HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

SỐ 1723

QUYỂN 04

Sa-môn Khuy Cơ soạn tại chùa Đại Từ Ân

 

PHẦN ĐẦU

Nghĩa Nhất thừa chính là tông của bộ kinh, nay tóm lược chia ra năm môn:

  1. Nêu thể tánh.
  2. Giải thích danh tự.
  3. Nói về ý nói.
  4. Nói về sự khác nhau.
  5. Nói về hỏi đáp.

I. Thể tánh lược có ba thứ:

  1. Thể bao gồm.
  2. Thể tùy theo thù thắng.
  3. Thể chân thật thể.

Thể bao gồm là: Tất cả vô lậu hoặc là chủng hoặc là hiện. Hữu vi, vô vi, hoặc nhân hoặc quả, căn bản, phương tiện có thể thành tựu, đức của Phật đều gọi là Nhất thừa. Nhất thừa tức là Đại thừa. Đại thừa tức là Vô thượng thừa. Cho nên kinh Thắng-man chép: Nhất thừa tức là Đại thừa. Trong luận này nói khai là nghĩa Vô thượng.

Nói theo luận Trung Biên thì phẩm Vô thượng thừa có ba Vô thượng:

1/ Chánh hạnh vô thượng: Trong Mười độ tùy tu khác nhau có sáu chánh hạnh.

2/ Sở duyên vô thượng có mười hai thứ sở duyên.

3/ Tu chứng vô thượng: Nghĩa là trong chủng tánh tu chứng có mười thứ tu chứng, nhiếp chung tất cả các cảnh hạnh quả vốn có của Bồ tát. Cho nên trong kinh Thắng-man nói: A-la-hán và Bích-chi-phật vẫn còn lo sợ, còn quy y. Từ trí không rốt ráo thì gọi là hướng cõi Niết-bàn.

Lại nói chánh pháp trụ, chánh pháp diệt, Ba-la-đề-mộc-xoa, Tỳni, xuất gia, thọ Cụ túc. Sáu pháp này là nói vì Đại thừa . Cho nên biết là tất cả phương tiện căn bản, tất cả vô lậu hoặc chủng hoặc hiện. Hữu vi vô vi hoặc nhân hoặc quả, đều thành đức của Phật nên gọi là Nhất thừa. Ba thứ ý sanh thân đều xếp vào sơ địa.

– Thể tùy theo thù thắng: Đây có sáu thứ:

1/ Nhiếp sự về lý. Trong kinh Niết-bàn Thắng-man thường gọi Phật tánh pháp thân chân lý là Nhất thừa. Cho nên trong kinh Thắngman chép: Nhất thừa tức là Đại thừa. Đại thừa tức là Phật thừa. Phật thừa đó là cảnh giới Niết-bàn. Lại nói trong Hằng sa kiếp hành sáu Bala-mật, không bằng người nghe rồi thọ trì đọc tụng cho đến chấp trì kinh quyển. Huống chi có người vì người khác nói rộng kinh này, dùng hạnh hữu vi so với thừa vô vi.

Kinh Niết bàn chép: Nhất thừa là Phật tánh. Đây là diệt Hóa thành mà đến Đảo châu báu, chỉ gọi pháp thân chân như bình đẳng là Nhất thừa.

2/ Lôi kéo trí khác trở về trí: Cũng lấy chân trí mà gọi là Nhất thừa.

Văn trên nói là: Phương tiện tri kiến đều đầy đủ. Các Bồ-tát bất thối số như Hằng sa cùng nhất tâm tư duy cần cầu cũng không thể đo lường trí Phật thể của trí phần nhiều là thể chánh, hậu đắc. Nếu ở nhân vị thì trí kém thức mạnh. Ở quả vị thí trí mạnh thức kém.

3/ Ẩn yếu kém theo cao siêu: Kinh nói: Vì trí tuệ Phật nên Chư Phật xuất hiện ở đời, chỉ một sự thật này, hai thứ còn lại không phải thật. Đó là pháp trụ, pháp vị, tướng thế gian thường trụ. Ở đạo tràng biết rồi, Đạo sư phương tiện nói. Trong phẩm Phân biệt công đức chép: Có người vì đạo Vô thượng chánh đẳng Bồ đề thật hành năm pháp Ba-lamật, không bằng có người một niệm sanh tín, công đức sở đắc không thể thí dụ được. Do vì hai thứ lý trí của quả vị Phật gọi là Nhất thừa. Bổn hữu của lý là ngưng đọng. Lìa hết trói buộc thì gọi là Niết-bàn. Trí chiếu mới sanh ra quả viên mãn gọi là Chánh giác. Đó là cội nguồn của trí đức, diệu bổn của Tam minh. Cho nên nói Phật vì tri kiến mà xuất hiện ở đời. Dùng hai lý trí làm thể Nhất thừa, trí tánh trí tướng hợp lại gọi là trí.

4/ Hai vận dụng rộng: Chỉ lấy nhân trí mà gọi là Nhất thừa, như trong thí dụ nhà lửa, cùng các chúng Thanh văn Bồ-tát cưỡi xe báu này mà thẳng đến đạo tràng, chỉ có nhân lành.

5/ Thù thắng vượt ra thể phân đoạn: Chung ở nhân quả mà ra khỏi sanh tử phần đoạn , tất cả lý trí để làm Nhất thừa. Trong bốn nghĩa khai, thị, ngộ, nhập thì ba nghĩa trước là hai quả, một nghĩa sau là hai nhân, như trước đã nói, nên lượt qua không nói.

Kinh Thắng-man cũng chép: Như thủ làm duyên nghiệp Hữu lậu làm tiếp nối hữu sau mà sanh ra tam hữu. Như thế vô minh tập địa làm duyên, nghiệp vô lậu làm nhân thì có A-la-hán, Độc giác Bồ tát đã được tự tại ba thứ ý sanh thân. Cho nên mà sanh ra. Vậy ý sanh thân là thừa của sở thừa gọi là trong nhân có hai. Trong nhiếp Đại thừa thì muôn hạnh chân như đều gọi là Đại thừa.

6/ Dẫn nhiếp cao siêu: Vì nói bày hai ý yếu chỉ gọi là Nhất thừa. Giáo là tùy theo vật mà lập ra ý thú nhiệm màu khó biết. Lý thì mượn trí thể sâu xa chẳng thể lường. Thế nên đầu phẩm Phương tiện gọi trí tuệ sở thuyên và giáo môn năng thuyên là Nhất thừa. Trong kinh Vô Lượng Nghĩa có mười bảy tên gọi thì tên gọi thứ mười bốn gọi là Nhất thừa. Do đây mà hoa sen, luận chép có hai nghĩa:

Một là thể lên khỏi mặt nước.

Hai là khai nở.

Trí tuệ dụ đầu và tuệ môn dụ sau, nếu chỉ lấy chân như làm Nhất thừa vươn ra khỏi mặt nước thì mất đi công năng thứ hai là khai nở. Nhưng hoa sen ở đây có đủ bốn nghĩa, vì sao pháp chỉ có hai thứ.

Thể chân thật: Căn bản Đại thừa giáo lý hành, quả và năng nhập phương tiện Đại thừa, bốn pháp đều gọi là Nhất thừa. Vì đều có công năng vận tải.

Giáo Căn bản là: Đầu phẩm này nói: “Môn Trí tuệ đó khó hiểu khó nhập”. Luận này giải thích: A-hàm sâu xa, lấy nghĩa hoa nở để dụ cho pháp mầu. Kinh dưới cũng nói kinh Pháp Hoa chứa nghĩa sâu xa, bền chắc. Trong Nhiếp Đại Thừa nói: Là kinh A-tỳ-đạt-ma Đại Thừa v.v…

Phương tiện giáo là: Cuối phẩm này nói: Hoặc gọi là Tu-đa-la, Già-đà, Bổn sự bổn sanh, vị tằng hữu. Cũng gọi là nhân duyên thí dụ và Kỳ-dạ, Ưu-bà-đề-xá kinh, chín bộ pháp này của ta đều thể nhập vào Đại thừa làm gốc. Thuận theo chúng sanh nói vì thế nói kinh này. Kinh Thắng-man cũng nói: “Chánh pháp trụ là Đại thừa, nên nói sáu xứ này: Tam Tạng Tiểu thừa đều là đại phương tiện”.

Căn bản lý: Là pháp tánh chân như, các hạnh như sáu độ… nương theo chân lý này mà có chỗ đến, nên gọi là Đại thừa. Trong kinh này chép: “Trí tuệ của Chư Phật sâu xa vô lượng”. Văn dưới cũng nói là “pháp trụ, pháp vị, tướng thế gian thường trụ; nơi đạo tràng biết rồi Đạo sư phương tiện nói.” luận này chép: Niệm quán là người Đại thừa quán, pháp vô ngã pháp giới chân như bình đẳng cho nên vô tánh, cũng nói là hoặc nương vào đại tánh nên gọi là Đại thừa. Luận Biện Trung Biên chép: Pháp giới chân như gọi là Vô thượng sở duyên.

Phương tiện lý: Là lý bốn đế. Nhị thừa sở quán đều là lý phương tiện. Kinh Thắng-man chép: Thanh văn biết hữu tác bốn đế. Phật biết vô tác Bốn đế. Kinh Niết-bàn cũng nói Thanh văn hữu khổ hữu đế mà không có thật. Bồ-tát thì có đầy đủ. Luận này cũng nói: Niệm quán là Thanh văn quán người vô ngã. Do hai lý này đều là lý.

Căn bản hành Nhất thừa là: Sáu độ… Bồ-tát muôn hạnh. Bồ-tát Địa chép: Thất địa tu bốn hạnh Bồ-tát. Phẩm An lạc hạnh đều là Bồtát hạnh. Lại nói thừa là xe báu thẳng đến đạo tràng, tức là hành Đại thừa.

Nhiếp Đại thừa chép: Vừa thừa vừa đại nên gọi là Đại thừa.

Biện Trung Biên chep: Mười Ba-la-mật là chánh hạnh Vô thượng.

Phương tiện hành: Kinh Thắng-man cũng nói chánh pháp trụ vì Đại thừa mà nói. Theo Tam Tạng giáo thì tiến thiện diệt ác tu hạnh vô lậu đều gọi là hành Đại thừa.

Luận Pháp Hoa chép: Phương tiện là Thanh văn quán ấm, giới, nhập, nhàm khổ và xa lìa khổ. Bồ-tát tu sáu độ bốn nhiếp, hai lợi hành. Do hai hạnh này đều gọi là Nhất thừa.

Căn bản quả: Thân Phật sẵn có Bồ-tát Niết-bàn. Tức là hai thân pháp báo đã nói ở trước và hai kiến lý trí.

Kinh chép: “Nói trí tuệ Phật, cho nên Phật xuất hiện ở đời, chỉ một sự thật này, hai khác đều chẳng phải chân thật.” Lại nói: “Pháp trụ, pháp vị, tướng thế gian thường trụ. Ở đạo tràng biết rồi Đạo sư phương tiện chép.” Lại trong phẩm Thọ lượng chép: “Pháp, báo, hóa thân đều là quả Nhất thừa.” Biện Trung Biên nói trong mười pháp tu chứng, thứ bảy là Tịnh độ, thứ chín là cõi Phật, thứ mười là thị hiện Bồ-đề.

Quả Phương tiện đó là Niết-bàn, Bồ-đề của Nhị thừa. Kinh này nói: Sở hành của các ông là Bồ-tát đạo. Xe dê, xe hươu là vì người cầu xe trâu để ra khỏi nhà lửa, nên phương tiện đưa cho. Hóa thành ở giữa đường là nơi nghỉ ngơi để đến Đảo châu báu, do đó mà nói. Chỉ có một mà không có thừa nào khác.

Kinh Thắng-man cũng nói: Bốn trí Thanh văn, Duyên giác không rốt ráo thì gọi là hướng đến cõi Niết bàn. Nói được nơi nghỉ ngơi là dùng

bốn trí rốt ráo mà đắc Niết-bàn. Đó là phương tiện của Phật. Quả Nhị thừa cũng là Nhất thừa. Do người đốn ngộ chánh là học căn bản giáo, lý, hạnh, quả. Gồm vì hàng phục giáo hóa người Nhị thừa: Nên cũng học các phương tiện giáo lý, hạnh quả. Đây là hàng tiệm ngộ mới học cho phương tiện rồi sau đó hồi tâm mới học căn bản, pháp sở học đồng vào trước sau hoàn toàn khác nhau. Cho nên biết chỉ có hai thứ Phật tánh, hai nhân lý trí, vô lậu hiện, chủng, hữu vi, vô vi, căn bản, phương tiện, tất cả giáo lý hạnh quả có thể thành Quả Phật đều là thể Nhất thừa. Hơn nữa, còn lấy các công đức hữu lậu Địa tiền và Mười địa, mà làm Nhất thừa vì không trái với Chánh lý. Luận Kinh Pháp Hoa và các bộ giáo lý khác, tùy nương vào một môn trong ba thứ thể này, mà nêu ra thể, chưa hẳn phải nhiếp hết. Nếu y vào giải thích trên bao gồm chung các văn kinh không đâu mà không cùng tận. Nhưng thể tánh này gồm có năm môn:

  1. Thuyên chỉ phân biệt chung cả giáo và lý.
  2. Nhân quả phân biệt chung cả hạnh và quả.
  3. Trí phước phân biệt chung phước và trí.
  4. Giác tịch phân biệt chung Diệt, Đạo đế Bồ-đề Niết-bàn.
  5. Nhị lợi phân biệt chung cả tự lợi lợi tha.

Đây nói Nhất thừa nên có nghĩa thông suốt. Nếu nói Phật thừa thì đề cao quả mà thủ nhiếp nhân. Nếu nói Bồ-tát thừa thì nêu nhân nhiếp quả; xưa danh không thông mà nghĩa bao gồm có. Lại do hành giả tu tập hai trí chánh thể, hậu đắc, quán hai lý sanh không, pháp không, dứt hai chướng phiền não, sở tri, dứt hai sanh tử phần đoạn, biến dịch, chứng được hai quả Bồđề, Niết-bàn, tròn đầy đắc hai diệt: Vô dư, vô trụ, hành hai lợi: Tự lợi, lợi tha, đó gọi là quả mãn. Dứt hai chướng thuộc về tập đế, dứt hai sanh tử thuộc về khổ đế, tu hai trí, chứng Bồ-đề thuộc về Đạo đế, quán hai lý đắc hai diệt, chứng Niết-bàn là sở nhiếp của diệt đe. Sở hành nhị lợi nhiếp cả diệt đạo đế. Hợp diệt đạo này gọi là Nhất thừa. Cho nên Luận này giải thích ở trong giá là: Không Nhị thừa đó là không có Niết-bàn của Nhị thừa. chỉ có Phật mới chứng đại Bồ-đề. Rốt ráo đầy đủ tất cả trí tuệ gọi là Đại Niết-bàn, chỉ một Phật thừa. Kinh Bát-nhã thì lấy ba việc vô minh là Ma-ha Bát-nhã pháp thân, giải thoát gọi là Đại Niết-bàn. Cho nên Nhất thừa lấy nhị đế làm thể.

II. Giải thích danh tự: Thừa có nghĩa vận chuyển. Cho nên trong Quảng Nhã gọi là Thừa giá (cưỡi).

Chu Lễ nói: Thừa là chuyển chở, chuyên chở hành giả đến bờ kia. Cho nên kinh này nói: Cưỡi xe báu này thẳng đến đạo tràng. Nhiếp luận cũng nói: Sáu độ muôn hạnh vừa là thừa vừa là đại. Pháp tánh chân như là sở thừa đại tánh. Sự, lý đều có thể vận chuyển hành giả, tự vận chuyển mình và người khác đến bờ kia là thừa.

Hỏi: Nhân hành có thể vận chuyển đến quả vị thì gọi là thừa. Quả Phật tự vận chuyển nghỉ ngơi, lẽ ra chẳng phải thể của thừa ấy.

Đáp: Có năm nghĩa:

1/ Vận chuyển nên gọi là thừa. Trong nhân có hai nghĩa vận chuyển đến quả, và rộng vận chuyển người khác. Do đây cũng gọi là thừa.

2/ Là thể, năng, có cả hai nghĩa vận. Năng thể đều gọi là thừa. Trong quả thể có năng chẳng phải không có năng cũng thuộc về thừa. Như cắt thì gọi là dao có công năng cắt tức thuộc về dao, không cần phải thấy việc cắt có công năng không phải là dao. Thể năng quả đức của Phật đều có hai nghĩa vận chuyển. Chẳng cần phải rộng dùng mới gọi là thừa.

3/ Nhị thừa tự mình vận chuyển ít còn gọi là thừa. Huống chi quả Phật vận chuyển nhiều người đâu lý nào chẳng thuộc về thừa.

4/ Trong nhân thì trí và lý đều vận chuyển cả hai dụng đều cao quý nên gọi là thừa. Trong quả thì trí và lý do tu mà thành do chủng loại của thừa mà cũng thuộc về.

5/ Trong nhân hai nghĩa vận chuyển thường tăng tiến, tác dụng hiện hành cao siêu được gọi là thừa. Trong quả tự vận chuyển đến tận đời vị lai khiến người khác cùng tăng tiến được gọi là thừa.

Bốn nghĩa đầu tùy theo người mà không chánh đáp. Một nghĩa sau tùy theo mình mà chánh đáp. Cho nên Đối pháp luận chép: Tự tha cùng có lợi, mà làm sở y. Nhất thừa có ba nghĩa:

  1. Chọn riêng nên gọi là nhất.
  2. Phá sự phân biệt nên gọi là nhất.
  3. Hội biệt nên gọi là nhất.

Chọn riêng gọi là nhất, trước kia nói ba bây giờ nói một. Cho nên biết lý sở thuyên là nhất mà là Thật. Giáo năng thuyên là hai tức gọi là quyền. Không phân biệt hai lý vì là rốt ráo. Vô ngã, giải thoát tuy đều bình đẳng, nhưng đạt đến Quả Phật mới gọi là rất rốt ráo lý sở thuyên của Phật trí gọi là nhất, chẳng phân biệt, ba chỉ không có hai cùng cực.

Luận giải thích là: Không có hai thừa đó là không có hai thể Niếtbàn. Nhưng trong kinh Phật nói: Ta lập ra phương tiện khiến được nhập vào trí Phật .

Lại nói: Ở trong nhà lửa trưởng giả hứa cho ba xe. Sau khi ra khỏi

cửa đưa xe trâu. Lại nói: Làm người hốt phân trải qua hai mươi năm, giả danh làm con. Cho nên người Nhị thừa chính là nhân đứa con thuộc về đích thật sau được giao gia sản. Lại dùng quả nhất, phân biệt với nhân ba. Tức có hai phân biệt:

  1. Vì lý chọn giáo.
  2. Vì quả chọn nhân tức nói: “Sở hành của các ông là đạo Bồtát”.

Vì Phá phân biệt nên gọi là nhất. Người Nhị thừa không biết Nhị thừa đó là phương tiện, nên chấp quả Nhị thừa cho là thật rốt ráo. Nay nói Niết-bàn Nhị thừa chỉ là Hóa thành, nói Bồ-đề của Nhị thừa chỉ là xe hươu, xe dê phương tiện quyền giáo lập ra, chẳng phải là quả sở đắc sở chứng, Bồ-đề Niết-bàn rốt ráo chân thật cao quý. Phá tình chấp kia có hai quả rốt ráo, cho nên nói là nhất. Tức trong kinh nói: “Người cầu Ba thừa có lưới hoài nghi ”. Phật dạy họ trừ diệt khiến không còn nghi ngờ. Ngài Thu Tử cũng nói: “Vì chúng con không hiểu Phật tùy nghi dùng phương tiện nói pháp. Đầu tiên nghe pháp Phật liền tin nhận, cho đến nay đã dứt hết nghi hối!”

Ngài Ca-diếp cũng nói: “Chúng con hôm nay đã đắc Niết-bàn, chứng pháp Bồ-tát, không còn tâm thích nghe pháp khác”.

Nhiếp Luận cũng nói: Người Nhị thừa tác ý dứt trừ bốn chướng, tức là chấp vào đây. Luận này này quyển cuối cũng chép: Phẩm Phương tiện thị hiện có năm phần, phá hai nêu một, không nói phá cả ba. Hoặc có thuyết nói: Phá cả ba chấp chứ chẳng phải chỉ phá hai. Như Tát-bàđa chấp vào hóa thân Phật cho là Phật thật. Nay nói vì hóa thân, cho nên phá cả ba chấp. Giải thích này cũng không đúng. Kinh Pháp Hoa chỉ lấy phần sở tu sở đắc Nhất thừa làm tông. Cùng phá thừa kia để quy về Nhất thừa. Chẳng phải lấy một thân sở tri làm tông, cùng phá thân kia để nhập vào một thân, lại không chấp vào hóa thân kia là cùng tột mà cầu, càng không hướng cầu thân khác. Nay phá chấp đó để hướng cầu về một thân nên chỉ phá chấp Nhị thừa mà không phá chấp hai thân khác.

Cũng có nói giải thích: Xưa nghe nói ba, chấp ba đều là tột cùng. Nay nói một tột cùng là để phá chấp ba. Đây là từ Bồ-tát Địa tiền khởi lên. Nếu phá chấp Đại thừa lại nói là Nhất thừa, càng tăng thêm bịnh chấp sao gọi là phá. Lại khi chưa ra khỏi nhà lửa thì hứa cho xe trâu, cũng là phá Đại thừa, sau khi ra khỏi nhà, thì cho xe gì? Nếu nói cho xe trâu trắng mà bỏ xe trâu vàng cũ thì nên bỏ đốn học tiệm, tướng nhân hành của trâu trắng trâu vàng đâu có khác, vì đã trở về loại trâu cũ, là nói không thể phá Đại. Nếu chấp một là rốt ráo không trái với hướng đại, thì đâu cần phá. Vì chấp Nhị thừa là cùng cực không hướng về Đại thừa, cho nên phải phá. Nếu tùy theo vị đắc liền chấp làm rốt ráo, chưa thấy hướng về Đại thừa, tức trong nhân có chấp này. Dù cho Trưởng giả hứa cho mà cũng phá, tức nên phá vô cùng. Do đây chỉ phá chấp Nhị thừa là rốt ráo. Lại chẳng phải phá chấp bốn thừa làm rốt ráo. Vì không có chủng tánh nói thừa trời, người , giải thích có bốn thừa mà không chấp là cùng cực, chấp hai thừa là cùng cực thì không khác với phá hai thừa trên, tức là người không chấp thừa trời, người là cùng cực. Người chấp thừa trời, người không hiểu thừa, hiểu thừa thì không chấp. Nếu một đối với bốn, mà một là năng lực phương tiện nên phá chấp một thừa mà quy về bốn thừa. Cũng chẳng phải phá năm. Chấp thừa bất định là đồng chấp cả ba vậy. Do đây mà kinh Thắng-man chỉ nói A-la-hán, Bích-chi-phật có lo sợ, có quy y. Nói đắc bốn trí và Niết-bàn đó là Phật phương tiện mà nói. Kinh này cũng nói chỉ một sự thật này, hai thứ còn lại chẳng phải thật. Thầm sai hai người và nơi nghỉ nói là hai. Dê hươu chẳng phải thật nên không nói; nói ba là từ hơn đến kém. Phật thừa là thứ nhất, Độc giác là thứ hai. Thanh văn thứ ba. Không có thứ hai Độc giác và thứ ba Thanh văn, chẳng phải không có thể rốt ráo Đại thừa trong Ba thừa. Xét trong bổn văn Phạn nói không có thứ hai thứ ba. Nay dịch lược không hai cũng không ba.

Có người hỏi: Kinh nói Biệt thể Tam bảo, không phá biệt thể mà quy về nhất thể. Vì sao phá Nhị thừa mà quy về Nhất thừa? Đây cũng không đúng. Nếu chấp biệt thể Tam bảo làm rốt ráo, cũng đồng là phá, hoặc thể biệt tướng Tam bảo cũng không có ba rốt ráo. Tuy như vậy mà cũng không cầu trụ vào biệt thể. Nhưng có thể hội biết thể nhập vào đồng thể, rộng như trong kinh nói chẳng phải Tông quyền thật. Vì hội biệt cho nên gọi là nhất, giáo lý hạnh quả đều có căn bản và dùng phương tiện. Hội tiệm ngộ là trước người Nhị thừa tu thành đắc giáo lý, hành quả làm Đại phương tiện thừa vào luận này thì từ sơ địa trở lên đã lìa hết phần đoạn sanh tử. Từ kiến đạo trở xuống thì giáo lý hạnh quả là nhân căn bản của không lui sụt địa. Chung hợp hết các văn thì hội về một có bốn:

1/ Hội giáo: Kinh Vô Cấu Xứng chép: Phật dùng một âm thanh giảng nói pháp, chúng sanh nơi nơi đều tùy theo đó mà hiểu, phần dưới kinh này nói:

Một cơn mưa gội nhuần, ba cỏ hai cây sanh trưởng không đồng. Đây hội giáo đồng mà căn cơ có khác. Ba thừa chấp giáo có riêng có khắp.

2/ Hội lý: Luận Bảo Tánh chép: Như ba loài thú là ngựa, voi và thỏ bơi qua sông. Tánh sông vốn không khác mà có sâu cạn. Lại kinh dưới có nói: Ví như ở vùng cao nguyên phải đục đá để lấy nước. Nếu thấy đất khô thì biết nước còn xa. Nếu thấy đất ẩm thì biết cách nước không xa. Nếu thấy bùn thì biết có nước đã rất gần. Tánh nước không khác mà được nước có khác. Đây hội lý đồng mà chứng có khác. Ba thừa chứng lý có viên có khuyết.

3/ Hội hành. Ngài Thu Tử tự nói pháp rốt ráo là đạo sở hành. Phật cũng nói: Ta lập bày phương tiện, khiến được nhập vào trí tuệ Phật.

Kinh Thắng-man chép: Sáu xứ này là Đại thừa.

Thế nên biết tuy hành đồng mà tu có khác. Ba thừa tu hành có hoàn toàn, có từng phần.

4/ Hội quả: Kinh này nói nơi nghỉ có hai: Giữa đường lập ra hóa thành, rồi từ đó đưa đến đảo châu báu mới là chỗ rốt ráo. Vì cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa. Quyền biến mà lập ra xe dê xe hươu, sau cùng thì cho xe trâu.

Kinh Thắng-man cũng chép: Bốn trí của Thanh văn, Duyên giác là không rốt ráo gọi là hương cõi Niết-bàn. Tức hội cả Bồ-đề Niết-bàn của Nhị thừa, hoặc trí hoặc lý mà quy về Nhất thừa, cho nên biết quả đồng mà chứng có khác. Ba thừa lấy quả thì có trước có sau. Tuy y vào các giáo hội chung bốn nghĩa này, nhưng trong kinh Pháp Hoa hiển hội giáo lý, mà thầm hội hành quả. Hội giáo ly, tức trước đã nêu trí tuệ Chư Phật và trí tuệ môn. Một trận mưa thấm nhuần tức hội giáo. Xe trâu, Đảo châu báu là hội lý. Đây dùng tên sở thuyên, gọi đây làm lý mà chẳng cần chân như. Muốn hiển bày pháp sở đắc sâu xa khó hiểu. Có chỗ nói ý thú khó biết chỗ đắc pháp đạo tràng không thể thưa hỏi. Ý của ta khó thể suy lường cũng không ai có thể hỏi được. Đây là nêu kinh Pháp Hoa mở cửa phương tiện, hiển bày tướng chân thật. Tức là Pháp là Hoa khai mở đẹp hiện ra. Mật cũng đồng thông hội hai thứ hành quả. “Ta lập ra phương tiện là để chúng sanh đắc nhập Phật tuệ, gỡi xe báu này, thẳng đến đạo tràng tức là hội hành. Trong đây lập ra hóa thành để đến đảo châu báu là hội quả. Do đó mà trong kinh Thắng-man hiển hội hành quả, Lục xứ chính là vì Đại thừa mà nói, chính là hội hành. Nhị thừa bốn trí chẳng phải là rốt ráo nên gọi là hướng đến cõi, Niết bàn tức là hội quả. Kinh Thắng-man thì chánh nói nhân quả Nhất thừa. Hội rõ về hành quả mà hội thầm về giáo lý. Kinh Pháp Hoa chánh là hiển bày: Xưa quyền mà nay thật, nên hiển hội giáo lý, khiến cho tu chứng mật

hội hành quả. Do đây Nhất thừa căn cứ ở thật, mà thông hội cả giáo lý hành quả để giải thích chung các văn đối với lý. Cho nên nói hội biệt là nhất. Kinh này chính là nêu nhân quả Nhất thừa làm thể chân thừa, giáo là phương tiện, cho nên không trái ngược. Nay tuy nghĩa ít chưa động đến biển trí, như người ngu hơi biết cũng là tuyệt ở xưa nay. Vậy người trí thức sâu rộng nên tự hiểu rõ.

Trong ba nghĩa thì hai nghĩa đầu giải thích chung về định tánh, tánh bất định. Một nghĩa sau thường y vào tánh bất định .

Đại thừa Vô thượng tuy cũng là Nhất thừa, nhưng không phải điều kinh cần muốn nói nên lược không nói.

III. Nói ý nói theo: Nhiếp Đại thừa nói

Vì dẫn nhiếp một loại

Và nhậm trì còn lại

Do chủng tánh bất định

Chư Phật nói Nhất thừa

Pháp, vô ngã, giải thoát

… Nên chủng tánh khác nhau

Đắc hai ý lạc hóa

Rốt ráo nói Nhất thừa.

Mười nhân trong đây:

1/ Dẫn nhiếp một loại chủng tánh bất định của Thanh văn Độc giác, khiến cho nương về Đại thừa nhập Niết-bàn. Cho nên hội Pháp Hoa phần nhiều nói pháp Nhất thừa cho những vị này.

Trong luận Pháp Hoa thì nói: Tâm lui sụt rồi lại phát Bồ-đề tâm do vì các ngài như Thu Tử trước kia đều cầu Đại thừa rồi lui sụt tâm tu tiểu quả, nên gọi là: Thoái rồi lại phát tâm chẳng phải là hạng chủng tánh bất định đều thoái rồi lại phát tâm, nên đây gọi là chủng tánh bất định.

2/ Là nhậm trì pháp còn lại. Bất định chủng tánh, tức Bồ-tát Địa tiền Lục trụ trở xuống còn là thoái vị, sợ ở sự tinh tấn của Đại thừa lại hoại, lui sụt dựa vào Nhị thừa mà tám Niết-bàn. Cho nên kinh này nói: Bồ-tát nghe pháp thì lưới nghi đều trừ. Luận này cũng nói: Như lai vì hai thứ người mà giải thích. Hai thứ này đều là chủng tánh bất định. Vì hai thứ này nên Phật nói Nhất thừa.

3/ Pháp đẳng: Hành thừa tuy khác mà hướng đến chân như không khác nhau. Cho nên trong luận Pháp Hoa nói cũng đồng với kinh này.

4/ Vô ngã: Nếu có Bổ-đặc-già-la chân thật , có thể có thừa khác nhau. Ta đã không khác, nên nói Nhất thừa.

5/ Giải thoát: Ba thừa cùng ở trong chướng phiền não mà được hiểu thoát, giải thoát không có sai khác.

6/ Tánh khác nhau: Chủng tánh bất định trong Nhị thừa có khác nhau. Thân Thanh văn này có đầy đủ chủng tánh Thanh văn và Phật. Do có tánh này cho nên nói Nhất thừa.

7/ Phật cũng đồng tự thể ý lạc với chúng hữu tình. Nói ta tức là kia. Kia tức là ta. Ta đã thành Phật, kia cũng thành Phật.

8/ Nhị thừa cũng đồng tự thể ý lạc với Chư Phật. Cùng tên Bồtát mà thọ ký riêng. Nghĩa là Phật ở trong hội này cho Nhị thừa thọ ký riêng. Vì giúp cho họ nhiếp được ý lạc như thế. Chúng ta và Phật bình đẳng không hai. Lại trong hội này có các Bồ-tát cùng đồng gọi như họ. Một khi Phật nói thì bao gồm cả hai lợi ích. Nghĩa là Nhị thừa đắc được tự thể ý lạc đồng như Phật. Và các Bồ-tát được thọ ký .

9/ Hóa: Như Thế Tôn nói “Tỳ-kheo các thầy, ta nhớ xưa kia, vô lượng trăm ngàn kiếp, y vào thừa Thanh văn mà nhập Niết-bàn. Nói vì sao đã thành Phật, sau lại nương vào Nhị thừa mà đắc nhập Niết-bàn.

Tức vì điều phục giáo hóa Thanh văn. Chư Phật Bồ-tát tự hóa thân mình đồng Thanh văn kia. Ở trong cõi Vô dư y hiện ra nhập Niết-bàn, trải qua trăm ngàn kiếp đam mê rượu vắng lặng nằm say sưa . Sau từ hội kia khởi hiện mà được Phật thọ ký, khiến cho Nhị thừa chủng tánh bất định rõ được bổn tâm và nghĩ rằng: Khi xưa các bậc Trưởng lão nhập Niết bàn, nay đều trở lại khởi hiện nhận vật trao ký, huống chi nay chúng ta không mong cầu quả Phật mà muốn nhập Niết bàn ư! Nay trong hội, các ngái Phú-lâu-na… tức là loại Thanh văn bất định này. lại Pháp Hoa luận chép: Vì giáo hóa Thanh văn mà Phật thọ ký, tức hạng này. Thế nên, cũng vì hàng phục Nhị thừa ngạo mạn. Ta cũng đắc Niết bàn của các thầy, như Kinh Lăng Già nói rộng : A-la-hán nhập Vô dư Niết-bàn, trải qua trăm ngàn kiếp, mê say vị thiền định. Sau đó tỉnh dậy mới phát đại tâm. Đều là chỗ hóa tác của Phật và Bồ-tát. Nếu không như vậy, thật là đã nhập vào vô dư Niết-bàn, thân trí đều tận diệt. Sau từ Vô dư mà khởi sanh pháp nào? Cho nên biết là hóa.

10/ Rốt ráo: Do vượt qua Nhị thừa này, ngoài ra không có thừa khác hơn. Nương vào lý rốt ráo thì là thù thắng nhất, cho nên nói là nhất. Nay nương trong hội này, mà luận chỉ có hai hạng người, được thọ ký riêng: Một là tánh bất định; hai là ứng hóa.

Tánh bất định tức là phần ít của nhân thứ nhất, hai và tám nói trên, Ứng hóa tức là nghĩa thứ chín và phần ít khác nói về Nhất thừa, chẳng phải hoàn toàn bác bỏ họ là không có định tánh. Cho nên đối với người này là mật ý nói Nhất thừa.

Kinh Giải Sâu Mật chép: Tướng, sanh, thắng nghĩa vô tự tánh: Ta đều đã hiển bày như thế . Nếu không biết mật ý này của Phật bèn hoại mất chánh đạo, không thể đến đạo Nhất thừa. Ở trong đây lập ra Nhất thừa chẳng phải là tánh hữu tình không có sai khác, mà đối với định, bất định hữu tánh, vô tánh hợp lại nói là một. Cho nên, kinh Niết-bàn cũng chép: Nhất thừa, nhất đạo, người bốn quả Thánh đều được thành Phật. Nếu không hiểu ý của ta chỉ nên như thế nói là tốt rồi! Nay mười nghĩa nhân này nói: Luận Hiển dương nói sáu nghĩa, luận Trang Nghiêm nói tám nghĩa, đều không ngoài mười nghĩa này, nên không trình bày ở đây.

IV. Nói rõ sự khác nhau

Kinh này nói Nhất thừa có tướng sai khác với trong kinh Thắngman, Niết-bàn đã nói. Kinh này có cả lý, trí, Kinh kia thì chỉ Phật tánh. Đây chỉ nhiếp nhập, kia có cả súc sanh. Đây chỉ hữu tánh, kia có vô tánh. Đây chỉ tánh bất định, kia có định tánh. Đây nói nhiều về giáo lý. Kia nói nhiều về hành quả. Đây nói Nhất thừa là thật, Nhị thừa là quyền. Kia nói Nhất thừa là quyền, Bốn thừa là thật. Cho nên trong kinh Thắng-man nói: Nếu Như lai tùy ý muốn kia mà phương tiện nói, chỉ có Nhất thừa không có thừa nào khác v.v… thì có khác với kinh Vô Lượng nghĩa luận chép về Nhất thừa như trong phần giải thích danh tự đã giải thích rộng tướng sai khác ấy, và phần hỏi đáp thứ năm có luận đầy đủ một chương riêng, nay không cần nói đây.

-Kinh: Xá-lợi-phất cho đến Hoặc hai hoặc ba.

-Tán: Đây là phần cho ký, khiến cho trụ vào Nhất thừa, lấy Nhất thừa này vì đại chúng nói pháp, đều không phải Thanh văn thứ ba, Độc giác thứ hai. Từ hơn đến kém đều theo thứ lớp, không lấy việc tu tập cạn sâu khó dễ mà làm thứ lớp, cho nên trong kinh này ở phần thứ nhất có nói: Có hai pháp khác chẳng phải là thật; chu thứ hai nói: Thầm sai hai người; châu thứ ba nói: Vì nơi tạm nghỉ cho nên nói hai không nói là ba, cho nên biết không phải đều không Ba thừa. Chỉ ứng với nghĩa đã nói như ở đây. Hội giáo lý hạnh quả sở tu kia làm nhân đại thừa hiện tại, khuyên trú vào Đại thừa.

-Kinh: “Xá-lợ-phất cho đến pháp cũng như thế.”

-Tán: Từ đây trở xuống là nương pháp nói Phật Thích-ca nương theo quy tắc nói pháp của tất cả Chư Phật. Ban đầu nói pháp phương tiện sau nói pháp chân thật, khuyên kia sanh tín, dẫn việc đã thành tựu của Phật khác. Trong đại văn có ba: Đầu tiên nói pháp thức của mười phương Chư Phật như thế. Kế là nói pháp thức của Chư Phật ba đời như thế. Sau nói Ta do quy tắc này, nên nói pháp cũng như thế.

Tuy lìa ba đời, càng không có mười phương, lìa mười phương, thì không có ba đời. Vì ngang dọc có khác nên chia ra có khác nhau. Trong Nhiếp Đại Thừa nói: chúng hữu tình trong cõi người là vô số lượng. Niệm niệm đều cho chúng sanh chứng Chánh đẳng Chánh giác, thế không nên chịu thoái chí. Do đây mà Chư Phật hiện tại ở mười phương cũng đồng một, pháp thức.

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến một Phật thừa cho đến”- Tán: Nói pháp thức của ba đời Chư Phật, có hai:

  1. Nói riêng về pháp thức ba đời.
  2. Kết: Những việc làm đều đồng.

Phần một có ba: Quá khứ; Vị lai; Hiện tại. Trong ba đời, mỗi đời đều có nói hai phần:

  1. Pháp thức nói pháp của Phật đều đồng.
  2. Chúng sanh được độ đắc đạo đều đồng.

Phần này nói về pháp thức quá Chư Phật của khứ là đồng. Đầu tiên lấy các thứ nhân duyên làm phương tiện nói pháp, vì là sau để được một Phật thừa. Cho nên trong Luận này chép: Phương tiện là quán: Ấm, giới, nhập, chán khổ lìa khổ trong Tiểu thừa mà được hiểu thoát.

Trong Đại thừa các pháp Ba-la-mật, bốn nhiếp pháp, các pháp đối trị giữ lợi ích cho tự thân tha thân.

Nhân duyên đó là ở trong luận này có sáu nghĩa. Trong nghĩa thứ hai giải thích như đã nói ở phần trước.

– Các thứ nhân duyên: Là pháp Ba thừa. Pháp Ba thừa này, chỉ theo văn tự danh cú mà nói chứ không có thật nghĩa. Vì thật nghĩa kia không thể nói. Ví như lấy từ bò, lấy sửa làm thành tô lạc bỏ sống, bỏ chín, cho đến đề hồ là loại tốt nhất. Tiểu thừa như sữa. Đại thừa là đề hồ. Đây là dụ cho Đại thừa vô thượng. Chư Thanh văn cũng đồng như Đại thừa vô thượng Thanh văn đồng đó là thị hiện tánh đồng của pháp thân Chư Phật. Phàm phu, Thanh văn, Bích-chi-phật, pháp thân cùng bình đẳng không sai khác. Cho nên ở đây thí dụ thị hiện. Ý đây nói là: Phàm phu như trâu. Thanh văn như sữa, Bích-chi-phật như lạc, Tiểu Bồtát như bỏ sống. Đại Bồ-tát như bỏ chín, Phật là đề hồ là vị bậc nhất. Phật thừa cũng vậy. Ví như cùng lấy ra từ bò là tánh sữa mà thay đổi lần lần tăng lên cho đến thành đề hồ. Vậy nên từ phàm phu cho đến thành Phật, tướng mạo đều có sai khác, nhưng thể tánh vốn bình đẳng không hai. Nay trong văn kinh này chỉ nêu ra ba câu đây. Luận này giải thích văn kinh lại có niệm quán. Niệm quán đó ở trong Tiểu thừa là nhân vô ngã v.v… Trong Đại thừa là chân như, pháp giới, thật tế, nhân vô ngã, pháp vô ngã v.v… Trong kinh này lấy phương tiện: Nhân duyên, thí dụ, ngôn từ làm thứ lớp. Luận này giải thích kinh thì lấy: Thí dụ, nhân duyên, niệm quán, phương tiện làm thứ lớp. Nay dẫn ra giải thích, với luận không đồng người học nên hiểu hết.

-Kinh: “ Các chúng sanh ấy cho đến Nhất thiết chủng trí”.

-Tán: Đây là nói về thời quá khứ đã độ chúng sanh đắc đạo đều giống nay. Ban đầu tuy nói vì Nhị thừa mà sau cùng thì nói tất cả đều thành Phật, đắc Nhất thiết chủng trí. Nhất thiết chủng trí tức là Phật chánh trí. Chủng trí riêng biết tất cả pháp, chánh trí tức là xe trâu.

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến một Phật thừa”.

-Tán: Đây nói pháp thức của Phật vị lai cũng giống như xưa nay.

-Kinh: “Các chúng sanh này cho đến Nhất thiết chủng trí”.

-Tán: Đây nói vị lai độ chúng sanh đắc đạo, đều giống xưa nay.

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến. một Phật thừa”.

-Tán: Nói pháp thức Chư Phật hiện tại giống như xưa và mai sau.

-Nhiêu ích đó là lợi ích. An vui thì cho vui, cứu khổ thì cho vui, cho trí, cho phước, cho quả thế gian xuất thế gian, cho tiểu quả, đại quả, thứ lớp như thế mà phối hợp.

-Kinh: “Các chúng sanh cho đến. Nhất thiết chủng trí”.

-Tán: Đây nói chúng sanh hiện tại đắc đạo đều giống như xưa và sau.

-Kinh: “Xá-lợi-phất… nhập đạo tri kiến Phật”.

-Tán: Đây là kết thúc các việc làm cho chúng sanh đã rốt ráo. Chỉ vì Bồ-tát sẽ thành Phật, trụ vào nhân phát tâm mà khởi tu các hạnh, đều đồng hướng về đại thừa nên đều gọi các pháp mà Bồ-tát, làm đều vì Nhất thừa. Dùng tri kiến Phật chỉ cho chúng sanh giác ngộ chúng sanh kia, là muốn chúng sanh nhập tri kiến Phật. Văn kinh không khai vì lấy nghĩa chung nghĩa chỉ bày như trước luận nay không giải thích. Lại giải thích ngộ là khiến cho chúng sanh ngoại đạo sanh giác ngộ bỏ tà về chánh. Lại giải thích nhập là khiến đắc quả Thanh văn nhập quả đại Bồ-đề mà hồi tiểu hướng đại.

Theo luận này thì: Lần một giải thích khai nghĩa vô thượng. Lần hai giải thích thị chỉ cho thấy đồng cho người có nghi tu hành. Lần ba giải thích ngộ nghĩa không biết để người chưa phát tâm khiến cho phát tâm, người ngoại đạo được giác ngộ. Lần tư giải thích nhập là vào quả vị bất thối. Người đã phát tâm khiến cho nhập vào pháp, người đắc Thanh văn thì thể nhập vào đại Bồ-đề. Lại theo văn mà giải thích: Lần một hợp với chánh giải thích một đại sự nhân duyên. Lần hai hợp với văn kết nghĩa đại sự. Lần ba hợp với văn nói Phật nương theo các pháp thức của Chư Phật. Luận văn phần nhiều dựa vào văn nói đại sự mà giải thích về lý cũng không sai.

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến Nhất thiết chủng trí.”

-Tán: Ở đây nói: Ta do pháp thức này nên cũng như thế. Chỉ có Phật có các thứ trí lực thắng giải nên biết rõ các ưa muốn của chúng sanh. Phật có Biến thú hành trí lực nên biết sâu tâm chúng sanh mê Đắm nghĩa là ưa chấp trước pháp tu hành, hoặc do hữu tình ưa muốn khởi lên vui đắm. Tức nêu ra sự chấp trước của chúng sanh ở khắp nơi. Cho nên đều là trí lực thắng giải mà Phật biết. Phật Có chủng chủng giới trí lực nên biết rõ bổn tánh đó, tức đã biết các pháp giới thích tu của chủng tánh bất định nên ban đầu nói Ba thừa là phương tiện, nay nói Nhất thừa là rốt ráo, đều vì vì chúng sanh đắc một Phật thừa Nhất thiết chủng trí. Văn trên đều nói đắc một Phật thừa Nhất thiết chủng trí, cho nên biết chủng trí tức là Phật thừa.

-Kinh: “Xá-lợi-phất… Huống chi có ba.”

-Tán: Đây là phần ngăn thứ sáu: Còn không có Độc giác thừa thứ hai, huống chi là Thanh văn thừa thứ ba. Do kinh này nói hạng xe dê, xe hươu vì cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa, cho nên chỉ nói phá hai mà không nói phá xe trâu. Đây không có Niết-bàn Nhị thừa rốt ráo.

Luận chép không có Nhị thừa đó là không có Nhị thừa Niết-bàn. chỉ có Phật là chứng đại Niết-bàn. Rốt ráo đầy đủ tất cả trí tuệ nên gọi là Đại Niết-bàn. Nghĩa thể của ba việc đều đã đầy đủ. Nhị thừa thì không như thế, chỉ mượn trạch diệt mà không có pháp thân đại trí. Chẳng có Đại Niết-bàn của Thanh văn Duyên giác mà chỉ có một Phật thừa.

Một Phật thừa đó là nương vào bốn thứ nghĩa, như trước đã nói. Luận thì dùng sáu nghĩa trong phần thọ ký phối hợp như trước đã nói. Pháp gì cho đến thể pháp là gì? Gồm năm nghĩa. Những pháp gì là nghĩa thứ nhất trước nói: Người chưa nghe khiến cho nghe, đem pháp chưa từng có khiến cho người nghe. Pháp đó thế nào là nghĩa thứ hai. Trước nói: Đầu tiên dùng các phương tiện thí dụ ngôn từ để nói pháp. Tương tợ pháp nào đó là trước phần thứ ba y vào nghĩa gì; chỉ vì một đại sự. Tướng pháp nào là pháp thứ tư khiến cho trụ vào Nhất thừa. Tùy theo căn khí chúng sanh mà có Phật tánh, khiến trụ vào Phật pháp. Thể pháp là gì? Tức nghĩa ngăn thứ sáu, ngăn không có hai thể, chỉ một thể Nhất thừa. Tức là pháp thân bình đẳng của Chư Phật Như lai. Nhân quả Ba thừa, quán hạnh không đồng, có thể có sai khác. Nay nói ngăn đó là ngăn không có thể của hai thứ pháp thân. Pháp thân chân như của Ba thừa đều đồng không phải không có thể Nhị thừa, hay tất cả đều không có lấy nghĩa lý này suy ra thì có thể hiểu. Nêu không vậy thì luận văn hơi ẩn ý khó hiểu. Chỉ không có nghĩa thứ năm là pháp thức của Chư Phật. Dùng năm nghĩa lần lượt nêu ra thì có thể hiểu.

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến. Mạng trược”:

-Tán: Y cứ đoạn thứ ba khai ra thật tướng này và mở ra quyền môn kia.

Trong đó có hai: Phần trên giải thích hai phần thọ ký là cho và lấy. Hai đoạn dưới là phá bốn thứ nghi luận nêu ra năm phần, thì phần thứ năm là dứt nghi. Luận chép bốn thứ nghi: Một là nói lúc nào; hai là làm sao biết tăng thượng mạn; ba là vì sao kham nói; bốn là vì sao không thành nói dối. Đây là phá nghi đầu tiên. Luận chép: Chư Phật vào thời nào mà khởi ra phương tiện nói pháp. Nghĩa là Phật ở trong thời nào. Đầu tiên là nói Nhị thừa quyền, sau là nói Nhất thừa thật. Trong đây có hai lời đáp: Đầu là nêu năm vẩn đục. Sau nói rõ lý do. Đây nói phần đầu. Nghĩa năm vẩn đục là lấy năm môn để phân biệt:

  1. Giải thích danh.
  2. Nêu thể.
  3. Đối trị.
  4. Phế lập.
  5. Nhiếp nhau.

-Giải thích danh là: Trược nghĩa là tạp uế. Như ăn đồ dơ uế thấp hèn đáng bẩn gọi là trược. Đây ý nói là: Vào thời kiếp tăng, tam tai dần dần nhẹ bớt phiền não cũng nhẹ. Chúng sanh ác kiến cũng ít, mạng căn tăng tuổi thọ, dần dần hướng đến tốt hơn, vì đều là tốt đẹp đáng vui thì gọi là thanh. Chúng sanh không có khổ nên hóa Phật không ra đời. Khi hóa Phật ra đời là đến thời kiếp giảm tiểu tai dần hưng khởi, phiền não thêm dày. Chúng sanh làm điều ác nhiễm tà kiến dần mạnh lên, mạng căn dần dần giảm làm các việc ác xấu mà không chán nên gọi là trược. Năm là giải thích theo số, còn giải thích tên khác là trì nghiệp thích. Hoặc dùng riêng để phân biệt với chung, cũng là y chủ thích.

-Nêu thể là: Luận Địa Trì chép: Người đời nay phần nhiều đều đoản mệnh, cao lắm là một trăm tuổi. Đó gọi là mạng trược. Đây dùng bổn thức mà nói tức là hạt giống, do nghiệp khởi dẫn ra công năng khác nhau mà làm thể của mạng căn. Lực của thiện nghiệp yếu nên mạng căn đoản số. Đó là do nghiệp sát sanh chiêu cảm nên.

Nếu chúng sanh không nghĩ đến cha mẹ, không nghĩ đến Sa-môn, Bà-la-môn và tông tộc tôn trưởng, không tu nghĩa lý. Không lo không sợ quả báo nghiệp ác đời nay đời sau. Không tu tuệ trí, không làm công đức không tu trai pháp, không trì cấm giới. Đó gọi là hữu tình trược. Tuy thức thứ tám gọi là hữu tình, Mà nay nói do gần với duyên ác bên ngoài, cho nên năm uẩn giả đó là làm ác không thiện thì gọi là hữu tình trược. Hợp lấy thức thứ tám và năm uẩn làm tánh. Nếu chúng sanh này thêm tham phi pháp, hoặc đem đao kiếm, gậy gộc cho người, tranh tụng đấu loạn dua nịnh nói dối, nhiếp thọ tà pháp và các nghiệp bất thiện. Khác thì gọi là phiền não trược. Ngoài năm kiến ra thì tất cả các phiền não tùy phiền não khác đều là thể của phiền não trược. Các việc tham phi pháp, đưa dao cho người… Dẫn đến hành động giết hại, hoặc tiếc rẻ tài vật mà chỉ bỏ đao gậy, nhân đó mà gây ra nhiễu loạn tranh đấu, cho đến các việc bất thiện khác, chung nhiếp tất cả phiền não tùy phiền não. Do tánh thường huân tập mà gặp cảnh ác, gây nên phiền não sâu trọng. Nếu ở đời pháp hoại diệt, dần bước sang thời tượng pháp thì tà pháp chuyển sanh. Đó gọi là kiến trược. Đây dùng năm kiến làm thể tánh, phần nhiều gần ngoại đạo ác kiến thường sanh ra. Nếu gặp thời đói khát tật bịnh, đao binh nổi lên thì gọi là kiếp trược. Đây dùng sắc uẩn tứ trần làm thể. Hoặc thông năm uẩn, vẫn lấy bất tương ưng làm thể. Y vào bốn năm uẩn mà kiến lập, phiền não thêm lớn, ác nghiệp sâu nặng, liền chiêu quả lấy ác, tam tai liền phát sanh. Đối trị là tùy theo tướng mà nói pháp đối trị. Trong Trí Độ luận có lập ra bốn tất đàn, là tông Tất đàn .

  1. Thế giới tất đàn.
  2. Mỗi mỗi vị nhân tất đàn.
  3. Đối trị tất đàn.
  4. Bậc nhất nghĩa đế tất đàn.

-Chúng sanh ở kiếp trược dùng thế giới Tất đàn để trị. Phân biệt rõ thế gian, chúng sanh ở thế gian đều là hư huyễn. Nhàm chán tu đạo xa lìa hẳn. Mạng trược thì dùng mỗi mỗi vị nhân tất đàn để trị. Phân biệt biết rõ con người do tu thiện nghiệp mà được, tu trì tịnh giới, hành bất sát mà mạng sống thêm lớn. Hoặc vì người Ba thừa đều nói pháp tự thừa, khiến đắc quả tự thừa Niết-bàn, trừ hết sanh tử trong đời mạng trược. Phiền não trược, kiến trược thì dùng đối trị tất đàn để trị. Tu tập tùy ứng với đạo đối trị, làm cho không còn khởi lên. Do Tam tất đàn phá trừ được năm vẩn đục, nhập vào Bậc nhất nghĩa, chứng hội chân tông.

-Nói về phế lập: Vì sao chỉ lập năm vẩn đục mà không có thêm bớt.

Đáp: Chúng sanh có hai:

-Ác hạnh: Nghĩa là hạng bạch y tại gia.

-Tà hạnh: Là người xuất gia ngoại đạo. Người tại gia không có trí tuệ khi phiền não thêm lớn thì gọi là phiền não trược. Ngoại đạo hiểu tà, lãng phí tìm cầu nên xếp vào kiến trược. Lại độn hoặc là phiền não trược, các lợi hoặc gọi là kiến trược . Do hai nhân này nên ly hợp không đồng, lại chia ra hai trược. Hợp hai nội quả gọi là chúng sanh trược, chúng sanh ác. Hợp hai quả bên ngoài gọi là kiếp trược, đầy đủ các ác khí. Kiếp có nghĩa là thời phần. Thời không có thời riêng mà dựa vào pháp làm rõ nên kiếp trược dùng ác khí làm thể. Chúng sanh ác này quả bên ngoài , tuy được nói là chung của hai quả trược, mà chưa nêu ra thể chành của quả ác là gì. Nay hiển bày căn bản cho nên lập ra mạng căn. Hoặc quả của điều ác bên trong gọi là mạng trược, quả của điều ác nên ngoài gọi là kiếp trược. Nhân quả ác này do ai mà có, nghĩa là do chúng sanh ác nên gọi là chúng sanh trược.

Do y cứ vào năm trược này mà tăng thêm hành tướng. Vì khiến cho người sanh nhàm chán cho nên nói riêng có năm.

Hỏi: Vì sao hoặc khổ gọi là chướng, nay tách ra làm trược, nghiệp cũng thuộc về chướng vì sao không xếp vào trược?

Đáp: Chướng là nghĩa phá cả ba đều làm trở ngại, vì trở ngại Thánh đạo. Trược nghĩa là dơ uế, nghiệp có nghĩa trược rất yếu nên không xếp vào trược. Lại trong kiếp đao binh cũng chính là nghiệp trược. Kiếp trược rất rộng, nên từ nghĩa rộng mà đặt tên, chỗ lập cũng không hẹp.

– Về nhiếp nhau: thì trong kinh Tát-già-ni-càn-tử lập có mười hai trược:

  1. Thị hiện kiếp trược.
  2. Thị hiện thời vẩn đục.
  3. Thị hiện chúng sanh trược.
  4. Thị hiện phiền não trược.
  5. Thị hiện mạng trược.
  6. Thị hiện ba thừa sai khác trược.
  7. Thị hiện cõi nước bất tịnh trược.
  8. Thị hiện chúng sanh khó giáo hóa trược.
  9. Thị hiện nói các thứ phiền não trược.
  10. Thị hiện ngoại đạo loạn trược.
  11. Thị hiện ma trược.
  12. Thị hiện ma nghiệp trược.

Người Thiện nam! Cõi nước của Chư Phật, đều là công đức xuất thế trang nghiêm, thanh tịnh đầy đủ, không có các trược, như các lỗi lầm ấy, đều là phương tiện thị hiện của Chư Phật. Vì lợi ích chúng sanh mà chỉ nói thị hiện biết nghiệp v.v… cũng có thể xếp vào trược. Mười hai trược này chỉ có trong Đại thừa. Tùy Phật hóa độ hai pháp hơn kém, thị hiện mà lập ra có khai hợp khác nhau. Năm trược đầy đủ căn cứ vào tướng uế độ mà tăng thêm nghĩa tức thông cả đại Tiểu thừa đều có. Kiếp và thời tức là kiếp trược. Chúng sanh và chúng sanh khó hóa độ tức là chúng sanh trược, phiền não và nói các thứ phiền não tức là phiền não trược. Mạng tức là mạng trược. Ngoại đạo loạn tức là kiến trược. Tám trược này là năm trược. Bốn thứ còn lại là ba thừa sai khác, cõi nước bất tịnh, ma và ma nghiệp chẳng thuộc trong năm vẩn đục. Năm vẩn đục căn cứ ở nghĩa mạnh, chỉ thật sự là tạp nhiễm. Mười hai trược là thông ở năng hóa năng chướng là Phật thị hiện. Nếu y theo kinh Tỳni Mẫu thì trong năm trược không có kiến trược mà lập ra nghiệp trược. Nếu theo kinh kia thì phiền não và nghiệp mỗi thứ đều có riêng một trong đó quả chia làm ba:

  1. Thể chánh báo gọi là mạng trược.
  2. Thể nội báo là chúng sanh trược.
  3. Thể của quả bên ngoài là kiếp trược.

Chương y cứ vào loại thì đồng hợp lập thành ba chướng,hoặc cùng với pháp chướng. Trược y cứ vào nghĩa nhơ uế, hoặc hợp hoặc là khai, tùy theo căn cơ mà khác nhau. Khiến chúng sanh nhàm chán sợ hãi, không thể làm khó để hỏi. Luận thập địa quyển một nói: Thanh tịnh nghĩa là không trược. Trược có sáu thứ, lìa các trược này thì được thanh tịnh.

  1. Trược Bất dục
  2. Trược Uy nghi .
  3. Trược năm cái.
  4. Dị tưởng trược – khởi tâm ganh ghét, tâm phá hoại.
  5. Trược không đủ công đức: Vì gốc lành kém thiếu, nên trong kinh kia (Pháp Hoa) chép : Tâm không thích trụ.
  6. Trược Si : Nghĩa là ngu si. Đây chỉ căn cứ vào hành trược, không chung y vào các pháp.

Có sáu pháp để đối trị là lìa biếng nhác, nghiêm, tịnh, vững chắc,

đầy đủ công đức, đầy đủ trí. Sáu pháp này đối trị nên lập ra sáu trước, không cần hòa hợp. Ngoài ra ở chương khác nói rõ, không nói tiếp đây.

Pháp nhĩ như vậy, Phật ra đời sẽ vào thời năm vẩn đục, cho nên nói Chư Phật ra đời vào cõi đời có năm thứ vẩn đục.

Hỏi: Vì sao Phật Di-lặc đến khi con người thọ tám muôn tuổi mới sanh ra? Phật Thích-ca ra đời vào kiếp thọ một trăm tuổi?

Đáp: Vì nguyện lực khác nhau mà đều ở trong đời trược đều hóa chúng Ba thừa. Trước quyền sau thật, cũng đều là hóa thân. Nếu báo thân và hóa thân Phật không hóa độ chúng Nhị thừa, trước quyền sau thật, thì chưa hẳn thời vẩn đục Phật mới ra đời. Nếu hóa độ Nhị thừa trước quyền sau thật ắt phải ra trong thời vẩn đục để chúng sanh ác khó giáo hóa dần dần nhập vào chánh đạo.

Đây nói trước nghĩa là vào trong kiếp giảm, dần dần phát sanh năm điều này tức gọi là thời vẩn đục. Cho nên Phật Di-lặc. Bắt đầu giảm tám muôn dần dần hướng về năm vẩn đục thì Phật mới ra đời. Thế nên không cần phải đợi khi tuổi thọ giảm còn ba mươi, hai mươi hay còn mười tuổi, kiếp nạn tiểu tai nổi lên thì mới gọi là kiếp trược. Cho nên trong các luận chép: Vào đời kiếp giảm thì Phật ra đời. Kiếp tăng thì vua thánh Chuyển luân ra đời.

Hỏi: Nếu kiếp giảm thì Phật ra đời, kiếp tăng thì Vua chuyển luân ra đời, thì sao Nhượng Khư và Phật Di-lặc cùng ra đời. Lại khi Phật không xuất gia nên làm luân vương, tám vương tử của Nhật Nguyệt Đăng Minh thống lãnh cả bốn thiên hạ.

Đáp: Kiếp tăng thì Nhượng Khư ra đời, vì tuổi thọ lâu dài nên được gặp Phật Di-lặc chẳng phải Phật Di-lặc ra đời vào kiếp không giảm. Lại Phật không xuất gia nên ở ngôi vị Kim luân, chẳng phải nhất định làm. Tám vương tử của Phật Đăng Minh nghĩa cũng đồng như vậy, kia là báo thân nên nghĩa này không sai. Đây là nói kim luân tức khi kiếp tăng mới ra đời, Ngân, Đồng, Thiết Luân Vương ra đời cũng không nhất định. Vì thế mà vua Vô Ưu ra đời một trăm năm sau khi Phật nhập diệt làm Thiết Luân .

-Kinh: “Như Thế Xá-lợi-phất cho đến phân biệt nói là ba”.

-Tán: Giải thích vì sao Phật ra đời trong kiếp có năm vẩn đục.

Nhắc lại năm vẩn đục đã nói ở trước, nên nói là “như thế”. “Lúc kiếp trược loạn” là nêu lại kiếp trược có các nạn đói khát, binh đao, tật bịnh xảy ra, “chúng sanh nhơ nặng” là nhắc lại chúng sanh trược. Cấu là sáu nhơ. Thân tâm ô nhiễm bất tịnh thì gọi là cấu. Tăng cường nan phá gọi là nặng. Sáu cấu là: Hại, hận, não, siểm, cuống và kiêu. Ở hữu tình ưa thích làm tổn não thì gọi là hại. Do giận rồi kết oán không bỏ thì gọi là hận. Đã nhớ lại việc ác xưa, gặp hiện tại trái duyên tâm lại hung hãn, nói lời hung dữ nguyền rủa gọi là não. Ba điều này lấy sân làm thể. Vì dáng mạo lừa người, hoặc che giấu lỗi mình, hoặc để lấy ý nghĩa khác, giả tạo oai nghi khác thường dua vậy gọi là siểm. Vì muốn được lợi danh giả vờ, hiện tướng mạo như có đức ngụy trá dối gạt người thì gọi là Cuống. Nghĩa là tâm toan tính điều khác, phần nhiều hiện điều không thật tự mình tà mạng. Đây dùng hai pháp tham si làm thể. Đối với những việc thành tựu, sanh sâu tâm đắm nhiễm , ngạo mạn thì gọi là kiêu. Đây dùng tham làm thể. Do chúng sanh nhiễm lục cấu sâu nặng, nên không biết Sa-môn, không tu pháp thiện , gọi là chúng sanh trược, tham lam ganh ghét tức phiền não trược, tham đắm vào tài pháp đã có mà không thí xả gọi là xan (keo lận). Đối với điều chưa đắc được và có đầy đủ lại ham muốn thì gọi là tham, san tuy là do tham điều được hay chưa được mà nhiễm phân biệt, nên chia thành ra hai: quay cuồng danh lợi mình, không chịu người khác vinh dự, ôm lòng ganh ghét phiền hoặc gọi là ganh ghét. Trong nói văn ngọc thiên chép: Hại người hiền gọi là tật, hại sắc gọi là đố.

-Thành tựu các căn bất thiện là: Căn bất thiện có ba: Là tham, sân si. Do đầy đủ hai nghĩa mà lập ra bất gốc lành.

  1. Là căn bản phiền não năng sanh ra pháp khác, phân biệt các tùy, hoặc không được lập.
  2. Các lỗi sâu rộng của khắp sáu thức, mạn nghi kiến thì không gọi là bất gốc lành, chỉ ý là thì có. Do đầy đủ hai nghĩa này mà có ba tên gọi bất gốc lành.

Căn có nghĩa là sanh ra, sanh ra duyên ác, cũng tức là phiền não trược. Chỉ nói ba trược mà không nói kiến, mạng trược, là vì kiếp trược nhiếp cả mạng trược do thời đao binh tật bịnh nên mạng sống phần nhiều ngắn ngủi, phiền não trược nhiếp, kiến trược và nêu ra căn bản phiền não bất gốc lành nhiếp tất cả phiền não. Do vào thời này trời, người giảm ít mà đường ác tăng nhiều. Chúng sanh khó đem pháp Đại thừa mà giáo hóa họ được. Nên phải dùng trí phương tiện đem một Phật thừa phân biệt nói thành ba để họ dần dần thể nhập. Thế nên trong kinh nói chỉ khen ngợi Phật thừa, chúng sanh dứt khổ không thể tín thọ, cho nên phương tiện nói.

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến chẳng phải là Bích-chi-phật.

-Tán: Phần này giải thích nghi thứ hai: Như lai đã không vì người

tăng thượng mạn mà nói. Sao biết kia là tăng thượng mạn. Trong văn nói có ba:

  1. Chẳng phải là tướng Thánh Nhị thừa chân thật.
  2. Nêu tướng tăng thượng mạn.
  3. Kết thành tựu tướng hai Thánh chân thật.

Đây nói phần đầu:

Người thanh văn, Bích-chi là bậc chân Thánh hướng tịch. Nếu gặp Phật thì đều không còn mê pháp. Vì tánh bất định nên có thể hồi tâm. Bất luận gần xa đều có thể nghe biết việc Phật giáo hóa Bồ-tát . Tự cho là nhị Thánh thật mà được gặp Phật, đều không nghe biết việc giáo hóa Bồ-tát, thì chẳng phải là đệ tử Phật, cũng chẳng phải là nhị Thánh chân thật.

-Kinh: “Lại Xá-lợi-phất cho đến đều là người tăng thượng mạn”.

-Tán: Đây nói về tướng tăng thượng mạn, phàm phu đắc tứ thiền, chưa ra khỏi nhiễm trong tam giới, tự cho là nhị Thánh chân thật là thân A-la-hán cuối cùng được Niết-bàn rốt ráo, tâm không cầu chánh giác, không tín hướng. Đó là tăng thượng mạn.

-Kinh: “Vì sao cho đến không có việc ấy”.

-Tán: Đây là phần kết thành tựu tướng hai Thánh.

-Chỉ là bậc chân Thánh mà gặp được ta là hướng tịch. Phần nhiều là người không ngu pháp. Tuy không thể thật hành mà nghe cũng tin. Chủng tánh bất định, lý tín tu học gọi là nhị Thánh chân thật . Nếu người này không tin thì không có việc ấy, chẳng phải đạo lý. Người hướng đến vắng lặng không thể chứng nhập. Đầu tiên còn chưa tin nên gọi là tổn hại sợ sệt, trở lại đạo sanh nghi sau sẽ sanh tin nhận không còn ngu pháp. Cho nên đây kết luận rằng người kia không tin Nhất thừa thì không có việc ấy.

-Kinh: “Sau khi Phật diệt độ hiện tiền không có Phật.”

-Tán: Giải thích nghi thứ ba: Làm sao có thể nói, nghĩa là có nghi là: Nghe Phật nói pháp mà khởi tâm phỉ báng. Vì sao Như lai không thành tựu cho không thể nói pháp cho người? Ý này nói là: Cũng có hai Thánh chân thật và hướng vắng lặng, mà người ngu nghe pháp khởi tâm chê bai, cũng không nghe biết việc giáo hóa Bồ-tát. Tức Thế Tôn không thể hóa độ. Vì sao Phật không thành tựu không thể nói pháp cho người? Đã thành không kham nói pháp cho người, trái lại kết rằng: Vì sao Đức Thế Tôn có thể vì chúng sanh mà nói pháp, mà xưng là chủng trí?

Cho nên Phật đáp: Trừ sau khi Phật diệt độ hiện tiền không có Phật. Tuy sự thật hướng tịch mà gặp Phật, phần nhiều không còn ngu pháp, đều nghe biết việc giáo hóa Bồ-tát. Nếu không gặp ta mà thú hướng vắng lặng, có ngu đối với pháp nên không thể biết được chỉ giáo hóa Bồ-tát. Văn này có ba:

  1. Nêu
  2. Giải thích
  3. Kết thành.

Đây là nói phần đầu.

-Kinh: “Vì sao? cho đến người ấy khó được”

Tán: Đây là giải thích phần nêu trước. Sau khi ta diệt độ, vì người không có duyên lành, khéo dùng phương tiện dẫn dụ, các người thú hướng tịch diệt thì phần nhiều ngu đối với pháp, đối với các kinh này thọ trì giải nghĩa là ít có đạt được, không hiểu ý, cho nên sau khi ta diệt độ có nhị Thánh chân thật không nghe không biết chỉ giáo hóa Bồ-tát.

-Kinh: “Nếu gặp Phật khác cho đến liền tỏ ngộ”.

-Tán: Đây là phần kết thành tựu ở nghĩa trước. Người ngu pháp này sau khi Ta diệt độ, lại gặp Phật khác dùng phương tiện nói pháp hóa độ, đối với pháp này liền được liễu ngộ cũng có thể biết việc chỉ giáo hóa Bồ-tát. Nếu không gặp Phật thì không biết. Cho nên nay chẳng phải Phật không kham nổi nói pháp cho họ.

Luận Du-già chép: Nếu đã kiến lập thức A-lợi-da, nương vào cõi vô sắc, thì cũng nhập diệt định. Tin có Tàng thức không dứt bặt. Hoặc nghi này chẳng phải nghi thú hướng tịch diệt, mà chính là nghi tăng thượng mạn. Đã không hóa độ được thì vì sao nói Đức Thế Tôn không thành tựu không thể nói pháp cho người. Đây giải thích: Ta còn tại thế thì hóa độ được, trừ khi ta diệt độ thì không.

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến chỉ một Phật thừa”.

-Tán: Phần dưới đây giải thích nghi thứ tư. Trước nói Ba thừa, nay nói là một. Nay nói pháp khác vì sao lại nói lời Đức Thế Tôn không có luống dối cho nên Phật nói:

-Ta đã chứng giải, ông hoàn toàn không biết. Hành vị chưa đến thì chỉ nên nhất tâm tin lời ta nói. Ông phát tâm thì trước phải có niềm tin. A-la-hán hồi tâm phải trải qua hai muôn kiếp. Đầu tiên cho đến ba đại A-tăng-kỳ kiếp chứng địa vị sơ tín tâm. Chỉ nên tin chớ sanh nghi ngờ. Lời Phật không dối, lý chỉ có Nhất thừa. Chủng tánh Bất định cuối cùng thành tựu quả trí, cũng chỉ có một thừa mà không có hai thừa. Luận Bát-nhã nói: Phật nói bốn việc không có luống dối là: Bồ-đề, thọ ký, Tiểu thừa, Đại thừa. Ở đây chính là Đại thừa và thọ ký thành ra không có luống dối. Phẩm này phần đầu khen ngợi pháp mầu nhiệm và Pháp sư mầu nhiệm. Đã có phần định nghi, ở phần định ký có bốn nghi này. Nghi đầu tiên sanh ở phần thọ ký. Ở thời nào nói phương tiện trước, sau nói lý chân thật. Nghi thứ hai sanh ở phần nhận lời thọ ký. Có người tăng thượng từ chỗ ngồi bỏ đi. Vì sao biết như vậy? Nếu dựa vào giải thích đầu thì nghi thứ ba sanh ở nhân thọ ký, tâm Phật vốn đã định vì hai hạng người mà nói không vì kẻ ngu pháp, nên sanh từ nghi này. Vì sao có khả năng nói? Nếu y theo giải thích sau thì cũng được thọ ký thượng sanh. Nghi thứ tư đối với tất cả thượng sanh. Sơ nói, hậu nói đều là trái ngược, nói vì sao lại không thành nói dối.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế Tôn cho đến Ưu-bà-di chẳng tín.”

-Tán: Dưới có một trăm hai mươi mốt hàng tụng. Ba hàng tụng sau xếp vào đoạn thứ tư khuyến phát hỷ tâm khiến cho biết việc thành Phật. Tức một trăm mười tám bài tụng, tụng phần thứ ba của văn xuôi trước khai ra thật tướng này mà mở ra quyền môn kia. Ở đây chia làm hai: Một trăm mười lăm hàng đầu tụng hai việc thọ ký trước, ba hàng tụng sau tụng phá bốn nghi. Trong phần đầu lại chia làm hai, bốn hàng đầu nhận lấy ký khiến người ác bỏ đi. Một trăm mười một hàng sau tụng thọ ký cho. Trong bốn hàng đầu: Một hàng trước tụng tăng thượng mạn. Ba hàng sau tụng tội căn sâu nặng, bốn hàng thứ lớp tụng: Mạn, phạm, phú, chướng. Đây là hàng tụng về mạn: Người xuất gia lấy việc chứng đạo làm đầu. Chứng ít cho là nhiều. Thường khởi tăng thượng mạn, nam tử ở thế gian phần nhiều hay chấp trước ngã, cao tâm tự thị nên sanh ra ngã mạn. Người Nữ thế tục phần nhiều lại tự ty không nương vào thắng đạo. Số ít thì chấp việc thuận theo bè bạn, nên cũng ôm lòng chẳng tín.

-Kinh: “Bốn chúng như thế cho đến đối với giới có thiếu sót”.

Tán: Hàng tụng về phạm giới trong ba hàng tụng gốc tội sâu nặng: Là phạm giới, phú tội, pháp chướng riêng biệt. Đây nói về phạm giới, phạm ít thì khuyết, phạm nhiều thì lậu là đáng chê trách; phá hoại giới là khuyết, hoại kiến là lậu. Hoặc khi phiền não lậu khởi lên mà vẫn không kiến giác, tự thị cống cao. Trong giới đã nói: Trừ kẻ tăng thượng mạn tư cho là đã chứng Thánh, mới phạm trọng tội, nên tội này càng thêm tội. Không là Thi la thì không thanh tịnh, nên Tam-muội không thể nhiếp hiện tiền. Nay nói phạm giới tức là nói tướng chung, không phạm biết tướng phạm.

-Kinh: “Yêu tiếc giữ lợi mình cho đến uy đức Phật phải đi.”

-Tán: Phú tội: Trong ngọc có vết là hà. Ngoài ngọc có vết là tỳ. Người phạm giới cũng vậy. Thế gian chê bai như tỳ, bên trong tạo tội như hà lỗi thân ngữ như Tỳ, tức là khuyết vậy. Phạm giá tội gọi là Tỳ, Như ngoài ngọc có vết nên gọi là Tỳ. Người đối với pháp có bệnh phiền não như ngọc có tỳ vết, dụ như pháp họp lại mà nói. Tỳ đó là bị bịnh cho nên hộ tiếc mà không bày tỏ, che lỗi mình gọi là tào là rất nặng nề. Võ ngoài của gạo gọi là khang nhẹ, nên vô dụng. Không những trí nhỏ mà còn trái pháp tự hành vì uy lực của Phật nên mới bỏ đi, sợ họ nghe pháp mầu sẽ chê bai mà thêm tội. Đối với họ việc nghe pháp này không lợi ích nên Phật dùng uy lực để họ bỏ đi.

-Kinh: “Người này ít phước đức cho đến. chỉ có các chân thật”.

Tán: Là pháp chướng. Xưa tạo hết pháp nghiệp, pháp chướng ở thân, không kham nổi nghe pháp, nên nói là ít.

-Kinh: “Xá-lợi-phất khéo lắng nghe cho đến vì chúng sanh mà nói…”

-Tán: Đoạn thứ hai một trăm mười một hàng tụng thọ ký cho . Ở văn xuôi có sáu nay cũng chia làm sáu:

  1. Sáu hàng tụng về nói.
  2. Bảy hàng rưỡi tụng khiến trụ.
  3. Một hàng rưỡi là tụng về ngăn.
  4. Mười tám hàng rưỡi tụng y vào những nghĩa gì?
  5. Bảy mươi hàng rưỡi tụng về y pháp.
  6. Bảy hàng cuối tụng về người chưa nghe khiến cho nghe.

Trong sáu pháp khác nhau trước sau khác nhau. Cho nên tụng rằng: Sáu nói, bảy rưỡi trụ, tiếp một rưỡi tụng ngăn, mười tám rưỡi những gì, bảy mươi và bảy rưỡi.

Trong sáu hàng đầu chia làm hai: Bốn hàng rưỡi đầu tụng giải thích lý do trong kinh. Một hàng rưỡi sau tụng phần tùy nghi nói, ý thú khó hiểu ở phần nêu trước. Bốn hàng đầu lại chia làm ba:

-Một hàng tụng vô số phương tiện.

-Hai hàng tụng các thứ nhân duyên thí dụ, ngôn từ tức là thí dụ, nhân duyên, niệm quán, phương tiện.

-Một hàng rưỡi tụng giảng nói các pháp.

Trong phần văn xuôi trước nêu Chư Phật tùy nghi mà nói. Trong giải thích rằng: Ta dùng vô số phương tiện. Nay tụng giải thích: Pháp sở đắc của Chư Phật có vô lượng phương tiện lực, tức trước và sau đều rõ ràng, tự tha cùng nói đủ cũng không trái ngược.

-Kinh: “Tâm của chúng sanh nghỉ cho đến khiến tất cả vui mừng.”

-Tán: Tụng các pháp nhân duyên. Trong đây có hai: Hàng đầu tụng biết căn cơ, hàng sau tụng nhân duyên thí dụ. Biết tâm nhớ nghỉ và đạo hành của chúng sanh là biến hành trí lực. Các dục là các thứ thắng giải trí lực. Các tánh là các thứ giới trí lực.

Nghiệp thiện ác đời trước là xứ phi xứ và tự nghiệp trí lực. Nói Phật có năm trí lực các thứ niệm quán là có thể biết năm thứ chúng sanh này. Dùng các phương tiện ngôn từ thí dụ nhân duyên để nói pháp đều khiến vui mừng. Giải thích nguyên nhân các ngôn từ nói ở trước.

-Kinh: “Hoặc nói Tu-đa-la… cho đến Kinh Ưu-ba-đề-xá.”

-Tán: Một hàng rưỡi tụng: Giảng nói các pháp. Y vào các nơi mà nói thứ lớp mười hai bộ kinh.

Một là Khế kinh, kinh gọi là Tu-đa-la.

Hai là Ứng tụng, kinh gọi là Kỳ-dạ.

Ba là Ký biệt, trong kinh này không có.

Bốn là Phúng tụng, kinh gọi là Già-đà.

Năm là Tự nói, kinh này không có.

Sáu là Duyên khởi, kinh gọi là Nhân duyên.

Bảy là Thí dụ.

Tám là Bổn sự.

Chín là Bổn sanh, ba tên đều đồng như kinh đây.

Mười là Phương quảng, kinh này không có.

Mười một là Hy pháp, kinh gọi là Vị tằng hữu.

Mười hai là Luận nghị, kinh gọi là Ưu-ba-đề-xá kinh.

Trong nghĩa này lấy ba môn để phân biệt: Một là biện về tướng; hai là giải thích danh; ba là phân biệt.

Nói về tướng là: Trong Khế kinh có hai tướng: Một là tướng chung, hai là tướng riêng.

Kinh Niết bàn chép: Từ “Tôi nghe như vầy đến vui mừng vâng làm”. Tất cả đó gọi là Tu-đa-la. Nhiếp cả mười hai bộ gọi là tướng chung. Dùng giáo xuyên suốt lý và nhiếp chúng sanh, cho nên trong luận Đối pháp nói: Nghĩa là dùng văn xuôi kết nối lược nói những nghĩa đáng nói thì gọi là Khế kinh, đây chỉ có văn xuôi gọi là tướng riêng. Kệ tụng bèn chẳng thuộc về Khế kinh riêng. Ứng tụng có hai tướng: Một là lợi ích cho phần sau, hai là hiển rõ trước chưa liễu nghĩa. Luận đối pháp… chép: Trong các kinh hoặc ở giữa hoặc ở sau dùng tụng tụng lại nghĩa văn xuôi trước nên gọi là lợi ích về sau.

Lại nói kinh không rõ nghĩa, lại dùng bài tụng để giải thích. Văn

xuôi tuy nói nghĩa mà chưa rõ nên gọi là hiển rõ chưa liễu ở nghĩa trước.

Kinh Niết-bàn chỉ nói một trong các nghĩa đầu. Ký biệt có ba tướng:

1) Thọ ký nhân quả sanh tử của đệ tử. 2) Thọ ký rõ ràng về nghĩa sâu mật. 3) Thọ ký Bồ-tát đương lai thành Phật.

Đối pháp Luận chép: Nơi ấy các Thánh đệ tử đã chấm dứt ở thời quá khứ, thọ ký vì công đức, lỗi lầm riêng biệt, và nơi sanh sai khác. Đây là thọ ký nhân quả sanh tử của chúng đệ tử.

Lại nói: Trong kinh Liễu Nghĩa nói tên ký biệt. Ghi nhận riêng khai mở chỉ cho thấy nghĩa sâu kín. Tức đây rõ ràng thọ ký nghĩa sâu kín này. Vì vậy trong Luận này chép thọ ký có bốn: Tâm chắc chắn, nhân, lấy và cho thọ ký v.v…

Kinh Niết-bàn chép: Như lai thọ ký cho các Đại nhân : “A-dật-đa ở đời vị lai có vua tên là Nhương Khư, ông ở trong thời này thành Phật, tên là Di-lặc”. Đó là kinh Ký Biệt. Đây là thọ ký thành Phật đương lai.

– Tướng Phúng tụng: Trong Luận Hiển Dương nói trong các kinh chẳng phải chỉ văn xuôi là nói thẳng. Nhưng dùng một câu mà kết thành. Hoặc lấy hai câu, ba câu, bốn năm sau câu mà nói, đều là phúng tụng. Tướng Tự nói: Du-già chép: Kinh đó không nói việc thỉnh, mà Phật vì muốn chánh pháp trụ đời lâu dài. Vì chánh giáo trụ lâu nên không ai thỉnh mà Phật vẫn nói, đều gọi là tự nói. Duyên khởi có ba tướng.

  1. Do thỉnh mà nói.
  2. Do phạm mà chế giới
  3. Do sự mà nói pháp.

Luận Đối Pháp nói: Nhân duyên là do thỉnh mà nói.

Lại có nhân duyên mà chế lập ra học xứ, tức hai nghĩa đầu gọi là duyên khởi.

Kinh Niết-bàn chép: Như nguyên nhân căn bản trong các kinh kệ, như nước Xá-vệ có một người giăng lưới bắt chim, được rồi liền thả ra.

Đức Thế Tôn biết nhân duyên trước sau nên nói kệ rằng:

Chớ khinh lỗi nhỏ

Cho là không tội

Giọt nước tuy nhỏ

Dần đầy chậu lớn.

Đó gọi là duyên khởi. Tức là phần nhân sự nói pháp thứ ba.

-Tướng thí dụ: Luận Du-già chép: Trong kinh luật có nêu thí dụ để nói các pháp.

-Tướng Bổn sự là: Luận Du-già chép: Trừ nói các việc bổn sanh của Phật thì nói các việc hoặc của người hoặc của pháp ở đời trước.

Kinh Niết-bàn chép: Chỉ nói các pháp đã qua như Phật ra đời nói pháp thì gọi là Giới kinh. Câu-lâu-tần Phật thì gọi là Cam-lồ-cổ. Câuna-hàm Mâu-ni Phật thì gọi là pháp kính. Thời Phật Ca-diếp thì gọi là phân biệt không không nói về người xưa mà căn cứ sự thật chung.

Tướng Bổn sanh là: Luận Hiển dương nói nghĩa là ở trong đó giảng nói đời quá khứ của Đức Thế Tôn, mỗi mỗi phương sở kia hoặc sanh hoặc tử, hành Bồ-tát hạnh làm những hạnh khó làm, gọi là Bổn sanh. Trong kinh Niết-bàn chỉ nói thân đời trước của Bồ-tát mà không nói các hạnh làm xưa của Bồ-tát. Như làm nai làm gấu làm chồn làm thỏ… cho đến làm kim sí điểu.

Phương Quảng có hai tướng:

  1. Nói Bồ-tát đạo.
  2. Pháp rộng nhiều. Thật là cao lớn nên thời dài xa. Trong Thanh văn cũng nói Phương Quảng. Nay nói hai nghĩa đầy đủ trong Niết-bàn làm chánh:

– Tướng Hy pháp: Trong các kinh giảng nói các công đức cộng, bất cộng chủ Phật, Thánh đệ tử, bát bộ chúng vốn có các pháp khác thường đặc biệt tối thắng khác, đó là Hy pháp. Trong kinh Niết-bàn chỉ nói các sự về Phật, như Phật khi mới sanh ra liền đi bảy bước, phát ra ánh sáng chiếu soi khắp mười phương. Khỉ vượn dâng mật, chó trắng đến nghe pháp. Ma biến thành trâu xanh đi qua bát gạch, khiến xúc chạm nhau mà không làm thương tổn. Chỉ nói các việc ít có của đệ tử và không phải đệ tử, nên gọi là Hy pháp.

Luận nghị có hai tướng:

  1. Phật tự nói.
  2. Đệ tử nói.

Luận Du-già nói các kinh điển là Ma-đát-lý-ca. Tất cả kinh liễu nghĩa đều gọi là Ma-đát-lý-ca. Nghĩa là Đức Thế Tôn rộng phân biệt các pháp tướng. Lại như Thánh đệ tử đã thấy dấu tích chân thật, y vào tự sở chứng không đảo điên phân biệt thể tánh các pháp. Đây cũng gọi là Ma-đát-lý-ca. Cũng gọi là A-tỳ-đạt-ma. Nay đây tạm dẫn văn bao gồm nghĩa mười hai bộ kinh trên. Ngoài ra còn các giáo chuyên nói… sợ văn nhiều nên không nói tiếp đây.

Giải thích tên gọi: Trước giải thích tên chung . Các vị tiên đức dịch ra làm mười hai bộ kinh. Bộ bao gồm hai nghĩa:

Bộ trật và bộ loại. Đây là bộ loại vì nghĩa loại mười hai bộ có sai

khác. Người xưa nghi nói mười hai bộ trật kinh (pho kinh). Do đây mà Đạo sĩ nói ba mươi sáu bộ. Học trò Lão Trang mỗi bộ làm riêng một bộ. Nay nói mười hai phần giáo, phần là phần đoạn. Văn nghĩa sai khác có mười hai phần đoạn. Lại nói kinh đó là lạm nói Khế kinh. Nay dịch là: Giáo có mười hai gọi chung lại không còn lạm dụng nhau. Đây là đời số thích .

Giải thích tên. Gồm có ba thứ: Ứng tụng, Phúng tụng, Tự nói, Duyên khởi, Hy pháp, Phương quảng. Sáu tên này chỉ y vào chủ mà giải thích. Nên trùng thuật lại cho đến nói rộng về lý. Một loại luận nghị chỉ là trì nghiệp giải thích. Thể của luận tức là nghị. Hoặc phúng tụng cũng là trì nghiệp thích. Có khi phúng, có khi tụng, không đồng ứng tụng. Bài tụng kia là giáo. Tụng này là đọc, nói: Năm tên gọi gồm Khế kinh, Ký biệt, Thí dụ, Bổn sự, Bổn sanh thông cả hai giải thích là Trì nghiệp và Y chủ. Năng khế tức là kinh, khế lý của kinh, cho đến bổn thể tức là sanh, sanh của đời trước. Sai khác có hai: Thể khác nhau,và Giáo khác nhau. Thể khác nhau đó là trong ứng, tụng nhất định không có phúng tụng. Trong phúng tụng nhất định không có ứng tụng. Trước sau khác nhau nên đơn, kép cũng khác nhau. Trong Bổn sự nhất định không có bổn sanh. Trong bổn sanh nhất định không có bổn sự. Thầy trò đều khác nhau, bốn bộ này chỉ đầy đủ mười một, tám bộ khác thì đầy đủ cả mười hai, tùy nó thích ứng mà có các tướng sai khác trước nói. Kinh Niết-bàn chép: “Từ như thị cho đến. cuối cùng là phụng hành” đều là Tu-đa-la, nên thông cả mười hai, tướng riêng thành không có, chỉ lấy văn xuôi làm Khế kinh, hai thứ kệ bèn chẳng phải, còn lại bảy giáo đều đủ cả mười hai. Y theo đây có thể biết. Trong ứng tụng có đầy đủ cả mười một là phẩm Thí dụ nói: “Xá-lợi-phất đời sau thành Phật Phổ Trí, tôn hiệu là Hoa Quang, độ vô lượng chúng sanh,” tức là có Ứng tụng ký biệt vậy. Trong Ứng tụng cũng có tự nói, phẩm Phương tiện nói: “Bậc Thế hùng không lường. Chư thiên và thế nhân cùng tất cả chúng sanh đều không thể biết được Phật.” Tức là Ứng tụng của tự nói vậy. Trong Ứng tụng cũng có duyên khởi, phẩm Phương tiện nói: “Xá-lợiphất lắng nghe! Pháp sở đắc của Chư Phật thì vô lượng, dùng phương tiện lực mà vì chúng sanh nói” pháp, là Ứng tụng của nhân duyên, tức vì ngài Thu Tử thỉnh mà Phật nói pháp. Trong Ứng tụng cũng có thí dụ: “Ví như trưởng giả có ngôi nhà lớn. Nhà này đã lâu đời, mà lại hư nát v.v…”. Đây là Ứng tụng có phần Thí dụ. Trong Ứng tụng cũng có Bổn sự, phẩm Tựa nói: “Sau khi Phật kia diệt độ, người biếng nhác đó là ông, Diệu Quang pháp sư nay chính là thân ta”. Đây tức là Ứng tụng của Bổn sự vậy. Trong Ứng tụng cũng có Bổn sanh, phẩm Thường Bất Khinh nói: “Thường Bất Khinh kia nay là thân ta.” Đây tức là Ứng tụng của Bổn sanh. “Trong Ứng tụng cũng có Phương quảng, phẩm Phương tiện nói: Trong mười phương Cõi nước, chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba, trừ Phật Phương Tiện nói,” tức là Ứng tụng của Phương quảng. Trong Ứng tụng cũng có Hy pháp. Phẩm Hóa thành nói: “Đức Phật Đại Thông Trí Thắng trải qua mười kiếp ngồi tại đạo tràng. Phật pháp không hiện tiền, không thể thành Phật đạo,” tức là Ứng tụng của Hy pháp. Trong Ứng tụng cũng có luận nghị. Phẩm Thọ lượng nói: “Chúng sanh đã tin phục, ý mềm mỏng ngay thẳng, nhất tâm muốn thấy Phật không tiếc cả thân mạng. Bấy giờ ta và chúng tăng đều ra khỏi núi Linh thứu. Ta bây giờ nói với chúng sanh là ta thường ở lại đời mà không diệt, dùng lực phương tiện, nên hiện ra diệt hay không diệt.” Đây tức là Ứng tụng của luận nghị. Còn ba giáo khác đều có đủ cả mười một, y theo đây nên biết.

Nhưng trong kinh này có đủ mười hai phần, một bộ đều là tướng chung của Khế kinh. Trùng tuyên lại nghĩa này đều là Ứng tụng. Thỉnh Phật vì thọ ký, giải thích chỗ nghĩa sâu. Trong phẩm Hóa thành, thì Phạm thiên ở phương Đông dùng kệ tụng:

“Thế Tôn thật ít có.

Khó có thể gặp được.

Đủ vô lượng công đức

Đều cứu hộ tất cả v.v…”

Đều là phúng tụng. Đầu phẩm Phương tiện, tức là phần tự nói. Bài kệ trước nói: Không ai hỏi mà Phật tự nói, khen ngợi đạo sở hành. Ngài Thu Tử ba lần thỉnh, Di-lặc ba lần thỉnh… chỗ nói về quyền thật đều là duyên khởi. Trong phẩm Thí dụ đều dùng Thí dụ nói việc quá khứ của chúng đệ tử, đây là bổn sự. Tự nói việc quá khứ của Phật là bổn sanh. Nói Nhất thừa xứ là Phương quảng. Nói hiện thần thông xứ là Hy pháp. Trong phẩm Thọ lượng, Phật nói tướng của ba thân có thể gọi là luận nghị.

– Giáo khác nhau là:

1/ Đại có đủ mà tiểu thì có chín. Tức là văn kinh này. Tiểu thừa chỉ không có ba phần: Thọ ký, tự nói, và Phương quảng, mà không chướng ngại Đại thừa có mười hai phần.

2/ Tiểu có đủ mà đại có chín. Kinh Niết-bàn quyển ba nói: Hộ trì Đại thừa là thọ trì chín bộ. Đại thừa trừ ra nhân duyên, thí dụ, luận nghị mà không chướng ngại Tiểu thừa có mười hai phần.

3/ Đại có đủ mà tiểu có mười một: Du-già quyển ba mươi tám nói: Một phần Phương quảng chỉ ở tạng Bồ-tát, các phần khác có tạng Thanh văn.

4/ Đại một mà tiểu mười một: Du-già quyển tám mươi lăm nói, trừ một phần Phương quảng, các phần khác gọi là Thanh văn thừa, tương ưng với Khế kinh.

Vì sao văn này nói Đại có đủ mà tiểu có chín. Y vào phần thọ ký đệ tử thành Phật gọi là thọ ký, nói Thanh văn không có vì trước chưa cầu đại Bồ-đề. Cũng như đưa của báu cho người ngu thì người ngu liền cười. Thanh văn nghe Phật thọ ký cũng vậy, cho nên nói là không, chẳng phải thọ ký, các việc sanh tử đã qua của các đệ tử cũng không. Lại Thanh văn thừa phần nhiều nghe pháp nông cạn, nếu không đợi thỉnh mà nói thì tâm kiêu mạn của họ liền phát sanh. Nói không có tự nói mà thật ra cũng có.

Lại thanh văn chỉ chứng tiểu quả mà không đắc Chánh giác, lý không đến chỗ tột cùng hành không rộng lớn. Nói không có Phương quảng, thật ra cũng có, chánh pháp Phương quảng mà trình bày rộng . Thế nên trong bài tụng này chỉ vì Thanh văn mà nói chín bộ, lý thông cả mười hai.

Trong kinh Niết-bàn nói Tiểu có đủ mà Đại có chín: Do phạm mà chế giới gọi là nhân duyên, Bồ-tát không phạm nên lược nói không có. Chẳng phải là không có nhân thỉnh, nhân sự duyên khởi mà Phật nói pháp. Phàm nói thí dụ so sánh để khai mở cho người rung căn, hạ căn. Còn ngài Thu Tử là người lợi căn thượng phẩm, phần nhiều còn không đợi thí dụ, huống chi là Bồ-tát. Phần nhiều không đợi nên nói là không. Theo lý cũng có.

Lại Đại Bồ-tát tánh đều là lợi căn, nêu tông liền hiểu, không đợi hỏi thỉnh, mới sanh tuệ tâm. Nói không có luận nghị, lý thật chẳng phải không có. Lại người hộ pháp phần nhiều tụng tạng Tố-đát-lãm. Duyên khởi, thí dụ phần nhiều là tạng điều phục. Luận nghị phần nhiều thuộc tạng Đối pháp. Cho nên nói đại chỉ có chín. Theo lý là chẳng phải không đủ mười hai. Du-già quyển ba mươi tám chép: Đại có đủ Tiểu chỉ có mười một. Tiểu thừa cũng thọ ký cho đệ tử và không đợi thỉnh mà Phật vì lòng từ bi nói pháp. Đây có đủ phần ký biệt và tự nói, cho nên có mười một phần. Không có Phương quảng đó là không cầu Chánh giác, vì nói lý thô thiển nên không có, mà thật cũng có.

Du-già quyển tám mươi lăm, văn không khác với trước. Nhưng lấy mười một mà nói là Thanh văn. Đối với Phương quảng mà nói là Bồ-tát, chẳng phải trong tạng Bồ-tát không có mười một nghĩa kia. Đều là tùy theo một nghĩa riêng biệt mà nói số không đồng. Lý thật thì hai tạng Thanh văn Bồ-tát đều có đầy đủ mười hai phần. Nay tùy theo cần thiết, lại lược ra phân biệt. Ngoài ra, nghĩa giải thích rộng như trong chương nên biết.

-Kinh: “Căn độn ưa pháp nhỏ cho đến vì đó nói Niết-bàn.”

-Tán: Một hàng rưỡi tụng lại phần: Tùy cơ nghi nói, ý thú khó hiểu ở văn xuôi trước.

Lược nói thì có năm nghĩa:

1. Độn căn khó ngộ.

2. Thích tiểu sợ đại.

3. Đam mê sanh tử, không mong ra khỏi.

4. Gặp duyên không tu.

5. Hiện tự tại nhiều khổ ép ngặt.

Do năm nghĩa này mà Phật nói Niết-bàn. Vì độn căn nên đắm trong sanh tử. Tuy có gặp Phật đã từng được hóa độ, mà không hành đạo Đại thừa sâu mầu. Do làm ác nên lại chịu khổ. Vì khuyên học xa lìa khổ nên đầu tiên Phật nói Niết-bàn của Nhị thừa.

Cho nên phẩm Tín giải chép: Đầu tiên gặp Phật, thoái dòng sanh tử, sau hóa độ Nhị thừa, cũng đồng như thế.

-Kinh: “Ta lập ra phương tiện cho đến sẽ được thành Phật đạo.”

-Tán: Phần thứ hai có bảy hàng rưỡi tụng, thứ tư của văn xuôi là khiến cho trụ. Trong đây chia làm bốn: – Một hàng tụng là nêu – Một hàng giải thích.

-Bốn hàng rưỡi tụng ở hội này.

-Một hàng khuyên trụ.

Đây nói phần đầu: Trước lập hai quyền để khiến cho rốt ráo, nhập vào tuệ Phật , trụ pháp Nhất thừa.

-Kinh: “Sở dĩ chưa từng nói cho đến chắc chắn nói Đại thừa.”

-Tán: Đây một hàng giải thích hội nêu ra ở trước “Ông căn tánh chưa thuần thục, chưa ngộ Đại thừa, nên không thể nói . Nay ông căn tánh thật đã thuần thục chính là phải lúc nên nói ra”.

Cũng như phẩm Hóa thành chép “Các Tỳ-kheo! Nếu Như lai tự biết khi Niết-bàn đến. Chúng lại thanh tịnh, lòng tín hiển vững chắc, hiểu rõ pháp không, nhập sâu thiền định. Liền nhóm họp chúng Bồ-tát và Thanh văn lại để nói kinh này. Thế gian không có hai thừa mà được diệt độ, chỉ một Phật thừa mà được diệt độ thôi.”

-Kinh: “Chín bộ pháp này của ta cho đến vì thế nói này”.

-Tán: Đây là bốn hàng tụng rưỡi về hội. Trong chia làm ba:

-Một hàng tụng tiểu pháp chẳng phải là chân, nói đại thừa làm gốc.

-Một hàng rưỡi tụng đại pháp thắng diệu vì người thù thắng mà nói.

-Hai hàng tụng kết thành tựu người, pháp thắng diệu, khuyên bỏ người pháp không diệu. Đây nói về phần đầu. Vì thuận theo sơ cơ mà nói chín bộ này, vì nhập vào đại thừa làm gốc, chẳng phải là rốt ráo, nên nói là trụ Đại thừa.

-Kinh: “Có Phật tử tâm tịnh… vì nói kinh Đại thừa.”

-Tán: Nói kinh Đại thừa thắng diệu là vì người thù thắng mà nói. Khuyên bỏ pháp yếu, chớ thành người ác, tất cả hàng Bồ-tát đốn ngộ tiệm ngộ đều là Phật tử. Đều có năm đức:

Một là tâm tịnh. Chuyên cầu trí tuệ Đại thừa của Phật. Chẳng phải ưa thích thấp kém chỉ trừ hai chướng.

Hai là mềm mỏng: Tâm nhẫn nại chịu khó, có thể làm đại nghiệp, tinh cần không dứt.

Ba là lợi căn: Tánh phần nhiều thích cứu khổ ban vui cho người. Tất cả đều bình đẳng nghe pháp mau ngộ nhập.

Bốn là vô lượng: Từng gặp duyên lành, ở chỗ Chư Phật mà rèn luyện bản thân.

Năm là hành đạo sâu mầu, đều tu phước tuệ, khuôn báu giác chân.

Kinh phát Bồ-đề tâm nói đầy đủ mười pháp có thể phát tâm Bồđề.

  1. Gần gũi bạn lành.
  2. Cúng dường Chư Phật.
  3. Tu tập gốc lành.
  4. Chí cầu thắng pháp.
  5. Tâm thường mềm mỏng.
  6. Gặp khổ chịu đựng được.
  7. Từ bi thuần hậu.
  8. Sâu tâm bình đẳng.
  9. Yêu thích Đại thừa.
  10. Cầu trí tuệ Phật.

Mười pháp này đều nhiếp năm đức trên:

-Tâm tịnh nhiếp hai câu: yêu thích Đại thừa, cầu trí tuệ Phật.

-Mềm mỏng nhiếp hai câu: Tâm thường mềm mỏng, gặp khổ chịu đựng được.

-Lợi căn nhiếp hai câu: Từ bi thuần hậu, sâu tâm bình đẳng.

-Chỗ vô lượng Phật nhiếp hai câu: gần gũi bạn lành, cúng dường Chư Phật.

-Hành sâu mầu thông nhiếp hai câu: Tu tập gốc lành, chí cầu thắng pháp.

Có đầy đủ năm đức này mới thành tựu mười pháp, mới vì họ mà nói Đại thừa khiến cho phát hướng tiến đạo.

-Kinh: “Ta thọ ký người như thế cho đến vì nói Đại thừa”.

-Tán: Kết thành hai pháp thắng diệu khuyên bỏ hai không phải diệu.

Thọ ký người năm đức đời sau thành Phật. Dùng thâm tâm niệm Phật mà tu trì tịnh giới.

Niệm Phật có hai:

  1. Ngữ niệm.
  2. Tâm niệm.

Hoặc tâm duyên vào việc Phật mà nguyện cầu mong thành. Trí niệm lý thân, cầu chứng diệt chướng. Định tuệ đã vậy lại trì tịnh giới, thành tựu ba học, nên Phật thọ ký. Các pháp này do nghe mà thuận tâm Phật, cho nên vui mừng, Phật biết rõ tâm chúng nên nói cho nghe pháp Đại thừa.

-Kinh: “Thanh văn hoặc Bồ-tát cho đến đều thành Phật không còn nghi”.

-Tán: Đây khuyên nên trụ. Khen ngợi lợi ích nghe pháp, khuyên trụ vào Đại thừa.

-Kinh: “Trong cõi Phật mười phương cho đến dẫn dắt chúng sanh.

-Tán: Đây là phần thứ ba một hàng rưỡi tụng về nghĩa thứ sáu nói ngăn văn xuôi không hai đó là không có Độc giác thừa thứ hai, không ba là không có Thanh văn thừa thứ ba. Từ hơn đến kém Phật thừa là đầu. Đây căn cứ vào chân lý mà không có hai cực thừa, trừ phương tiện mà nói. Trong phương tiện nói có ba. Mượn ba tên để dẫn dắt chúng sanh. Mượn dụ xe dê xe hươu để đưa chúng sanh ra khỏi nhà lửa, chẳng phải thật có hai. Vì muốn độ chúng sanh nên đây nói hai thừa. Niết-bàn Bồ-đề đều không có thật thể, cùng gọi là giả danh. Nhưng Niết-bàn có thể chứng mà phược được dứt trừ. Chủng trí không thành vì không giác nên hóa thành nên vào để tạm dứt khổ. Có tên xe hươu xe dê mà không bước lên.

Hỏi: Ba việc gọi là Đại Bát, chỉ đắc giải thoát mà nói nhập vào thành. Nhị không trí là xe trâu, chỉ đắc sanh trí mà lên xe dê xe hươu?

Đáp: Giải thoát dứt các khổ mới gọi là vào Hóa thành. Hai thừa không có chủng trí nên không lên xe dê xe hươu. Lại Nhị thừa giải thoát đồng nghĩa dứt khổ, kia cũng phần đắc nên cùng được gọi vào thành chủng loại chân trí, chỉ có Phật là viên thành. Tuy cũng phân đắc mà không gọi là lên xe; về lý thật, sự không có khác nhau. Lại nhân quả hoặc chướng kia đều trừ. Giải thoát hóa thành mà gọi là tạm vào. Nhân quả trí chướng kia không diệt, thì hai xe chủng trí không nói là lên.

-Kinh: “Nói trí tuệ Phật cho đến cứu giúp chúng sanh”.

-Tán: Phần thứ tư có mười tám hàng rưỡi tụng nghĩa thứ ba của văn xuôi, y vào nghĩa gì? Trong chia làm hai:

-Một hàng rưỡi nêu một đại sự.

Mười bảy hàng tụng mở bày ngộ nhập.

Trí tuệ Phật như trước nói họp lại có năm thứ: Ở đây thường nói hai pháp Quả Phật. Bồ-đề, Niết-bàn, trí tánh, tuệ dụng hợp lại gọi là trí tuệ. Hoặc chỉ có chân trí mà không lấy chân như. Phật ra đời vì nhất Phật tuệ khiến chúng sanh ưa thích chỉ đây là một thật, là cực quả rốt ráo, vô thượng thắng diệu. Thể của Nhị thừa chẳng phải là chân cực, rốt ráo thắng diệu. Cho nên trong văn dưới dùng năm độ trước để so sánh với kinh này, không nói Bát-nhã. Cuối cùng không dùng Tiểu thừa để độ sanh. Hoặc một việc này phần nhiều nói trí tánh. Trong kinh Niếtbàn nói, Sư tử rống nói. Phật tánh tức là không, không tức là trí tuệ. Do đây mà trí tánh cũng gọi là trí tuệ. Nay phần nhiều dùng giải thích đầu làm chánh. Nhị thừa không có nên đã nói hai pháp còn lại chẳng phải chân. Thế nên biết không phải là phá tam mà là gom ba về một.

-Kinh: “Phật tự trụ vào Đại thừa cho đến dùng đó để độ sanh…”.

-Tán: Mười bảy hàng dưới tụng mở bày ngộ nhập. Trong đây chia làm bốn:

Một hàng đầu tụng về khai, năm hàng tụng về ngộ, một hàng tụng nhập, mười hàng tụng thị.

Đại thừa hợp với chân lý chánh trí. Giả là nơi thân Phật hằng ở yên trong Niết-bàn Bồ-đề này nên gọi là trụ. Trụ có nghĩa là nơi nương tựa an vui, sở đắc chỉ là chân lý pháp thân. Hoặc Đại thừa đó chỉ lấy chân lý, chánh trí chứng hội chân lý gọi là trụ. Vì pháp thân muôn đức này đầy đủ đức tánh chân thật. Cho nên báo thân Phật như chân lý pháp thân Phật chứng, lại dùng vô lượng định tuệ để trang nghiêm. Định tức là phước. Tuệ tức là trí, nhiếp trì hết tất cả công đức hữu vi. Trong sâu tận đến chân lý, Niết-bàn đã tròn đầy, chân trí bèn sanh, phước tuệ trang nghiêm đầy đủ. Bồ-đề công đức cũng đầy đủ tròn đầy. Cho nên dùng hai pháp khai ở chúng sanh nên gọi là độ. Hiển bày hai thể tánh là Vô thượng khiến người sanh lòng ưa thích.

-Kinh: “Tự chứng đạo vô thượng cho đến. Việc này là không thể…”

*Tán: Có năm hàng tụng về ngộ chia làm ba phần:

Một hàng rưỡi tụng bình về đẳng.

Hai hàng rưỡi tụng về đức cao quý.

Một hàng về ngộ.

Vô thượng đạo là chánh trí là thắng, tức nói thông suốt cả hai nơi.

Vô thượng Đại thừa là chân lý cao siêu. Đều bình đẳng không có năng nhận, sở nhận không có tự tha ta và vật khác nhau. Lại Đại thừa tức vô thượng đạo là vận dụng tốt đẹp. Phật đã chứng lý trí đều bình đẳng thì đâu còn phân biệt có hai là tự, tha, vật và ta? Nội trí nếu không bình đẳng, tự giữ Đại thừa. Ngoại trí không bình đẳng để người giữ Tiểu thừa, thì rơi vào pháp bỏn sẻn . Hoặc tham cầu danh lợi chưa dứt. Đâu gọi là chứng đắc Chánh giác, Đại thừa vận dụng tất cả, đây là không thể được!

-Kinh: “Nếu người tin quy Phật… mà riêng không kinh sợ.”- Tán: Hai hàng rưỡi tụng nói lên thắng đức. Có hai:

-Một hàng tụng rưỡi nói về bên trong lìa nhiễm, không có đức sợ hãi.

-Một hàng sau tụng: Ngoài hiện trang nghiêm, nói về công đức của thật pháp.

Như người mới tin Phật là sơ phát tâm, quy y Phật rồi sau tu chánh hạnh, Như lai không vì sự khinh bạc chê bai mà không trao Đại thừa thuần hóa Tiểu thừa, cũng không vì lừa dối họ đầu tiên nói cho đại sau không cho. Vì sao? Vì Phật không tham tiếc Đại thừa lừa dối mà không cho. Cũng không có tâm ganh ghét sợ người chứng Đại thừa mà dối gạt. Do dứt hết ác trong tất cả pháp. Ác là phiền não nghiệp khổ, pháp ác sanh tử đã dứt trừ hẳn. Đã không có các việc như trên mà chánh trí tròn đầy. Cho nên trong mười phương đều không còn sợ mà làm tiếng sư tử rống. Ta là bậc Nhất thiết trí, Nhất thiết kiến, bình đẳng hóa. Nếu có các việc ác trên thì trí chưa cùng, quả chưa viên. Làm sao trong mười phương có thể làm tiếng rống vô úy. Thế nên người thế tục có nói: Cha nghe con khỏe mạnh, hận là không giết thân. Bên ngoài vì sao lẫn tiếc, nên không tham ganh.

-Kinh: “Ta dùng tướng trang nghiêm thân cho đến vì nói ấn thật tướng.”

-Tán: Hiện ngoài trang nghiêm, nói đức của pháp thật. Hình hài tướng tốt, thân tướng trang nghiêm. Thân sáng trí sáng lại cùng chiếu sáng, chiếu sáng khí thế gian và chúng sanh. Do đây mà mọi người đều tôn kính, gọi ta là Thế gian giải. Nếu bên trong có nhiễm thì ngoài không có tướng này. Ngoài hiện tướng này, rõ ràng trong không nhiễm, nên nay ta nói thật tướng ấn. Thật tướng ấn là lý Đại thừa hai không. Dùng lý ấn này mà ấn Đại giáo. Đại giáo chắc chắn cao siêu, thật chẳng phải quyền, như trong Tiểu thừa nói ba pháp ấn, ấn định giáo pháp. – Kinh: “Xá-lợi-phất nên biết cho đến như ta đây không khác.” – Tán: Đây là hàng tụng về ngộ.

Ông nên như ta ngộ rõ những điều không biết về Đại thừa chân trí. Ta xưa lập thệ nguyện, khiến cho tất cả chúng sanh không khác với ta . Nguyện khiến cho giác ngộ, nguyện dùng tín, dục, thắng giải làm tánh.

-Kinh: “Như Ta xưa đã nguyện cho đến đều khiến nhập Phật đạo.”

-Tán: Đây là một hàng tụng về nhập. Nay quả đã mãn theo như tâm nguyện xưa kia, nên hóa độ chúng sanh nhập vào Phật đạo. Đạo là nghĩa nhân, khiến nhập vào Bát địa hoặc nhân của Sơ địa trở lên địa vị không lui sụt .

-Kinh: “Như ta gặp chúng sanh cho đến mê hoặc không thọ giáo…”

-Tán: Đây trở xuống mười hàng tụng, nói về thị. Chia làm hai:

Tám hàng đầu tụng về thị khác nhau ban đầu.

Hai hàng tụng về Thị sau trở lại đồng.

Tám hàng đầu lại có ba:

-Một hàng tụng về ý khác nhau.

Sáu hàng tụng về tướng khác nhau.

Một bài tụng về kết khác nhau.

Như dạy chúng sanh đều dùng Đại thừa. Người trí có thể như vậy. Người ngu vô trí thì lầm học, loạn hành, tâm mê không tin, sanh nghi hoặc phỉ báng, trở lại cùng tăng ác hạnh không thể lãnh thọ, ví như thuyền lật ở cao trở thành mắc cạn. Do đây trở lại làm tăng thêm lỗi người ngu. Cho nên, không thể chỉ dùng pháp Đại thừa dẫn hóa cho họ được.

Kinh: “Ta biết chúng sanh này cho đến Si ái nên sanh não…”

-Tán: Trở xuống sáu hàng tụng về Thị tướng khác nhau. Trong đây chia làm hai:

-Một hàng tụng đầu là nói vì không có thiện, mà có ác nên khác nhau.

Năm hàng sau giải thích nghĩa trên cho nên khác nhau.

“Chưa từng tu gốc lành”, tức là gốc lành phương tiện xuất thế. Từ vô thỉ tuy có khởi mà phần nhiều tối kém, chỉ sanh đắc thiện mà không có nhân vô lậu. Do chấp vào năm cảnh, chấp chặt không bỏ. Lấy đây làm duyên si liền phát nghiệp, ái liền nhuận sanh. Do đó mà tất cả khổ não của sanh già bịnh chết càng thêm lớn. Do không có phương tiện thiện bổn xuất thế, lấy hai nghiệp si ái làm nhân cho mình, chấp vào cảnh ngũ dục không chịu buông bo. Phát nghiệp vô minh phần nhiều do mê trong mà ra, nhuận sanh tham ái, phần nhiều duyên năm dục mà sanh. Nay căn cứ vào dục giới phát nghiệp vô minh mà nói chung, trùng ở một chỗ.

-Kinh: “Bởi các dục nhân duyên cho đến. Đời đời thường thêm lớn.

-Tán: Năm hàng tụng giải thích vì có ác không thiện nên không đồng. Trong đây có hai:

Bốn hàng tụng đầu vì có ác nên khác nhau.

Một hàng tụng sau vì không thiện nên khác nhau.

Bốn hàng đầu lại có hai:

Một hàng rưỡi: Do đắm vào ngũ dục tục trần nên khác nhau.

Hai hàng rưỡi tụng cầu tà xuất ly, học hạnh lầm loạn nên khác nhau. Do tham dục cho nên thuần khởi ra nghiệp bất thiện, đọa vào đường ác. Do tạp nghiệp nên luân hồi trong lục thú thọ đủ các khổ não. Tứ sanh sanh trưởng thảy đều có nghiệp. Ba khổ, tám khổ, năm khổ ép buộc. Đây là chỉ nói một đời hiện khổ. Cho nên nói thọ thai hình nhỏ, đời đời thường thêm lớn. Nhỏ nghĩa là yếu, thai là thai tạng. Bất tịnh ràng buộc bên trong thật đáng chán ghét sự sanh nhỏ yếu kém.

Luận Du-già chép: Lúc mới thọ sanh vốn ở thân trung hữu. Thân trung hữu dài nhất thì bảy ngày mạng chung. Nhiều nhất là không qua bốn mươi chín ngày trụ. Người gây ra nghiệp ác thì thân trung hữu như ánh lửa chớp trong đêm tối. Người làm nghiệp lành như chiếc áo trắng sáng hoặc đêm trong sáng. Tùy theo nơi sẽ sanh trụ mà sẽ thấy đồng loại và nơi sẽ sanh ra không bị ngăn ngại . Gây ra nghiệp ác thì mắt thấy điều bất tịnh cúi xuống mà đi. Người được sanh cõi trời thì ngườc mắt lên trên. Sanh xuống cõi người thì hướng bên mà đi. Nếu tạo bất luật nghi thì đọa vào địa ngục thấy đồng loại xưa, ưa thích vượt chạy bên bị níu kéo lại. Cảnh ngạ quỉ bàng sanh cũng vậy. Còn các tạp nghiệp khác thì tùy theo nghiệp thiện ác sanh trưởng về nơi nào, ở đó cha mẹ tùy người nam hay người nữ mà sanh ra buồn vui. Tùy chỗ sẽ sanh mà bám lấy di thể của cha mẹ lúc mê mờ thì bị câu ngại, trong bảy ngày đó gọi là Yết thích lam. Đây gọi là tạp uế, cha mẹ bất tịnh cùng hòa hợp lẫn lộn. Thật là nhàm chán xấu xa gọi là uế. Nếu đã đọng thành chất lỏng bên trong thì trong mười bốn ngày gọi là Át-bộ-đàm, đây gọi là bào, hình dáng như hạt đậu bao bọc, bên trong như lạc chưa thành thịt. Trong hai mươi mốt ngày gọi là bế hộ, đây gọi là ngưng kết, cũng như cục huyết đặc.

Người Tây Tạng gọi huyết là bế hộ. Nếu đã thành cục thịt nhưng vẫn mềm thì trong hai mươi tám ngày gọi là kiện nam, Hán dịch là ngưng hậu, vì dần kết dày thêm. Nếu đã cứng dày thì ít chịu xúc chạm trong ba mươi lăm ngày gọi là Bát-la-xa-khư, đây gọi là hình vị, cũng như Nê đoàn (cục bùn). Năm phần tướng nối liền thân và tứ chi. Ở trong gió hướng ngoại tạo lấy hình tướng sai khác của sanh căn. Tức cục thịt trước kia thêm lớn các chi phần mà hiện ra tướng. Trong tuần thứ sáu gọi là phát mao trảo vị, sanh ra tóc lông. Tuần thứ bảy gọi là cụ căn vị, năm căn đầy đủ hiện ra rõ ràng. Đến đây cho tới khi thai tròn ba tháng, mọi thứ đều thành tựu. Nếu không thêm bớt, như thế trải qua ba mươi tám tuần thai bắt đầu tròn đầy. Sau đó bốn ngày đầu thai nhi hướng xuống dưới, hai chân hướng lên, bao thai xé ra, cửa sanh ép buộc, các sự đau lúc này càng dữ dội. Hoặc do nghiệp trước người mẹ ăn tro muối làm cho tóc tai con thưa thớt. Hoặc người mẹ ăn đồ nóng, khiến con có sắc đen hoặc đỏ khi sanh ra. Mẹ ăn đồ lạnh hoặc gần nhà lạnh con phần nhiều trắng bệch. Mẹ dâm dục thì con bị ghẻ lỡ. Mẹ ưa nhảy nhót uy nghi không ngay thẳng thì con tứ chi khuyết giảm. Nam thì ở hông phải dựa vào xương sống hướng ra xương sống, nữ ở hông trái dựa từ bụng hướng ra bụng. Tùy theo cha mẹ sanh ái nhiễm, đầu tiên bám theo chất bất tịnh của cha mẹ cho là thân mình, sau dùng bất tịnh của mẹ để nuôi lớn. Hiện duyên đã như vậy cho nên nghiệp bất thiện, trăm điều ác cảm lấy ba mươi sáu vật bất tịnh làm thể, thân ác như thế không đáng ưa thích, trôi lăn không cùng, gọi là đời đời thêm lớn.

-Kinh: “Người đức mỏng ít phước cho đến Tâm siểm khúc không thật.

-Tán: Đây là hai hàng tụng về cầu tà xuất ly, học hạnh lầm loạn cho nên không đồng, một hàng rưỡi tụng về khởi ra tà kiến thân biên thành sáu mươi hai kiến, một hàng tụng sau do khởi kiến giới thủ mà hoặc nghiệp sanh ra. Hoặc hàng tụng đầu chung khởi ra cả năm kiến, một hàng rưỡi sau tụng khởi riêng về năm kiến. Chúng sanh kia từ đời vô thủy đến nay vì đức mỏng phước ít nên chịu thống khổ ép buộc. Tuy muốn thoát ra mà không hiểu rõ tà chánh, lầm rơi vào chỗ ngoại đạo không có chánh kiến. Học hành sai lầm nên gọi là tà kiến. Năm kiến đều là tà kiến. Đây dựa và khoa sau, không phải cần bác bỏ không có mới là tà kiến. Phiền não tà kiến làm câu ngại chúng sanh, khó thoát ra khỏi không thể giải thoát nên gọi là như rừng dày đặc. Đây là kiến chung sau là nói hiển riêng. Hoặc có hoặc không v.v… ở đây có hai giải thích. Ý vào khoa sau thì tứ kiến trong năm kiến là hữu nên đều chấp vào hữu. Tà kiến chấp là không, nên phần thường bác bỏ không. Đây là hiển bày các thứ phiền não. Nếu dựa vào khoa đầu thì rừng tà kiến dày đặc là tà kiến bác bỏ không. Nếu có thì chấp vào thân sau của ta là có tức thường kiến. Nếu không thì chấp hậu thân là không tức đoạn kiến. Hai chấp này gọi là biên kiến là thủ thân kiến, kiến thủ, giới thủ. Do sáu mươi hai kiến dùng tà kiến biên kiến làm tự thể nên nêu riêng. Lấy hai kiến khác làm quyến thuộc. Nương vào thân kiến lấy làm căn bản.

Thế nào là sáu mươi hai kiến, tụng rằng:

Hai bốn tám mươi kiếp

Kiến sanh tử nghiêng thường

Phạm đại chủng tâm khác

Hý phẫn nhuế một phần

Có sắc có biên thảy

Các sanh tử tưởng địa

Một thứ tiểu vô lượng

Thuần vui đều có tưởng

Tức hữu sắc biên thày

Sanh vô tưởng đều không

Người trời dục, cõi sắc

Bốn vô sắc đoạn diệt

Chết ở trời vô tưởng

Tầm từ chấp không nhân.

Nhớ trên dưới bàng đều.

Kiếp hoại có biên thảy.

Sợ vô tri hành siểm

Ôm ưu não kiểu loạn

Người dục thiên dục lạc.

Niết-bàn bốn tĩnh lự.

Các kiến hoặc này, trải qua từ nhiều đời quá khứ nhiếp đến tận cùng vị lai và trải qua đời hiện tại nay chung cả ở hai cõi mà xếp vào biến một phần. Còn bốn mươi bốn phần khác đều xếp vào kiến hậu tế. Sáu mươi hai kiến này các kinh luận đều nói thuộc về hai biên là biên kiến, tà kiến. Bao nhiêu kiến thuộc về biên kiến trong bốn hữu đều có một phần mà thành ra mười sáu. Vô tưởng thì đều chẳng phải tám, bảy đoạn đều là biên kiến. Tức hai thứ vô nhân kia thì tà kiến biên kiến loạn đều có bốn, năm kiến Niết-bàn luận đều thuộc về tà kiến. Do chấp thần ngã mà khởi ra ngã kiến, khởi ra như thế mà thành sáu mươi hai kiến. Sau đó khởi ra các pháp kiến thủ chấp kiến là thắng là nhân, lại khởi ra các giới chấp thủ chấp giới v.v… là nhân là thắng. Chấp vào các pháp dối này không chịu buông bỏ. Ngã man tự thị, khoe khoang cống cao mà xem thường người khác. Với thầy thì dua nịnh khen ngợi lấy lòng để cầu danh lợi như vậy tâm làm sao hội nhập thật. Tham dục chấp tà như vậy làm sao có thể kham việc giáo hóa người, giữ gìn Đại pháp.

-Kinh: “Trong ngàn muôn ức kiếp cho đến người như thế khó độ.

-Tán: Một hàng tụng không thiện nên khác nhau.

Người thiện đều tu bốn hạnh gần gũi.

  1. Gần gũi bạn lành.
  2. Lắng nghe chánh pháp.
  3. Như lý tư duy.
  4. Đúng như lời dạy tu hành.

Những người ác này trải qua trăm muôn ức kiếp không nghe tên Phật, thì làm sao gần gũi được tất cả bạn lành, đã không thấy Phật cũng không nghe pháp. Đã không có văn tuệ là nhân đầu tiên nhập pháp thì tư duy tu tập lý cũng không đắc được. Người như thế thật là ít có độ, làm sao đầu tiên tức giáo Đại thừa!

-Kinh: “Vì thế Xá-lợi-phất cho đến chỉ cho đó Niết-bàn…”

-Tán: Đây là phần kết khác nhau. Do như thế mà Phật lập ra phương tiện. Đầu tiên mở bày Niết-bàn, khiến cho dứt khổ.

-Kinh: “Ta tuy nói Niết-bàn… Mở bày pháp ba thừa .”

-Tán: Ở trên nói đầu tiên khác nhau hai bài tụng này mở bày sau khiến cho đồng, khuyên bỏ thân giải thoát mà giữ lấy pháp thân Phật. Chỗ nói về Niết-bàn Nhị thừa cũng như Hóa thành không phải diệt thật.

Pháp từ vô thỉ tánh thể vốn thường tịch, tức tự tánh thanh tịnh Niết-bàn. Tánh ly ngôn từ, pháp chẳng phải ngày nay mới có. Như Đảo châu báu mới chình là diệt thật. Diệt thật đã vậy, cho nên hành đạo rồi đến đời vị lai chứng pháp bổn tánh diệt này mà thành tựu Phật đạo. Trí tuệ của ta khéo dùng phương tiện. Đầu tiên chia ra hai quyền sau chỉ một thật. Gọi chung là mở bày pháp ba thừa.

PHẦN CUỐI

-Kinh: “Tất cả chư Thế Tôn cho đến chỉ một không hai thừa…”.

-Tán: Phần thứ năm, bảy mươi hàng rưỡi tụng nghĩa thứ năm y pháp của văn xuôi trên. Đây chia ra ba phần nhỏ:

-Một hàng rưỡi tụng về pháp của Chư Phật mười phương.

-Ba mươi tám hàng rưỡi tụng pháp của Chư Phật ba đời.

-Ba mươi hàng rưỡi tụng “chúng ta cũng như thế”.

Đã nói chỉ một thừa không có hai thừa, vì sao nói phá ba để về một.

-Kinh: “Quá khứ vô số kiếp cho đến Số nhiều không thể lường”

-Tán: Trở xuống ba mươi tám hàng rưỡi là tụng pháp của Chư Phật ba đời.

Trong đây chia làm ba: Hai mươi bảy hàng rưỡi đầu tụng về quá khứ, sáu hàng rưỡi kế tụng về vị lai, bốn hàng rưỡi cuối tụng về hiện tại.

Hai mươi bảy hàng rưỡi lại chia hai: Bốn hàng rưỡi tụng về Phật nói pháp đầu quyền sau thật. Hai mươi ba hàng sau tụng chúng sanh nghe pháp đều rốt ráo đắc Nhất thiết chủng trí.

Bốn hàng rưỡi đầu nói có bốn ý:

-Phật nhiều.

-Khai quyền.

-Hiển thật.

-Giải thích ý khai quyền hiển thật ở đây là ý đầu.

-Kinh: “Như thế các Thế Tôn cho đến giảng nói các pháp tướng”.

-Tán: Đầu tiên là khai quyền.

-Kinh: “Các Đức Thế Tôn ấy cho đến Khiến nhập vào Phật đạo”.

-Tán: Hiển bày về thật.

-Kinh: “Lại các đại Thánh chủ cho đến giúp hiển đệ nhất nghĩa.”

-Tán: Giải thích nghĩa bỏ quyền bày thật. Biết chúng sanh chưa thể tu học ngay Nhất thừa giáo biết căn, dục nên đầu tiên dùng quyền phương tiện để giúp hiển bày Nhất thừa, sau khiến cho nhập vào thật. Lại căn tánh Bồ-tát có hai: Một là tánh bất định; hai là định tánh. Tánh bất định thì trước quyền sau thật, mở rộng pháp Nhất thừa. Hai hàng tụng trước và định tánh nói về đốn giáo Nhất thừa. Hàng tụng này nghĩa là biết tâm chúng sanh tâm tánh đốn ngộ dùng phương tiện khác mà không từ quyền đến thật để giúp hiển Nhất thừa. Nhất thừa đó là Bậc nhất nghĩa chân như, ban đầu Ba thừa sau nói một Phật thừa là phương tiện quyền thật, đốn nói Nhất thừa nên gọi là phương tiện khác.

-Kinh: “Nếu có các chúng sanh cho đến đều đã thành Phật đạo”.

-Tán: Trở xuống hai mươi ba hàng tụng về chúng sanh nghe pháp rốt ráo đều đắc Nhất thiết chủng trí: có ba: Hai hàng tụng đầu là Phật ở đời; hai mươi hàng kế là tụng sau khi Phật diệt độ; một hàng cuối là kết.

-Phàm gặp Phật nghe pháp, tu sáu độ bốn nhiếp, vô lượng v.v…gọi là các thứ phước đức. Tu nhân Phật hành Bồ-tát hạnh, nên đều đã thành đạo.

-Kinh: “Các Phật diệt độ rồi… đều đã thành Phật đạo.”

-Tán: Hai mươi hàng tụng, sau khi Phật diệt độ. Đây chia làm năm: Một hàng tụng từ tâm; bốn hàng rưỡi tụng xây tháp; sáu hàng rưỡi tụng về xây tượng; bảy hàng tụng cúng dường; một hàng tụng khen Phật. Có thiện mà cương cường chẳng phải Bồ-tát. Tâm mềm mỏng chẳng phải thiện cũng chẳng phải là Bồ-tát, cần thiện mà nhu nhuyễn mới là tâm Bồ-tát. Thuận với lý, làm lợi ích chúng sanh rất mềm mỏng nên đã thành Phật đạo, gieo trồng nhân Phật. Văn sau lại y cứ vào Phật diệt độ, sau hành các hạnh khó nên là biệt hạnh, chẳng phải Phật tại thế làm các hành này, cũng chẳng phải nhân Phật ở đời mà dễ tu. Y theo sáu độ trên thì hành sau khi Phật diệt độ là hành chung, nên cũng thành Phật đạo.

-Kinh: “Các Phật diệt độ rồi cho đến Trang nghiêm các tháp.”

-Tán: Bốn hàng rưỡi tụng xây tháp mà thành Phật. Đây chia làm hai: Bốn hàng đầu tụng xây tháp, nửa hàng sau tụng kết.

Bài đầu chia làm ba: Hai hàng đầu tụng xây tháp, số nhiều là chỉ tám trân nghiêm chỉnh: Một hàng tụng lấy chín vật làm tháp. Một hàng tụng sau cho đến chơi giỡn là lấy vật kém làm tháp.

Trong luận Phật Địa nói bảy báu không có mai khôi, nhưng lưu ly khác với các thứ châu báu. Châu là xích chân châu. Nay nếu dùng lưu ly làm chân châu tức là bảy báu. Nếu không thì thành ra tám báu. Lưu ly và chân châu có khác, pha lê phần nhiều là mầu trắng hồng, xa cừ thì xanh trắng. Mã não có nhiều màu, hoặc thuần trắng hoặc thuần xanh vàng, hoặc nhiều màu ở giữa. Mai khôi thì màu đỏ. Trong nói văn nói lửa cũng đồng với châu. Đá đẹp gọi là mai, tròn thì gọi là khôi. Các thứ khác cũng có thể biết. Trong kinh Tăng Nhất A-hàm Phật bảo Tỳ-kheo. Nay ta sẽ nói bốn thứ phước được sanh lên cõi trời phạm:

-Nếu có người thiện nam tín tâm chưa từng xây tháp mà có thể xây tháp.

-Tu sửa chùa.

-Hòa hợp Thánh chúng.

-Khi Phật mới thành đạo, các trời, người thỉnh xoay bánh xe pháp. Đó gọi là bốn thứ phước được sanh lên cõi trời phạm.

Tỳ-kheo bạch Phật:

Phước Phạm lượng bao nhiêu? Phật bảo: Gom hết phước đức vốn có của bốn thiên hạ và sáu tầng trời Lục dục, cũng không bằng phước của một Phạm Vương. Cho nên khuyên xây tháp để đắc được Bồ-đề.

-Kinh: “Hoặc có xây miếu đá cho đến gạch ngói đến bùn đất.”

-Tán: Đây là hàng tụng dùng chín vật làm tháp. Miếu đá là nhà thờ Phật làm bằng đá. Xưa gọi là Chi-đề. Nay gọi là Chế-đa, Hán dịch là Linh miếu, lẽ ra gọi là Miếu tức Miếu mạo. Trong Bạch Hổ Thông Ngọc Thiên chép: Tôn mạo của các vị Tiên Tổ ở tại đó nên gọi là Miếu. Gỗ cây mật là loại cây rừng có hương. Trong Thiết Vận gọi là ốt. Ngọc Thiên gọi là Mật giống như cây hòe, hương thơm rất mạnh, chặt để năm năm mới dùng. Nếu nghiền thành hương thì thật lâu mùi thơm mới bay ra.

-Kinh: “Nếu ở chỗ hoang vắng cho đến Đều đã thành Phật đạo.”

-Tán: Bốn câu đầu tụng lấy vật xấu làm tháp, hai câu sau kết luận.

Luận chép: Gom cát làm tháp Phật cũng thành Phật đạo. Nghĩa là người phát tâm Bồ-đề thực hành Bồ-tát hạnh, làm những vật bằng gốc lành thì có thể chứng Bồ-đề. Chẳng phải như phàm phu và Thanh văn chủng tánh chắc chắn là sở đắc của người chưa phát tâm Bồ-đề. Như thế từ văn trên cho đến cuối nói vẫy tay, cúi đầu… cũng đều như vậy.

-Kinh: “Nếu như người vì Phật cho đến Đều đã thành Phật đạo.”

-Tán: Sáu hàng rưỡi tụng về tạo tượng Phật. Trong đây chia hai: Năm hàng tụng nói tạo tượng một hàng rưỡi tụng là kết.

Năm hàng đầu chia làm bốn: Một hàng tụng về điêu khắc tượng, hai hàng tụng về dùng mười vật trang sức, một hàng tụng về vẽ tượng Phật, một hàng tụng về vui vẻ làm.

Nói làm tượng Phật chẳng phải làm tượng khác, nên nói vì Phật. Vì cầu thành Phật, vì tâm kính Phật, nên gọi là vì Phật. Lại nói vì Phật mà tạo ra các bức tượng, vì muốn trang nghiêm Phật nên gọi là vì Phật. Như kinh Công Đức Tạo Tượng nói có mười một thứ quả:

  1. Đời đời sanh ra mắt trong sáng , gương mặt khôi ngô, xinh đẹp.
  2. Sanh ở chỗ không có điều ác.
  3. Thường sanh vào nhà giàu sang.
  4. Thân sáng đẹp như kim sắc.
  5. Thường được đồ châu báu quý giá.
  6. Sanh vào nhà hiền thiện.
  7. Đời sau làm vua hoặc trong dòng tôn quý nhất của vua.
  8. Làm Kim luân hóa vương.
  9. Làm Phạm thiên tuổi thọ một kiếp.
  10. Không theo đường ác.
  11. Trong đời sau, lại tôn trọng Tam bảo.

Thích cầm đồ vật mầu nhiệm, lại tạo ra công đức.

-Kinh: Hoặc do bảy báu thành cho đến Đều đã thành Phật đạo.

-Tán: Đây là hai hàng tụng về dùng mười vật trạng sức để tạo tượng.

-Kinh: “Họa vẽ tạo Phật tướng… Đều đã thành Phật đạo.”- Tán: Đây là hàng tụng về họa Phật.

-Kinh: “Những hạng người như thế cho đến Độ thoát vô lượng chúng.”

-Tán: Đây là phần kết.

Người có đầy đủ tâm đại bi, hễ khi làm việc thiện thì có tâm từ bi mới thành tựu đến bờ kia, nên nói thành Phật.

-Kinh: “Như người nơi tháp miếu cho đến Kính tâm mà cúng dường.”

-Tán: Có bảy hàng tụng nói pháp cúng dường, phần này có hai:

  1. Năm hàng rưỡi tụng về cúng dường.
  2. Một hàng rưỡi tụng về kết.Trong phần một có năm:

– Một hàng tụng về bốn vật cúng dường.

Một hàng rưỡi tụng về âm nhạc cúng dường.

Một hàng tụng về ca nhạc cúng dường.

Một hàng tụng về hoa cúng dường.

Một hàng tụng thân nghiệp hành kính cúng dường, đây là phần đầu.

Kinh Phát Tâm Bồ-đề chép: Nếu dâng hoa cúng dường thì được hoa bảy giác. Đem hương cúng dường thì được hương năm phần pháp thân. Dùng phướn cúng dường thì đắc Đà-la-ni, chuyển được điều ác.

Dùng long báu cúng dường thì được bốn vô lượng che chở chúng sanh.

Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt nói mỗi thứ được mười đức.

-Kinh: “Hoặc sai người trổi nhạc cho đến đều mang ra cúng dường.”

-Tán: Đây là dùng âm nhạc để cúng dường. Trong Thuyết văn chung là năm thanh tám âm. Trong lễ ký nói Vi Thích Vũ Mao gọi là nhạc. Trịnh Huyền nói Bát âm khắc giai gọi là nhạc, là cổ động, là tiếng kêu, hễ xuất âm thì gọi là cổ, nay dùng cây bọc da vang tiếng tức là tiếng kêu. Giác là khúc hình giống như sừng. Cụ là loa.

Trong kinh Niết bàn chép: Thổi loa biết thời là loại ống sáo. Ngọc thiên thì dùng ống sáo thổi, lại gọi là tiêu. Địch gồm có bảy lỗ, quen gọi là trực. Kính như cái linh mà lớn hơn. Trong ngọc thiên gọi là Tiểu chính.

Trong quân pháp mười trường thì cầm nạo năm người là một ngũ.

Năm ngũ là hai mươi lăm người là lưỡng (hai), Lưỡng Tư Mã thì cầm đạt.

Trong kinh Phát Bồ-đề Tâm nói:

-Âm nhạc, nữ sắc không đem cúng dường vì làm loạn chúng sanh, nay đem cúng dường Phật thì không trái. Như trong Kim tạng có âm nhạc cúng dường.

-Kinh: “Hoặc dùng tâm vui mừng cho đến Đều đã thành Phật đạo.”

-Tán: Đây dùng ca xướng để cúng dường nên đắc phạm âm thanh Đại sĩ. Tiếng Phạn gọi là Bà trắc, Hán dịch là khen ngợi. Trần tư lên núi

Ngư nghe Nham Tụ tụng kinh, âm thanh vang xa ra ngoài hang động.

Ông bèn nghĩ: Âm thanh này nên chế ra phạm bối.

Cho nên nay quen gọi là Ngư phạm, ngầm hợp với ba khế bảy thanh ở Tây Vực, âm thanh lại vang rất xa.

-Kinh: Nếu người tâm tán loạn cho đến dần thấy vô số Phật.

-Tán: Đây dùng hoa để cúng dường. Vì sao lại khác với cúng hoa ở bốn việc trước? Vì chuyên thiện tâm, đây dùng tán tâm, cho nên không trái, lược nói là cúng dường vẽ tượng, cúng dường tượng khác cũng được.

-Kinh: “Hoặc có người lễ bái cho đến Hoặc chỉ hơi cúi đầu…”

-Tán: Đây là nói thực hành thân nghiệp cúng dường. Trên dùng ca xướng là ngữ nghiệp có thể phát tâm tức là ý nghiệp. Ngoài ra đều là cúng dường ngoại tài thực, hành ba nghiệp cúng dường.

-Kinh: “Lấy đây cúng dường tượng cho đến như củi hết lửa tắt.”- Tán: Kết thực thành tựu việc cúng dường.

-Kinh: “Nếu người tâm tán loạn cho đến. Đều đã thành Phật đạo.”

-Tán: Ở đây khen Phật thành Phật tạm nêu ra một lần khen ngợi, còn được thành Phật huống chi là nhiều lần xưng, như kinh Dược Vương Dược Thượng chép:

-Ta thường khen ngợi năm mươi ba danh hiệu Phật, nay được thành Phật tức là việc này.

-Kinh: “Đối các Phật quá khứ cho đến Đều đã thành Phật đạo.”

-Tán: Tụng nói: Chúng sanh nghe pháp đắc chủng trí, đây phần kết thành Phật đạo thứ ba.

-Kinh: “Các Thế Tôn vị lai cho đến cũng phương tiện nói pháp.”- Tán: Sáu hàng tụng rưỡi tụng về pháp vị lai, chia ra làm hai: a. Ba hàng rưỡi đầu nêu ra đồng với nay nói. b. Ba hàng tụng sau giải thích lại nghĩa trước. Trong phần đầu có ba ý:

-Một hàng tụng đồng là phương tiện trước.

-Một hàng rưỡi nêu sau thành tựu nói pháp thật.

-Một hàng giải thích lý do trước.

-Kinh: “Tất cả chư Như lai… chẳng ai không thành Phật.”

-Tán: Đây tụng, nêu sau thành nói pháp thật. Nay người nghe pháp đều được thành Phật. Phật và chúng sanh hợp lại nói.

-Kinh: “Các Phật vốn thệ nguyện cho đến Cũng đồng đắc đạo này.”

-Tán: Giải thích lý do trước là do bổn nguyện.

-Kinh: “Các Thế Tôn vị lai cho đến thật vì Nhất thừa.

-Tán: Ba hàng tụng sau giải thích lại nghĩa trước. Có hai: Một hàng tụng nói phương tiện đều là Nhất thừa; hai hàng tụng sau nói: Ngộ ba tánh các pháp hướng về cho nên như thế.

-Kinh: Các Phật lưỡng túc tôn cho đến Đạo sư phương tiện nói.”

-Tán: Ngộ được ba tánh, các pháp đều quy hướng về. Cho nên đầu tiên nói quyền, sau mới nói Nhất thừa. Diệu lý chân như thể tánh vốn thường trụ. Phật có thể chứng biết. Biến kế sở chấp sanh ra ngã pháp, thể tánh vốn là không. Phật chứng lý vô ngã, cho nên cũng biết đây chẳng phải là phàm chấp luống dối, hạt giống Phật do duyên mà khởi lên, hạt giống báo Phật y tha vô lậu do duyên mà sanh ra. Từ duyên mà khởi ra nhân tu tập. Do chứng chân lý mà dứt tâm năng chấp nhiễm phần y tha, biết sở chấp là không. Từ nhân duyên y tha của phần tịnh mà tu hạt giống Phật đó là Nhất thừa. Vì sao Nhất thừa lại hiển rõ thường pháp tức là viên thành thật? Vì pháp trụ vị pháp đó là chân như trụ trong các pháp. Thể tánh thường có gọi là pháp trụ, pháp thì có nhiễm tịnh, lìa nhiễm được tịnh, phân vị rõ ràng gọi là vị pháp. Tướng là bổn thể thể tánh thế gian. Tức là thật tánh thường trụ chân như, là thể của Nhất thừa. Ngồi trong tòa đạo tràng Kim cương, biết tánh bản thể của các pháp rồi, ở trong pháp không có danh tướng đó, đấng Đạo sư phương tiện dùng danh tướng nói trong tất cả pháp lược có hai thứ: Một là không hai là hữu. Không thì chẳng có khác nhau lập chung một tánh gọi là Biến kế sở chấp. Hữu pháp có sai khác chia ra hai: Thường và vô thường.

Thường gọi là tánh viên thành thật. Vô thường là tánh y tha khởi.

Tánh y tha khởi lại chia ra làm hai: Hữu lậu và Vô lậu.

Hữu lậu làm tánh y tha khởi. Vô lậu làm tánh viên thành thật. Nay dựa vào trước nói vô thường là y tha. Y tha hữu lậu cần phải trừ đoạn. Trong đó chỉ giữ tịnh phần y tha vô lậu vô thường, rốt ráo mãn vị mà thành tựu Bồ-đề. Cho nên nói Hạt giống Phật từ duyên mà khởi lên. Ý hiển bày năng chứng lý vô ngã thường trụ pháp tánh chân như, bèn có rõ biết hai ngã là không. Nương theo bạn lành mà tu tập trí tuệ. Từ pháp duyên khởi mà Bồ-đề giác tròn đầy, vì chứng diệu lý chân như Nhất thừa. Diệu lý tức là pháp trụ vị pháp, tướng thế gian thường trụ.

Kinh Đại Bát Niết-bàn chép: “Phật ở trong đạo tràng đã chứng biết rồi, nay vì chúng sanh dùng phương tiện nói khiến cho ưa thích tu chứng. Nay y tha này tức là Bồ-đề. Viên thành tức là Niết-bàn, họp thành nhất thừa. Viên thành cao quý nên gọi là Nhất thừa. Do dứt hữu lậu tánh y tha khởi dứt trừ Biến kế sở chấp mà chứng hai quả này. Bởi rõ được y tha tánh sở chấp cho nên đầu tiên Phật nói A-hàm, kế đến nói Bát-nhã. Thuần là giáo hữu, không gọi là phương tiện. Nay cả ba đều nói nên gọi là chân thật. Nghĩa của ba tánh như trong chương khác có nói:

-Kinh: “Trời, người người cúng dường cho đến Cũng nói pháp như thế.”

-Tán: Trở xuống bốn hàng tụng rưỡi, là tụng về hiện tại, lại chia làm ba: Một hàng rưỡi là nêu; một hàng bỏ quyền bày thật; hai hàng nói về ý, đây là phần đầu.

-Kinh: “Biết vắng lặng bậc nhất cho đến Thật sự vì Nhất thừa”.

-Tán: Đầu tiên này bỏ quyền, sau lại nói thật.

-Kinh: “Biết các hạnh chúng sanh cho đến Tùy ứng nói phương tiện”.

-Tán: Đây ý nêu đầu tiên dùng quyền sau nói thật.

-Các hạnh chúng sanh là câu hành tướng chung của tâm. Phần dưới là câu nói chi tiết hoặc là thắng giải, tâm sở niệm đó là Biến thú hành. Nghiệp lực là tự nghiệp. Dục lực nghĩa là thắng giải. Tánh lực là các thứ giới. Tinh tấn lực là xứ phi xứ v.v… Hoặc tinh tấn cho đến. thể tức là tánh lực. Vì thể chủng tánh tức là ngũ căn, chữ lực ở dưới quán thông ở trên. Căn lợi độn đó là căn hơn, kém đó. Phật có trí lực này nên có thể biết, cho nên đầu tiên nói quyền, sau trở lại nói thật. Phật trong đời vị lai do ngộ ba tánh. Hiện tại nay Phật biết được tâm chúng sanh. Cả hai bày rõ lẫn nhau nên đầu tiên lập bày phương tiện, sau mới nói chân thật.

-Kinh: “Nay ta cũng như thế cho đến Đều khiến được vui mừng.”

-Tán: Ba mươi hàng rưỡi tụng nói ta cũng như thế là đồng với trước đức Thích-ca. Chia làm hai: Hai hàng tụng đầu là nêu ra, hai mươi tám hàng rưỡi tụng rộng giải thích.

Đầu tiên là tụng nay thật, sau là tụng quyền trước kia, đều khiến vui mừng dần nhập vào đạo.

-Kinh: “Xá-lợi-phất nên biết cho đến nghèo cùng không phước đức…”

Tán: Đây là phần rộng giải thích, chia làm hai: Hai mươi mốthàng rưỡi tụng đầu tiên dùng ba thừa phương tiện dẫn dụ, tức trong văn xuôi nói: Biết tất cả chúng sanh có các thứ tâm ưa muốn chấp trước sâu xa, tùy theo bổn tánh chúng sanh mà dùng các thứ năng lực phương tiện nhân duyên thí dụ ngôn từ mà vì nói pháp. Phần sau có bảy hàng tụng nói nay chân thật. Tức trong văn xuôi nói: Như thế nói đều vì đắc Nhất thiết chủng trí Nhất Phật thừa. Tức là tụng nghĩa đầu quyền sau thật. Hai mươi mốt hàng rưỡi đầu làm bốn phần: Ba hàng rưỡi đầu thấy các nguy nan ở nơi chúng sanh. Ba hàng kế tụng về suy nghĩ cứu không thể được, mười một hàng rưỡi tụng thỉnh cầu Phật lập bày phương tiện, ba hàng rưỡi tụng chánh nói Ba thừa giáo hóa. Trong phần đầu có hai:

Một hàng tụng không có thiện. Hai hàng rưỡi tụng có ác.

Kinh Bát nhã nói Phật có năm:

  1. Mắt thịt: Chẳng phải do tu định sanh ra mà do bốn đại tạo. Hoặc trưởng, dưỡng hoặc là dị thục, tịnh sắc làm tánh.
  2. Mắt trời: Đoạn ở chướng định do tu tập khởi lên, chỉ là trưởng dưỡng. Do tứ đại tạo ra, lấy tịnh sắc làm tánh.
  3. Mắt pháp: Quán sự có tuệ.
  4. Mắt tuệ: Quán lý tuệ không.
  5. Mắt Phật: do chứa nhóm mà quả viên thành.

Lấy bốn cái trước làm thể, ngài Long Thọ giải thích: Như bốn dòng sông lớn lưu chảy đến thiên trì gọi chung là Đại hải. Như thế bốn thứ mắt lưu đến Quả Phật thông gọi là Mắt Phật, hai nhãn đầu thể sắc, hai nhãn tiếp thể trí. Một nhãn sau cùng thông cả hai. Lại nói người có mắt thịt, trời có mắt trời, Nhị thừa có mắt tuệ, Bồ-tát có mắt pháp Phật có Mắt Phật. Do đây mà nói là năm. Du-già quyển mười bốn nói có ba nhãn:

  1. Mắt thịt: Năng chiếu sắc hiển bày không chướng ngại.
  2. Mắt trời: Năng chiếu sắc ẩn hiện có chướng và không chướng.
  3. Mắt tuệ: Năng chiếu tất cả loại hoặc sắc phi sắc.

Mắt pháp thuộc thể tuệ hợp với tuệ là một, không đồng với cảnh sắc nhãn có ẩn hiện. Cho nên lược qua không nói. Mắt Phật tức là bốn thứ mắt trước. Hoặc nói về nhân chẳng phải quả nên cũng không nói.

Kinh Hoa Nghiêm nói có mười thứ nhãn:

  1. Mắt thịt: Thấy tất cả sắc.
  2. Mắt trời: Thấy chư chúng sanh các căn khác nhau.
  3. Mắt tuệ: Thấy chư chúng sanh các căn khác nhau.
  4. Mắt pháp: Thấy Bậc nhất nghĩa của tất cả pháp.
  5. Mắt Phật: Thấy mười lực của Phật.
  6. Mắt trí: Phân biệt, biết rõ tất cả pháp.
  7. Ánh sáng nhãn: Thấy ánh ánh sáng của tất cả Phật.
  8. Xuất sanh tử nhãn: Mắt ra khỏi sanh tử thấy pháp Niết-bàn.
  9. Vô ngại nhãn: Thấy tất cả pháp không có chướng ngại.
  10. Mắt trùm khắp: Thấy pháp môn bình đẳng trong pháp giới.

Trong mười nghĩa này nghĩa thứ nhất đây là nghĩa thứ nhất thấy các sắc của năm nhãn trước, thứ hai ở đây là nghĩa thứ hai ở trước, nghĩa thứ ba, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, thứ chín ở đây là mắt pháp ở trước, thứ tư thứ tám ở đây là mắt tuệ trước, thấy được chân đế. Hoặc thứ tư, thứ tám, thứ chín ở đây là mắt tuệ trước đều thấy lý. Thứ mười mắt trùm khắp là Mắt Phật trước, khắp thấy tánh bình đẳng trong pháp giới.

-Dùng Mắt Phật quán đó là trong năm thứ mắt dùng Mắt Phật quán Mắt Phật trong nghĩa mười thứ thì không thấy chúng sanh mà thấy mười lực. Sáu đường chúng sanh từ vô thỉ không tu hai nhân phước tuệ, chưa đạt được bảy Thánh tài và bảy pháp tài trời, người. Nghĩa là thí giới, nhẫn, cần, định, tuệ, phương tiện nên nói không phước tuệ.

-Kinh: “Vào sanh tử hiểm nạn cho đến Vô minh không thể thấy”.

-Tán: Hai hàng rưỡi tụng về có ác. Đây có hai phần:

-Một hàng tụng rưỡi: Hiện khổ đắm chìm, phiền não thêm lớn.

-Một hàng tụng sau cầu xuất yếu mà hành tà hành. Thế gian loài trâu mao do tự yêu thích đuôi mình, giữ gìn đuôi. Người tham đuôi bèn giết nó. Chúng sanh cũng vậy, tham đắm năm dục giấu để thân mình, bèn do tham ái mà tự làm hủy hoại, rồi đọa vào đường ác. Có bổn nói: Tự che không phải nghĩa tự hoại. Như trâu mao mến đuôi, che lấp tâm chúng dẫn đến bỏ mạng. Chúng sanh cũng vậy. Tham ái che đậy tâm.

Có bổn nói là miêu (mèo) nhưng không biết xuất xứ từ đâu.

-Kinh: Không cầu đại thế Phật cho đến lấy khổ muốn bỏ khổ.

-Tán: Vì cầu xuất ly mà hành tà hạnh. Phật có uy thế thần thông và dùng trí tuệ dứt trừ hết khổ mà không cầu hướng trái lại rơi vào lưới kiến chấp của ngoại đạo kiến, thân hành khổ hạnh để xả khổ sanh tử. Đây là chưa thể. Cho nên trải qua sáu năm khổ hạnh ngày ăn hạt mè còn không chứng được Bồ-đề. Ngồi nằm trên cỏ gai làm sao đắc đạo quả. Như chó đuổi theo cục đất, bị đất ném lại càng nhiều, đâu đồng như sư tử đuổi theo người.

-Kinh: “Vì tất cả chúng sanh cho đến Mà khởi tâm đại bi”.

-Tán: Ba hàng tụng suy nghĩ cứu không được. Lại chia làm ba: Nửa hàng suy nghĩ khởi nhân hành. Một hàng tụng đắc quả rồi suy nghĩ. Một hàng rưỡi suy nghĩ cứu không được. Thấy chúng sanh có hai duyên này bèn khởi tâm từ bi, phát tâm tu hành suy nghĩ sẽ cứu.

-Kinh: “Ta xưa ngồi đạo tràng… suy nghĩ việc như thế.

-Tán: Đắc quả rồi Phật lại nghĩ.

Phật thành đạo rồi kinh hành dưới gốc cây. Quán cây vui mừng đạo của mình viên thành. Kinh hành tư duy vì lợi ích chúng sanh. Lại quán cây mà tâm ngưng nơi diệu lý. Kinh hành suy tưởng hóa độ chúng sanh. Lại quán cây tưởng che chở tứ sanh. Kinh hành tư duy thí phước tuệ. Các kinh nói sau khi Phật thành đạo rồi nói pháp về thời gian mỗi mỗi không đồng. Đây nói hai mươi mốt ngày, luật Di-sa-tắt Tam-muội nói bảy ngày, cũng đồng với kinh Mười Địa, bảy ngày không nói pháp là biểu hiện tự thọ pháp lạc, vì muốn chúng sanh tăng sự ái kính. Luật và Tát-bà đa truyện nói bốn mươi hai ngày Phật mới nói pháp. Các Phạm thiên đến thỉnh. Các vị Kiều-trần-như căn cơ mới thuần thục. Lại có nói nói: Sau hạ an cư Phật mới độ năm người. Kinh Mười nhị. Do nói sau thành đạo hai năm Phật mới độ năm người.

Luận Trí Độ chép: Nói năm hoặc mười tuần Phật không nói pháp đây đều là do các bộ nghi kiến không đồng, chưa thể hòa hợp.

Nhưng nay giải thích: Đại thừa lấy Pháp Hoa làm chánh. Đây nói thông hành pháp luân bốn đế cho nên nói là hai mươi mốt ngày. Nếu chỉ nói pháp luân Đại thừa thì luận Mười địa nói là đúng, vì ngày thứ mười bốn Phật nói Mười Địa.

-Kinh: Trí lực ta đã được… Làm sao mà độ được.

-Tán: Suy nghĩ cứu không được. Đây có bốn nguyên nhân:

-Pháp sâu xa khó hiểu.

-Căn độn khó cứu.

-Đắm trước lạc thú khó bỏ. Làm sao có thể độ.

-Si ám khó ngộ.

-Kinh: “Bây giờ các Phạm vương cho đến Thỉnh ta xoay bánh xe pháp”

-Tán: Mười một hàng tụng rưỡi: Thỉnh Phật suy nghĩ lại mà lập phương tiện. Đây có bốn:

-Hai hàng đầu tụng các vị trời thỉnh nói pháp.

-Ba hàng tụng: Thị hiện tướng tư duy.

-Bốn hàng rưỡi giáo hóa gặp duyên tốt: Hai hàng tụng sau suy nghĩ nên tùy theo mà quyền dẫn dụ. Phần đầu nói Trời Đại tự tại, cõi sắc thiên thỉnh. Nay đối với pháp Ba thừa vốn như thế, nên nói pháp đều đợi thỉnh.

Trí Độ luận chép: Bấy giờ trời Tịnh Cư Thiên khuyên Thái tử xuất gia. Tứ thiên vương dâng bát. Đế Thích dâng bảo tọa, Phạm vương thỉnh xoay bánh xe pháp. Đầu tiên Phật không hứa, Phạm vương nói có ba căn nên lại càng cầu thỉnh ân cần. Phật mới ưng thuận, trước nói pháp Ba thừa. Thắng thiên vương trong Bát-nhã nói: Tứ thiên vương dâng Bát. Thiên Đế Thích cúng tòa. Phật liền thọ lấy. Các vị Thiên vương thấy Phật thọ thì đều phát thắng tâm. Nhưng văn kinh dưới nói: Đức Phật Đại Thông Trí Thắng chỉ có nói Phạm vương thỉnh. Đây nói thông cả chư thiên, nên tiêu biểu một vị trời tối thắng, không phải không có các vị trời khác vậy.

-Kinh: “Ta liền tự tư duy… Mau nhập vào Niết-bàn”.

-Tán: Ba hàng tụng chỉ về tướng tư duy: Hai hàng đầu tụng nói pháp Đại thừa thì chúng sanh có tổn hại. Một hàng sau nói cả Ba thừa, chúng sanh có lợi ích.

Vì các chúng sanh ở thế tục hiện đều trong cảnh khổ, người xuất tục lại càng tu khổ hạnh, không rảnh tin liền pháp Đại thừa. Nếu vì họ nói, trái lại sanh lòng chê bai, nghi hoặc phá hoại, thoát sanh bất tín mà đọa vào đường ác. Người thế tục lại đắm chìm trong cảnh khổ không tin sự xuất gia nên phá pháp không tin. Đã có sự tổn hại đó nên Phật thà không nói pháp mà mau nhập Niết-bàn! Đâu thể lại gây tổn hại cho chúng sanh! Đây đồng với Đại Trí độ luận chép suy nghĩ đầu của Phật

-Kinh: “Tìm nhớ quá khứ Phật cho đến Cũng nên nói Ba thừa.”

-Tán: Nên nói pháp Ba thừa, chúng sanh sẽ có ích lợi cũng đồng với Chư Phật ở quá khứ.

Đây cũng giống như trong Trí Độ luận, nói thỉnh lần thứ hai rồi Phật mới hứa.

-Kinh: Lúc Phật nghĩ như thế… Mà dùng phương tiện lực…”

-Tán: Có bốn hàng tụng rưỡi. Hóa độ gặp duyên lành có ba phần: Một hàng rưỡi Phật hiện tại tán dương. Nửa hàng kế khuyên đồng như Chư Phật. Hai hàng sau dẫn bản thân làm chứng đầu tiên nói quyền, sau nêu pháp thật.

Mười phương Phật hiện ra khen ngợi Phật Thích Ca, xưng là Thiện (tốt). Khen là bậc nhất sư đắc pháp vô thượng. Khuyên nên tùy theo Chư Phật mà nói pháp thứcền trước rồi sau mới nói pháp thật.

Thích-ca tánh là năng. Mâu-ni hiệu là Tịch. Nay văn này lược nói như lời dạy bảo. Pháp “như vậy” tùy hỷ đều gọi là Thiện tai!

-Kinh: “Chúng ta cũng đều đắc… Phân biệt nói ba thừa…”

-Tán: Hai hàng tụng rưỡi dẫn bản thân làm chứng. Sau nói pháp thật, trước nói pháp thứcền. Chia ba phần: Một hàng tụng bản thân làm chứng; một hàng tụng giải thích lý do; nửa hàng tụng kết trở về pháp

chân thật. Đây dẫn việc đã qua, ngay thời đầu các Đức Phật đều nói pháp Ba thừa.

-Kinh: “Thiểu trí ưa pháp nhỏ… chỉ vì giáo Bồ-tát.”

-Tán: Đây giải thích lý do và kết trở pháp chân thật. Vì người bất định nên mới bắt đầu ở chúng phàm phu trí nhỏ vui pháp Tiểu thừa mà không cầu ý Đại thừa, không tin tự mình có thể làm Phật. Đầu tiên nói Ba thừa, tuy ban đầu nói quyền mà sau tất là chân thật. Đây chỉ giáo hóa chúng Bồ-tát.

-Kinh: “Xá-lợi-phất nên biết cho đến. Ta cũng thuận làm theo”.

-Tán: Hai hàng tụng: Nghĩ nên theo quyền mà dẫn dụ. Gồm có:

Một hàng tụng nghe các Phật, khen ngợi kính trọng.

Một hàng tụng suy nghĩ nên thuận theo hạnh của Chư Phật.

Có bổn gọi là “Xưng Nam mô Chư Phật” ứng vui mừng xưng làm chánh. Chánh gọi là Nạp-mộ. Cũng gọi là Nạp-mạc, Hán dịch là kính lễ. Hoặc nói là Bạn Đàm, hoặc gọi là Bạn Đề. Đây gọi là lễ bái. Cựu dịch Hòa Nam là sai.

-Kinh: “Lại nghĩ như thế này cho đến. Ta cũng thuận làm theo”.

-Tán: Đây là thuận theo hạnh của Chư Phật. Đã gặp duyên lành khuyên ta nên quyền hóa. Phật tư duy chúng sanh nơi kiếp trược, cũng nên thuận theo hạnh kia.

-Kinh: “Tư duy việc này rồi cho đến. Vì năm Tỳ-kheo nói…”

-Tán: Ba hàng tụng rưỡi chánh nói pháp Ba thừa. Nói về giáo hóa chia làm ba phần:

-Một hàng tụng rưỡi nói việc quyền hóa.

-Một hàng tụng Tam bảo hưng khởi

-Một hàng tụng hội thành tựa xưa và nay. Tiếng Phạn là Ba-lani-tư, Hán dịch Ba-la-nại là sai. Nước này nằm ở Trung Ấn Độ. Xưa nơi này có hai bày nai, mỗi bầy hơn năm trăm con. Phật làm Nai đầu đàn của một bầy. Đề-bà-đạt-đa làm vua một bầy. Bấy giờ vua nước này đi ngao du sơn trạch Bồ-tát Nai đầu đàn trước đã xin với vua: Đại vương săn bắn ở cánh rừng này, dùng tên độc giết hết bầy nai này, đem thịt về để lâu hư thúi sẽ không ăn được. Vậy để chúng tôi mỗi ngày đến nạp thịt cho vua một con. Vua có thịt mới dùng mà mạng bày nai này khéo dài và sanh trưởng thêm ra.

Vua nghe nói phải, liền lui trở về cung. Hai bầy vui theo thứ lớp đi nạp thịt. Trong bầy của Đề-bà có con nai mẹ đang mang thai đến lúc phải chịu chết, nên đến thưa với Nai đầu đàn: Thân tôi chịu chết, nhưng đứa con trong bụng chưa đến lúc. Xin Đại vương cho thay thế để tôi sanh nở xong sẽ đi.

Nai đầu đàn nổi giận: Ai không biết bảo trọng mạng sống mà chịu thay ngươi? Lộc mẹ than: Vua ta bất nhân sẽ chết bất đắc kỳ tử?

-Rồi chạy nhanh đến thưa với Bồ-tát. Bồ-tát Nai đầu đàn nói: Thương thay từ mẫu, ta sẽ thay thế ngươi.

Nai đầu đàn bèn đi đến cung vua. Người trên đường truyền nhau nói: Nai đầu đàn hôm nay đi vào thành. Nhân dân sĩ thứ cùng kéo ra xem. Vua nghe cũng nghĩ là không thật. Khi người giữ cửa vào thưa lại vua mới tin. Vua hỏi: Nai đầu đàn sau lại đến đây?

Nai đầu đàn thưa: Có nai mẹ đến lúc phải đi nạp thịt, nhưng thương đứa con còn mang trong bụng nên không nỡ đi. Nên tôi thế mạng đến đây.

Vua nghe than: Như ta là người mà không có lòng từ dưỡng như loài nai.

Rồi vua truyền lệnh tha cho bầy nai không đến nạp thịt nữa. Nhân đây mà gọi khu này là Lộc uyển (Lộc dã).

Thái tử Tát-pha-kiệt-tha-tát-đà sau khi vượt thành trở về liền vào rừng ẩn tu, quên thân cầu đạo. Vua Tịnh Phạn nói với ba vị tộc gia và hai người bên họ cậu: Con ta đã thành đạt tất cả mà bỏ nhà đi tu học, một mình ở chốn rừng sâu, núi hiểm. Nay các người nên đi theo hầu hạ Thái tử tiến thoái thế nào. Trong dòng họ là anh em cô cậu chú bác ngoài cũng là đạo quân thần đó thôi. Năm người bèn tuân lịnh vua theo Thái tử. Nhân đó mà cần cầu đạo xuất ly. Mỗi bên tự nói: Phàm người tu đạo thì khổ chứng hay lạc chứng?

Hai người kia nói: An lạc là đạo.

Ba người nói: Cần khổ là đạo.

Hai bên tranh luận vẫn không rõ ràng, lúc này Thái tử tư duy đến lý vì hàng phục khổ hạnh của ngoại đạo nên ngày ăn mè để duy trì thân. Hai người kia trông thấy nói với nhau:

– Sở hành của Thái tử chẳng phải là pháp chân thật để đạt đạo, phải cần có sự an lạc mới tu chứng được. Còn sự lao khổ này chẳng phải là pháp của ta. Nói rồi hai vị bỏ đi chỗ khác mà tư duy quả chứng quả. Thái tử trải qua sáu năm tu khổ hạnh mà chưa chứng quả Bồ-đề. Sau đó Ngài xả bỏ tu khổ hạnh, uống sữa thiền định quán xét và chứng quả. Ba người còn lại nghe nói than: Công tu gần thành nay đã thoái tâm, sáu năm khổ hạnh trong một ngày liền mất. Thế rồi họ cũng bỏ đi. Bấy giờ Thái tử đến tắm rửa bên dòng sông Ni liên, rồi tọa thiền dưới cội Bồ-đề, thành Chánh đẳng giác hiệu là Trời, người Sư. Ngài ngồi tịch mạc an nhiên chỉ quán xét việc độ sanh. Như lai nghĩ đến ông Uấtđầu-lam-phất trước kia đã chứng phi tưởng định có thể thọ pháp ta. Chư thiên trong không trung cất tiếng bảo: Uất-đầu-lam-tử đã mạng chung cách nay bảy ngày rồi.

Như lai than thở vì sao lại không gặp, để nghe pháp mầu. Lại quán xét có A-lam-ca-lam đã đắc định vô sở hữu xứ có thể thọ lý pháp.

Chư Thiên lại nói: Vị này đã mạng chung trải qua năm ngày. Như lai lại than thở. Sau đó quán xem ai nên thọ giáo, chỉ thấy năm người ở vườn Lộc giả là có thể dẫn đạo. Thề là Phật rời khỏi cội Bồ-đề đi đến vườn Lộc dã, uy nghi của Như lai thật là vắng lặng thần quang chiếu sáng rực rỡ, an nhiên tự tại đi đến trước năm vị kia, năm vị từ xa trông thấy Như lai, cùng nói với nhau: Thái tử kia Thánh quả đã không tu chứng, tâm lại trái ngược. Nay tìm đến đây vậy chúng ta nên im lặng chớ nên nghinh tiếp lễ lạy khi Phật đi đến gần thì thần lực uy nghi của Ngài làm kinh động muôn vật năm vị kia liền đứng dậy lễ bái chào hỏi hầu hạ như nghi thức. Như lai dần dần dẫn dụ mở bày diệu lý, tương truyền như kinh điển.

Năm người:

  1. Kiều-trần-như.
  2. Mười lực Ca-diếp.
  3. Át-ty còn gọi là Mã Thắng Tỳ-kheo.
  4. Bạt-đề.
  5. Ma-ha Nam-câu-lợi (nên xem trong luận Bà-sa).

Vì sao chỉ có năm người? Có nói nói thời Phật Ca-diếp bạn đồng học chín người, bốn người lợi căn đã đắc đạo trước, năm người độn căn đến nay mới ngộ, nguyện gặp Phật Thích-ca ra đời tu hành đắc đạo.

Lại có kinh nói Phật Thích-ca trong thời quá khứ từng làm thân con cá lớn, nguyện cho người ăn thịt ta trước sẽ độ trước. Năm người ăn trước nên phải độ trước.

Lại kinh nói: Sáu người từng cúng dường Phật. Năm người lấy hoa lúa cúng dường. Một người đợi chín. Năm người ngộ trước còn một người ở sau. Tức là Tu-bạt-đà-la. Cũng tức là năm dạ xoa ăn thịt Từ Lực Vương vậy. Trong năm vị thì Trần Như đắc sơ quả, bốn vị kia tại nơi bốn gốc lành đến đầu mùa hạ mới đắc đạo. Trong Tây Vức ký ghi: Hạ an cư xong mới đắc đạo. Pháp tướng vắng lặng tức là chân như. Không thể dùng lời tuyên vì tánh ly ngôn. Pháp vốn không có danh tướng lấy danh tướng nói gọi là phương tiện lực. Phật đến Ba-la-nại vì năm người mà nói pháp.

-Kinh: “Là tên xoay bánh xe pháp cho đến.. Pháp tăng tên sai khác”

-Tán: Tam bảo liền hưng khởi.

Nghĩa pháp luân này lược dùng năm môn để phân biệt:

  1. Nêu thể.
  2. Giải thích danh.
  3. Chuyển tướng.
  4. Sai khác.
  5. Ba thừa.

– Nêu thể là: Câu-xá luận quyển hai mươi bốn nói: Nói họ Samôn, cũng gọi là Bà-la-môn, cũng gọi là Phạm luân, vì là chân phạm chuyển. Ở trong đó chỉ kiến đạo nên gọi là pháp luân. Do vận hành nhanh giống như luân, hoặc có đầy đủ trục vành. Tức ở trong đây là y vào kiến đạo. Đức Thế Tôn có chỗ nói gọi là pháp luân. Như xe ở thế gian có tướng đi mau, bậc kiến đạo cũng giống như thế nên gọi là pháp luân. Nghĩa là đạo kiến đế đi nhanh. Có thủ xả, hàng phục những chưa phục, trấn những đã phục, chuyển cả trên dưới. Đầy đủ năm tướng này, tợ như bánh xe thế gian chuyển.

Thế nên trong Hiển Tông nói: Như Thánh vương luân trước thủ sau xả. Bậc kiến đạo cũng vậy. Xả thì gồm cảnh khổ… thủ thì gồm tập v.v… Đây là ý hiển bày: Thấy lý bốn đế, tất không cùng thời. Như Thánh luân vương hàng phục những chưa phục. Tôn giả Diệu Âm nói: Như xe thế gian có bánh xe vành xe v.v… Bát Thánh đạo tợ như căm nên gọi là luân. Nghĩa là chánh kiến, chánh tư duy, chánh cần, chánh niệm tợ như căm bánh xe. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng tợ như trục xe. Chánh định như là vành xe, nên gọi là pháp luân. Đâu hẳn biết pháp luân chỉ bậc kiến đạo? Kiều-trần-như v.v… khi kiến đạo sanh gọi là xoay bánh xe pháp. Luận chủ Thiên Thân, y vào Kinh bộ tông để phá Tát-bà-đa: “Hành tướng của tam chuyển chẳng phải chỉ có bậc kiến đạo”. Như vậy tại sao có thể nói chỉ có kiến đạo mới đặt tên là pháp luân? Vì thế, chỉ nên là ba lần chuyển mười hai hành tướng. Có pháp môn gọi là pháp luân, có thể ứng với Chánh lý. Sao gọi là chuyển? Do pháp môn này từ người khác tiếp nối khiến giải nghĩa ra. Hoặc các Thánh đạo đều gọi là pháp luân. Ở trong sanh thân của người được giáo hóa mà chuyển. Tiếp nối từ người khác mà khi kiến đạo sanh đã bắt đầu. Chuyển thì gọi là đã chuyển. Đây có giải thích: Đầu tiên nói kiến đạo gọi là pháp luân, chẳng phải là nghĩa chánh nghĩa Tát-bà-đa. Trong Tạp Tâm cũng trình bày không là nghĩa chánh, nói: Thích-ca Mâu-ni nói kiến đạo nhanh chóng thì gọi là pháp luân.

Luận Câu-xá nói: Hoặc các Thánh đạo đều là pháp luân.

Đây là bổn ý của Tát-bà-đa, cho nên trong Hiển Tông nói bổn ý của Tỳ-bà-sa, chung gọi tất cả Thánh đạo đều gọi là pháp luân. Vì nói tam chuyển nhiếp tam đạo. Ở sự tương tục khác khi kiến đạo sanh đã đi đến sơ chuyển, nên gọi là đã chuyển. Chẳng phải chỉ có kiến đạo lấy bát Thánh đạo mà riêng gọi là pháp luân. Ngài Diệu-âm nói chẳng phải là nghĩa chánh. Trong Thành Thật luận chép: Sơ chuyển sanh ra văn tuệ. Đệ nhị chuyển sanh ra tư tuệ. Đệ tam chuyển sanh ra tu tuệ. Cũng không có mười hai hành tướng, chỉ có một Không hành. Nay theo Đại thừa chung xét trong các văn kinh có năm:

1- Tự tánh của luân là trạch pháp giác chi: Chánh kiến, chánh trí v.v… Du-già quyển chín mươi lăm nói: Cho các pháp chánh kiến cho đến mà thành tựu tánh, cho nên gọi là pháp luân. Tam chuyển tư tha thông cả Kiến, Tu, Vô học đạo. Mắt tuệ của các Thánh có thể diệt trừ phiền não nên gọi là luân. Câu-xá cũng nói: Tất cả Thánh đạo gọi là pháp luân. Hoặc thể chỉ lấy Bát thánh đạo đầy đủ cả trục, bánh, vành xe, chánh kiến, chánh tư duy thì gọi là trục xe, là căn bản vậy.

Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng là vành xe, do trục mà có. Chánh niệm, chánh cần, chánh định gọi là bánh. Nhiếp cả các ghi chép luận khác, không đồng như Tiểu thừa. Bát Thánh đạo này là biệt tướng tu hành. Tuy ở tại tu đạo, mà Thể thật là thông với kiến đạo Vô học khác. Nếu không vậy, Thế Tôn nên không có “Bát thánh đạo”.

2- Nhân của Pháp luân: Là năng sanh các giáo Văn, Tư, Tu của Thánh đạo về sau v.v… Kinh Vô Lượng Nghĩa quyển mười bảy cũng gọi là pháp luân. Trong các kinh luận chép giáo pháp của Phật gọi là pháp luân.

Luận Câu-xá cũng nói: Đây tức là tam chuyển mười hai hành tướng sở hữu pháp môn gọi là pháp luân.

Du-già cũng nói: Ba lần mười hai hành tướng, gọi là đắc phương tiện sở đắc, trước nhân cho sau, hợp làm quả nhân, cho nên gọi là phương tiện.

Lại nói: Ba lần chính là chuyển kiến, tu, Vô học tùy theo thứ lớp. Trí, kiến, hiện quán gọi là phương tiện.

3- Quyến thuộc Luân: Nghĩa là chư Thánh đạo trợ bạn với năm ấm.

Luận Du-già chép: Ái, giới của Thánh và tín v.v… là pháp trợ quán thêm rõ. Trợ đạo trừ hoặc chẳng phải là chánh đoạn.

4- Cảnh Pháp luân: Nghĩa là bốn thánh đế, tam tánh, mười hai nhân duyên.

5- Du-già lại nói là đắc sở đắc.

Cảnh sở duyên nghĩa là bốn thánh đế. Kinh này cũng nói Đức Đại Thông Trí Thắng chuyển mười hai nhân duyên.

-Kinh Giải Sâu Mật nói: Y vào liễu tướng nói tam vô tánh đều y vào Biến kế sở chấp gọi là pháp luân.

6. Quả pháp luân: Du-già lại nói là đắc sở đắc đó nghĩa là đại Bồ-đề.

Văn sau lại nói chỗ nhiếp thọ của bốn quả Sa-môn. Thanh văn Bồ-đề, Độc giác Bồ-đề, như Vô thượng Bồ-đề của chư Như lai là quả pháp luân.

Du-già lại nói: Ba lần mười hai hành tướng là phương tiện đắc sở đắc.

Lại nói: Tam chu chánh chuyển là kiến, tu, Vô học tùy theo thứ lớp đó mà nói. Trí, kiến hiện quán gọi là đắc phương tiện. Cho nên Bồđề Niết-bàn gọi là quả sở đắc. Nhưng năm thể này chẳng qua bốn thứ:

Giáo, lý, hạnh và quả.

– Giải thích danh:

1- Gọi là phạm luân: Như lai Ứng Cúng là tiếng Phạn tăng. Từ Phạm chuyển nên cũng gọi là Phạm luân.

2- Gọi là pháp luân: Pháp nghĩa là quỹ trì, tánh từ các pháp chánh kiến cho đến mà thành. Luân có bốn nghĩa: Một là nghĩa tròn đầy, đầy đủ cả trục, vành, bánh, hoặc thể dụng của trạch pháp giác v.v… đầy đủ gọi là luân. Hai là nghĩa nghiền nát. Bốn chủng pháp này hoặc phục, hoặc đoạn, hoặc trợ, hoặc phiền não chánh chưa đoạn, đều có thể nghiền nát. Ba là trấn át: Đã hàng phục phiền não lại có thế lực đẩy xa chúng. bốn là bất định: Từ tự kiến đến tự tu. Từ tự tu đến tự Vô học. Từ Vô học trí phát ra ngôn giáo. Người khác từ ngôn giáo hiểu nơi đế lý. Người khác từ đế lý khởi lên chánh hạnh. Người khác từ chánh hạnh mà khởi lên quả trí. Lần lượt như thế lại vì người khác nói như Vua chuyển luân sở hữu, luân báu, có thể hàng phục ác phiền não chưa phục. Có thể trấn các phiền não đã hàng phục.

Luận Du-già chép: Nên biết Đức Thế Tôn chuyển pháp mình hiểu thắng đến A-nhã Kiều-trần-như. Đây lại tùy chuyển đến các thân khác. Chia lại lần lượt tùy chuyển thẳng đến thân khác, vì nghĩa lần lượt này nên gọi là chuyển, pháp tức là luân, tức trì nghiệp giải thích, chuyển là động là hiển, là vận, là khởi: Động giảng nói ngôn giáo, hiển dương giáo lý. Vận Thánh đạo ở âm thanh trước, khởi chân trí ở ngôn sau, xoay tròn nghiền nát chướng não thì gọi là xoay bánh xe pháp. Sở chuyển tức là pháp luân là chuyển của pháp luân, hai cách giải thích này đều được.

– Chuyển tướng là: Chín mươi lăm nói do năm thứ tướng xoay bánh xe pháp: “Nên biết” gọi là thiện xoay bánh xe pháp:

  1. Thế Tôn khi làm Bồ-tát, đây được làm cảnh giới sở duyên để chứng đắc.
  2. Làm phương tiện chứng đắc.
  3. Chứng đắc từ những pháp nên đắc.
  4. Đã chứng đắc dưới cội Bồ-đề rồi, người khác lại tiếp nối khiến cho tự chứng phát sanh càng sâu xa, tin hiểu.
  5. Đối với người khác chứng, càng sanh tâm tin hiểu sâu.

Ý này chung gọi là tướng giáo hóa của hóa thân lúc tự chứng quả, khiến cho các chúng Thanh văn cũng có sở chứng, không y vào báo thân Bồ-tát mà thành nghĩa. Hoặc cũng y vào nghĩa chuyển của Bồ-tát thật. Tóm lại y vào rốt ráo trước sau mà tạo luận, không y vào một hội đủ thành được tam chuyển. Cảnh sở duyên đó là bốn thánh đế. Nương vào an lập đế, không phải an lập đế, là nương vào tam tánh mà điều thuộc về Bốn đế vậy. Đắc phương tiện là với bốn thánh đế này, ba lần chánh chuyển mười hai tướng trí. Trí này từ ba lần chuyển tướng pháp luân, làm nhân đắc vô thượng Bồ-đề. Lần đầu tiên chuyển nghĩa là Bồtát xưa kia lúc nhập hiện quán, như thật biết rõ đó, là khổ Thánh đế cho đến rộng nói là đạo Thánh đế, đối với các đế này, có hiện lượng Thánh trí có thể đoạn kiến đạo phiền não sở đoạn. Lúc này gọi là chân Thánh mắt tuệ. Tức đây do nương đời quá khứ, vị lai, hiện tại mà có sai khác. Như thế lần lượt gọi là Trí, minh, giác. Đây nói một trí là chung gọi mắt pháp, có ba hành tướng là trí, minh, giác. Chẳng phải ở trong một đế mà biệt khởi ra bốn trí. Do chân kiến đạo chỉ trong một sát-na. Không đồng biệt quán thượng hạ của Tiểu thừa. Dựa vào sự tuyên giải chứng diệt mà nói thông ba đời, chẳng phải nói diệt đế thông các cõi hữu của ba đời.

Lần thứ hai chuyển là bậc Hữu học dùng diệu tuệ ấy mà như thật thông đạt. Về sau còn có việc phải làm. Tức là: Nên biết những pháp khổ đế chưa biết, nên dứt trừ vĩnh viễn các tập đế chưa đoạn, nên chứng diệt đế chưa chứng nên tu tập đạo đế chưa tu. Như thế cũng có bốn thứ hành tướng, như trước đã nói.

Lần thứ ba chuyển: Bậc Vô học đã đắc tận trí vô sanh trí. Nói: “Chỗ nên làm ta đã làm”. Nghĩa là: Ta đã biết khổ đế chưa biết cho

đến rộng nói. Ta đã tu tập đạo đế chưa tu… cũng có bốn hành như trước đã nói.

-Sự sai khác này là: Bốn thứ hành tướng của hai lần chuyển đầu là chân Thánh mắt tuệ của bậc Hữu học. Lần chuyển cuối cùng là chân Thánh mắt tuệ của Vô học. Xem văn này ý nói lần thứ nhất là kiến đạo trở về trước tức ngôi vị gia hạnh trí. Tuy biết bốn đế mà chỉ là chuyển nhân cũng không phải chẳng phải chánh chuyển vì chưa diệt hết phiền não. Do đây vị trí chỉ thuộc về năng chuyển tăng lực làm tổn hại phiền não. Nhập vào trong kiến đạo, thật sự đạo Vô gián mới chánh là chuyển, là chánh đoạn hoặc. Đạo giải thoát đó và tướng kiến đạo cũng gọi là sơ chuyển. Tuy không đoạn hoặc, đoạn thô trọng, trấn giữ những phiền não đã hàng phục, mà cũng chẳng phải là biệt tri tướng Bốn đế. Ở tu đạo sau này, đối trước các hoặc chưa đoạn, bèn khởi hành tương ưng biến tri, đó chính là tướng chuyển, chánh khởi chân trí, cho đến Kim cương tâm, đoạn các phiền não, cũng thuộc chuyển này mà khởi lên biệt hành tướng. Chỉ là muốn hướng đến đạo của Thánh đoạn hoặc nên chiết phục chánh đoạn đều gọi là chuyển. Đến như đạo giải thoát, Vô học về sau khởi trí biết. Ta đã làm những việc nên làm sau không còn đoạn nữa, chỉ trấn giữ phiền não đã phục, không hàng phục những phiền não chưa phục. Nhưng trước khi kiến đạo tuy có đạo hàng phục mà không gọi là chuyển vì chẳng phải vô lậu. Trước không có vô lậu cho nên không đồng tu, Bồ-tát như thế tự làm ba chuyển. Sơ chuyển tại kiến đạo gọi là ấn tướng chuyển. Kế đến chuyển tại tu đạo gọi là ứng tu chuyển. Sau đó chuyển tại đạo Vô học gọi là đã tác chuyển. Khi mỗi mỗi chuyển nơi mỗi mỗi đế sanh bốn hành tướng, ba lần chuyển luận theo chiều dọc thành ra mười hai tướng. Bốn đế như thế hợp thành bốn mươi tám, mà chẳng qua mười hai tướng này. Vì luận theo số nên gọi chung là ba lần chuyển mười hai hành tướng.

Luận Câu-xá cũng nói: Nhãn, trí, minh, giác biệt quán đế. Luận dùng pháp nhẫn, pháp trí, loại nhẫn, loại trí… lần lượt bốn pháp như thế. Nếu theo giải thích này mà đối với tám đế quán ở mỗi mỗi đế bèn không có bốn hành tướng. Hoặc là nhẫn, trí mỗi mỗi đều đầy đủ bốn hành tướng. Chiếu cảnh rõ ràng gọi là nhẫn. Đối trị vô tri gọi là trí. Đối trị vô minh gọi là minh. Đối trị tà giác gọi là giác, không đồng nơi đây.

-Đắc từ những pháp nên đắc: Nghĩa là đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, là cùng đắc quả Bồ-đề Niết-bàn. Trước làm nhân cho sau, đạo vô gián trước làm nhân của đạo giải thoát. Đây nói Bồ tát tự ba lần chuyển quả pháp luân. Hoặc nói pháp thân Niết-bàn chân lý gọi là Bồđề vô thượng. Bồ tát khởi lên trí của Bồ-đề quả vị Vô học, báo thân đã làm mà chứng pháp thân.

Luận Câu-xá nói: “Đều không có Phật xoay bánh xe pháp và người khác tiếp nối, chỉ là khiến cho tự chứng sanh tín giải.” Nghĩa là: Như Trưởng lão A-nhã Kiều-trần-như, nghe chánh pháp từ Đức Như lai rồi, đầu tiên ngộ bốn pháp Thánh đế rồi đáp lời Phật hỏi: Con đã hiểu pháp; từ đây về sau các hành tướng rốt ráo như trước đã nói. Cả năm vị đều đắc quả A-la-hán sanh xứ giải thoát. Đây là nói tự thân Đức Thế Tôn đắc đạo. Lại vì người khác ba lần xoay bánh xe pháp cũng đồng như Câu-xá luận chép ba lần tuần tự chuyển bốn thánh đế. Nghĩa là: “Đây là khổ cho đến đây là đạo”. Đó gọi là sơ chuyển. Nghĩa là: Đây là khổ nên biến tri cho đến đây nên tu tập, là lần hai chuyển. Đây là khổ đã biến tri cho đến đây đã tu tập là lần thứ ba chuyển. Như thế nêu rõ cả ba là kiến đạo, tu đạo, Vô học đạo.

Đây là Phật vì chúng sanh khác mà ba lần xoay bánh xe pháp. Đầu tiên gọi là thị tướng, là mở bày tướng bốn đế. Kế đến là khuyến tu, khuyên tu đế hạnh. Sau là tác chứng, là tác chứng minh tri tròn đầy bốn đế.

Do Tôn giả Kiều-trần-như đầu tiên giác ngộ nhập vào kiến đạo rồi, Phật hỏi ông: Ông đã hiểu chưa?

Ông đáp đã hiểu. Sau lần xoay bánh xe pháp thứ hai thứ ba bèn đắc quả A-la-hán, phát sanh trí xứ giải thoát chứng đắc quả vô vi. Đó gọi là chuyển ở tại thân khác, mà đối với sở chứng của Phật càng sanh sâu tín giải.

Khiến cho người khác ở sở chứng của họ khởi sanh lòng tín giải. Như Trưởng lão A-nhã Kiều-trần-như khởi ra tâm thế gian nên nói: Con đã hiểu pháp. Như lai biết ông đã khởi tâm thế gian nên bảo: A-nhã Kiều-trần-như đã chứng pháp của ta.

Địa thần biết nên đã cất tiếng truyền đi. Trong giây lát những lời kia lần lượt chuyển đến Phạm thế.

Tâm thế gian là tâm duyên sự. Chẳng cần phải tán tâm. Trong phần thứ tư, Phật chuyển Thánh đạo ở trong thân năm người kia, đối với sự chứng đắc của Phật càng sanh lòng tín giải. Thứ năm là khiến các địa thần biết A-nhã Kiều-trần-như đã chứng mà càng sanh sâu lòng tin hiểu.

Sai khác là: Tuy chuyển bốn đế, mà pháp tướng không khác. Người Ba thừa, mỗi mỗi đều chứng quả, người tánh Thanh văn đã ở trong ba đời hoặc sáu mươi kiếp. Trước đã tu tập rồi, nghe Phật nói pháp, y vào uẩn, giới, xứ chứng lý bốn đế, gọi đó là pháp luân Thanh văn. Người tánh Độc giác đã, ở trong bốn đời hoặc trăm kiếp, trước đã tu tập nay nghe Phật nói pháp, y vào mười hai duyên khởi, tu chứng bốn đế gọi là pháp luân Độc giác.

Người tánh Bồ-tát đã ở trong một đại A-tăng-kỳ kiếp, trước tu tập rồi nghe Phật nói pháp. Y vào tam tánh, bình đẳng chứng lý Bốn đế gọi Bồ-tát pháp luân. Nếu không như vậy thì Ba thừa đều quán bốn đế, đồng thời chứng Thánh. Đâu có khác nhau? Đại Bát-nhã nói: Thế Tôn đầu tiên ở nơi nước Ba-la-nại khi xoay bánh xe pháp Bốn đế, có vô lượng chúng sanh phát tâm Thanh văn, tu chứng quả Thanh văn. Có vô lượng chúng sanh phát tâm Độc giác, có vô lượng chúng sanh phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chứng quả sơ địa, nhị địa, tam địa cho đến một đời đắc quả Bồ-đề. Cho nên biết trong vườn Lộc giả Phật chuyển Ba thừa đều chung hành pháp luân. Nếu không như vậy thì tuần lễ thứ hai đã nói Mười Địa. Vì sao không gọi là xoay bánh xe pháp. Kia chẳng phải là đồng sở tu của Ba thừa, nên không cùng gọi là xoay bánh xe pháp. Nhưng thật thì, thân khác ba thời trí đều khởi. Cũng có kinh giải chúng sanh mà chứng quả thì gọi là tam chuyển, như các ông Kiều-trần-như v.v… Một thời Phật ở tại vườn Lộc giả… các vị theo thứ lớp đắc được tam quả này, gọi là Tam chuyển.

Kinh Vô Cấu Xứng nói: Tam xoay bánh xe pháp ở trong đại thiên. Sự luân chuyển đó có thể tịch, bổn tánh tịch. Pháp trí ít có chúng trời, người đã chứng. Tam bảo thời ấy hiện thế gian, tức như kinh này nói bèn có tiếng Niết-bàn, cùng với A-la-hán, tên pháp Tăng sai khác, tức Tam bảo xuất hiện. Phật là Phật bảo, Niết-bàn và ngôn ngữ, quả pháp giáo pháp gọi là pháp bảo. A-nhã… là tên của Tăng bảo. A-la-hán là các ngài Kiều-trần-như.

Lại nói Tăng là bốn vị Hữu học cùng trụ. Trí năng chứng, sở chứng lí tức là hành lý pháp bảo. Bốn pháp đã đầy đủ, cùng Phật và Tăng là năng hóa, sở hóa đã có thể xuất hiện, hợp lại gọi là Tam bảo xuất hiện ở thế gian.

-Ba thừa là: Phật, Bồ-tát, đều vì Thanh văn nói pháp, khiến cho người đắc trí đoạn hoặc, thì có thể gọi là xoay bánh xe pháp. Độc giác thì không như vậy, kinh Niết-bàn chép: Duyên giác nói pháp không thể khiến người đắc Noãn pháp… Do vì Thanh văn… không biết thuốc, bịnh, không cùng Thanh văn xoay bánh xe pháp theo lý cũng không sai.

-Kinh: “Xá-lợi-phất nên biết cho đến Phương tiện chỗ nói pháp…”

-Tán: Có bảy hàng tụng. Nay nói về chân thật, tụng như thế đều vì đắc Nhất thiết chủng trí. Trong đây chia làm bốn:

-Hai hàng tụng đầu nói gốc lành thuần thục điđến gặp Phật.

-Một hàng tụng nghĩ đến chúng sanh nên độ.

-Ba hàng tụng chánh nói về pháp chân thật.

Một bài kết thành tựu pháp nghi.

“Ta thấy trước tiên là dùng quyền pháp để độ”. Đây ý nói từng ở chỗ Phật đã nghe quyền giáo. Vì gốc lành đã đến nên nay lại gặp Phật, cho nên, văn trên nói chúng sanh ở trong hội gặp được Phật. Cũng từng gặp được Phật Thích-ca. Nay gọi chung là Chư Phật.

-Kinh: “Ta liền nghĩ như thế cho đến Nay chánh là phải thời…”

-Tán: Nghĩ chúng sanh nên độ, là vì nói Phật tuệ khiến chúng sanh tu tập. Nay căn đã thuần thục đâu được không giáo hóa.

-Kinh: “Xá-lợi-phất nên biết… Không thể tin là pháp.”

-Tán: Đây là ba hàng tụng chánh nói về pháp chân thật. Đây chia làm hai:

Một hàng đầu tụng độn căn không kham thọ.

Hai hàng tụng sau nói lợi căn có thể thọ.

Có năm lỗi không thể thọ Đại thừa:

  1. Độn căn nghe pháp không hiểu. Hoặc như A-điên-để-ca.
  2. Người tiểu trí tuy thông minh, mà tình kiến không rộng, hoặc người hướng cầu tịch.
  3. Chấp tướng nghĩa là khởi chấp hai tướng không, Hữu học lầm hành loạn, hoặc hạt giống bất định. Chấp có chẳng phải là không, vì gốc lành chưa thuần thục.
  4. Kiêu căn… cậy mình nhiều việc. Các vị phú quý đắm trong buông lung. Hoặc căn chưa thuần thục phàm phu bẩm tánh buông lung…
  5. Kẻ kiêu mạn cậy mình hiếp người như năm ngàn vị hoặc người đầy đủ bảy loại mạn phiền não…, không thể tin Đại thừa, nên không trao cho.

-Kinh: “Nay ta vui không sợ cho đến Tất cũng sẽ làm Phật.”

-Tán: Đây nói việc có thể trao pháp Đại thừa. Hàng đầu tụng bỏ quyền lấy thật. Hàng tụng sau trừ nghị.

Thọ ký đắc vui mừng đó là hỷ vô lượng, không ganh ghét chúng sanh làm việc Phật sự. Vô úy là nghĩa chắc chắn làm tiếng rống sư tử là lý chắc chắn. Ở trong Bồ-tát là trước đối với người hơn. Người Nhị thừa phát tâm đều là Bồ-tát. Y vào lý chân thật mà nói đạo Nhất thừa thì gọi là ngay thẳng. Không tùy căn cơ quyền giáo nói có ba thừa gọi là xả phương tiện. Chỉ nói đạo vô thượng Nhất thừa. Tức nay nói chẳng thể một đạo mà không có pháp khác. Hàng Địa tiền đốn ngộ Bồ-tát nghi riêng mình đắc Bồ-đề, Thanh văn không có phần; Bồ-tát chủng tánh bất định nghi ở Quả Phật mình cũng không có phần, muốn thoái hướng quả Tiểu thừa. Nay nghe pháp này các nghi đều trừ. Hiện tiền các vị danh cao có một ngàn hai trăm Tỳ-kheo Thanh văn, nghi không thể làm Phật. Nay Phật vì họ nói thảy đều sẽ làm Phật. Kinh Niết-bàn do đây nói: “Tu-đà-hoàn tám muôn kiếp cho đến Bích-chi mười ngàn kiếp mới đến sơ phát tâm Mười tín. Quả vị này tu hành rất là độn chậm, không bằng những vị mới tu Bồ-tát hạnh. Đây căn cứ vào bất định, chẳng phải như Nhị thừa nhất định sẽ làm Phật. Kinh Niết-bàn quyển ba mươi bốn nói: “Ta ở trong một thời có thể nói một nói, một thừa, một đạo, một hành, một duyên, có thể vì chúng sanh mà tác đại vắng lặng, vĩnh viễn dứt trừ tất cả kiết phược, khổ khổ và khổ nhân, khiến cho tất cả chúng sanh đạt đến nhất hữu. Hàng đệ tử không hiểu ý ta, ở trong đại chúng xướng nói: Như lai nói Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán đều thành Phật đạo.”

-Kinh: “Như Chư Phật ba đời cho đến. Nói pháp không phân biệt”.

-Tán: Kết phần thành tựu pháp nghi. Thể diệu lý của Đại thừa là không phân biệt. Ba thừa cũng thành Phật không khác, cho nên nói như vậy.

-Kinh: “Chư Phật ra đời cho đến. Người này cũng là ít có.”

-Tán: Đoạn thứ sáu có bảy hàng tụng. Nghĩa thứ nhất ở văn xuôi người chưa nghe khiến cho nghe. Chia làm bốn:

-Hai hàng tụng pháp nói bốn việc ít có.

-Hai hàng rưỡi tụng thí dụ rõ hai việc ít có.

-Một hàng rưỡi khuyên tin.

Một hàng tán kết.

Đây nói phần I: Bốn việc khó là:

  1. Phật xuất hiện thật là ít có (hiếm có).
  2. Nói pháp này là ít có.
  3. Nghe pháp này là ít có.
  4. Người năng nghe pháp này là ít có.

Phật xuất hiện ít có như một ngàn vị Phật thời kiếp hiền. Nay kiếp trụ thứ chín đã nói bốn vị Phật ra đời. Đến kiếp thứ mười Phật Dilặc sẽ ra đời.

Đến kiếp mười lăm có chín trăm chín mươi bốn Phật ra đời. Từ đây đến thời kiếp hoại Phật Cốt-lô-chi độc vương một kiếp. Trải qua mười hai kiếp sau mới có kiếp Tinh Tú. Trong một ngàn vị Phật thì vị Phật đầu tiên là: Phật Tịnh Quang Xưng Vương. Ba trăm kiếp sau không có Phật. Cho nên nói Phật ít có, như thời Phật Ca-diếp trụ mạng bảy ngày không nói pháp này. Và nay Thích-ca thành Phật đã hơn bốn mươi năm mới nói kinh này, nên nói là ít có. Thường ở chỗ tám nạn, không thể cùng Phật tương phùng, nên nói khó nghe pháp ít có. Tuy gặp Phật ra đời mà chỉ nghe Tiểu thừa không nghe Đại thừa nên nói nghe được là ít có.

-Kinh: “Thí như hoa Ưu-đàm cho đến. Hơn cả hoa Ưu-đàm.

Tán: Thí dụ rõ hai pháp ít có.

Một hàng tụng pháp xuất ít có.

Một hàng rưỡi tụng nghe khen ngợih là ít có.

Nghe pháp và khen ngợi hơn hoa Ưu-đàm. Hành chân pháp hạnh là cúng dường Chư Phật ba đời. Tự nghe và bảo người khác nghe hợp lại gọi là nghe pháp.

Vui mừng nghe gọi là vui mừng. Khen ngợi gọi là tán (chúc mừng khen ngợi). Hành trì bốn thứ này đều gọi là chơn hành. – Kinh: “Các ông chớ có nghi… không đệ tử Thanh văn.” – Tán: Khuyên tin chớ nghi ngờ.

-Kinh: “Các ông Xá-lợi-phất… Bí yếu của Chư Phật.”- Tán: Kết luận khen ngợi sự sâu mầu.

-Kinh: “Vì ác thế năm vẩn đục cho đến Trọn không cầu Phật đạo…”

-Tán: Đoạn lớn thứ hai này có ba hàng tụng, tụng phá bốn nghi chia ra làm ba.

-Một hàng đầu: Phật thời nào xuất hiện hóa độ chúng Ba thừa? Phật xuất hiện ở cõi đời năm vẩn đục. Một hàng tụng: Vì sao biết tăng thượng mạn? “Như đệ tử ta tự nói A-la-hán không tin pháp này, không có việc như thế”. Một hàng tụng vì sao có khả năng nói? Trừ sau khi Phật diệt độ hiện tiền không có Phật.

-Kinh: “Người ác đời vị lai… Phá pháp đọa đường ác”.

-Tán: Một hàng tụng giải thích vì sao biết tăng thượng mạn. Người Ác đời sau không tin pháp này phần nhiều là tăng thượng mạn. Không chỉ tăng thượng mạn mà các ác nhân khác cũng không thể tín. Phật đối với người ngã mạn ở trên đã nói về tướng, sau khi Phật diệt độ rồi khó mà biết được, cho nên nêu riêng ở đây.

-Kinh: “Người tàm quý thanh tịnh cho đến Rộng khen đạo Nhất thừa.”

-Tán: Tụng giải thích vì sao có khả năng nói là. Có đủ bốn đức:

  1. Tôn trọng bậc hiền thiện xét lại tự thân, hổ thẹn tội lỗi.
  2. Khinh thường việc bạo ác. Lại nhìn lại thế gian xấu hổ tội lỗi.
  3. Thanh tịnh trong ngoài không thiếu. Xa lìa danh lợi trần thế.
  4. Chí cầu Phật đạo, không mong cầu pháp Nhị thừa Thanh văn. Có thể tin kinh này không còn ngu pháp, bèn có thể nói pháp cho người nghe. Nếu người ngu gặp Phật khác ra đời, nhất định sẽ đắc pháp Nhất thừa.

-Kinh: “Xá-lợi-phất nên biết… Tự biết sẽ thành Phật”.

-Tán: Ba hàng tụng này là đoạn tụng hạng người thứ tư, khuyến phát tâm Bồ-đề ưa thích thành Phật.

Một hàng rưỡi tụng về Phật pháp đều không học, không hiểu một hàng rưỡi sau là tụng về khuyên biết sanh vui mừng cầu thành Phật. Như văn có thể hiểu.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10