HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

SỐ 1723

QUYỂN 07

Sa-môn Khuy Cơ soạn tại chùa Đại Từ Ân

PHẦN ĐẦU

-Kinh: “Bấy giờ ngài Ma-ha Ca-diếp cho đến không mong cầu mà tự được”.

-Tán: Phần Văn xuôi: Bốn người cùng lãnh hội. Tụng: Chỉ có ngài Ca-diếp lãnh hội là chỉ bậc cao tuổi nhất. Trình bày các ý rõ ràng và ảnh hưởng, người khác cũng tụng nói.

Dưới có tám mươi sáu hàng tụng rưỡi. Chia làm hai:

Bảy mươi ba hàng rưỡi tụng ba văn ở trên, kế mười ba hàng tụng từ câu “Đại ân của Thế tôn”. Tức thuộc đoạn thứ ba của phẩm, nói mang ân sâu của Phật.

Phần đầu chia ba: Hai hàng tụng về pháp nói. Bốn mươi mốt hàng kế tụng về dụ nói. Ba mươi hàng rưỡi tụng về hợp nói. Đây là phần đầu không tụng lại sự không mong cầu trước kia, chỉ tụng việc đạt được hôm nay. Tụng có hai ý:

Một hàng tụng rưỡi tụng về hai việc nghe pháp và nghe thọ ký.

Nửa hàng tụng sau nói đạt được.

-Kinh: “Ví như gã đồng tử thơ dại không hiểu biết cho đến”

-Tán: Đây trở xuống, là đoạn thứ hai bốn mươi mốt hàng tụng, về Dụ nói, trong đó lại có hai:

  1. Ba mươi bốn hàng tụng, xưa không mong cầu.
  2. Bảy hàng tụng nói nay được.

Ba mươi bốn hàng lại chia làm sáu:

  1. Nửa hàng tụng dụ lúc mới phát tâm.
  2. Một hàng tụng dụ: cho lui sụt vào sanh tử.
  3. Bảy hàng tụng dụ nói giữa đường trở về thấy Phật.
  4. Mười bốn hàng tụng nói không chịu tu Đại thừa.
  5. Chín hàng rưỡi tụng nói dùng pháp Nhị thừa hóa độ.
  6. Hai hàng tụng sau dụ: Chỉ cho Đại thừa mà không mong cầu. – Kinh: “Bỏ cha trốn đi hơn năm mươi năm.” – Tán: Một hàng tụng nói lui sụt vào sanh tử.

Khắp nơi trôi nổi nghĩa là trải qua, các nước là năm đường, gọi chung là nước khác.

-Kinh: “Cha gã lòng buồn nhớ cho đến liền ở lại một thành”.

-Tán: Đây trở xuống bảy hàng tụng, dụ giữa đường trở về gặp Phật. Văn xuôi có ba phần: Con lớn lên trở về nước. Cha trước đã cho tìm kiếm, khi con về thành thì gặp. Ở đây chỉ tụng về: Cha trước tìm con không tụng hai phần văn kia. Hai phần này sẽ nhập vào đoạn tụng thứ tư ở sau. Văn ẩn cho nên ở đây chia làm bốn phần:

-Một hàng tụng về tìm con nên dừng lại một thành.

Hai hàng rưỡi nói của cải của cha rất nhiều.

-Một hàng tụng nói khách làm lợi rất nhiều.

-Hai hàng rưỡi tụng người tới lui rất đông.

Bốn phương tìm cầu là tùy nhập vào bốn loài sanh mà tìm. Mỏi mệt như nghĩa vất vả, chỉ rõ tướng tìm kiếm con. Liền dừng là dừng ở thành lớn.

-Kinh: “Tạo lập nhà cửa cho đến nhân dân rất nhiều.”- Tán: Nói của cải rất nhiều.

Tạo lập nhà là khởi tâm từ bi, là nói lên thắng nghĩa không. Ngũ dục: Là năm thứ vui, hoặc năm pháp tịnh pháp giới cho đến Ngu nghĩa là tự vui. Liễn (xe kéo) là chân đế, là xe của đấng Pháp vương, là tục đế, xe thường của mọi người. Vì sự hơn kém khác nhau nên có năm thừa. Ruộng nghiệp là trí đoạn, ngoài ra theo văn có thể biết.

-Kinh: “Lợi tức xuất nhập cho đến chẳng chỗ nào không có.”

-Tán: Nói lợi tức dồi dào, buôn bán, thông thương các loại châu báu khác lạ ở bốn phương là thương, ngồi bán gọi là giá. Đi buôn, ngồi bán. Qua lại sáu đường để làm lợi lạc chúng sanh thì gọi là buôn. Trụ ở Tịnh độ trời người để giáo hóa chúng sanh thì gọi là bán. Đi khắp ba cõi thâu lợi tức thì gọi lợi tức dồi dào. Cho nên khắp ba cõi đều có Phật pháp.

-Kinh: “Ngàn muôn ức chúng cho đến có thế lực lớn.”

-Tán: Nói người đến lui rất đông. Vua thì mấn yêu nhớ tưởng, cung kính. Bậc hào tộc tôn trọng, thứ dân tôn kính. Do nhân duyên này mà bốn chúng tám bộ qua lại rất nhiều.

-Kinh: “Mà tuổi đã già nua… nên làm thế nào?”

-Tán: Mười bốn hàng tụng, không tu Đại thừa, đây lại bốn phần:

  1. Hai hàng tụng nói cha vẫn thường nhớ con.
  2. Chín hàng tụng: Con thấy cha kinh sợ bỏ chạy.
  3. Một hàng rưỡi: Cha cho người gấp dẫu về.
  4. Một hàng rưỡi: Con lo lắng sợ hãi.

Tuổi già suy yếu, nghĩ đến đạo từ lâu càng thương sâu đậm, mà chỉ nghĩ đến chúng sanh trong sáu đường.

-Kinh: “Bấy giờ cùng tử cho đến hoặc không có sở đắc.”

-Tán: Chín hàng tụng. Con thấy cha kinh hãi bỏ chạy, trong đây có ba:

  1. Ba hàng tụng tình cờ đến nhà cha.
  2. Hai hàng tụng rưỡi thấy được tướng cha.
  3. Ba hàng tụng rưỡi, thấy rồi thì kinh hãi bỏ chạy.

Trong phần đầu có hai:

  1. Một hàng rưỡi đi khắp nơi tìm.
  2. Một hàng tụng rưỡi khó khăn đến thành.

Đòi cũng có nghĩa là xin, mong cầu. Nghĩa nước, ấp ở văn xuôi đã giải thích. Có sở đắc là trong Phật pháp gặp được bạn lành chân thật.

Vô sở đắc là tri thức không thật.

-Kinh: “Đói khát gầy yếu cho đến bèn đến nhà người cha.”

-Tán: Khó khăn đi đến thành. Pháp thật không đủ gọi là đói. Hạnh mầu không tròn đầy nên gầy xấu. Hoặc khởi ra ác kiến làm tổn hại nặng sanh ghẻ chốc, không giữ giới, tổn hại ít nên sanh ra lác. Vọng sanh kiến giải không chuyên giữ giới. Đến thành cha làm thuê tức gặp được pháp Đại thừa. Lần lữa làm là cố gắng cầu pháp, đến nhà cha là vào Đại thừa Trung đạo.

-Kinh: “Bấy giờ trưởng giả cho đến ghi chép giấy tờ.”- Tán: Thấy được tướng cha là: Gặp được cha.

Trong cửa là lý ở giáo, quả ở trong nhân. Xưa tướng sanh tử gọi là ở ngoài cửa, nay so với Niết-bàn nên ở trong cửa.

“Tính toán vàng bạc:” Các bậc Thánh soạn luận phân biệt nói pháp Thánh tài. Xuất nội tài sản là hành dụng hai lợi.

“Tính toán sổ sách”: Các sư soạn sớ giải soạn thảo văn ký v.v… Chú nghĩa là ghi chú, chú sớ: Là hiểu biết tỏ rõ .

-Kinh: “Cùng tử thấy cha… làm sao đến nơi này.”- Tán: Ba: Bậc Thấy rồi lo sợ bỏ chạy, chia ra làm hai:

-Một hàng tụng rưỡi: Con hối hận đến đây.

-Hai hàng tụng bỏ chạy.

-Kinh: “Lại thầm tự nghĩ rằng cho đến muốn đến làm thuêm mướn.”

-Tán: Nói con bỏ chạy.

-Kinh: “Trưởng giả lúc này cho đến đuổi bắt đem về.”

-Tán: Cha sai người mau đuổi bắt con về, im lặng mà nhận biết. Chưa hề đối với chúng mà nói người Thanh-văn thời quá khứ đã từng gặp Phật, là con của ta. Đó gọi là im lặng mà hiểu biết.

-Kinh: “Cùng tử kinh hãi kêu cho đến khiến tôi đến thế này”.

-Tán: Con lo lắng sợ hãi. Lui sụt trong sanh tử không tu Đại thừa gọi là nên ngất té xuống đất. Hoặc hành đại hạnh trái với bổn ý thì chẳng khác gì chết, nên nói “sẽ bị giết”. Tôi đâu có dùng cơm áo vô lậu Đại thừa, bỗng nhiên sao đến nổi này!

-Kinh: “Trưởng giả biết con cho đến không có uy đức.”

-Tán: Trở xuống chín hàng tụng rưỡi. Là Dụ cho việc dùng pháp Nhị thừa hóa độ.

Phần Văn xuôi có sáu: Đây có bốn, không tụng hai phần đầu.

  1. Ba hàng đầu là khiến cho tu phần giải thoát .
  2. Một hàng tụng nói “con y theo đó hành trì”.
  3. Bốn hàng rưỡi, là khuyên nhập vào gốc lành.
  4. Một hàng tụng nói về: Thành tựu Thánh vị.

Ba hàng đầu lại chia làm hai:

-Hai hàng tụng sai sứ.

-Một hàng truyền lại lời nói.

Ngu si là vô minh. Hèn hẹp là ý kém thiếu. Chột mắt thì nhìn bất chánh. Vì Nhị thừa nói an lập đế, giáo năng thuyên hiển nghĩa. Không đầy đủ gọi là chột mắt. Lý sanh không sở thuyên ngắn nên gọi là tỏa. Không có công đức pháp thân xấu xí nên gọi là lậu, thần dụng không rộng nên không có uy đức.

-Kinh: “Các ngươi nên nói nó cho đến trả giá nó gấp bội”Tán: Truyền nói lại cho cùng tử.

Kinh: “Cùng tử nghe cho đến phòng xá đều thanh tịnh.”

-Tán: Một hàng tụng nói con theo đó mà làm. Đổ phân phiền não để sạch nhà ngũ uẩn.

-Kinh: “Trưởng giả trong cửa sổ cho đến ưa thích làm việc hèn”.

-Tán: Trở xuống bốn hàng tụng rưỡi, khuyên nhập vào gốc lành.

Phần Văn xuôi có ba. Ở đây cũng có ba:

  1. Một hàng tụng nói tâm thương xót.
  2. Một hàng tụng nói gần gũi.
  3. Hai hàng rưỡi nói chuyện với nhau.

-Kinh: “Lúc ấy trưởng giả cho đến đi đến chỗ của con.”- Tán: Ở đây nói gần gũi.

-Kinh: “Dùng phương tiện gần gũi cho đến như là con của ta.”

-Tán: Nói chuyện với. Văn xuôi có hai phần. Đây cũng có hai: Nửa hàng tụng đều nói khuyên cố gắng. Hai hàng tụng chỉ bảo riêng nói với cùng tử.

Hai hàng sau lại có hai:

  1. Một hàng rưỡi: hễ cần liền cho.
  2. Nửa hàng tụng tạm xưng là cha con.

Dầu thoa chân: Người phương Tây dùng các loại dầu thoa rất nhiều. Nay nói là chân. Tức bốn thần túc: Tâm, quán dục, cần.

Du (dầu) là tám đoạn hành. Tức là dục tinh tấn, tín, khinh an, chánh niệm, chánh tri tư, xả. Ba hành đầu là Gia hạnh. Khinh an nhiếp thọ thân tâm. Chánh niệm, chánh trì là thuộc kế tiếp. Không quên sở duyên an tâm vào một cảnh, có buông lung mới sanh ra sự rõ biết như thật. Cho nên tư xả là đối trị, đó là hai thứ lực để giữ tâm. Đã sanh hôn trầm trạo hối để có thể xa lìa nên nói dầu xoa chân, như trị phong thấp chướng nhiễm.

Hoặc chân là giới. Dầu là sáu chi. Học xứ thọ học thiện thì dùng luật nghi biệt giải thoát mà giữ gìn. Các sở hành quy tắc đều tròn đủ. Thấy những tội nhỏ sanh sợ hãi lớn. Giới đức thấm nhuần tức gọi là pháp thật sung mãn. Không tham sân si như thêm giường cỏ dây.

Kinh Vô Cấu Xưng chép: Bốn tĩnh lự làm giường, tịnh mang làm đệm cỏ. Tịnh mạng tức là vô tham, khởi ra hai nghiệp thân ngữ, lấy vô tham làm giường cỏ .

Tạm gọi là cha con, lại dùng lời mềm mỏng, nói như là con ta, như là con thật của bậc Thánh. Đây là quả vị Kiến đạo trở xuống.

-Kinh: “Bậc trưởng giả hiểu biết cho đến làm việc nhà.”

-Tán: Thành tựu Thánh vị. Chỉ có bậc Vô học dần khiến cho nhập xuất cùng hiển tỏ ở sự tu đạo. Trong hai mươi năm thường làm việc hốt phân nên gọi là coi sóc việc nhà. Sau đó tâm tướng thể tín ra vào không trở ngại. Nhưng chỗ ở vẫn ở chỗ cũ, rõ ràng đây chỉ kiến đạo, gọi đó là con nhỏ. Trong văn này lược nói.

-Kinh: “chỉ cho biết vàng bạc cho đến ta không có vật này.”

-Tán: Chỉ bày pháp Đại thừa mà không mong cầu nhị lợi của Đại thừa tuy khiến cho biết gọi là “các vật ra hoặc vào” mà còn ở ngoài cửa là nhân môn bên ngoài của giáo hạnh Đại thừa. Nương nấu ở am tranh đó là còn ở quả Nhị thừa. Lều cỏ này chẳng phải nhà. Tự nghĩ: Vì sự nghiệp nghèo hèn, mình không có một phần sự nghiệp Đại thừa, nên không chút ý mong cầu Đại thừa.

-Kinh: “Cha biết tâm con cho đến hàng cư sĩ Sát-lợi.”

-Tán: Trở xuống bảy hàng tụng là nói pháp nay được, trong đây lại có hai phần:

  1. Năm hàng tụng nói cha giao phó cho con.
  2. Hai hàng nói con đạt được.

Phần a lại có hai:

  1. Một hàng tụng rưỡi nói: Biết đến thời cơ nhóm họp thân tộc.
  2. Ba hàng tụng rưỡi chính là giao phó gia sản. – Kinh: “Ở nơi đại chúng cho đến mặc ý mà thọ dụng.”

-Tán: Ba hàng tụng rưỡi là, chính giáo phó gia sản. Có năm: Nửa hàng tụng nói bắt đầu dạy phát tâm. Nửa hàng lui sụt vào sanh tử. Nửa hàng tụng hóa độ pháp Nhị thừa. Hoặc căn tánh trời người mới thuần thục. Hoặc ở hai đạo Gia hạnh, Vô gián. Hoặc dứt năm kiết phần dưới, và trên. Cho nên nói gặp con đã hai mươi năm rồi. Hoặc nói đắc quả Hữu học Vô học. Một hàng tụng nói trước lui sụt pháp Đại thừa, nay được gặp nhau, căn cơ đã thuần thục. Một hàng tụng là chính thức giao phó.

-Kinh: “Con nhớ xưa nghèo khổ cho đến được điều chưa hề có.”- Tán: Nói về việc con đã đạt được.

Công đức hữu vi gọi là châu báu. Chân như vô vi, tâm từ bi v.v… gọi là nhà cửa. Lại biết đạt bổn thức sẽ thành tựu cảnh trí. Cũng biết tất cả chúng sanh trong Ba cõi đều là nhà của mình và đạt được châu báu của cải nên sanh tâm vui mừng.

-Kinh: “Phật cũng như thế cho đến đệ tử Thanh-văn.”

-Tán: Đoạn lớn thứ ba có ba mươi hàng tụng rưỡi, là tụng hợp nói, trong đây chia làm hai:

  1. Hai mươi hàng rưỡi tụng về hợp nói xưa không mong cầu.
  2. Mười hàng, tụng về nay đắc pháp.

Phần hợp đầu ở văn xuôi có năm, không hợp giữa đường trở về gặp Phật. Nay trong tụng này chỉ tụng chỉ bày mà con không mong cầu Đại thừa. Những phần khác lược không tụng. Trong Văn xuôi trước chỉ bày Đại thừa con không mong cầu có ba phần, nay tụng đây cũng vậy.

  1. Hai hàng tụng, nói biết con ưa học Tiểu thừa, Phật không nói con đắc cho nên con không mong cầu.
  2. Tám hàng tụng, tụng phần thứ ba của văn xuôi ở trên. Phật nói cho Bồ-tát , chứ không phải nói cho con mà, vì thế không mong cầu.
  3. Mười hàng rưỡi tụng về phần thứ hai ở trên, tự đắc Niết-bàn cho là đã đầy đủ, cho nên không mong cầu.

Phật chưa hề nói các con sẽ thành Phật, đối với diệu trí của Phật con cũng có phần. Phật chỉ nói các con đắc các pháp Vô lậu là Thanhvăn, cho nên chúng con không mong cầu.

-Kinh: “Phật dạy chúng con cho đến sẽ được thành Phật.”

-Tán: Tám hàng tụng nói Phật chỉ nói cho Bồ-tát, không nói cho chúng con , nên chúng con không mong cầu, trong đây chia làm sáu:

  1. Một hàng tụng về: Phật dạy.
  2. Một hàng tụng rưỡi nói: Con theo lời Phật dạy.
  3. Một hàng tụng nói: Chúng khác cũng theo lời Phật nói chúng con.
  4. Một hàng tụng là: Phật thọ ký cho chúng con.
  5. Một hàng tụng rưỡi là: Phật vì Bồ-tát chứ không vì con.
  6. Hai hàng tụng là: Pháp dụ cùng kết.

Phật thêm tam nghiệp. Thầm dạy khiến cho nói các kinh như Bát nhã v.v…

-Kinh: “Con vâng lời Phật dạy cho đến nói đạo Vô thượng cho đến”

-Tán: Con Nương lời Phật dạy.

-Kinh: “Các Phật tử cho đến siêng năng tu tập.”- Tán: Người khác nương theo lời Phật nói chúng con. – Kinh: “Lúc ấy Chư Phật cho đến sẽ được thành Phật.” – Tán: Phật thọ ký cho người khác.

Nói Chư Phật là nói lên tất cả Phật pháp đều đồng, cho nên chẳng phải chỉ một vị Phật. Cũng là trong quá khứ từng thường thọ hóa các Đức Phật khác. Từng theo Chư Phật nghe nói pháp phương tiện.

-Kinh: “Tất cả Chư Phật cho đến nói chân yếu này.”

-Tán: Chính vì Bồ-tát chứ không vì con, nên chúng con không mong cầu.

-Kinh: “Như gã cùng tử kia cho đến cũng giống như thế.”- Tán: Đây là kết thúc cả pháp và dụ, ý văn có thể biết.

-Kinh: “Chúng con bên trong đã diệt cho đến đều không ưa thích cho đến”

-Tán: Trở xuống mười hàng tụng rưỡi nói, tự được Niết-bàn cho là đã đầy đủ nên không mong cầu. Trong đây chia làm hai:

  1. Hai hàng tụng nêu sự tự mãn không mong cầu.
  2. Tám hàng tụng rưỡi là giải thích.

Nội diệt nghĩa trong tự thân đã dứt hết các phiền não, chứng đắc Niết-bàn. Chỉ có thể biết đây là rốt ráo, mà không có làm các việc lợi tha khác, nên không thích Đại thừa.

-Kinh: “Vì sao? cho đến là rốt ráo.”

-Tán: Tám hàng tụng rưỡi giải thích. Trong đây chia làm ba:

  1. Ba hàng tụng rưỡi, đối với cảnh trí của Phật khởi lên ba môn giải thoát , tự cho là đã đủ, nên không mong cầu.
  2. Bốn hàng tụng tự cho là đã đắc đạo đã báo ân Phật. Tuy vì người nói mà không mong cầu.
  3. Một hàng kết luận vì Phật không nói nên không mong cầu.

Ba hàng đầu tụng quán không Vô tướng. Một hàng rưỡi là quán Vô nguyện. Các pháp đều là không, không quán . Hai ngã đã không thì làm gì có sanh v.v…. Phần dưới nói sáu thứ không như vô sanh diệt v.v… cùng quán vô tướng mà xa lìa tham trước. không tham tất cả bèn đối với trí Phật cũng không tham cầu là quán vô nguyện. Do nghe Bát-nhã nói mật ý về không, vô tướng, nguyện lầm ngộ giải ba quán này đã đắc Niết-bàn, cho là rốt ráo nên không cầu pháp Đại thừa.

-Kinh: “Chúng con trong đêm dài… báo được ân của Phật .”

-Tán: Bốn hàng tụng, tự cho đã đắc đạo, báo ân Phật. Tuy vì người nói mà không mong cầu đại pháp. Trong đây chia làm hai:

  1. Hai hàng tụng rưỡi là báo ân Phật.
  2. Một bài rưỡi: Dù vì người nói mà tự mình không mong cầu.

Nghiệm trong văn này ý nói trụ ở hữu dư y Niết-bàn mà hồi tâm hướng đại, chẳng trụ vào cảnh giới vô dư y Niết-bàn.

-Kinh: “Chúng con tuy vì cho đến không bao giờ mong muốn.”- Tán: Tuy vì người nói mà tự mình không mong cầu.

-Kinh: “Đạo sư thấy xả cho đến nói là có thật lợi.”- Tán: Phật không nói cho con, nên con không mong cầu.

Phật quán chúng sanh căn tánh chưa thuần thục nên không nói đại pháp. Chưa hề khuyên ta tiến tu Đại thừa nói là có thật lợi, nên ta không mong cầu. Đầu tiên không khuyên răn là y cứ vào đời nay sanh ra. chẳng phải không hề khuyên mà từ lâu đã khuyên.

-Kinh: “Như trưởng giả giàu có… bèn dạy pháp đại trí.”

-Tán: Ở Trên có hai mươi hàng rưỡi, tụng về việc xưa mong cầu. Dưới đây mười hàng tụng nói nay được. Có hai:

  1. Ba hàng tụng pháp dụ đối chiếu đầu tiên dạy phương tiện, sau nói về chân thật.
  2. Bảy hàng tụng nói về: Con nay được.

Ba hàng đầu thì một hàng rưỡi là dụ, một hàng rưỡi là pháp . – Kinh: “Chúng con ngày nay cho đến được vô lượng của báu.” – Tán: Bảy hàng tụng nói về nay được, chia ra ba phần:

  1. Một bài rưỡi nói chung rõ về sự đắc chẳng phải là điều mong cầu từ trước.
  2. Ba hàng tụng: Nay mới gọi là đắc quả thể.
  3. Hai hàng tụng rưỡi: Mới gọi là đắc quả dụng, đây là phần đầu.- Kinh: “Thế tôn! Chúng con ngày nay… Vô thượng đại quả.” – Tán: Cho đến ngày nay mới đắc quả thể. Lại có hai phần:

-Một bài tụng: Nói chung quả trước kia chẳng phải thật, nay mới là quả thật. Đạo là chứng trí, quả là vô vi.

-Hai hàng tụng nói nay đắc quả, thật là do nhân trước kia. Chứng minh trong tụng đầu nói do trì giới mà được quả báo, nên tụng sau nói:

Tụng phạm hạnh đầy đủ mà đắc đại quả, đều là hơn trước. – Kinh: “Chúng con ngày nay cho đến nên thọ cúng dường.” – Tán: Mới gọi là đắc quả dụng.

-Một hàng tụng: Được gọi là Thanh-văn chân thật, dụng lợi tha.

-Một hàng tụng rưỡi đắc A-la-hán chân thật, gọi là ruộng phước. Tức nói rõ trụ ở Tiểu thừa chẳng phải Thanh-văn chân thật, chẳng phải là chân thật A-la-hán.

-Kinh: “Đại ân của Thế tôn cho đến ai có thể báo đáp.”

-Tán: Trên đây là bảy mươi ba hàng rưỡi tụng phần Văn xuôi ở trước. Từ đây trở xuống là đoạn thứ ba của phẩm có mười ba hàng tụng, nói mong ân rất sâu của Phật, chia làm hai:

  1. Sáu hàng rưỡi nói chung về ân sâu khó báo đáp.
  2. Sáu hàng rưỡi biệt minh về sự khó báo.

Trong phần đầu lại có hai:

  1. Một hàng tụng rưỡi nói tâm từ bi sâu xa của Phật khó đáp.
  2. Năm hàng tụng là nói: Hành pháp cúng dường mà không thể báo đáp đây là phần đầu.

Trải qua thời gian rất lâu, hạnh đầy đủ tâm siêng năng , Phật vì khổ mình lợi người, tình sâu thật khó đáp, ân đức sâu dày che chở chúng con

Kinh: “Tay chân cung cấp cho đến hết lòng cung kính.” – Tán: Trở xuống năm hàng tụng nói về sự cúng dường.

Trong đây chia làm hai:

  1. Hai hàng tụng về sáu thứ nội tài không thể báo đáp.
  2. Ba hàng tụng: Dùng tứ sự ngoại tài cùng xây tháp, cũng không thể báo đáp ân này.
  3. Kinh: “Lại đem thức ăn ngon quý… cũng không thể báo đáp.”- Tán: Đem tứ sự ngoại vật cúng dường cũng không thể báo đáp.

Đây hai hàng tụng tứ sự, một hàng tụng kết. – Kinh: “Chư Phật ít có cho đến tùy nghi mà nói.” – Tán: Sáu hàng tụng rưỡi nói việc khó báo.

Trong đây có ba:

  1. Hai hàng tụng rưỡi: Nói chung Phật vì những việc thấp kém, hiện lấy tướng phàm phu có thể tùy nghi nói pháp cho nghe.
  2. Hai hàng tụng có thể biết ưa muốn và thắng giải của chúng sanh mà nói pháp cho nghe.
  3. Hai hàng tụng: Biết căn tánh thuần thục hay chưa mà nói Tam thừa.

Ẩn thật đức của báo thân, nói lên quyền hình hóa tướng. Ẩn huyền tông của diệu lý nêu lên giáo nghĩa thô sơ. Không về Tịnh độ mà ở cõi uế này, tùy theo phàm phu. Há ân này chẳng khó báo sao?

-Kinh: “Chư Phật đối với pháp cho đến nói pháp cho nghe.”

-Tán: Có thể biết ưa muốn, thắng giải của chúng sanh mà nói pháp cho nghe.

Với người chí lực là thắng giải, Phật không tùy tự ý nói rộng lên huyền vi, mà tùy theo tâm tình của người tuyên bố phương tiện này, há ân này chẳng khó báo hay sao?

-Kinh: “Tùy theo các chúng sanh… tùy nghi nói có ba thừa.”

Tán: Có thể biết căn cơ thuần thục hay không mà nói Tam thừa. Hoặc thô, hoặc tế, hoặc thật hoặc quyền. Quán căn trước sau thí pháp, há chẳng là ân sâu khó báo đáp hay sao?

 

PHẨM DƯỢC THẢO DỤ

Chia ra làm ba môn.

  1. Vì sao có phẩm này.
  2. Giải thích tên gọi.
  3. Giải Thích Các chướng nạn.

I. Về lý do: Có bốn:

1. Châu đầu tiên pháp nói vì thượng căn, ngài Thu Tử lãnh thọ pháp. Phật vì pháp thuật sự thành tựu, sau mới thọ ký. Nay, châu thứ hai Phật vì người trung căn mà nói dụ , bốn người lãnh hội Thí dụ. Nay Phật lại dùng thí dụ mà thuật lại việc thành tựu, sau đó mới thọ ký, cho nên có phẩm này.

2. Luận chép: Để đối trị hạng người thứ ba trong bảy mạn, có người Đại thừa hoàn toàn Tăng thượng mạn, cho rằng không có Thanhvăn, Duyên-giác, Phật thừa khác nhau. Vì đối trị này mà Phật nói hai thí dụ. Phẩm Thí dụ trước để đối trị hàng phàm phu cầu diệu quả trời người, kế phẩm Tín hiểu đối trị hạng Nhị thừa Hữu học chấp thừa của ta và Như-lai bình đẳng mà không cầu Phật thừa. Nay trong phẩm này đối trị người hoàn toàn ở Đại thừa, khinh mạn nói không có hai thừa, chỉ có nhất thừa. Cho nên luận kia nói: Người thứ ba đó là khiến cho biết đủ loại thừa khác nhau, Chư Phật Như-lai bình đẳng nói pháp, tùy theo hạt giống gốc lành của chúng sanh mà sanh ra. Ý nói là một cơn mưa tuy đồng mà ba cỏ, hai cây lớn lên có khác. Phật giáo tuy đồng cả ba thừa mà hai Thánh phát tu cũng khác. Căn hữu vi khí mỗi mỗi đều khác, cũng có hàng Nhị thừa quyết định. Cho nên, bởi cơ tánh khác mà bẩm nhận cũng khác.

Kinh Thắng-man chép: người Thiện nam nhiếp thọ chánh pháp có thể kham lãnh bốn gánh nặng. Kinh Niết-bàn cũng nói: “Ta ở trong một thời nói Nhất thừa nhất đạo. Cho đến đệ tử không hiểu được ý ta. Nói Tu-đà-hoàn đều đắc Quả Phật”. Y vào sự vận chuyển của người mà giáo pháp gọi là thừa. Phật pháp tuy đồng mà căn cơ tu tập có khác, cho nên nói phẩm này.

3. Đầu phẩm Phương tiện nêu hai pháp: Trí và trí tuệ môn đều rất sâu nên gọi là Nhất thừa. Phẩm Thí dụ trước nói thừa có ba, thể duy có một. Bốn người lãnh hội một là thật, ba là giả tạm, hội nhập trí tuệ sâu, nay đây là hội môn. Môn tức là A-hàm. Giáo đồng mà cơ khác thì gọi là lãnh hội môn đó. Như nói Tứ đế, ba căn đều nghe được. Y vào uẩn, xứ, giới, duyên khởi, tam tánh, dựa vào đó tu hành có khác nên gọi là Tam thừa. Cho nên giáo đồng mà căn cơ khác, do đó có phẩm này.

4. Trong mười nghĩa Vô thượng thì thứ nhất là hạt giống Vô thượng. Cho nên nói mưa làm thí dụ. Mười Vô thượng đều là bảy dụ, ba bình đẳng còn lại. Nhưng trong đó có văn còn lại, có nghĩa còn lại. Ở đây là nghĩa còn lại mà không phải văn còn lại. Trong bảy dụ đã có dụ về mưa. Trong mười Vô thượng có nói lại nhưng gọi là còn lại ở nói trước. Thí dụ mưa nhuần thấm cả ba thứ cỏ. Ba thứ đã khác khiến cho biết thừa cũng khác. Nay nói Thí dụ mưa, tuy thấm nhuần ba thứ cỏ, mà hình tưởng căn cứ nói hai (cỏ thường và có thuốc). Phật chủng là giống cỏ lớn, từ nơi vị tưởng hình mà gọi thêm hai thứ cây, căn cứ theo nghĩa khác gọi là nghĩa còn lại. Hoặc nói là văn còn lại, tức văn nói cỏ lớn, vừa và nhỏ, thí dụ mưa là phá bệnh chấp thừa khác nhau, các cây lớn nhỏ tùy theo các bậc thượng, trung, hạ. mỗi thứ đều có thọ nhận khác. Dụ mưa đây là hạt giống Vô thượng. Văn trước sau khác nhau, nên gọi là văn còn lại. Hại giống lớn này gặp mưa nhuần thấm thể dụng rất rộng lớn. Sau đó đắc quả cao siêu nên gọi là Vô thượng. Luận dẫn kinh nói không lìa thân ta là nghĩa Vô thượng. Chỉ Đại thừa mới có gọi là không lìa. Hoặc chủng, hoặc hiện, hoặc nhân, hoặc quả, tuy đều không lìa Đại thừa, mà nay nói rõ hạt giống vô lậu Đại thừa. Vì lấy nhân bổn mà thành tựu được Phật thân. Cho nên vì nói lên hạt giống Vô thượng, do đó mà có phẩm này.

1/ Giải thích tên gọi: Có công năng như thần là trừ bệnh gọi là thuốc. Hình tướng thấm thuần gọi là cỏ. Có thuốc chẳng phải cỏ. Có khi cỏ chẳng phải thuốc. Có cỏ có thuốc, không thuốc không cỏ. Thí dụ cũng vậy. Giáo, lý, hạnh, quả đều gọi là thuốc. Nay lấy thuốc hành theo giáo mà tu sanh, không lấy các loại thuốc đá khác. Vì không thể lớn lên. Hạt giống thế, ra đời có thể lớn lên, đều gọi là cỏ. Nay lấy hạt giống thiện của trời người và nhân trí Tam thừa, làm cỏ thuốc, vì trái với hại ác. Không lấy hạt giống của cỏ sanh tử đường ác, vì không thấm nhuần chánh pháp ý nay nói rõ hạt giống về ba thừa khác nhau, lãnh thọ giáo mà thành thừa khác nhau. Không muốn nói đều hết các hạt giống, nên dùng cỏ thuốc làm nhân. Thuốc đó tức là cỏ tức giải thích tên theo cách trì nghiệp. Để phân biệt chung là cỏ thuốc, tức giải thích tên theo cách y chủ. Lấy đây làm dụ đặt tên là dược thảo dụ. Hoặc nói phẩm này cũng lấy thuốc và cỏ làm dụ nên gọi là dược thảo dụ. Không phải thuốc đều tức có cỏ, há tất cả các loại cỏ đều lấy làm dụ sao? Do đây cho nên biết nói này nói là khéo. Đây dùng hai nghĩa làm dụ. 1. Như tánh cỏ khác, mưa thấm nhuần thành loại cỏ khác. Ba căn chúng sanh vốn khác lãnh thọ giáo pháp thành ra có Tam thừa. 2. Như bẩm tánh của cỏ, mỗi mỗi đều không biết nhau. Ba căn cũng vậy, không thể biếtnăm thừa khác nhau, cho rằng thừa không khác nhau. Do đó lấy cỏ thuốc làm thí dụ.

2/ Giải đáp các chướng nạn.

Hỏi: Luận giải bảy dụ và mười Vô thượng, đều nói thí dụ mưa. Vì sao tiêu đề gọi là Dược thảo dụ, sao không gọi phẩm Vũ dụ?

Đáp: Luận nói pháp năng thấm nhuần đó là để nói lên sở dụ, nên lấy dụ mưa đặt tên. Kinh lấy thể năng dụ để phá nghi kia, nên nêu dược thảo. Điên đảo chấp thừa không khác bệnh, phá trừ bệnh dùng căn cơ có khác nhau để phá, nên nhờ sự nhuần thấm của cỏ thuốc để so sánh các căn tánh nhuần thấm, do đấy mà không nêu mưa ra làm thí dụ, cũng không nêu hai tánh mưa và cỏ làm phẩm.

Hỏi: Phẩm này cũng nói đến hai cây, vì sao không gọi là phẩm thảo mộc?

Đáp: Thật sự theo lý nói thì nên cả hai cùng nêu ra. Chỉ vì lập ra chánh pháp vốn để phá bệnh phát sanh, tức sanh bệnh chấp thừa giống nhau, nên dùng cỏ khác nhau để phá. Pháp Vô thượng nói lên thể tôn cao chưa là phá ở bệnh sanh, nên lấy cỏ thuốc làm phẩm, không dùng cây v.v… mà nêu tên. Thảo rộng mà cây hẹp, cỏ nhỏ mà cây lớn, là chung cả Tam thừa không chỉ có đại. Nói rõ sự lớn lên nhuần thấm không chỉ có thành thục. Thế nên có lời giải: Thuốc là mưa pháp thuốc năng thấm cỏ là căn cơ, là tánh của sở sanh. Dùng thuốc dụ pháp, dùng cỏ dụ cho căn cơ. Cả hai rõ ràng thì không còn chướng ngại. Văn tuy không rõ mà lý cũng đâu sáng! Lại ở phẩm Thí dụ trước có nhà lửa nhàm chán, ba xe để ưa thích, cả hai hợp lực tên Thí dụ chỉ có thể nói chung, đây dùng căn cơ khác nhau để thấm nhuần phá bệnh chấp nhất thừa kia, do đó mà lấy dược thảo làm dụ.

– Kinh: “Bấy giờ Thế tôn cho đến nói không thể hết.” – Tán: Phẩm này đại văn chia ra làm ba:

  1. Khen ngợi ấn khả.
  2. Từ “Ca-diếp nên biết.” cho đến trở xuống là Đức Phật trình bày nói:
  3. Hai hàng tụng kết thành thành tựu nói thật để dần được thọ ký đây là phần đầu.

Trước khen ngợi ấn khả, sau càng khen ngợi vì nói hợp lý, nên nghĩa khế hợp chân như mà ấn khả. Nêu rõ ngài Ca-diếp trình bày phần trước, chưa nói hết được công đức của Phật. Lại tự khen ngợi Phật giống như trưởng giả. Lấy tiểu có thể dụ nơi đại. Ông đồng Thánh đức với cùng tử, dù kém cũng là đồng. Khen ngợi ấn khả, là thành tín là kinh vậy. Tin như đã nói, kính như chỗ nói. Đức Phật khó nghĩ bàn, lại không thể nói hết.

– Kinh: “Ca-diếp nên biết… không dối.” – Tán: Trình bày tự thuật.

Chia làm hai phần: Văn xuôi và Kệ tụng.

Văn xuôi lại có hai phần: Văn đầu lại có hai: Trần nói và Kết thành.

Kệ nói là: Như-lai biết là một tướng, một vị. Trong phần trình bày lại chia làm ba:

  1. Trình bày pháp.
  2. Trình bày thí dụ.
  3. Hợp trình bày.

Trình bày pháp bốn :

  1. Phật truyền pháp ở đời.
  2. Pháp lợi ích chúng sanh.
  3. Thọ đạo có khác nhau.
  4. Không thể tự đạt được.

Đây là phần đầu. Đối với pháp Phật được tự tại, là Ngài nói không luống dối, truyền bá ở đời dẫn dắt lợi ích chúng sanh.

-Kinh: “Đối với tất cả pháp cho đến Nhất-thiết-trí địa.”

-Tán: Nói về pháp lợi khắp cả chúng sanh. Dùng đại bi, trí lực, phương tiện thịên xảo, lìa pháp danh tướng. Khéo nói pháp làm lợi ích chúng sanh. Lý của giáo nói cũng khế hợp đến tận cảnh địa trí Phật, vì nói hợp với chứng, nghĩa rốt ráo hợp. Hoặc giáo thuận nơi lý, lý thuận nơi hành. Hành thuận nơi quả. Cho nên nói đến quả địa Phật, lấy đây khắp thấm nhuần mà ứng hóa.

-Kinh: “Như-lai quán biết… thông đạt vô ngại.”

-Tán: Thọ đạo có sai khác. Do Phật biết chỗ trở về của các pháp Không, Hữu là chân tánh rốt ráo, và biết tâm sở hành hướng đến của chúng sanh, nên có thể khiến chúng sanh đều được lớn lên. Kinh Vô Cấu Xưng nói: Chỗ hướng về của các pháp Không, Hữu ý chỉ rõ chỗ quay về. Quy về hướng đến Tam tánh làm rốt ráo tức chân như. Tâm sở hướng đến tức là hành khắp hướng đã ưa thích. Ở trong lý trí đạt đến vô ngại. Hoặc do Phật đạt được pháp và tâm chúng sanh, thật hành. Cho nên có thể thọ đạo, khiến cho ba thừa đều khác nhau.

-Kinh: “Lại đối với các pháp cho đến tất cả trí tuệ.”

-Tán: Đây nói pháp không thể tự đạt. Phật đối với các pháp, có thể đạt tận rốt ráo, nên biết tất cả căn tánh. Đầu tiên là nói pháp Tam thừa, sau chỉ cho chúng sanh trí tuệ của Phật. Chúng sanh không như vậy thì làm sao biết được tự tánh tha tánh. Dụ và hợp ở dưới đều có thế văn này, nên chia thành bốn khoa.

Lại có giải thích rằng: Trình bày pháp có hai:

-Đối với pháp tự tại, nói không luống dối.

-“Đối với tất cả pháp, dùng trí phương tiện” trở xuống là hiển bày riêng nghĩa Phật không luống dối. Trong đây lại có bốn ý:

  1. Có thể khai hai thể Bồ-đề Niết-bàn. Khai tỏ tâm của chúng sanh. Tức câu: “Dùng trí phương tiện mà giảng nói v.v…”
  2. Năng hiển chân như để chỉ bày cho chúng sanh. Tức là câu: “hướng về của các pháp”
  3. Năng ngộ trí Bồ-đề. Vì tỏ ngộ chúng sanh. Tức câu: “thông đạt vô ngại.
  4. Tự mình đã thể nhập lại khiến cho người cùng nhập. Tức câu: “chỉ bày tất cả trí tuệ”. Tuy lời giải này thuận theo Nhất thừa ở trên mà quán văn dưới đây thì trở thành ý riêng.

Lại hiển bày riêng nghĩa không luống dối có bốn:

  1. Tận cùng thật tánh của pháp.
  2. Biết được Không, Hữu.
  3. Biết tâm ưa thích của chúng sanh.
  4. Chỉ bày quyền thật.

Dùng các trí phương tiện là Thật pháp quên lời, dùng ngôn từ nói. Dùng lời nói thì gọi là trí phương tiện. Pháp từ trí phương tiện này nói ra, tuy chẳng phải chân thật, nhưng cũng không khác với pháp sở chứng của trí Phật. Địa (đất) là y chỉ, là nơi y chỉ của trí Phật quán cảnh chân thật gọi là địa. Ý nói Phật nói lí chân, tục để khế hợp rốt ráo đến cảnh trí Phật. Thể không khác cho nên hợp với thật pháp. Hoặc giáo có thể thuận, lý, lý có thể thuận hành. Hành có thể thuận với quả, cho nên đến Phật địa. Nhất-thiết-trí là trí Phật. “Như-lai xem biết” là có khả năng biết nơi hướng về của các pháp Không, Hữu. Nghĩa là biến kế sở chấp, y, tha viên thành ba tánh pháp. Hoặc chỗ hướng về đó tức là lý chân như, nơi hướng về rốt ráo của tất cả pháp. “Cũng biết rõ thâm tâm sở hành của chúng sanh”, tức là biết tâm hành và chỗ hành ưa thích của thâm tâm các chúng sanh, tức là biết tâm chúng sanh, và chỗ hành khắp đến một cách thông đạt vô ngại đối với các pháp đã đạt được, rốt ráo rõ ràng, thế nên có thể hiển thị trí tuệ cho chúng sanh nói tam quyền nhất thật khiến chúng sanh ưa thích chứng. Trên đây ý nói Phật nói giáo khế

hợp với trí cảnh, biết rõ tánh không, hữu của các pháp, hiểu được tâm hành thích ứng học đạo của chúng sanh. Cho nên Phật có thể khai bày trí tuệ Phật cho chúng sanh, để họ trở về hội nhập. Do bốn nghĩa này những gì Phật nói đều không luống dối. Nói không luống dối nên trí Phật vô biên. Ông làm sao có thể nói? Phật biết các pháp, rõ tâm chúng sanh nên đầu tiên nói quyền sau lại nói thật, chúng sanh lãnh thọ quyền giáo, trở thành năm thừa khác nhau. Chúng sanh không có công đức trí tuệ ấy, không biết pháp thể và tâm chúng sanh, thì làm sao có thể biết pháp thật quyền, mà chấp Tam thừa không có sai khác. – Kinh: “Ca-diếp! cho đến Thí như danh sắc đều khác.” – Tán: Phần dưới là dụ nói. Có hai:

  1. Dụ chung.
  2. Dụ riêng.

Ở đây nêu phần một. Đất đai về trước là dụ cho nơi sanh ra. Từ đất đai trở xuống dụ cho tất cả Tam thiên đại thiên nêu rõ khí thế gian sở y.

Cảnh hóa độ của một Đức Phật có bốn thứ:

  1. Núi: là nơi tuyên khí tán sanh muôn vật.
  2. Sông: là nơi xuyên suốt lưu thông các dòng.
  3. Khe: Theo Nhĩ Nhã nói nước chảy vào sông gọi là khe.. Hang: Nước chảy vào khe gọi là nước ở hang.

Trong thuyết văn nói dòng suối là ở hang thì sông núi đều gọi là cốc. Dụ cho trong đại thiên có bốn loài sanh. Các loại này trong đất đai đều có.

Cỏ là ba thứ cỏ, cây là hai thứ cây. trăm cỏ gọi chung là nhiều cỏ. Cỏ và cây đều có bùn, rừng.

Ý nói cỏ cây đều có rất nhiều. Cỏ cây tuy nhiều mà trong đó thành tựu các hạt giống thiện pháp thế xuất gian, thế gian là dụ cho cỏ thuốc. Hạt giống của ngũ thừa thể loại đều khác nhau như bao nhiêu chủng loại, tướng dụng có sai khác như tên dọi, màu sắc đều khác nhau.

Sắc là hình mạo, cũng có nghĩa là sắc loại.

– Kinh: “Mây dày bao phủ khắp nơi cho đến thế giới đại thiên.” – Tán: Là phần biệt dụ. Có bốn ý thí dụ:

  1. Pháp Vương ra đời.
  2. Nói giáo nhuận khắp.
  3. Các loại thọ nhuận khác nhau
  4. Không tự hay biết.

Mây dày là dụ cho Pháp vương ra đời. Che phủ khắp là dụ nói giáothứ hai. Hóa thân ẩn thật tám tướng dần dần hiển lộ ngầm vì rộng làm lợi ích như mây dày giăng phủ khắp nơi, chẳng phải là mây bộc phát không làm lợi ích. Mây có mười đức trong tụng có giải thích rõ. Một vị Phật hóa độ Tam thiên đại thiên, đồng thời xuất hiện ra. Âm thanh cũng cùng khắp, cho nên nói trùm khắp Tam thiên đại thiên thế giới.

-Kinh: “Đồng thời mưa tuôn xuống cho đến và các loại cỏ thuốc.”

-Tán: Dụ cho các loại thấm thuần khác nhau. Có hai ý:

  1. Mưa thấm nhuần khắp.
  2. Sự thấm thuần các loài đều khác.

Mưa thấm nhuần khắp có ba phần:

  1. Nói chung.
  2. Sự thấm nhuần theo chiều rộng.
  3. Sự thêm lớn theo bề dọc.

Nói chung: Đồng thời là ứng với căn cơ thuần thục. Mưa tuôn xuống là dùng một âm giảng pháp, tùy theo mỗi loại mà hiểu. Đây ý nói mưa pháp lợi lạc khắp nơi đều đồng. Mưa điều hòa thấm hết cỏ cây, mà có cỏ là dụ cho gốc lành.

-Kinh: “Gốc nhỏ, thân nhỏ… cành lớn lá lớn.”

-Tán: Đây nói thấm nhuần về mặt rộng. Thể tánh Tam thừa đều khác, để phá bệnh chấp thừa đồng nhau. Căn tánh có ba, nên chia làm ba thứ.

Kinh Niết-bàn chép: Ví như người bệnh có ba thứ:

  1. Hoặc gặp thầy thuốc hay cho đến không gặp mà tự quyết định có thể chữa khỏi. Đây là loại cỏ thơm.
  2. Nếu gặp liền khỏi, không gặp thầy thuốc hay thì, không khỏi bệnh, tức loại cỏ vừa.
  3. Hoặc gặp hay không gặp thầy thuốc hay cũng đều không khỏi bệnh, là loại cỏ nhỏ. Trong ba thừa đều có thọ lãnh, bốn pháp giáo, lý, hạnh, quả mà lớn lên, nên đều nói có rễ, thân, cành, lá. Y theo giáo mà chứng lý, y vào lý mà khởi hạnh, y vào hạnh mà đắc quả, như thân, rễ cùng thứ tự lớn lên, lại y vào sự giáo, lý, hạnh, quả, mà có hơn kém như thứ tự phối hợp. Lại giải thích trong ba hạng này đều có bốn pháp: Chủng tánh, phát tâm, tu hành và đắc quả.

Bốn pháp này có cả ba. Ngang thì gọi là Tam thừa. Dọc gọi là bốn loài, loài y vào tánh mà có nên nói là ngang. Cũng có nói nói bốn. Tức là thắng giải, kiến, tu, Vô học. Nghĩa này không có trong các loại cỏ nhỏ cho nên không dùng.

-Kinh: “Các cây lớn nhỏ cho đến mỗi thứ đều lãnh thọ.”

-Tán: Đây nói sự lớn lên theo chiều dọc. Luận chỉ nói cây lớn mà không lìa thân ta. nghĩa là hạt giống Vô thượng. Trong nghĩa có lớn lại chia ra có cây lớn, nhỏ. Trước Bất thoái vị là cây nhỏ. Sau Bất thoái vị là cây lớn. Đây có hai nghĩa:

1. Thất địa trở về trước gọi là cây nhỏ. Bát địa trở lên gọi là cây lớn. Đầy đủ thì có bốn bất thối. Y theo văn tụng dưới thì chỉ hai cây chia làm thượng, trung, hạ, nên hợp hai cây để chia làm ba phẩm. Nghĩa là từ Ngũ địa trở lên thì gọi là hạ, đắc quả Tam-ma-địa bạt-đề, lạc ý sanh thân. Lục, Thất, Bát địa là hạng trung đắc giáo pháp tự tánh ý sanh thân. Cửu địa, Thập địa gọi là người thượng, đắc chủng loại câu sanh vô tác hành ý sanh thân. Có nghĩa không đúng. Từ sơ địa trở về trước thì thuộc hạng gì? Há không là cỏ nhỏ ư! Nếu theo nghĩa này thì sơ địa trở xuống tức là hạ độn tu hữu lậu pháp. Bảy địa đầu gọi là hạng trung tạp tu hai thứ hữu lậu, vô lậu. Từ Bát địa trở lên thì tu thuần vô lậu.

2. Từ Sơ địa trở xuống gọi là cây nhỏ. Sơ địa trở lên thì gọi là cây lớn chứng được không lui sụt. Hai cây lớn nhỏ đều có thượng trung hạ. Thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng là ba hạng của cây nhỏ. Thập tín tức thuộc sơ phát tâm của Thập trụ. Bốn gốc lành quyết trạch phần là thuộc về hồi hướng. Do đây mà kinh Hoa Nghiêm chỉ nói ba mươi quả vị mà không nói Thập tín. Phát tâm trong Thập trụ thành ra tám tướng, cũng không nói bốn gốc lành. Vô lượng pháp giới trong vị Thập Hồi hướng mà thật hành bốn quán. Nhưng chỉ nói ngài Xá-lợi-phất tu đạo trải qua sáu mươi kiếp rồi thoái vị, tức là đến trụ thứ sáu thì mãn tức chưa vào trụ vào Bất thoái vị thứ bảy. Cho nên biết thập tín càng không có Vị riêng biệt. Do đây mà chỉ nói ba mươi ba a-tăng-kỳ kiếp. Địa tiền là ba mà không nói là bốn. Đối pháp v.v… nói thì sơ kiếp mãn đã tu bốn gốc lành, không nói có kiếp Tu-lâu dài riêng. Cho nên bốn gốc lành thuộc về, Thập Hồi hướng.

Ba hạng của cây lớn: Sơ, Nhị, Tam địa là hạng hạ đồng với thế gian. Tứ, Ngũ, Lục địa là hạng trung mới đồng với ra đời. Thất, Bát, Cửu, Thập địa là người thượng, vượt qua đạo Nhị thừa thế gian. Hoặc nói ba hạng của cỏ đều có hạ trung thượng. Trong loại cỏ nhỏ, nói cõi người là bậc hạ, các tầng trời cõi Dục là trung, trời cõi Sắc là thượng. Cỏ vừa có ba: Bảy phương tiện là bậc hạ, Thánh Hữu học là trung, Vô học là thượng. Trước là chiều rộng suốt cả Tam thừa, nay là dọc chung cả ba vị.

-Kinh: “Một đám mây tuôn mưa… hoa quả đều thấm nhuần, nở ra hoa trái.”

-Tán: Các loại thấm nhuần đều khác. Mưa giáo pháp tuôn xuống chỉ có một, mà chỗ thấm nhuần câu cỏ đều khác nhau. Sanh là dụ cho sơ tâm, trưởng là dụ cho sau khi đã tu tập. Hoa nở là dụ nghe giáo tu hành. Quả trái là dụ sự chứng lý đắc quả, phu có nghĩa là mở ra. Do sự thấm thuần, tùy theo chủng tánh mà hoa quả lớn lên, mỗi mỗi đều khác nhau, lấy giáo đối lý mà quên căn cơ đó. Hoặc dùng giáo đối, các căn thành thục tánh bất định sau gọi là một trận mưa. Cũng gọi là một âm giảng nói lý pháp chỉ có một tướng. Thoái tánh rốt ráo đều thành Phật, lấy giáo đối cơ quên hết lý pháp. Hoặc đối với vị sơ cơ chưa thuần thục, mà có vận dụng gọi là Tam thừa, cũng gọi là ba xe. Tùy theo cơ nghi kia, mà đầu tiên nói pháp nói có ba thừa. Lấy giáo bao gồm cả hành gọi là Tam tạng. Giảng nói giới định tuệ, các hành đều sai khác. Nếu dùng giáo bao gồm lý đối cơ mà nói thì gọi là hai tạng, là tạng Thanh-văn, Bồ-tát. Kinh A-xà-thế Vương cũng gọi tam tạng tức Bồ-tát, Độc giác, Thanh-văn. Nay đem giáo đối lý và một căn cơ sau gọi là một trận mây mưa. Thấm nhuần ba căn cơ tương xứng chủng tánh của nó gọi là ba thừa. Hiện lý có căn cơ sở đối nói thừa có khác. Giáo đối lý cơ để nhiếp nghĩa mà lập ra tên tạng, đem tạng này hiển giáo của lý để vận tải căn cơ, lập ra thừa, gọi là hai sai khác.

-Kinh: “Tuy cùng một đất sanh ra cho đến mỗi thứ đều khác nhau.”

Tán: Không tự hay biết, chủng tánh tam thừa nương vào một chân lý, một đất sanh ra, cũng đều thấm nhuần từ một trận mưa giáo pháp, một Phật. Như các cỏ cây thấm nhuần tuy khác, mà không tự hay biết, cũng không biết loại khác thấm nhuần lớn lên thế nào. Đây chỉ giải thích sơ lược, tìm trong phần hợp thuyết ở dưới sẽ nói đủ.

-Kinh: “Ca-diếp nên biết cho đến như vầng mây lớn nổi lên.”

-Tán: Trình bày hợp nói. Cũng có bốn, mỗi nghĩa này cũng có hai:

  1. Đều nêu pháp.
  2. Đều dụ hợp.

Đây hợp với Pháp vương ra đời.

-Kinh: “Dùng đại âm thanh cho đến cõi nước đại thiên.”

-Tán: Phần thứ hai này là hợp nói giáo pháp trùm khắp. Không chỉ có thân trùm khắp mà âm thanh cũng trùm khắp.

-Kinh: “Ở trong đại chúng… Phật Thế tôn.”

-Tán: Phần thứ ba hợp nói thấm nhuần mỗi loại đều có khác. Đây có hai: Pháp nói và Dụ hợp.

Trong pháp nói có bốn:

  1. Phật tự nêu nhóm họp.
  2. Người nghe đều đến.
  3. Phật dắt dẫn làm lợi lạc chúng sanh.
  4. Chúng sanh nghe được lợi ích.

Phần một có hai:

a. Tự tuyên bố.

b. Nhóm họp mọi người. Nêu tuyên bố có ba:

a.1. Tuyên bố đức hiệu.

a.2. Tuyên bố lợi dụng.

a.3. Tuyên bố tri kiến.

-Kinh: “Người chưa được độ cho đến khiến đắc quả Niết-bàn.”

-Tán: Đây nói lợi ích dụng có đầy đủ trong tứ nguyện. Độ là xa lìa vượt lên. Giải nghĩa là tu đoạn.

-Người chưa lìa khổ thì khiến cho lìa khổ.

-Người chưa dứt ác tu thiện thì nguyện dứt ác tu thiện.

-Chưa được an vui thì nguyện cho được an vui.

-Người chưa thành Phật đắc Niết-bàn, thì nguyện thành Phật đắc Niết-bàn.

Kinh Anh Lạc chép: biết khổ, dứt tập, chứng diệt, tu đạo là bốn thệ nguyện rộng lớn. Bốn đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo trong đây cũng thứ lớp phối hợp như thế.

-Kinh: “Đời nay đời sau cho đến nói đạo.”- Tán: Đây là tuyên bố về tri kiến. Có ba:

  1. Ba minh.
  2. Hai trí.
  3. Ba pháp.

Biết việc đời nay đời sau mà xướng ba minh vậy. Đã thấy thì gọi là nay. Hiện tại quá khứ đều biết như nay. Nhất thiết kiến là tục trí. Hoặc đầu tiên gọi là hai trí, sau là ngũ nhãn.

Biết khai nói là biết các cảnh, khai chành vi ác, nói các quả. Biết chánh tà, khai thiện ác, nói đoạn tu. Lại biết Đại thừa, khai Độc giác, nói Thanh-văn. Lại dị sanh Hữu học, Vô học. Tà chánh bất định, ba tụ, ba căn, ba khoa, ba thế, ba bảo, ba độc, ba đức, ba lậu v.v…

Lại biết sanh tử chỉ rõ tà chánh mà nói có thông, bítt. Lại ngộ biết

các đạo có thể lược khai và nói rộng. Như thứ tự đó phối hợp với một loại đạo là Nhất thừa, nhất đạo, thì có hai đạo thiện ác hướng về thế gian và xuất thế gian, cho đến mười nghiệp đạo v.v… đều như lý mà biết.

-Kinh: “Các ngươi hàng trời, người cho đến vì nghe pháp.”- Tán: Trên là tuyên bố, đây là nhóm họp.

-Kinh: “Bấy giờ có vô số cho đến mà nghe pháp”.- Tán: Người nghe đều đến.

-Kinh: “Như-lai lúc ấy cho đến mau đắc thiện lợi.”

-Tán: Phật sẽ dắt dẫn ợi ích vì lợi căn mà nói pháp Đại thừa, vì độn căn mà nói pháp Nhị thừa. Vì lợi căn mà nói hai thứ cỏ, độn căn thì nói cỏ nhỏ. Vì người tinh tấn mà nói tu hành, vì người biếng nhác mà nói mười niệm vãng sanh phương Tây v.v…

-Kinh: “Các chúng sanh này cho đến dần dần vào đạo.”- Tán: Nói chúng sanh, đạt lợi ích có hai quả:

-Quả thế gian: Hiện đời được an ổn, đời sau sanh về đường lành. Như pháp do lý mà thọ quả báo, không hành phi pháp gọi là “do đạo được thọ vui.

-Quả ra đời: Lìa chướng nhập đạo. Hoặc không có chủng tánh khiến đắc quả trước. Người có chủng tánh khiến cho đắc quả sau. Lại Bồ-tát đạo có hai:

  1. Tăng thượng sanh đạo.
  2. Quyết định thắng đạo.

Tùy thứ tự nên biết, dứt hai chướng cho nên có năng lực đắc đạo.

-Kinh: “Như mây lớn kia cho đến đều được lớn lên.”

-Tán: Đây hợp với pháp trước, sự thọ nhận mỗi pháp đều khác.- Kinh: “Như-lai nói pháp cho đến không tự hay biết.” – Tán: Phần thứ tự hợp có hai: Pháp và Dụ.

Trong pháp thì đầu tiên nêu ra sau giải thích, đây là phần nêu trước Phật nói pháp sau đó chúng sanh nghe.

Một tướng là không có tướng khác cho nên tướng vô tướng.

Kinh Đại Bát-nhã quyển bảy mươi ba chép: Các pháp đều đồng một tướng, nên gọi là vô tướng. Kinh Vô Lượng Nghĩa chép: Thường nói các pháp không sanh không diệt, không đây không kia, một tướng vô tướng.

Một vị đó là một vị vô lậu, là vì lợi ích trên hết, không có tự thể riêng.

Kinh Thắng-man chép: Một tướng một vị. Là vị minh, giải thoát.

Tuy nói các pháp khác nhau, cuối cùng đều trở về một tướng chân như, một vị vô lậu trở về thật tánh. Thể của một vị, một tướng là gì? Là giải thoát tướng Hoặc, Nghiệp, Khổ, lìa tướng phân biệt của sở tri chướng. Khác nhau với vô lậu hữu vi khởi tận thể tướng vắng lặng. Tức như nói cứu cánh của pháp không lìa trí tánh. Có thể thông suốt lí này, thì rốt ráo đến Nhất-thiết-chủng-trí, đắc quả Bồ-đề.

Lại Phật nói lý chỉ có một tướng, rốt ráo thuận với trí Trung đạo. Chúng sanh nghe pháp thuận theo mà thọ trì, đọc tụng tu hành, thành có sai khác như ba cỏ, hai cấy, không tự biết được.

– Kinh: “Vì sao? Cho đến Thể tánh của chủng tướng.” – Tán: Giải thích phần nêu ra ở trước. Có ba ý:

  1. Phật biết tướng chung.
  2. Phật biết tướng riêng.
  3. Phật biết chúng sanh không biết.

Đây là nói phần một. Chủng tướng hữu vi các loại đều khác. Thể tánh vô vi là căn bản lý. Lại tác dụng của tâm hành là chủng tướng. Thể tánh của tâm pháp là thể tánh.

-Kinh: “Nhớ việc gì?… dùng pháp gì mà được.”

– Tán: Đây nói Phật biết tướng riêng. Có bốn điều:

  1. Sở duyên của ba tuệ.
  2. Hành tướng của ba tuệ.
  3. Thể của ba tuệ.
  4. Hành pháp gì, đắc quả gì? Dùng giáo gì, đắc lý gì?

Bốn điều Phật đều biết rõ. Chỉ nói về cỏ thuốc, nên chỉ nói loại này mà không nói biết thứ khác.

-Kinh: “Chúng sanh trụ ở cho đến rõ ràng không chướng ngại.”

-Tán: Đây là phần kết: Phật biết, chúng sanh không biết, địa là hạt giống. Hoặc là các thể tánh hành tướng tâm bình đẳng gọi chung là địa, khác nhau với nghĩa đất ở trước. Kia gọi là một chân thật, nói giáo pháp của Phật như một cơn mưa. Nhất chân pháp giới gọi là nhất địa. Trong đó bốn loài sanh gọi là cây cỏ cho đến Tam thừa ngũ thừa, hữu tánh vô tánh, Phật đều biết mà chúng sanh không biết.

-Kinh: “Như cây cỏ lùm rừng cho đến có tánh thượng trung hạ”.

-Tán: Nêu dụ thứ tư hợp thành pháp nói trước.

Kinh: “Như-lai biết cho đến Nhất-thiết-chủng-trí”.

Tán: Trên là trình bày nói, đây là kết thành tựu ở trước. Có hai ý:

  1. Phật biết sâu mà vì chúng sanh nên nói pháp cạn.
  2. Khen ngợi Tôn giả Ca-diếp có thể hiểu nghĩa pháp sâu, đây là phần đầu.

Từ câu: “Cuối cùng trở về không”. Về trước là nói Phật biết tánh không sâu xa, thể tức là chân như phi không bất không. Từ câu: “Quán tâm chúng sanh” về sau, là vì chúng sanh trí cạn mà nói khiến khế hợp vào lý sâu.

Cả hai chướng ngại đều viên mãn mà thành chủng trí, dùng ý này giữ gìn tâm ý chúng không liền vội nói Nhất-thiết-chủng-trí, mà tạm nói giáo Nhị thừa. Cho nên Phật và Thanh-văn do đây thành khác nhau.

-Kinh: “Các vị Ca-diếp cho đến khó hiểu khó biết.”

-Tán: Đây là Phật khen Tôn giả Ca-diếp có thể hiểu được nghĩa sâu. Đầu tiên nêu ra, sau giải thích.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến nói các loại pháp.”- Tán: Tụng hợp có năm mươi bốn hàng tụng rưỡi.

-Năm mươi hai hàng rưỡi đầu tụng lại nghĩa trước.

Hai hàng tụng sau nhập vào phẩm đoạn thứ ba kết thành tựu nói thật để dần dần thọ ký. Phần một chia làm hai:

-Năm mươi mốt hàng tụng nói lại việc trước.

-Một hàng rưỡi tụng kết lại phần trước.

Lại chia làm ba:

  1. Bốn hàng tụng, lại pháp đã nói ở trước.
  2. Mười hàng rưỡi tụng phần dụ nói ở trước.
  3. Ba mươi sáu hàng tụng rưỡi là nói phần hợp thuật ở trước.

Trong bốn hàng tụng đầu lại chia làm hai:

-Ba hàng tụng nói, Phật xuất hiện ở đời.

Vua trong các pháp nói pháp không luống dối. Một hàng tụng sau, là tụng nói không thể tự đạt được.

Ba hàng đầu lại có ba:

  1. Nêu pháp do Pháp vương nói là không luống dối.
  2. Như-lai nói pháp ít có.
  3. Thành tựu nói trước.

Phá hữu là có thể phá nhất hữu. Nghĩa là Ba cõi, là sở hữu của một nghiệp hữu. Hoặc phá nhị hữu, là bổn hữu, trung hữu. Hoặc là phá tam hữu, tức là Ba cõi. Hoặc phá tứ hữu. Nghĩa là sanh hữu, tử hữu, trung hữu, bổn hữu. Kinh luận tân dịch là tiền thời hữu. Hoặc phá ngũ hữu, tức là năm đường. Hoặc phá thất hữu, là năm đường, nghiệp hữu, trung hữu. Hoặc phá chín hữu, tức là chín nơi, chín loại hữu tình ở. Hoặc phá hai mươi lăm hữu. Tụng:

Bốn cõi, bốn đường ác

Phạm vương sáu trời Dục.

Trời Vô tưởng, Tịnh cư.

Tứ không và tứ thiền.

-Hoặc phá hữu là chấp có Tam thừa, không có tâm biệt thể. Hoặc trong hàng tụng của kinh, câu đầu là pháp thân, câu kế là báo thân, nửa hàng sau là nói hóa thân.

-Kinh: “Như-lai tôn trọng cho đến chẳng liền chuyên vội nói.”

-Tán: Đây nói sự nói pháp của Như-lai là ít có. Giữ lâu sự màu nhiệm của ba thừa quyền, nhất thừa thật, Phật không nhanh vì nói thật pháp gấp rút nói, chính là sẽ nói lại, tất phải đợi sanh cơ mới có thể nói.

-Kinh: “Nếu người hiểu biết nghe cho đến thì là mất hẳn.”

-Tán: Đây thành tựu lời nói trước. Sợ có nghi hối, là mất hẳn, không thích nói việc tốt mau lẹ.

-Kinh: “Thế nên ngài Ca-diếp cho đến khiến đắc chánh kiến.”

-Tán: Đây là hàng tụng thứ tư nói không thể tự đạt. Do Phật thấy rõ cùng tận các pháp, biết rõ căn tánh chúng sanh mà tùy theo thắng giải dục lạc của chúng sanh. Vì người mà nói pháp khiến được chánh kiến, mà chúng sanh không thể tự biết các căn tánh thượng trung hạ.

-Kinh: “Ca-diếp nên biết cho đến như có thể nắm tới.”

-Tán: Đoạn thứ hai có mười hàng tụng rưỡi, tụng lại phần dụ thuật ở trước.

-Ba hàng tụng hợp nói hai dụ ở trước, tức là dụ Pháp vương ra đời, dụ nói giáo nhuần khắp

-Sáu hàng tụng rưỡi, tụng dụ thứ ba là sự thấm nhuần khác nhau.

-Một hàng tụng nói: Dụ không tự hay biết.

Ba hàng đầu lại có hai: Một hàng đầu tụng chung hai dụ trước. Hai hàng sau là: Nói riêng về công đức của mây. “Cũng như vầng mây lớn nổi lên ở thế gian.” Đây là dụ đầu tiên. “Che phủ khắp cả” là dụ thứ hai. Tụng mây có bảy đức.

Mây trí tuệ chứa nhuần, như rồng có tâm từ khởi mây ngậm mưa, suốt trong bảy ngày, đợi nông phu làm xong rồi mới đổ mưa. Đây là dụ mây từ của Phật chứa đựng muôn đức, đợi sanh cơ mà hàng phục, thị hiện tương ưng căn khí thuần thục mà tuyên dương pháp.

1. Chớp nhóang sáng chói lòa nói thân quang trí quang soi chiếu khắp nơi, dụ cho Phật hóa độ dẫn dắt chúng sanh.

2. “Tiếng sấm xa vang động”: Làm kinh động chúng sanh, dụ cho Phật ra đời, ma vương chúng ma đều sợ hãi.

3. “Khiến mọi loài vui mừng”: Mọi loài vui vì mây giăng khắp, mừng là sẽ che phủ. Đây dụ cho Phật ra đời nói pháp như thuyền bè qua năm đường.

4. “Ánh mặt trời che khuất”. Dụ dứt trừ phiền não. Kinh hoa Nghiêm nói che mặt trời tà kiến.

5. “Trên mặt đất mát mẽ”: Khiến chúng hữu tình ở trên đất sanh tử đắc quả Niết-bàn.

6. “Mây mù giăng bủa gần, dường như nắm tới được”: Như thừa hành giáo pháp. Có khi giải thích chữ mây mù là tối tăm. Còn đây là dụ cho Phật dũ lòng từ bi rộng lớn, làm bậc khuôn phép, khiến chúng sanh vui thích sẽ được thành Phật. Ví như tay nắm tới, chính là trạng thái có thể được qua Bồ-đề không thể dùng thân tâm để đắc mà dường như đắc nhân chẳng phải là chánh đắc. Dùng trí chứng nay lại nêu thêm ba ý:

  1. Văn trước nói Phật ra đời vì lòng từ bi thương xót bốn loài sanh.
  2. Rồng khởi mây mưa. Hai thân pháp báo hiện ra hóa độ ở đây.
  3. Mưa cam lồ nhuần thắm khắp cả mầm cây. Đây là dụ cho năng nói pháp ích lợi cho tất cả chúng sanh.

-Kinh: “Mưa tưới thắm khắp nơi cho đến mặt đất đều nhuần thắm.”

-Tán: Trở xuống sáu hàng tụng rưỡi là nói. Sự thấm ướt mỗi loài có khác. Có ba phần:

-Một tụng về công năng của mưa.

-Hai hàng rưỡi nói thể (các loài) thêm lớn thấm nhuần.

-Ba hàng tụng nói về dụng giúp ích thêm lớn.

Kinh Niết-bàn chép: Phật đối với chúng sanh không phân biệt thấp hèn sang cả, mà chỉ quán những chúng sanh có thiện tâm hay không. Chẳng sanh tâm khinh thường nên gọi là đều khắp. “Bốn phương đều rơi xuống” tức khắp bốn loài sanh thấm nhuần cùng khắp. – Kinh: “Núi sông hang hiểm… cây cỏ đều tốt tươi.” – Tán: Đây là nói thể thấm nhuần của muôn vật.

-Một hàng tụng chung.

-Một hàng rưỡi tụng riêng, chủng tánh nẩy mầm, trăm loại ngũ cốc tốt tươi. Đây là dụ hai thứ cỏ lớn và vừa. Tam thừa đều có chủng tánh. Mía, nho có loại trắng, vàng, đen đâu là loại cây nhỏ không có chủng tánh. Lại được sanh người trời như đất khô thấm khắp, không có

hạt giống ra đời. Cho nên, tổng kết trên nói cỏ thuốc Tam thừa, hai cây lớn, nhỏ đều có chủng tánh. Nhân mưa này mà cây cỏ xanh tươi màu mỡ. Đây là y vào nghĩa riêng, để hợp với thí dụ. Cũng có bổn nói: Sông núi hang, hiểm, mộng mạ là chỉ trăm giống lúa. Trong Nói văn nói cỏ sanh ra ở ruộng gọi là miêu (mầm non lúa non). Lúa này chưa trổ bông. Đã trổ bông thì gọi là mạ. Lại nói lúa còn ở ngoài đồng thì gọi là mạ. Trước giải thích mộng mạ là khác nhau. Đây dụ cho nhân quả khác nhau. Sau đó giải thích mộng cũng là mạ là chỉ dụ chung cho các loại thóc lúa.

-Kinh: “Vần mây kia mưa xuống cho đến đều được tươi tốt cả.”

-Tán: Đây nói về dụng thêm lớn. Có hai: Hai hàng tụng đầu bẩm nhuận lớn lên. Một hàng tụng sau nói sự thấm nhuần tươi tốt.

Ba phẩm thượng trung hạ khác nhau chỉ ở trong cây. Gọi là cây lớn, nhỏ tất cả hai đều có ba hạng còn bốn thứ: Thân, rễ, nhành, lá thì như trước. Các loài này đều có hoa cùng với quả đều có sắc tươi sáng, là tác dụng ngoài. Hoa dụ chung cho nhân, trái dụ quả v.v… Còn lại theo văn có thể biết.

-Kinh: “Như thể tướng đó cho đến mà đều được sum suê.”

-Tán: Đây là tụng dụ thứ tư nói không thể tự biết. Sự thấm nhuần của muôn vật có khác nhau, mặc dù đồng nhận một cơn mưa giáo pháp. Chúng sanh Tam thừa cuối cùng đều không thể tự biết công đức sở đắc của mình. Cho nên biết Tam thừa có sai khác. Trí tuệ sai khác, như ba cỏ, hai cây hấp thụ cơn mưa khác nhau.

-Kinh: “Phật cũng vậy cho đến sự chân thật của các pháp.”

-Tán: Trở xuống ba mươi sáu hàng rưỡi là tụng, về phần hợp nói trước. Văn chia làm hai: Hai hàng tụng đầu tụng hai hợp, kế là ba mươi hàng rưỡi tụng thọ lãnh mưa pháp của Tam thừa đều có khác nhau.

Không tụng phần hợp thứ tư là không tự hay biết.

-Kinh: “Đức Đại thánh Thế tôn cho đến và Niết-bàn an vui.”

-Tán: Trở xuống ba mươi bốn hàng rưỡi tụng sự thấm nhuần đều khác. Phần Văn xuôi có bốn: Tụng nay chỉ nói ba:

  1. Bốn hàng tụng rưỡi Phật tự tuyên bố nhóm họp.
  2. Chín hàng tụng, Phật ứng dẫn dắt lợi ích chúng sanh.
  3. Hai mươi mốt hàng tụng: Chúng sanh nghe được lợi ích. Chỉ không tụng phần người nghe pháp cùng đến.

Trong bốn hàng đầu có hai:

  1. Ba hàng rưỡi tụng nêu ra.
  2. Một hàng tụng nhóm họp.

Tuy có chủng tánh mà chưa hề nghe pháp. Sự thiếu thốn pháp là gọi là khô héo.

-Kinh: “Các chúng trời người… ra mắt đấng Vô thượng”…- Tán: Đây là lời nhóm họp.

-Kinh: “Ta là đấng Thế tôn cho đến giải thoát Niết-bàn.”

Tán: Trở xuống chín hàng tụng. Phật ứng hiện dẫn dắt lợi ích chúng sanh. Trong đây có năm ý:

  1. Hai hàng tụng Phật nói về thắng pháp.
  2. Một hàng tụng vì nhân Đại thừa.
  3. Hai hàng rưỡi tụng bình đẳng nói pháp.
  4. Một hàng rưỡi tụng chuyên làm lợi ích.
  5. Hai hàng tụng không lựa chọn tốt xấu.

Vị cam lộ chánh pháp, chữa hết mọi căn bệnh phiền não, nên dụ là cam lộ.

-Kinh: “Dùng một âm tiếng mầu… mà làm nhân duyên.”

-Tán: Làm nhân Đại thừa. Giả như nói nhị quyền cũng đều vì Nhất-thiết-chủng-trí của Đại thừa.

-Kinh: “Ta xem tất cả… lúc chúng đông cũng vậy.”

-Tán: Nói pháp bình đẳng. Vật ngã đã dứt nên không có kia đây. Yêu ghét đã dứt nên không có tâm oán thân. Không sẻn pháp nên ta không tham trước. Không ganh ghét nên cũng không chướng ngại. Cho nên dù một nhiều đều bình đẳng nói pháp. Đây cũng như ý kệ trước nói: “Nếu người tin về Phật”.

-Kinh: “Thường giảng nói pháp mầu cho đến như mưa thấm nhuần khắp.”

-Tán: Chuyên làm lợi ích. Đến đi, đứng, ngồi ba uy nghi của Phật là thị hiện. Đây lược không nói uy nghi nằm, là vì lúc làm lợi lạc. Hoặc đi là thị hiện nhập Niết-bàn, đến là thị hiện thành chánh giác. Ngồi có nghĩa là nói pháp lợi sanh. Đứng là đợi chúng sanh thuần thục căn cơ, quyết không sanh mỏi mệt lười biếng vì lòng từ bi thâm sâu.

-Kinh: “Sang hèn trên dưới cho đến mà không lười mỏi.”

-Tán: Không phân biệt tốt xấu. Không chọn chủng tánh giàu nghèo sang hèn, chỉ xem có gốc lành mà nói giáo.

-Kinh: “Tất cả chúng sanh cho đến trụ vào các địa.”

-Tán: Trở xuống hai mươi mốt hàng tụng nói về. Chúng sanh nghe pháp được lợi ích. Chia ra làm ba:

  1. Chín hàng tụng rưỡi, tụng pháp dụ hợp nói, sự thấm nhuần có khác, tánh có sai khác.
  2. Ba hàng rưỡi là tụng, pháp dụ hợp nói, sự thấm nhuận tốt tươi có khác nhau.
  3. Tám hàng rưỡi tụng pháp dụ hợp nói, sự thấm nhuần thành ra hoa trái có khác nhau. Chín hàng rưỡi đầu có hai phần:

-Tám hàng tụng pháp.

-Một hàng rưỡi tụng dụ, có hai phần:

Trong tám hàng lại chia làm hai:

  1. Một hàng tụng nói chung.
  2. Bảy hàng tụng nói riêng.

Trụ ở các địa là Tam thừa, Thập địa, là Càn tuệ địa, Chủng tánh địa, Bát nhân dịa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như-lai địa.

Tụng dưới là nói riêng về ba thứ cỏ. Trước đây nói Tam thừa cùng hành Thập địa. Hoặc phàm phu địa, Hữu học địa, Vô học địa, Bồ-tát địa, Như-lai địa. Hoặc nói địa trong Tam thừa. Tức là vô tánh, chủng tánh Nhị thừa và Đại thừa tánh, tùy theo kia mà phân lập ngôi vị, tức gọi là địa.

-Kinh: “Hoặc là chỗ trời người cho đến là cỏ thuốc bậc thượng” cho đến

-Tán: Trở xuống bảy hàng tụng riêng nêu. Có hai phần:

  1. Bốn hàng tụng về ba thứ cỏ.
  2. Ba hàng tụng hai thứ cây.Bốn hàng đầu lại chia ba phần: a. Một hàng tụng về cỏ nhỏ. b) Hai hàng tụng về cỏ vừa. c) Một hàng tụng về cỏ lớn.

Người không có chủng tánh cùng ưa vui với trời người thì gọi là cỏ nhỏ. Kinh Thiện giới nói: Người không có chủng tánh, chỉ lấy gốc lành cõi trời người mà thành thục. Hoặc bảy phương tiện cũng gọi là cỏ nhỏ. Nhị thừa gọi là cỏ vừa. Bồ-tát gọi là cỏ vừa, tức trong kinh Thắng-man gọi là hoa sen.

Chúng sanh không nghe điều phi pháp tức là cỏ thuốc nhỏ. Người Nhị thừa trung gian là cỏ thuốc vừa. Bồ-tát tức là cỏ thuốc lớn, đây là ba bệnh nhân theo nói trong kinh Niết-bàn.

-Kinh: “Lại có các Phật tử cho đến gọi đó là cây lớn.”

-Tán: Đây nói hai thứ cây. Một hàng rưỡi tụng nói cây nhỏ. Một hàng rưỡi tụng nói cây lớn.

Tức đối với cỏ lớn chia làm hai cây này. Địa tiền là cây nhỏ, đã dứt nghi, quyết định biết là sẽ thành Phật.

Thập địa là cây lớn đắc hai lợi chứng Bất thối, cho nên không phải hạnh bất thối. Nghĩa y theo đây thì Nhị thừa chưa thành tựu quả Vô học cũng gọi là cỏ vừa.

Ba ý sanh thân căn cứ vào quyết định thì chỉ nói bậc Vô học hồi tâm về sau thọ sanh tử Biến dịch, ở ngôi vị quyết định, khác nhau như người Hữu học, nên ở đây không nói. Người chưa nhập Thánh vị, và người không có chủng tánh gọi là cỏ nhỏ. Y theo đây thì địa tiền không gọi là cây nhỏ. Nếu vậy thì lấy thuộc loại gì? Cho nên giải thích trước là tốt. Hoặc trước Thất địa gọi là cây nhỏ. Bát địa về sau gọi là cây lớn. Đây nói Bất thoái, hành Bất thoái. Tất cả các Bồ-tát gọi là cỏ lớn. Luận Trí độ nói: Như sấm chớp loài chim nhỏ nghe thảy đều kinh hãi, khổng tước nghe thì nhảy múa, nên gọi là cỏ lớn. Nhân giải thích phần vị của hai cây khác nhau mà trong kinh luận nói lý Bồ-đề chẳng phải y cứ một. Kinh Đại Bát-nhã quyển bảy mươi bốn nói có năm thứ Bồ-đề. Kinh Kim cương Bát-nhã nói: Thật sự không có tiểu pháp đắc quả Bồđề Phật. Nếu có tiểu pháp đắc quả Bồ-đề thì Phật Nhiên Đăng khi thọ ký cho ta đã có lời dạy: Mới phát tâm liền thành Chánh giác.

Kinh này nói tám trời cho đến một đời sẽ đắc Bồ-đề. Cũng có nói nói: Trải qua ba đại kiếp mới lên quả Chánh giác. Các luận Sư đối với nghĩa này điều nói khác nhau. Luận Du-già chép: Kiếp có hai thứ: 1. Tính theo số ngày tháng năm tức luận này nói ngày đêm tháng năm; 2. A-tăng-kỳ kiếp.

Các Bồ-tát có thể vượt là chỉ vượt ở kiếp trước mà không vượt kiếp sau. Y vào nghĩa này, nếu căn cứ ở vô vi chân như, vô tướng, thì thật sự không có tiểu pháp có thể đắc Bồ-đề. Vì tông chỉ Kinh Bát-nhã gọi là vô vi. Người Sơ địa phát tâm Bồ-đề liền chứng. Chứng phát tâm này chẳng phải như phát tâm chủng tánh, cũng đồng với kinh này. Bát sanh cho đến nhất sanh sẽ đắc. Hoặc trong kinh này căn cứ vào chứng phát tâm, luận giải là chứng đắc Sơ địa Bồ-đề, cho nên người mới phát tâm liền lên ngôi Chánh giác, đó là nhân chủng tánh phát tâm Bồ-đề.

Ba đại kiếp tu đắc Bồ-đề đó là Vô thượng Bồ-đề, quả mãn Bồ-đề trải qua đại kiếp tu hành, cũng không trái nhau. Quả Phật rộng lớn nhân nhỏ chẳng thể mà thành tựu. Hoặc còn tư duy khác trái với chánh đạo. Cho nên kinh Niết-bàn chép: Phật khó thành tựu cho thọ ký mau. Nói Phật dễ thành, thì thọ ký cho chậm.

-Kinh: “Phật bình đẳng nói cho đến mà lãnh thọ đều khác.”- Tán: Dụ này nói sự thấm nhuần có khác vì tánh khác.

-Kinh: “Phật dùng thí dụ này cho đến dần dần thêm sum suê”.

-Tán: Ba hàng tụng rưỡi nói pháp dụ hợp nói, nhân thấm thuần sung túc đều khác. Gồm có:

-Một hàng tụng rưỡi dụ những điều Phật đã nói ít như một giọt nước của biển cả.

-Hai hàng tụng pháp dụ hợp nói nói nhân thấm nhuần tươi tốt khác nhau.

-Kinh: “Pháp của Chư Phật cho đến đều khắp được đầy đủ.”

-Tán: Có tám hàng tụng, hợp nói về pháp dụ nói sự thấm thuần thành trái quả có khác. Đây có hai:

-Sáu hàng rưỡi tụng về pháp nói.

-Một hàng tụng rưỡi dụ nói.

Sáu hàng rưỡi đầu lại chia làm ba:

-Một hàng tụng nói chung khiến đắc quả viên mãn. Cũng là tụng riêng khiến quả của cỏ nhỏ viên mãn.

-Hai hàng tụng nói về cỏ vừa.

-Ba bài rưỡi nói cỏ lớn.

Thế gian được đầy đủ nghĩa là nói trời người đầy đủ.

-Kinh: “Dần dần tu hành cho đến mỗi mỗi đều thêm lớn.”

-Tán: Nói về cỏ trung. Nhân từ cõi trời người, dần dần đắc đạo quả, nhị thừa viên mãn.

-Kinh: “Nếu các Bồ-tát cho đến mà được thêm lớn.”

-Tán: Nói cỏ lớn. Cỏ lớn tức là hai cây. Một hàng tụng rưỡi nói về cây nhỏ. Hai bài sau nói về cây lớn.

-Kinh: “Như thế Ca-diếp cho đến đều được kết thành quả.”- Tán: Dụ đây hợp với thấm nhuần kết trái sung mãn ở trên.

-Kinh: “Ca-diếp nên biết cho đến Chư Phật cũng như vậy.”

-Tán: Đây đoạn thứ hai tụng kết thành ở trước. Ta cũng như Chư Phật, đầu tiên nêu quyền sau mới nói pháp thật. Các thầy tín thọ thật là ít có.

-Kinh: “Nay vì các thầy cho đến đều sẽ thành Phật.”

-Tán: Đoạn thứ ba là kết thành tựu, Thế tôn nói thật pháp để dần dần thọ ký cho chúng Thanh-văn. Nhân sở hành của Thanh-văn thành Phật còn rất xa, cho nên là đạo phương tiện sở hành của Bồ-tát. Luận chép: Sở hành của các thầy là Bồ-tát đạo. Nghĩa là phát tâm Bồ-đề, thoái rồi trở lại phát tâm. Việc tu hành trước kia, gốc lành không mất cũng đồng như sau đó đắc quả. Cho nên tu theo Nhị thừa là nhân phương tiện xa của Đại thừa, đó gọi là Bồ-tát đạo.

 

PHẨM THỌ KÝ

Chia làm ba môn.

  1. Vì sao của phẩm này.
  2. Sự khác nhau.
  3. Giải thích tên phẩm.

I. Vì sao có hai:

1. Thượng căn như ngài Thu Tử nghe pháp thuyết mà được ngộ giải. Phật liền thọ ký cho. Bốn người căn tánh hạng trung nghe dụ nói thì mới hiểu. Cho nên Phật thọ ký.

2. Luận chép: Về ba thứ người không phiền não, nhiễm mạn cho nên nói ba bình đẳng. Đầu tiên là nói thừa bình đẳng nên được thọ ký. Trên đây Phật nói thể của thừa có sai khác. Do đó mà có hạng Vô học chấp thừa chắc chắn có khác, vì những người này mà Đức Phật cho thọ ký riêng, nên Phật nói các thừa đều bình đẳng. Do đó mà có phẩm này.

Như phẩm thí dụ đã giải thích.

II. Sai khác là: Pháp có thể thọ ký có ba thứ:

  1. Thể tánh là có.
  2. Thù thắng có quả đương lai.
  3. Người và lý đều cao quý nhân và quả đều lớn.

Thể tánh có là có thể được thọ ký, thể tánh không có thì không được thọ ký. Như mười bốn hạng người không được thọ ký. Lý sự vốn không có, nên không thể thọ ký.

Hỏi: Người có thể mới thọ ký cho họ. Kinh Hoa Nghiêm nói: Có thọ ký, không thọ ký thế nào?

Đáp: Phật không ghi nhận, cũng không trả lời. Phật nói: “Có” một Tỳ-kheo hỏi về tự tác tha tác của mười hai nhân duyên. Vô minh tự khởi là nghĩa từ vô thỉ gọi là tự tác. Lại từ tha khởi là nghĩa hữu thỉ, đó gọi là tha tác, Phật thường quở trách vị Tỳ-kheo này. Như người bị tên độc bắn thì chỉ nên tìm thầy thuốc nhổ ra, không nên chần chừ hỏi tên đó từ đâu bắn đến. Cho nên, người có thể tánh thì sẽ được thọ ký, người không có thể tánh không được thọ ký. Như các nhân cao siêu có quả đương lai, người này được thọ ký, không có nhân thù thắng thì không được, cũng như pháp thiện và pháp bất thiện.

Thành Duy Thức chép: Thọ ký là thiện ác. Có tự thể tốt đẹp và đương quả có thể thọ ký thì gọi là ký. Vô ký thì không như vậy, cho nên không thọ ký.

Người và lý tốt đẹp, nhân và quả đều lớn, được thọ ký. Ngược lại

thì không được thọ ký. Tức các kinh Ký biệt ghi việc sanh tử của đệ tử đó là nhân tốt, ghi nhận nghĩa sâu kín đó là lý cao siêu. Thọ ký sẽ thành Phật là đại nhân, đại quả. Cho nên, người và lý yếu kém, nhân và quả nhỏ bé không được thọ ký. Pháp này là Phật thọ ký cho loại thứ ba nhân và quả đều lớn, chẳng phải hoàn toàn ở hai thứ trước mà có một ít loại sau.

Lại việc thọ ký này có nhiều sai khác. Hoặc thọ ký một loại, là kinh Thọ ký trong mười hai phần giáo. Hoặc nói hai thứ như kinh Niếtbàn chép: Nếu có người nghe nói mà thuận theo ưa thích hội nhập mau được thành Phật. Hoặc người tâm sanh khinh thường thì Phật chậm thọ ký cho. Hoặc cho rằng Phật đạo khó đắc, thọ học siêng khổ lâu dài rồi sau đó mới thành. Hạng người Phật thọ ký cho mau.

Lại người có gốc lành thuần thục Phật thọ ký cho mau. Người gốc lành chưa thuần thục Phật thọ ký cho chậm, để nhàm chán sanh tử, muốn mau chứng quả Bồ-đề. Người trí tăng thượng Phật thọ ký cho mau. Người thích vào ra sanh tử hóa độ chúng sanh, lòng từ bi thêm lớn, Phật thọ ký cho chậm. Lại có hai thứ: Thọ ký chung và thọ ký riêng.

Trong luận Trí độ có ba thứ:

  1. Tự mình biết, người khác không biết là tự lợi không phải lợi tha.
  2. Người khác biết tự mình không biết là lợi tha.
  3. Tự tha đều biết là thật hành nhị lợi.

Lại có bốn thứ như trên nói: Hoặc nói năm thứ như phần tự ký của Như-lai trong kinh này. Hoặc có sáu thứ như phẩm Thí dụ đã nói.

III. Giải thích tên gọi: Thọ nghĩa là nương theo, là cho, là giao phó. Ký là quyết định, là phân biệt, là nghiệm, là biết. Vì quyết rõ ràng sẽ có quả là phân tướng riêng của quả đương lai, cùng chứng nghiệm nhân đó được ghi nhận biết có quả đương lai, nên gọi là thọ ký. Phẩm này nêu lại các việc kia nên gọi là phẩm Thọ Ký.

– Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến vô lượng đại pháp.”

– Tán: Phẩm này, văn lớn chia ra làm hai:

  1. Vì bốn người hiện tiền Phật thọ ký cho riêng.
  2. Cuối phẩm có hai hàng tụng rưỡi nêu sẽ thọ ký, làm lý do cho châu thứ ba. Phật nói phần đầu lại có hai: Trước thọ ký cho ngài Đại Ca-diếp, tiếp thọ ký cho ba Đại Thanh-văn cón lại.

Thọ ký cho ngài Đại Ca-diếp, văn lại chia làm hai: Văn xuôi và Kệ tụng. Trong phần Trướng hàng lại có hai phần: Thọ ký nhân và Thọ ký quả.

Thọ ký nhân: Ngoài gặp duyên tốt, trong tu hạnh mầu, là ra mắt Đức Thế tôn. Như văn có thể biết vậy. Xét người thọ ký thượng hạ nên có bốn câu luận như sau.

1. Tiểu thừa thì không có hơn kém, còn Đại thừa thì có. Như ngũ bá đệ tử đồng là Vô học. Cho nên trong Tiểu thừa không có hơn kém. Trước sau thành Phật, chuyển dần được thọ ký, nên nói trong Đại thừa có hơn kém.

2. Trong Tiểu thừa có hơn kém, trong Đại thừa thì không. Như bậc học Vô học, thì Tiểu thừa học Vô học có khác. Đồng thời thành Phật cho nên Đại thừa không có hơn kém.

3. Tiểu thừa kém mà Đại thừa hơn. Như A-nan lúc tại học địa đắc quả Dự lưu, thành Phật trước La-hầu-la.

4. Tiểu thừa hơn mà Đại thừa kém: Như La-hầu-la là Vô học mà thành Phật sau A-nan.

Nay bốn hạng người này không y vào căn tánh, luận theo vị thứ thì Tiểu thừa không có hơn kém. Đồng là Vô học nên ở Đại thừa có hơn kém. Ngài Ca-diếp siêng tu trong ba trăm muôn ức Phật. Tu-bồ-đề kính thờ ba trăm muôn ức na-do-tha Phật. Ca-chiên-diên kính thờ tám ngàn ức Phật, sau kế hai muôn ức Phật. Ngài Đại Mục-kiền-liên kính thờ tám ngàn Chư Phật, sau gặp hai trăm muôn ức Phật. Các vị trên cúng dường Chư Phật nhiều ít khác nhau, nên biết thành Phật cũng có trước sau. Kinh Niết-bàn chép: Bồ-tát y vào hạnh thứ tư cúng dường tám Hằng hà sa Phật. Nay nói Tiểu thừa là người tâm lui sụt không thích tu đại hạnh. Vả lại, xét ở một vị địa, gặp Phật nhiều ít mà được thọ ký, chẳng phải chỉ từng ấy, cũng không là sai. Nay y theo kinh Niết-bàn chép: Quả Tu-đà-hoàn tu tám muôn ức mới đến. Cho đến quả A-la-hán hai muôn kiếp mới đến. Dùng căn tánh đều nhau sự tu hành mau lâu tương tợ mà nói chứ không nói theo căn, hành khác nhau mà nói. Nay lấy căn, hành lợi độn mau chậm mà thành bốn câu luận trên. Nghĩa không như vậy thì thật là trái nhau.

-Kinh: “Nơi thân rốt sau cho đến Phật Thế tôn.”

-Tán: Thọ kí quả, có bảy. Đây là nói tự thể thọ ký. Thấy ánh sáng mà sanh trí tuệ, nghe pháp nghĩa mà đạt được kim quang. Huống chi do nhân Tu-lâu mà kim quang tự trang sức. Cho nên gọi là Quang minh. – Kinh: “Nước tên là Quang đức… hai mươi tiểu kiếp.” – Tán: Đây có ba:

-Tên nước: Lấy ánh sáng làm đức.

-Tên kiếp: Hành vi ác trang nghiêm.

-Tuổi thọ tuổi thọ.

-Kinh: “Cõi nước trang nghiêm cho đến khắp nơi thanh tịnh.”

-Tán: Trong nói bảy tướng của cõi nước: Các thứ tô điểm đủ loại, không dơ xấu, bằng phẳng, đất bằng báu, cây báu, dây vàng, rải hoa tốt đẹp.

-Kinh: “Các Bồ-tát ở đây cho đến đều che chở Phật pháp”.

-Tán: Trong đây có hai: Quyến thuộc và không có ma.

Tánh và hạnh của ngài Ca-diếp rất điều thuận, hạnh Đầu-đà, học giới, không kiêu mạn với người, không hoại điều thiện. Do đó dù cõi nước có ma cũng che chở Phật pháp.

-Kinh: “Bấy giờ Thế tôn cho đến sẽ được thành Phật”.

-Tán: Mười hai hàng tụng rưỡi, chia làm ba:

  1. Một hàng rưỡi tụng Phật bảo đại chúng.
  2. Mười hàng rưỡi tụng việc thọ ký.
  3. Nửa hàng tụng là kết. Đây là phần đầu

-Kinh: “Mà ở đời sau cho đến tuệ Vô thượng.”

-Tán: Ở đây trở xuống mười hàng rưỡi tụng thọ ký, chia làm hai:

  1. Hai hàng rưỡi tụng về thọ ký nhân.
  2. Tám hàng, tụng thọ ký quả.

– Kinh: “Ở nơi thân rốt sâu… không có những gò hầm cho đến” – Tán: Đây thọ ký quả có bốn ý: Gồm tám hàng

  1. Nửa hàng tụng về tự thể.
  2. Ba hàng tụng về tướng đất.
  3. Ba hàng tụng quyến thuộc.
  4. Một hàng rưỡi tụng về tuổi thọ.

Ba hàng rưỡi này nêu tự thể và tướng cõi nước.

Tướng cõi nước ở tụng này lại có tám: Không có điều ác, đất báu, cây báu, dây vàng, hương thơm, hoa đẹp, báu trang nghiêm, đất bằng phẳng.

Tướng hương trong Văn xuôi không có. Nhân giới hương đầy đủ, nên quả có nhiều hương, muôn hạnh đầy đủ, tu hành trang nghiêm cũng đủ. Đây khác với văn xuôi .

-Kinh: “Các Bồ-tát cho đến không thể tính kể hết.”- Tán: Ba hàng tụng về quyến thuộc, gồm có:

+ Một hàng rưỡi tụng về Bồ-tát.

+ Một hàng rưỡi tụng về Thanh-văn.

-Kinh: “Tuổi thọ của Phật này cho đến việc của Ngài như thế.”- Tán: Một hàng rưỡi tụng về tuổi thọ của Phật.

+ Một hàng tụng nói về tuổi thọ.

+ Nửa hàng là kết thúc.

-Kinh: “Bấy giờ cho đến mắt không tạm rời.”

-Tán: Là phần hai thọ ký cho ba vị đại Thanh-văn còn lại. Phần đầu thỉnh, phần sau là thọ ký. Phần thỉnh trước là Văn xuôi nói nghi thức thỉnh, sau kệ tụng mới là chánh thỉnh, đây là phần đầu. Chữ lật nghĩa là sợ hãi, là kính sợ. Vì tâm cầu quả thọ ký mà không dám chuyên y, lại sợ uy Phật, cho nên run sợ.

-Kinh: “Liền cùng đồng thanh cho đến trừ nóng được mát mẻ.”- Tán: Trở xuống là bảy hàng tụng, chia làm ba:

  1. Hai hàng tụng khen ngợi thỉnh Phật.
  2. Bốn hàng tụng thí dụ thỉnh Phật.
  3. Một hàng tụng kết thúc việc thỉnh Phật.

Đây là một hàng tán, một hàng thỉnh Phật.

-Kinh: “Như từ nước đói đến cho đến rồi mới dám ăn”.

-Tán: Nói về thí dụ thỉnh, bốn hàng chia làm hai: Một hàng rưỡi tụng về thí dụ, hai hàng rưỡi tụng thỉnh.

Tiểu thừa thiếu pháp Đại thừa cho nên nói từ nước đói đến. Nhất thừa của Phật gọi là cỗ tiệc của vua. Nay được nghe nên gọi là chợt gặp. Nghi mình không có phần, không dám tu hành nên nói là chưa dám ăn. Phật thọ ký cho gọi là được vua bảo ăn. Do được thọ ký mà sau đó lãnh nạp Đại thừa, tu đại hạnh, ưa thích được quả Phật gọi là mới dám ăn.

-Kinh: “Chúng con cũng như vậy cho đến mới là thật an vui.”

-Tán: Hai hàng rưỡi tụng nói về thỉnh

Nghe giọng Phật nói lý Nhất thừa, nói chung rằng: Con sẽ thành Phật, như gặp bữa tiệc vua, chưa hề cầu mong được thọ ký, mặc dù được thọ lãnh việc tu hành rất vui sẽ thành Quả Phật. Đó gọi là chưa dám ăn. Mong được thọ ký riêng như mong được vua bảo ăn. Tức trông chờ tu hành, vui mừng sẽ thành Phật gọi là được ăn.

-Kinh: “Thế tôn đại hùng mạnh cho đến như đói được cho ăn.”

-Tán: Một hàng kết thỉnh.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến đầy đủ đạo Bồ-tát.”- Tán: Thọ ký riêng cho ba người.

Văn này có hai: Văn xuôi và kệ tụng.

Văn xuôi có hai: Thọ kí nhân và Thọ kí quả.

Đây là thọ ký nhân.

-Kinh: “Thân sau cùng cho đến Thế tôn.”

Tán: Đây thọ ký quả có chín: Đây là tự thể thọ ký, hiểu rõ thể

tướng pháp là không chỉ có giả danh nên gọi là danh tướng. Hoặc hai nghĩa danh và tướng đều không gọi là Danh tướng. Danh là danh giả , tướng là hai thứ thọ, pháp là tướng giả.

-Kinh: “Kiếp tên là Hữu bảo cho đến thanh tịnh cùng khắp.”

-Tán: Trong đây có ba: 1. Kiếp lấy lý không làm báu; 2. nước; 3. Tướng cõi.

Tướng cõi có năm: Mặt đất bằng phẳng, đất báu, cây báu, không dơ xấu, hoa sạch.

-Kinh: Nhân dân trong nước đó cho đến na-do-tha.

-Tán: Ở đây có hai ý:

Một là người dân ở đó, do bên trong đạt lý, ngoài cảm được các thứ châu báu, hai là quyến thuộc.

-Kinh: “Phật thọ… và chúng Thanh-văn.”

-Tán: Đây có ba ý: Tuổi thọ Phật, Phật trụ hư không để giải thích không, lợi ích cho chúng.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến lắng nghe lời ta nói”.

-Tán: Trở xuống mười hai hàng tụng, gồm có hai phần: Một hàng đầu tụng Phật bảo chúng Tỳ-kheo, mười một hàng sau tụng chánh lời Phật bảo. Trên là hàng tụng đầu.

-Kinh: “Đại đệ tử của ta cho đến giống như núi báu lớn” cho đến.

-Tán: Đây là phần chánh bảo, mười một hàng chia làm sáu:

  1. Ba hàng tụng quả, nhân hợp lại thọ ký.
  2. Một hàng rưỡi tụng về tướng cõi nước.
  3. Ba hàng tụng về quyến thuộc.
  4. Một hàng tụng về sự hóa độ của Phật.
  5. Một hàng tụng về thính chúng.
  6. Một hàng rưỡi tụng tuổi thọ.

Ba hàng đầu: Một hàng tụng danh hiệu, một hàng tụng về nhân và một hàng tụng về hình dáng.

-Kinh: “Cõi nước Phật đó cho đến độ vô lượng chúng.”

-Tán: Một hàng rưỡi tụng về tướng cõi nước

-Kinh: “Trong pháp hội của Phật cho đến có uy đức lớn.”

-Tán: Ba hàng tụng về quyến thuộc. Chia làm hai: Một hàng rưỡi tụng về Bồ-tát, một hàng rưỡi tụng về Thanh-văn.

-Kinh: “Đức Phật đó nói pháp cho đến nghe nhận lời Phật dạy.”

-Tán: Một hàng tụng Phật hóa cho đến một hàng tụng thính chúng.

-Kinh: “Tuổi thọ của Phật đó cho đến hai mươi tiểu kiếp.”- Tán: Ở đây nói về tuổi thọ.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến cung kính tôn trọng.”

-Tán: Đây là phần thọ ký cho ngài Ca-chiên-diên. Văn xuôi có hai. Y theo trước, đầu tiên là thọ ký nhân, trong đây chia làm hai phần:

Sơ thời và hậu thời.

Sơ thời có hai: Phật tại thế và Phật diệt độ.

Đây là nói Phật tại thế.

-Kinh: “Sau khi Phật diệt độ cho đến cúng dường tháp miếu cho đến”

-Tán: Diệt độ có hai: Hợp thành, trước xây tháp dâng hoa, sau đó cúng dường.

Mai khôi là hỏa tề châu. Mạt hương như lấy tay chà sát thành mạt, đất nhuyễn thành mạt. Nay đã có dầu hương xoa thay thế.

-Kinh: “Sau thời kì đó cho đến đầy đủ Bồ-tát đạo.”

-Tán: Đây nói thời sau cúng dường Phật gặp được duyên lành rồi, mới đầy đủ đạo sở hành của Bồ-tát, tu hành tự bên trong.

-Kinh: “Sẽ được thành Phật cho đến Phật Thế tôn”.

-Tán: Thọ ký quả. Có sáu, đây là phần tự thể.

Ngài Ca-chiên-diên, ở thời quá khứ từng làm vị tăng quét sân. Nay thân thường tỏa ra sắc vàng, dung nghi khoan thai, mắt nhìn có ánh sáng, tai nghe pháp ánh sáng nên hiệu là Diêm phù Kim Quang. Thiệmbộ Na-đề là tên cây. Cây này nằm bên bờ ao Vô Nhiệt của châu này. Có kinh nói ở bờ Bắc của châu này. Gần dưới cây có ánh sáng màu sắc tía tỏa sáng lấn át cả mặt trời, mặt trăng.

-Kinh: “Mặt đất bằng phẳng cho đến người thấy đều vui mừng.”

-Tán: Đây chỉ tướng một cõi nước. Có năm thứ: Bằng phẳng,đất báu, cây báu, dây vàng và hoa đẹp.

Ngài Ca-chiên-diên đoan chánh chúng sanh thấy đều vui mừng. Do nhân duyên quét đất, tướng cõi đất bên ngoài người thấy cũng vui mừng.

-Kinh: “Không có bốn đường ác cho đến hai mươi tiểu kiếp.”

-Tán: Trong đây có bốn ý: Không có đường ác, nhiều trời người, quyến thuộc và tuổi thọ của Phật.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến chân thật không khác cho đến”

-Tán: Trở xuống bảy hàng tụng chia làm hai:

  1. Một hàng tụng là nêu bảo, sáu hàng là chánh bảo.
  2. Đây là nêu bảo.

-Kinh: “Ngài Ca-chiên-diên cho đến cúng dường xá-lợi cho đến”

-Tán: Thọ ký có hai: Hai hàng đầu tụng nói về thọ ký nhân, bốn hàng sau tụng nói về thọ ký quả.

Đây là tụng về thọ ký nhân.

-Kinh: “Thân rốt sau của ông cho đến thường đến kính cúng dường.

-Tán: Bốn hàng tụng về thọ ký quả.

Một hàng tụng đầu về tướng cõi.

Một hàng kế tụng về ruộng phước.

-Kinh: “Ánh quang của Phật cho đến trang nghiêm cõi nước.”- Tán: Hai hàng tụng nói trong phần thọ ký quả:

Một hàng tụng nói về tự thể.

Một hàng tụng nói về quyến thuộc.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến cung kính tôn trọng.”

-Tán: Phần thọ ký cho ngài Mục-kiền-liên. Đoạn này trong văn cũng đồng như trước. Thọ ký nhân cũng có hai: Sơ thời và Hậu thời.

Sơ thời có hai: Phật tại thế và sau khi Phật diệt độ.

Trên là phần nói về Phật tại thế.

-Kinh: “Chư Phật sau khi diệt độ cho đến dùng để cúng dường.”- Tán: Sau khi diệt độ có hai: Xây tháp và cúng dường.

-Kinh: “Sau lúc ấy cho đến cũng như trước”.

-Tán: Đây nói nhân hậu thời.

-Kinh: “Sẽ được thành Phật cho đến Thế tôn.”

Tán: Đây là phần thọ ký quả có bảy. Đây là phần tự thể.

Đa-ma-la-bạt chiên-đàn hương: Đa nghĩa là tánh.

A-ma-la nghĩa là Vô cấu. Đây lược bỏ chữ A. Bạt-đà-la nghĩa là Hiền. Lược gọi chung là: Phật Tánh vô cấu hiền chiên-đàn hương vì ngài Mục-kiền-liên phiền não nhẹ nhàng nên gọi là Vô cấu, nhân đức như hương có thể huân tập nên gọi là Phật hiền chiên-đàn hương.

-Kinh: “Kiếp tên là Hỷ mãn cho đến người thấy đều vui mừng.”

-Tán: Trong đây có ba phần: Tên kiếp, tên nước và tướng cõi nước.

Tướng cõi nước có bốn: Bằng phẳng, đất báu, cây báu, hoa châu báu.

-Kinh: “Nhiều chúng trời người cho đến bốn mươi tiểu kiếp.”

-Tán: Trong đây nói ba ý: Nhiều đường lành, quyến thuộc và tuổi thọ.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến vâng giữ Phật pháp.” cho đến

-Tán: Tụng thọ ký trở xuống mười hàng chia làm hai:

  1. Năm hàng tụng về thọ ký nhân.
  2. Năm hàng tụng về thọ ký quả.Trong phần thọ ký nhân lại chia làm hai: a. Ba hàng đầu tụng Phật tại thế. b. Hai hàng kế tụng về sau khi Phật diệt độ. Đây là nói phần đầu, gồm có: a.1. Một hàng rưỡi tụng gặp duyên lành. a.2. Một hàng rưỡi tụng về tu pháp Hạnh mầu.

-Kinh: “Chư Phật sau khi diệt độ cho đến Bồ-tát đạo đã xong.”

Trường là tiêu biểu cho cõi vàng, dùng vàng làm cõi. Tiếng Phạm là Chế-đa-la. Ở nước kia không phân biệt là tràng phan và sao. Tức ở nơi bát che bát, đầu trụ treo phan. Nay dịch chữ sát là âm thanh là sai.

Vì có sự tiêu biểu nên gọi là trường biểu.

-Kinh: “Ở cõi nước Ý lạc cho đến giảng nói Phật đạo.”

-Tán: Năm hàng tụng thọ ký quả. Tụng sáu ý ở đây có bốn: Tên nước, tuổi thọ của Phật và đường lành.

-Kinh: “Thanh-văn vô lượng cho đến tượng pháp cũng vậy.”- Tán: Đây nói hai ý: Quyến thuộc và thời gian pháp trụ.

-Kinh: “Chúng đệ tử của ta cho đến đều được thành Phật.” cho đến

-Tán: Đoạn thứ hai cuối phẩm nói sẽ được thọ ký là lý do dẫn đến châu thứ ba nói pháp. Trong đây chia hai:

  1. Một hàng rưỡi nói sẽ được thọ ký.
  2. Một hàng tụng về Phật hứa nói pháp.

Đây là phần đầu.

-Kinh: “Ta và các thầy cho đến các thầy khéo lắng nghe.”

-Tán: Đây là Phật hứa nói pháp, khuyên bảo tâm chúng đệ tử, nên lắng nghe pháp.

PHẦN CUỐI

PHẨM HÓA THÀNH DỤ

Chia làm ba môn:

  1. Vì sao có phẩm này
  2. Giải thích tên phẩm.
  3. Giải Thích-các chướng nạn.

I. Vì sao có phẩm này có bốn:

1. Hàng thượng căn, trung căn nghe pháp mà được thọ ký, người hạ căn chưa hiểu rõ, nên Phật kế nói họ ở đời quá khứ đã có kết duyên với Đại thừa, và nói về thí dụ hóa thành như tiểu quả ở hiện tại. Nêu lại nhân duyên đã qua giúp cho chứng thật, thuật lại quả đời nay khiến cho bỏ pháp quyền. Khi đã tỏ ngộ hiểu biết mới có thể thọ ký. Do đó mà có phẩm này.

2. Luận giải để đối trị hạng chúng sanh có đủ bảy thứ tánh phiền não. Trong bảy thứ Tăng thượng mạn, loại thứ tư là người có định chấp. Tức là Tăng thượng mạn thật không có mà cho là có. Vì có pháp Tammuội Tam-bạt-đà ở thế gian. Thật không có Niết-bàn mà nghĩ gì có Niết-bàn. Để đối trị hạng này, nên Phật nói Hóa thành dụ.

Lại nói loại người thứ tư phương tiện vào thành Niết-bàn. Thành Niết-bàn đó là thành của các thiền Tam-muội. Vượt qua thành kia rồi khiến cho vào thành đại Niết-bàn. Cho nên người có định là kia đã đắc định, là người phàm phu Hữu học. Nay nói việc quá khứ là để cho nhớ lại. Mạn được khởi đây hoặc là phân biệt của Cõi Dục, hoặc phiền não ở cõi trên. Thành Tam-muội la nơi mà phàm phu Hữu học chuyên tâm mong cầu tức mong được thân Vô học Tận Vô sanh trí. Sau khi thiền định thế gian đã chuyển biến thành giải thoát, lìa năng biến thì không gọi là Tam-muội. Định hữu lậu này gọi là thế gian định. Ý trong đây nói Phật nói ba việc gọi là Đại bát Niết-bàn. 1. Tam thừa đồng được trạch diệt giải thoát, tức là đối với đạo Vô học giải thoát chứng được lý sanh không. Do đây mà sau đó hoặc khổ không còn sanh ra nữa thì gọi là giải thoát. Phật gọi giải thoát này là hóa thành. 2. Chứng trí sanh không là gọi là tam nhập. Vì để dứt hết các khổ hoặc nên nói phương tiện vào thành Niết-bàn. Sau đó đi tiếp đến Đảo châu báu mới thật đến thành Đại Niết-bàn. 3. Trí gia hạnh của Nhị thừa cầu biến chuyển tướng này, chánh chứng giải thoát đạo Vô học đều không có các tưởng phân biệt. Sau khi xuất đạo giải thoát, tâm định thế gian duyên lại để đắc, vì tâm thô nên không biết pháp sở chứng, chỉ thấy có tướng trạng Niết-bàn giải thoát mà trí gia hạnh đã cầu. Đó gọi là Niết-bàn, cho rằng có thật diệt. Há đây chẳng phải là tạm giải thoát, là thế gian định hay sao Cho nên nói vì có Tam-muội thế gian, thật không có Niết-bàn mà nghĩ bà có Niết-bàn. Phàm phu Hữu học nghe giải thoát giả này, không biết cho là thật Niết-bàn, khởi tâm chấp chặc, tác ý mong đến, cho nên nay phá trừ. Nói sở chứng của họ cũng như hóa thành không có thật, không nên mong cầu, huống chi chỉ là tạm biến chuyển của Vô học. Như người Nhị thừa khởi ra bốn điên đảo: Chánh trí chứng sanh không còn chưa khởi chấp, sau khi quán các hành tướng chánh trí trước. Không tự thân đắc, do thấy các hành tướng mong cầu của gia hạnh , bèn cho là thật, khởi lên bốn đảo. Đây cũng như vậy. Chẳng phải tâm vô lậu và định thế gian đều là pháp chấp, mà khi vượt khỏi tâm kia mới khởi chấp. Đây là nghĩa của ngài Hộ pháp, hoặc Sư An Tuệ. Tức ở vị Vô học giải thoát các tâm vô lậu, định tâm thế gian, đều có pháp chấp. Sở chứng trạch diệt đều gọi là hóa thành, người khác mong cầu theo lí đều là Tăng thượng mạn. Luận nói đó là do chúng sanh có tánh phiền não đầy đủ khởi tưởng, nên chẳng phải là Vô học. Lại có giải thích: Đây là chỗ chấp của phàm phu thế gian và chứng đắc Tam-ma-bạt-đề, của thế gian. Sở đắc sáu hạnh giả phi trạch diệt cho là chân Niết-bàn. Phật nói Nhị thừa, Vô học đắc trạch diệt Niết-bàn chỉ là phương tiện khiến vào. Cũng như hóa thành giữa đường dứt khổ, mong hướng đến Đảo châu báu, còn chẳng phải thật diệt độ. Huống chi phàm phu các thầy chỉ đắc pháp Tam-muội thế gian mà chấp là thật diệt độ hay sao? Người Hữu học không khởi lên chấp này, phàm phu thì có. Như dưới nói: Đấng đạo sư, biết không mỏi mệt liền diệt mất hóa thành. Nói trước đó là thành do ta hóa ra. Nói hóa ra thành, diệt mất thành là để phá Nhị thừa chấp Niết-bàn như ngôi thành thật có vì diệt phàm phu, chấp thành là thật. Cho nên trong đây cũng nên như giải thích của ngài hộ pháp.

3. Trong mười nghĩa Vô thượng, thứ hai là hiện hạnh Vô thượng. Cho nên nói “Bổn sự của Đức Đại Thông Trí Thắng Như-lai”. Bồ-đề Đại thừa khó đắc, hạnh cũng khó thành, chẳng phải như Bồ-đề Nhị thừa mau đắc quả, hạnh cũng dễ tu. Cho nên nói Đức Đại Thông Trí Thắng Như-lai mười kiếp ngồi Đạo tràng, mới đắc Bồ-đề sự. Đây trong văn còn lại nói về việc xưa. Hoặc nói việc của Phật Đại Thông. Nói tự thân của Phật lúc ấy tu hành vì mười sáu vị vương tử rồi mới đắc Bồ-đề. Lại các Thanh-văn lúc ấy phát tâm đến nay mới thành thục nhân, hạnh lớn chẳng phải là bất chợt tu mà thành, đó là hạnh Vô thượng. Không nói hạnh của Phật Đại thông, tức sắc nói nay phải nói xưa. Tuy lấy quả đời nay làm tên phẩm, mà nhân cũng ở trong đó, cho nên có phẩm này.

4. Trong mười Vô thượng, thứ ba là thị hiện lực thêm lớn Vô thượng. Cho nên nói thí dụ người dẫn đầu đoàn người đi buôn. Trước nói hóa thành biết không có thật diệt chưa nói thương chủ có thể dẫn thương nhân đến Quả Phật Đảo châu báu. Nay đây nói việc đó nên có phẩm này. Đây chính là nghĩa còn lại, không phải văn còn lại.

II. Giải thích danh: An thần chế ngự giặc thì gọi là thành. Vốn không mà có gọi là hóa. Chế ngự giặc là dứt mỏi mệt sanh tử. An thần là chứng vui vắng lặng. Cho nên dụ ở thành. Phật giả quyền lập bày gọi là hóa. Thành tức là hóa nên gọi là hóa thành, nay là dụ và pháp. Phẩm này nói rộng dụ này gọi là Phẩm Hóa Thành dụ.

III. Giải đáp chướng nạn.

Hỏi: Đều phẩm này nói có hai nghĩa:

1. Nói việc đời trước của Đức Đại Thông tức là hành Vô thượng.

2. Nói sự hóa thành bây giờ, tức là lực thêm lớn Vô thượng. Vì sao chỉ lấy hóa thành làm tên, không lấy Phật sự làm tên?

Đáp: Phật nói giáo vốn là trừ bệnh cho chúng sanh, bệnh sanh có, vốn không có mà có là do tăng thượng mạn, chấp phi trạch diệt là thật. Nay nói trạch diệt là hóa là để trừ tâm đó, xả trừ quyền tạm mà tiến đến đảo châu báu, cho nên lấy hóa thành làm tên phẩm, không lấy Phật sự làm phẩm. Như chánh Pháp Hoa gọi là phẩm Vãng cổ, nghĩa là nói lên Phật quá khứ đã giáo hóa chúng sanh phát tâm Đại thừa. Khiến cho họ nhớ lại, để làm nhân thành thục cho hiện tại, mà nay so với ý đó là dẫn nhập Đại thừa chẳng phải là phá bệnh, cho nên kinh này không lấy vãng cổ làm tên phẩm. Lại quả hóa thành nay hiện được. Việc của Phật Đại Thông ở nhân xưa. Vì hiển quả làm tên phẩm mà không dùng ẩn nhân làm tên phẩm, cũng không sai.

– Kinh: “Phật bảo các Tỳ-kheo cho đến A-tăng-kỳ kiếp.

– Tán: Châu thứ ba nói cho chúng hạ căn.

Y theo như hai chu trước, ở đây cũng chia làm bốn đoạn:

  1. Phẩm này, Phật dùng thí dụ làm chánh hóa.
  2. Phẩm cuối này, tức đầu phẩm sau (Ngũ bách đệ tử thọ ký) nói ngài Mãn Từ Tử lãnh ngộ.
  3. Túc trong phẩm Ngũ bách đệ tử thọ ký, từ câu “Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy thấy Mãn Từ Tử đây chăng?.v…” trở xuống là Phật thuật lại sự thành tựu.
  4. Từ câu: “Các Tỳ-kheo! Phú-lâu-na này cũng là bậc nhất trong các vị nói pháp thuở bảy Đức Phật” trở xuống: Phật thọ ký cho.

Đoạn văn đầu chia làm hai phần: Đầu tiên nói nhân duyên đời trước, khiến nhớ lại đã lui sụt Đại thừa, thành tựu Tiểu thừa. Sau từ câu: “Các Tỳ-kheo! Nếu đức Như-lai tự biết giờ Niết-bàn sắp đến, chúng lại thanh tịnh” v.v… trở xuống là nói lên quả nay, để biết bỏ quyền, lấy thật.

1. Nói về túc nhân. Khiến cho nhớ lại lui sụt Đại thừa mà tu tiểu quả.

2. Các Tỳ-kheo! Như-lai tự biết đã đến lúc nhập Niết-bàn cho đến. Đầu tiên là nói nhân duyên xưa, để đại chúng thấu đạt việc đã tu đại trước kia lui sụt trụ ở tiểu quả. Nói theo quả thì gọi là hành Vô thượng, nói về bổn sự của Đại Thông Như-lai, sau đó thuật lại quả đắc hiện nay. Luận gọi là phá người có định. Tăng thượng mạn chấp không là có. Lại vì thị hiện lực thêm lớn Vô thượng, cho nên có dụ người đi buôn. Nói đầu tiên đã phát đại tâm khiến nay giữ lấy đại quả. Kế nói quả sau là hóa khiến cho bỏ tiểu qua, do đây mà chia làm hai: Văn đầu có hai:

1. Nói nhân duyên quá khứ kết hội ở việc tự thân của Phật.

2. “Các Tỳ-kheo… Lúc chúng ta làm Sa-di, mỗi người giáo hóa v.v…” là quá khứ kết duyên, hội việc của đệ tử. Ý này nói chung về quá khứ từng hóa độ kết duyên Đại thừa khiến cho sanh tín hiểu.

Văn nói nhân duyên quá khứ lại chia làm hai:

  1. Văn xuôi, một kệ tụng nói Đức Đại Thông Phật xưa nay, xa gần.
  2. Phật bảo các Tỳ-kheo: “Tuổi thọ của Phật Đại Thông Trí Thắng v.v…” trở xuống việc là nói về việc ấy. Phần văn xuôi có hai:

a) Nói việc lâu xa của Đức Phật kia.

b) Nói những việc đã thấy.

Phần một lại có hai: Bảo chúng và hỏi đáp.

Phần bảo chúng có bốn điều: Thời, Danh, Nước và Kiếp.

Ở đây nói phần đầu.

-Kinh: “Bấy giờ có Phật cho đến kiếp tên là Đại Tướng.”- Tán: Đây là nói ba việc sau.

-Kinh: “Các Tỳ-kheo cho đến chấm hết mực bằng địa chủng ở trên.

-Tán: Đây trở xuống là hỏi đáp có ba phần hỏi, đáp và nói việc rất lâu xa.

Trong hỏi có hai phần: So sánh lượng và hỏi.

Đây là phần một.

-Kinh: “Ý các thầy nghĩ sao? Cho đến thưa Thế tôn! Không thể biết”.

-Tán: Đây là hỏi và đáp.

-Kinh: “Các Tỳ-kheo cho đến a-tăng-kỳ kiếp.”- Tán: Đây nói việc lâu mau.

Với tất cả cõi nước nhiều như cát bụi, lấy những cõi đã qua như cát bụi đều có chấm mực, hoặc không có chấm mực, nghiền thành bụi nhỏ. cứ một hạt bụi tính là một kiếp. Từ khi Phật đó diệt độ đến nay còn nhiều hơn số kiếp đó. nghiền nát là lấy tay mài thành.

-Kinh: “Ta dùng sức tri kiến của Như-lai cho đến giống như ngày nay.”

-Tán: Đây là nói Phật đã có thể thấy, tức dùng túc mạng trí, tuệ nhãn thấy.

Hỏi: Đức Thích-ca tu hành không vượt qua ba tăng-kỳ. Vì sao trần kiếp lại quá nhiều, lúc ấy Phật còn xưng là Vương tử.

Đáp: Có bốn vì sao:

1. Vì sao bình đẳng: Nghĩa là Phật bảo: Ta lúc ấy từng gọi là Thắng Quan, tức pháp thân bình đẳng.

2. Vì sao Biệt thời: Nghĩa là nguyện sanh Cực Lạc đều được vãng sanh. Tạm nghe danh hiệu của Phật Vô Cấu Nguyệt Quang thì chắc chắn đối với pháp Bồ-đề không lui sụt.

3. Biệt nghĩa: Nói các pháp đều không có tự tánh, không có sanh diệt, xưa nay Niết-bàn.

4. Ý chúng sanh ưa thích: Nghĩa là một gốc lành hoặc khen hoặc chê đều giúp cho tăng tiến. Nay nương vào ý thú bình đẳng mà nói các Phật sự khác. Tức thân ta bình đẳng với tất cả. Nếu không như vậy thì sao nói từng ấy kiếp số? Lại thiện tâm nối tiếp đầy đủ ba kỳ kiếp các tâm nói chung này có chướng ngại? Kiếp số từng ấy là ở thời Đức Phật kia còn làm vương tử. Lại y vào năm tháng thời gian tức đâu có chướng ngại tự thân của Phật Thích-ca trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp?

-Kinh “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến hiệu Đại Thông Trí Thắng.”

-Tán: Trở xuống bảy hàng tụng chia làm hai: Năm hàng đầu tụng thời gian rất lâu xa. Hai hàng sau tụng Phật năng thấy. Năm hàng lại chia làm hai:

  1. Một hàng tụng danh hiệu Phật.
  2. Bốn hàng tụng nói về kiếp số.

Đây là phần một.

-Kinh: “Như người dùng sức mài cho đến vô lượng kiếp như thế”.

-Tán: Đây là nói về kiếp số.

-Kinh: “Trí Như-lai vô ngại cho đến thông đạt vô lượng kiếp.”- Tán: Tụng Phật năng thấy.

-Kinh: “Phật bảo các Tỳ-kheo cho đến na-do-tha kiếp.”

-Tán: Đoạn thứ hai chánh nói về việc Đức Phật kia. Trở xuống dưới là văn xuôi rồi tụng.

Đầu tiên hội các việc của tự thân. Văn này nói bốn ý lớn

  1. Phật thành đạo, tuổi thọ.
  2. Khi Phật chưa xuất gia có mười sáu vị vương tử cho đến nói Phật xoay bánh xe pháp.
  3. “Bấy giờ mười sáu vương tử đều là đồng tử xuất gia” cho đến, nói các vương tử nối tiếp đèn pháp
  4. Các Tỳ-kheo! Nay Ta nói với các thầy: Mười sáu Sa-di đệ tử của Đức Phật kia” cho đến hội thành Phật nay Văn đầu có ba:
  1. Nói tuổi thọ của Phật.
  2. Pháp khó đắc.
  3. Nói việc đắc đạo.

Đây là phần đầu.

-Kinh: “Phật xưa ngồi đại Đạo tràng cho đến chẳng hiện ra trước.”

-Tán: Nói pháp khó đắc. Có bốn:

  1. Không hiện tiền.
  2. Các vị trời trải tòa.
  3. Rải hoa đẹp.
  4. Tấu nhạc.

Ở đây là phần đầu.

Báo thân thành đạo theo lí là rất khó, hóa thân thành đạo đâu ngại gì hiện hóa? Nay báo thân Phật kia lại cùng thị hiện tướng khởi.

Luận chép: Ở đây muốn nói đạo Bồ-đề khó đắc. Theo kinh Hoa Nghiêm nói mười việc, cho nên nói ngồi ở đạo tràng, bắt đầu rung chuyển tất cả cõi Phật, cho đến gốc lành của mình đều thọ trì tất cả chúng sanh. Cho nên ngồi Đạo tràng, phá trừ ma quân cũng có mười nghĩa. Bắt đầu từ cõi đời có năm thứ vẩn đục, chúng sanh tương phạt lẫn nhau là muốn hiển rõ công đức lực của Bồ-tát. Cho đếm thuận theo chúng sanh ở cõi đời năm thứ vẩn đục, mà thị hiện ra để hàng phục ma. Không như vậy. Vì sao? Vì ma oán làm sao có thắng lực để cạnh tranh với Phật, Bồ-tát?

Lại Phật Thích-ca khi phá trừ ma quân các bộ nói khác nhau. Có nói nói đạo rồi mới phá ma quân. Kinh Niết-bàn cũng nói như vậy. Có nói nói phá ma quân mới thành đạo. Văn kinh hiện có hai nói này. Ở đây nói Phật phá ma quân rồi mới thành đạo. Việc này không chắc chắn, tùy theo sự thị hiện. Lại nói Phật Di-lặc trong ngày xuất gia liền thành Phật. Kinh nói: Phật Thích-ca trước khổ hạnh sáu năm, nay Phật này thành đạo ngồi suốt mười kiếp. Đều là thị hiện tướng khác nhau, không thể một lí do nào chắc chắn.

-Kinh: “Bấy giờ ở cung trời Đao-lợi cho đến Tam-miệu Tam-bồ-đề.”

-Tán: Nói về trải tòa.

Kinh Bát-nhã Thắng Thiên Vương chép: Mỗi vị trời đều dâng Phật một tòa. Phật đều thọ nhận để ngồi tu chứng đạo Bồ-đề nên dùng thần lực hợp lại thành một tòa khiến các vị trời đều chỉ thấy Phật ngồi vào tòa mình để tu chứng quả Bồ-đề phát tâm vui mừng, không thấy các tòa ngồi khác. Cho nên đây cũng nói các vị trời làm tòa, chẳng phải cùng làm ra một tòa.

-Kinh: “Lúc ngồi vào tòa này cho đến thường rải hoa này như mưa.”

-Tán: Nói rải hoa, hoa nhiều như núi Tu-di: Nên biết đó là thân Tha thọ dụng.

-Kinh: Các trời tứ thiên vương cho đến cũng giống như vậy.”

-Tán: Nói tấu nhạc. Trong văn kính thường nói trổi âm nhạc để cúng dường.

-Kinh: “Các Tỳ-kheo cho đến Tam-bồ-đề.”

-Tán: Nói Phật đắc đạo.

-Kinh: “Phật lúc chưa xuất gia… gọi là Tri Tích.”

-Tán: Ý lớn thứ hai Phật xoay bánh xe pháp. Ở đây có hai:

-Cúng dường thỉnh chuyển.

-“Bấy giờ Đại Thông Trí Thắng Như-lai,”… thọ lơi thỉnh của các Phạm Thiên mười phương cúng dường. Trở xuống là nói Phật hứa vì xoay bánh xe pháp. Thỉnh chuyển có hai phần: một là mười sáu vị vương tử cúng dường Phật thỉnh xoay bánh xe pháp. Hai là Phạm Thiên vương thỉnh. Thân tộc thì hiện tiền, không thân tộc thì không hiện tiền. Văn đầu nói hai ý: Đến chỗ Phật và lễ tán.

Đến chỗ Phật có năm ý: Là con Phật, đến lễ Phật, mẹ tiễn đưa, nội tiễn đưa.

Đây là phần đầu.

Thân Tha thọ dụng thì có cha mẹ v.v…

Kinh Cổ Âm Vương chép: Phật A-di-đà có cha tên là Nguyệt Thượng, mẹ là Thù Thắng, dung mạo rất tốt đẹp có con, có ma, hóa thất địa trở xuống có sanh tử phần đoạn, có cha mẹ. Hóa Bát địa trở lên có sanh tử Biến dịch , theo lý không có pháp này. Thân Tha thọ dụng cùng xuất hiện với kim luân. Đây là nội tổ của Phật làm vua Chuyển luân. – Kinh: “Các con đều có cho đến đi đến chỗ Phật.” – Tán: Đến chỗ Phật.

-Kinh: “Các người mẹ khóc lóc cho đến đi theo đến Đạo tràng.”- Tán: Phần ba: Mẹ đưa và nội tiễn đi.

Khóc lóc là mắt ra nước mắt gọi là thế, khóc không ra tiếng gọi là khấp.

-Kinh: “Đều muốn gần gũi cho đến tôn trọng khen ngợi.”- Tán: Ý đến Phật.

Kinh: “Đến rồi đầu mặt đảnh lễ cho đến Thiện tai! Bậc Vô thượng tốt lành”.

Tán: Nói lễ tán. Có hai phần:

  1. Thân lễ.
  2. Miệng khen.

Tám hàng tụng dưới chia làm ba:

  1. Một hàng tụng rưỡi: Khen ngợi Chư Phật, nguyện đầy đủ thắng đức.
  2. Hai hàng tụng khen ngợi Phật tu nhân thắng đức.
  3. Bốn hàng tụng rưỡi: Giải bày ý quy y, lễ bái.

Đây là phần một. Cát là cát tường, là đầy đủ việc lành.

– Kinh: “Thế tôn thật ít có cho đến an trú pháp vô lậu.” – Tán: Khen ngợi Phật tu nhân thắng đức.

Một phen ngồi mười tiểu kiếp, theo: Kinh Hoa Nghiêm nói có mười thứ ngồi.

  1. Vua Chuyển luân ngồi cùng thập thiện.
  2. Tứ Thiên vương, ngồi muốn trong tất cả thế giới chánh pháp Chư Phật tu hành tự tại.
  3. Đế Thích: Ngồi tự tại đối với tất cả hành của chúng sanh.
  4. Phạm thiên vương ngồi mà tâm mình tâm người đều được tự tại.
  5. Sư tử ngồi: Phân biệt giảng nói nghĩa sâu x
  6. Chánh pháp ngồi: Muốn nói pháp tổng trì, các năng lực biện tài.
  7. Vững chắc Tam-muội ngồi: Rốt ráo Đại Bồ-đề.
  8. Đại từ ngồi: Khiến cho người tâm ác vui mừng.
  9. Đại bi ngồi: Có thể nhẫn tất cả các khổ não.
  10. Kim cương ngồi: Hàng phục chúng ma, ngoại đạo.

Ở đây là nói Tam-muội vững chắc, ngồi kim cương. Yên tĩnh là thân định. Tâm đạm bạc là chỉ cho tâm định. Đạm bạc trong Nói văn là chỉ sự an tịnh. Nghĩa là đạm bạc an vui.

– Kinh: “Nay thấy Đức Thế tôn cho đến vui mừng đại vui mừng.” – Tán: Bốn hàng tụng rưỡi: Ý giải bày quy y, lễ Phật. Có hai:

  1. Một hàng tụng nói Phật đắc đạo, chúng con được lợi ích.
  2. Ba hàng tụng rưỡi là: Giải thích lý do.

Trên là nói Phật đắc đạo.

-Kinh: “Chúng sanh thường khổ não cho đến mãi chẳng nghe danh hiệu Phật.”

-Tán: Giải thích lý do. Có hai:

  1. Hai hàng tụng đầu nói các chúng sanh không gần gũi bạn lành, luân hồi chịu khổ.
  2. Một hàng rưỡi tụng được lợi ích nên quy y đảnh lễ.

Hai hàng đầu: “Thường khổ là khổ đế, mê mờ là tập đế. Không biết khổ hết là đạo đế, không cầu giải thoát là diệt đế. Đối với bốn đế này đều không thể biết. Chúng trời bị tổn giảm, từ tối vào tối không nghe danh hiệu Phật.” Minh là tối, minh là ban đêm, là tối tăm, tối tăm che mắt người, làm cho không thể thấy.

-Kinh: “Nay Phật đắc tối thượng cho đến quy mạng đấng Vô thượng”.

-Tán: Được lợi ích nên quy y, lễ kính.

-Kinh: “Bấy giờ mười sáu vị vương tử cho đến các trời và người thế gian.”

-Tán: Đây là phần hai: Thỉnh xoay bánh xe pháp. Gồm có: Văn xuôi và Kế tụng.

Văn xuôi. Nói về sự an ổn và tâm thương xót cứu khổ của Phật. – Kinh: Giảng nói lại kệ rằng “cho đến nguyện vì thế gian nói.” – Tán: Trở xuống bốn hàng tụng rưỡi chia làm ba:

  1. Một hàng tụng: Nói đức trong ngoài của Phật đều đầy đủ, nên cầu thỉnh.
  2. Một hàng rưỡi tụng: Có lợi ích lớn nên thỉnh.
  3. Hai hàng tụng sau: Nói Phật biết thông suốt nên cầu thỉnh.Đây là phần đầu.

-Kinh: “Độ thoát cho chúng con cho đến chúng sanh cũng như vậy.”

-Tán: Có lợi ích lớn nên thỉnh.

-Kinh: “Thế tôn biết chúng sanh cho đến thường chuyển luân Vô thượng.”

-Tán: Vì Phật biết thông suốt cho nên thỉnh. Biết này có năm thứ:

  1. Sở niệm tức là Dục lạc, thắng giải.
  2. Sở hành đạo tức Biến thú hành.
  3. Lực trí tuệ tức là căn thắng liệt.
  4. Túc mạng tức là Túc trú lực.
  5. Nghiệp tức tự nghiệp trí lực.

Dục lạc tức là sở niệm. Tu phước tức là nghiệp, đây lược nêu ở đây nhiếp cả ngũ lực còn lại.

– Kinh: “Phật bảo các Tỳ-kheo cho đến sáu thứ rung chuyển.” – Tán: Phạm thiên cúng dường, thỉnh Xoay bánh xe pháp. Có hai:

  1. Thần quang động chiếu.
  2. Cúng dường thỉnh chuyển.Văn đầu có ba ý:
  3. Rung chuyển thế giới mười phương .
  4. Ánh sáng chiếu sáng chốn tối tăm.
  5. Ánh sáng chiếu động cõi Phạm cung.

Đây là phần đầu.

-Kinh: “Trong cõi nước đó v bỗng sanh ra chúng sanh.”

-Tán: Chiếu sáng nơi tối tăm. Tức trong núi thiết vi giữa hai thế giới, núi Thiết vi.

-Kinh: “Lại trong cõi nước đó cho đến sáng hơn ánh sáng của trời”.

-Tán: Chiếu sáng rung chuyển cả Phạm cung, dần dần cung thỉnh.

-Kinh: “Bấy giờ ở phương Đông… cùng bàn luận việc này.”- Tán: Thỉnh chuyển cúng dường.

Văn lớn dưới đây chia làm năm phần:

  1. Phương Đông.
  2. Phương Đông nam.
  3. Phương Nam.
  4. Sáu phương tương tự trước.
  5. Phương trên.

Ngoài trừ hai phần bốn và năm, còn lại mỗi phương đều có phương đều có văn nói và đều có bốn ý.

  1. Thấy ánh sáng kinh ngạc, bàn tán.
  2. Theo ánh sáng tìm đến chỗ Phật.
  3. Lễ bái thỉnh xoay bánh xe pháp.
  4. Phật im lặng hứa khả.Ý đầu, văn chia làm hai:

a) Phạm chúng kinh ngạc thưa hỏi.

b) Một vị trời thỉnh Phật.

Phần đầu: Đây đều chung cả tứ thiền Phạm vương. Hoặc chỉ Sơ thiền thỉnh Xoay bánh xe pháp, lượng bằng Phước cõi trời Phạm.

Văn này lại nêu ba ý: Ánh sáng, suy nghĩ, và bàn bạc.

-Kinh: “Bấy giờ trong chúng kia cho đến biến chiếu khắp trong mười phương.”

-Tán: Một vị trời thỉnh Phật.

Các người có đủ uy đức ở trong cõi Trời, lúc gần sanh ánh sáng chiếu rõ trước. Cho nên ở đây nghi rằng: Là trời có uy đức lớn sanh ư.

-Kinh: “Bấy giờ năm trăm cho đến suy tìm tướng đó”.

-Tán: Tìm ánh sáng mà đến chỗ Phật. Có hai ý:

  1. Cầm đãy đựng hoa trời đi đến chỗ Phật.
  2. Thấy Phật, đại chúng vui mừng.

Đây là phần một.

-Kinh: “Thấy Đại Thông Trí Thắng cho thỉnh Phật Xoay bánh xe pháp.”

-Tán: Thấy Phật, đại chúng vui mừng .

-Kinh: “Tức thời các Phạm thiên, Thiên vương… cao mười dotuần.”

-Tán: Lễ tán thỉnh chuyển. Có hai: Cúng dường và thỉnh chuyển.

Văn xuôi có hai: Đến lễ Phật, rải hoa. Và Dâng cúng xin Phật thọ nhận.

Đây là phần đầu.

-Kinh: “Dâng hoa cúng dường rồi cho đến nguyện xin Phật thọ nhận”.

-Tán: Đây là nói thỉnh Phật thọ nhận an xứ.

-Kinh: “Bấy giờ các Phạm thiên vương cho đến đều được lợi ích.”

-Tán: Trở xuống bốn hàng tụng chia làm ba:

  1. Hai hàng tụng khen ngợi năm đức.
  2. Một hàng tụng nêu ra lý do đến Phật.
  3. Một hàng tụng thỉnh Phật thọ nhận.

Đây là phần đầu.

-Kinh: “Chúng con cùng theo đến cho đến cúi xin thương xót nhận.”

-Tán: Đầu tiên nêu lý do. Sau tụng là lời nạp thọ.

-Kinh: “Bấy giờ các Phạm thiên vương cho đến độ chúng sanh khổ não.”

-Tán: Đây là thỉnh Phật xoay bánh xe pháp.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Đại Thông… im lặng hứa khả.”

Hỏi: Vì sao lúc sắp Niết-bàn, Phật im lặng là không thọ sự cung thỉnh của người. Nay im lặng là hứa nói cho người nghe?

Đáp: Xưa giải thích, nhan sắc Phật có thay đổi mà người thỉnh biết Phật hứa hay không hứa.

Lại nói: Vì thân Phật tỏa ra ánh sáng biểu hiện nên biết Phật thọ hay không thọ.

Lại nói Phật lúc mới thành đạo, tự tuyên bố nói, thông thường Phật mặc nhiên là thọ thỉnh. Khi sắp Niết-bàn im lặng là không thọ thỉnh. Lại khi thọ thật theo lý phải chú nguyện, im lặng là biết Phật không chấp thuận. Hứa nói im lặng đã là thuận thỉnh, không cần nói ra mới hứa.

-Kinh: “Lại các Tỳ-kheo cho đến cùng bàn việc này.”

-Tán: Nói phương Đông nam. Văn lớn cũng có bốn. Đầu tiên là chúng Phạm thiên kinh ngạc bàn luận.

-Kinh: “Bấy giờ trong chúng kia cho đến độ thoát chúng sanh khổ.”

-Tán: Đây nói một vị trời cầu thỉnh Phật.

-Kinh: Bấy giờ, năm trăm cho đến thỉnh Phật xoay bánh xe pháp cho đến”

-Tán: Tìm ánh sáng đi đến chỗ Phật. Là phần hai, có hai ý:

  1. Cầm đãy đựng, hoa tìm đến chỗ Phật.
  2. Thấy Phật ai cũng vui mừng.

-Kinh: “Bấy giờ các Phạm thiên vương cho đến cúi mong Phật thọ nhận”.”

-Tán: Phần ba lễ tán thỉnh chuyển. Có hai: Cúng dường và thỉnh chuyển.

Đây là phần Văn xuôi nêu sự cúng dường.

-Kinh: “Bấy giờ các Phạm thiên vương… chúng con nay kính lễ.”- Tán: Bốn hàng tụng rưỡi khen ngợi chia làm bốn:

  1. Một bài thỉnh lễ.
  2. Một hàng tụng rưỡi khen ngợi ít có.
  3. Một hàng tụng khen ngợi làm mắt cho chúng sanh.
  4. Một hàng tụng khen ngợi đấng cha lành.

Đây là phần đầu.

Ca-lăng-tần-già là loài chim có tiếng hót rất hay, dùng âm thanh mầu nhiệm mềm mỏng trong trẻo, hòa nhã… cho nên Phật lấy đây làm ví dụ.

-Kinh: “Thế tôn thật ít có cho đến các vị trời chúng giảm thiểu.”- Tán: Khen ngợi ít có.

-Kinh: “Nay Phật hiện ở đời cho đến được gặp Thế tôn…”

-Tán: Một hàng tụng đầu khen ngợi làm mắt cho chúng sanh, một hàng sau tụng về đấng cha lành.

-Kinh: “Bấy giờ các Phạm thiên vương cho đến nhẫn thiện càng thêm lớn.”

-Tán: Đây là phần thỉnh chuyển. Khen ngợi Chư Phật sanh lợi ích.

Bậc Nhẫn thiện tăng ích là nhập vào Thánh đạo.

Kinh: “Bấy giờ Đại Thông cho đến im lặng hứa khả.”- Tán: Phần bốn Phật im lặng nhận lời.

-Kinh: “Lại các Tỳ-kheo cho đến là Phật xuất hiện ở đời.”

-Tán: Nói về phương Nam. Y theo trước cũng có bốn phần: Đây là đoạn các vị trời thấy ánh sáng kinh ngạc bàn luận. Có hai:

  1. Chúng Phạm thiên kinh ngạc bàn luận.
  2. Các vị trời thỉnh cầu.

– Kinh: “Bấy giờ năm trăm cho đến Xoay bánh xe pháp.”

– Tán: Phần hai là tìm ánh sáng đến chỗ Phật. Có hai:

  1. Cầm đãy đựng hoa tìm đến chỗ Phật.
  2. Thấy Phật vui mừng.

-Kinh: “Khi đó, các Phạm thiên vương cho đến cúi xin Phật thọ nhận.”

Tán: Phần ba: Cúng dường và thỉnh chuyển. Đây là phần đầu.

-Kinh: “Bấy giờ, các Đại phạm cho đến nên nói tiếng sâu xa.”

-Tán: Thỉnh chuyển. Trước là Văn xuôi, sau là kệ tụng. Văn ý có thể biết.

-Kinh: “Bấy giờ cho đến im lặng nhận lời”.

-Tán: Phần bốn: Phật im lặng nhận lời.

-Kinh: “Phương Tây nam cho đến cũng giống như vậy.”

-Tán: Nói sáu phương khác. Sự ý giống các phương trước. Sợ văn dài dòng, nên nói cũng giống như vậy.

-Kinh: “Bấy giờ ở phương trên cho đến là Phật xuất hiện ở thế gian.”

-Tán: Nói ở phương trên có ba phần thứ tư là hứa. Đây là các vị trời thấy ánh sáng kinh hãi bàn luận. Có hai:

  1. Các vị trời kinh ngạc bàn luận.
  2. Một vị thỉnh cầu.

– Kinh: “Bấy giờ năm trăm… xoay bánh xe pháp.” – Tán: Nương ánh sáng tìm đến Phật. Có hai:

  1. Cầm đãy đựng hoa tìm đến chỗ Phật.
  2. Thấy Phật vui mừng.

-Kinh: “Bấy giờ các Phạm thiên vương cho đến cúi xin thọ nhận.”

-Tán: Phần ba cúng dường thỉnh chuyển. Có hai:

  1. Cúng dường.
  2. Thỉnh chuyển.

Phần đầu lại có hai, đây là Văn xuôi.

-Kinh: “Lúc đó, các Phạm thiên vương cho đến rộng độ tất cả cho đến”

-Tán: Trở xuống mười hàng rưỡi tụng chia làm bốn:

  1. Bảy hàng tụng rưỡi, khen ngợi đức của Phật.
  2. Một hàng thấy Phật sanh vui mừng.
  3. Một hàng tụng xin Phật thọ nhận.
  4. Một hàng tụng hồi hướng.

Bảy hàng rưỡi đầu lại chia làm hai: a.Hai hàng tụng là nêu ra. b. Năm hàng tụng rưỡi giải thích.

Hai hàng đầu: Một hàng tụng đầu khen ngợi nhổ gốc. Một hàng tụng sau khen ngợi ban vui.

Chữ Miễn cũng là cứu khỏi. Như nói cha cứu con, anh cứu em.

Kinh Niết-bàn gọi là môn Cam lồ. Nghĩa là lý Thánh đạo gọi là Cam lồ, giáo gọi là môn.

-Kinh: “Xưa vô lượng kiếp cho đến chết nhiều đọa đường ác” cho đến

-Tán: Năm hàng tụng rưỡi giải thích. Trong đây có hai:

  1. Bốn hàng rưỡi tụng về sanh tử luân hồi.
  2. Một hàng tụng giải thích việc Phật cứu khổ.

Bốn hàng rưỡi:

  1. Hai hàng tụng nói chịu quả khổ .
  2. Hai hàng tụng rưỡi, tụng hành nhân ác.

Đây là phần một.

-Kinh: “Không theo Phật nghe pháp cho đến thường đọa vào đường ác.”

-Tán: Đây là hành nhân ác. Văn có hai:

  1. Một hàng tụng rưỡi nói: Người tại gia có hành vi ác.
  2. Một hàng tụng ngoại đạo hành hành vi ác. Lạc là vui quả trời người.

Lạc tưởng là nhân của lạc. Lại lạc có nghĩa là lạc cảnh sở thủ. Lạc tưởng là lạc năng thủ. Lại lạc là tự thể của lạc thọ, lạc tưởng là lạc của đối trị khổ. Nghĩa là lúc nóng lạnh tạm dứt tạm gọi là vui.

-Kinh: “Phật là mắt thế gian cho đến cho nên hiện ra ở đời.”- Tán: Một hàng tụng giải thích Phật năng cứu khổ.

-Kinh: “Siêu việt thành Chánh giác cho đến vui mừng chưa hề có.”

-Tán: Thấy Phật sanh lòng vui mừng.

-Kinh: “Cung điện của chúng con cho đến đều cùng thành Phật đạo.”

-Tán: Hai hàng tụng: Một bài tụng Phật thỉnh nạp, một hàng sau hồi hướng.

-Kinh: “Bấy giờ năm trăm cho đến pháp tu vô lượng kiếp.”- Tán: Đây là phần thỉnh chuyển.

Một hàng tụng tán, một bài tụng thỉnh.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Đại Thông Trí Thắng Như-lai… xoay bánh xe pháp mười hai hành”.

-Tán: Trên là cúng dường thỉnh chuyển, đây trở xuống là Phật chấp thuận Xoay bánh xe pháp. Có bốn phần:

  1. Phật chấp thuận chuyển pháp.
  2. Chỗ khác không thể.
  3. Nói pháp được chuyển.
  4. Chúng sanh nghe được lợi ích.

Ba phen chuyển có hai ý: Tự chuyền và tha chuyển.

Nay vì người chuyển mà chẳng phải Phật tự chuyển. Nói rằng: “Đây là Khổ Thánh đế” gọi là Thị tướng chuyển. “Thánh đế này nên biết khắp là khuyến tu chuyển. “Đã biết khắp Thánh đế này” là tác chứng chuyển. Thực Hành pháp luân này để di động thì gọi đó là nghĩa chuyển. Mỗi lần chuyển đó khiến cho người nghe pháp phát sanh mắt tuệ chân Thánh vô lậu, tùy theo thứ tự đó. Đối với khổ đế của quá khứ, hiện tại, vị lai, sanh ra trí, minh, giác. Như thế một lần chuyển có bốn hành chung riêng. Ba lần chuyển đế đều có mười hai hành tướng. Nhưng trong các pháp số chỉ nói ba lần chuyển mười hai hành tướng. Ba lần chuyển hiển bày giúp cho nhập vào ba pháp: kiến đạo, tu đạo và Vô học. Như trong quyển thứ tư trước có giải thích.

-Kinh: “Hoặc như Sa-môn cho đến không thể chuyển được.”

-Tán: Phần hai: Chỗ khác không thể chuyển, vì chưa thật chứng.

Chỉ có Phật có thể làm Thầy tất cả, biết tất cả.

-Kinh: Đây là khổ cho đến là khổ diệt đạo.

-Tán: Nói cảnh pháp sở chuyển đối với khổ này cho đến sanh trí tuệ gọi là hành pháp luân. Cảnh pháp luân có hai: Tứ đế và mười hai nhân duyên.

Đây là phần đầu. Tạm nêu Thị tướng, còn hai chuyển y theo đó mà biết.

Tứ đế lược chia làm năm môn.

    1. Nêu thể.
    2. Giải thích tên.
    3. Phế lập.
    4. Giải đáp chướng nạn.
    5. Các môn.

1. Nêu ra thể: Các luận đối pháp nói: Hữu tình thế gian và khí thế gian, các pháp tánh hữu lậu ép ngặt thì gọi là Khổ đế.

Tập đế có hai nghĩa:

-Chiêu cảm nghĩa quả dị thục vô ký. Đối pháp nói: Nghĩa là các phiền não, và chỗ khởi nghĩa gọi Tập đế. Duy thức nói năm chi trong mười hai chi cũng thuộc về tập đế, vì nghiệp tánh phiền não. Các pháp vô ký khác đều chẳng phải là tập đế. Nhưng trong Duy thức ái là tập đế, do tánh mạnh nhất.

-Làm nhân có thể đắc quả hữu lậu. Tức các pháp hữu lậu ở trong thân. Các pháp tam tánh có thể làm nhân nương tựa. Có dị thục thì đều là tập đế. Luận Du-già nói trong mười hai chi, quán ngược già chết có hai thứ nhân.

1. Là thô sanh: nghĩa là liền sanh ra chi.

2. Tế sanh: là ái thủ hữu, cho đến quán các thức trước ngược trở về. Những chi này đều gọi là tập của già chết. Cho nên biết dựa vào nhân pháp vô ký cũng gọi là tập, mà không thể nói không phải là các chi cũng gọi là tập.

Các pháp vô vi nhân như, trạch diệt, bất động tưởng thọ diệt gọi là Diệt đế. Đối pháp luận chép: Chân như, Thánh đạo, phiền não không sanh thì gọi là diệt đế. Đây nói diệt nương tựa năng diệt, diệt tánh, là cảnh chân như sở chứng của chánh trí, pháp hữu lậu diệt, giả thật hợp lại là tướng Diệt đế.

Ngũ uẩn vô lậu gọi là Đạo đế. Đối pháp nói: Tư lương đạo, gia hạnh đạo, kiến đạo, tu đạo, rốt ráo đạo đều gọi là Đạo đế. Tức dựa vào tự tánh đạo, quyến thuộc đạo để nói lên Đạo đế.

Do tứ đế này mà nhiếp hết hết các pháp. Thế nên kinh Niết-bàn ngài Ca-diếp hỏi: “Như Phật một lần vào trong rừng Thân thủ, nắm một ít lá cây rồi bảo các Tỳ-kheo: Những pháp Ta nói thì như nắm lá trong bàn tay này, còn những gì Ta chưa nói thì như lá trong khu rừng. Nói tứ đế nhiếp hết các pháp. Nếu nhiếp hết thì đã nói tất cả pháp đều hết. Vì sao lại nói pháp chưa nói ra nhiều như lá trong rừng. Nếu không nhiếp hết thì lẽ ra nên có ngũ đế”?

Thế tôn dạy: “Tứ đế đều nhiếp hết, nhưng ở đây nói chung là khổ đế. Nhị thừa không thể biết phân biệt các tướng khổ vô lượng. Điều này người Thanh-văn, Duyên-giác không thể biết. Cho đến Đạo đế cũng giống như vậy.”

Trong đây ý nói: Tuy tứ đế nhiếp hết các pháp mà Nhị thừa phân biệt thô tế không rõ nên cho là Phật chưa nói chứ không phải là có ngũ đế. Y vào giáo thuyên hiển thật chân như cũng thuộc về diệt đế. Cho nên, Đối pháp mà nói: Diệt tánh cũng thuộc về Diệt đế. Kinh Niết-bàn cũng nói thuộc về Tứ đế. Cho nên nói Nhị thừa có Khổ có đế mà không có thật. Bồ-tát thì có đầy đủ. Ba đế khác cũng vậy. Phế bỏ sự bàn luận ý chỉ thì chẳng phải là diệt đế. Thế nên trong Du-già nói: Nói ngoài Tứ đế, tức chẳng phải đế được an lập. Trên đây là y vào chủng loại mà nói chung tứ đế. Nếu y vào pháp thể thì có thô có diệu, có thể biết được.

Nhưng trí có thượng hạ, y vào Tứ đế nên Kinh Thắng-man nói có tám đế là hữu tác bốn Thánh đế và vô tác bốn Thánh đế. Tám Thánh đế này hàng Nhị thừa không thể biết. Các bản tân dịch gọi là an lập đế, phi an lập đế.

Hữu tác Tứ Thánh đế là: Phần đoạn sanh tử, mười hai nhân duyên gọi là khổ. Phiền não và nghiệp gọi là tập, trạch diệt là diệt. Phẩm trí sanh không gọi là đạo. Vô tác Tứ Thánh đế: Ngũ uẩn Biến dịch sanh tử gọi là khổ. Sở tri chướng gọi là tập. Vô trụ Niết-bàn gọi là diệt. Phẩm trí pháp không gọi là đạo. Như trước đã nói qua. Nay y vào tướng chung hoặc y vào phân đoạn mà chuyển Tứ đế luân để làm Nhị thừa.

2. Giải thích danh là: Bốn là số đếm, đế là nghĩa thật. Chỉ có Thánh mới biết thật cho nên gọi là bốn Thánh đế. Khổ thật là khổ, lại không có các khổ khác. Luận quyển năm mươi nói: Đế nghĩa là sao? Như nói là tướng, không thể lìa bỏ. Do quán tướng khổ này đạt đến nghĩa rốt ráo thanh tịnh là nghĩa đế. Đó là giải thích theo số vậy.

Khổ là nghĩa bị ép ngặt, từ phiền não sanh ra. Tập là nghĩa chiêu cảm năng sanh ra khổ đế. Diệt có nghĩa là tịch tĩnh, các pháp kia đều tịch tĩnh. Đạo nghĩa là nhân thông suốt có thể thành ba nghĩa. Ba nghĩa đó là khổ sự khổ lý, khổ như thế. Cho đến Đạo đế cũng có ba nghĩa như vậy.

Khổ sự là trì nghiệp giải thích. Hai khổ khác gọi là đế tức y chủ giải thích. Hai thứ khổ lý, khổ như thế và khổ sự tuy chẳng phải là một, là khác, nhưng ở đây đều chẳng phải có nghĩa ép ngặt bằng nhau.

3. Phế lập: Luận quyển chín mươi lăm nói: Khổ đế như là thể của các bệnh. Tập đế như nguyên nhân của các bệnh. Diệt đế như bệnh sanh ra rồi mà trị khỏi. Đạo đế như bệnh hết rồi dứt hẳn không còn phát sanh. Các người có bệnh đó đi đến chỗ thầy thuốc, chỉ nên tìm cầu từng ấy chánh pháp. Các vị thầy thuốc cũng nên trao cho từng nấy chánh pháp. Vậy nên không thể có đế thứ năm. Chư Phật Như-lai là vị thầy thuốc Vô thượng nhổ mũi tên độc lớn, cũng chỉ giảng nói từng ấy chánh pháp. Lại như người trị bệnh phải biết bệnh nguyên nhân bệnh trừ bệnh, phương pháp trừ bệnh. Cũng như quán khổ sanh tử, biết nguyên nhân dẫn đến khổ, diệt khổ, và phương pháp diệt khổ. Do đó mà nói hướng đến hành diệt khổ.

4. Giải đáp chướng nạn: Luận quyển năm mươi lăm nói: Nhân gì nói biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo, cả bốn điều này đều sai khác sao?

Đáp: Do khổ đế kia là sở y của bốn điên đảo, cho nên muốn trừ điên đảo phải biết rõ các khổ. Đã biết rõ rồi thì cũng biết rõ tập. Do đó mà tập đế khổ đế đều nhiếp cả. Tuy là biết rõ cả nhưng Tập đế chỉ là tùy thuộc theo nên cần phải nói tiến đoạn tập. Nói xúc chứng đó là nghĩa hiện kiến, do nơi diệt đế hiện tiền thấy được. Không sanh sợ hãi là thọ thuộc ái lạc, nên cần phải nói xúc chứng diệt đế. Tiếp đến nếu chuyên tu đạo thì mới thành tựu ba nghĩa này, nên cuối cùng nói tu Đạo đế.

Hỏi: Vì sao lần lượt nói bốn đế như thế?

Đáp: Nói khổ là đầu tiên, kế đến là tập. Cả hai đế này nhiếp cả trong phẩm đen. Cũng do đây lạc nêu ra là thứ ba, thứ tư. Hai pháp này nhiếp trong Bạch phẩm rốt ráo. Ví như nói bệnh nặng, nguyên nhân bệnh, khỏi bệnh, thầy thuốc.

Lại do vì gặp khổ mà thứ tự kiến lập Thánh đế. Như ở thế gian những nơi từng chịu khổ, tức là thứ tư này. Trước phát ra tác ý, kế đến là nhân gặp khổ, từ khổ mà tìm cầu giải thoát, sau đó là phương tiện giải thoát, phát khởi tác ý.

5. Các môn khác phân biệt là dùng mười môn để phân biệt.

1- Thuộc về các uẩn: Ba đế năm uẩn cùng tương nhiếp. Diệt đế không như vậy thỉ tịch tĩnh.

2- Mỗi đế hành thế nào? Đáp bốn đế như thứ tự. Nghĩa là vô thường, khổ, không, vô ngã, nhân, nơi tập, sanh, duyên. Diệt, tĩnh, diệu li. Đạo Như Hành Xuất. Tổng thành mười sáu hành tướng.

3- Vì sao nói khổ đế làm tứ hành quán trừ bốn điên đảo? Vì vô thường trừ thường, khổ trừ hai pháp lạc và tịnh điên đảo. Không vô ngã trừ ngã đảo. Bốn tập đế, quán trừ bốn ái, do y vào thường đảo khởi ái hữu sau. Kế đến y vào hai đảo lạc tịnh mà khởi ra tham hỷ câu hành ái và nơi nơi mong cầu lạc ái. Tiếp theo y vào ngã đảo mà khởi ra duy nhất ái. Diệt làm bốn quán là diệt bốn thứ ái đã nêu trên. Đạo làm bốn quán là vì năng chứng bốn ái diệt kia.

4- Giải thoát môn nào nhiếp cơ hành.

5- Nhập đế hiện quán có các loại.

  1. Tam thừa quán đế có sai khác gì?
  2. Bốn đế này là, thế tục hay thắng nghĩa.

Luận quyển năm mươi lăm và kinh Niết-bàn chỉ nói Thắng nghĩa. Quyển sáu mươi bốn nói phi an lập chỉ thuộc Tục đế… Thật ra thì chung cả hai thứ.

  1. Các đế cùng nhiếp.
  2. Khổ có mấy loại.

Ba đế cũng khác vậy.

-Hư không, phi trạch diệt. Đế nào thủ nhiếp. Đều như trong Dugià, Đối pháp, Duy thức, luận Hiển dương đã có giải thích.

-Kinh: “Và nói rộng… ưu bi khổ não.”

-Tán: Mười hai duyên khởi này, đây có tạp nhiễm, thanh tịnh. Tạp nhiễm, thanh tịnh đều có quán thuận nghịch. Trong đây có hai: Nêu thanh tịnh thuận quán và tạp nhiễm thuận quán. Trình bày tạp nhiễm nghịch quán và thanh tịnh nghịch quán. Đây tức nhiễm thuận quán. Vì sinh tư tưởng sanh nên làm theo nhiễm nghịch quán.

-Kinh: “Vô minh diệt… ưu bi khổ não diệt.”

-Tán: Đây là thanh tịnh thuận quán. Đầu tiên là đoạn sanh tử nên giống như ra nghịch quán.

Mười hai duyên khởi dùng sáu môn để phân biệt.

    1. Nêu thể.
    2. Giải thích danh.
    3. Tướng duyên.
    4. Y theo đời.
    5. Thuộc các duyên sanh.
    6. Thuận nghịch nhiễm tịnh.

1. Thể: Thể của vô minh chình là lấy phân biệt trong phiền não chướng, và tùy ý lấy ngu si làm thể. Thành Duy thức nói: Vô minh trong đây, chỉ lấy nghĩa năng phát làm chánh để cảm các ác, thiện nghiệp đời sau.

Lại nói: Chánh phát nghiệp là chỉ kiến sở đoạn. Trợ giúp vô minh thì bất định. Năng phát hành mới là chi này. chung cả tương ưng bất cộng, triền và tùy miên.

Thể của chi hành chung cho cả thân ngữ, ý nghiệp thiện và bất thiện, chỉ cảm tổng báo và cảm chung hai tổng, biệt nghiệp làm tánh. Chỉ có biệt báo nghiệp thì không phải hành chi. Cho nên trong Duy thức nói: Liền chỗ kia phát ra gọi là hành. Do đây mà tất cả thọ nghiệp thuận hiện, bệt trợ đương nghiệp đều chẳng phải là chi hành. Cũng chung cả hiện, chủng sắc, tư làm thể.

Thể của chi thức thứ tám, dị thục do hành sở tập. Vì là đều liên kết sanh nên gọi chung là di thục, và chỉ ở hạt giống mà không lấy hiện hành. Có chỗ nói thông với sáu thức thân ở trước còn luận rộng ra tất cả thức thân và dựa vào phân vị hiện khởi ở tương lai mà nói có hiện hành. Cho đến chi thọ cũng vậy.

Thể của chi danh sắc: Thành Duy thức nói: Trừ ba nhân sau, các nhân khác đều thuộc chủng danh sắc. Ba nhân sau, tức ba thứ sau: Lục xứ, xúc và thọ. Ở đây nói năm chi không có tạp loạn nhau. Ở trong một sát-na là được hành sở tập duyên khởi các chi. Nghĩa là loại sáu căn dị thục là chi lục xứ (nhập). Dị thục xúc thọ là chi xúc thọ. Trừ chủng bổn thức và ba thứ này. Các uẩn dị thục khác đều là sắc.

Trong Khế kinh lại nói: Danh là bốn uẩn phi sắc. Sắc là Yết thứ lặc lam cho đến. Dựa vào các phần vị lúc đương khởi mà ở trong nhân nói do duyên tạp nhiễm khởi ra các chi. Nếu không như vậy thì làm sao chung cả ngũ uẩn. Hoặc nói rộng tất cả thuộc danh sắc. Trong Duy thức lại y vào Tạp thể mà nói: Danh sắc nhiếp chung cả năm nhân. Ở trong đó tùy theo nhân nào mạnh mà lập, còn lại bốn nhân. Lục xứ và thức tổng biệt cũng như thế.

Chi ái chỉ là tham trung phẩm. Đây tuy duyên chung hai quả trong ngoài mà các luận phần nhiều lấy duyên cảnh ngoài làm quả tăng thượng ái sanh.

Chi thủ dùng chung với tất cả phiền não để làm tự thể. Toàn phiền não cõi đều kết sanh ra. hoặc là năng thủ, hoặc là sở thủ, thủ làm ra, trong đó đều thuận theo phiền não, không giữ pháp khác. Có nói nói chỉ là ái tăng thượng. Trong Thùy thức hội nói: Tuy trong chi thủ nhiếp các phiền não khác, mà ái nhuận thắng hơn, nên gọi là ái tăng. Lại y vào trước sau mà phân ái thủ làm hai, sự thật thì nhiếp các hoặc khác hai chi ái thủ, chung cả hiện và chủng.

Thể của chi hữu tức là sáu chi hành cho đến, được thấm nhuận ái thủ mà chuyển biến gọi là hữu. Có nói nói chỉ có nghiệp.

Duy thức lại nói: Hữu này chính là sanh vị già, tử tương lai, còn năm chi như thức v.v… sanh chỉ là hạt giống. Hữu này năng có quả.

Thể của chi sanh ra: Thành Duy thức chép: Bắt đầu từ trung hữu, đến sanh hữu, bản hữu từ lúc chưa suy biến đến vị lai, đều thuộc về chi sanh. Các vị suy biến gọi chung là già. Khi thân hoại mạng chung gọi là chết. Thể hai chi này đều chung cả ngũ uẩn, chỉ thuộc quả dị thục hiện hành. Có chỗ nói chung cả hạt giống như kinh Duyên khởi nói: Một thời sanh ra năng, sở dẫn sanh đồng thời mà có. Thứ tự giảng nói nghĩa loại không khác nhau, nhưng chẳng phải hai chi này cũng thông hạt giống.

Ưu bi khổ não nhân ra già chết mà khởi, nhân chẳng thuộc về chi.

Kinh Thập địa chép: Khi chết chia lìa, ý căn tương đối gọi là ưu. Năm căn tương đối gọi là khổ, phát ra âm thanh kêu khóc gọi là bi. Người ngu tâm nóng bức gọi là não. Ở hai cõi dưới đầy đủ các chi sắc.

Cõi Vô sắc thì không như vậy, tùy chúng thích ứng mà có.

2. Giải thích danh là: Luận Du-già có năm giải thích:

a) Do phiền não trói buộc mà trải qua các đường, thường sanh khởi nên gọi là Duyên khởi. Y vào chữ duyên chữ khởi mà giải thích.

b) Dựa vào các duyên mà mau chóng diệt đi, tiếp tục hòa hợp lại sanh ra thì gọi là duyên khởi.

Ở đây dựa vào nghĩa sát-na mà giải thích tên gọi. So sánh trong Đại chúng bộ nói mười hai duyên khởi là pháp vô vi. Cũng so với chánh lượng bộ nói về bốn tướng một kỳ.

c) Các duyên quá khứ mà không lìa bỏ. Nương vào tự nối tiếp mà sanh khởi gọi là Duyên khởi. Như nói đây có thì kia có. Đây sanh cho nên kia sanh. Chẳng phải là khác. Nay y vào nghĩa này để giải thích duyên khởi: Đây có thì kia có đó là nói rõ nghĩa vô tác duyên sanh. Đây sanh nên kia sanh là nghĩa vô thường duyên sanh. Chẳng phải khác đó là do hữu duyên mà pháp quả có. Chẳng phải duyên có tác dụng thật năng sanh ra quả pháp. Cũng chẳng phải pháp vô sanh là nhân, hay một ít pháp sanh ra mà được thành lập.

d) Thường diệt mất, lại nối tiếp khởi gọi là Duyên khởi. Đây y vào nghĩa thường hoại thường diệt mà giải thích.

e) Ở trong đời quá khứ giác tánh đã duyên cùng khởi nối tiếp thì gọi là Duyên khởi. Như Thế tôn dạy: “Đã đã giác ngộ cùng khởi, nói tức do đây gọi là lần lượt truyền dạy nên gọi là Duyên khởi.”

Lại nói lìa nghĩa hữu ìtnh không có ngã tự nhiên. Cho đến nghĩa nghiệp tự chính mình tạo tác cũng là nghĩa duyên khởi, mà ở các sự nối tiếp khác thì không thọ quả.

Lại Đối pháp và kinh Duyên khởi giải thích mười một nghĩa. Đối pháp lại gọi là vô tác duyên sanh, là vô thường duyên sanh, là thế dụng duyên sanh. Hai thứ đầu như trước giải thích. Vô minh duyên hành cho đến là chỉ rõ thể dụng duyên sanh. Tuy các pháp là vô tác vô thường nhưng không tùy theo một pháp nào, làm duyên cho nên tất cả quả đều sanh. Công năng của các pháp mỗi mỗi đều sai khác.

3. Tướng duyên: Vô minh có hai tướng:

  1. Ngu nghĩa chân thật, chung cả hai phẩm trung hạ.
  2. Ngu quả dị thục, chỉ ở phẩm thượng. Hai ngu này đều duyên với quả dị thục của nội thân mà khởi. Hành có hai thứ: Thiện và Bất thiện.

Hoặc chia ra làm ba: Bất động, Phước và Phi phước. Đây vì thuộc về huân tập hữu phần.

Năm thứ thức gọi là huân tập. Năm thứ này là vô ký nên thế lực suy yếu, xứ sở chưa định nên không thể tự sanh. Đây phải đợi hữu phần huân tập mới khởi. Do hạ phẩm ngu mà phát ra nghiệp bất động. Do trung phẩm ngu mà phát ra phước nghiệp. Do thượng phẩm ngu mà phát ra phi phước nghiệp. Tùy theo nghiệp đã phát, mà huân tập hạt giống của năm chi thức cho đến Nhiếp thuộc ở nơi hành mà có nơi sẽ sanh. Tức là các vị chắc chắn sanh già chết. Không có tướng sai khác trước sau của năm chi thể mà dựa vào. Vị đương khởi nói nhân là năm. Cho nên trong Duy thức nói: Duyên mê, ngu quả nội dị thục, phát công năng chính chiêu lấy các nghiệp hữu sau làm duyên, dẫn phát chính sanh năm quả vị tương lai sanh già chết, lần lượt nương vào quả tăng thượng bên ngoài, ngu duyên cảnh giới thọ, phát khởi ra tham ái, lại sanh ra bốn thủ như dục v.v… Ái thủ hợp nhuận với chủng nghiệp năng dẫn, và nhân sở dẫn chuyển gọi là hữu. Từ trung hữu dẫn đến sanh bổn hữu, chưa suy biến đến vị lai, tức thể của chi sanh được khởi. Khi suy biến thì chi già chết hiện ra. các thứ lo buồn khổ não liền sanh theo. Đây nói là do vô minh mê nội thân, duyên lấy dị thục thọ mà sanh ra các nghiệp, bèn làm nhân cho các hạt giống năm chi sanh già chết đương lai. Hữu là nơi sẽ sanh. Lại do mê cảnh giới ngoài. Vô minh duyên cảnh giới thọ khởi ra ái và thủ, lại thấm nhuận hạt giống của sáu chi như hành v.v… trước. Gần thì có quả sau chuyển lập tên hữu. Từ đây về sau năm chi hiện hành bèn khởi ra gọi là sanh già chết, đó là tướng duyên khởi làm duyên.

Trong Du-già lại có ba cách giải thích: Thứ tự sanh nhau như trong Du-già nói.

4. Theo đời Duy thức nói: Mười nhân, hai quả chắc chắn mà đời khác nhau, chủ yếu có sanh hậu báo mới gọi là chi, hiện báo thì chẳng phải. Nghĩa là mười chi nhân của quá khứ, hai chi quả của hiện tại. Mười chi nhân của hiện tại, hai chi quả của vị lai. Trong bảy nhân trước cùng ái, thủ, hữu hoặc khác hoặc đồng. Sanh báo thì chắc chắn đồng, hậu báo thì khác. Nghĩa là quá khứ có bảy, hiện tại ba và vị lai là hai. Hoặc như các duyên của bảy ba hai chắc chắn cùng đời. Tức là hai chi sanh, già, tử, ba chi ái, thủ, hữu và bảy chi trước chắc chắn đồng một đời. Vì thế tưởng sanh cho nên năng lực tương tợ.

5. Thuộc về các Duyên sanh: Nhiếp luận quyển hai chép: Nếu lược nói duyên khởi thì có hai thứ:

a) Một là tự tánh phân biệt duyên khởi. Nghĩa là y vào thức A-lạida mà các pháp sanh khởi.

b) Hai là phiền não ái, phi ái duyên khởi. Nghĩa là mười hai duyên khởi nghiệp thiện ác, năng phân biệt tự thể của ái phi ái làm tánh của duyên . Nay đây chính nói loại duyên khởi này. Nghĩa cũng thu nhiếp loại trước mà không chính nói.

Lại nói có ba thứ. Tức hai thứ này lại thêm Thọ dụng duyên sanh.

Luận Biện Trung Biên chép: Loại đầu là duyên thức. Loại hai là thọ giả là trong đây có thể thọ dụng, phân biệt, suy ra tâm sở. Thọ dụng duyên sanh tức sáu thức chuyển, tức cũng thuộc nghĩa duyên thức mà không phải chánh biện luậnở đây.

Luận Du-già lại nói có bốn thứ duyên sanh:

1. Năng dẫn: Nghĩa là vô minh, hành. 2. Sở dẫn: Năm thức cho đến 3. Năng sanh: Ái, thủ, hữu. 4. Sở sanh: Sanh, già, tử.

Trong Tập luận nói thức cũng là năng dẫn. Nghiệp chủng trong thức gọi là chi thức. Chủng dị thục thức gọi là danh sắc. Kinh Duyên khởi chép: Chi thức có cả năng dẫn sở dẫn. Nghiệp chủng, thức chủng đều gọi là thức, là nương vào danh sắc mà chẳng thuộc là danh sắc.

Luận Câu-xá quyển chín lại nói bốn thứ:

  1. Sát-na.
  2. Liên phược.
  3. Phân vị.
  4. Viễn tục.

Vì sao gọi là sát-na? Trong khoảnh khắc sát-na do tham mà thực hành sát, có đủ cả mười hai chi. Si là vô minh. Tư là hành tướng các sự cảnh, rõ biết phân biệt gọi là thức. Thức đều có ba uẩn gọi chung là danh sắc. Trụ ở căn danh sắc, nói là lục xứ. Lục xứ đối với các hòa hợp khác mà có xúc, lãnh nhận xúc là thọ. Tham thọ tức là ái, tương ưng với triền phược này thì gọi là Thủ. Hai nghiệp thân ngữ khởi lên thì gọi là Hữu. Các pháp khởi lên như thế gọi là sanh, thành thục biến đổi là già, diệt hoại gọi là tử.

Nay theo Đại thừa thì tám thức cùng khởi, phiền não đều sanh cùng với kia khác nhau. Lại có nói nói: Sát-na, liên phược như trong Phẩm loại Túc luận nói. Đều có ở khắp hữu vi, khác nhau với nghĩa trước. Trong mười hai chi có ngũ uẩn đều nhiếp cả phân vị. Đây chính là sự nối tiếp xa từ vô thỉ nên gọi là viễn tục, đồng với Đại thừa mà mà lý chung chưa rõ ràng.

6. Nhiễm tịnh thuận nghịch. Đối pháp quyển thứ tư nói: Tạp nhiễm thuận nghịch, thanh tịnh thuận nghịch.

Tạp nhiễm thuận nghịch hoặc y vào thứ tự lưu chuyển mà nói. Nghĩa là vô minh duyên hành cho đến sanh duyên già chết. Thuận theo thứ tự mà nói. Đây nói sanh tử lần lượt sanh nhau. Hoặc y vào an lập đế mà nói. Nghĩa là già chết, già chết tập, già chết diệt, già chết hướng diệt hành. Như thế cho đến thành, hành tập, hành diệt, hành hướng diệt hành, bốn mươi bốn trí, vô minh không có nhân nên không phải bốn mươi tám trí.

Đây là quán sau: Ở gia hạnh trước, cũng làm bảy mươi bảy trí. Nghĩa là duyên với đời hiện tại mà có già chết. Chẳng phải không duyên với đời hiện tại mà có già chết. Tự thân của hiện tại đã tự làm bèn thành hai trí. Duyênđời quá khứ, duyên đời vị lai cũng có hai trí, hợp lại thành sáu. Quán vô thỉ đến nay thì tất cả già chết đều duyên ở nơi sanh. Vị lai tuy chưa khởi mà vẫn có nghĩa tạp nhiễm hoàn diệt. Nay quán tạp nhiễm nên thành hai trí.

Trong ba đời này trí đầu tiên quán trong quả có nhân, nêu rõ lý do. Trí thứ hai quán trong quả có nhân, chẳng phải là không có quyết định. Phá ngoại đạo vọng chấp sanh không có nhân. Trí thứ bảy tức là quán pháp không thuộc về chi. Các tuệ hữu lậu đều là nghĩa biết khắp. Tức là pháp trụ trí biết khắp cả ba đời, duyên khởi giáo pháp, gọi pháp không nhiếp trước là trí thứ bảy. Sáu quán trước là trí chân thật. Một quán này là pháp trụ trí, hợp lại thành ra bảy trí. Các bậc Thánh dị sanh đều có trí này. Nay từ kiến đạo trở về trước là quán hạnh của vị phàm sau này mới nhập vào bốn mươi bốn trí. Bốn mươi bốn trí này gần với tứ đế. Trụ vào các giáo pháp là văn tuệ nên gọi là pháp trụ trí. Như thật nghĩa mà biết, là tư, tu tuệ gọi là trí chân thật. Ở đây có lậu quán cho nên gọi là tạp nhiễm. Văn này chỉ có quán thuận mà không có nghịch.

Thanh tịnh thuận nghịch là vô minh diệt cho nên hành diệt… cho đến sanh diệt… già chết diệt. Thuận thì theo thứ tự mà nói: Đây y vào thứ tự đoạn vị mà nói. Do đâu không có mà già chết không có, do đâu diệt mà già chết diệt. Cho đến do gì không mà hành không có, do gì diệt mà hành diệt cho đến. Đây là dựa vào vị quả đắc rốt ráo mà quán. Trong văn này chỉ có thuận mà không có nghịch quán. Nói rộng như phẩm dưới sẽ tán sau. Tuy không hiện tiền mà thành ra Độc giác, khiến cho chứng Thanh-văn, thì cũng nói duyên này. Y vào nói đế cũng thành 136 ra ba chu mười hai hành tướng.

-Kinh: “Phật ở trong hàng trời người cho đến đầy đủ tám giải thoát cho đến”

-Tán: Phần bốn: Chúng sanh được lợi ích. Có hai phần: được lợi ích và nói về rất nhiều.

Được lợi ích chia làm hai: Pháp hội đầu, lần hai, ba, bốn.

Hội đầu. Thọ là chấp trước. Không tham đắm tất cả pháp, cho nên được tâm giải thoát. Tâm giải thoát là do giải thoát vô minh phiền não, thành tựu tâm tương ưng, tuệ giải thoát, không còn duyên cảnh khởi phiền não thì gọi là tâm giải thoát. Hoặc thiền định gọi là tâm giải thoát, là tâm năng trụ . Đắc câu giải thoát gọi là tâm giải thoát.

-Kinh: “Lúc nói pháp lần hai cho đến đắc giải thoát.”

-Tán: Đây nói về hội thứ hai, thứ ba, thứ tư. Ngài Di-lặc nói ba hội, Phật Thích-ca không nói hội nào, căn cơ chúng sanh lợi ích mỗi người đều khác nhau.

-Kinh: “Từ đó trở về sau cho đến không thể tính biết.”

-Tán: Đây là nói chúng nhiều. Trên đây nói pháp luân của Thanhvăn nên không có Bồ-tát.

-Kinh: “Bấy giờ mười sáu vị vương tử cho đến Tam-bồ-đề.”- Tán: Ý lớn thứ ba. Nói việc nối tiếp truyền đèn có năm phần:

  1. Mười sáu vương tử xuất gia rồi, thỉnh Phật.
  2. “Bấy giờ Đức Phật kia thọ nhận lời thỉnh của Sa-di v.v…” hứa nói chánh đạo.
  3. Nói kinh này rồi liền nhập vào tĩnh thất cho đến” Nói các vương tử nối đèn pháp.
  4. Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, trải qua tám muôn bốn ngàn kiếp” cho đến: Phật khen ngợi.
  5. Phật bảo các Tỳ-kheo là mười sáu vị Bồ-tát “cho đến chúng sanh được lợi ích hóa độ.

Phần đầu có hai:

  1. Các con xuất gia xong thỉnh Phật.
  2. Quan phụ thần cùng theo xuất gia.

Phần một lại có ba:

  1. Nêu tính tốt của các vương tử.
  2. Thỉnh Phật.
  3. Thỉnh ý.

Gồm có sáu đức:

  1. Vượt qua các ràng buộc, xuất gia làm Sa-di.
  2. Nghe pháp mau giác ngộ, các căn đều lanh lợi.
  3. Trí tuệ tỏ sáng, tánh tình thông minh.
  4. Từ lâu đã gặp duyên lành, từng cúng dường Phật.
  5. Giữ vững thắng giới, tịnh tu phạm hạnh.
  6. Chí mong cầu quả Chánh đẳng chánh giác.

– Kinh: “Cùng bạch Phật rằng cho đến Phật tự chứng biết.”

– Tán:

  1. Thỉnh Phật. Xưa Phật nói pháp luân Tiểu thừa lợi ích người Thanh-văn thừa xong mà ý chúng con mong cầu Đại thừa, xin Phật nói.
  2. Thỉnh ý: “Chúng con chí nguyện Đại thừa chánh pháp tri kiến của Như-lai”. Phật đã tự chứng hết, Phật đã tự chứng rõ. Nguyện vì con mà nói pháp.

Hỏi: Vì sao trước thỉnh Phật vương tử ở trước. Nay vì nói pháp vương tử ở sau?

Đáp: Trước là căn cứ vào thân sơ. Sau nói rõ quyền thật.

-Kinh: “Bấy giờ Vua Chuyển Luân… vua liền nghe theo.”

-Tán: Đây nói các quan phụ thần xin theo xuất gia. Đầu tiên thỉnh, sau hứa cho.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Phật kia… Phật sở giữ gìn.”

-Tán: Phần hai, Phật hứa nói pháp. Có năm. Trong đây có hai:

1. Khi muốn nói pháp phải đợi căn cơ thuần thục. Trải qua hai muôn kiếp.

2. Trình bày pháp sẽ nói là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Diệu Pháp Liên Hoa chính vì Thanh-văn. Kinh Vô lượng nghĩa chính vì Bồ-tát. Vì sao trong đây nói kinh Pháp Hoa là vì Bồ-tát mà nói. Như trước Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, nhân nơi Pháp sư Diệu Quang mà hai mươi muôn ức Bồ-tát ưa muốn nghe pháp.

Hỏi: Vì sao Xoay bánh xe pháp Nhị thừa thì gọi là Tam chuyển mười hai hành tướng. Đại thừa thì không như vậy?

Đáp: Lý thì nên như thế. Nhưng vì Thanh-văn ở trong một tòa có thể thành tựu nghĩa cả Kiến, Tu, Vô học đạo.

Bồ-tát thì không như vậy. Do đó mà khác nhau. Đây nói mười hai nhân duyên cũng y vào tứ đế.

-Kinh: “Nói kinh này rồi… đọc tụng thông suốt.”- Tán: Thứ ba nói Sa-di lãnh ngộ.

-Kinh: “Lúc nói kinh này… chưa hề thôi bỏ…”

-Tán: Trong đây có hai. Thứ tư nói ba căn lãnh ngộ. Thứ năm thời gian nói pháp. Hàng Bồ-tát thượng căn nghe liền tin thọ. Hạng Thanhvăn trung căn cũng có tín hiểu. Các loại hạ căn đều sanh nghi ngờ. Vì kinh Pháp Hoa khó tin hiểu. Chúng sanh hạ căn chưa thuần thục. Vì gần đến thời nay cho nên nói thời kia có người nghi ngờ.

-Kinh: “Nói kinh này rồi… tám muôn bốn ngàn kiếp.”- Tán: Phần ba: Các vương tử nối tiếp đèn pháp. Có ba:

  1. Phật nhập định vắng lặng.
  2. Các con nói pháp.
  3. Chúng sanh độ được nhiều ít cho đến

Đây là phần một. Biết con căn tánh thuần thục khiến các con tiếp nối đèn pháp nên Phật nhập tịch định.

-Kinh: “Bấy giờ mười sáu vị Bồ-tát… kinh Diệu Pháp Liên Hoa.”

-Tán: Các con thỉnh pháp lợi ích đã nhiều, mà thời nói pháp lại dài.

-Kinh: “Mỗi người đều độ… Tam-bồ-đề”.

-Tán: Độ được nhiều ít… chỉ bày giáo pháp lợi ích vui mừng. Các bản tân dịch nói là thị hiện giáo đạo, khen ngợi khuyến thỉnh, vui mừng. Luận Hiển dương quyển mười lại thêm: “Khiến cho lìA-dục.”

Nghĩa là quở trách các hành giả để cho lìa hết ái nhiễm, gọi là li nhiễm. Thị hiện ra bốn đạo lý chân thật, gọi là thị hiện. Đã đắc tín hiểu, khiến chánh thọ hành thì gọi là chỉ dẫn. Nếu người giải đã lui sụt thì khuyến khích sách tấn thì gọi là vui mừng.

-Kinh: “Đại Thông Trí Thắng Phật… khiến thể nhập vào đó.”- Tán: Phần bốn: Phật khởi khen ngợi. Có hai:

  1. Thăng tòa khen ngợi.
  2. Khuyên người gần gũi tin.

Đây là phần đầu. Phật khen ngợi bảy ý:

  1. Ít có.
  2. Lợi căn.
  3. Trí sáng.
  4. Gần gũi Thánh.
  5. Tu hành.
  6. Thọ trì trí Phật.
  7. Chỉ bày chúng sanh.

-Kinh: “Các thầy đều nên cho đến trí tuệ của Như-lai.”

-Tán: Đây là khuyên người nên gần gũi và tin. Trước nêu khuyên nên gần gũi, sau khiến tin nhận.

-Kinh: “Phật bảo các Tỳ-kheo cho đến thảy đều tín hiểu.”- Tán: Phần năm nói về sở hóa lợi ích. Có ba. Trong đây có hai:

  1. Thường nói kinh Pháp Hoa.
  2. Sở hóa thường lợi ích.

Có hai:

  1. Cùng với Bồ-tát .
  2. Nghe pháp tín hiểu.

-Kinh: “Nhờ nhân duyên đó cho đến đến nay không hết.”

-Tán: Thứ ba là giải thích nghĩa thành tựu. Nay nói lên trong hội Pháp Hoa, là thường làm lợi ích cho chúng sanh.

-Kinh: “Các Tỳ-kheo cho đến để làm quyến thuộc.”- Tán: Ý lớn thứ tư: Hội thành với Đức Phật ngày nay có hai:

  1. Nêu việc thành Phật lợi lạc chúng sanh.
  2. Nêu danh hiệu khác và xứ sở thành Phật.

Đây là phần một.

-Kinh: “Hai vị Sa-di đó cho đến hai là tên Sư tử tướng.”

-Tán: Đây nói lên tên khác và xứ sở thành Phật. A Súc có nghĩa là Vô động. Cho nên tất cả tướng dụng phiền não đều bất động.

Chữ Súc không biết xuất xứ từ đâu. Đỉnh núi Tu-di rất cao. Nói Sư tử là thị hiện hàng phục ma oán.

-Kinh: “Hai vị Phật ở phương Nam cho đến vị thứ hai tên là Phạm Tướng.

-Tán: Thường chứng pháp tánh thì gọi là Hư không trụ. Sanh tử thường vắng lặng gọi là Thường diệt. Được tự tại hoàn toàn gọi là Đế tướng. Hay sanh ra chư Thánh thì gọi là Phạm tướng.

-Kinh: “Hai vị Phật ở phương Tây cho đến vị thứ hai tên là Tu-di Tướng.”

-Tán: A-di-đà dịch là Vô Lượng Thọ. Vì tuệ mạng dài lâu. “Độ nhất thiết thế gian khổ não”. Vì Phật thường khởi bi nguyện.

Đa-ma-la-bạt chiên-đàn hương gọi là Vô cấu hiền hương. Chúng Đức trang nghiêm gọi là Tu-di Tướng.

-Kinh: “Hai vị Phật ở Bắc phương… Tam-bồ-đề.”

-Tán: Hay thí pháp vũ, gọi là Vân tự tại. Che phủ rộng lớn thì gọi là Vân tự tại vương. Hay phá sanh tử thì gọi là Hoại bố úy. Có khả năng vắng lặng ba nghiệp, dứt sạch phiền não sanh tử, chứng lý tịch mặc thì gọi là Thích-ca Mâu-ni. Hán dịch là Năng Tịch. Thế giới Ta-bà này gọi là Kham Nhẫn. Vì chúng sanh ở cõi này không hiếu thuận với cha mẹ, không kính Sa-môn, làm mười điều ác. Ngày đêm thêm lớn vô lượng khổ sở trong ba đường tám nạn, Bồ-tát ở trong đó khổ não, mà thực hành lợi ích, gọi là Kham Nhẫn.

-Kinh: “Các Tỳ-kheo… Tam-bồ-đề.”

-Tán: Trên hội việc Phật, dưới hội việc đệ tử. Có hai:

-Chánh nói việc của đệ tử.

-“Sau khi Phật diệt độ” v.v… Đây là giải thích về nghi nạn.

Văn đầu lại có hai:

  1. Nói việc hóa đạo ngày trước.
  2. Chúng sanh được hóa độ lúc đó cho đến chánh kết việc hội chúng.

Văn đầu lại có hai:

  1. Việc giáo hóa xưa.
  2. Nguyên nhân các người trụ vào tiểu quả.

Đây là phần một. Xưa giáo hóa Đại thừa, mà nay có người trụ vào Thanh-văn địa. Nhưng ở trước hội Pháp Hoa đã từng nói các kinh như Bát-nhã v.v… để phương tiện thầm hóa Đại thừa. Nhưng các người không biết việc sở hóa của Phật.

-Kinh: “Những bọn người này… khó tín.”

-Tán: Đây nói lý do trụ vào tiểu quả, là thuộc người tánh bất định lui sụt, nên dùng quyền hóa để lần vào đạo. Vì trí tuệ Phật khó tin khó hiểu không phải chợt nhiên có thể học. Cho nên Phật đầu tiên nói quyền sau đó mới đem thật pháp giáo hóa.

-Kinh: “Các chúng sanh được hóa độ thuở đó cho đến là đệ tử.”

– Tán: Chánh kết hội việc này.

Kinh: “Sau khi Ta diệt độ… sẽ nhập Niết-bàn”

-Tán: Giải thích nghi nạn: Như các Thanh-văn đều sã thành Phật. Các vị ấy gặp Phật nhờ Phật giáo hóa, có thể sẽ trụ quả Phật. Sau khi Phật diệt độ, có người cầu quả Thanh-văn mà không nghe kinh này, không biết, không hay hạnh của Bồ-tát rộng lớn sâu xa. Đối với hai công đức hữu vi vô vi, tự chứng tưởng cho là diệt độ Niết-bàn hữu dư, cầu nhập Vô dư Niết-bàn. Người ấy làm sao sẽ được thành Phật. Văn giải thích có ba:

  1. Nhắc lại người nghi.
  2. Giải Thích-các vị kia cũng thành Phật.
  3. Sau đó giải thích lý do.

Ở đây nhắc lại điều nghi của Thanh-văn.

-Kinh: “Ta ở nước khác cho đến được nghe kinh này.”

-Tán: Đây giải thích Thanh-văn kia cũng thành Phật. Ta ở nơi nước khác thành Phật.

Lại có tên khác đó: Kinh Bồ-tát Xử Thai chép: Từ cõi này diệt độ, ở trong mười phương trải qua ba mươi hai cõi nước Chư Phật , lại thành Phật giáo hóa chúng sanh. Trong thí dụ Y sư ở dưới sẽ nói đầy đủ nghĩa này. Người ấy tuy nghĩ gì diệt độ cầu nhập Vô dư Niết-bàn, mà đối với ta có duyên. Ta dùng thần thông dắt dẫn ho, ở cõi kia gặp ta được nghe kinh này. Hoặc là phàm phu, hoặc là Hữu học. Cầu hữu vô dư Niết-bàn. Đối với Niết-bàn nay, cho là thật diệt độ, nghĩ cầu nhập chứng hai thứ Niết-bàn này. Tu hạnh Nhị thừa, chủng tánh đã an bày, Ta vì lòng từ bi dắt dẫn sanh nước kia gặp Ta cầu đắc trí tuệ Phật. Hoặc ta thành Phật ở nước khác. Chúng sanh nghĩ là ta diệt độ, cho là ta nhập vô dư. Ta dắt dẫn đến nước kia khiến cho cầu trí Phật. Đây là nói người có duyên gặp ta. Hoặc đối với ta không có nhân duyên này, cũng được Phật khác và Bồ-tát dắt dẫn giáo hóa, nghe kinh này mà được thành Phật. Cũng khi có ngầm nói pháp hóa đạo thành tựu người này, khiến cho hướng cầu Đại thừa. Nay nói hiển hóa đối với Phật có duyên. Cho nên nói ở cõi kia cầu trí tuệ Phật. Hoặc tuy có duyên với Phật khác mà vãng sanh về đó, trên vì sao bình đẳng thì cũng nói là có duyên với Ta.

-Kinh: “Chỉ dùng Phật thừa cho đến phương tiện nói pháp.”- Tán: Đây là giải thích lý do.

Vì một Phật thừa rốt ráo diệt độ, không khác với thể Nhị thừa rốt ráo. Phương tiện nói giáo thì có Tam thừa. Hoặc chỉ một thể cực quả phương tiện nói có ba nhân, nhân đó mà nói dặm đường dài Trong kinh Niết-bàn phẩm Cao quý đức vương nói: Sao gọi là Niết-bàn, sao là đại Niết-bàn? Là nơi Thanh-văn, Duyên-giác, tám muôn kiếp, sáu muôn kiếp, bốn muôn kiếp, hai muôn kiếp, một muôn kiếp trụ gọi đó là Niếtbàn. Là trụ xứ của bậc Vô thượng Pháp vương Thánh chủ gọi là Đại Niết-bàn. Người xưa giải thích: Các quả của Nhị thừa trải qua thời gian như thế nhập vào Vô dư Niết-bàn. Sau đó khởi hồi tâm được Chư Phật, Bồ-tát dắt dẫn hóa giáo. Hàng Nhị thừa trải qua thời gian tu hành hướng cầu Đại thừa. Chư vị trước kia chưa hồi tâm. Hữu dư y Niết-bàn gọi là Niết-bàn. Pháp vương sở đắc gọi là Đại Niết-bàn.

Người không phải Nhị thừa tức các quả vị Hữu học đã trải qua tám muôn kiếp, cho đến bốn muôn kiếp đã nhập Niết-bàn. Cũng chẳng phải Vô học, nhập vào vô dư y, thân trí đều không. Nhập Niết-bàn rồi liền khởi thân trí trải qua hai muôn kiếp tu hành đại hạnh. Phẩm Tín hiểu chép: Chúng con đêm dài tu tập pháp không. Cho đến trụ vào thân rốt sau hữu dư Niết-bàn, như vậy đã đắc được báo ân Phật.

Luận Trang nghiêm nói: Người gốc lành khi Niết-bàn thì hết, Bồtát thì không như vậy. Người Nhị thừa đó nhập vào Vô dư Niết-bàn, gốc lành đã hết. Cũng như trong luận Trang nghiêm nói vì sao trải qua một muôn kiếp v.v… tu hành mới nhập vào Thập tín. Sau đó trải qua ba vô số kiếp, mới đắc quả Bồ-đề, bổn thức đã không, không có thức trì chủng, thân đó đều hết thì dùng pháp gì tu hành sao đắc Bồ-đề? Nhập vào vô dư rồi, nếu có gốc lành, chẳng những trái với giáo mà cũng trái với chánh lý. Thân trí vẫn còn tồn tại vì sao nói là Vô dư Niết-bàn, khác nhau với vô lậu của Như-lai. Vì sở y tồn tại nên gọi là hữu dư y. Hữu dư y hết thì gọi là vô dư y. Kinh Thắng-man cũng chép: Nhị thừa đắc Niếtbàn đó là phương tiện của Phật.

Thành Duy thức chép: Không đắc vô trụ nên gọi là phương tiện. Hoặc trụ vào hữu dư, hồi tâm hướng đại không đắc vô dư, gọi là đắc phương tiện.

Phẩm bịnh hạnh trong Kinh Niết-bàn: Quả Tu-đà-hoàn, trải qua bảy lần sanh vào cõi trời, cõi người mới đoạn kiết mà nhập vào Niếtbàn. Vào đời vị lai trải qua tám muôn kiếp mới đắc quả Vô thượng Bồđề. Quả Tư-đà-hàm qua một lần vãng sanh, mới dứt kiết nhập Niết-bàn, trải qua sáu muôn kiếp đắc quả Bồ-đề.

Quả A-na-hàm không còn sanh vào cõi người, vị lai trải qua bốn muôn kiếp sẽ đắc quả Bồ-đề. A-la-hán trải qua hai muôn kiếp sẽ đắc quả Bồ-đề. Bích-chi-phật trong mười ngàn kiếp sẽ đắc quả Bồ-đề.

Kinh này lại nói: Trải qua tám muôn kiếp sẽ đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, chẳng thành Chánh giác thì gọi là đắc Bồ-đề. Sư xưa giải thích: A-la-hán trải qua bảy lần sanh tử lấy quả Tu-đà-hoàn mà nói. Trải quả hai lần sanh tử lấy quả Tư-đà-hàm mà nói. Từng sanh về cõi trên lấy quả A-na-hàm mà nói. Không còn sanh tử mà chỉ nhờ giáo pháp là quả A-la-hán. Không trải qua sanh tử mà đắc quả Độc giác là lấy quả Bích-chi-phật mà nói. Ba quả vị trước này là phàm thân đắc quả, Thánh thân đắc Niết-bàn, hai quả vị sau là phàm thân đắc quả phàm thân Niết-bàn. Trải qua nhiều lần sanh thì gọi là độn, nên thời gian trải qua vắng lặng nhiều, ít lần sanh tử đó là lợi, nên thời gian trải qua vắng lặng ít. Trải qua tám muôn kiếp tu hành theo ngài Bồ-đề Lưuchi. Giải thích thì vẫn đem dùng tâm từ bi tưởng tám muôn kiếp làm một ngày đêm, chứa nhóm năm tháng mà thành ra đại kiếp. Quả vị kia thọ vô lượng đại kiếp. Từ đây về sau thì mới phát tâm. Nghiệm xét sự giải thích này chưa y cứ vào kinh điển.

Kinh giải thích: Tu-đà-hoàn qua bảy lần sanh tử dứt kiết phược mới nhập Niết-bàn. Tu-đà-hoàn, trải qua tám muôn kiếp mới đắc tâm Đại Bồ-đề, Sơ quả Thập tín. Sao lại nói tám muôn kiếp mới trụ Niếtbàn. Đây nói A-la-hán gọi là Tu-đà-hoàn phải trải qua tám muôn kiếp mới được phát tâm. Thật là đáng cười! Lại nếu nhập vào vô dư y thân biết mất hẳn. Vì sao không nhân mà lại khởi thân nữa ư! Không như vậy thì nghĩa Vô dư là gì? Nếu như Phật nhập Vô dư Niết-bàn. Hữu lậu đã hết thì đắc vô lậu. Vô lậu đã viên mãn thì sao không gọi là Phật. Nếu triền phược đã dứt hết thì gọi là nhập vô dư. Thân trí không mất thì vô dư đâu tồn tại? Có thân sở y nên hai thứ vô dư, hữu dư đâu có khác nhau. Nhưng kinh Niết-bàn chép: Tu-đà-hoàn trải qua tám muôn kiếp v.v… như trước đã nói. Thật thì quả kia chẳng phải A-la-hán. Lấy kia mà nói cũng chẳng phải A-la-hán còn trải qua một lần sanh nữa. Như kinh kia ý chỉ nói chung A-la-hán, người thật Hữu học phát tâm hướng Đại thừa phải trải qua từng ấy thời gian. Do đây, nên dùng các kinh Niết-bàn, Du-già, để giải thích là nói tốt nhất.

Tăng Giác Ấn ghi tại chùa Pháp long

Ngày 30 tháng 0 niên hiệu An Bảo năm thứ ba

 

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10