dắt dẫn như hình dạng đáng nể sợ. Nói về chỉ dạy, khen ngợi, khuyến khích, vui mừng an ủi, khuyên hành tinh tấn gọi là khuyên siêng làm. Đây là đời đời được Phật giáo hóa nên nói được gần con.

-Kinh: “Sau đó lại bảo rằng cho đến trả thêm giá cho ngươi”.

-Tán: Dùng lời dạy bảo riêng. Có ba phần:

  1. Không để cho đi nơi khác.
  2. Thuận theo liền cho.
  3. Tam gọi là cha con.

Đây là phần đầu. Phật khuyên chúng sanh chớ lui sụt rơi vào sanh tử tu theo ngoại đạo, nên bảo “chớ bỏ đi nơi khác”.

Trả thêm giá là: Cho các người tu tuệ, tứ gốc lành, tức gia hạnh thêm văn, tư, tuệ ở giai vị trước.

-Kinh: “Các vật cần dùng cho đến ý thích an ổn.”- Tán: Đây là tùy vật con cần dùng mà cha ban cho.

Các vật dùng là thiền định. Gạo bột là giải thoát, thắng xứ, tứ vô lượng v.v… Do định mà phát sanh các công đức. Vị này cũng là tu tập học phần. Muối dấm là bổn của sanh không phải hai trí hữu lậu sau. Cũng như muối làm điều hòa các vị. Trí này cũng như vậy, có thể điều hòa công đức. Tâm vui mừng quyết hướng tới chớ sanh nghi ngờ.

Người tớ già thấp kém là năm thần thông của Nhị thừa, tác dụng của bốn thứ thần túc rất yếu, nên gọi già hèn, để cho các con, các con nên siêng năng học đạo để ý tự an. Đây là nói người lợi căn vượt lên đắc quả, còn người theo thứ lớp đắc quả thì có vật dụng thau chậu là chưa đến gạo định bột mì là tứ đế, ngũ căn, ngũ lực v.v… Muối giấm là hành tướng sanh không vô ngã người tớ già yếu là tứ thần túc. Từng tu các pháp giải thoát phần vị.

-Kinh: Ta như là cha ngươi cho đến như con đẻ của ta.

-Tán: Tạm gọi cha con…

Phần đầu là nêu. Phần sau giải thích. Đạo ta đã tròn đầy gọi là già. Đạo ngươi nhuần nhuyễn nên gọi là trẻ. Tình cha con đã thắm thiết. Ý niệm quyến thuộc càng sâu. Đã nói như là cha con, thì đâu có lo thiếu thốn, cũng không tự khinh mình. Chuyên cầu xuất ly gọi là không lừa dối. Thân thường tính tấn gọi là không biếng trễ. Tâm không phiền não sân hận lời không oán ghét, tức là chiết phục ba nghiệp ác. Ngươi đã có thể dùng phương tiện đế quán chiết phục phiền não, gọi là không thấy ngươi có các việc xấu như thế, cũng đều không thấy ngươi có các lỗi xấu như người tu hành của các ngoại đạo khác, hay như là người lừa dối, lười biếng trong Phật pháp. Từ nay về sau, con đã gần gũi Thánh đạo, như các Thánh nhân, là con do ta sanh ra, không khác, chưa đắc kiến đế vẫn không phải là con thật, ở đây tạm gọi như con.

-Kinh: Tức thời trưởng giả cho đến gọi đó là con cho đến.

-Tán: Nói thành tựu Thánh vị. Có ba phần:

  1. Bắt đầu nhập Thánh.
  2. Trụ vào Tu đạo.
  3. Thành tựu Vô học.

Đây là phần đầu. Trụ ở phàm vị như con nuôi, vẫn chẳng phải con. Nhập Thánh rồi mới là con thật, nên gọi là con. Chuyển dần gần gũi nên trụ vào sơ quả.

-Kinh: “Bấy giờ cùng tử cho đến thường sai hốt phân.”

-Tán: Trụ Ở Tu đạo. Đây là nói đạo trước Kim cương. Tuy đã nhập vào Thánh, rất vui ở sự tình cờ gặp đó nhưng tự biết mình không bằng các Bồ-tát, còn tự cho mình là khách là người làm công thấp kém.

Trải qua hơn hai mươi năm là dụ cho quả vị Nhị thừa mỗi mỗi đều đủ vô lậu mười pháp hạnh, mười nghiệp đạo nên thường sai khiến đổ phân, thường dứt trừ phiền não. Hoặc trong hai mươi năm đó là ở trong hai quả vị Gia hạnh, Vô Gián hàng phục dứt trừ nghi ngờ. Hoặc trụ ở tu đạo, đoạn câu sanh hoặc ở cõi trên dưới, năm hạ phần kiết, năm thượng phần kiết, hai thứ đều dứt, hoặc trong đạo giải thoát, Vô gián đoạn hai vị thô nặng hạt giống khác nhau.

-Kinh: “Sau khi trải qua đó rồi cho đến vẫn còn ở chỗ cũ.”

-Tán: Đây nói đạo sau Kim cương. Thành tựu vô học rồi được gần gũi Phật. Thức đạt sanh không, đồng đắc giải thoát nên gọi cùng thể tin. Vào học Phật pháp, lợi ích chúng sanh, không sợ, không nhiễm gọi là không ngại sợ. Lại tâm thể tin nhau hai lợi vào ra cũng không ngại khó, vẫn còn trụ lý sanh không Nhị thừa không mong cầu đại quả thì gọi là ở chỗ cũ. Đó là nơi sở cầu sở học.

-Kinh: “Bạch Đức Thế tôn! Bấy giờ, cho đến nên thấu rõ ý ta”.

-Tán: Dụ không mong cầu Đại thừa.

Có hai: Đầu tiên nêu Đại, sau nói không mong cầu. Phần đầu văn lại có hai: 1. Nêu; 2. Giải thích.

Phần nêu này lại có hai: Biết thời và chánh bảo.

Bị bệnh là nói: Sau mười hai năm, phiền não của chúng sanh dần dần thêm lớn.

Vì chúng sanh bệnh nên Phật cũng bị bệnh. Đây ở trước hội Pháp Hoa, biết thời nhập Niết-bàn, gần đến ngừơi được độ đó đều đã độ xong, thì gọi là biết giờ chết không bao lâu nữa pháp hữu vi vô vi, tất cả các công đức của Bồ-tát, Như-lai đều gọi là kho báu đầy tràn. Ở trong đó Đại thừa cho nhiều Nhị thừa cho ít. Như-lai cho nhiều Bồ-tát cho ít. Vô vi cho nhiều, hữu vi cho ít, chỗ đáng lấy là muôn đức tự lợi, chỗ đáng cho là muôn đức lợi tha. Các thầy nên biết rõ thảy đều nên biết. Thuật lại tâm trước của mình, gọi là nên thể theo ý này. Tức khiến cho hiểu được nghĩa yếu chỉ Muôn đức nhị lợi của Đại thừa v.v… khiến họ thấu đạt đạo lý của Đại thừa, mà chưa dạy cho phát đại tâm. Cho nên đây nói bao gồm nên thể theo ý này.

-Kinh: Vì sao? cho đến chớ để quên mất.”

-Tán: Đây giải thích khai thị pháp Đại thừa. Như cha con thế gian tuy có tâm khác mà sự không khác. Phật không khác với Nhị thừa:

-Giải thoát bình đẳng.

-Sanh không chân như bình đẳng.

-Ý lạc bình đẳng. Phật đắc quả chúng sanh bình đẳng ý, nên dụng tâm thêm cầu pháp Đại thừa giải thoát, không để quên mất, là chớ quên không học.

-Kinh: “Bấy giờ cùng tử cho đến ý mong lấy của đáng chừng bữa ăn”

-Tán: Nói không cầu pháp Đại thừa. Có hai phần:

  1. Nói thọ lãnh mà không mong cầu.
  2. Vẫn còn ở chỗ cũ.

Đây là phần một. Tu-bồ-đề trước khi có hội Pháp Hoa, lãnh hội được nghĩa Không, giữ gìn, che chở pháp Đại thừa, không ngu nơi pháp, biết lý Đại thừa nhưng không có một niệm phát tâm Đại thừa. Không có ý mong cầu pháp quả Phật Đại thừa, như nói đáng chừng một bữa ăn.

Cho nên trước nói không sanh tâm một niệm ưa thích.

-Kinh: “Nhưng chỗ ở đó cho đến cũng chưa thể bỏ.

-Tán: Đây còn trụ ở bổn vị. Nhưng chỗ trụ còn ở Nhị thừa. Tâm

Nhị thừa yếu kémcũng chưa thể bỏ.

-Kinh: “Lại trải qua một ít thời cho đến tự chê trách tâm trước cho đến”

-Tán: Dụ nay đắc được, có hai phần:

1. Cha giao phó. 2. Con đạt được.

Cha giao phó có hai:

  1. Biết thời đến.
  2. Nhóm họp mọi người để giao phó cho con.

Ở đây là nói phần đầu.

Trải qua một lít lâu sau: Sau hội Bát-nhã là hội Pháp Hoa, thời gian này có chút ít tiến triển, gọi là “dần dần đã”. Hiểu ý hai không này, rộng xả gọi là thông thái. Thông nghĩa là khai đạt, thái là an thái.

Thành tựu đại chí là: Xưa phát đại tâm, gần sanh, mà thuần thục còn xa nên tự chê tâm trước, hối hận vì xưa trụ trong tiểu pháp. Bỉ là khinh chê hiềm trách tâm trước kia tu Tiểu thừa. Cho nên ngài Thu Tử trước nói chúng ta đồng nhập vào pháp tánh. Vì sao Như-lai dùng pháp Tiểu thừa ra cứu độ. Đây là lỗi của chúng ta chứ không phải Phật, mỗi khi tự trách, chính là đồng với đây.

– Kinh: “Lúc gần qua đời cho đến thảy đều đã nhóm hợp.” – Tán: Nhóm họp chúng để giao phó. Có hai phần:

  1. Mệnh lệnh nhóm hợp.
  2. Chánh bảo cho biết.

Ở đây là nói phần một.

Hội Pháp Hoa cách lúc Phật Niết-bàn chỉ có năm năm, nên nói lúc sắp qua đời. Xưa thoái Đại thừa làm con nuôi tức Thanh-văn, hợp cùng thân thuộc của Bồ-tát, bốn hàng như vua v.v… là chỉ cho bốn chúng, hoặc đúng tên gọi hạng đó.

– Kinh: “Tức tự giảng nói cho đến là của ta sanh ra.” – Tán: Là phần chánh nói: Có hai:

  1. Nhắc lại xưa kia.
  2. Nay nói cho biết từ câu “bỗng ở đây gặp nó v.v…” Nhắc lại lại xưa có ba:
  3. Nêu lúc phát tâm ban đầu.
  4. Lui sụt vào sanh tử.
  5. Nêu lại pháp quyền.

Có bốn việc lâu xa: Nghĩa là giữa đường gặp Phật không chịu tu Đại pháp, dùng pháp Nhị thừa giáo hóa, không mong cầu Đại thừa.

Đây nói phần một.

Nhị thừa thành Phật, việc đó rất khó, cho nên tự Đức Phật giảng nói không để lại việc khác. Đầu tiên Ta vì mười sáu vị vương tử, dạy phát đại tâm, gốc lành của họ do từ miệng ta sanh ra, từ pháp âm của Phật sanh ra. Cho nên nói từ Phật pháp sanh ra, như thế mới là thật sanh

Kinh: “Trong thành đó cho đến hơn năm mươi năm.”

Tán: Nói lại việc lui sụt vào sanh tử. Thành đó tức là Đại thừa. Một lần gặp đầu tiên đã dạy phát tâm hướng Đại thừa. Nếu Đại thừa định tánh và phát tâm ở thượng phẩm, thì chưa hẳn lui mất. Nay nói bất định tánh và phát tâm ở hạ phẩm. Kia đã lui sụt vào sanh tử nên gọi là thành đó.

“Bỏ ta trốn đi:” Chữ linh là chỉ cho hình dáng lẻ loi cô độc. Linh đinh: Là chỉ cho sự đi đứng không ngay ngắn, như bước vào chỗ nguy hiểm. Đây hoặc là nhiếp nói sự nguy hiểm khó khăn trong năm đường. Hoặc do đau khổ cô đơn mà rong ruỗi vào năm đường, bỏ cha mẹ, bỏ Phật, nên gọi đó là cô đơn. Nghĩa tuy vậy mà không biết y cứ vào đâu. Trong đây ý nói là bỏ cha mẹ đi thường không an ổn, cô độc nguy nan hành động không đúng, sợ hãi, khổ sở.

Kinh: “Xưa nó vốn là tên đó cho đến lo lắng, tìm kiếm.”

Tán: Ở đây nhắc lại trong quyền có bốn việc lâu xa khác. Giữa đường gặp Phật, Phật biết rõ nguồn gốc. Đời đời theo Phật được giáo hóa, do đây nhớ rõ “tên ta, tên nó”.

Xưa ở tại thành này gặp ở giữa đường lại dạy Đại thừa. Cho nên ngài Xá-lợi-phất tu hành, trải qua sáu mươi kiếp mới lui sụt lại Tiểu thừa. Giữa đường được Phật giáo hóa tu Đại thừa. Vì thế, nói ta ở chỗ thành này.

Lo lắng tìm kiếm: Từ bi sâu xa tựa như lo lắng. Gặp mà không tu Đại thừa, dùng pháp Nhị thừa làm phương tiện hóa độ. Kia tuy đắc quả, mà vì lòng từ bi sâu xa, nên lại nói về Đại thừa, nhưng chúng sanh không mong cầu. Các việc như thế gọi là tìm kiếm.

Kinh: “Bỗng ở nơi đây cho đến con ta đã biết.

Tán: Ở đây là nói việc này.

Luận Phật địa chép: Trong hội Pháp Hoa, căn cơ chủng tánh bất định, đã thành thục, nên xả bỏ phân đoạn mà thọ thân biến dị, hồi tâm hướng đại. Cho nên nói “Bỗng ở đây được gặp” vì cảm ứng phù hợp nhau. Xưa Phật từng giáo hóa pháp Đại thừa. Cho nên nói “đây thật là con ta”. Quả Bồ-đề của ta, của cải ta lẽ ra con nên được, đều thuộc về của con. Công đức của thâu vào tự lợi và xuất ra lợi tha trước kia con ta đều biết cả, ta nay đều giao phó.

Kinh: “Thế tôn! cho đến Khi đó tự nhiên đến.”- Tán: Ở đây là nói con đạt được.

Biết mình từ trước đến nay không có tâm dự định thành Phật, đâu có mong cầu căn thuần thục tùy ý nghe kinh sẽ được thành Phật? Gọi là: Vốn không có tâm mong cầu, mà kho tàng quả Phật chân thật tự nhiên đến.

Kinh: “Thế tôn! Trưởng giả cho đến chúng con là con.”- Tán: Đều nói lãnh thọ. Có hai phần:

  1. Xưa không mong cầu.
  2. Nay được, tức từ câu: “Nay chúng con mới biết Thế tôn, đối với trí tuệ của Phật” trở xuống, văn đầu lại có năm phần:
  3. Hợp nói sơ phát tâm.
  4. “Thế tôn!… Chúng con vì ba khổ” đều nói lui sụt trong sanh tử.
  5. “Mê hoặc vô tri v.v…”. Đều nói không chịu tu Đại thừa.
  6. “Ngày nay Đức Thế tôn khiến chúng con suy nghĩ”, là nói dùng Nhị thừa hóa độ.\ “Nhưng Đức Thế tôn trước biết chúng con v.v…” là nói việc khai thị không cầu Đại thừa. Không hợp với phần thứ ba trở về gặp Phật. Giữa đường gặp Phật thì cũng là Phật tử, đầu tiên gặp cũng là con. Điều này trước đã dẫn dụ đầy đủ nên lược qua không nói. Đời đời đã theo Phật được Phật hóa độ từ trước.

Đây là phần đầu. Nghĩa chữ con như trước. Đầu tiên dạy phát tâm thật ra trụ ở phàm vị. Cho nên nói giống như con, như con thật của bậc Thánh. Hoặc đây là tướng chung. Nói các Nhị thừa tợ như con Bồ-tát. Phật thường nói Nhị thừa cũng là con Phật. Cho nên ngài Thu Tử trước nói: Nay nghe kinh Pháp Hoa mới biết là thật là con Phật. – Kinh: “Thế tôn cho đến chịu các khổ não.” – Tán: Phần hai là nói lui sụt vào sanh tử. Ba khổ là:

  1. Khổ khổ.
  2. Hoại khổ.
  3. Hành khổ.

Là tự tướng của khổ thọ và thuận với khổ thọ, gốc khổ, khổ cảnh, tương ưng với pháp . Một phần năm uẩn là tánh khổ khổ. Trái duyên ép ngặt thì gọi là khổ. Khổ này gọi là khổ khổ, tức năm khổ trước ở trong bát khổ, đều gọi là khổ khổ.

Tự tướng lạc thọ và thuận với lạc thọ, gốc khổ, khổ cảnh, cùng

pháp tương ưng, ở vị biến hoại có thể sanh ra ưu não, nên gọi là hoại khổ. Lại do ái mà làm cho tâm biến hoại cũng gọi là hoại khổ. Một phần năm uẩn là tánh hoại khổ, tức, ái biệt ly khổ, cầu bắt đắc trong bát khổ, đều là hoại khổ.

Tự tướng của xả thọ, và thuận xả thọ, như là căn, là cảnh, với pháp tương ưng. Hoặc đồng thời đều do hai khổ thô nặng tùy thuộc trước. Không lìa hai khổ này, mà vô thường, biến đổi tùy thuộc theo nên gọi là hành khổ. Không chỉ xả thọ gọi là hành khổ mà năm uẩn hữu lậu hoàn toàn là hành khổ. tức trong bát khổ lượt nhiếp tất cả năm thủ uẩn, khổ đều gọi là hành khổ. Như trong Duyên sanh thứ tám của Duy thức, các văn đều khác nhau. Do thối lui nên thọ sanh tử này. Hoặc đây không nói ra việc thối lui trước kia, mà chỉ nói tổng tướng ép ngặt chung của ba khổ chịu các nóng bức.

-Kinh: “Mê lầm biết ưa thích pháp Tiểu thừa.”

-Tán: Là nói không chịu tu Đại thừa. Ngu si gọi là mê, do dự là hoặc. Thích theo pháp Tiểu thừa nên không chịu tu Đại thừa. – Kinh: “Ngày nay Đức Thế tôn… giá của một ngày.” – Tán: Là nói dùng Nhị thừa hóa độ. Có hai phần:

  1. Y theo lời Phật thì được không nhiều.
  2. Nêu bày: Được tiểu quả bèn cho là đủ.

Đây nói phần một. Suy nghĩ là: Suy tư tu đế quán. Dực là trừ. Trừ bỏ phân hí luận, dứt chướng phiền não. Siêng tu tinh tấn nhiều kiếp chuyên tâm, được đến Niết-bàn.

Giá một ngày là đạt được không nhiều. Thể của Đại Niết-bàn, trải qua ba đại kiếp mới đắc được, gọi là vô số giá. Nay trong sáu mươi kiếp liền được giải thoát. Há chẳng phải giá Niết-bàn một ngày hay sao? Lại ba việc Đại Niết-bàn đều tròn đầy thì gọi là vô số giá. Nay chỉ được giải thoát, không đắc pháp thân, đại tuệ. Trong giải thoát chỉ đắc hoặc chướng giải thoát, không đắc trí chướng giải thoát. Chỉ được lìa phần đoạn sanh tử giải thoát, không phải được lìa tri chướng và Biến dịch giải thoát. Há chẳng phải cái giá Niết-bàn một ngày! Thể của Niết-bàn tức là giải thoát!

-Kinh: “Đã đắc pháp này rồi cho đến chỗ đắc rộng nhiều.”- Tán: Đây nói tiểu tình bèn cho là đủ, vì tâm quá thấp hèn.

-Kinh: “Nhưng Thế tôn cho đến phần Bảo Tạng.”

-Tán: Khai thị Đại thừa mà không mong cầu: Ở đây có ba phần:

  1. Biết ta ưa Tiểu thừa. Phật không nói ta được, nên không mong cầu.
  2. Tự đắc Niết-bàn, cho là mình đã đầy đủ, nên không mong cầu gì hơn.
  3. Chỉ vì nói cho chúng Bồ-tát, không phải vì ta mà nói, cho nên không mong cầu.

Đây là nói phần đầu. Mê đắm lòng ưa muốn hèn tệ, tức ưa điều xấu, mong cầu Tiểu thừa. Phật biết căn cơ chưa thuần thục nên buông bỏ con, không vì con mà nói rõ ràng con cũng có phần của Phật, cho nên chúng con không mong cầu. Phật đều chọn bỏ, nên chọn mà bỏ chúng con.

-Kinh: “Thế tôn! cho đến không có chí mong cầu.”

-Tán: Tự đắc Niết-bàn cho là đã đủ, nên không còn mong cầu.

Dùng năng lực phương tiện mà nói trí tuệ của Như-lai tức là đầu tiên nói quyền giáo phương tiện, ý hiển bày trí tuệ Phật Nhất thừa chân thật. Do ta đã được Niết-bàn, nên tự cho đã đầy đủ là được nhiều, mà không biết trí tuệ thật sự của Phật. Cho nên không mong cầu.

-Kinh: “Chúng ta lại do cho đến không có chí nguyện.”

-Tán: Chỉ vì Bồ-tát mà nói, không vì ta mà nói. Cho nên không mong cầu. Đây có hai: 1. Nêu ra; 2. Giải thích.

Nêu ra nói Bát-nhã là do lực trí tuệ gia trì của Phật, tùy theo chúng con nhưng vì nói cho Bồ-tát , không nói cho chúng con, nên chúng con không có chí nguyện đối với pháp này. Vì thế luận Du-già chép: Chỉ vì người phát hướng cầu Đại thừa nói các pháp Không, chánh là đồng với ý này.

-Kinh: “Vì sao? cho đến thật là Phật tử.”

-Tán: Giải thích ý không mong cầu. Biết con ưa thích Tiểu thừa nên Phật dùng năng lựa phương tiện rõ ràng nói cho chúng con, pháp Nhị thừa, không chánh rõ ràng nói cho bọn chúng con nói, cũng nên thích nghi nghe pháp Bát-nhã thậm thâm. Phật chỉ nêu tướng chung tùy theo con mà nói các kinh Bát-nhã cho đến Chúng con không biết thân có phần của Phật, có Hạt giống Phật thật là Phật tử tu học Bát-nhã. Do ngu ý này nên không cầu pháp Đại thừa.

-Kinh: “Nay chúng con mới biết cho đến nói pháp Đại thừa.”- Tán: Là nói nay được. Có ba phần:

  1. Biết Phật không tiếc pháp Đại thừa, nên nay được.
  2. Biết Phật chỉ dùng Đại thừa hóa độ, nên nay được.
  3. Kết lãnh thọ nay được.

Đây là nói phần đầu, gồm có: Nêu ra và giải thích, văn ý có thể biết.

Phẩm Phương Tiện nói: “Nếu người tin về Phật, biết Như-lai không dối, cũng không có ý tham ganh, dứt trừ các pháp ác.” Nay biết Phật không sẻn pháp, chỉ vì con tự ưa theo Tiểu thừa, không thể học Đại thừa. Nếu có tâm ưa thích Đại thừa, Phật sẽ nói cho ta nghe.

-Kinh: “Nay trong kinh này cho đến Đại thừa giáo hóa.”

-Tán: Đây biết Phật chỉ dùng Đại thừa hóa độ. Nay trong kinh này, chỉ nói Nhất thừa. Cho nên biết chỉ lấy Nhất thừa làm tông. Không nói một thân để làm tông chỉ. Phật trước trách mắng Thanh-văn chỉ vì hóa độ Bồ-tát, khiến cho học Nhất thừa. Ý Phật đã rõ ràng, nên nay con được lãnh hội ý trước. Như thế đều vì đắc Nhất-thiết-chủng-trí của Phật thừa trong kinh này.

-Kinh: “Thế cho nên chúng con cho đến đều đã được.”

Tán: Đây là phần kết sự lãnh thọ ngày nay Phật tử đã được: Sở đắc nhân quả Nhất thừa của Bồ-tát. Nay con nghe kinh, phát tâm cầu hướng đến như sở đắc của Bồ-tát đều đã được, chắc chắn được nên gọi là đều đã được. Bồ-tát ngày trước lúc mới phát tâm, cũng như con ngày nay. Phật đã đắc pháp rốt ráo, thì con cũng được như vậy, nên gọi là “đều đã được”, lý thật không khác.

Tăng Pháp Ấn ở chùa Pháp Long.

Viết xong ngày 21 tháng 0 niên hiệu Bảo An năm thứ ba.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10