HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

SỐ 1723

QUYỂN 05

Sa-môn Khuy Cơ soạn tại chùa Đại Từ Ân

 

PHẦN ĐẦU

PHẨM THÍ DỤ

Có chia ra ba môn :

  1. Trình bày vì sao có phẩm này.
  2. Giải thích tên phẩm.
  3. Giải thích về phương nạn

Trình bày vì sao có phần này: Có hai

1- Ngài Thu Tử là bậc thượng căn nghe pháp nói đã giác ngộ. Bốn vị tánh trung căn phải nhờ vào thí dụ so sánh mới ngộ. Trên đã hóa độ thượng căn, dưới muốn giác ngộ hạng trung căn nên có phẩm này.

2- Luận chép: Từ đây trở xuống chúng sanh có đủ bảy thứ phiền não, nên nói bảy thí dụ để đối trị bảy thứ tăng thượng mạn và ba thứ người nhiễm mạn không có phiền não, tức nhiễm mạn kiến, giải thoát Tam-muội. Vì đối trị đây nói ba bình đẳng.

Lại nói ngoài là phần kinh còn lại nói rõ mười nghĩa Vô thượng, ý này còn nêu chung hết hai mươi sáu phẩm, hiểu cả ba nghĩa này. Nêu bảy thí dụ trong bảy phẩm: Một là ví dụ nhà lửa trong phẩm này. Hai là dụ gã cùng tử trong phẩm Tín hiểu. Ba là dụ mây mưa trong phẩm Dược thảo dụ. Bốn là dụ hóa thành trong phẩm Hóa thành dụ. Năm là dụ cột hạt ngọc trong phẩm Ngũ bá đệ tử thọ ký. Sáu là dụ cởi hạt ngọc trong búi tóc của phẩm An Lạc Hạnh. Bảy là dụ thầy thuốc trong phẩm Thọ lượng. Tùy theo thứ lớp của mỗi phẩm.

Ba bình đẳng có chín phẩm:

  1. Phẩm Thí dụ.
  2. Phẩm Thọ ký.
  3. Phẩm Ngũ bá đệ tử thọ ký.
  4. Phẩm Thọ học vô học nhân ký.
  5. Phẩm Pháp sư.
  6. Phẩm trì.
  7. Phẩm Đề-bà-đạt-đa.
  8. Phẩm Thường bất khinh.
  9. Phẩm Hiện bảo tháp.

Tám phẩm đầu đều có thọ ký, nói thừa đầu tiên bình đẳng. Một phẩm Hiện bảo tháp sau hợp nói pháp Niết-bàn, sanh tử và hai thứ thân bình đẳng.

Trong mười nghĩa Vô thượng có hai mươi mốt phẩm, chín Vô thượng đầu có bảy phẩm:

  1. Dược thảo dụ
  2. Hóa thành. Đây có Vô thượng thứ hai, thứ ba.
  3. Ngũ bá đệ tử thọ ký.
  4. Hiện bảo tháp.
  5. An lạc hạnh.
  6. Dũng xuất.
  7. Thọ lượng ở đây có hai vô thượng thứ tám và thứ chín.

Trong bảy phẩm trên thì trừ phẩm thứ hai, thứ bảy, còn năm phẩm mỗi, phẩm là một Vô thượng. Phần kinh còn lại là Vô thượng thứ mười. Nghĩa là mười bốn phẩm đều là Vô thượng thứ mười, trong đó có hai lực:

  1. Pháp lực.
  2. Tu hành.

Lực pháp lực có ba phẩm:

  1. Phân biệt công đức.
  2. Tùy hỷ công đức.
  3. Pháp sư công đức.

Trong năng lực tu hành lại có bảy năng lực, hợp trong mười một phẩm.

  1. Trì lực có ba phẩm là Pháp sư, An lạc hạnh, và Khuyến trì.
  2. Nói lực có một phẩm là Như Lai thần lực.
  3. Hành khổ hạnh lực có một phẩm Dược vương.
  4. Giáo hóa chúng sanh hành khổ hành lực cũng một phẩm là Diệu âm.
  5. Hộ chúng sanh các nạn lực có hai phẩm là Quán Âm phổ môn và Đà-la-ni.
  6. Công đức thắng lực có một phẩm là Diệu trang nghiêm vương bổn sự.
  7. Hộ pháp lực có hai phẩm là Phổ Hiền và Chúc Lụy.

Mười Vô thượng sau là bảy dụ đầu. Ba bình đẳng còn lại gọi là còn lại ở trên. Cho nên trong luận này giải về bảy dụ ba bình đẳng đã nói: Tu-đa-la còn lại là nói nghĩa Vô thượng. Vô thượng thứ mười là còn lại của chín thứ Vô thượng ở trên gọi là còn lại bên dưới. Cho nên luận này giải thích nghĩa Vô thượng thứ mười rằng: Mười là thắng diệu lực Vô thượng phần kinh còn lại nói hai nghĩa còn lại.

  1. Là văn còn lại điều chưa hề nói.
  2. Nghĩa còn lại này trước tuy đã nói mà chưa hết, đối chiếu nghĩa trên lại có khác, nên nói là nghĩa còn sót lại.

Nay sợ văn rườm ra nên lược qua không nói. Trở xuống trong phẩm sau mỗi đều giải thích sơ lược. Bảy phẩm là: Dược thảo, Hóa thành, Ngũ bá đệ tử, Hiện bảo tháp, Phẩm trì, An lạc hạnh, Thọ lượng. Hoặc văn hoặc nghĩa đều trùng nói lại. Bảy dụ đó nghĩa là phàm phu hữu học là có phiền não, có bảy thứ tăng thượng nhiễm mạn, để đối trị đây mà nói bảy thí dụ này. Như chấp vào hóa thành cho là thành, thật sự tức là mong cầu Tam-ma-bạt-đề thế gian là diệt chân thật, chấp vô học đã đủ không mong cầu nữa. Người Nhị thừa vô học gọi là người không có phiền não. Có ba thứ pháp chấp nhiễm mạn, tức các pháp kiến, Tammuội, giải thoát mà vọng chấp cho là Nhị thừa, tuy không gọi là nhiễm mà hồi tâm rồi thì gọi là Bồ-tát. Vì pháp chấp nhiễm nên Bồ tát này gọi là nhiễm, không có phiền não mạn. Luận nghĩa ngược lại, ý cũng như thế. Nghĩa Vô thượng ở trong Đại thừa có thể nói là có, các thừa khác thì không. Do đây mà Ba thừa nói có khác nhau, giáo lý hạnh quả đều có khác. Luận dẫn lời Phật nói: “Không lìa thân ta là nghĩa Vô thượng.” Trong Nhị thừa không nói nghĩa này nên không thể hiểu. Do đây, Vô thượng tức là giáo, lý, hạnh qủa nhất Nhất thừa. Tùy theo thích ứng mà phối hợp các phẩm. Bảy thứ chúng sanh có đầy đủ phiền não. Thứ nhất là người cầu thế lực khởi lên điên đảo bậc nhất, cầu công đức tăng thượng mạn. Vì phiền não lừng lẫy ở thế gian mà cầu cảnh đẹp quả báo trời người. Vì hạng này nói thí dụ nhà lửa. Được giàu sang tự tại thì gọi là thế lực. Nghĩa là phàm phu cầu diệu cảnh trời người này. Ngoại quả cùng nội quả báo. Không biết là phiền não như lửa cháy dữ dội. Vì đây mà nói dụ nhà lửa. Thế lực phiền não của trời người thiêu đốt như nhà lửa. Thế tôn này nói có hai xe: Tức đối người có hàng gốc lành Tam muội Bồ-đề thế gian mượn tạm giải cứu để cho ra khỏi nhà lửa. Sau đó dần dần dắt dẫn vào Niết-bàn Đại thừa. Cho nên luận nói người thứ nhất là hạng gốc lành Tam muội công đức ở thế gian, dùng phương tiện khiến họ ưa thích, sau đó dẫn nhập Niết-bàn. Trong đây không nói trong đạo giải thoát. Chánh chứng sanh không trạch diệt, chân trí gọi là Tam muội thế gian. Tạm giải cứu đây là xe nai xe hươu chẳng phải là thể của xe. Từ quán kia về sau nhập định thế gian quán các sở chứng trước đã dùng. Tâm thô cho nên không thấy chánh trí và sanh không như, bèn thấy hoặc nghiệp, khổ sau không sanh, tâm liền biến chuyển, thành tưởng giải thoát Niết-bàn. Chánh trí sở chứng căn bản trong quán mà đắc trạch diệt. Ở dưới gọi là hóa thành mà không nói mượn quán sở biến ra thành, nên không dứt khổ. Nay nói thời sau ở giai vị hậu đắc trí mà năng biến tưởng giải, gọi là gốc lành Tam muội của thế gian, khinh an, ưa thích các thứ công đức tạm gọi là xe dê xe hươu, tạm gọi là chủng trí, cho chúng “dạo chơi” sau đó, hóa độ Nhất thừa mới khiến nhập Phật Đại Niết-bàn, đến địa vị Phật. Có thể nhập vào xe trâu, tức là nhị trí, tức là Bồ-đề. Chỗ nhập của Niết-bàn tức là Đảo châu báu. Hóa thành là dụ cho người Nhị thừa chấp vào hoặc khổ kia không sanh nên cho là Niết-bàn. Lý thật Niết-bàn trung đạo giải thoát là chánh trí chứng. Cho nên nói nhập hóa thành, các người đi buôn đều mỏi mệt. Các trí trước sau đều không rõ được tất cả pháp. Thật chẳng phải là chủng trí. Nói xe dê, xe hươu có tên mà không thấy bước lên. Nói gốc lành Tam muội thế gian này là cho để dạo chơi. Nhị thừa chấp vào đây cho là hai xe, thật chẳng phải là thể của xe. Như Nhị thừa là nơi sẽ khởi lên bốn điên đảo. Chánh quán thì không như vậy. Sau mới tưởng giải thoát duyên này mà khỏi chấp. Hóa thành cũng vậy. Nay vì đối trị mà cầu người thế lực, điên đảo cầu công đức tăng thượng mạn. Nói thí dụ xe này cho nên có phẩm này. Các nghĩa khác đều giải thích trong phẩm.

Giải thích tên phẩm: Thí là so sánh là giống loại như. Trong Ngọc Thiên chép: So sánh giống như lấy tướng làm rõ, dụ là mở bày cho rõ. Lại nói làm rõ để can ngăn. Nay nêu cận tích thế gian so sánh với chỗ thâm sâu của xuất thế, để mở bày những điều chưa nói dùng làm rõ những điều còn mê trước. Làm rõ thí của dụ gọi là phẩm Thí dụ. Hoặc thí tức là dụ nên gọi là phẩm Thí dụ.

Giải thích sự chướng ngại:

1- Hỏi: Ở đây dùng thí dụ để hiểu lý gọi là phẩm Thí dụ, trước dùng thẳng pháp làm rõ lẽ ra gọi là phẩm Pháp?

Đáp: Lí trước sau nêu, thật ra cũng nên như thế. Đặt tên phẩm khác nhau đâu nói hết được lý do. Chỉ vì phương tiện trong phần pháp nói là nghĩa riêng, còn thí dụ trong nghĩa so sánh là tên chung. Chung, 752 riêng đã khác thì được gọi là theo riêng, chưa thể cùng nêu.

2- Hỏi: Vì sao bảy dụ chỉ ở đây là có tên phẩm thí dụ những dụ khác thì có tên khác.

Đáp: Dụ tuy có bảy mà đây là đầu tiên. Tuy nêu tên chung mà cũng là tên khác, các phẩm khác không thể chỉ gọi là thí dụ.

3- Hỏi: Hạng trung căn lãnh, ký, nêu riêng Tín hiểu. Hàng thượng căn được thọ ký theo lý lẽ ra có phẩm riêng. Vì sao đầu phẩm này nói về sự thọ, ký của ngài Thu Tử?

Đáp: Hàng trung căn, được thọ ký văn rộng nghĩa dài, cho nên khai riêng. Thu Tử không như vậy nên dựa vào phẩm này nói. Lại nữa, nhân ngài Thu Tử được thọ ký mà khải thỉnh, Phật mới trình bày thí dụ so sánh. Cho nên dựa vào đầu phẩm này mà nói về được thọ ký.

-Kinh: “Bấy giờ Xá-lợi-phất cho đến được điều chưa hề có cho đến”

-Tán: Phẩm này đại văn chi làm hai:

  1. Ngài Thu Tử nghe pháp lãnh hội vui mừng thuật lại mình thành tựu được thọ ký.
  2. Sau Phật rộng dùng thí dụ hóa độ hạng trung căn.

Văn đầu thuộc châu thứ nhất pháp nói trước nói về Nhất thừa. Châu đầu có bốn, trong phần pháp nói ở trên đã nói rồi, từ đây trở xuống là châu thứ hai ngài Thu Tử nghe pháp lãnh giải tự trách rồi sanh tâm vui mừng, trong đây có hai phần: Văn xuôi và kệ tụng.

Văn xuôi chia làm hai:

  1. Nghe pháp vui mừng.
  2. Giải thích lý do vui mừng.

Theo thế tục giải thích thì gọi là dũng khiêu (kiểng chân lên mà nhảy), chỉ sự vui mừng cực độ. Nghe được chân đạo khởi lên quyền pháp cho nên hớn hở vui mừng tức vừa ý mong cầu vui mừng. Đây biểu thị phát đại tâm nên liền đứng dậy. Tâm khế hợp với lời Phật nói nên chấp tay nhất tâm vì thỉnh lợi ích, chiêm ngưỡng tôn nhan bày tỏ bổn hoài của mình cho nên nói bạch Phật.

Tiếng pháp tức là ngôn giáo Đại thừa, từng chưa nghe được điều chưa hề có. Lại do ba nghĩa mà vui mừng:

  1. Nghe Phật nói pháp tâm an như biển. Biết Phật không phải ma cho nên vui mừng.
  2. Nghe pháp nhất thật ngày nay mà hiểu pháp ba quyền ngày trước. Ba là do một mà có cho nên vui mừng.
  3. Nghe Phật nói pháp nói một ngàn hai trăm vị La-hán cũng sẽ thành Phật, cho nên vui mừng.

Kinh: “Vì sao cho đến vô lượng tri kiến.”- Tán: Giải thích lý do vui mừng. Có bốn:

  1. Vì mất đại pháp nên than thở.
  2. Ở bậc Tiểu thừa mà khởi vui mừng.
  3. Vui mừng vì nay nghe pháp mà não buồn hết.
  4. Biết Phật tử mà đạo thành.

Đây nói phần đầu.

Dự là nhập là then chốt. Ngọc Thiên nói: trước dự làm, bị là dự là sớm, thiết vận nói nếu dệt làm dự (bộ tượng), lễ ra viết dự (bộ hiệt), nhĩ nhã viết Dự bộ Hiệt, đãi và dữ. Cổ văn là dữ. Tả truyện chép: Công phải là dữ.

Cảm thương là kích động, than thở. Xưa nghe Bồ-tát được các việc thọ ký như thế mà ta không được dự vào. Xưa nghe Phật thọ ký mà không được thọ ký, cho nên cảm thương than thở mình mất đi năm thứ tri kiến của Như Lai. Hoặc mất trí tánh, tri kiến trí tướng của Như Lai.

-Kinh: “Thế tôn! Con thường ở chỗ một mình cho đến mà tế độ.”

-Tán: Ở bậc Tiểu thừa mà khởi lời than. Có hai: Đầu tiên than trụ ở tiểu. Sau tự trách thân.

Thường tức là hằng. Mỗi có nghĩa là sác, là thường, chẳng phải từ nhất định, nhập nghĩa là chứng, pháp tánh là vô ngã chân như. Những người kia cùng chứng, ta cùng Bồ tát đều có thể chứng nhập Vô ngã chân như. Vì sao Như Lai chỉ dùng Tiểu thừa mà được độ thoát. Hoặc tánh gọi thể. Đồng nhập vào thể Phật pháp.

-Kinh: “Lỗi của chúng con chẳng phải là của Thế tôn “

-Tán: Đây là lời tự trách mình. Có ba: Đầu tiên nêu ra, kế là giải thích, sau là thành tựu ở đây nói phần đầu.

Cửu là lỗi là tội. Người làm việc trái ngược thì gọi là lỗi.

– Kinh:”Vì sao cho đến mà được độ thoát.”

– Tán: Đây giải thích lý do.

Sở nhân là nhân hạnh thành tựu Đại Bồ-đề. Nghĩa là bốn hạnh Bồ tát ở Thất địa.

  1. Bồ-đề phần;
  2. Ba-la-mật;
  3. Các thần thông;
  4. Thành tựu hữu tình.

Cho nên ngài Ca-diếp nói: Đối với pháp Bồ-tát, du hý thần thông, tịnh cõi nước Phật thành tựu chúng sanh mà tâm không ưa thích, thế nên nhân Chánh giác tức là bốn hạnh này.

Đãi nghĩa là trông mong theo, khao khát, hi vọng, ngài Thu tử nói: Nếu chúng con mong đợi, khao khát, hi vọng nhân Chánh giác Vô thượng thì Phật chắc chắn dùng pháp Đại thừa mà thấy chúng con để độ thoát, chỉ cho chúng con ở trong nhân Đại thừa mà không sanh lòng mong cầu cho nên Phật không dùng pháp Đại thừa để cứu thoát. Hoặc nhân nghĩa là tâm Bồ-đề lược có ba:

  1. Nhàm chán xa lìa pháp hữu vi.
  2. Cầu Bồ-đề.
  3. Rất nghĩ nhớ chúng sanh.

Tức là trụ như thế, tu hành như thế, là hàng phục tâm như thế.

-Kinh: “Nhưng chúng con cho đến suy nghĩ chứng lấy lấy .”

-Tán: Đây là thành tựu lời tự trách. Nhưng do chúng con không hiểu phương tiện của Phật, tùy nghi mà nói các pháp. Đầu tiên nghe liền tin liền thọ trì suy nghĩ chứng lấy, cho nên Phật không dùng pháp Đại thừa để độ. Đây là do lỗi của chúng con.

-Kinh: “Thế tôn cho đến rất được an ổn.

-Tán: Hôm nay nghe pháp vui mừng dứt hết phiền não.

Khắc nghĩa là chuyên. Từ xưa đến nay tu Tiểu thừa chuyên tự hối hận trách mình không cầu Đại thừa. Lại nghi mình không có phần đắc Bồ đề nên không sanh ưa thích tiến tới. Hoặc tự thân đã được giải thoát không khác với Phật, nghe Phật nay nói pháp tự đắc rất sâu khó hiểu. Người Nhị thừa không tỏ ngộ nghi Phật là ma. Nay nghe nói về nhất thật Ba thừa biết xưa tu Tiểu là nhân của Đại cho nên hối hận đoạn dứt, biết mình cũng có phần Bồ-đề thành Phật, đắc giải thoát trước là phương tiện của Phật, vì thế nghi cũng đoạn dứt, tâm khai ý giải thân ý thư thái, an nhiên. Đã không nghi hối nên rất an ổn, có nghi hối thì thân tâm thường không an ổn làm sao được thư thái, an nhiên ?

Hỏi: Nghi sanh ra phân biệt. Nhập Kiến liền dứt trừ. Hối phần nhiều có ưu. Lìa dục liền xả, sao ngài Xá-lợi-phất đến châu thứ hai mới trừ.

Đáp: Phiền não Nghi thì Dự lưu đã hết phiền não là bạn với hối, lìa dục đã dứt. Nay loại pháp chấp dị thục sanh nghi như A-la-hán nghi bôn Mặc diệm, nghi ở sự ác tác dị thục sanh nghi gọi là hối chưa rõ ràng ở lý. Thể của ác tác này tức là gốc lành quý (tàm quý), khinh chống lại sự bạo ác. Hoặc là nhàm chán. Tức một phần của tuệ gồm có vô tham. Cũng tức là tâm tâm sở tỉnh sát, chỉ vì hối thì tánh tướng sẽ thô động.

Lìa dục xả, lìa dục có hối chắc chắn là ác tác, nói tên hối là từ quả đặt tên, đâu có lìa dục rồi mà không nhàm chán ác!

-Kinh: “Ngày nay mới biết cho đến được pháp phần của Phật”.

-Tán: Biết là Phật tử mà đạo thành.

Du-già quyển tám mươi bốn có sáu câu: “Nghĩa là Đại sự tử từ bụng Phật sanh ra, từ miệng Phật sanh ra từ pháp Phật hóa, từ Phật được hóa sanh, đắc pháp phần bình đẳng”. Kinh Thắng-man chép: Được của còn lại của Phật, đây có bốn câu.

Luận Du-già giải thích: Đầu tiên là câu chung. Năm nghĩa sau là câu riêng. Từ bụng sanh ra là để phân biệt con dị sanh thấp kém. Đắc trí tuệ Thánh đạo từ bụng Phật đích thân sanh ra. Chẳng phải như phàm phu là con nuôi của Phật. Tất cả chúng sanh đều là Phật tử. Nếu không đích thân sanh thì không phải từ bụng Phật sanh ra. Từ Phật pháp sanh ra, mới thật là chân sanh. Lại Nhị thừa chẳng phải từ mẹ sanh con mà như người hèn hạ sanh con. Nên kinh dưới nói: Nếu như con ta, Bồ-tát Sơ địa sanh vào nhà Như Lai mà chứng pháp giới, đó là con từ mẹ sanh ra. trước chẳng phải từ mẹ sanh ra thì gọi là không phải từ bụng sanh. Nay phát đại tâm, sẽ thành Bồ tát trong pháp giới nói chung là từ bụng sanh.

Từ miệng Phật sanh ra đó là từ pháp âm của Phật nói mà sanh ra. thể tức là văn tuệ, duyên với giáo mà sanh ra.

Từ pháp Phật sanh: Như lý tác ý từ chỗ tùy pháp hành pháp mà sanh. Thể thuộc về hai Tư và Tu tuệ lý, duyên với giáo tùy thích ứng sanh. Phật pháp sở hóa đó là từ pháp thân hiển bày mà lập pháp tương tợ.

Pháp thân lộ là hai nhân phước tuệ của Bồ-tát. Ta cũng như thế. Từhai nhân đó mà thành lập ra, pháp thân có hai: Hai nghĩa Tiểu thừa Đại thừa đều khác nhau. Đắc các pháp phần cho đến đó là thọ dụng pháp tương tợ tài bảo pháp vô lậu. Pháp là pháp bảo. Hoặc là bảy Thánh tài là tín, giới, văn, xả tuệ, tàm quý v.v… phần là dự phần là phần loại. Chư Phật Bồ-tát có thể dùng pháp tài, nay con cũng vậy, cùng tương tợ kia cũng đắc thọ dụng các phần khác của pháp bảo vô lậu. Tùy theo thích ứng như vị nhị thừa so với phàm phu đã dạy là một lớp, thật là Phật tử. Nay làm Bồ-tát so với vị Nhị thừa lại dạy là một lớp, bình đẳng thật là Phật tử có thể như lý mà giải thích. Kia lại giải thích: Các câu nói như thế là nói lên tăng thượng sanh tròn đầy và pháp tương tợ như cha, sanh tròn đầy. Trong năm câu sau thì ba câu trước là tăng thượng tròn đầy. Hai câu sau pháp tương tợ như cha sanh ra tròn đầy. Tăng thượng sanh ra tự thể thắng sanh.

Pháp tương tợ như cha sanh ra là mặc di thể của cha, dùng gia tài của cha đều là tương tợ. Trong tăng thượng sanh thì câu đầu là ngăn ngừa lỗi. Chánh trí từ bụng Phật sanh ra, ngăn ở trong thế gian sanh vào bào thai xấu ác.

Câu thứ hai là ngăn sanh ra từ tinh huyết bất tịnh. Từ miệng Phật sanh ra chẳng phải lấy tinh huyết làm tự thể.

Câu thứ ba là ngăn dục tham chẳng phải từ chánh pháp sanh ra.

phàm phu do từ giúp nhuận của dục tham mà sanh ra, chẳng phải sanh ra từ chánh pháp.

Câu thứ tư là hiển pháp tương tợ tự thể. Từ pháp thân lộ mà được thành lập nối dõi tự thể. Pháp thân thù thắng, như nối tiếp chủng tánh Bà-la-môn thành lập sự tôn quý.

Câu thứ năm: Thọ dụng pháp tương tợ. Thọ dụng pháp tài của Phật vô lậu như thọ dụng tài sản cha mẹ ở đời. Trong đây có bốn điều liên quan đến câu thứ hai. Hợp hóa và sanh chung thành một câu. Xưa trụ vào quyền chẳng phải chân Phật từ. Nay cầu vị thật mới là từ bụng Phật sanh. Đây là đại ý của văn kinh này.

Nhiếp Luận chép: Chẳng phải Nhị thừa là con của gái vô trí thấp kém. Lại có nghĩa rằng: Riêng phối hợp bốn đoạn trên lãnh hội bốn nghĩa: Khai, thị, ngộ, nhập ở trước. Như tiếp tìm hiểu kỹ thì thấy về lý chưa hẳn như thế!

– Kinh: “Bấy giờ Xá-lợi-phất cho đến lưới nghi đều đã trừ.” – Tán: Hai mươi lăm hàng tụng rưỡi, chia làm hai:

  1. Hai hàng rưỡi tụng nêu ra.
  2. Hai mươi ba hàng tụng giải thích.

Phần một lại chia hai: Một hàng nêu ra được điều chưa hề có tâm vui mừng dứt nghi.

Một hàng rưỡi giải thích được điều chưa hề có, nói ưu hối hết. Xưa nghi tự thân mình không thể thành Phật. Nay nghe được thành Phật nên nghi trừ. Nghi làm tổn hại chúng sanh khó thể xa lìa nên thí dụ là lưới nghi.

-Kinh: Xưa nay nhờ Phật dạy cho đến nghe cũng trừ ưu não”

-Tán: Giải thích: Đắc điều chưa hề có, rõ ưu hối hết, có từ xưa đến nay nhờ Phật giáo hóa. Nghĩa là trụ Tiểu thừa mà không được Đại thừa. Cho nên, ưu hối. Nghe Phật nói kinh này ngày nay mới biết là mình không mất pháp Đại thừa. Do đây mà hối hết, pháp âm Phật ít có, diệu dụng có thể trừ hết phiền chướng ưu não của chúng sanh. Con tuy lậu tận mà nay nghe pháp cũng hàng phục pháp chấp ưu não. Ưu ở đây là lo không thành Phật.

  1. Tức là lo (ưu) pháp chấp, lìa dục không bo. Như Tất-lan-đàphiệt-mắng lời thô ác huân tập pháp chấp không bỏ. Đồng như nghi hối trước tùy ứng cũng vậy.
  2. Thật là ưu đó: Tức ác tác đều có nhàm chán xả thọ. Vì tên ưu nói hoặc là thiện căn ưu , vô ký thuộc loại pháp chấp, lìa dục không bỏ. Ưu tương ưng với não. Não tức là ưu hối chẳng phải phiền não.

-Kinh: “Con ở trong hang núi, cho đến sao lại tự khi mình” cho đến

-Tán: Các tụng này giải thích phần trước, chia ra làm bốn:

Hai hàng tụng rưỡi đối với Tiểu thừa mà than thân.

-Năm bài rưỡi tụng mất Đại pháp mà khởi trách.

-Mười bốn hàng kế là tụng vui mừng nghe pháp mà hết não.

Một hàng sau tụng biết là Phật tử mà đạo thành. Cùng với Văn xuôi trước thì trước sau khác nhau.

Trong phần đầu có hai: Một hàng tụng rưỡi tụng về than ở vị Tiểu thừa. Một hàng sau tụng việc đã than. Đây là phần đầu.

Ô hô là lời than thở. “Sao lại tự khi mình”; là khinh thường. Than mình tiểu trí trụ chứng tiểu quả, không cầu vị Đại. Cho là mình không có phần nên gọi là tự khinh.

-Kinh: “Chúng ta cũng Phật tử cho đến giảng nói Vô thượng đạo.”

-Tán: Một hàng tụng việc đã than. Pháp vô lậu là pháp tánh chân như. Nhập nghĩa là chứng, lý tuy đồng chứng đều gọi là Phật tử. Vô trí có thể tương lai thành Phật vì chúng sanh mà giảng nói chánh đạo Đại thừa.

-Kinh: “Sắc vàng ba mươi hai tướng sắc vàng cho đến mà không được việc này cho đến”

-Tán: Năm hàng rưỡi tụng than thở vì mất Đại pháp, chia làm hai:

-Ba hàng rưỡi tụng chỗ mất Đại pháp.

-Hai hàng tụng sau tự than thở.

Trong phần đầu lại có hai: Hai hàng tụng đức trang nghiêm trong ngoài. Một hàng rưỡi sau tụng về đức danh lợi cao rộng. Trong hai hàng tụng về đức lại chia làm hai: Một hàng tụng đầy đủ tướng đức hàng phục ma. Một hàng sau tụng đầy đủ đức bất cộng .

Ba mươi hai tướng sắc vàng là: Thân Phật màu vàng tía sắc vàng.

Ba mươi hai tướng đó là theo kinh Đại Niết-bàn quyển ba trăm tám mươi mốt.

Phật bảo Thiện Hiện: Thế nào là ba mươi hai tướng của Như Lai.

1. Dưới chân có tướng bằng phẳng, khéo léo an trụ giống như đáy hộp. Đất tuy cao thấp mà chân vẫn tùy theo đó mà bước lên thản nhiên an lành.

2. Dưới chân Thế tôn có hình bánh xe ngàn căm, các tướng vành trục đều đầy đủ.

3. Tay chân Phật đều mềm mại, như Đô-la-miên hơn hẳn tất cả.

4. Tay chân Thế tôn ở giữa các ngón, đều có mạn lưới như chim nhạn. Các đường sắc vàng giao nhau xớ văn như là hình lụa.

5. Tay chân Thế tôn có các ngón thon dài đầy đủ rất đáng ưa thích.

6. Gót chân Như Lai rộng dài tròn đầy. Cùng mu bàn chân đầy đặn hơn hữu tình khác.

7. Mu bàn chân cao lên đầy đặn, mềm mỏng tốt đẹp gót tương xứng.

8. Hai bắp vế tròn đầy, như của nai đầu đàn tiên Ế-ni-da.

9. Hai tay dài quá gối.

10. Âm tướng ẩn kín, như long mã, như voi đầu đàn.

11. Các lỗ chân lông thường ánh ra sắc sanh, trên mỗi lỗ đều có một sợi lông mềm mại xoay về bên phải.

12. Tóc lông thẳng đứng uốn về bên phải, mềm mỏng màu sanh biếc, toàn thân sắc vàng người thấy đều yêu thích.

13. Da mỏng mịn, các nước dơ không bám vào.

14. Da thân đều màu sắc vàng ròng, ánh sáng tỏa chiếu sáng diệu như đài vàng, đầy đủ các thứ báu trang nghiêm, rất thích nhìn.

15. Hai chân hai tay cổ và hai vai đều đầy đặn.

16. Vai cổ tròn đầy đặc biệt.

17. Hai nách đầy đặn.

18. Dung nghi đẹp đẽ trang nghiêm.

19. Thân tướng trang nghiêm cao lớn.

20. Thể tướng rộng dài cân đối, vùng quanh thân tròn đầy như Nặc-cù-đà.

21. Oai nghiêm như sư tử đầu đàn.

22. Ánh sáng thường phát ra từ khuôn mặt chiếu xa một tầm.

23. Răng đủ bốn mươi cái bằng đều sạch, khít khao, chắc chắn và trắng như tuyết kha.

24.  Bốn răng cửa sạch trắng đều nhọn.

25. Nước bọt có mùi thượng vị, dẫn thẳng tới cổ họng làm cho gân cốt trong cơ thể đều có mùi thượng vị. Các bệnh gió nhiệt không thể xâm nhập.

26. Lưỡi rộng mỏng, sạch, dài có thể che trùm khuôn mặt đến tận mí tóc. Lời nói hòa nhã, tùy chúng nhiều ít đều được nghe như nhau.

27. Giọng nói trong trẽo vang xa như trống trời, lời lẽ nhỏ nhẹ như giọng Tần-già.

28. Mí mắt như trâu đầu đàn, màu sanh biếc ngay thẳng không lẫn lộn.

29. Tròng mắt sanh trong sáng, phân minh rõ ràng

30. Mặt tròn như trăng đầy, tứong lông rõ sạch như cung tên của Thiên đế.

31. Giữa hai đầu chân mày có sợi lông trắng, mềm mại xoay về bên phải, phát ra ánh sáng trong sạch hơn cả tuyết kha.

32. Trên đỉnh đầu có cục thịt nổi cao lên như lọng trời.

Thiện Hiện! Đó là ba mươi hai tướng của Thế tôn.

Y theo văn kinh nói kệ chung rằng:

Vòng lưới hoa văn nhuyễn

Mu bàn chân đầy đặn

Chân lông đẹp nhuận trơn

Da bảy báu vai đầy.

Bàn chân rộng bằng phẳng

Răng đủ như sư tử

Răng, vị, lưỡi, âm, mi

Mắt có hào tướng che. Nếu theo Du già thì khác với ở đây, trong Du-già là nói nghiệp của nhân, sợ văn rườm rà nên thôi, như văn ấy nêu nói:

Gót chân tròn bằng đầy

Màng lưới, vế không lớn

Thế thân trên ánh sáng

Sanh xương vàng bảy chỗ

Vai sư tử bằng thẳng

Răng đủ không hở trống

Hàm rộng, vị trong trẻo

Tướng đảnh như trâu chúa.

Đây đều là lấy chỗ nương của mắt, tai, bốn căn của thân nam và thệit căn làm thể. Mười lực giải thoát như trước đã giải thích. Ngài Thu 70 tử tự than đồng chung một pháp Phật mà không được việc này. – Kinh: “Tám mươi loại diệu tốt cho đến mà ta đều đã mất.” – Tán: Tốt đẹp đầy đủ bất cộng đức. Tám mươi tướng đẹp.

Kinh Bát-nhã chép: Phật bảo Thiện Hiện: Thế nào là tám mươi vẻ đẹp ứng Chánh Đẳng giác của Như Lai? Này Thiện Hiện! Đó là:

  1. Móng tay thon dài, mỏng bóng như hoa đồng đỏ.
  2. Ngón tay ngón chân thon thẳng, dài mềm mại, xương không nổi lên.
  3. Tay chân xứng nhau, các ngón khi khép lại đầy kín.
  4. Tay chân sáng bóng tươi hồng như hoa sen.
  5. Xương cốt chắc chắn ẩn sâu không hiện.
  6. Hai mắt cá ẩn.
  7. Bước đi thẳng tới trước, khoan thai oai nghi như rồng, voi đầu đàn.
  8. Bước đi uy nghiêm ngay thẳng như sư tử vương.
  9. Bước vững vàng như trâu đầu đàn.
  10. Đi đứng nằm ngồi uyển chuyển thanh nhã như ngỗng đầu đàn.
  11. Quay nhìn đều bên phải như rồng voi nhấc mình khi di chuyển.
  12. Các khớp tay chân đều đặn tròn đẹp.
  13. Đốt xương liền lạc như rồng cuộn.
  14. Đầu gối tròn đầy, khéo an bố chắc chắn tròn đầy.
  15. Chỗ kín có hoa văn uy thế diệu hảo tròn đầy thanh tịnh.
  16. Các chi thân tròn mềm sạch tịnh, không bám bụi trần.
  17. Thân hình mạnh khoẻ không yếu đuối.
  18. Các chi cứng rắn đầy đặn, khéo phụ thuộc nhau.
  19. Các chi an định, không thô động, tròn đầy không hư hoại.
  20. Thân như vị tiên vương, toàn thân đoan trang sáng sạch.
  21. Ánh sáng bao quanh thân thường chiếu sáng, khi đi thường tự chiếu sáng.
  22. Bụng vuông vắn, không thiếu sót, các tướng trang nghiêm, mềm mại.
  23. Rún xoay bên phải, sâu xuống lại tròn đẹp thanh tịnh.
  24. Rún đầy không lõm không lồi, vòng quanh rất đẹp.
  25. Da thịt không ghẻ lở.
  26. Bàn tay mềm mại, lòng bàn chân bằng phẳng.
  27. Chỉ tay sâu dài, rõ ràng.
  28. Môi đỏ thắm bóng mềm. Như trái tần-bà, trên dưới xứng nhau.
  29. Mặt không dài không ngắn, không lớn không nhỏ, trang nghiêm vừa vặn.
  30. Lưỡi rộng dài mềm mỏng. Như mầu đồng đỏ
  31. Âm thanh oai dũng, trong suốt vang xa, như voi đầu đàn rống.
  32. Âm vận tốt đẹp như tiếng vang từ hang sâu.
  33. Sống mũi cao thẳng, lỗ kín.
  34. Răng ngay thẳng đều đặn trắng bóng.
  35. Răng trắng sáng, tròn bén.
  36. Mắt tròng đen trắng rõ ràng.
  37. Tướng mắt dài rộng, giống như cánh hoa sen sanh.
  38. Lông mi trên dưới ngay thẳng, khít khao không bạc.
  39. Hai chân mày dài nhuyễn mịn, không bạc.
  40. Hai mi sanh biếc như màu lưu ly.
  41. Hai chân mày xa mắt và cong như trăng lưỡi liềm
  42. Vành tai rộng lớn, trái tai dày thòng xuống.
  43. Hai vành tai bằng nhau, không khuyết tật.
  44. Dung nghi khiến người nhìn thấy đều sanh lòng kính mến.
  45. Trán rộng bằng phẳng, hình dáng đẹp đẽ.
  46. Nửa trên thân ròn đầy như sư tử đầu đàn, oai nghiêm không gì so sánh.
  47. Tóc dài đen sanh, dày không bạc.
  48. Tóc thơm thanh khiết, nhuyễn bóng xoay về bên phải.
  49. Tóc suôn không rối, cũng không đan nhau.
  50. Tóc cứng, không bị dứt rụng.
  51. Tóc trơn bóng bụi bặm không dính.
  52. Thân hình đầy đặn vững chắc, hơn Na-la-diên
  53. Thân cao lớn ngay thẳng.
  54. Các khiếu thanh tịnh tròn đẹp.
  55. Có sức mạnh hơn người.
  56. Thân tướng ai cũng thích nhìn.
  57. Mắt như trăng tròn mùa thu.
  58. Dung mạo thư thái, khi nói không ngoái nhìn ra sau.
  59. Da mặt trơn láng không vết nhăn.
  60. Nước da sạch sẽ không mùi hôi bẩn.
  61. Các lỗ chân lông thoảng ra hương thơm.
  62. Miệng tỏa mùi hương thanh khiết.
  63. Thân tướng đầy đặn đẹp đẽ.
  64. Lông trên mình sạch sẽ sanh biếc như khổng tước
  65. Pháp âm tùy chúng ẩn hiện không sai.
  66. Tướng trên đỉnh không ai nhìn thấy.
  67. Đường khu ốc trên ngón tay chân đều rõ ràng .
  68. Lúc đi chân cách đất, bốn ngón tay mà hiện dấu chân
  69. Tự giữ gìn không nhờ người che chở.
  70. Uy đức bao trùm tất cả. Người ác nhìn thấy đều vui mừng. Người bị làm sợ hãi được an ổn.
  71. Âm thanh tùy theo chúng hữu tình. Không cao không thấp, ý hòa nhã vui vẻ nói.
  72. Chỉ dùng một âm ngữ nói pháp mà tất cả chúng hữu tình đều lãnh hội.
  73. Âm thanh vừa với sự tiếp nhận của mỗi người.
  74. Nói pháp đều tùy theo thứ lớp, không nói lời bất thiện.
  75. Quán xét các loài hữu tình mà khen việc thiện, chê việc xấu mà không có yêu ghét.
  76. Làm việc gì Phật cũng trước quán sát rồi mới làm khuôn phép đầy đủ để người biết sự thiện tịnh.
  77. Tướng tốt của Phật, tất cả hữu tình không thể thấy hết.
  78. Xương đỉnh cứng chắc tròn đầy.
  79. Dung nhan thường trẻ trung không già.
  80. Tay chân và trước ngực đều có tướng tốt xoay vần, có đường hoa văn, sắc loại màu son.

Thiện Hiện! Đó là tám mươi tướng tốt. Như Lai đắc quả Chánh đẳng Chánh giác thành tựu tám mươi vẻ đẹp này. Thân tướng Như Lai tỏa sáng chiếu khắp thế giới tam thiên chẳng nơi nào không sáng. Nếu khi tác ý thì chiếu khắp vô lượng vô biên vô số thế giới. Nhưng vì lòng từ bi thương xót chúng hữu tình, nên Phật thu nhiếp ánh sáng ở trên mặt, chiếu xa một tầm. Nếu tỏa sáng ra cả thân thì ánh sáng mặt trời, mặt trăng không còn tác dụng, chúng sanh sẽ không còn biết ngày đêm năm tháng giờ giấc, không thể thành tựu các công việc. Âm thanh của Phật vận dụng có thể vang xa khắp Tam thiên Đại thiên thế giới. Nếu tác ý thì sẽ biến khắp cả vô lượng vô biên vô số thế giới. Nhưng vì muốn lợi lạc chúng hữu tình. Nên tùy theo lượng mà không thêm không bớt. Thiện Hiện! Công đức như thế lợi ích rất cao quý, khi Ta còn hành đạo Bồ-tát, tu Bát-nhã ba-la-mật đã thành tựu được việc này. Nay tướng tốt đã trang nghiêm tròn đầy. Tất cả chúng hữu tình đều khen ngợi vui mừng được an lạc lợi ích thù thắng. Này Thiện Hiện! Như thế Đại Bồtát hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa. Có thể dùng hai thứ tài pháp bố thí cho tất cả chúng hữu tình. Thật là pháp rất ít có. Ba mươi hai tướng do hành trì năm thứ tu:

  1. Phát tâm.
  2. Thời gian dài.
  3. Không gián cách.
  4. Ân trọng.
  5. Cảm đắc quả Vô dư.

Như luận Du-già quyển ba mươi bảy chép: Mười tám pháp Bất cộng dùng năm môn để phân biệt:

  1. Danh;
  2. Thể;
  3. Hành tướng;
  4. Khác nhau;
  5. Các môn.

Danh là:

  1. Thân không lầm lỗi.
  2. Không nói lời hung bạo.
  3. Không có các tưởng.
  4. Không có tâm bất định.
  5. Không quên mất niệm.
  6. Không bất trạch xả.
  7. Dục vô giảm.

.Niệm vô giảm.

. Tinh tấn vô giảm.

  1. Định vô giảm.
  2. Tuệ vô giảm.
  3. Giải thoát vô giảm.
  4. Thân nghiệp thực hành theo trí tuệ .1. Ngữ nghiệp thực hành theo trí tuệ .

15. Ý nghiệp thực hành theo trí tuệ .

1. Biết đời quá khứ, không trước không trở ngại.

17. Biết đời vị lai không mê đắm, không trở ngại.

1. Biết đời hiện tại không mê đắm, không trở ngại.

Đây là dùng tám pháp: Tư, tưởng, dục, thắng giải, niệm, định, tuệ, cần làm thể. Trong sớ Vô cấu xưng quyển thứ hai giải thích rõ ràng. Người Nhị thừa không có pháp bất cộng .

Luận chép: Hai bài kệ trên nói về nghĩa gì? Xá-lợi-phất tự trách

mình không gặp chư Phật. Không đến chỗ Phật nghe pháp. Không cung kính cúng dường chư Phật, không làm việc lợi ích chúng sanh, chưa đắc được pháp đã lui sụt, thế nên Xá-lợi-phất tự trách thân mình.

Trên là giải thích ý tự quở trách. Ở dưới là nói tự nhắc lại giải thích ý tự trách và văn kinh tụng. Hợp cả hai lại giải thích thì có tám câu. Trong đó năm câu giải thích lời tự trách. Ba câu còn lại giải thích nghĩa kinh tụng.

Không thấy: Là không thấy tướng bậc Đại nhân Chư Phật Như Lai mà sanh tâm cung kính cúng dường. Tự quở trách không tu nhân Đại thừa, nên không thể thấy tướng của chư Phật, để cung kính cúng dường.

Không đến: Là chỉ rõ năng lực giáo hóa chúng sanh ở hiện tại của Phật, có khả năng hóa độ chúng sanh, mà con không đến chỗ Phật. Hai câu trên là giải thích lời tự trách.

Ánh sáng sắc vàng là thấy tự thân dị thân của Phật đắc vô lượng công đức. Đây là giải thích trong kinh nói sắc vàng: Do thấy Phật, nên thân con đối với thân khác được vô lượng công đức quả.

Nghe là có khả năng làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Đây là giải thích lời tự trách không nghe nói . Nếu nghe thì có thể làm các việc lợi sanh.

Lực: Là có chúng sanh nghi y theo mười lực dứt nghi. Đây giải thích trong văn kinh nói Thập lực cúng dường là nói về lực giáo hóa chúng sanh. Đây giải thích lời tự trách không cúng dường chư Phật. Phật có thể hóa độ chúng sanh, chúng con nên cúng dường, mà xưa vì sao không cúng dường.

Mười tám pháp bất cộng: Xa lìa các chướng ngại. Đây giải thích nghĩa mười tám pháp bất cộng trong hàng tụng.

Cung kính: Sanh vô lượng phước đức. Y theo lời Như Lai dạy mà được giải thoát, chứng đắc các pháp người, pháp vô ngã bình đẳng. Đây giải thích phần tự trách nói không cung kính. Nếu cung kính thì sanh ra vô lượng phước đức, chứng pháp bình đẳng. Cho nên tự trách từ xưa đến nay chưa đắc pháp này, nên đối với pháp này sanh tâm lui sụt. Đó gọi là mất đại pháp mà khởi lời than trách.

-Kinh: “Con ở nơi kinh hành cho đến chính con tự khinh dối”

-Tán: Danh lợi đức cao rộng, tự xem thường mình nên thường suy nghĩ đã mất đi công đức này của Phật mà không dám cầu Đại thừa. Tự lừa dối mình nên cho đắc Tiểu thừa là đủ.

-Kinh: “Con thường trong ngày đêm cho đến suy xét việc như thế.”

-Tán: Nói tự khởi trách than.

Hàng tụng đầu: “Muốn hỏi Phật, là mất Đại thừa hay không ?”

Hàng tụng sau giải thích nghi: “Con thường thấy Phật, chỉ khen ngợi Bồ tát” mà không khen con, vì thế nghi phát sanh nên suy xét việc này.

-Kinh: “Nay nghe tiếng Đức Phật nói cho đến khiến chúng đến đạo tràng cho đến”

-Tán: Đây trở xuống mười bốn hàng, tụng về vui mừng, nay nghe pháp liền dứt hết lo buồn. Trong đây chia làm hai: Mười hai hàng rưỡi đầu tụng về dứt nghi hối. Một hàng rưỡi tụng rất được an ổn. Phần đầu lại có hai:

a) Năm hàng tụng hối hận xưa đã hết.

b) Bảy hàng rưỡi sau là tụng về nghi bây giờ chẳng còn.

Năm hàng đầu lại có hai: Một hàng nêu lý do dứt hối. Bốn hàng sau chính là nói việc dứt trừ.

Do nghe âm thanh Phật tùy nghi nói pháp, ý thú khó biết, vô lậu khó nghĩ bàn, sở đắc khó giải. Khiến cho chúng Nhị thừa bỏ giáo tùy nghi, đạt đến pháp sâu mầu mà Phật đã chứng đắc ở đạo tràng, nên hối đã dứt gọi là vô lậu.

-Kinh: “Con xưa chấp tà kiến cho đến được chứng pháp không cho đến”

-Tán: Trở xuống bốn hàng tụng là dứt hối.

Chia làm hai: Một hàng rưỡi là nói việc bỏ tà về chánh. Hai hàng rưỡi là nói nay biết Tiểu để hướng Đại.

Trong Bổn sự nói: Ngoại đạo San-xà-da thống lãnh một trăm môn đồ, sau quy y Phật xuất gia tu chứng lý nhân không đắc quả A-la-hán, xưng là thầy Phạm chí. Gọi đó là bỏ tà đắc chứng được pháp không.

-Kinh: Bấy giờ tâm tự như cho đến chẳng phải thật diệt độ cho đến”

-Tán: Trở xuống hai hàng rưỡi tụng là nói nay biết Tiểu để hướng Đại. Chia làm hai:

-Một hàng tụng biết Tiểu.

-Một hàng rưỡi biết Đại thật.

Xưa không biết cho là thật diệt độ.

-Kinh: “Nếu lúc được thành Phật cho đến hết hẳn không còn”.

-Tán: Biết đại là thật diệt độ. Khi đắc quả thành Phật, trong đầy đủ các tướng tốt, ngoài được chúng sanh quy kính, mới xa lìa hai thứ sanh tử, lại không còn hữu lậu. Cho nên biết Đại thừa là chân thật diệt.

-Kinh: “Phật ở trong đại chúng cho đến nghi hối đều đã trừ.”

-Tán: Trở xuống bảy hàng rưỡi tụng “Nghi nay đã hết”. Chia làm hai: Một hàng tụng tổng kết hối ở trước đã hết, là lý do để dứt nghi sau.

Sáu hàng rưỡi chính giải thích về dứt nghi.

-Kinh: “Trước nghe Phật nói pháp… cho là ma làm ra!”

-Tán: Sáu hàng tụng rưỡi chính giải thích về dứt nghi. Lại chia làm hai:

Một hàng đầu tụng nêu lý do sanh nghi.

Năm hàng tụng rưỡi chính giải thích dứt nghi. Xưa Phật nói Ba thừa cho đến chúng con đã được rồi”. Nay nói là một thừa cùng xưa nói trái ngược. Nói pháp con sở đắc chẳng phải là thật quả diệt. Cho nên trong tâm kinh nghi, cho Phật là ma làm não loạn lòng ta. Nghi này đối với sự thì gọi là dị thục sanh, không nghi ở lý nên không phải là phiền não. Hoặc ưu trước cùng với, nghi khởi, chẳng phải ngài Thu Tử còn ưu tư nghi ngờ.

-Kinh: “Phật dùng các thứ duyên cho đến cho là ma làm ra”- Tán: Năm hàng tụng rưỡi, giải thích nghi hết. Có bốn phần:

-Một hàng tụng Phật khéo nói, an tâm, nên dứt đoạn.

-Hai hàng tụng nói Phật ba đời cùng nói phương tiện, nên dứt đoạn.

-Một hàng tụng giải thích Phật nói đồng, nên dứt đoạn.

-Một hàng tụng rưỡi biết Phật khác nhau với ma, nên dứt đoạn.

Phật nói có hai: Một là pháp nói. Hai là dụ nói.

Các thứ duyên là đạo lý pháp nói. Các thứ thí dụ là nói so sánh. Ngoài hiện ra hai lời khéo léo này để nói pháp. Bên trong an ổn vững chắc bất động như biển, cho nên dứt nghi. Dùng ngôn từ không khéo lý là dụ trái với tông. Tâm có dao động, trí mê chân cảnh, trong ngoài có trở ngại nghi ngờ khó dứt trừ. Nay thì không đúng, cho nên dứt đoạn.

-Kinh: “Phật nói thời quá khứ cho đến Giảng nói pháp như thế.”

-Tán: Ở Đây nói chư Phật ba đời đồng nói phương tiện, cho nên dứt đoạn.

Hàng đầu tụng về Phật quá khứ, hàng sau tụng về Phật vị lai và hiện tại. Đầu tiên nói phương tiện, sau mới nói chân thật. Tức là lãnh hội Chư Phật ba đời đồng nói như trước. Chúng nghe nói đạo trái xưa nên khởi nghi. Các bậc Thánh cùng có phương pháp ấy nên nay dứt nghi .

-Kinh: “Như nay Đức Thế tôn cho đến Cũng dùng phương tiện nói.”

-Tán: Đây giải thích các Phật nói, đồng nhau cho nên dứt đoạn. Từ khi sanh và xuất gia là thân phương tiện. Đắc đạo là ý phương tiện. Xoay bánh xe là ngữ phương tiện. Đầu tiên nói Ba thừa đồng với Chư Phật ba đời đã dạy, cho nên nói cũng dùng phương tiện mà nói pháp. Ba nghiệp trái ngược khiến cho khởi nghi. Sắc tâm cùng thuận nên nghi dứt. Lại đầu cuối trái ngược thì nghi liền khởi. Trước sau nói thuận, cho nên dứt nghi.

-Kinh: Thế tôn nói thật đạo cho đến Cho là ma làm ra.”

-Tán: Biết đạo tích của Phật và ma khác nhau, cho nên nghi dứt, ma thì nói trái với chân lý, cho nên nghi khởi. Phật nói thuận diệu lý nên dứt nghi.;

-Kinh: “Nghe tiếng Phật mềm mỏng cho đến An trụ trong thật trí.”

-Tán: Một hàng rưỡi này hợp thành mười bốn hàng tụng nói nay ưa nghe pháp mà diệt ưu não: Mười hai hàng rưỡi tụng trên là đã dứt nghi hối. Một hàng rưỡi tụng này nói rất được an ổn. Đem lòng từ bi tiếp dẫn nên nói lời mềm mỏng, như chớp ẩn giấu sấm để nói lý diệu huyền nên gọi là thâm viễn (xa xôi), như tiếng Ca-lăng đáng yêu thích nên nói là rất mầu nhiệm, lìa danh lợi cùng các việc tạp uế, nói nghĩa Nhất thừa nên gọi là diễn xướng pháp thanh tịnh. Sướng có là tùy thích nghĩa xa, nghĩa rõ. Tâm đã vui mừng, nghi hối dứt hẳn tâm xưa ở quyền, nay trí trụ ở thật. Thật nghĩa là Nhất thừa. Nay là chỗ cầu chứng, quyền là xưa vì Nhị thừa mà dùng phương tiện.

-Kinh: “Ta chắc chắn thành Phật cho đến giáo hóa các Bồ-tát.”

-Tán: Đây là hàng tụng thứ tư: Biết là Phật tử nên đạo thành. Nay ta là Phật tử sẽ thành Bồ-tát, từ ngôn giáo Đại thừa của Phật sanh ra. Đã tu nhân đại thì chắc chắn sẽ thành Phật. Ngoài được trời người cung kính có thể xoay bánh xe Vô thượng. Rốt ráo chỉ nói Nhất thừa nên có thể giáo hóa Bồ-tát.

-Kinh: “Bấy giờ Phật bảo Xá-lợi-phất cho đến theo ta thọ học.”

-Tan: Từ châu thứ nhất trở xuống đến châu thứ ba là lời Như Lai thuật lại thành tựu. Cũng như trong phẩm Dược Thảo Dụ Trùng thuật lại thành tựu. Ở đây chia làm ba: Đầu tiên trình bày việc gặp Phật trước kia. Kế là thuật lại việc gặp gỡ bây giờ. Sau là y theo trước mà nói thật.

Đây là phần đầu. “Từng ở chỗ hai muôn ức Đức Phật thường dùng đạo Vô thượng giáo hóa cho các thầy”.

Trong giới kinh Ưu-ba-tắc chép: Xá-lợi-phất từng có sáu mươi kiếp thực hành Bồ-tát đạo. Có Bà-la-môn đến xin mắt, Thu Tử bèn cho. Người kia vứt đôi mắt xuống đất rồi đạp lên, mắng chửi rồi bỏ đi. Ngài Thu Tử hối hận liền tâm lui sụt Đại thừa. Đây là nói hai muôn Phật sở dĩ làm bạn lành thường giáo hóa Đại thừa. Thu Tử lúc ấy cũng được Phật giáo hóa.

-Kinh: “Ta dùng phương tiện… sanh trong pháp ta.”

-Tán: Đây thuật lại việc gặp Phật bây giờ. Sau khi lui sụt đại tâm. Phật biết ông sợ pháp đại, tình chấp vào tiểu quả, nên giáo hóa Thanh văn khiến cho chứng pháp vô học, tạm dẫn dụ gọi đó là phương tiện, để chứng lý sanh không khởi trí vô lậu, trụ vào Phật pháp nên gọi là trong pháp ta. Từ trong pháp Phật sanh ra như thế mới gọi là sanh chân thật.

Vả lại như Thu Tử tánh lui sụt là tánh Đại thừa gần sanh ra mà thuần thục còn xa, cho nên người sơ phát tâm Đại thừa giữa đường lui sụt. Hàng Tiểu tánh thừa gần thuần thục mà còn xa lại sanh tánh Đại, nên giữa đường phát tâm Tiểu thừa mà chứng tiểu quả. Đầu tiên dạy ý Đại thừa để chứng nhân thật người giữa đường cầu chứng tiểu quả thì vì khiến bỏ dần phương tiện.

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến đã đắc diệt độ.”

-Tán: Lại khiến y theo trước kia mà giữ thật. Đây chia hai:

  1. Phát khởi ý thật. Vì tu quyền mà quên thật.
  2. Làm cho nhớ lại bổn tâm. Nói Pháp Hoa nhắc lại căn bổn. “Ta xưa dạy ông chí nguyện Phật đạo”, là nêu ra ý thật. “Nay ông đều quên mà cho là đã được diệt độ.” Vì tu quyền mà quên thật chưa chứng quả Thanh văn trước, chưa đắc trí vô lậu túc mạng. Tuy trải qua sáu mươi kiếp luyện căn đắc trí vô lậu túc mạng của Thanh văn, biết đã gần đạo. Xưa từng tu Đại thừa nhưng nay ông đều quên, nên cho sở đắc là thật diệt độ, mà không chịu tiến tu”.

Trong phần chỉnh ở quyển trước có nói: Đời đời đã từng thọ hóa với Phật. Nay nói quên, trong đây có bốn lời giải:

  1. Là tự nhớ theo Phật tu Tiểu thừa, còn Phật nói Đại thừa thì đều quên mất.
  2. Phật đầu tiên dạy Đại thừa, nay đều quên mất. Tự nhớ giữa đường được giáo hóa học theo Tiểu thừa.
  3. Ngài Thu Tử nhớ mà người khác không nhớ. Nay nhờ Thu tử nhớ để nói với người khác, nên nói đều quên.
  4. Trước nói Phật che chở cho nên nhớ. Nay bàn về tự tâm mình nên quên, cũng không trái nhau.

-Kinh “Ta nay lại muốn cho đến Phật hộ niệm.”

-Tán: Khiến nhớ lại bổn tâm mà Phật nói kinh Pháp Hoa đễ phục hồi bổn nguyện của chúng. Đầu tiên hóa độ tiểu căn hướng đại gọi là vì Thanh văn mà nói kinh Đại thừa Diệu pháp liên hoa. Sau khi đã hồi tâm thì gọi là giáo pháp Bồ-tát Phật sở hộ niệm. Cho nên biết Diệu pháp liên hoa ngoài ra cũng gọi là tên khác Vô lượng nghĩa, nhưng công năng thể tánh có khác, đối cơ hiển lý có khác, nên chia làm hai kinh đó thôi, như trong quyển đầu có nói.

-Kinh: “Xá-lợi-phất… đạo sở hành.”

-Tán: Là đoạn thứ tư trong châu thứ nhất Phật vì thọ ký Thu tư. Đây có hai:

  1. Thọ ký.
  2. Trời người cúng dường khen ngợi hồi hướng.

Thọ ký có hai phần:

  1. Nói việc thọ ký.
  2. Một hàng tụng kết lại khiến cho đại chúng vui mừng.

Văn đầu lại có hai:

  1. Thọ ký nhân .
  2. Thọ ký quả .

Trong phần đầu lại có bốn:

  1. Thời gian trải qua vô biên kiếp.
  2. Ngoài gặp duyên lành, gặp được biết bao vị Phật.
  3. Phụng trì chánh pháp.
  4. Hành đầy đủ lợi sanh.

Phải nhân hành mãn quả mới viên thành. Chưa nhập vào thập tín còn cách hai muôn kiếp. Huống chi khi mới khởi tâm thì thời gian rất xa. Thế nên ở phần một này trước nói về nhiều kiếp mới được gặp Phật, mới thể nhập vào đại kiếp tu trì chánh pháp.

-Kinh: “Sẽ được thành Phật cho đến Phật Thế tôn”.

-Tán: Nói về quả ký. Có hai:

  1. Văn xuôi.
  2. Kệ Tụng.

Văn xuôi có sáu:

  1. Đức bên trong tròn đầy thành tựu.
  2. Cõi nước bên ngoài trang nghiêm.
  3. Nói pháp đồng như ngày nay.
  4. Kiếp tên Dị tức.
  5. Phụ giúp hơn kém.
  6. Pháp trụ lâu mau.

Mắt thấy trời mưa hoa, Phật phát ra ánh sáng. Tai nghe kinh Pháp Hoa ánh sáng trí.

Lại bên ngoài thì lãnh hội bí pháp, bên trong phát ra trí quang, do hai nghĩa này mà gọi là Hoa Quang. Hễ ghi nhận Phật danh lý không y cứ một. Lại như Phật Thích-ca, Di-lặc do thấy Phật kia mà cho là tên. Thu Tử đầu tiên mượn sự thấy nghe mà đặt tên. Trong Luận Trí độ chép: Ba trăm Tỳ-kheo cởi y dâng lên Phật, đưa tay ra làm tướng, nên được ghi là Đại tướng Như Lai. Lại có ngàn vị Thiên tử thấy cõi nước Phật trang nghiêm vương. Lại trong phẩm Thiệt tướng kia có mười muôn ức người thấy mười phương Bồ-tát đến dâng hoa cúng dường, phát tâm mà được Phật thọ ký là Phật Giác Hoa. Kiếp tên là Hoa Tích. Các thứ như vậy không thể y cứ một. Hoặc đây do lúc đầu gặp Phật, sau khi gặp duyên này phù hợp với bổn nguyện.

Thọ ký lược chia làm sáu môn :

  1. Lý do thọ ký.
  2. Ai có thể thọ ký(năng thọ kí).
  3. Ai được thọ ký. (sở thọ kí)
  4. Thọ ký khác nhau.
  5. Giải thích chướng ngại.
  6. Thanh văn dị loại.

Lý do thọ ký lược có năm nghĩa:

1. Luận chép: Vì sanh tâm Thanh văn chắc chắn, nên chẳng thành tựu pháp tánh, chẳng phải đã chứng đắc nhị không pháp tánh, mà vì thọ ký, khiến sanh tâm chắc chắn hướng về Đại thừa nên Phật vì thọ kí.

2. Luận chép: Hiển bày tánh pháp thân bình đẳng của Phật; hữu vi có khác nên nói Ba thừa. Chân lý đã đồng thì pháp thân không khác.

3. Trừ tâm Bồ-tát lâu nay đã nghi Thanh văn không được thọ kí thành Phật, nay nghe thọ ký nên nghi lâu kia cũng hết.

4. Ưa thích thành Phật, vì thấy việc thọ ký này, vui vì từ nay sẽ hành trì nhân thành Phật.

5. Là lí do nói Nhất thừa, mười nghĩa tức là lý do thọ ký ở đây. Nói về năng thọ ký, trong đây có ba ý:

  1. Là nói sở y.
  2. Là thể thọ ký.
  3. Là dụng thọ kí.

Sở y là nói người có thể thọ ký, tức là Phật. trong kinh có sáu chỗ

thọ kí, thì năm là Phật thọ kí và một là Bồ tát thọ ký (Phẩm Thường bất khinh) Như Lai năm chỗ thọ ký là: Biệt ký. Đồng ký. Hậu ký. Vô oán ký và Thông hành ký.

Bồ-tát ký gọi là thọ ký nhân đầy đủ. Như trong phẩm Thường bất khinh nói về lễ bái khen ngợi bạch: Ta không khinh các thầy, các thầy đều sẽ thành Phật, tức chỉ rõ tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Thọ ký danh hiệu Phật vị lai chỉ có Phật, chư Thánh không thể biết được tên danh hiệu cõi nước của chư Phật vị lai. Người dưới không thể biết việc người trên. Nếu biết hết thì Bồ-tát cũng thọ ký được, vì cũng đầy đủ nhân Phật tánh. Kinh này đã như vậy, việc thọ ký trong các bộ kinh khác cũng không qua hai bậc này.

Thể thọ ký là hậu đắc trí, thế tục trí. Dụng thọ kí là ngôn giáo, chỉ có tha thọ dụng biến hóa thân. Trong năm uẩn thì tùy theo thích ứng mà làm thể, Thập địa Bồ-tát, Ba thừa đều khác nhau.

Nói về sở thọ ký có hai:

  1. Sở y.
  2. Thể tánh.

Sở y tức là người được thọ ký. Luận nói có sáu nơi nói lên.

  1. Là biệt ký cho bốn vị đại Thanh văn các ngài Xá-lợi-phất, Cadiếp mọi người đều biết, danh hiệu khác nhau nên thọ ký cho riêng.
  2. Đồng thọ ký cho các ngài Phú-lâu-na cùng năm trăm vị, một ngàn hai trăm vị v.v… cùng một danh hiệu, cùng thời thọ ký.
  3. Hậu ký: Học vô học v.v… cùng đồng một hiệu. Tuy cũng hạ căn nhưng chúng không biết, nên thọ ký cho.
  4. Vô oán ký: Thọ ký cho Bồ-đề Đạt-đa, nói về là Như Lai không có kẻ thù.
  5. Thông hành ký: Cùng Tỳ-kheo ni và thiên nữ đều được thọ ký. Nói về ra thân người nữ, tại gia, xuất gia tu Bồ-tát hạnh, đều chứng quả Phật.
  6. Đầy đủ nhân ký: Nói lên chúng sanh đều có Phật tánh.

Sáu pháp thọ ký này, thì Biệt ký ở trong phẩm Thí dụ và phẩm Thọ ký. Đồng ký ở trong phẩm Ngũ bá đệ tử thọ ký. Hậu ký thì ở trong phẩm Thọ học vô học nhân ký. Vô oán ký trong phẩm Đề-bà-đạt-đa. Thông hành ký trong phẩm Pháp sư và phẩm Trì. Đầy đủ nhân ký thì trong phẩm Thường bất khinh.

Theo lý mà suy ra thì dị sanh chưa có phát tâm và sau khi phát tâm, Nhị thừa bất định tánh, cùng các Bồ-tát bốn thứ người này đều gọi là sở thọ ký. Một hội Pháp Hoa là hóa độ xả quyền mà thành tựu thực, không vì Thập địa Bồ-tát mà thọ ký. Luận về việc xưa, có người chưa phát tâm trước được thọ ký đầy đủ nhân riêng chỉ có phàm phu phát tâm rồi tâm, sau đó chỉ nghe Pháp Hoa thì không có một ai mà không thành Phật, và thọ ký cho Nhị thừa bất định tánh cũng không khác. Nhân thể tức là gốc lành vô lậu có cả hiện và chủng. Từ nhân được quả thể có cả năm uẩn, phần nhiều là hóa thân và tha thọ dụng thân, tức là hiển bày từ bi cho nên tạo ra đức tánh cao, có khác nhau nên có hóa chúng, các sự ký biệt bên dưới sẽ nói lên đầy đủ. Thọ ký khác nhau là: Kinh Thủ lăng nghiêm Phật bảo Kiên Ý Bồ-tát. Thọ ký gồm có bốn thứ: Có người chưa phát tâm mà thọ ký cho. Có người vừa phát tâm liền thọ ký. Có mật thọ ký. Có đắc vô sanh pháp nhẫn mà hiện tiền thọ ký. Bôn loại này, chỉ có Như Lai có thể biết. Trong kinh Bảo vân cũng nói như thế. Kinh Du-già quyển bốn mươi sáu nói lược do sáu tướng mong cầu các Như Lai đối với quả Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thọ ký riêng. Sáu tướng là:

  1. An trụ chủng tánh cho người chưa phát tâm.
  2. Ngôi vị đã phát tâm.
  3. Vị hiện tiền.
  4. Vị không hiện tiền.

Bốn tướng này đồng như trong kinh Lăng nghiêm. Mật ký kia tức đây là ở mật xứ không hiện tiền. Hoặc đắc vô sanh pháp nhẫn kia là hiện tiền đây. Người chưa đắc là không hiện tiền. Hoặc thân chỗ ngồi gọi là hiện tiền, thân không ở chỗ ngồi là không hiện tiền. Trong phần đồng ký ở quyển thứ tư dưới có người không có trong hội này.

5. Phật sai truyền ký: Có định thời hạn nghĩa là những người trong hội lúc này sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề.

6. Không định thời hạn là không giảng nói thời hạn chắc chắn mà thọ ký. Nay ngài Xá-lợi-phất ở trong các tướng hai, ba, và sáu. Đã phát đại tâm, hiện trụ trước Phật không nhất định thời hạn.

Kinh Niết-bàn chép: Tu-đà-hoàn thì tám muôn kiếp mới đến thành Phật. Cho đến A-la-hán hai muôn kiếp. Bích-chi-phật một muôn. Nói đến (đáo) là đến quả vị Chánh đẳng Chánh giác. Nên biết kinh này nói kiếp là đến sơ tâm thập tín, mới vào sơ kiếp. Bồ-tát Địa chép: Lần hồi tu hành không bằng sơ tâm tu hạnh Bồ-tát, đắm trong vị vắng lặng thật là sâu nặng. Do đây nên nói quá vô lượng kiếp mới cúng dường biết bao ngàn muôn ức Phật hành Bồ-tát đạo. Có ba chắc chắn:

  1. Chủng tánh định: Gặp duyên liền có thể chứng Chánh giác.
  2. Phát tâm định: Phát đại tâm rồi thì không lui sụt.
  3. Bất hư hành định: Đắc tự tại rồi, làm lợi ích chúng hữu tình, quyết không luống qua.

Đầu tiên ở Địa tiền, phát tâm Bồ-đề trong năm thứ Bồ-đề.

Kế đến là sơ địa chứng phát tâm.

Cuối cùng là ở Bát địa.

Nay y theo chủng tánh đầu nên thọ ký cho .

Giải thích các chướng nạn là: Luận nói Thanh văn kia là thật thành Phật, cho nên thọ ký riêng. Vì không thành Phật mà cùng thọ ký.

Nếu thật thành Phật thì vì sao Bồ-tát ở trong vô lượng kiếp tu tập vô lượng công đức. Nếu không thành Phật thì sao lại thọ ký luống dối. Ý này muốn hỏi. Nếu Thanh văn chỉ trụ vào trăm kiếp luyện căn tu hạnh Thanh văn, thì thật được thành Phật và được thọ ký. Bồ-tát vì sao ở trong vô lượng kiếp, tu tập vô lượng công đức mới thành Bồ-đề Phật. Tu một ít nhân đã có thể thành Phật đó, nếu Thanh văn tu ít nhân mà không thành Phật, thì sao nay phải thọ ký luống dối?

Luận tự đáp:

Người Thanh văn được thọ ký đó là đắc tâm chắc chắn chẳng phải thành tựu pháp tánh. Ý này nói là: Nay Thanh văn đắc tâm chắc chắn thành Phật, tiến tu diệu hạnh, chẳng phải đã chứng hội nhập, thành tựu chân lý pháp tánh nhị không mà thọ ký cho. Luận lại giải thích: Như Lai y theo Ba thừa bình đẳng mà nói pháp Nhất thừa. Vì pháp thân Như Lai và pháp thân Thanh văn kia không khác. Cho thọ ký chẳng phải là có đầy đủ công đức tu hành, cho nên thọ ký cho.

Thập địa Bồ-tát thành tựu pháp cho nên công đức đầy đủ, các Thanh văn thì công đức chưa đầy đủ. Vì thế, Bồ-tát tu vô lượng kiếp mới đắc Bồ-đề. Thanh văn chưa tu vô lượng công đức, chỉ khiến được tâm chắc chắn thành Phật, nên thọ ký cho.

Hỏi: Thanh văn vô học thì vĩnh viễn đoạn hậu hữu. Vì sao lại thọ ký trải qua ba đại kiếp sẽ được Bồ-đề?

Đáp: Trong luận Hiển dương chép: Y theo thân biến hóa chẳng phải là thân nghiệp qủa, nên không trái lý.

Thành Duy thức chép: là tên khác của sanh tử biến dịch . Ý này nói: Trước chưa phát tâm thì thân hiện có hạn. Do sau khi thọ ký phát đại thệ nguyện cầu đại Bồ-đề sau đó độ chúng hữu tình, bèn nhập vào bờ mé vô lậu thắng định, nhờ việc làm xưa mà cảm thân nghiệp nay, khiến cho nhiều đời cho quả không dứt. Từ quả này trợ giúp nghiệp, lại do vô lậu trợ giúp, lần lần chuyển từ dị thục thô cũ thành mầu nhiệm. Về sau, sự nhỏ nhiệm càng rộng lớn, thù diệu khác với xưa cũng như là

biến hóa. Do biến dịch này khác với lúc trước nên gọi là sanh tử biến dịch , thường giúp sức thêm lớn cho đến thành Phật. Bởi vì, phần đoạn sanh tử kia tuy đã đoạn vĩnh viễn, như nói đã qua ba trăm do-tuần rồi hóa làm một thành mà biến dịch chưa hết, nên lại nói còn hai trăm dotuần nữa mới đến Đảo châu báu. Phần đoạn sanh tử tuy đã đoạn tận, nhưng thọ biến dịch sanh tử cho đến thành Phật. Thanh văn hướng về tịch diệt thì không có việc này. Cho nên trong kinh Thắng-man chép: Vô minh trụ địa là duyên, nghiệp vô lậu là nhân. Có A-la-hán, Bích-chiphật, Bồ-tát Đại lực ba thứ ý sanh thân. Điều này có nói đầy đủ trong các chương của Du-già Phật địa và Duy thức.

Thanh văn loại khác: Luận nói Thanh văn có bốn:

  1. Chắc chắn.
  2. Tăng thượng mạn.
  3. Lui sụt tâm Bồ-đề.
  4. Ứng hóa.

Như Lai thọ ký cho hai hạng người là ứng hóa và người lui sụt tâm Bồ-đề. Trừ người chắc chắn và tăng thượng mạn vì căn chưa thuần thục nên Như Lai không thọ ký. Bồ-tát thọ ký cho đó là phương tiện khiến cho phát tâm, như Thường bất khinh thọ ký. Đây nói chưa thuần thục đó là hạng tăng thượng mạn có thể được. Hạng người hướng về tịch diệt cuối cùng không thuần thục sao nói là chưa? Vì chưa có nghĩa là không. Theo lý chính xác nên nói người hướng về vắng lặng không mê mờ pháp, mà tín căn chưa thuần thục nên Phật không thọ ký, không thọ ký rõ ràng đời sau thành Phật. Bồ-tát thọ ký cho là bao gồm biệt ký có lý Phật tánh, phương tiện để họ phát tâm tin Đại thừa. Người tăng thượng mạn tin hướng đến màcăn chưa thuần thục. Phật cũng không thọ kí rõ ràng riêng việc thành Phật ở đương lai. Bồ-tát cũng vì bao gồm biệt ký, phương tiện để họ phát tâm tin hướng. Nay hợp lại thành văn nói: Căn chưa thuần thục, không phải người hướng cầu vắng lặng tương lai cũng được thành Phật.

Luận Trang Nghiêm chép: Gốc lành của người khác, khi Niết-bàn hết, còn gốc lành của Bồ-tát không như vậy. Trong kinh Niết-bàn chép: người Tu-đà-hoàn cho đến đều được thành Phật gọi là không giải được ý ta. Cho nên biết người hướng tịch thì nhất định không thành Phật.

Hạng ứng hóa Thanh văn có người nói như ngài Xá-lợi-phất. Bốn đại Thanh văn là hạng thượng căn, năm trăm đệ tử là trung căn, người học vô học là hạ căn. Nay giải thích không như. Đầu kinh Hoa nghiêm nói ngài Xá-lợi-phất là ứng hóa. Sau ở phẩm Nhập pháp giới, Ngài Xá-lợi-phất dẫn sáu ngàn đệ tử từ trong phòng đi ra, Văn-thù-sư-lợi nói cho họ nghe mười pháp, bèn phát tâm Bồ-đề. Tức trong đây được thọ ký thì chẳng phải là ứng hóa. Một mình Ngài Xá-lợi-phất là Thanh văn thượng căn . Bốn đại Thanh văn là trung căn, năm trăm đệ tử là hạ căn. Xét theo kinh dưới nói Phú-lâu-na là người ứng hóa trong hội Pháp Hoa này, Như trong mười nghĩa Nhất thừa của nghiệp luận giải thích ứng hóa, cũng đồng như kinh Lăng-già. Thanh văn nhiều kiếp nhập Niếtbàn uống rượu Tam muội say sưa nằm ngủ, sau từ định tỉnh dậy phát tâm hướng về đại. Đó chính là chư Phật Bồ-tát hóa thành để dẫn dắt chúng sanh khác.

-Kinh: Nước tên Ly-cấu cho đến trời người rất đông.”

-Tán: Phần hai nói bên ngoài cõi nước trang nghiêm, hóa thành cõi tịnh. Văn có mười nghĩa. Trong đây có năm:

1. Nước tên Ly-cấu là cõi thuần thiện, không chiêu cảm sáu cấu.

2. Người ở cõi nước đó tâm bình đẳng, lìa hết cao mạn. Đối với hai thứ hơn kém không sợ hãi không khinh thường, lìa tâm siểm mạn.

3. Tịnh uế: Cõi này vì tâm chúng sanh tô điểm thanh tịnh nên cõi Phật tịnh.

4. Là nơi an lành yên ổn, đầy vui sướng không có nạn sát đạo, các việc binh đao, bệnh tật, đánh mắng, đói khát…

5. Trời người thiện ác lừng lẫy: Do bên ngoài không có bạn ác tri thức, phiền não phân biệt tất cả , không hiện hành nên không có đường ác, nên trời người rất đông.

– Kinh: “Đất bằng Lưu lý cho đến thường có hoa quả.” – Tán: Văn này có năm:

6. Là lưu ly tô điểm làm đất, tâm không lầm lỗi.

7. Mặt đất có tám giao lộ: Tu bát trai giới và bát Thánh đạo. Đông Tây có bốn, Nam Bắc có bốn nên gọi là tám đường giao thông. Hoặc Đông Tây có tám, Nam Bắc cũng tám. Từ một phương mà đặt tên, hoặc con đường của tám phương nên nói tám đường giao thông .

8. Đường trang nghiêm bằng dây vàng là đạo hạnh sở cảm của bốn tổng trì.

9. Rừng cây bảy báu thành hàng, là tu bảy thánh tài trì bảy chi giới.

10. Thường có hoa quả, thường tu bảy giác, tám giải thoát, Nhân đó mà thêm lớn.

– Kinh: “Hoa Quang Như Lai cho đến giáo hóa chúng sanh.” – Tán: Phần ba nói pháp đồng, nay có hai:

  1. Là nói đồng với nay.
  2. Giải thích vì sao?

Ở đây nói phần một. Vì đồng với nay cho nên gọi là “cũng dùng, tuy chẳng phải đời ác, cũng chẳng phải cõi uế đã nói thanh tịnh tức rõ là hóa cõi tịnh.

Nói thanh tịnh là nói hóa Tịnh độ.

– Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến nói pháp Ba thừa” – Tán: Đây giải thích lý do.

Y cứ vào thật pháp thì Phật Thích-ca cũng do bổn nguyện. Nay ẩn nguyện lực, chỉ xuất hiện ra đời ác. Muốn nói chư Phật hành lợi bất đồng. Ta ra đời ác vì muốn giáo hóa chúng sanh, đầu tiên thì dùng phương tiện, sau dùng chân thật, cho nên lấy Ba thừa. Hoa Quang Như Lai nguyện ý đều giúp khắp. Cho nên chỉ xưng bổn nguyện như thế. Muốn chúng sanh biết ở thời Đức Phật kia, không có chúng sanh tội ác phát nguyện sanh về đó. Thuận theo bổn nguyện tập điều phục Nhị thừa nên nói pháp Ba thừa chẳng phải hóa độ chúng sanh ác, đầu tiên quyền biến sau nói thật.

-Kinh: “Kiếp ấy gọi là cho đến là Đại bảo”.

-Tán: Phần thứ tư nói, tên kiếp có khác nhau. đầu tiên là nêu, sau giải thích.

-Kinh “Các Bồ-tát kia cho đến không thể biết.”- Tán: Thứ năm là phụ giúp hơn kém. Có hai:

  1. Giải thích riêng về đức.
  2. Tổng kết.

Trong văn đầu có mười. Đây có một đức là cácThánh khó lường như gỗ chiên-đàn, vườn chiên-đàn.

-Kinh: “Nếu lúc muốn đi cho đến đều đã trồng cội đức từ lâu “.

-Tán: Đây có hai đức: Một là điềm lành thích ứng đầy đủ, có chín hoa thanh tịnh thường nâng đỡ tâm.

Luận Hiển dương quyển ba chép: Chín thứ thanh tịnh:

  1. Giới tịnh.
  2. Tâm tịnh.
  3. Kiến tịnh.
  4. Độ nghi tịnh.
  5. Đạo phi đạo trí kiến tịnh.
  6. Hành tri kiến tịnh.
  7. Hành đoạn tri kiến tịnh.
  8. Vô duyên vắng lặng tịnh.
  9. Cõi nước tịnh.

Bảy tịnh trước tức là bảy tịnh hoa, như đã nói.

Ba là Diệu nhân gieo trồng rất lâu chẳng phải mới phát tâm, mà gốc lành thuần thục.

-Kinh: “Trong vô lượng trăm ngàn cho đến chỗ xưng tán.”- Tán: Đây có hai đức.

Bốn là xưa gặp thiện duyên mà phát đại nguyện.

Năm là danh tiếng bay xa mọi người đều biết. – Kinh: “Thường tu Phật tuệ cho đến các pháp môn.” – Tán: Ở đây có ba đức.

Sáu là thường cầu Phật trí, mong cầu đại giác.

Bảy là ngoại hóa lâu xa thành tựu, đầy đủ đức từ bi.

Tám là bên trong quán xét đầy đủ việc này không có mê lầm, là môn giáo của pháp nghĩa , hoặc môn nghĩa pháp giáo, hai cách giải thích này đều được.

-Kinh: “Ngay thẳng không tà ngụy, chí niệm vững chắc.”- Tán: Ở đây có hai đức.

Một là tánh thuần thục không kiêu ngạo, không lừa dối.

Hai là tâm siêng năng không thối hạnh vị cao.

Tâm ngay thẳng là đạo tràng, chỗ chất trực phiền não không làm xao động nên chí niệm vững chắc.

-Kinh: “Bồ-tát như thế đầy đủ trong nước đó”.

-Tán: Ở đây là tổng kết giải thích .

-Kinh: “Xá-lợi-phất… thọ tám tiểu kiếp”.

-Tán: Thứ sáu là pháp trụ lâu mau. Có bốn:

  1. Tuổi thọ của Phật.
  2. Tuổi thọ chúng sanh.
  3. Trao cho Phật đương lai thọ ký.
  4. Thọ ký tượng pháp chánh pháp.

Ở đây nói hai phần đầu .

Chúng sanh của Phật Thích-ca bạc phước ít tuệ, tuổi thọ Phật ngắn chúng sanh tuổi thọ dài. lưu lại phần thứ năm cho đệ tử vị lai chúng sanh được Đức Hoa Quang Như Lai hóa độ, chúng sanh phước tuệ tự tu không nhờ Phật cho, nên Phật tuổi thọ dài, chúng sanh lại ngắn. Lại chúng sanh của đức Thích Ca phước mỏng không cảm được Phật nên tuổi thọ Phật ngắn, chúng sanh của Hoa Quang nhiều phước có cảm ứng nên Phật tuổi thọ dài cảm với Phật hóa.

-Kinh: “Hoa Quang Như Lai cho đến thọ ký Tam Bồ-đề.”

-Tán: Phần thứ ba trao cho Phật đương lai thọ ký:

  1. Ký thời.
  2. Chánh ký.
  3. Cõi nước.

Đây nói phần một.

Quá mười hai kiếp đó là tuổi thọ Phật đầy đủ kiếp mới được thọ ký, tinh tấn thành tựu gọi là Kiên mãn.

-Kinh: “Bảo các Tỳ-kheo cho đến Tam-miệu Tam Phật-đà.

-Tán: Đây chánh nói về thọ ký. Hoa túc là hoa báu nâng chân.

Do nghe Pháp Hoa làm nhân thành tựu quả Phật tròn đầy, nên gọi là Hoa túc. Do nghe Pháp Hoa thực hành hạnh an lạc nên gọi là An hạnh. Có nói nói an nhiên từ từ mà đi gọi là an hạnh. Đây không khéo giải thích, có Phật nào mà sợ hãi, lúng túng bước đi.

Đây là Đa-đà A-già-độ Như Lai, La-a-la-ha là ưng, là Tam-miệu Tam Phật-đà là Chánh đẳng giác.

Kinh tên dịch gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Xưa dịch là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

-Kinh: “Cõi nước Phật đó cũng giống như vậy.”

-Tán: Đây nói về cõi nước. Cũng như cõi nước của Hoa Quang, do thành hành Pháp Hoa mà chiêu cảm được.

-Kinh:”Xá-lợi-phất… ba mươi hai tiểu kiếp.”

-Tán: Phần thứ tư thọ ký thời chánh pháp tượng pháp, như thời chánh pháp của Phật gồm có ba: Giáo, hạnh, chứng cả ba đều có đầy đủ. Thời tượng pháp chỉ có giáo, hạnh mà không chứng quả. Còn đời mạt pháp, chỉ có giáo mà hạnh, chứng đều không, việc thọ giáo, hành, hạnh, chứng quả đều khác nhau, cho nên chánh pháp của Phật Thích-ca ngắn mà tượng pháp thì dài. Nếu không độ cho người nữ, chánh pháp tượng pháp đều một ngàn năm. Do độ cho người nữ mà chánh pháp giảm phân nửa. Nay cõi Hoa quang chánh pháp tượng pháp đều bằng. Tuy có Ba thừa phần nhiều là Bồ-tát mà gọi là Đại Bảo. Tuy có bốn chúng, người nữ trì giới nên chánh pháp không bớt.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến sẽ độ vô lượng chúng”.

-Tán: Trở xuống mười một hàng rưỡi tụng, chia làm hai:

1. Mười hàng rưỡi tụng phần thọ ký trước.

2. Một hàng sau là phần thứ hai trong thọ ký, nên tổng kết khiến vui mừng. Nhân thọ ký trước có bốn, quả ký có sáu. Nay chia chung làm ba: Một hàng đầu tụng phần quả ký nên nội đức trang nghiêm.

Một hàng kế tụng về nhân ký. Tám hàng rưỡi tụng bốn nghĩa quả ký.

Phổ trí là Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí, đầy đủ cả hai.

-Kinh: “Cúng dường vô lượng Phật cho đến Chứng quả Vô thượng đạo.”

-Tán: Đây tụng nhân ký. Có hai:

  1. Gặp duyên lành.
  2. Đầy đủ đạo Bồ-tát.

Chấp cũng có thời. Quá vô lượng kiếp, nhập vào trong hàng tụng sau đây chỉ có hai.

-Kinh: “Quá vô lượng kiếp rồi cho đến Thường có hoa quả hạt.”

-Tán: Tụng về quả ký. Bốn nghĩa chia làm bốn. Nửa hàng tụng tên kiếp là Tức Dị. Một hàng rưỡi tụng cõi ngoài Trang Nghiêm. Hai hàng tụng đầu phụ giúp hơn kém. Bốn hàng rưỡi tụng tuổi thọ Phật dài ngắn. Không tụng nói pháp đồng như nay. Đây nói hai phần đầu.

Cõi ngoại trang nghiêm có sáu:

  1. Danh;
  2. Tịnh;
  3. Địa;
  4. Giới;
  5. Cây;
  6. Hoa quả.

Không tụng bốn thứ còn lại.

-Kinh: Các Bồ-tát nước kia cho đến Phật Hoa Quang hóa độ”.

-Tán: Đây là phần phụ giúp hơn kém. Có bốn:

  1. Bất thoái.
  2. Ngoại hóa.
  3. Gặp bạn lành.
  4. Gieo trồng nhân mầu.

Không tụng sáu phần còn lại.

-Kinh: “Phật lúc làm vương tử cho đến Tuổi thọ tám tiểu kiếp.”

-Tán: Bốn hàng rưỡi tụng Phật tuổi thọ dài ngắn có bốn: Một hàng rưỡi tụng tuổi thọ của Phật. Nửa hàng tụng tuổi thọ của người. Một hàng rưỡi tụng thời gian chánh pháp tượng pháp, giống nhau. Tụng Xálợi lưu hành, không tụng thọ ký, mà thêm cúng dường xá-lợi.

Đây là hai phần đầu. Trong đây nên nói: Thân cuối cùng của Phật làm vương tử, bỏ nước bỏ vinh hoa đi xuất gia tu hành thành đạo. Văn nói ngược là: Trước nói vương tử bỏ nước bỏ vinh hoa, sau mới nói hậu thân tu hành thành Phật đạo. Hoặc ý văn đều nói ở trong vô lượng sanh thân làm vương tử, bỏ nước bỏ vinh hoa, thân cuối cùng mới thành Phật đạo.

-Kinh: “Sau khi Phật diệt độ cho đến Tượng pháp ba mươi hai.”

-Tán: Tụng thời gian của chánh pháp tượng pháp. Ngày đêm năm tháng là kiếp.

-Kinh: “Xá-lợi rộng lưu bố cho đến việc này đều như thế.”- Tán: Tụng Xá-lợi lưu hành khắp và tụng kết lại.

-Kinh: “Lưỡng túc Thế tôn này cho đến Tuyên ưng tự vui mừng.”

-Tán: Đây là đoạn thứ hai kết hội khiến cho vui mừng. Hóa độ tâm kia chắc chắn khiến cầu quả Phật .

Luận loại. Cũng gọi là đủ, phối hợp loại. Nói lưỡng túc là tôn quý, không loại nào không phối hợp.

-Kinh: “Bấy giờ bốn bộ chúng… đem cúng dường Phật.”

-Tán: Trong phần thọ ký. Đoạn thứ hai chư thiên cúng dường khen ngợi hồi hướng. Trong đây có hai:

1/ Bốn chúng tám bộ cúng dường.

2/ Chư thiên cúng dường, khen ngợi. Đoạn đầu tiên biểu nhờ ơn Phật như được y của Phật che chở. Cũng trên là tiêu biểu cho khi thành quả Phật được người nói pháp che chở chúng sanh. Cho nên dùng y cúng dường. Văn dưới nói: Người trì kinh này được Phật dùng y che chở.

-Kinh: “Thích Đề Hoàn Nhân cho đến cúng dường Phật.”

-Tán: Chư thiên khen ngợi cúng dường có hai: Trước cúng dường sau khen ngợi. Phần cúng lại có hai:

  1. Y cúng dường hoa .
  2. Cúng dường Kỹ nhạc .

Y hoa cúng có hai:

  1. Cúng dường.
  2. Linh tướng hiện ra.

Đây nói phần cúng dường. Dâng hoa cúng dường là tiêu biểu cho việc nghe Pháp Hoa sẽ thành Phật đạo.

-Kinh: “Y trời tung lên cho đến mà tự xoay chuyển.”

-Tán: Đây là linh tướng, trụ trong hư không đó là hiển bày việc nghe Pháp Hoa vượt ngoài bốn loài sanh, tâm diệu lý lắng đọng. Hồi chuyển là trở lại ba cõi vì lòng từ bi thương xót chúng sanh.

-Kinh: “Các kỷ nhạc trời cho đến các hoa trời tuôn rải như mưa.”

-Tán: Đây là chư thiên dùng kỹ nhạc cúng dường. Nghe tiếng pháp mà ngộ đạo nên trỗi âm nhạc. Đây tiêu biểu cho việc tu nhân đắc quả mãn, cho nên hoa tuôn rải như mưa.

-Kinh: “Mà nói rằng cho đến bánh xe pháp lớn nhất.”- Tán: Khen ngợi có hai:

  1. Văn xuôi.
  2. Kệ tụng.

Trong đây chỉ nêu lại hai thời pháp luân. Để so sánh đại tiểu, đối với tánh bất định , quyền thật cùng có. Căn cứ vào thật cũng là so sánh với không giáo của Bát-nhã. Đây vì trung đạo gọi là bánh xe pháp lớn nhất.

-Kinh: “Bấy giờ các Thiên tử cho đến.. ít có người năng tín.”- Tán: Sáu hàng tụng rưỡi chia làm bốn:

-Hai hàng tụng đầu nêu việc xưa nói Tiểu thừa, nay nói Đại thừa.

-Một hàng rưỡi khen ngợi pháp thắng diệu mà tùy hỷ.

Hai hàng tụng là nói người khác rõ tự thành Phật sanh lòng vui mừng.

Một hàng hồi hướng.

Năm nhóm: Tiếng Phạm là Bát-già-tắc-kiến-đà, dịch là năm ấm. Đầy đủ nghĩa mười một loại chứa nhóm gọi là uẩn.

Nay gọi là nhóm, nhóm nghĩa là tụ. Hoặc gọi là năm ấm, đều sai với chánh văn theo tam khoa thì pháp năm uẩn là để nói về tứ đế. Cho nên biết đầu tiên nêu quyền nay đây hội đủ bỏ quyền thành tựu pháp thật khó giải. Nói: “Ít người tin được.” Vì pháp ấy sâu mầu quyền thật trái nhau theo Đại Bát-nhã nói thì khi Phật nơi xoay bánh xe cả ba thừa đều nhập đạo. Nay căn cứ vào hiển tướng chỉ để độ Thanh Văn. Cho nên, nói năm chúng để nói pháp quyền. Sâu xa là bí tạng Đại thừa sâu mầu.

-Kinh: “Chúng ta từ xưa nay cho đến đều tùy hỷ.”

-Tán: Khen ngợi pháp thắng diệu, sanh sau tùy hỷ. Tùy là thuận theo, giáo pháp Phật mà thực hành.

-Kinh: “Đại trí Xá-lợi-phất cho đến phương tiện tùy nghi nói.”

-Tán: Nêu người khác, nói tự thành Phật sanh vui Phật thọ ký cho người khác thành Phật, rõ ràng chúng ta cũng được, cho nên biết Phật pháp thật không thể nghĩ bàn, Phật dùng phương tiện tùy nghi để cho ta hiểu rõ.

-Kinh: “Ta có được phước đức cho đến đều hồi hướng Phật đạo”.

-Tán: Hồi hướng Phật đạo, thành tựu pháp cúng dường Ba-la-mật.

Tức là phương tiện trí khéo léo.

 

PHẦN CUỐI

-Kinh: “Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất cho đến Thọ ký Tam Bồ-đề.”

-Tán: Phần trên là châu thứ nhất pháp nói quyền thật hóa độngười thượng căn xong. Từ đây trở xuống là châu thứ hai dụ nói về quyền thật hóa độ người trung căn. Đại văn chia làm bốn:

  1. Phật dùng thí dụ để hóa độ.
  2. Trong phẩm Tín hiểu, người trung căn lãnh ngộ.
  3. Phẩm Dược thảo dụ, Phật nói lại việc thành tựu.
  4. Phẩm Thọ ký là thọ ký cho người.

Người thượng căn thông minh không cần trình bày nhiều. Hạ căn ba lần nghe pháp không cần nói rộng, cho nên việc hóa độ người trung văn nghĩa đều nhiều.

Văn đầu có hai:

  1. Ngài Thu Tử thỉnh.
  2. Phật nói lợi ích.

Ngài Thu Tử tuy hiểu mà nay lại thỉnh cầu nữa, lược có ba lý do: 1) Vì lợi ích đồng loại.

  1. Hạnh lợi tha.
  2. Thuận theo sự giáo hóa của Phật.

Trước: Là pháp nói rồi lại ba lần hết lòng thỉnh. Nay hiểu rồi thì giải thích. Văn Thu Tử thỉnh chia làm ba: Đầu tiên trình bày tự quyết, kế là thuật lại nghi của người, sau đó chánh cầu thỉnh.

-Kinh: “Là một ngàn hai trăm vị cho đến đều rơi vào nghi hoặc.”

-Tán: Ở đây thuật lại việc nghi của người khác, vì là dụng vậy. Kiến chấp có, không là biên kiến. Y theo ngã kiến sanh nên chấp lấy

tà kiến. Biên kiến tà kiến này nhiếp cả sáu mươi hai, kiến ngoại đạo khởi lên. Nay hiển bày y theo lời nói bỏ tà về chánh. Cho nên nay nói riêng .

Lại v.v… là ngoài ba kiến chấp còn các phiền não đều là chỗ phát nghiệp. Phật xưa từng nói: Pháp của ta có thể lìa hiện tiền sở kiến của sanh già bịnh chết mà được rốt ráo Niết-bàn. Do muốn dứt quả thì trước phải dứt nhân. Các ngưới ấy dựa vào lời Phật dạy này mà lìa nhân khổ ngã kiến đã xong, chắc chắn biết khổ đương lai không còn sanh lại, chứng quả Niết-bàn cho là đã được quyết định. Nay lại nghe Phật nói khiến bỏ quyền giữ thật, đều rơi vào nghi hoặc mà khởi lên nghĩa nghi. Những vị kia đều không thể biết mình sẽ thành Phật. Không biết sở chứng trước đắc pháp gì? Là pháp rốt ráo hay đạo sở hành; lại vì đã đồng dùng lời Phật nói, đã dứt nhân khổ, thì quả không sanh. – Kinh: “Lành thay! Đức Thế tôn cho đến khiến lìa nghi hối.” – Tán: Đây chính là phần thỉnh.

Nghĩa nhân duyên có hai:

  1. Lý do.
  2. Đạo lý.

Nay thỉnh Đức Thế tôn thuật lại lý do này.

– Kinh: “Bấy giờ Phật bảo cho đến giáo hóa Bồ-tát.” – Tán: Phật nói lợi ích, đại văn chia ra làm ba:

1/ Tổng lược yếu chỉ. Đáp là lý do hứa nói.

2/ Xá-lợi-phất như Quốc thành thôn ấp, trở xuống chánh là nói pháp dụ khiến người khai ngộ. Trong bài kệ sau nói: Phật bảo Xá-lợiphất: “Các thầy đều là con ta. Ta là cha của các thầy.”

Đây là khuyên tin kinh này, vui sẽ đắc trí Phật. Phần đầu lại chia làm hai:

  1. Nói Phật đã nói, tóm lược yếu chỉ đáp.
  2. Sau lại trình bày lý do hứa nói .

Đây là nói phần đầu.

Đầu tiên nói phương tiện là tạm quả chân thật. Trước hóa độ Thanh văn là nhân của Bồ-tát. Tức trong phẩm Phương tiện chép: Biết chúng sanh có các thứ ham muốn. Tùy theo bổn tánh của chúng dùng các phương tiện mà vì nói pháp. Như thế đều là đã được Nhất thiết chủng trí của Phật thừa. Tức xưa nói quyền nay nói thật. Lý do là để hóa độ Bồ-tát, do đây mà nói là giải thích lý do, cho nên gọi là tóm lược yếu chỉ mà đáp”.

-Kinh: “Nhưng Xá-lợi-phất cho đến dùng thí dụ để hiểu.”

-Tán: Đây là nói lý do hứa nói. Nhiên (nhưng) có nghĩa là như thị (như thế).

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến tuổi đã già yếu.”

-Tán: Đoạn thứ hai chính là nói về pháp dụ khiến cho khai ngộ.

Đầu tiên là văn xuôi.

Văn xuôi, sau là kệ tụng.

Văn xuôi có ba:

  1. Trình bày thí dụ.
  2. Hợp nói.
  3. Kết luận đáp.

Vì nhân duyên ấy cho nên biết chư Phật dùng năng lực phương tiện hóa độ . Trong thí dụ có hai:

  1. Thí dụ xưa là quyền.
  2. Thí dụ pháp thật ngày nay, tức từ câu: Lúc này các người con thưa với cha: “Cha trước có hứa cho cho đến.”.

Thí dụ nói pháp quyền có bốn phần:

  1. Dục Phật có trong ba cõi.
  2. Từ câu “Người trong đó rất đông” trở xuống là thí dụ năm đường nguy ách.
  3. Từ câu “Trưởng giả thấy lửa lớn” trở xuống là thí dụ lập quyền phương tiện.
  4. Từ câu “Lúc ấy các người con nghe cha nói” trở xuống là thí dụ dựa vào nói lập phương tiện.

Phần đầu lại có sáu:

  1. Xứ sở
  2. Chủ nhà
  3. Già yếu
  4. Sản nghiệp
  5. Tướng nhà
  6. Cửa đường.

Trong đây lại có ba: Xóm ấp, xóm làng, tức là xứ sở. Đã nói ba thừa, nên biết là hóa Phật. Hóa Phật chỉ là vua của cõi nước tam thiên. Nước lớn mà rộng là dụ cho cõi Đại thiên. Ấp rộng vừa là kế dụ cho thế giới trung thiên. Xóm làng rất nhỏ là dụ tiểu thiên thế giới. Từ đại trung tiểu thứ lớp mà dụ như thế. Trong Quảng Nhã nói: Xóm làng là nơi ở, là đông người nhóm hợp lại ở. Lại cũng có nghĩa là đình là viện. Có đại trưởng giả đó là chủ nhà. Trong dụ dưới nói trừ các sự hỏi đáp thì có tám trưởng giả.

Năm dụ đầu là hóa thân ra các con ở trong nhà, ba dụ sau là hóa thân và thân tha thọ dụng . Các con trong Ba thừa cùng ra khỏi nhà lửa. Dụ hỏi đáp ở dưới có năm trưởng giả đều hợp dụ hóa thân và thân tha thọ dụng .

Như Trưởng giả ở thế gian có ba thứ:

1/ Có thể bẩm thừa trưởng giả các việc bình quân. Biết rõ các pháp khéo dứt thị phi dụ cho. Phật từ bi, và trí tuệ đều tròn đẹp mà giải quyết lưới nghi.

2/ Là bậc trưởng giả lớn tuổi đáng kính. Ở trong thành ấp tôn uy chẳng ai sánh bằng; dụ cho Phật đạo cao hơn các Thánh thần thông không ai bì kịp.

3/ Là bậc Trưởng giả có thể gần gũi, nhờ giúp, tức giúp cho mình đầy đủ tùy sức cần dùng. Đây dụ cho phước trí của Phật đều đầy đủ lợi lạc bình đẳng. Trí đức, đoạn đức, ân đức thí dụ đều như thứ lớp.

Nói tuổi già suy đây là già yếu. Suy còn là già suy. Chữ Mại là từ lâu xa trở về dụ cho Phật từ lâu tu trí kiến quả Thánh tròn đầy thuần thục. Thành đạo từ lâu xa mới trở về nhập Niết-bàn. Chẳng phải nói nay sanh tức nói chung các vị trước.

-Kinh: “Của giàu vô lượng cho đến chỉ có một cửa.”

-Tán: Đây nói ba phần: Sản nghiệp, tướng nhà, và cửa đường.

Nêu sản nghiệp có bốn ý:

1- Dụ giàu có của cải: Bảy tài đầy đủ.

2- Dụ ruộng là hai thứ trí và đoạn là nơi sanh ra công đức.

3- Nhà dụ cho bổn thức dị thục của các chúng sanh. Cho nên bổn thức cũng là trạch thức. Như vua có bốn biển là nhà, quang trạch khắp thiên hạ. Phật cũng như thế. Lấy tất cả chúng sanh làm nhà của mình. Thể tức là bổn thức, cho nên trong kinh Vô Cấu Xứng chép: Các cõi nước hữu tình là cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm của Bồ-tát. Chúng sanh vô lượng nên nói có nhiều. Trong phần tụng nói: Chỉ có một người. Cho nên nói là có một nhà lớn. Hoặc như một với sáu hợp lại mà quang trạch. Do đó đây gọi là nhiều. Dưới nói có một, cũng như nói thấy bình đẳng chúng sanh như là một người con. Hoặc đây y cứ sự khác nhau của chúng sanh, nên nói là có nhiều. Dưới nương theo Phật làm chủ, cho nên nói có một, sự thật thì nhà này một nhiều không khác. Do lấy dị thục thức làm nhà, nên nhà này xà cột đều gãy mục tai họa sẽ xảy ra. Nếu nói thiền định là nhà, thì sao có tai họa, nói mục, cũ, nát cho đến nên nghĩa nhà này có khác nhau.

4- “Tôi tớ v.v…” Trong phần hợp nói ở dưới dụ cho thần thông của

Phật, tùy ý tự tại.

Lại dụ Phật nói về khởi ra phiền não, phẩm Bồ-đề phần kinh Vô Cấu Xứng, chép: Phiền não là kẻ tôi tớ, thấp hèn tùy ý mà chuyển. Như Lai có thể lấy phiền não làm tôi tớ, rất khinh nhà cửa, dứt hết vinh hoa, cũng dùng làm tôi tớ nên tùy ý chuyển. Ái ngữ với La-hầu-la mắng Điều-đạt, vì lợi lạc chúng sanh. Văn dưới lấy trí tuệ thần thông làm lực tay và chân của Phật, cho nên nay nói tôi tớ chẳng phải nhất định là thần thông. Trong nói văn nói người nam có tội làm tôi tớ thì gọi là đồng. Nữ sĩ theo người xuất giá thì gọi là bộc. Lại nói cấp sử là người phục dịch.

Tướng nhà đó rộng lớn: Bổn thức là nhà. Y theo phần hợp nói dưới nói thì chu vi là cả ba cõi, hoặc vô thỉ hữu, hoặc bap gồm tất cả hạt giống chuyển biến làm ba cõi. Thể chung cả hai sanh tử, nên nói là rộng lớn, tên khác thể đồng.

Chỉ có một cửa: Cửa là nhân để ra khỏi nhà. Trong phần văn xuôi này đối với dụ và hợp gồm có năm cửa: Một là đây nói chỉ có một cửa; hai là cửa bị đốt cháy; ba là cửa nhỏ hẹp; bốn là nay đang ở ngoài cửa; năm là dùng cửa Phật giáo để ra khỏi nhà ba cõi khổ.

Bốn cửa đầu ở trong dụ. Một cửa sau ở trong hợp. Cửa có hai thứ 1) Cửa chánh lớn chính giữa chỉ có Nhất thừa giáo hạnh.

2) Cửa bên cạnh nhỏ hẹp là chỉ có Nhị thừa giáo hạnh. Ba cửa đầu là nói cửa chánh lớn chính giữa, thể tức là giáo hạnh của Nhất thừa, hai cửa sau lớn, nhỏ ở bên, gọi là cửa. Thể tức là giáo hạnh của Ba thừa. Có thể đưa người ra khỏi nhà biến dịch ba cõi. Cho nên ở cửa đầu gọi là một, không gọi là ba. Hai là Phật từ cửa thiêu đốt an ổn bước ra, mà không ra từ cửa Nhị thừa giáo hạnh. Ba là cửa nhỏ hẹp không dung chứa Nhị thừa. Cho nên biết ba cửa đầu chỉ là Nhất thừa giáo hạnh. Bốn là cả ba xe đều ở ngoài cửa, há Nhị thừa cũng ra bên ngoài của giáo hạnh Nhất thừa. Năm là thấy chúng sanh từ cửa Phật giáo ra khỏi Ba cõi khổ, đắc quả an vui Niết-bàn, cuối cùng đem cho xe lớn. Tức Nhị thừa cũng đã ra khỏi cửa. Từ đây mà biết thì hai cửa sau cũng có cả trung biên, đại tiểu, chánh bên. Tất cả đều gọi là cửa, khác với các nghĩa trước khác nhau mà không mâu thuẫn nghĩa. Các nghĩa cửa đến trong văn, mỗi mỗi sẽ giải thích.

Nay nói hai lợi hạnh tròn đầy rộng lớn có thể ra chỗ hai sanh tử. Cho nên cửa gọi là một mà không gọi là hai. Ở đây nói cửa ra khỏi ba cõi chẳng phải là cửa đi vào Tịnh độ. Kia thì dùng đại không, vô tướng vô nguyện, giải thoát làm cửa để vào, chỗ hướng đến có khác. Đây dùng giáo đối với lý, lấy nhân mà đối với quả nên gọi là cửa. Kia dùng trí đối cảnh gọi là cửa. Lại đây, so với ba cõi mà gọi là ra. Nếu so với Tịnh độ thì cũng gọi là nhập, thể là một vậy. Đây nói ra khỏi cửa Ba cõi mà không nói nhập vào cửa Ba cõi. Nhập vào cửa nghiệp và phiền não trong Ba cõi. Tùy đối chiếu nghĩa có khác mà không trái nhau. – Kinh: “Có nhiều người cho đến.. dừng trú trong đó.” – Tán: Dụ năm đường nguy vong, có bốn ý:

  1. Rất đông người.
  2. Nhà hư nát sắp sập.
  3. Tai nạn các nơi nổi lên.
  4. Các con chơi đùa trong đó, đây là nói phần đầu.

Hạt giống năm đường gọi là chỗ huân tập. Vì nghiệp chiêu trong các đường khác nhau nên có năm. Tùy theo chúng thích ứng mà có riêng chi hữu. Có mười thứ nghiệp thiện ác, tùy theo chỗ chiêu cảm của mười nghiệp này mà gọi là “năm trăm người”.

Nghĩa là trong mười nghiệp đạo, mỗi nghiệp đều có tự tác giáo tha, khen ngợi khuyến khích, vui mừng, an ủi, thiểu phần, phần nhiều, toàn phần, thời ít, thời nhiều và trọn đời cho đến. Mỗi nghiệp khác nhau có mười, mười nghiệp tu chiêu cảm quả nên đặt tên thành năm trăm. Hoặc trong mười nghiệp đạo, mỗi nghiệp do mười hoặc phát nhuận lên nên gọi là năm trăm. Các thứ này ở trong bổn thức đều gọi là “Ở trong nhà lửa.” Do các hạt giống này làm nhân, nên luân hồi trong năm đường khổ đau không dứt.

-Kinh: “Lầu gác đã hư mục cho đến cột xà nghiêng đổ nguy hiểm.”

-Tán: Nhà cửa hư mục nguy ách này có bốn:

  1. Lầu gác dụ cho sắc.
  2. Tường vách dụ cho tưởng.
  3. Chân cột dụ cho hành.
  4. Kèo cột dụ cho thọ.

Nhà đó là thức, gìn giữ bốn uẩn này. Văn dưới nói: Nhà đã lâu cũ mà lại hư mục. Lấy đây suy ra thì biết còn ngoài bốn thứ năm uẩn và bốn thức trụ:

Lầu gác hư mục là: Lầu dụ cho thân căn lớn và làm chủ. Các: Dụ cho các căn dựa vào thân mà có. Nhận lấy các thứ bất tịnh để duy trì lâu ngày tự sanh diệt nên gọi là cũ mục. Mục là hư nát, cũ kỉ rất xấu. Bên ngoài ngăn che là tường, trong ngăn giữ là vách. Tưởng uần bên ngoài biến các hình tượng như tường, bên trong biến thành vách, đều giả dối không thật. Vách tường sụp đổ, chân cột hư nát làpháp trong hành uẩn rất nhiều, hơn hết là mạng căn, làm chủ thân nên như cột. nhà, cùng với các thứ khác gọi là căn. Tánh của căn này mục nát nên gọi là hủ bại.

Cột kèo xiêu vẹo là: Rường là cột dọc, và là cột ngang. Bên trong quả dị thục thọ làm gốc như đống. Quả tăng thượng bên ngoài thọ làm ngọn như lương. Rường xà nương theo cột mà có, như quả thọ y theo nghiệp, mạng căn. Các xà ngang cột kèo nay sắp sụp đỗ rơi xuống nên gọi xiêu ngã. Trong nhà đó, dụ cho các pháp thọ giữ. Cho nên trong Dugià quyển mười sáu dẫn trong kinh tụng là: Các sắc như khối bọt. Các thọ như bọt nổi. Các tưởng như lửa cháy. Các hành dụ choc ây chuối. Các thức là huyễn sự. Cái gọi là các hành của nhật thân một thời sanh ra cũng là một thời trụ diệt. Kinh Vô Cấu Xứng cũng chép: Sắc như chùm bọt không thể nắm bắt, thọ như bọt nổi, không thể trụ lâu. Tưởng như lửa cháy từ khát ái sanh ra. Hành như cây chuối đều không có thật. Thức như là viễn huyễn, điên đảo nổi lên. Như trong Du-già nhiếp các môn khác phân biệt giải thích. Như nói da thịt xương cốt các việc biến khác thư giản, phối hợp với bốn câu này thì làm sao trong Ba cõi đều có đầy đủ hai cõi trên thì không có việc này, thì làm sao có lửa phiền não năng thiêu, và nhà nương tựa.

Ba cõi dụ đầy đủ, và nói quả dị thục bị thiêu đốt chỉ dụ cho cõi người ở trong cõi Dục mà trong sáu tầng trời Dục còn nói đã không có sự hoại nát của da, thịt cho đến vì thế, chỉ nên như giải thích ở trên.

Lại giải thích phần hợp dụ ở dưới, vì muốn cứu giúp sanh già bịnh chết cho chúng sanh tức cũng như chi phối ở đây y cứ là thật.

Bốn tướng biến khắp trong năm uẩn mà có ở dưới nói: Lửa lớn từ bốn phía nổi lên. Bốn phía theo kinh nói là bốn tướng, như trong đây là chỉ cho bốn uẩn. Lấy các pháp ở cõi Dục để dụ cho dị tướng khổ quả là để cho sanh nhàm chán, nhân khổ phiền não trong ba cõi thí dụ chung cũng không trái lý.

– Kinh: “Bốn phía đồng một lúc cho đến thiêu đốt nhà cửa.” – Tán: Các nơi lửa bốc lên.

Biến khắp cả năm uẩn gọi là bốn phía bao quanh. Niệm niệm cùng khởi thì gọi là cùng lúc; chẳng lý do mà có gọi là bỗng nhiên. Phiền não tùy theo đó sanh ra thì gọi là lửa nổi lên, khiến cho năm uẩn này thành tạp nhiễm tánh, bất tịnh khổ tánh, vô thường ngã tánh. Năm uẩn biến hoại nên gọi là thiêu đốt nhà cửa. Ý ở đây nói là biến duyên khắp năm uẩn. Niệm niệm bất chánh nên sanh ra phiền não, phiền não thêm lớn trói buộc. Thế nên thân năm uẩn thành ra bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã. Cho nên gọi là thiêu đốt nhà cửa. Nói nhà tức gồm cả lầu gác cho đến Do nhà mà nạn lửa phát sanh. Do lửa mà nhà bị thiêu đốt. Tức nhân nơi năm uẩn mà sanh ra phiền não lại nhân phiền não mà thêm lớn năm uẩn. Hai tướng nhân hữu cũng vậy. Hoặc khắp sanh già bịnh chết cũng có phiền não, nên lấy đây thí dụ. – Kinh: Các con của trưởng giả…ở trong nhà đó” – Tán: Các con ở trong nhà lửa vui chơi.

Tuy là chúng sanh trong năm đường mà đều là Phật tử, Phật đều thương yêu không nghiêng lệch. Nhưng chúng sanh chỉ là con nuôi. Nếu có hạt giống vộ lậu trong Ba thừa thì có thể nối ngôi vị của cha. Sanh giữa, sanh bên mới gọi là con thật. Cho nên chỉ nói ba mà không nói bốn năm. Y theo phẩm Hiển Thủ kinh Hoa nghiêm nói: Mười dụ cho Bồ tát, hai mươi dụ cho Độc giác, ba mươi dụ cho Thanh văn, mỗi chúng ta theo mười thứ pháp hành của thừa mình thuộc về ba tuệ. Và tu mười nghiệp đạo trợ giúp hạt giống vô lậu mới đắc quả tròn đầy. Nói mười, hai mươi, ba mươi đó là do có đầy đủ một tánh, hai tánh, ba tánh mà có khác nhau. Nên nói mười, hai mươi hoặc ba mươi. Vì trong kinh này mang các căn tánh, đều y theo tự thừa mà tu các pháp hành, trợ giúp các chủng tánh này mà lập ra mười tên gọi.

Năm đường trước là thuận theo bổn thức mà gọi là dừng ở trong.

Tam vô lậu chủng dựa vào bổn thức mà gọi là ở tại nhà này. – Kinh: “Trưởng giả thấy là cho đến liền rất sợ sệt” – Tán: Phần thứ ba lớn dụ về quyền phương tiện. Có bốn:

  1. Dụ thấy khổ sanh từ bi.
  2. “Xá-lợi-phất!… Trưởng giả đó v.v…” chỉ rõ dùng Đại không mong cứu được.
  3. “Bấy giờ Trưởng giả liền nghĩ v.v… “là suy nghĩ cách cứu giúp.
  4. “Cha biết rõ tâm trước của các con v.v… ” Đây là dụ chánh nói về Ba thừa.

Sanh tâm bi nghĩa là khi Phật xưa còn ở địa vị Bồ-tát, hoặc lúc mười sáu vương tử v.v… cho nên trước nói: Từng ở chỗ hai muôn ức Phật giáo hóa các thầy. Phẩm trước cũng nói Phật vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi. Không mong cầu chỉ bày Đại: Như mười sáu vị vương tử kia từng được giáo hóa pháp Đại thừa nhưng giữa đường tâm lui sụt. Ở trong phẩm trước cũng nói: “Trí tuệ sở đắc của Ta cho đến các pháp như thế làm sao mà có thể độ? Trước đây cũng nói: Ta xưa giáo hóa ông chí nguyện Phật đạo, nay ông đều quên hết.

Nghĩ cách cứu giúp: Thấy người lui sụt rồi, sau suy nghĩ cách cứu giúp. Phẩm trước cũng nói: Nghĩ trong thời Phật quá khứ, cho đến nay Ta cũng nên nói pháp Ba thừa.

Chánh nói Ba thừa là: Gần gũi giáo hóa, khiến trụ vào Nhị thừa. Phẩm trước nói: “Liền đến Ba-la-nại v.v… cho đến tên Pháp, Tăng khác nhau”. Hoặc trước cũng nói: “Ta dùng phương tiện dẫn dắt ông sanh vào trong pháp ta”. Chẳng những đồng với phẩm này mà cũng đồng với phẩm gã cùng tử, đến dưới sẽ nói.

Văn đầu cũng có hai:

  1. Nói sanh tâm từ bi.
  2. Trình bày việc bi.

Lửa bốc cháy lớn là phiền não và tùy phiền não. Bốn phía là: Trong năm uẩn đều có sanh trụ dị diệt, bốn vị trước sau.

Kinh A-hàm chép: Sanh là Đông phương, trụ là Nam phương, dị là Tây phương, diệt là Bắc phương. Dụ mặt trời mọc lặn là phối hợp cả bốn phương. Do bốn vị này mà sanh ra phiền não. Hoặc thân, thọ, tâm, pháp duyên khởi lên bốn điên đảo. Do bốn duyên này mà sanh ra điên đảo căn bản, tự tánh, tất cả phiền não đẳng lưu, và tùy phiền não.

Rất kinh sợ: Cha thấy lửa cháy sợ thiêu đốt con nên hoảng hồn kinh sợ. Phật thấy hoặc nghiệp nổi lên sợ tổn chúng sanh mà khởi bi ý.

-Kinh: “Mà nghĩa … ý cầu ra khỏi”

-Tán: Đây trình bày sự bị thương. Ta tuy đã thoát ra, còn các con thật đáng thương.

Cửa bị cháy này là giáo hạnh Nhất thừa. Vì nhiều oán ghét, chê bai, bất tín, bị chướng nạn phá hoại phiền não làm ngăn trở nên gọi là cửa ở nhà bị cháy.

Vì thếb kinh dưới nói: Kinh Pháp Hoa này có rất nhiều oán ghét. Nhân vị của ta trước kia nương vào giáo pháp Nhất thừa, quán lý hai không, tu hành hai lợi. Chứng hai chân trí, ra khỏi phần đoạn sanh tử, nhập Bất thoái địa. Đó gọi là ở nơi cửa bị cháy này an ổn vượt ra, nương vào xe báu mà đến Đạo tràng. Nhưng chúng sanh đủ các tham chấp, tham chấp giới, địa, phần, và thừa. Do tham chấp này mà buông lung chơi giỡn trong nhà lửa không nghĩ lường, lấy trí tỷ lượng giác biết trí hiện lượng mà hay, không lo sợ sanh nghi quái lạ. Cũng không nhàm chán hoạn nạn sanh tử, do đó mà lửa phiền não thiêu đốt thân. Khổ quả sanh tử hiện tiền thật là đau khổ, mà không có ý nhàm chán lìa bỏ. Không cầu xuất thế, không chứng diệt tâm. Cho nên trong phẩm trước nói: Không cầu uy thế của Phật và chỉ cho pháp diệt khổ, chúng sanh như thế thật là đáng thương xót! Trong kinh Hoa nghiêm nói: Cũng như người có con một rất yêu thương. Bỗng có kẻ khác đến làm hại cắt bỏ thân thể tay chân của đứa con đó. Người cha trông thấy đau đớn xót thương. Kinh này cũng giống như thế.

Chư Phật, Bồ-tát thấy chúng sanh gây ra các nghiệp duyên ác, bị phiền não trói buộc sa vào ba đường ác chịu vô lượng khổ, Phật thấy những việc như thế khởi tâm bi nguyện xót thương cũng như vậy. Trong kinh Vô Cấu Xưng chép: Cũng như Trưởng giả chỉ có một đứa em. Khi con bị bệnh thì cha mẹ cũng bệnh.

Hỏi: Trong đây kinh nói: Ta ở cửa này an ổn ra khỏi trước các con. Vì sao văn dưới nói: Ta và các con nếu không ra ngay v.v… tức cùng các con ra đồng thời phải không ?

Đáp: Văn dưới kinh tự nói: Trưởng giả nghe rồi kinh sợ bèn vào nhà lửa, trong phần hợp dụ tự nói vì lợi ích chúng sanh mà Phật hạ sanh vào nhà lửa ba cõi cũ nát. Kinh Niết-bàn chép: Ví như nhà của trưởng giả bị cháy. Trưởng giả thấy mình đã từ nhà đó bước ra. Các con ở sau chưa thoát ra được nạn lửa. Ông biết lửa sẽ làm nguy hại nên vì thương con ông trở lại cứu mà không màng đến thân mình. Chư Phật, Bồ-tát cũng vậy, tuy biết sanh tử nhiều hoạn loạn. Vì chúng sanh mà Phật trở vào đó không nhàm chán. Cho nên gọi là bất khả tư nghì. Lại nói về cùng đưa các con ra, chứ thật thì Phật đã ra trước.

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến từ nhà đó mà ra ngoài”.

-Tán: Phần thứ hai khai dụ chỉ Đại thừa khôngmong cứu được.

Có bốn:

  1. Suy nghĩ dùng quả Đại thừa hóa độ.
  2. Lại suy nghĩ nghĩ về nhân hóa Đại thừa.
  3. Khởi niệm rồi thì tùy hiện ra các sự hành hóa Đại thừa.
  4. Cha tuy thương xót mà không mong dùng pháp Đại thừa hóa độ.

Trí tuệ của chư Phật gọi là quả Đại thừa. Ngôn giáo được giảng nói là quả đức của Phật. Thân có năng lực thì gọi là hai chân trí, Phật dùng trí làm thể. Tay có năng lực là sáu thần thông, tác dụng bên ngoài. Phật suy nghĩ: Ta có đủ hai đức thù thắng này. Chúng sanh chủng tánh Nhị thừa tuy không tu hành Đại thừa có ý cầu ra khỏi nhà lửa. Nên ta lấy trí tuệ, dùng bàn ghế, trao cho hành trung căn chứng quả viên giác, dùng dụng thần thông tay áo mà cứu khổ chúng sanh hạ căn bắt buộc chúng sanh ra khỏi nhà lửa Ba cõi mà cứu độ họ.

Vì hàng Bồ-tát thượng căn đã hành trì pháp Nhất thừa nhờ đó mà ra khỏi ba cõi. Như đứa con lớn có thể từ cửa này mà ra. Trong đây không nói như thế, mà chỉ nói hóa Nhị thừa bất định tánh. Trung căn Độc giác không thể tu nhân Nhất thừa không nương thần lực Phật, mà chỉ dựa vào dụng trí tuệ của Phật. Như những người con kia không thể bước ra không thể nhờ người khác dắt tay. Chỉ trao cho bàn ghế, để cho con nương theo đó tự ra khỏi nhà. Người hạ căn Thanh văn không thể thực hành nhân Đại thừa, cũng không thể dụng lực trí tuệ của Phật nên trao cho thần thông. Như đứa con nhỏ không thể từ cửa ra không thể nhảy lên bàn ghế mà chỉ nắm lấy tay áo mà thoát ra. Vì thế, phần hợp dưới nói: Như Lai cũng như thế nhẫn đến có Đại thừa lực và trí tuệ lực, các phương tiện Trí tuệ ba-la-mật Đại thừa . Cho nên biết thần thông đó là lực của tay, là dụng ngoại biệt. Trí tuệ là thần lực, là tổng dụng bên trong. Y theo thân thì có tay, nương vào trí mà khởi thần thông. Trong đây nói phương tiện là hai lực tác dụng của tay áo và bàn ghế. Kia đã không thể tu hành đại hạnh, ta dùng hai năng lực phương tiện này mà trao cho Đại thừa, để họ thoát khổ thành tựu đại giác. Kia đã không thể tu hành đại hạnh, nên ta muốn dùng hai phương tiện này mà cứu độ họ.

Trước đã sanh ra những việc này, cũng chính là việc sau đó Phật thành đạo dưới gốc cây đi kinh hành. Trong hai mươi mốt ngày suy nghĩ việc này.

– Kinh: “Ông ta suy nghĩ lại cho đến mà lại nhỏ hẹp.” – Tán: Thứ hai: Suy nghĩ nhân Đại thừa hóa độ.

Trên suy nghĩ quả hóa rồi mà không được, nên phải dùng nhân để hóa. Nhân hóa có ba:

  1. Đầu tiên nghĩ không thể nương vào hạnh Đại thừa.
  2. Hoặc khởi chê bai, đam trước vào đường ác.
  3. Nghĩ nên chỉ các khổ, thầm nói Đại thừa.

Nhà của hai thứ sanh tử trong Ba cõi chỉ có một cửa chánh Đại thừa là nơi thoát ra. Đại tánh Bồ-tát có thể hành trì đầy đủ. Tánh của Nhị thừa hiện ra không thể nương vào Đại giáo mà ra. Nếu Phật nói cho họ nghe, họ cũng không thể hành trì, không thể chứa hạnh này nên gọi là nhỏ hẹp. Không chấp nhận Độc giác hành trì nên gọi là hẹp. Không chấp nhận Thanh văn hành trì gọi là nhỏ. Cũng như biển lớn không dung nạp thây chết cũng gọi là hẹp, nhân hạnh Nhất thừa tuy rộng vô biên mà không dung chứa hạnh nhị thừa nên gọi là nhỏ hẹp.

-Kinh: “Các con nhỏ dại cho đến bị lửa thiêu đốt.”

-Tán: Nếu khởi tâm chê bai, đắm chìm, vào đường ác. Chúng sanh tuy có hạt giống xuất thế mà chưa khởi hiện hành thì gọi là nhỏ dại. Trĩ nghĩa là nhỏ, chưa có sự hiểu biết. Chưa khởi lên hiện trí thấu đạt Phật pháp Đại thừa sâu mầu mà luyến trước vào Ba cõi. Nếu liền nói cho họ nghe pháp Đại thừa, bởi họ đã mê đắm vào Ba cõi nên lại chê bai pháp khởi lên hoặc nghiệp, hoặc sẽ bị đọa lạc mãi mãi chìm trong khổ nạn. Thuận hành thì được ra, chê bai thì mãi mãi chìm đắm. Vì tánh bất định nên nói “hoặc sẽ”. Bị phiền não tổn hoại thì gọi là lửa thiêu. Ý này muốn nói nếu liền nói pháp Nhất thừa, mà mà họ đang đắm chìm trong sanh tử, sẽ sinh phá pháp, không tin đọa vào đường ác. – Kinh: “Ta nên vì chúng nói cho đến bị thiêu đốt.” – Tán: Suy nghĩ nói các khổ, thầm nói Đại thừa.

Thầm nói Đại thừa là nghĩ cách để chúng mau ra khỏi nhà lửa. Tuy biết những người kia không tin học thực hành lý Đại thừa mà vì làm nhân chứng bây giờ, suy nghĩ thầm nói.

-Kinh: “Nghĩ như thế rồi cho đến các con nên mau ra.”

-Tán: Thứ ba là tùy nói về hành Đại thừa hóa độ. Tức như trước nói đời đời đã từng theo Phật thọ hóa, cũng như nói: “Ta xưa dạy ông chí nguyện nơi Phật đạo. Ông nay đã quên hết.” Hoặc như văn dưới nói mười sáu vị vương tử bắt đầu kết duyên. Nay nói việc sanh tử đáng sợ và pháp Đại thừa đáng ưa. Cho nên nói đầy đủ.

-Kinh: “Cha tuy thương xót cho đến không chịu tin nhận”.

-Tán: Thứ tư là không mong cầu sự giáo hóa Đại thừa, đây có hai: Đầu tiên không tin cầu, sau không kinh sợ nhàm chán.

Do mê đắm sanh tử, không tin học lý, hạnh Đại thừa ý đây nói bắt đầu nghe ngôn giáo Đại thừa mà không thể nương theo lý, hạnh tu học trở lại trong vòng sanh tử nên nói là không tin nhận. Thọ có nghĩa là lãnh nạp, tín là chứng nhập. Không thể y theo hạnh mà chứng nhập lý Đại thừa gọi là không tin nhận phải hoàn toàn ngu pháp bắt đầu thuận tu tập theo.

-Kinh: “Chẳng kinh sợ cho đến nhìn cha mà thôi.”

-Tán: Ở đây không ghê chán, ghê lạ tức không kinh sơ. Không sợ hãi ngôi nhà năm uẩn hư hoại nguy khổ. không sợ lửa phiền não đốt cháy rõ ràng không mong cầu tâm thành Phật thoát khổ. Không phân biệt biết lửa phiền não đốt thân, năm uẩn là sanh tử, không biết các khổ đang ép ngặt, làm mất thân mình không tiến tu Thánh đạo. Thầm bị các khổ phiền não ép ngặt, thiếu là không có tác dụng của Thánh đạo. Như lửa cháy nhà cửa đều bị thiêu hủy mất hết tài sản tổn não thân mạng nên gọi là thất.

Nói ruỗi chạy Đông Tây: Đông là dụ cho đường thiện. Tây là dụ

cho đường ác, hơn kém khác nhau cho nên gọi là Đông Tây. Luân hồi trong năm đường, đắm chìm trong bốn sanh. Tuy thấy Phật nghe pháp mà ý không cầu thành Phật. Cho nên nói chạy giỡn nhìn cha mà thôi. – Kinh: “Bấy giờ trưởng giả cho đến tránh được hại này.” – Tán: Suy nghĩ tìm cách cứu giúp.

“Ta và các con nếu không ra khỏi đây”. Có chỗ giải thích: Vì chúng sanh bệnh nên Bồ-tát cũng bệnh. Chúng sanh ra khỏi thì Bồ-tát cũng ra khỏi. Thật thì Bồ-tát ra đã từ lâu, chẳng phải đến bây giờ mới cùng con thoát ra. Đây là ý nói: Phật Thích-ca hóa thân xuất gia thành đạo nhập vào Niết-bàn, nay mới hiện thân ra khỏi nhà lửa.

Người Thanh văn nay gặp Phật cũng ở thời nay, hiện đời Đức Phật Thích-ca mới ra khỏi sanh tử cho nên nói kịp thời ra. Thật sự trước đó Phật đã ở ngoài sanh tử. Vì thế trước nói: “Ta tuy ở cửa này được ra khỏi an ổn v.v… ”

-Kinh: Cha biết các con cho đến ý sẽ mê đắm .

-Tán: Đây là văn thứ tư chánh nói về dụ Ba thừa. Có hai:

  1. Biết căn cơ.
  2. Chánh nói.

Biết các con tâm trước kia đều có ưa thích tức là chủng tánh Ba thừa tùy theo căn cơ mà có khác nhau, pháp mỗi mỗi thích nghe tức là tất-đàn vị nhân v.v…

Biết tâm trước đó là do căn cơ hơn kém trí lực và thắng giải trí lực của Phật mà biết. Biết các thứ đồ chơi tốt đẹp quý báu là tùy theo tự quả các pháp công đức, tức do là chỗ Biến thú hành trí lựccủa Phật mà biết.

Trân bảo: Là đồ chơi tốt đẹp, là tốt đẹp, là chơi giỡn. Siêu xuất hữu lậu gọi là vật lạ lùng. Tùy được sẽ là của báu nên là thích.

Hỏi: Vì sao khi cho ngôi thành không nói trước ưa thích, nay cho xe lại nói là trước ưa thích?

Đáp: Xe là tùy căn cơ tu học sẽ đi đến nên trước có ưa. Thành là nơi nghỉ ngơi cho bớt mệt chẳng phải là nơi sanh về nên không là trước ưa. Xe là do tu mà sanh ra. thành là do tu hiển bày, cho nên xe nói ưa thích thành không có ưa thích. Lại nói lên điều ưa thích trước cũng không sai, vì biết chúng muốn lui về, tức thành cũng có nghĩa trước chúng ưa thích.

Hỏi: Vì sao xe cho là đồ chơi lạ lùng quý báu, mà thành thì không nói vậy?

Đáp: Tướng đức hữu vi có thể phân biệt biết, nên xe nói tướng đồ

chơi lạ lùng, vì tướng chung một đức vô vi chỉ nói ở hóa thành. Lại cả hai đều không khác. Trong thành thì có lầu gác nhà cửa tức là đồ châu báu lạ lùng.

– Kinh: “Mà bảo rằng cho đến đều sẽ cho ông.” – Tán: Đây là chánh nói. Có ba:

  1. Nói chung khiến cho lấy.
  2. Nói riêng ba xe.
  3. Khuyên ra ngoài rồi cho.

Nếu không nghe lời ra ngoài để lấy ba quả thì sau đó sẽ bị đắm chìm đọa vào biển khổ sanh tử, cho nên gọi là ưu hối. Đây là phần văn đầu. Ba xe ở bên ngoài cửa có thể lấy để vui chơi. Đây là ý văn thứ hai. Do hình mạo có lớn nhỏ mà nhận thọ có ít nhiều. Lội qua sông có cạn sâu nên dùng sức có mạnh yếu. Như dụ về căn tánh, bẩm giáo, chứng lý. Khả năng hành có ba thứ. Khả năng ấy là dùng công năng trí lực để dứt hoặc. Lại xe dê phần nhiều nhờ vào người. Xe hươu phần nhiều ở nơi chỗ tịnh. Xe trâu thì có đủ hai công năng mang vác vận chuyển, mỗi thứ tùy theo khả năng hơn để làm ví dụ. Đây là phần thứ ba y theo xứ có ồn ào, yên tĩnh.

Hai thứ xe dê, xe hươu có tên nêu ra để đem cho mà không thấy không cỡi lên. Đây là lấy chủng trí của nhị thừa tiểu trung làm thể. Nếu lấy Niết-bàn làm thể tức là hóa thành. Dưới nói vào thành rồi nghỉ mệt trừ hết khổ, thì vì sao lại không thấy xe, sau đó lại theo xin cha. Nếu lấy sở đắc sanh không vô lậu trí của Nhị thừa làm thể của xe, thì kia cũng đã bước lên. Vì sao nói là không được. Vậy nên biết hư chỉ sở đắc hữu lậu hậu đắc trí Tam muội của thế gian gọi đó là chủng trí xưng là thể của hai xe. Có tên không thấy, cũng không lên xe đi chơi, không thể phân biệt mà chứng các pháp. Lại hiển bày mượn Niết-bàn, nói là đã vào Niết bàn yên ổn, các người ấy có trí sanh không Bồ-đề mà không thể phân biệt pháp, nên không gọi là xe và không cho bước lên. Hoặc khổ đã diệt mà trí chướng chưa dứt thì sở chứng kia đã được là thiền định thế gian, dối gọi là xe để ra khỏi cửa. Vì tạm nhập Đại thừa, do đó mà chứng quả vị Đại Niết-bàn. Nên luận này chép: Người thứ nhất là lấy các thứ công đức gốc lành Tam muội của thế gian, làm phương tiện khiến cho vui chơi sau đó nhập vào Niết-bàn. Cho nên giáo pháp

Ba thừa hợp lại gọi là cửa. Lý nằm ở ngoài giáo nên gọi là ngoài cửa. Lại cửa này là nhân hạnh của Ba thừa. Quả vượt ngoài nhân nên gọi là ngoài cửa. Trong đây nhất định dùng phân biệt chủng trí, để làm thể của xe. Cho nên trong kinh nhiều lần nói: Rốt ráo đắc Nhất thiết chủng trí.

Vừa thừa vừa đại nên gọi là nghĩa Đại thừa.

Hỏi: Vì sao trong phẩm Phương Tiện, quyền thật, lý trí, nhân quả, đều nói; hai châu dưới chỉ nói lý trí, nhân quả?

Đáp: Trong thừa có quyền thật. Thật có nhân quả. Quả có lý trí. Ba thứ đều khác nhau. Không biết quyền thật thì các việc lấy bỏ không thành. Không biết quả nhân thì các pháp năng sởhướng đến không lập. Không rõ lý trí thì đâu có tâm Bồ-đề, Niết-bàn. Trí đoạn không viên đâu thành đạo mãn. Cho nên châu đầu tiên giáo hóa người lợi căn đều cùng tận huyền tông. Hạng trung căn một lần nghe dần dần biết pháp quyển thật, lấy bỏ, tuy là chưa biết thủ nhân. Cho nên nói ba xe khiến biết một hạnh Nhất thừa. Ẩn giác tịch trong quả, nói xe trí trong nhân. Lý kín trong nhân vị, nương theo đó tu tập mà sanh ra chủng trí. Lý dần dần tỏ ngộ mà trí chưa thông. Hạ căn tuy nghe lại quyền thật và cho nhân trí mà quả lý còn mê. Càng thấy rõ lý có giả, thật nói ra căn bổn khiến cho kia lấy mà xả bỏ sự an ổn phẩm Trí trong qua, cất giữ trong nhân cùng trang nghiêm, vì ứng cơ khác nhau mà ba châu có chút ít khác. Nói nhân quả Nhất thừa có riêng, có đủ, nên ở trong quả giác tịch, khai thị có tròn có khuyết. Pháp thân đại tuệ nói có đủ thiếu, nên trong luận Địa trì nói có bốn xe: Ba thứ xe trên và thêm dụ xe voi làm bốn Niết-bàn. Nương vào tánh Đại thừa thì gọi là Đại thừa, chẳng phải dụ cho tam trí. Kinh Niết-bàn nói có hai xe. Cũng như nhà vua, có đi xe bốn ngựa. Muốn đem xe lừa cho thì không có việc ấy. Đây dùng hình tướng nửa và đủ chẳng phải dùng ba căn cơ vận chuyển phân biệt, cũng không trái nhau.

Kinh Ưu-bà-tắc nói ba con thú lội qua sông, là dụ lý đồng mà chứng khác.

Luận Trí độ nói: Ba đường bị bao vây, dụ cho chúng Ba thừa bị bao vây trong vòng sanh tử. Dụng năng lực để thoát ra khỏi vòng vây thì có lớn nhỏ. Lại nói ba người đắc đạo là dụ cho sự chứng quả Ba thừa có rộng hẹp. Mỗi bên y cứ theo một nghĩa cũng không sai trái.

Các con mau ra khỏi đây, ta sẽ tùy nghi mà cho các con xe. Đây là đoạn văn thứ ba. Nay lược lại nói có năm việc hỏi đáp:

1- Hỏi: Trong trí có ba thứ hư thật đều gọi là xe. Trong lý có giả chân, thành gọi là biến khắp ba thứ. Vì sao trong kinh Đại Niết-bàn không gọi thành mà gọi Đảo châu báu.

Đáp: Là nơi nghỉ tạm, phải có đầy đủ công đức cao quý, chân diệt mới gọi là Đảo châu báu. Xe vốn là vận chuyển đến quả, năng vận chuyển đến đều gọi là xe. Lại nữa, đã nghỉ ở thành, nên tìm cầu cái khác, tìm chỗ không gọi là thành, còn vận tải gọi chung là xe, gần xa thì cũng gọi là xe.

2- Hỏi: Trí quả của Nhị thừa chia ra có xe dê, xe hươu. Diệt quả của Nhị thừa sao không hóa hai thành?

Đáp: Nơi nghỉ tạm đó nói hai thật có hai thành. Đối với thật mà nói giả nên gọi chung là một. Kinh Niết-bàn chép: Thanh Văn dùng tiểu Niết-bàn mà nhập Niết-bàn, Duyên giác lấy trung Niết-bàn mà nhập Niết-bàn. Cho nên chỗ tạm nghỉ đó cũng gọi là hai thành. Nay lấy chỗ dứt chướng thì đồng, lý sanh không cũng đồng, giả trạch diệt cũng đồng. Do ba nghĩa đồng này, nên hóa thành gọi là một. Như xe Bồ-đề có căn tánh lợi đốn khác nhau, nương theo Phật và tự ra, nhờ giáo quán lí, quán đế duyên khởi khác nhau. Tứ quả nhất quả khác nhau. Luyện căn thời gian khác nhau. Sự nói pháp, thần thông khác nhau. Do bảy nghĩa khác nhau này mà nói riêng có xe dê, xe hươu.

Lại vô vi là không phân biệt, cho nên nói một thành. Hữu vi có phân biệt nên nói xe dê xe hươu. Nhưng nói vô vi chỉ nói nhất thành. Dùng trí nói rõ diệt nên nói hai thành, đều không mưu thuẫn.

3- Hỏi: Vì sao hóa thành lập ra ở con đường hiểm. Cho đến dẫn nêu các thứ xe đó lại ở ngoài cửa.

Đáp: Dứt khổ thì gọi là thành giữa đường, dứt khổ trong thành. Vô lậu lìa trói buộc, thể của xe gọi là ngoài cửa. Lại không còn phần đoạn sanh tử, biến dịch sanh tử ở hóa thành. Đầu tiên dứt ở trung đạo, lý xuất nơi giáo, quả xuất nơi nhân, hai xe đều ở ngoài cửa. Lại lấy hai đường sanh tử để đối chiếu thì hóa thành ở chặng giữa đường. Một là lấy chết để đối biện. Hai là xe ở ngoài cửa nên dường như lý thật.

4- Hỏi: Vì sao cho xe mà nói là đi chơi cho thành thì nói an tọa.

Đáp: Niết-bàn có thể chứng nên thành nói là an tọa. Bồ-đề có thể sanh nên nói là dạo chơi. Hai quả vô vi, hữu vi khác nhau. Lại, tướng thành an vị nên nói an tọa, tướng xe vận động nên nói dạo chơi.

5- Hỏi: Vì sao hóa ra thành rồi khuyên người vào đó trước. Nay nói xe là dụ cho mau ra khỏi. Đây ở đoạn văn thứ ba khuyên cho là khó phải không?

Đáp: Hóa Phật trụ tại sanh tử để khuyên người vào trước. Nói về Phật thật ở quả cho nên nói là mau ra lấy. Lại khuyên người tu hành chứng quả nên khuyên vào trước. Trước trụ vào quả để gọi mời nên khuyên ra khỏi. Lại khuyên con ở thành nên nói vào trước, khiến nhận lấy quả của cha nên nói mau ra. Lại nên chứng Niết-bàn cho nên khuyên là nhập vào khiến cho sanh giác trí nên nói là ra. Cũng như nói Như Lai là Thiện thệ trụ nhân trụ quả điều mong mỏi đều khác nhau.

-Kinh: “Bấy giờ các người con cho đến tranh nhau ra khỏi nhà lửa.”

*Tán: Đây là phần dụ thứ tư, y theo lời nói mà tránh được nạn.

Có hai:

  1. Con tránh được tai nạn.
  2. Tâm cha mới an.

Chữ Thích nghĩa là, vừa lòng, làm vừa lòng, người Ba thừa nên gọi là thích nguyện. Lõng mỗi chúng đều mạnh mẽ tức là tâm tính tấn.

Dũng là tiến, nhuế là lợi là sắc bén là gốc lành là tinh tấn. “Xô đẩy lẫn nhau” là thân tinh tấn, cũng nói là ngữ tinh tấn vậy. Thân nghiệp ngữ nghiệp sách tấn cố gắng tinh tấn lẫn nhau gọi là cùng xô đẩy, tranh tu hành nghiệp thì gọi là đua nhau ruỗi chạy, cùng mong thoát khổ gọi là tranh ra khỏi nhà.

-Kinh: “Lúc ấy trưởng giả cho đến vui mừng hớn hở.”- Tán: Tâm cha liền an ổn.

Rời khỏi nơi nạn tai gọi là an ổn ra. Ở ngã tư đường là lí tứ đế. Ba thừa cùng quán lí tứ đế. Trong Đại Bát-nhã nói ngã tư đường là tứ đế, lìa phiền não chướng, ra khỏi phần đoạn sanh tử.

Không mái che gọi là trống. Mỗi pháp đều có ngôi vị sở y quả mãn gọi là đất. Lấy trí để an xứ chứng thì gọi là ngồi. Năm uẩn khổ hoặc nghiệp của phần đoạn sanh tử đều dứt. Hoặc đoạn hoặc bị hàng phục, lìa tam chướng gọi là không còn chướng ngại. Vừa với bổn ý của cha nên cha lòng thư thái,thấy các con đã thoát tai ách nên cha rất vui mừng. Người Nhị thừa đắc A-la-hán đoạn hết phiền não trụ vào hữu dư y Niết-bàn. Hàng Đại thừa đã nhập vào Sơ địa đắc vô trụ Niết-bàn, hàng phục phiền não, lìa phần đoạn sanh tử thì gọi là ngồi giữa đất trống không còn chướng ngại.

-Kinh: “Bấy giờ các cho đến nguyện thời ban cho…”

-Tán: Trên là dụ cho quyền biến trước kia. Dưới là dụ cho thật pháp bây giờ. Có hai: Trước dụ trao cho thật. Sau dụ cho giải thích nghi là phần hỏi đáp dưới. Trong phần đầu có bốn ý:

  1. Các con xin ba xe.
  2. Cha chỉ cho một.
  3. Giải thích chí của cha thành tựu.
  4. Vượt xa bổn tâm của con.

Ngoạn nghĩa là chơi giỡn. Hảo nghĩa là yêu thích, tốt đẹp. Tùy theo căn cơ Ba thừa đều có ở chỗ Phật chuyên ý mong cầu diệu trí ở thừa của mình. Nghĩa này đồng với việc xin cha xe. Người Nhị thừa lìa phần đoạn sanh tử mà đắc giải thoát. Chứng pháp tứ đế nhập vào hóa thành thì gọi là ra khỏi nhà. Thường ở nơi Phật tu tập các chủng trí văn tư tu. Rõ hết các pháp cầu chứng thì gọi là cầu xin xe dê xe hươu. Các Bồ-tát: Y theo luận này từ Sơ địa trở lên tuy lìa phần đoạn sanh tử mà chưa chứng giải thoát thì không gọi là nhập thành. Không mỏi mệt cho nên không nhập vào hữu dư, không nói Bồ-tát nhập vào hóa thành. Nhập vô trụ Niết-bàn cũng dứt phần đoạn sanh tử, ví như gọi là nhập thành cũng chưa trái với lý chung. Nếu như vậy thì cũng nên cho xe dê, hươu nói trên. Như thế chỉ theo cách giải thích đầu tiên là tốt. Đã hàng phục phiền não, ra khỏi phần đoạn sanh tử, cũng chứng tứ đế, cũng gọi là ra khỏi nhà lửa ngồi nơi ngã tư đường. Cầu diệu trí của Phật cũng như cầu xin cha xe trâu.

Hỏi: Ba con cùng ra khỏi phần đoạn, chỉ người Nhị thừa tự xưng là vào thành. Các con lớn cũng ra khỏi nhà khổ. Như vậy thì cũng phải được gọi là nhập thành phải không?

Đáp: Không mỏi mệt nhàm chán nên các con lớn không nhập thành. Hàng phục hoặc, lìa phần đoạn sanh tử cũng được gọi là ra khỏi nhà. Nếu nói nhập thành thì cũng không khó.

Hỏi: Như các con lớn không vào thành thì vì sao được lên xe, mà không vào thành,các con vừa và nhỏ vào thành mà không lên xe?

Đáp: Vì nhàm chán cầu dứt khổ nên hàng trung tiểu vào thành. Đại thừa không nhàm chán khổ thì không gọi là vào. Chỗ dứt khổ nên nói Nhị thừa, còn Đại thừa thì không vào thành.

Hỏi: Ngoài cửa có xe, hứa cho ba thứ xe . Giữa đường lập Hóa thành, vì sao chỉ nói hai?

Đáp: Hai xe đối với đại là nhân nên ngoài cửa có để ba xe. Thành là phương tiện đối với quả thật, nên giữa đường hóa ra thành. Lý thì tương tợ mà sở đối thì khác nhau, nên sự lập bày cũng khác nhau, thật thì không khác.

Lại kia không có chủng trí, muốn khuyên học Đại thừa nên ngoài cửa lập ra ba xe. Niết-bàn hữu dư người Đại thừa không cầu xin nên giữa đường lập ra hai ngôi thành. Nếu nhập mà không trụ thì không gọi là giả, chẳng phải hóa thành.

Hỏi: Ba xe đều cầu xin, thấy rõ sự cầu học đối với trí viên. Hai diệt không mong cầu lẽ ra không cầu dứt khổ.

Đáp: Đắc quả thì tự nhiên chứng diệt, nhập vào thành nên không nói mong cầu. Diệu trí tất cần dựa vào tu mà ra khỏi nhà lửa. Cho nên phải xin xe. Lại vì ở quả tiểu được thành cho nên không cần cầu xin. Vì chủng trí chưa đắc được nên không cầu xin xe. Hoặc giải thích thế này: Người Nhị thừa nhập vào hóa thành nhưng chưa được xe nên hết lòng xin. Bồ-tát không vào thành mà cũng siêng cầu đến Bảo sơ, nghĩa này có thể vậy. Đại thừa đến Đảo châu báu, theo lí cũng cần phải xin. Đối với hóa thành mà không xin cho nên không luận vì hể chuyên cầu là xin vậy. Xưa tương tuyền: Thành là nơi thật hóa ra để dứt khổ, cho nên không cầu xin, xe là việc hư tạo để xin. Nếu hiểu theo đây thì xe rời thành mà có khác nhau. Cầu không cầu nghĩa khác nhau. Cầu và không cầu nghĩa khác với thể của xe. Xưa giải thích là Thành hóa thành là loại xe phải xin.

Lại có nói giải thích: Xe phát ra từ quyền ban đầu, cho nên là hư tạo. Thành là để phòng giữa đường tâm lui sụt cho nên thật hóa. Đây cũng không đúng. Vì sao? Vì căn cở bắt đầu xin xe đã ra khỏi nhà. Lại thể không khác thì hư thật làm sao lại khác. Nên nói thể của xe thành là pháp gì? Cũng có giải thích thành kia cũng nên xin. Sự giáo hóa chẳng phải một đường cho nên không nói. Như trong kinh ở dưới chép: Bấy giờ bậc Đạo sư biết mọi người đã được nghỉ ngơi, không còn mệt mỏi và có thể đi tiếp. Tức là xin thành. Đây là xin Đảo châu báu chứ không phải xin thành. Tuy là dẫn ra văn nghĩa này nhưng cuối cùng cũng khó hiểu, nên tìm hiểu kĩ! Lẽ ra giải thích. Văn dưới nói bậc Đại sư, biết chúng mỏi mệt nên hóa ra ngôi thành tức là nghĩa xin. hoặc có người giải thích xe là dụ cho vô dư Niết-bàn, quả trụ chưa đắc nên cần phải xin. Thành là dụ cho hữu dư Niết-bàn, quả trụ đã đắc nên không cầu xin. Nếu vậy thì Bồ-tát nay đã cầu xin xe cũng nên đã đắc hữu dư mà chưa đắc vô dư. Cầu vô dư nên gọi là xin. Nhị thừa không có nhậm vận chắc chắn được thì cần gì phải xin. Vậy thì chỉ nên theo nghĩa ở trước, cái gọi là Nhị thừa Niết-bàn không khác nhau, nên xe dê xe hươu là không có.

-Kinh: “Xá-lợi-phất! cho đến. đồng một xe lớn.”

-Tán: Đoạn văn này nói chỉ cho một xe. Chia ra làm bốn:

  1. Cho xe
  2. Tô điểm.
  3. Hiển bày tướng trâu.
  4. Chỉ rõ người theo xe.

Xe trâu quả Phật là lấy Nhất thiết chủng trí trong bốn trí làm tánh, tức là hậu đắc trí. Nhân của xe thì lấy chủng trí trong hai trí là Bình đẳng tánh trí và Diệu quan sát trí làm thể. Tuy năm trí tuệ đều là Nhất thừa, ở đây chỉ lấy chủng trí trong tướng Bồ-đề làm thể. Nhất thiết trí thì rộng hẹp có khác mà ba thừa đều có, chứng trí đó phân biệt ra thành tứ đế thì mỗi đế đều có vô lượng tướng, Nhị thừa chẳng thể biết nên gọi là bất cộng đức. Cho nên, trong kinh thường nói rốt ráo đắc Nhất thiết chủng trí. Vô phân biệt trí dẫn xe chủng trì này, nghĩa như xe trâu trước không phải là thể chánh của xe. Như biểu vô biểu tuy đều là giới, mà từ khi Tăng thọ giới cho đến trì giới sau đó chỉ nói là vô biểu. Một niệm biểu giới lại không có nối tiếp, khi tác bạch tứ yết-ma hòa hợp mà được. Khi theo Tăng xin đã được biểu giới. Biểu tuy là căn bổn mà chỉ lấy vô biểu gọi là trì phạm giới. Xe này cũng vậy. Một đại sự trước dùng lý trí làm gốc Căn bản trí, Hậu đắc trí gọi dùng là Nhất thừa, mà nay lấy hậu trí gọi là xe, bổn trí là trâu, không nói ở lý vì là thể của xe. Sau trong Hóa thành, lấy chân đối với hóa bèn nói giả trạch diệt cho là hóa thành. Nói diệu lý chân như của đại Niết-bàn làm Đảo châu báu. Mỗi mỗi đều căn cứ vào một nghĩa gọi là Nhất thừa, sự thừa, lý thừa, hữu vi thừa, vô vi thừa đều khác nhau, như thể của xe dê, hươu đã nói. Thể của xe đã vậy thì muôn đức khác cũng thuộc các tô điểm của xe. Nếu đồng như trong kinh Niết-bàn và Thắng-man nói, chỉ lấy chân như làm thể của xe, thì sao đều ban cho các con một xe. Lại vì sao nói sự khác nhau của tướng đức trang nghiêm, vì sao nói xe trâu đi mau như gió và sao có thể nói ta có xe lớn bảy báu như thế, lại nhiều vô lượng, tùy tâm ưa thích của các con mà cho? Nhưng các con nhỏ, vừa cũng đã ra khỏi nhà rồi, tuy chưa được xe trâu mà cũng vì con nói đại giáo, hoặc nhất định sẽ được, chẳng phải lúc ấy đã được giảng nói trí thể. Như cho hạt ngọc mà chưa đắc thể. Cho nên trong kinh Thắng-man chép: Bình đẳng ba thứ ý sanh thân tức ba đứa con vậy. Đây nói sơ địa tức là bất thối địa. Lại đốn ngộ, lại là nhân hạnh của Đại thừa, từ sơ phát tâm thì cũng gọi là xe. Nay Bát địa trở xuống là nhân hạnh. Bất thối Thất địa trở xuống trước vẫn còn phần đoạn. Vì thế bên dưới Kinh nói: Thanh văn, Duyên giác, Bất thối Bồ-tát cởi xe báu vàng thẳng đến đạo tràng. Phẩm Phương tiện giải thích nhập tức là Bất lui sụt địa. Nay lấy theo ý trước mà giải thích, thì từ sơ địa trở lên lìa phần đoạn sanh tử gọi là Bất thối địa, gọi là nương Nhất thừa, kinh Lăng-già cũng do đây mà nói từ sơ địa trở lên gọi là ba thứ ý sanh thân.

– Kinh: “Xe đó cao rộng cho đến bốn phía đều treo linh.” – Tán: Nói tô điểm xe, có mười thứ, trong đây có bốn:

  1. Hình lượng.
  2. Tô điểm
  3. .Nhiếp ngự.
  4. Treo linh.

Cao rộng là chỉ về hình lượng, chỉ cho thể chủng trí của Phật thể cao cả ba cõi, dụng rộng cả mười phương, giáo hóa chiếu soi khắp cả pháp giới. Các báu trang nghiêm đó là chỉ cho tô điểm, các công đức đều do trí làm căn bổn.

Lan can bao quanh là ý nói nhiếp ngự. Ngoài chế ngự không nhập vào trong thu nhiếp không xuất ra, tức là bốn tổng trì. Ngự các điều ác không cho phát sanh, nhiếp các chúng thiện không cho tản mất, bốn mặt treo linh là chuông lắc, biến khắp tứ sanh nói bảy biện tài mà rộng giúp.

-Kinh: “Lại ở trên đó cho đến. mà tô điểm cho đến”.

-Tán: Đây có hai thứ trang nghiêm là loại thứ năm và sáu: Giăng màn trên cao và các vật báu. Dùng tứ vô lượng rộng che hết chúng sanh như màng, lọng. Tô điểm lẫn lộn: Là các thứ ngọc báu. Từ bi hỷ xả đều có: Hữu tình, pháp, và vô duyên, chành ác đức v.v… giúp thêm tô điểm.

-Kinh: “Các dây báu nối kết cho đến. đặt yên gối đỏ”.

-Tán: Đây có bốn: Loại tô điểm tức thứ bảy, tám rũ chân anh lạc, chín là bày biện và người là, sắp đặt gối đỏ.

-Dây báu kết thắt là bốn hoằng thệ nguyện, hễ có tu hành đều phát bốn đại nguyện:

-Nguyện cùng chúng sanh tu các gốc lành này. Người chưa lìa khổ thì nguyện cho lìa khổ.

1. Chưa được vui thì nguyện cho được vui.

2. Người chưa phát tâm Bồ-đề, dứt ác tu thiện, thì nguyện cho phát tâm bồ đề dứt ác tu thiện.

3. Người chưa thành Phật thì nguyện sớm thành Phật. Nguyện như các thứ báu nối kết lại chành ác khiến sẽ đắc quả. Chắc chắn thù thắng cho nên tà kiến không thể làm khuynh tổn.

Trong kinh Thắng-man nói: Nhiếp thọ chánh pháp là nhiếp tất cả nguyện.

Du-già thì nói chung có hai nguyện. Nguyện cầu Bồ-đề và lợi lạc hữu tình.

Treo các thứ hoa báu đó là hoa báu rủ xuống, tức là bốn nhiếp. Rũ xuống nhiếp bốn sanh:

  1. Bố thí
  2. Ái ngữ
  3. Lợi hành
  4. Đồng sự.

Xưa có giải thích rằng tĩnh lự là mềm mỏng, mềm mại, tâm thường yên ở. Vì trên dưới Tứ thiền khác nhau nên nói: “trái chống”. Lí này không đúng. Kinh Vô Cấu Xưng nói: Bốn tĩnh lự làm giường, tịnh mạng làm nệm, thân ngữ, ý, nghiệp đều không có tâm tham phát, thường du hành, thừơng hành tịnh mạng, lìa năm tà mạng. ba nghiệp đều vậy gọi là trái chống, mà để yên gối đỏ lên

Xưa giải Niết-bàn có thể dứt sanh tử. Nay giải thích diệt định có thể dứt phan duyên. Để mệt mỏi tựa gọi là đặt gối. Đã an trên xe rõ rảng chẳng phải Niết-bàn, chỉ lấy diệt định. Gối có gối tiên đan tăng thêm tuổi tuổi thọ thì gọi là gối đỏ. Vô lậu diệt định cũng như thế, làm cho thêm lớn Thánh đạo. Lý này không đúng. Bên Tây Vức không có gối tiên đan, có có gối màu đỏ. Bên trong chứa các lụa chỉ, ngoài bọc da đỏ nên gọi là gối đỏ. Lại có nói giải thích: Thể tức là ngũ căn vô lậu:

Tín, tấn v.v… giúp đỡ Thánh đạo nên gọi là chẩm.

– Kinh: “Dùng trâu trắng kéo cho đến đi nhanh như gío.” – Tán: Nói tướng trâu có bảy:

1) Trâu trắng: Thể tức là căn bản vô phân biệt trí dẫn dắt xe chủng trí, như trâu kéo xe vậy. Màu trắng là căn bản của các màu, như hoa sen trắng, tiêu biểu cho căn bản của các bộ kinh, là đứng đầu muôn đức. Trâu đầu đàn có ba đức:

a) Hàng oán: Có thể dứt hai chướng.

b) Đoan nghiêm: Các đức trang nghiêm.

c) Vận tải: Cứu độ tự tha cho nên dụ ở trâu mà không nói voi, ngựa. Đại thừa như ngựa tài giỏi tú không thể so với xe lừa chậm chạp của Tiểu thừa. Cho nên kinh Niết-bàn chép: Lấy ngựa kéo xe, lấy voi để chỉ hình tượng đức lớn, so với đức nhỏ của các thứ xe trâu xe dê, xe hươu. Niết-bàn vô trụ là trên hết. Do đây mà trong kinh Thiện giới dùng voi để kéo xe. Nay vì trâu có ba đức để kéo xe Đại thừa nên gọi là trâu trắng.

2) Da thịt đầy đặn: Trong chánh trí nội đức đều tròn đầy.

3) Sắc sạch ba chướng dứt trừ hẳn giới đức đầy đủ.

4) Hình thể tốt đẹp: Tướng tốt tròn sáng, trời người đều yêu kính.

5) Có sức rất mạnh: Có ba ý:

-Rảo bước khắp phương. Trí lực đầy khắp, chẳng lý nào mà không đạt đến.

-Đi những nơi hiểm trở mà không mỏi mệt. Có thể hóa độ khắp mười phương vào đường hiểm sanh tử mà không biết mỏi mệt.

-Gặp kẻ thù thì là vượt qua, phá tất cả chướng, hàng phục sanh tử. Đủ ba nghĩa này gọi là có sức mạnh.

6) Bước đi ngay bằng: Hai lý đều cùng chúng, dẫn sanh hậu trí, oán thân không hai.

7) Đi nhanh như gió: Thể tánh chánh trí trong một sát-na, duyên khắp pháp giới. Khởi tâm đại bi, bên trong đầy đủ các đức, ngoài giáo hóa chúng sanh, không có trì trệ. Từ sơ địa trở lên mau tiến tu quán quán không quán hữu chẳng còn vướng động.

Tánh tuy lanh lợi, nhưng sự thì ung dung, bảy đức trên đây có dụng mà không phải căn bản chánh trí. Do đó mà có cho nên được tên kia.

-Kính: “Lại có nhiều tôi tớ để hầu hạ.”

-Tán: “Nói về người tùy tùng, dùng nhị trí làm trước. Lục độ, tứ nhiếp, giác phần, giải thoát, phiền não các pháp lợi sanh, đều tùy theo đó mà khởi, nên gọi là nhiều tôi tớ theo hầu.

Kinh Phật Địa nói: Phật có vô lượng trời, rồng, Dạ xoa, nhân phi nhân v.v… cho đến thường theo giúp cũng nên gọi là theo hầu. Có chỗ giải thích thể của xe chỉ có Đại Nhập Niết-bàn, các thứ tô điểm khác hoặc chỉ là tánh công đức, hoặc tướng công đức. Thể của trâu là nhị trí kéo xe. Giải thích là trước là đúng như trước là không đúng.

-Kinh: “Vì sao? cho đến Thảy đều đầy ắp.”

-Tán: Thứ ba giải thích chí thành tựu của cha có ba ý:

-Nêu sự giàu có.

-Nghĩ sự quân bình.

-Giải thích lý do, ở đây là ý đầu.

-Sung mãn là đầy tràn, là đủ các thứ thể, các tàng hữu vi, vô vi là thể nghĩa năng hàm chứa, hoặc hai tạng ba tạng giáo năng hàm chứa lý. Nay cho con kho chứa .

-Kinh: “Mà nghĩ rằng cho đến không nên khác nhau.”- Tán: Đây là suy nghĩ chia đều có hai ý: – Không nên cho Tiểu – Đều nên cho Đại.

“Nay những trẻ thơ này v.v… ”: Là Mượn tưởng niệm. Vô cực là nghĩa không cùng cực. Nói hai thứ trí là nói xe xấu kém. Do có chủng tánh trước phát đại tâm gọi là trẻ thời có khả năng sẽ thàng Phật nên gọi là “con ta”. Lòng từ bi không hai nên gọi là “yêu thương không nghiêng lệch”. Dùng thất Thánh tài tô điểm nên gọi là xe “bằng bảy báu”, đều tự tu trí viên, trí hữu vi chẳng phải một nên gọi là “số nhiều vô lượng” ứng với tâm bình đẳng tùy căn cơ mà trao cho nên nói “mỗi con đều cho”. Cùng trao pháp Đại thừa không nên có khác nhau. Chữ Đồng nghĩa là đồng tử. Xưa gọi đó là bộc, là đồng bộc,nay là bộc lệ.

Nghĩa là trẻ con còn mê muội chưa khôn lớn.

-Kinh: “Vì sao? cho đến huống chi các con.”

-Tán: Đây giải thích lý do hết thiếu thối. Đem Nhất thừa này cho hết chúng sanh năm đường hữu tánh vô tánh của một cõi Phật, định tánh, bất định tánh, còn không thiếu thốn, huống chi chỉ là con thật của Phật căn tánh Đại thừa và bất định, mà sợ không đủ hay sao?

-Kinh: “Bấy giờ các con cho đến chẳng phải điều trước mình mong”.

-Tán: Thứ tư: Vượt ngoài tâm mong muốn của con.

Đã nói là đều cưỡi xe lớn, là biết rõ mỗi con tự đắc chủng trí.

Không giống như hóa thành mọi người đều vào.

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến. là không dối gạt.”

-Tán: dụ trên là nói thật, dụ dưới là giải thích nghi. Tức như quyển trước nói.

-Các thầy nên tin hiểu lời Phật nói là không luống dối. Nghĩa là chúng nghi là: Đầu tiên Phật nói ba, sau chỉ nêu một. Trước sau khác nhau, vậy không nói dối sao? Cho nên ở đây giải thích ra. Văn có ba phần: Hỏi; Đáp; và Ấn chứng.

-Kinh: “Xá-lợi-phất thưa cho đến chẳng phải là luống dối.”

-Tán: Phần đáp có hai: Một là nêu ; hai giải thích. Đây là phần nêu.

Hàng phàm phu lìa dục, hàng phục phiền não thì gọi là tránh được hỏa nạn. Lìa ba đường ác ép ngặt cực khổ thì gọi là bảo toàn thân mạng.

-Chưa ra khỏi trời người, như ở trong nhà lửa mà vẫn toàn thân mạng.

Kinh: “Vì sao? cho đến cứu độ họ.”- Tán: Phần dưới giải thích có hai:

  1. Tránh được nạn rồi thì chẳng phải dối gạt.
  2. Huống chi đem cho Đại thừa.

Chỉ được toàn thân mạng ra khỏi ba đường ác, sanh về trời người, gặp được châu báu, huống chi tránh được tai nạn ra khỏi nhà lửa của trời người trong ba cõi.

– Kinh: “Thế tôn cho đến không dối gạt.” – Tán: Huống chi đem cho Đại thừa.

Có hai:

  1. Không đắc tiểu chẳng phải là dối, vì không trái ý trước.
  2. Huống chi đem cho Đại thừa mà thành lỗi dối gạt.

Tâm trước là giả thiết. Hứa cho ba xe nay tuy không được tiểu mà không trái với ý giả thiết trước. Tâm cảnh chẳng trái nhau, nên chẳng thành luống dối.

-Kinh: “Huống chi Trưởng giả cho đến. cùng cho xe lớn.”- Tán: Huống chi đạt Đại thừa, mà thành dối gạt. – Kinh: “Phật bảo Xá-lợi-phất cho đến. như lời ông nói.” – Tán: Đây là lời ấn khả.

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến. cha của thế gian.”- Tán: Đoạn lớn thứ hai là hợp nói: Có hai: a. Hợp quyền giáo trước

b. Hợp thật pháp bây giờ.

“Xá-lợi-phất! Như trưởng giả kia thấy các con được an ổn ra khỏi nhà cho đến.”.

Đoạn văn này có bốn ý:

  1. Ba cõi, Phật có họp.
  2. “Vì độ chúng sanh sanh già cho đến.” Là hợp năm đường nguy nan.
  3. “Thấy các chúng sanh vì sanh già bịnh chết cho đến” là hợp thấy lập phương tiện quyền biến.
  4. “Xá-lợi-phất! Như có chúng sanh bên trong có trí tánh cho đến” là hợp theo lời Phật dạy mà tránh nạn.

Dụ đầu tiên có sáu ý: Xứ sở; chủ nhà; già suy yếu; tài sản; tướng nhà và cửa.

Nay hơp có năm không có phần cửa. Trong văn này có hai: Của tất cả thế gian là hợp nghĩa xứ sở. Là cha hợp nghĩa chủ nhà.

Thế gian tức là hữu tình thế gian và khí thế gian. Kinh Vô Cấu Xứng nói: Chư hữu tình, cõi là cõi phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ tát, cho nên dùng hai thứ thế gian này gọi là cõi nước Phật. Con người là căn bản, cha (phụ) có nghĩa là người sanh dưỡng, khiến cho chúng sanh sanh trưởng gốc lành, kế tục ngôi vị Phật. Cho nên gọi là cha.

-Kinh: “Đối với các sự sợ hãi cho đến. vô lượng tri kiến.”

-Tán: Phần ba hợp nghĩa tài sản bên trên. Đây hợp nghĩa(nhiều ruộng. Hết các sợ hãi v.v… là hợp về ruộng đoạn. Vô lượng tri kiến hợp nghĩa ruộng trí.

Sợ hãi có năm thứ:

  1. Lo sợ không đủ sống nên phân biệt tài sản của ta mà khởi ái chấp.
  2. Sợ ác danh, hành không lợi ích nên vọng khởi lo sợ.
  3. Sợ chết, do đó có ngã kiến, khởi lên tưởng mất hoại.
  4. Sợ trong đường ác không gặp Chư Phật, khởi lên nghiệp ác .
  5. Sợ khiếp chúng, thấy đã chứng thấp kém, người hơn mình mà khởi suy não lo nghĩa là các khổ phá nhà diệt vong.

Trên đã hợp nói về quả khổ sanh tử. Vì vô minh che lấp, si ám thêm lớn làm căn bổn cho hoặc nghiệp. Đây là nhân của khổ không rõ việc từ trước đến nay. Vô minh che lấp như thế, mê hoặc Tam bảo như thế. Do chứng lý dứt hoặc, vĩnh viễn hết sạch. Cho nên các pháp vô vi đoạn đức tròn đầy. Thành tựu được tri kiến trí đức tròn đầy.

*Kinh: “Lực vô sở úy cho đến Ba-la-mật.”

-Tán: Đây trở xuống hợp nói của giàu vô lượng. Nội đức trí tuệ, và phương tiện khéo léo, đều đã đầy đủ đến bờ kia. Phần trên là tổng hợp về tài sản. Theo kinh Vô Cấu Xứng nói thì phiền não là tôi tớ. Nếu theo kinh này thì ngoài hóa thần thông cho là tôi tớ, dùng trí tuệ sách tấn, nhân đó mà nói.

-Kinh: “Đại từ đại bi cho đến thường cầu việc thiện.”

-Tán: Thứ tư là hợp: Nói tuổi cao suy yếu. Tướng của người già rất là thương xót, nên gọi là đại từ đại bi. Việc làm không phế bỏ, nên thường không có lười mỏi. Hễ làm việc gì đều quán xét suy lường rõ ràng, có trước có sau mà không bỏ phế giữa đường. Thế nên các việc đều có khuôn phép thắng pháp, thường cầu việc thiện. Trong đây tức là nói ân đức đoạn đức, trí đức, như thứ lớp đã nêu ra ba thứ Trưởng lão trước. Tự tha đều lợi ích. Đây là tiêu biểu cho việc tu nhân đã lâu nên bi trí đầy đủ.

-Kinh: “Lợi ích tất cả cho đến nhà lửa cũ mục.”

-Tán: Thứ năm là hợp nói tướng nhà, cũng hợp nói nhiều nhà.

Cùng khắp ba cõi, vì lợi ích chúng sanh trong năm đường, nói về trong đó cho nên trong dụ trước có nói: Ta và các con nếu không cùng ra”. Tức nói về làm chúng sanh ở trong sanh tử. Nói về ở thân ngày nay mới ra khỏi nhà lửa. Đây là nói lý do vào nhà. Cũng có giải thích lợi ích tức là nhà cửa. Phật vì muốn lợi ích chúng sanh cho nên cùng vào nhà lửa. Chúng sanh vì nương vào lợi ích mà ra khỏi nhà. Tức là giáo hạnh nhất thừa.

-Kinh: “Vì độ chúng sanh cho đến Tam Bồ-đề.”

-Tán: Đoạn lớn thứ hai hợp dụ sự nguy vong trong năm đường, dụ này có bốn:

  1. Vì độ chúng sanh hợp nói rất nhiều người.
  2. Vì sự sanh già bịnh chết ưu bi khổ não hợp nói nhà hư mục nguy ách.
  3. Ngu si ám chướng trong nhà lửa ba độc hợp nói tai nạn xảy ra khắp phía.

4. Vì muốn giáo hóa khiến đắc quả Tam Bồ-đề hợp nói cùng chúng sanh rảo chơi ở trong đó, sanh già bịnh chết ưu bi khổ não là dụ cho khổ và vô thường trong tứ uẩn. Trong ngôi nhà mục nát nguy hiểm, mỗi mỗi đều có sanh già bịnh chết. Nếu thứ lớp hợp nói nhà cửa thì nghĩa nguy cũ hơi khó biết. Hoặc trong nhà nguy hại mà có mất mát. Theo thật pháp thì nhà mục này lý chung cả ba cõi. Nghĩa tứ uẩn như trước đã giải. Nay lấy bốn tướng lầm lỗi biến lưu trong cõi Dục mà hiển bày ba cõi khổ, là để cho chúng sanh nhàm chán sâu xa việc sanh già bịnh chết. Do đó mà nói sanh già bịnh chết là ngôi nhà hư hoại tội lỗi. Nếu không như vậy thì vì sao tai nạn nguy ách lại nổi lên các phía. Có cả phiền não trong ba cõi cùng trong nhà mục nát này, chỉ nói khổ quả trong cõi Dục.

-Các con vui chơi trong đó đều có đại tánh: Đó gọi là trưởng giả mẹ sanh con thật. Trước chưa phát tâm thì gọi là con của ba cõi. Sau khi phát tâm thì dần dần đắc quả Bồ-đề.

-Kinh: “Thấy chúng sanh cho đến. thọ các điều khổ.”

-Tán: Đoạn văn thứ ba: Thấy rồi thì lập tìm phương tiện. Đây hợp với dụ trên có bốn:

  1. Thấy khổ, tâm từ bi sanh.
  2. Khai thị Đại thừa mà không mong nhận .
  3. Nghĩ cách cứu giúp.
  4. Chính nói về Ba thừa.

Đây hợp cũng có bốn:

  1. Hợp sanh từ bi.
  2. “Xá-lợi-phất! Phật đã thấy việc này rồi liền nghĩ: Ta là cha của chúng sanh,” hợp nói Đại thừa không được.
  3. “Xá-lợi-phất” Như Trưởng giả kia tuy thân tay có sức mạnh mà không dùng được. Là Hợp nói suy nghĩ tìm cách cứu khổ ở trên.
  4. Nói: Các ngươi không nên ưa ở trong ba cõi, hợp ở trên nói chánh nói pháp Ba thừa.

Trong thí dụ đầu có hai:

  1. Bi sanh.
  2. Sự bi thương.

Trong đây “thấy các chúng sanh là hợp với bi sanh “bị sanh già bịnh chết” hợp nói các sự bi. Trong sự bi đầu tiên hợp nói tướng khổ, sau nói tham đắm ưa thích. Đầu tiên nêu bảy tướng khổ trong cõi Dục. Sau nêu các tướng khổ như thế trong cõi Sắc và Vô sắc. Sắc và Vô sắc đều có đầy đủ khổ thứ tám là lược nhiếp tất cả năm thủ uẩn khổ.

Nói khổ cõi Dục có bốn:

  1. Bốn tướng cùng xâm phạm.
  2. Ngũ dục trái nhau.
  3. Lửa san tham thiêu đốt.
  4. Luân hồi các đường.

Ba khổ trước là khổ hiện đời. Một khổ sau là khổ đời sau.

Lại bốn tướng xâm phạm tức bốn khổ? Ngũ dục trái khuấy nhau, lửa san tham thiêu đốt tức là khổ mong cầu không được. Trong năm đường luân hồi mới biết là ái biệt ly khổ oán tắng hội khổ, cùng các thứ khổ, tức là lược nhiếp tất cả năm thủ uẩn khổ như là nhiếp chung hết tất cả bát khổ. Văn này ý nói là bốn tướng xâm phạm nhau, ngũ dục trái khuấy. Trong dụ trước thấy nhân lửa cháy mà kinh tâm. Trong hợp này do thấy quả khổ mà ý bi khởi cả trước và sau đều là sự đáng thương. Nhân trước quả sau đều là ép ngặt, đều là khởi từ bi vậy, đều nên nhàm chán vậy.

Đối pháp nói: Sanh khổ là sở y của các khổ, bị các khổ ép ngặt: Ở trong thai chín tháng mười tháng đó là thai tạng, như ở trong hầm phẩn uế chịu sự nóng lạnh lâu ngày khổ sở. Vào lúc sanh thục tạng như hai ngọn núi ép ngặt. Chính lúc hướng về cửa sanh thật là khổ nạn, lúc gió nổi lên như ngọn đao cắt vào thân thể, bất giác thất thanh, quên hết những sự việc trước kia của mình. Đây gọi là sanh khổ. Già khổ là lúc các phần biến dịch, thân nặng nề các căn mê yếu. Da dẻ nhăn nhúm đi đứng gượng gạo ăn ngủ bất an. Ngồi đứng rên rỉ ho hen khí nghịch việc làm thì chậm chạp bị người xem thường. Thế tình còn nặng mà thế sự đã dứt. Đó là lúc lão khổ. Bịnh khổ là lúc bốn đại thay đổi trái ngược. Trăm đốt đau nhức tứ chi khổ sở, làm hoại tất cả các việc an lạc vui vẻ. Như mưa đá làm hư hoại các mầm non. Do đây mà trong kinh nói: Như người thanh niên trai trẻ được vương phi trộm yêu mới làm chuyện tư thông. Vua bắt được sai người móc mắt, cắt hết tay chân tai mũ, hình dung bỗng chốc trở nên xấu xí ghê tởm. Bịnh khổ ép ngặt như thế thật là khó kham. Đây gọi là bịnh khổ.

– Tử khổ là lúc tuổi thọ biến hoại gió đao cắt lìa thân thể, chẳng có chỗ nào mà không đau khổ. Miệng há hốc, thở vội tay chân bấn loạn tròng mắt láo liên, tay quờ quạng hư không, mồ hôi, tiện uế lưu xuất đầm đìa.

Kinh Niết-bàn chép: Tử là nơi hiểm nạn không có tư lương, như đi trên đường xa mà không có bạn lữ. Ngày đêm đi mãi không biết ranh giới, thăm thẳm tối đen không có ánh đèn. Không có cửa vào không có chỗ ở, tuy không đau đớn cũng không thể trị lành, đi không có chỗ dừng, đến mà không được thoát. Không chỗ phá hoại biết đó là sầu độc, chẳng phải là ác sắc xấu mà khiến cho người lo sợ, kêu ở bên tai mà không hay biết. Đó là tử khổ. Xưa tuy là nhờ việc tắm gội cuối cùng cũng trở về bất tịnh. Xưa mượn cái thứ hương nay cũng trở thành nhờm gớm. Xưa lúc còn vương vị tài sản của báu dẫy đầy, thân tộc thê thiếp muôn ức. Bây giờ buông bỏ hết chỉ một mình ra đi sau không còn ai theo. Đặt vào áo quan thân hình bị chèn ép. Cha mẹ vợ con sầu não kêu khóc, bốn phía đầy người thương tiếc. Xưa vì vợ con mà đấu tranh giành giựt tài sản. Vì thân tộc mà kết oán thù, tranh vinh hoa mà hại mạng người. Nay lạc trong đêm dài tăm tối chỉ một mình chịu tai ương làm ác, còn vợ con an nhiên buông lung. Xưa làm ác cũng vì vợ con. Nay sa vào ba đường vì sao chỉ riêng mình chịu khổ. Thật là đáng thương xót! Không đáng sợ sao? Đó gọi là chết khổ.

Ưu bi khổ não: Kinh Đạo vu nói: Kêu thương bi cảm những việc đã qua gọi là ưu. Suy tư nối tiếp gọi là bi. Việc khổ ép ngặt gọi là khổ phiền não trói buộc gọi là não.

Kinh Thập Địa nói: Lúc chết biệt ly. Người ngu tâm nóng nảy tham đắm gọi là ưu, kêu thương khóc lóc gọi là Bi. Năm căn đối nhau là khổ, ý căn đối nhau gọi là ưu. Ưu khổ càng nhiều thì gọi là não. Cũng vì tài lợi ngũ dục mà chịu khổ não. Loài chim do tìm thức ăn mà mất mạng. Con người vì tài vật mà bỏ mình.

Kinh Vô Lượng Thọ chép: Người thế gian không ruộng đất nhà cửa mà sanh ham muốn, cũng là ưu. Có ruộng nhà mà san tham giữ lấy cũng là ưu. Ngũ dục tài lợi cũng như vậy. Sợ sự xâm nhập của năm nhà.

Lo bị bốn điều gần cướp đoạt cho nên mới sanh khổ.

– Kinh: “Lại vì tham đắm cho đến. oán tắng hội khổ.” – Tán: Vì lửa san tham ép ngặt mà luân hồi qua các đường.

Tài của đạt được thì tham đắm, vật chưa được thì lo tìm cầu, cho nên sanh các khổ. Ngũ dục nói ở trước cũng tức là mong cầu không được khổ này. Trong luận Kim cương Bát-nhã giải thích rằng; bố bảy báu thí khắp hằng hà sa giới không bằng trì kinh này dù chỉ một hoặc bốn câu kệ. Do nơi tài của mà sanh ra ưu não, như vi trần khắp thế giới cho đến. cho đến trì kinh mà diệt trừ phiền não. Như vậy thí tài vật thì phước ít, trì kinh thì phước nhiều, sự khổ của năm đường luân hồi sẽ giải thích trong phần tụng. Sự nghèo cùng khốn khổ chỉ có ở nhân gian. Ái nạn, oán tắng hội khổ có cả trời người. Thiên tử có cường lực vào cung trời, đoạt lấy vợ và đuổi người ra khỏi cung.

Trong Du-già quyển thứ bốn nói đầy đủ các việc khổ của chư thiên năm đường các tướng khổ địa ngục trong tụng sẽ nói. Vì trong cảnh giới trời người rất thù diệu thường có ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cho nên nói riêng.

-Kinh: “Các thứ khổ như thế cho đến”

-Tán: Trên đã nói đầy đủ bảy thứ khổ ở cõi Dục như thế. Các khổ năm đường ở hậu thế hiện tại cũng có ba khổ. Cõi Sắc chỉ có loại khổ, hành khổ, có lạc, xả. Đối pháp dẫn kinh nói cõi Sắc có hoại khổ gọi là nhập biến hoại tâm. Vô sắc chỉ có hành khổ, không có lạc thọ. Cõi Dục đầy đủ cả tám khổ. Cảnh thượng giới không có bảy khổ trước.

-Kinh: “Chúng sanh chìm đắm trong đó cho đến không lấy làm lo.”

-Tán: Đây là hợp nói ưa thích mê đắm, không dùng Tỉ trí giác, không dùng Hiện trí để biết, không lo quả, không sợ nhân, không nhàm chán khổ, không cầu giải thoát. Do đây mà rong ruỗi theo dòng thiện ác chưa hề lấy đó làm lo. Cũng như người ngu vui chơi cùng phân hoại, như kẻ si chạy chơi vào hầm lửa. Chẳng vì tro bụi mà cho là xấu hổ, há là vì lửa thiêu mà lấy làm khổ sao?

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến cho đến khiến cho kia vui vẻ dạo chơi.”

-Tán: Đây hợp nói khai thị Đại thừa mà không cầu. Dụ trước có bốn:

  1. Suy nghĩ quả Đại thừa để hóa độ.
  2. Niệm nhân Đại thừa để hóa độ.
  3. Tùy chỉ hành Đại thừa để hóa độ.
  4. Không mong cầu hóa độ Đại thừa. Đây hợp có ba, không có phần tùy chỉ hành Đại thừa để hóa độ.

Trước tiên hợp với du đầu, kế đến “Xá-lợi-phất, đức Như Lai lại nghĩ.” là hợp với dụ thứ hai. “Vì sao” hợp với dụ thứ tư. Trí tuệ lạc của Phật, hợp với thân có lực, hoặc dùng bàn ghế để cứu liền các khổ của Độc giác, khiến cho được vui chơi. Đó là hợp với tay có lực, dùng tay áo bỏ liền các khổ của Thanh văn. Nghĩa này ý nói: Lại dùng trí tuệ quả Phật và diệu dụng đại thần thông, cứu nạn nhị thừa ra khỏi khổ não vậy?

-Kinh: “Xá-lợi-phất! cho đến vì thế được độ.”

-Tán: Hợp suy nghĩ dùng nhân Đại thừa hóa độ. Nhà chỉ có một cửa, Bồ-tát thì có thể ra được. Nếu ta trao liền cho trí tuệ, thần thông, vì nói nhân Đại thừa để hóa độ hai con, bỏ phương tiện nói ba thừa thì Nhị thừa căn khí nhỏ không thể y theo hành trì mà được qua các khổ? Cửa đã nhỏ hẹp, hoặc sẽ bị đọa lạc. Ý này cũng hợp với việc thầm nói sự sợ hãi, không để cho lửa bị thiêu đốt.

-Kinh: Sở dĩ vì sao cho đến. Trí tuệ của Phật.

-Tán: Hợp với việc không mong cầu hóa độ Đại thừa. Phật tuệ đã sâu làm sao có thể hiểu. Nhị thừa trí cạn nên không mong cầu. – Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến xe lớn trân báu.” – Tán: Đây là đoạn lớn thứ ba.

Hợp với việc suy nghĩ tìm cách cứu khổ. Có hai: Đầu tiên dụ sau hợp.

Không dùng trí tuệ lực thân, cũng không dùng thần thông lực tay, chỉ dùng lời nói làm phương tiện để khuyên giải cứu độ các con. Sau khi ra khỏi nhà mới cho xe lớn. Đây nói Phật vì duyên tự tu diệu hạnh mới ra khỏi sanh tử. Cho nên tự thân nỗ lực, chẳng phải do Phật lực hoặc bản thân không tu thân mà có thể được thành Phật.

-Kinh: “Như Lai cũng lại như thế cho đến Phật thừa”

-Tán: Đây là hợp nói nhiếp cả trí và thông. Chỉ hành trì phương tiện khuyên thoát ra ba cõi. Như thầy thuốc ứng theo bịnh mà cho thuốc. Chỉ dùng phương tiện dạy biết như thế nào. Thầy thuốc đâu thể dùng dao tay cắt mổ bịnh nhân mà không dùng thuốc sao?

-Kinh: “Mà nói: cho đến. Sẽ bị thiêu đốt.”

Tán: Đây là đoạn lớn thứ tư. Hợp chánh nói Ba thừa có bốn:

  1. Khuyên nhàm chán ba cõi.
  2. Khuyên giữ Ba thừa.
  3. Dẫn việc mình đã chứng.
  4. Khen ngợi thắng đức Nhất thừa.

Nhà lửa ba cõi là nội thể vậy xấu cũ, là ngũ trần ngoại cảnh Phật khuyên lìa thể của quả khổ trong ngoài, chớ sanh tham đắm. Do tham đắm mà bị phiền não thiêu đốt khổ sở chuyển sanh, Phật khuyên bỏ nhân ác. Tuy có nội thể diệu quả của thân Kim cương. Ngoài hiện ngũ trần Tịnh độ nhỏ nhiệm khởi tâm ưa thích mong cầu, mà chưa nói rõ. – Kinh: “Các ngươi mau ra khỏi ba cõi cho đến. Phật thừa.” – Tán: Khuyên giữ pháp Ba thừa.

-Kinh: Ta nay vì ông cho đến. dụ tiến chúng sanh.

-Tán: Dẫn mình làm chứng.

Bảo là sẽ, là tín, là chứng vậy. Nhậm là bảo, là an là có thể là trì. “Cho ông để làm bảo tín chứng minh, an ổn có thể nhậm trì, nói có thể bảo chứng, cuối cùng không luống dối”.

Các thầy chỉ giữ chớ sanh nghi hoặc, pháp Ba thừa thật là hảo pháp. Ta vì các thầy mà bảo chứng. Ông chỉ giữ gìn siêng năng tinh tấn. Như người thế gian mua vật mà không có bảo tín thì biết vật đó không thật. Có bảo đảm mua thì biết đó là vật tốt. Pháp Ba thừa cũng vậy ta có thể bảo chứng. Sanh tử chẳng phải thật ta không thể bảo chứng. – Kinh: “Lại nói rằng cho đến. không chỗ y cầu.” – Tán viết: Khen ngợi thắng đức của thừa.

Đầu tiên nói khác nhau sanh tử, sau nói thắng đức của thừa. Đây nêu phần một. Việc sanh tử chư Thánh đều quở trách. Pháp Ba thừa chư Thánh đều khen ngợi, sanh tử ràng buộc làm tăng thêm phiền não không thể tự tại. Ba thừa vô lậu, cho nên không bị ràng buộc, đó mới là tự tại. Pháp hữu lậu gọi là hữu y. Dị thục quả y theo nhân mà có, dị thục nhân y theo quả mà thành. Sanh tử hữu lậu thù thắng là hàng trời người. Có sở cầu gọi là ba thứ cầu. Pháp ba thừa thì không như vậy, chẳng phải cầu giữ không vì mất mà cầu. Chẳng vì không mất mà không cầu. Ba thứ cầu là:

  1. Dục cầu.
  2. Hữu cầu.
  3. Tà phạm hạnh cầu.

Luận Du-già nói: Rơi vào dục cầu đó: Tất cả đều là ba thứ dục sanh ra, lại không có tăng giảm. Ba thứ dục sanh là:

  1. Hiện trụ dục trần sanh. Nghĩa là người và các vị trời ở cõi trời tri túc trở xuống.
  2. Tự biến dục trần sanh – tầng trời thứ năm cõi Dục.
  3. Tha biến dục trần sanh – tầng trời thứ sáu cõi Dục.

Đọa vào hữu cầu thì đều vì ba thứ lạc sanh: a) Ly sanh hỷ lạc thấm nhuần thân. b) Định sanh hỷ lạc thấm nhuần thân. c) Dĩ ly hỷ lạc thấm nhuần thân.

Ba định đầu đối với không khổ không vui, nơi vắng lặng sanh mà khởi thoái cầu đó thật là ít. Cho nên định thứ tư không lập là sanh.

-Tà phạm hạnh cầu là các chúng ngoại đạo cầu bốn vô sắc cho là nơi Niết-bàn giải thoát. Nay chẳng phải vì ba cầu này nên gọi là vô cầu.

Tuy có cầu phạm hạnh mà cầu vô lậu. Tức là cầu chánh phạm hạnh vô thượng, chẳng phải là cầu tà phạm hạnh.

-Kinh: “Nương ba thừa này cho đến an ổn vui sướng.”

-Tán: Nói rõ về thắng đức của thừa. Chánh thừa nương rồi vẫn dùng ngũ căn, ngũ lực, thất giáo chi, bát Thánh đạo, tứ thiền cửu định, bát giải thoát, tam Tam-muội v.v cho đến mà tự vui vui sướng, liền đắc vô lượng an ổn vui sướng. Há như là sanh tử nhiều khổ hoạn sao?

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến. ra khỏi nhà lửa.”

-Tán: Đây là đoạn lớn thứ tư. Hợp với: Nương vào lời dạy mà tránh khổ nạn, Ba thừa chia ra làm ba, mỗi pháp đều có hai: Đầu là pháp, sau là hợp. Đây là đoạn văn đầu. Mỗi pháp đều có bốn lực. Nội trí tánh là nội lực vậy. Tánh là chủng tánh, Phật, Thế tôn là lực bạn lành. Phật làm duyên cho nên gặp được Phật, không gặp Phật thì phải nương vào Phật pháp mới được phát tâm nên gọi là lực bạn lành. Nghe pháp tin thọ là tác ý lực, vì tập chủng tánh; hết lòng tinh tấn là tư lương lực. Lậy tinh cần làm đầu để nhiếp tất cả hạnh. Nương vào tứ thắng lực là nhân, bạn lành, tác ý, tư lương. Chuyên tự tu học cầu nơi Niết-bàn thì gọi là Thanh văn thừa. Nghe pháp tự hành trì mà không thể hóa tha thì gọi là tự cầu, chẳng phải là không cầu Phật mà làm đệ tử.

Trong Du-già giải thích: Âm thanh Thánh giáo của chư Phật đứng đầu. Từ thầy bạn nghe được giáo thanh này mà chứng Thánh quả, nên gọi là Thanh văn, đây là y chủ thích. Trong phẩm Tín hiểu nói: Dùng âm thanh Phật giáo để tất cả đều nghe, nên gọi là Thanh văn. Đây là y Chủ thích hoặc hữu tài thích.

Trước có cả định tánh sau là bất định tánh. Đây vì cầu Niết-bàn lấy chủng trí sở học mà gọi là thể của xe. Chẳng phải lấy Niết-bàn làm thể xe. Ở đây chỉ nói lược :

-Kinh: “Nếu có chúng sanh cho đến ra khỏi nhà lửa.”- Tán: Đây chỉ có ba lực, lược qua không có lực nhân.

Cầu tuệ tự nhiên đó là không cầu đồng ra đời một thời với Phật. Chẳng phải thấy Phật rồi mới đắc quả, như có kinh nói là: Khi Phật Thích-ca ra đời có năm trăm vị Độc giác từ trên núi xuống đi đến chỗ Phật. Thế nên trong kinh Nhân Vương nói có chúng Độc giác, các vị này trước thành đạo rồi sau mới thành Phật, chẳng phải như chúng Thanh văn nương theo Phật mới đắc đạo. Cho nên nói tinh tấn cầu tự nhiên tuệ, có thể chứng đạo . Chỉ thích nơi yên tịnh một mình là Độc giác. Ra đời không có Phật mà có thể chứng đạo, tự mình khéo chứng lý vắng lặng. Lại từ tuệ này mà biết rõ nhân duyên của các pháp. Đó là nghĩa Duyên giác. Cho nên trong luận Du-già chép: Quán duyên đối đãi mà chứng Thánh quả nên gọi là Duyên giác, do quán mười hai duyên khởi mà chứng quả.

-Bích-chi-phật Hán dịch là Độc giác, có hai thứ: Một bộ hành; hai lân giác.

Loại đầu tiên thấy Phật, loại sau không thấy. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: Bồ-tát tại cung trời Đâu-suất, lúc sắp hạ sanh có hiện ra mười tướng. Tướng thứ ba là bày tay mặt phát ra đại ánh sáng. Thế giới tên là Nghiêm tịnh, trong tam thiên giới, nếu có Độc giác, gặp ánh ánh sáng này thì phải mau nhập vào Niết-bàn. Nếu không thì Phật lực ánh sáng sẽ dời đi đến các Cõi nước khác của chư Phật, nên không được thấy Phật.

Nói Độc giác đầy đủ trăm kiếp thì thành Lân giác, không vậy thì là Bộ hành. Nếu từ Thanh văn tu hành phần vị giải thoát mà đắc quả Độc giác thì thành ra dụ Lân giác. Đợi đến trăm kiếp thì còn dài, cho nên vào bốn gốc lành mà thành Độc giác chính là Bộ hành, thì thời gian ít hơn. Độc giác là đợi duyên mà giác ngộ. Đều là y chủ thích. – Kinh: “Nếu có chúng sanh cho đến gọi là Đại thừa.” – Tán: Trong phần pháp nói đầu nói có hai ý:

  1. Giải thích Đại thừa.
  2. Giải thích Bồ-tát thừa.

Nhất thiết trí là quán Không trí . Trí này ba thừa đều có. Phật trí là quán trí hữu sự, chỉ có Phật là thành tựu. Do tự giác mà sanh ra hai trí này, thì gọi là Tự nhiên trí, không đợi duyên ở người khác gọi là Vô sư trí. Hoặc trí tánh gọi là tự nhiên trí. Trí tướng gọi là vô sư trí. Cầu các quyến thuộc tri kiến như lực, vô úy cho đến là nội đức. Ngoài có thể làm lợi sanh khởi niệm thương xót ban vui, làm lợi ích cứu khổ. Trước từ sau bi, hạnh giải rộng lớn nên gọi là Đại thừa.

-Kinh: “Bồ-tát cầu thừa này cho đến. ra khỏi nhà lửa.”- Tán: Giải thích Bồ-tát thừa và dụ.

Bồ-tát là tên gọi chung của Ba thừa. Nếu cầu thừa này thì thêm Ma-ha-tát, là đại hữu tình. Các thứ khác không gọi như vậy.

Luận Niết-bàn của ngài Vô Trước chép:

-Do tương ứng với bảy thứ tánh mà thêm chữ Ma-ha-tát. Cầu trí là Bồ. Mẫn niệm là Tát. Trong ba thừa này mỗi thừa đều có một loại một tánh, ba thứ hai tánh, một loại ba tánh. Chủng loại tánh định, bất định tánh đều khác nhau. Sơ, hậu phát tâm đắc quả bất định như ngài Đại Ca-diếp nếu không gặp Phật thì chỉ là Độc giác. Do gặp Phật tu hành Thanh văn. Ngài Xá-lợi-phất dựa theo đây mà biết.

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến mà ban cho các con.”

-Tán: Đây là đoạn lớn thứ hai hợp nói thật pháp ngày nay. Có hai:

  1. Hợp nói thật.
  2. Hợp giải thích nghi.

Dụ trước có bốn, nay chỉ hợp có hai:

  1. Hợp giải thích thành tựu chí của cha, là các chúng sanh.
  2. Hợp cha chỉ cho một xe, không hợp các con xin ba xe, vượt ngoài điều con mong muốn.

Phần đầu lại có hai: a) Nêu dụ trước.

b) Dùng pháp hợp. Trong phần dụ có hai:

Thấy con được ra, tâm thư thái, ông tự nghĩ cho đến. Hơp với thành tựu chí nguyện của cha.

– Kinh: “Như Lai cũng giống như thế cho đến đắc Niết-bàn lạc.” – Tán: Hợp với chí cha. Cũng có hai:

  1. Hợp thấy con được ra, tâm thư thái.
  2. Hợp giải thích thành tựu chí cha.

Dùng giáo làm cửa mà ra khỏi nhà lửa ba cõi. Vì hành trì làm cửa mà nhập vào quả Niết-bàn. Trong đây chỉ có giáo môn ra khỏi nhà lửa, không nói hành môn. Giáo cũng có thể nhập vào lý. Đây chỉ nói ra mà không nói nhập. Cũng có thể nói được vui Niết-bàn tức gọi là nhập.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Như Lai cho đến Mà diệt độ họ.”

-Tán: Đây hợp với giải thích thành tựu chí nguyện của cha. Con đã không sai khác thì nên đều cho Đại thừa. Vì sao chỉ có Bồ tát đắc diệt độ của Phật, mà không cho Nhị thừa, lẽ ra dùng đại nhập Niết-bàn của Phật mà bình đẳng diệt độ cho chúng, không để cho một Bồ tát đắc, còn hai thừa kia thì không đắc.

-Kinh: “Các chúng sanh cho đến Đầy đủ sự vui.”

-Tán: Hợp nói cha chỉ cho một: Có hai ý: Thể và đức của xe.

Đều cùng với chư Phật: Nhị thừa bất định và Bồ-tát tánh. Cũng đồng với giải thoát thiền định của Phật thừa. Nhất thừa trang nghiêm muôn thiện đầy đủ.

-Kinh: “Đều là một tướng cho đến là vui bậc nhất.”

-Tán: Đây nói về Đức của xe. Xe Nhất thừa này có đầy đủ các thứ tô điểm xinh đẹp. Một tướng lìa tạp nhiễm, một chủng loại vô lậu.

Hoặc nhân hoặc quả mà các bậc Thánh khen ngợi, có thể khến cho chúng sanh được vui vô lậu tịnh diệu bậc nhất, là căn bản của đức. Trong năm lạc là lạc không có não hại. Trong bốn vô não thì giác pháp, thứ ba vắng lặng thứ tư thuộc về hai lạc. Khác nhau với công đức sở hữu xe dê xe hươu của Nhị thừa, chẳng phải đều lìa hết tạp nhiễm, cũng chẳng thuần là vô lậu. Các Thánh tuy có mà không khen ngợi sanh lạc, chẳng phải bậc nhất. Đây gọi là Đại thừa.

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến lỗi không luống dối ”.

Tán: Đây là hợp giải thích nghi. Có hai: Nêu dụ và giải thích nghi. Dụ trước có ba: Là hỏi, đáp, và ấn. Nay chỉ nói chung về ấn khả.

Vật báu trang nghiêm muôn đức đầy đủ. An ổn đệ nhất lìa hết tai nạn.

-Kinh: Như Lai cũng giống như thế cho đến mà độ thoát.

Tán: Đây hợp có hai: Nêu và giải thích- Kinh: “Vì sao cho đến không thể thọ hết.” – Tán: Đây là phần giải thích.

“Nhất thừa của ta công đức vô lượng, chúng sanh có thể thọ dụng vô tận. Chúng sanh hoặc hữu tánh hoặc vô tánh. Hoặc có định tánh, hoặc có bất định tánh. Hoặc đầu tiên thích tiểu sau lại thích Đại. Do bất tận này đều có thể lãnh thọ. Cho nên trước ta nói Ba thừa nay chỉ nói nhất thật chẳng phải dối gạt, chỉ là pháp dẫn dụ dần. – Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến phân biệt có ba.” – Tán: Đây là đoạn văn thứ ba, kết luận đáp.

Do trên đã nói nhân duyên đạo lý. Đối với thể Nhất thừa, phân biệt nói có ba giáo. Đối với một cực quả nói có ba nhân mà thật không có ba thể, ba quả tột cùng.

Tăng Giác Ấn ghi tại chùa Pháp Long Ngày 12 Tháng 5, Niên hiệu Bảo An thứ ba.

 

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10