HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

SỐ 1723

QUYỂN 03

Sa-môn Khuy Cơ soạn tại chùa Đại Từ Ân

 

PHẦN ĐẦU

PHẨM PHƯƠNG TIỆN

Lược chia ra ba môn:

1) Vì sao có phẩm này. 2) Giải thích tên phẩm. 3) Nêu ra thể của phẩm.

Về ý nghĩa vì sao có phẩm này có ba:

1. Y vào tám phẩm làm Chánh tông. Hoa sen có hai đức là lên khỏi mặt nước và nở bày tức Pháp mầu có đầy đủ hai công năng của quả tốt đẹp là hạnh trang trong cung kính.

Lại trong kinh nói: Nay kinh này chỉ nói pháp Nhất thừa. Cho nên dùng để phá hai, hội hai trở về Nhất thừa làm chánh chủ ý của kinh Pháp Hoa. Cho nên, ba lần nói pháp hợp với ba căn cơ. Phẩm này là lần đầu tiên nói pháp Nhất thừa để lợi ích cho Thu Tử (Xá-lợi-phất). Ngài Thu Tử là bậc thượng căn đầu tiên lãnh ngộ nói trong phẩm Thí dụ. Phật vì ông mà thuật lại việc thành tựu để thọ ký. Cho đến vì Thu tử nói kệ xong đó là lần chuyển thứ nhất. Trong phẩm Thí dụ ngài Xá-lợiphất thỉnh rằng: “Nay con không còn nghi hối”: Từ đây trở xuống Phật nói thí dụ để làm lợi ích cho hàng trung căn. Bốn người trung căn ấy tín hiểu. Phật nói phẩm Dược Thảo Dụ thuật lại sự thành tựu, thọ ký cho họ. Đây là lần chuyển thứ hai.

Trong phẩm Hóa Thành Dụ nói đến kết duyên từ xưa và Hóa thành là không thật, đây vì lợi ích người hạ căn. Mãn Từ Tử lãnh giải rồi. Phật ấn chứng thuật lại xong, liền thọ ký cho năm trăm vị Hữu học, Vô học. Đây là lần chuyển thứ ba, trở xuống phần dưới lại không nói Nhất thừa nhưng chỉ nói Nhất thừa là tự thể của Pháp Hoa. Nay đại chúng nhóm họp hòa kính và đủ duyên rồi, căn khí đã phù hợp chính là lúc có thể trình bày tông pháp. Vả lại nói pháp Nhất thừa làm lợi lạc cho người thượng căn. Do đây mà phẩm Phương Tiện xếp sau phẩm Tựa.

2. Trong phần căn cứ mười chín phẩm làm chánh tông, từ phẩm Phương Tiện trở xuống có mười hai phẩm nói về cảnh Nhất thừa. Phẩm An lạc, Dũng Xuất nói về hạnh Nhất thừa. Phẩm Như lai Thọ Lượng đến phẩm Thường Bất khinh, cả năm phẩm này lại nói về quả Nhất thừa. Nói cảnh để biết rõ cảnh quyền thật khuyên nên bỏ quyền mà giữ lấy thật. Người thanh văn ngộ cảnh này mà được thọ ký.

Trong đây chia làm ba: Tám phẩm đầu chính là nói về quyền thật, ba căn cơ đều được thọ ký, ba phẩm kế là khen ngợi người và pháp, khuyên nên kính mến hành trì. Một Phẩm Trì ở sau vâng mệnh bỏ quyền trì thật hành thật pháp. Tám phẩm đầu này không khác với ý trước. Cho nên sau phẩm Tựa là phẩm Phương Tiện.

3. Luận chép: Từ đây trở xuống chỉ rõ hiện nói tướng nhân quả. Ý này ở liền sau phẩm Tựa. Nói rõ tông chỉ kinh nói là tướng trạng, thể tướng, nhân quả. Trong đây có ba ý giải thích:

a) Nói trí tuệ của Chư Phật là quả. Năng thuyên trí tuệ là giáo môn gọi là nhân. Như cửa là nơi để bước vào nhà. Vậy thì giáo là nơi hiển lý. Hoa sen chỉ nói hai nghĩa nhân quả, cho nên tức là trí thuyên.

b) Ba lần thỉnh rồi sau nói một đại sự: Khai, thị, ngộ, nhập, ba điều trước là quả, một điều sau là nhân, chính là tông chỉ Nhất thừa. Đầu tiên là nêu môn ý trí . Ngài Thu Tử phát nghi nên cố thỉnh Phật nói pháp Nhất thừa. Hai nghĩa Hoa sen tuy giải là kinh Vô Lượng Nghĩa. Quả đẹp nhân khai, đây cũng chưa bao gồm lý chung. Do đây nên nói mở bày ngộ nhập là quả và nhân.

c) Đầu tiên nói trí và môn. Môn là nhân trí là quả. Mở bày ngộ là ba quả, nhập là nhân, giáo lý hạnh quả đều là Pháp Hoa, khiến biết xưa kia giáo hành phương tiện nói thành ba. Nay nói thể thừa lý quả chỉ là một. Nghe giáo Ba thừa mà hiểu lý Nhất thừa. Thật hành nhân Ba thừa mà chứng quả Nhất thừa. Đó là ý Pháp Hoa. Như trước đã giải thích, phẩm này nói đủ tông nêu kinh tông nhân cho quả nên phẩm Phương tiện kế sau phẩm Tựa

Giải thích danh từ: Phương tiện là phương liên, khứ thanh là Tiện.

Phật trí có hai: Trí chân thật và trí phương tiện.

– Trí chân thật có hai: Thật pháp và Thật trí. Thật pháp có hai:

Một là thể thật nghĩa là hữu vi vô vi.

Hai là chân thật, nghĩa là chân như diệu lý. Thật trí cũng có hai:.

Một là như thể thật trí, tức là quán thể thật vô lậu chân trí. Đối với trí phàm vọng không biết gọi là thật trí tức hai trí căn bản và hậu đắc đều có.

Hai là chứng trí chân thật chỉ có trí chánh thể. Đây có năm cặp:

  1. Đối với biết vọng gọi là thật trí.
  2. Đối với biết việc gọi thật trí.
  3. Đối tỏ tướng gọi là thật trí.
  4.  Đối trí thuyên gọi là thật trí.

Bốn thứ thật trí này đều chỉ quán về chân trí thứ tư còn bốn sở đối theo thứ lớp đều là bốn trí thế tục.

5. Đối trị quyền trí gọi là thật trí. Nghĩa là lý trí Nhất thừa, đối với biết hai quyền trí. Đây y vào chứng trí, lấy chân trí thứ tư để đối với ba tục trí sau. Nếu y vào hướng nhập trí thì lấy chân trí thứ ba đối với tục trí thứ ba.

Về trí phương tiện có ba hoặc bốn.

  1. Tiến tới phương tiện. Nghĩa là trí bảy phương tiện trước kiến đạo tiến đến hướng quả gọi là phương tiện. Sở học có phép tắc nên gọi là phương, tùy theo vị tu thuận thích nghi gọi là tiện.
  2. Lập ra phương tiện. Nghĩa là phương tiện khéo léo Ba-la-mật. Diệu dụng hậu trí, năng hành hai lợi nên gọi là phương tiện.

Đoạn này có ba:

  1. Giáo hạnh phương tiện: Ngôn âm có phép tắc gọi là Phương, bẩm giáo được an ổn gọi là tiện.
  2. Chứng hành phương tiện: Lý Không ngay thẳng gọi là phương. Trí thuận chánh lý gọi là tiện.
  3. Bất trụ phương tiện: Từ chân nhập tục gọi là phương: Tự tha đều lợi là tiện. Cả ba pháp này đều là lập ra phương tiện thứ hai.

Tập thành phương tiện: Các pháp đồng thể, xảo tướng tập thành, nên gọi là phương tiện. Vả lại chân như có đầy đủ Hằng sa Phật pháp. Lấy trí làm môn, lấy thức làm môn đều nhiếp tất cả.

Trong Bồ-tát Địa chép: Pháp này khéo léo thành, gọi là phương tiện.

Mười Địa nói: Chung, đồng, thành, biệt dị, hoại. Lấy chung đối với biệt mà làm phương tiện vậy. Bao gồm có phép tắc gọi là phương, dùng ít dung nạp nhiều gọi là tiện.

– Quyền xảo phương tiện: Thật không có việc này, vì ứng vật quyền biến hiện ra nên gọi là phương tiện. Nghĩa là dùng ba nghiệp làm phương tiện mà giáo hóa. Đây đối với thật trí gọi là phương tiện. Lợi vật phép tắc là Phương, tùy thối cứu độ gọi là tiện. Thể này xuất xứ từ trong phần lập ra phương tiện lại không có nghĩa riêng, nên thể chỉ có ba:

Nay đây giải thích có ba:

  1. Hiển hạ phương tiện chỉ dẫn dắt chúng sanh.
  2. Hiển thượng phương tiện, chỉ hiện hiển bày lý sâu mầu.
  3. Hiển chung khắp phương tiện ở thượng hạ.

– Hiển hạ phương tiện, kinh này phần dưới có nói. Cõi Phật Mười phương chỉ có một pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba. Trừ Phật phương tiện nói.

Lại nói: Chánh ngay bỏ phương tiện, chỉ nói đạo vô thượng , tức là quyền xảo phương tiện trong bốn phương tiện. Đây có ba:

  1. Thân phương tiện cầm đồ hốt phân mặc áo thô rách ở Già-da thành đạo.
  2. Ngữ phương tiện: Văn dưới nói chín bộ pháp này của ta nhập vào Đại thừa làm căn bản. Lại hướng về Ba-la-nại xoay bánh xe pháp bốn đế v.v…
  3. Ý phương tiện: Văn kinh dưới nói: Xét nghĩ các Phật quá khư thật hành năng lực phương tiện. Nay ta đắc đạo cũng nên nói pháp Ba thừa. Trên đồng với Chư Phật, dưới thuận với hữu tình.

Kinh Phật Địa chép: Phật dùng trí thành sở tác khởi ba nghiệp giáo hóa chúng sanh, cũng đồng với ý này. Theo như ở đây giải thích rằng. Lập ra đáng làm phép tắc gọi là phương, khéo thuận cơ nghi gọi là tiện. Luận Vãng sanh chép: Ngay thẳng gọi là phương. Ngoài đã xong làm tiện thì phương là phương thuật. Tiện là ẩn chứa sự thuận tiện, phương của tiện là phương tiện.

-Hiển trên gọi là phương tiện: Vô Cấu Xưng gọi là có phương tiện cho nên mở ra. Không có phương tiện nên trói buộc. Kinh này giải thích: Ta lập ra phương tiện ấy, khiến cho chúng sanh nhập vào trí tuệ Phật. Chư Phật đều dùng vô lượng phương tiện đô thoát chúng sanh, nhập vào trí vô lậu của Phật. Đầu tiên lập ra phương tiện, sau hiển rõ Phật trí. Tức lập ra phương tiện trong bốn phương tiện. Lý diệu đáng làm phép tắc gọi là phương, xảo dụng năng hiển gọi là tiện. Ý nghĩa thì sâu xa mà lời thì xảo diệu, tiện thông giáo lý, tiện của phương thì gọi là phương tiện.

-Thông suốt phương tiện trên dưới.

Kinh dưới Đại chúng nghi nói: Vì sao Đức Thế Tôn hết lời khen ngợi phương tiện mà nói là: Chỗ đắc pháp của Phật sâu xa khó hiểu, ngôn ngữ ý thú khó biết. Phương tiện là chung, hai câu dưới là riêng, chỗ đắc pháp của Phật là nói rõ trên. Nay nói nhất thật, ngôn ngữ ý thú là hiển hạ phương tiện, nêu rõ ba quyền xưa. Lại nói Phật đều biết lý ấy, đã dùng các phương tiện thí dụ ngôn từ phương tiện khiến tất cả chúng sanh đều vui mừng, tiếp dưới mà hiển bày trên, cả hai đều dụng thông, tức mười hai thứ phương tiện khéo léo Ba-la-mật-đa, tùy ứng mà phối nhiếp.

Phương là pháp tắc thống nhiếp nhân tình. Tiện là lý thích nghi cần cứu giúp muôn vật. Phương là phương pháp, phép tắc. Tiện là cần thuận tiện thích nghi. Tình là hữu tình. Cơ là cơ yếu. Phương pháp thống nhiếp cơ tình, cơ nghi gọi là phương, thông suốt người và pháp, vật là nhân vật. Lý là đạo lý. Đem đạo lý cần thích nghi làm lợi ích cho nhân vật gọi là tiện. Lợi người ích pháp. Ý này nói là quy tắc lợi người ích pháp, nên gọi là phương tiện. Vừa phương vừa tiện nên gọi là Phương tiện. Do nghĩa này suy ra mà chung cả ba giải thích. Ba thứ đó hợp lại là mười hai thứ phương tiện khéo léo Ba-la-mật-đa tùy ứng mà phối nhiếp. Luận Du-già quyển bốn mươi lăm nói có mười hai thứ. Sáu thứ đầu y vào nội tu chứng. Sáu thứ sau y vào ngoại thành thục. Sáu nội tu chứng là: Bi tâm thương xót, biết rõ các hành, ưa thích diệu trí Phật, không bỏ sanh tử, luân hồi không nhiễm, mạnh mẽ tinh tấn. Sáu thứ ngoài là: Khiến thật hành ít thiện như bố thí mà cảm quả vô lượng. Khiến thật hành ít lực như giới, v.v… mà dẫn đại gốc lành. Người ghét Thánh giáo, thì trừ sự nhuế não kia, người trụ trung đạo giúp họ hướng nhập. Người đã hướng nhập thì khiến cho thành thục. Người đã thành thục thì khiến cho giải thoát. Trong đây phương tiện tiếp dưới là thành thật sáu thứ ngoài, hiển trên là sáu thứ thành thục nội chứng, thông hợp cả trong ngoài là mười hai thứ. Trong mười hai thứ vì thành bốn thứ sau lại tu sáu thứ phương tiện khéo léo:

Một là thuận theo hội thông: Sắp vì chúng sanh nói pháp, trước hiện thân, ngữ tốt đẹp, mềm mỏng khả ái, khiến cho sanh ái kính, khởi ưa thích pháp, rồi dần vì nói. Chúng sanh không hiểu pháp không mật ý ngôn giáo. Tất cả các pháp vô tánh vô sự vô sanh và diệt như huyễn như mộng v.v… như lý hòa hội. Các kinh kia không nói thể của tất cả pháp đều là vô sở hữu, chỉ vô sở chấp thì mới có thể nói tự tánh. Căn cứ vào Bậc nhất nghĩa chẳng phải tự tánh đó. Tánh sự đã vô sở hữu thì hữu đâu có sanh diệt! Lại như huyễn mộng thì chẳng như hiển hiện ra. Lại chẳng phải việc kia là vô sở hữu, nên nói như huyễn để cho người biết rõ.

Hai là cùng lập khế ước: Thấy có người đến cầu, trước cùng lập ra khế ước, khiến cho người biết được ân đức, trì tịnh giới cung kính cúng dường, sau đó mới cho họ.

Ba là khác phần ý thích: Cùng lập khế ước rồi mà người kia không mau hành trì, vì ý lợi ích. Trước hứa mà không cho, vì trước kết làm bạn thân, thuận theo mà giáo hóa họ. Người kia không theo tu học thì hiện tướng nổi giận. Họ làm trái ngược, thì giả như không tùy theo làm ích. Những tướng này là lúc quyền biến, ngoài hiện tướng xả bỏ, chẳng phải bên trong ý ưa thích, hoặc không vì cứu giúp.

Bốn là ép buộc làm: Có năng lực tự tại. Đối với thân thuộc có thể dạy bảo. Với người hủy giới không biết ân đức. Hoặc người bị khiển trích đuổi đi, dứt hết các sở cầu, cũng làm cho họ biết tu tập.

Năm là thi ân báo ân. Với người mình từng chịu ân đức trước kia, mong giúp họ tu thiện để báo đáp. Đó gọi là Đại báo ân.

Sáu là rốt ráo thanh tịnh: Đạo quả tròn đầy rồi thì trụ vào cõi trời Tri túc… cho đến hạ sanh thành Chánh giác, khiến cho người sanh tâm ưa thích mà vãng sanh tùy dưới đây, thỉnh xoay bánh xe pháp rộng vì lợi ích khắp. Đây cũng tức là thuận theo hội thông trong sáu phương tiện. Hội Ba thừa xưa là quyền, thông Nhất thật nay để quyết trạch. Trong Duy thức lại nói có hai thứ:

a, Cứu giúp phương tiện khéo léo cứu đo, tức sáu thứ ngoài.

b, Hồi hướng phương tiện. Khéo léo tức là sáu thứ nội chủng. Tùy sự thích ứng đều thuộc phương tiện này.

– Nêu ra thể tánh: Phương tiện là lấy trí tuệ làm tánh Vô phân biệt trí nội chứng cảnh chân. Trong hậu đắc trí vì lợi tha nói pháp, năng khởi diệu dụng phương tiện, lấy hậu đắc trí làm tánh. Trong Duy thức nói năm pháp Ba-la-mật-đa sau đều lấy hậu đắc trí làm tánh, tánh năng, sở thuyên mỗi đều khác nhau, do nơi trí mà hiển bày, nên nay từ căn bản lấy trí làm tánh.

Phần dưới giải thích bổn văn: Trong chu thứ nhất có bốn phần:

  1. Đức Thế Tôn hiểu dụ.
  2. Ngài Thu Tử lãnh hội.
  3. Như lai nói pháp thành tựu.
  4. Phật thọ ký cho.

Giống như văn nói trung căn, hạ căn cũng có bốn: Trong bốn phần này thì đầu tiên là phẩm Phương tiện. Ba phần sau đều ở trong phẩm Thí dụ. Trong lời hiểu dụ của Phật, luận phán làm năm:

  1. Khen ngợi pháp thắng diệu, “Ta từ khi thành Phật” v.v… trở xuống.
  2. Khen ngợi công đức Pháp sư tức từ câu: “Bấy giờ trong chúng bậc A-la-hán các lậu đã hết.”
  3. Đại chúng định nghi, từ câu: “Phật bảo Xá-lợi-phất: Thôi thôi không nên nói nữa. Nếu nói việc ấy thì tất cả thế gian đều sẽ kinh nghi…”
  4. Định ký: “Xá-lợi-phất Chư Phật xuất hiện ở cõi đời có năm thứ vẩn đục này”…
  5. Phần dứt nghi; pháp là thầy Chư Phật. Người do pháp mà thành tựu công đức. Người là năng hiển, pháp nhờ người mà được mở mang truyền bá.

Đầu tiên khen ngợi pháp mầu, sau khen ngợi sự thù thắng của người. Các Thanh văn lấy việc tự sở chứng để làm chắc chắn, nghe khen ngợi pháp nói nên có nghi sanh. Cho nên có phần định nghi. Tâm Phật vì trước đã chắc chắn rồi, nên nói “thôi đừng cố thỉnh” khiến cho người xấu phải rời chỗ ngồi bỏ đi. Đã vậy, lại giải thích rõ ràng nghĩa đó nên có phần định ký. Mọi người trong chúng nghe nghĩa nói trước kia lại có người nghi. Phật liền giải thích lại. Cho nên có phần dứt nghi, bèn thành năm phần: Hoặc chia ra làm hai. Phần đầu khen ngợi pháp và sư mầu nhiệm, chúng bèn nghi sanh; phần sau Phật lại chắc chắn thọ ký giải thích, chúng vẫn còn nghi, nên Phật giải thích lại nghi này, nên chia làm hai. Nay trong phẩm này chia làm bốn: Phần đầu là trước sâu xa, xướng báo để cảnh tỉnh, quán sát tâm chúng sanh, kế bốn chúng kinh nghi, phát khởi lời thỉnh của Thân tử. Thứ ba là khai ra thật tướng này mà khởi lên quyền môn. Bốn là khuyên phát hỷ tâm khiến ưa thích thành Phật, như ba hàng tụng ở cuối phẩm này nói.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế Tôn cho đến đều không thể biết ”.

-Tán: Hai nghĩa sâu xa là trước xướng cảnh báo, và tâm quán sát tâm chúng sanh. Trong văn có hai:

Văn xuôi và Trùng tụng.

Văn xuôi có hai:

  1. Khen ngợi pháp mầu đã chứng đã nói:
  2. “Ta từ khi thành đạo…” khen ngợi thân Như lai năng chứng năng nói pháp sư thắng diệu.

Trong phần đầu có hai:

  1. Nêu chung phần thắng diệu.
  2. Tức câu: “Vì sao” trở xuống là giải thích sự thắng diệu này.

Trong phần một lại có hai:

  1. Nói về sự tự tại, theo định mà khởi,
  2. Bảo với Thu Tử.

Chính là trình bày những điều sẽ nói. An là nghĩa thong thả. Tường là xét kỹ. Luận chép: Dùng trí như thật quán từ Tam-muội an tường mà khởi. Xuất định rồi bảo Xá-lợi-phất: Như lai thị hiện đắc lực tự tại. Như lai nhập vào định không ai có thể đánh thức. Quán vô lượng nghĩa xứ định gọi là như thật trí quán. Định của Phật rất cao siêu, nhập rồi người khác không thể đánh thức Phật khiến cho từ định mà khởi. Nếu không phải Phật xuất định, thì người khác không thể khiến xuất định, cho nên tự mình từ định khởi ra.

Lại hiển bày Phật ở trong định ra vào tùy ý tự tại. Tức là do hai nghĩa mà xuất định. Tuy là Tam-muội vô lượng nghĩa xứ mà phần nhiều là Tứ thiền có công đức thù thắng.

Phật không nói với người khác mà chỉ nói với Xá-lợi-phất đó là tùy theo trí tuệ sâu xa mà tương ưng với Như lai.

Nghĩa là ngài Xá-lợi-phất ở trong các thanh văn là bậc thượng , là người có trí tuệ lợi căn, một lần nghe qua thì sâu giải ngộ nhập trước tiên. Khi Phật nói pháp thì ứng hợp căn cơ. Do trí tuệ Phật rất là bậc nhất căn và pháp phù hợpnên gọi là tương ứng.

Tương ưng nghĩa là thuận theo, chẳng phải trí tuệ tương tợ gọi là tương ưng. Căn hợp Phật pháp gọi là tương ưng, cho nên không nói với Bồ-tát.

Luận có năm nghĩa:

1- Những việc làm của chúng Thanh văn, kinh Pháp mầu Liên Hoa là Phật nói cho thanh văn nghe. Việc làm của Thanh văn là xả bỏ pháp thứcền thừa mà chẳng phải việc Bồ-tát.

2- Vì các Thanh văn hồi hướng quả Đại Bồ-đề. Khiến họ phát tâm hướng đến quả Đại thừa.

3- Đây là hộ trì tâm e sợ yếu đối của Thanh văn. Nếu Phật nói cho hàng Bồ-tát, thì Thanh văn cho pháp Nhất thừa này mình không dự phần, tâm sanh khiếp sợ không thể tiến tu. Nay bảo Thanh văn để họ dứt trừ ý này: “Các ông phải dứt trừ tâm yếu đối”.

4- Khiến cho người khác khéo tư duy là khiến cho Thanh văn khác khéo suy nghĩ. Ngài Xá-lợi-phất đã được thấm nhuần lời Phật bảo, chúng ta là đồng hạng với Xá-lợi-phất cũng nên được phật bảo, mà sanh lòng kính tin sâu khởi tâm tu học.

5. Vì các Thanh văn không khởi tâm các việc làm đã xong. Xưa Thanh văn cho rằng quả diệt đã đắc được là đã tròn đủ. Nay Phật khen ngợi pháp mầu nói những việc mà họ không biết, khiến cho bỏ tiểu tâm.

Bồ-tát đối với năm việc hoàn toàn không tương ưng, cho nên tuy là lợi căn, mà Phật không chánh thức bảo, bảo riêng thì không hợp chung. Bảo người Ba thừa vì có nghi hối tức là khiến đều dứt trừ nghi. Chánh thức bảo là hàng tánh bất định và những người khác tùy ý hành trì. Pháp được khen ngợi lược có hai thứ:

  1. Trí tuệ.
  2. Trí tuệ môn.

Cho nên luận chép là có hai nghĩa rất sâu:

  1. Chứng sâu xa là trí tuệ.
  2. A-hàm sâu xa là môn trí tuệ.

Trí tuệ môn là giáo năng thuyên. Trí tuệ sâu xa là lý sở thuyên.

Tiếng Phạm là: A-cấp-ma Hán dịch là Giáo, hoặc dịch là Truyền. Từ thời thượng cổ Chư Phật truyền đến bây giờ. Nghĩa sâu xa này có cả giáo và lý. Nhưng lý là chính được gọi sâu xa, môn sâu gọi là “khó thấy, khó biết v.v…

Nhị thừa không biết cũng có cả hai pháp này, ngoài ra thuộc riêng hai pháp giáo và lý ý luận như thế.

Luận chép: Trí tuệ là nghĩa. Nhất thiết chủng , Nhất thiết chủng trí. Trí của người Nhất thiết trí gọi là trí Nhất thiết trí thể chung cả tánh tướng gọi là Nhất thiết chủng, tức quả vị Phật Niết-bàn, Bồ-đề. Hoặc Nhất thiết trí đó là Vô phân biệt trí. Lại nói trí đó là Hậu đắc trí. Nghĩa đó là cảnh. Tức là cảnh trí của Nhất thiết trí, nên gọi là trí Nhất thiết trí. Thế nào gọi là Nhất thiết trí, nghĩa là Nhất thiết chủng, tức như không như hữu, hữu vi vô vi, hữu lậu vô lậu, như giáo như lý thì gọi là Nhất thiết chủng. Chủng nghĩa là chủng loại. Pháp thể chủng loại rất nhiều chẳng phải một, nhiếp hết tất cả gọi là Nhất thiết chủng, nghĩa là Nhất thiết chủng này là cảnh của Nhất thiết trí. Tức cảnh nhất thiết chủng này gọi là trí tuệ sở thuyên. Nay dùng lý bao trùm cả thì trí tuệ có năm, nhiếp hết tất cả pháp mới gọi là Nhất thiết chủng.

1. Tánh trí tuệ: Nghĩa là chân như. Cho nên kinh ở dưới nói: Chỉ có Phật rốt ráo biết hết thật tướng các pháp”. Luận tự giải thích: Tánh Như lai Tạng làm thể, khuấy động pháp thành tựu người. Chỗ thành tựu của người là trí tuệ, cho nên dẫn văn dưới để chứng minh.

2. Tướng trí tuệ: Tức là năng quán vô lậu chánh thể. Hai trí Hậu đắc làm thể. Dưới nói các trí phương tiện kiến đều đã đầy đủ. Tư duy cùng tận cùng với ước lượng cũng không thể suy lường được Phật trí.

3. Bạn trí tuệ: Là trần sa muôn đức công đức hữu vi. Dưới nói: “Tri kiến Như lai rộng lớn sâu xa, có lực vô lượng vô ngại, vô sở úy đều đầy đủ tất cả”.

4. Nhân trí tuệ: Là nghĩa giáo năng thuyên và muôn hạnh. Ở dưới nói: “Trí tuệ môn khó hiểu khó vào”. Luận chép là A-hàm sâu xa. Lại luận dẫn trong văn kinh chép: Như lai có thể nói tất cả pháp, bằng đủ loại ngôn từ. Lại nói: Trọn hành trì vô lượng đạo pháp của Chư Phật”.

5. Cảnh trí tuệ: Nghĩa là cảnh như không như hữu, chân đế, tục đế hữu vi, vô vi. Kinh nói: Như thị Tướng, như thị Tánh”. Nay nói trí tuệ môn đã là phương tiện, thì giáo năng thuyên sâu nên lý sở thuyên cũng sâu. Tức bốn tuệ còn lại nghĩa tuy có thể vậy, nhưng đều nương theo các giáo, trong năm pháp sâu xa này, phần nhiều chỉ lấy tuệ tánh chân như làm thể, dùng A-hàm sâu xa tức là ba giáo xưa. Chứng sâu xa tức là thể Nhất thừa. Vô thượng sâu xa là đại Bồ-đề. Thế nên trong kinh Thắngman nói: “Thể Nhất thừa chỉ là chân như”. Tức là Đảo châu báu trong phẩm Hóa thành. Nay trong kinh này y vào thắng tuệ chân thật chỉ lấy tánh trí, tướng trí làm thể. Bồ-đề, Bồ-đề đoạn đều gọi là Bồ-đề. Trí và trí xứ đều gọi là Bát-nhã, vì nhiếp tất cả. Nhà lửa xe trâu tức là tướng trí. Nói xe trâu riêng mà cùng là một. Đảo châu báu xưa đã có tức là trí tánh. Chúng cùng giữ lấy, thị hiện ngộ nhập tri kiến tức là hai vậy. Do đây mà có ba tự thành khác. Dưới nói: Một đại sự nhân duyên, tức là hai trí tuệ này nhân như quả. Nghĩa là trí tuệ này là chân lý Nhất thừa. Trí tuệ môn đó là ba thừa quyền giáo. Nêu chung hai giáo lý quyền thật riêng biệt lý giáo, là muốn cho người Nhị thừa hành nhân chứng quả mà bỏ quyền giữ thật. Cho nên trong kinh Thắng-man nói: Do kinh này bốn trí rốt ráo đắc Niết-bàn Nhị thừa… là phương tiện của Phật. Muốn họ xả bỏ Nhị thừa quyền mà giữ Nhất thừa thật.

Chứng pháp sâu xa, luận chép có hai nghĩa: Một là thể diệu, hai là ít có hiểu.

Thể diệu là: Luận chép chứng sâu xa có năm thứ.

Khó hiểu: Luận chép lại sự sâu xa đó tất cả người thanh văn, Bích-chi-phật không thể biết được. Năm pháp sâu xa này xưa nay chỉ y vào chân như mà giải:

  1. Nghĩa sâu, nghĩa sai khác.
  2. Thể sâu tự thể tánh.
  3. Nội chứng sâu chánh trí, nội chứng trí khác không được.
  4. Y chỉ sâu pháp giới, pháp đánh căn bản của Chư Phật.
  5. Vô thượng sâu thể tối thắng. Nghĩa là Đại Bồ-đề tức là quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác sở chứng . Nếu kiêm quán chiếu tánh trí, tướng trí hợp lại gọi là năm chứng nghĩa.

Sâu xa là ý nghĩa rất sâu xa, là dụng của chánh trí như. Thể sâu xa nghĩa là chân như, là bổn tánh của pháp. Nội chứng sâu xa là hiển rõ lại chánh trí. Bên trong sâu xa thì gọi là sâu. Y chỉ sâu đó là hiển rõ lại chân như, là căn bản của tất cả đức nên gọi là sâu.

Vô thượng sâu là Đại Bồ-đề. Đại Bồ-đề là quả chứng A-nậu-đala-tam-miệu-tam-bồ-đề của Như lai. Trong luận Kim cương Bát-nhã của ngài Vô Trước có nói: Vô thượng Bồ-đề là lý pháp thân. Tammiệm-tam-bồ-đề là báo thân trí. Đây tức là hai thứ chung hiển này. Thể vượt qua tất cả cho nên gọi là sâu. Đây chính là bổn ý. Nếu chung nghĩa mà giải thích, hoặc tùy theo sở ứng, sở thuyên bốn tuệ đều có bốn sâu: Nghĩa, thể, chứng, y. Hoặc bốn pháp trí tuệ là: Tướng, tánh, bạn, cảnh. Như thế lần lượt nêu ra bốn thứ sâu xa. Chỉ Vô thượng sâu xa tại nơi quả Bồ-đề là chủ của các đức. Lại không phải thí dụ để thí dụ, suy nghĩ để suy nghĩ được gọi là sâu xa. Phần trên giải thích nghĩa sâu xa chỉ ở trí tuệ mà không thông tuệ môn. Y theo luận mà giải tuệ môn cũng có năm: Luận gọi là câu chung A-hàm sâu xa, tức là năm việc ít có. Vô lượng là trí tánh, trí tướng, trí bạn, trí cảnh. Thể biến dụng khắp, đức đầy đủ, pháp rộng lớn, như hư không không có hạn lượng, đức số vô cùng, chung cuộc ắt cũng vô tận, nên gọi là vô lượng. Nay chỉ nói tánh trí, tương trí, hai thứ có nghĩa vô lượng mà thể, đức, tác dụng đều là đầy đủ vô hạn vô cùng tận. Môn trí tuệ đó rất sâu cũng có hai nghĩa: Một là thể diệu, hai là ít có hiểu.

Thể diệu đó, luận dẫn trong kinh nói: Trí tuệ môn đó là ít có thấy, khó biết, khó giác, khó hiểu, khó nhập, đầy đủ năm nghĩa khó này.

– Khó hiểu là: Người Nhị thừa không biết:

Một là do nghĩa trí sâu xa, cho nên môn đó là ít có thấy.

Hai là do thể trí sâu xa, nên môn đó khó biết.

Ba là do trí nội chứng sâu xa, nên môn đó khó biết.

Bốn là do trí y chỉ sâu xa, nên môn đó khó hiểu.

Năm là do trí Vô thượng sâu xa, cho nên môn đó khó nhập. Dùng giáo năm nghĩa khó mà phối hợp riêng năm thứ trí tuệ sâu xa. Lại tuệ có hai: Một là phàm, hai là Thánh. Phàm có hai trí: Một là Hiện trí, hai là Tỷ trí. Hiện trí của phàm không biết gọi là ít có thấy. Tỷ trí không biết gọi là ít có giác. Thánh trí có hai: Một là hữu lậu, hai là vô lậu. Trí hữu lậu thế tục bất liễu gọi là ít có biết. Vô lậu trí có hai: Một là Căn bản, hai là Hậu đắc. Đầu tiên vì vô lậu trí không biết nên gọi là ít có hiểu. Hậu vô lậu trí không biết gọi là ít có nhập. Nhập đó nghĩa là chứng giải. Nay trong kinh này chỉ có hai: Vô lậu trí không biết cho nên khó hiểu khó nhập. Chung hiển bày khó liễu hai thứ chứng, giáo nên nói: “Tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật đều không thể biết, chỉ Phật mới biết. Nay Phật sở dĩ khen ngợi hai nghĩa rất sâu, luận tự giải thích: Vì các đại chúng sanh tâm tôn trọng rốt ráo muốn nghe Như lai nói pháp, vì làm nguyên nhân gần cho sắp đến đây Phật sẽ nói pháp chân thật Nhất thừa mà Phật sở đắc, thật là sâu xa khó hiểu. Khen ngợi trí rất sâu, để làm rõ sự khen ngợi vá nói ý thú khó hiểu. Ở văn dưới và làm nguyên nhân gần nói Nhị thừa là quyền phương tiện. Trước khen ngợi pháp môn sâu mầu khiến người phát tâm hi vọng được nghe. Nếu không như thế, chỉ nên khen ngợi trí tuệ sâu xa, gồm muôn đức để thành tựu quả Phật .

-Kinh: “Vì Sao?… ý thú khó hiểu.

-Tán: Phần này giải thích nghĩa A-hàm sâu xa ở trước. Trong đây có hai: Một là chứng, hai là hiển.

Vì sao? Vì Pháp Phật sở đắc gọi là giải thoát. Ba thừa đều giải thoát, Nhị thừa cũng được nói giáo phương tiện tức cũng đã y vào đó mà học. Như thế vì sao nay nói hai thứ Nhị thừa này là không biết không thấy?

Đây dẫn ra ý này là trí tuệ của Phật, Nhị thừa chưa đắc được để gọi là sâu xa. Trí tuệ môn mà Nhị thừa đã được, đâu gọi là sâu xa! Nói Nhị thừa không biết, hoặc dựa vào giải thích đầu tiên. Vì sao? Vì sở đắc giải thoát của hàng Ba thừa tuy đồng mà Bát-nhã, pháp thân tướng, tánh trí tuệ, họ đều chưa đắc, ông nhất định không biết; lại trí tuệ môn kia họ cũng chưa rõ. Ở dưới đây chỉ giải thích tám loại sâu xa A-hàm. Muốn hiển bày Nhị thừa còn không thể biết sự sâu xa của giáo, huống chi trí tuệ của Phật là y vào phần thứ hai mà giải thích. Vì sao? Trước đã nêu giáo môn sâu xa đó, nay sẽ nói đầy đủ rõ ràng. Do đó mà từ phần này trở xuống chỉ hiển bày giáo lý sâu xa. Luận nhắc lại trong kinh có tám câu, nay văn này chỉ nói sáu câu. Y theo luận thì nên nói: “Phật từng gần gũi trăm ngàn muôn ức vô số Chư Phật, trọn tu vô lượng đạo, pháp của Chư Phật, mạnh mẽ tinh tấn danh tiếng vang khắp thành tựu pháp sâu xa chưa từng có, pháp khó hiểu đó Như lai có thể biết, tùy nghi mà nói, ý thú khó hiểu. Tất cả người thanh văn Bích-chi-phật không thể biết được”. Tức thêm vào câu thứ sáu trong kinh này câu: “Pháp khó hiểu đó Như lai đều có thể biết. “Và cho vào trong câu thứ tám nói: “ Tất cả người thanh văn, Bích-chi-phật đều không thể biết”, thành ra tám nghĩa sâu xa.

-Câu thứ nhất nói: “Phật từng gần gũi trăm ngàn muôn đức vô lượng Chư Phật” tức là thọ trì đọc tụng nghĩa sâu xa. Đây là nói về Đức Thế Tôn trải qua ba đại kiếp cúng dường hai mươi sáu hằng hà sa Chư Phật. Ở chỗ các cõi Phật kia thọ trì đọc tụng pháp môn này. Gọi là sâu xa, chẳng phải như người Nhị thừa đơn giản liền hiểu được cho nên gọi là sâu xa.

-Câu thứ hai nói: “Hành trì đạo pháp vô lượng của Chư Phật” tức là tu hành sâu xa. Phước trí hai lợi đạo hành của Chư Phật đều hành trì. Chẳng phải như người Nhị thừa lược gọi tu nhân, gọi là sâu xa, mà các thừa dưới y theo đây đều biết.

-Câu thứ ba: “Mạnh mẽ tinh tấn”: Quả hành sâu xa, quả là quả chắc chắn. Tinh thuần mạnh mẽ kham chịu sự mệt nhọc, việc làm đều thành tựu nên gọi là quả chắc chắn. Hoặc do tinh tấn mà việc làm khéo thành, nay đạt được quả thắng diệu gọi là quả sâu xa. Như nghe một câu kệ, nữa bài kệ mạnh mẽ gieo mình vào lửa, xả thân sáu năm khổ hạnh bước chân bảy ngày kiêng chân lên, chẳng phải là không có sự chuyên tinh siêng nhọc mà được.

-Câu thứ tư: “Danh tiếng vang khắp: Tâm thêm lớn công đức sâu xa. Do danh tiếng vang xa, phàm Thánh đều nghe biết, còn cố gắng bản thân siêng năng lại thêm tu đoạn. Công đức tự tâm lại càng thêm lớn. Hoặc danh tiếng vang xa mọi người đều nghe, đều là tâm thêm lớn công đức. Tất cả mọi người đều nghe biết nên gọi là sâu xa.

-Câu thứ năm: “Thành tựu pháp sâu xa chưa từng có:” Tâm vui sự mầu nhiệm sâu xa. Do thành tựu pháp là sự vui thắng diệu chưa từng có. Tâm năng thành cũng làm cho vui mầu nhiệm. Tâm vui mầu nhiệm nói nên giáo khó biết.

-Câu thứ sáu: Pháp khó hiểu đó: Như lai có thể biết tức là pháp Vô thượng sâu xa. Do pháp thật khó hiểu mà Như lai có thể biết, nên pháp môn này trở thành vô thượng. Hoặc thể của pháp khó hiểu tức là vô thượng, chỉ Phật mới có thể biết nên gọi là sâu xa.

-Câu thứ bảy: “Tùy nghi mà nói ý thú khó hiểu”. Nhập sâu xa tức ý thú văn chương văn tự khó đắc. Phật tự trụ, trì, nhập giải ý này, không giống như ngoại đạo, tự thân không hiểu làm sao giải thích cho người khác hiểu. Nói pháp nhân duyên nghĩa rất sâu xa. Nhập có hai nghĩa: Một là ít có nhập giải chỉ Phật tự giải; hai là tùy nghi mà nói khiến cho người nhập vào pháp ấy. Ý thú khó hiểu đó gọi là sâu xa.

-Câu thứ tám: “Tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật không thể biết: Là sở tác sâu xa của Phật không đồng với Thanh văn, Bích-chi-phật, đã hành trì, giữ gìn; không đồng sở tác nội lợi, ngoại lợi của họ, nên gọi là sâu xa. Trên đây là chung nói do gần gũi Chư Phật mà thọ trì, đọc tụng, tu hành, mà quả quyết thêm lớn công đức tâm chứng sự vui nhiệm màu, thành tựu pháp Vô thượng, nên tùy nghi nói, khó thể được hiểu, người Nhị thừa không hiểu trí tuệ môn ấy nên gọi là pháp sâu xa khó hiểu khó nhập. Huống chi trí tuệ Phật chẳng phải là sâu xa sao?

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến… các thứ Thí dụ”.

-Tán: Trên khen ngợi pháp Phật nói và chứng đắc đều thắng diệu. Phần dưới khen ngợi Như lai bậc Pháp sư năng chứng, năng nói đều thắng diệu, theo luận chép lại kinh, thứ lớp phần dưới nên nói: “Vì sao? Xá-lợi-phất! Chư Phật Như lai tự tại nói nhân thành tựu. Xá-lợi-phất! Như lai thành tựu các thứ phương tiện, các thứ tri kiến, các thứ niệm quán, các thứ ngôn từ. “Câu trên đây là chung, câu dưới giải thích câu trên nói: “Xá-lợi-phất! Ta từ khi thành Phật đến nay, ở trong các nơi, đều giảng rộng nói ngôn giáo dùng vô số phương tiện dẫn dắt chúng sanh, khiến cho họ xa lìa mọi sự chấp trước”.

Ý này lần lượt nói: Do thân Như lai đối với lý tự chứng được thành tựu tự tại mà nói nhân tròn đầy. Do đó mà nay nói trí tuệ sở chứng và môn trí tuệ. Cả hai đều sâu xa. Vì sao gọi là nói nhân thành tựu? Nghĩa là các thứ phương tiện, các thứ tri kiến, các thứ niệm quán, các thứ ngôn từ, ba pháp đầu ở đây hợp lại gọi là nhân duyên, là đạo lý nhân duyên. Ngôn từ gọi là thí dụ, vì ngôn từ nói nhiều đến thí dụ. Y theo luận giải thích kinh thì từ câu “Các thứ thí dụ” trở lên gọi là câu chung. Rộng nêu ở dưới gọi là câu riêng. Lần lượt thích luận có ba cách giải thích: Đầu tiên luận tự giải thích riêng bốn câu đầu; kế Luận lấy các câu dưới của kinh hai lần phối hợp bốn câu này, cuối cùng là hai phen phối hợp. Giải thích đầu tiên có ba nghĩa:

Một là nói về xứ nêu nghĩa câu thứ tư, nói rõ Nhất xứ. Lần đầu giải thích riêng: Như lai thành tựu bốn thứ công đức, có thể hóa độ chúng sanh:

I. Xưa thành tựu: Nghĩa là Phật dùng các thứ phương tiện từ cung trời Đâu-suất hạ sanh… cho đến thị hiện nhập Niết-bàn. Thường qua lại mười phương mà hóa độ khó nghĩ bàn. Bát tướng thành đạo làm lợi ích chúng sanh, dụng trí khéo léo nên gọi là phương tiện.

Bát tướng là: Trong kinh Đại Bát-nhã quyển năm trăm sáu mươi tám chép:

  1. Bồ-tát cung trời Đâu-suất hạ sanh vào thai mẹ.
  2. Tuổi nhỏ.
  3. Trưởng thành.
  4. Khổ hạnh.
  5. Thành đạo.
  6. Hàng ma.
  7. Xoay bánh xe pháp.
  8. Nhập Niết-bàn.

Vì sao thị hiện tám tướng? Kinh nói: Bấy giờ Thiên Vương Tối Thắng lại bạch Phật rằng: Vì sao Bồ-tát hành sâu Bát-nhã? Vì sao độ chúng hữu tình thị hiện các tướng?

Phật bảo Tối Thắng: Tướng sâu xa Bát-nhã là không thể đắc. Tướng các Bồ-tát cũng không thể đắc, chỉ nhờ vào uy lực phương tiện khéo léo, vì chúng hữu tình thị hiện từ tướng nhập thai cho đến hóa ra các tướng Niết-bàn. Các vị trời chấp thường cho là không có sự đọa lạc, nên Bồ-tát phá chấp này mà thị hiện nhập thai, để cho các vị trời kia khởi lên ý niệm vô thường. Bậc tối thắng ở trong thế gian đối với dục vô nhiễm, còn có sự đọa lạc, huống chi chúng chư thiên mà lại được chấp thường sao! Thế nên chớ có buông lung mà càng thêm tinh tấn siêng năng, buộc niệm tu đạo. Như thấy mặt trời còn có lúc lặn , tức biết ánh sáng đom đóm há được dài lâu!

Lại có chư thiên buông lung chấp vào lạc thú không tu chánh pháp, buông tình vui chơi. Tuy ở cung trời chung với Bồ-tát mà không đến lễ bái, không thưa hỏi thọ pháp. Có vị nghĩ rằng: Hôm nay thọ vui, ngày mai đến Bồ-tát sẽ học pháp yếu, lại còn bảo nhau: “Ta và Bồ-tát thường ở đây tu hành, làm gì mà vội!” Cho nên, Bồ-tát như cứu lửa cháy đầu, phá tâm buông lung kia mà thị hiện sự đọa lạc, thị hiện như thế có hai nhân duyên:

1/ Để chư thiên lìa tâm buông lung.

2/ Để cho các hữu tình đều được thấy Phật… như thế thị hiện cho đến tướng thứ tám. Lại , có các trời người thích nghe pháp viên tịch. Bồ-tát vì họ thị hiện vào Niết-bàn. Trong Nhiếp luận Đại Thừa quyển chín nói có khác chút ít . Trong kinh Hoa Nghiêm thị hiện mười tướng đều nói rộng như thế.

II. Giáo hóa thành tựu: Nghĩa là thị hiện các nhân nhiễm tịnh, các thứ tri kiến. Do đầy đủ tri kiến ở trong hóa thân, nên thị hiện ra tất cả nhân tập nhiễm có thể vời lấy quả khổ. Tất cả nhân đạo tịnh có thể chứng diệt. Hoặc thị hiện các pháp đạo lý nhiễm tịnh. Nhân là nguyên nhân là nghĩa đạo lý. Trước có thể hiện thân, ở trong thân này thị hiện các pháp đạo lý nhiễm tịnh. Luận ở dưới giải thích điều này có khác với câu thứ tư , đây y chứng vào pháp, kia y vào nói pháp.

III. Công đức rốt ráo thành tựu: Nghĩa là các thứ niệm quán. Lấy việc nói pháp kia mà thành tựu nhân duyên tương ưng đúng pháp. Ý này nói là vì nói các pháp niệm quán. Niệm quán kia Phật đều đã thành tựu như pháp nhân duyên nói, xưa nay đều tương ưng. Nói tương ưng đó là khế ước chứng nghĩa.

IV. Nói thành tựu: Nghĩa là các thứ ngôn từ. Lấy bốn vô ngại y vào chỗ nào? Danh tự chương cú là gì? Tùy theo những gì? Chúng sanh năng thọ pháp gì mà vì họ nói? Dựa vào chỗ nào tức những gì là nghĩa? Là nghĩa vô ngại giải. Những gì là danh tự chương cú, là Pháp vô ngại giải. Tùy theo những gì là tùy theo ngôn ngữ chúng sanh các địa phương, mà nói pháp. Tức Từ vô ngại giải chúng sanh. Thọ pháp gì là nói căn khí chúng sanh có thể thọ, Phật liền nói pháp, là Biện tài vô ngại giải.

Trong bốn thành tựu này thì thứ nhất là hóa thân Phật có khả năng khởi tám tướng thành đạo. Thứ hai: Thị hiện các pháp đạo lý nhiễm tịnh. Thứ ba: Như pháp đã nói Phật đều rốt ráo chứng đắc. Thứ tư đầy đủ bốn vô ngại. Do Phật là vị Pháp sư có đầy đủ bốn thứ nên nói nhân thành tựu thành thắng diệu, pháp nói đó cũng thắng diệu. Luận giải thích bốn câu rồi, kế lại giải sự sai khác về câu thứ hai, câu thứ tư: Giáo hóa thành tựu là y theo chứng pháp. Nói thành tựu là y vào sự nói pháp. Y vào sở chứng đạo lý nhiễm tịnh của khổ tập diệt đạo thứ lớp vì người mà nói, gọi là Giáo hóa thành tựu thứ hai. Y vào pháp nói mà nói. Nghĩa pháp từ biện theo thứ lớp vì người nói gọi là nói thành tựu thứ tư thì không loạn vậy.

Hoặc bốn thứ trước, câu thứ nhất là đức của hóa thân. Câu thứ hai là báo thân đức. Câu thứ ba là pháp thân đức. Câu thứ tư là Bốn biện đầy đủ. Do ba thân bốn biện đầy đủ này nên có thể khởi nói. Ba thân đầy đủ nên trí tuệ sâu xa. Bốn biện đầy đủ nên tuệ môn sâu xa, nhân duyên này tức là ba thứ tri kiến phương tiện, niệm quán. Thí dụ là các thứ ngôn từ.

-Kinh: “Rộng nói ngôn giáo cho đến xa lìa chấp trước”.

-Tán: Trên y vào luận văn một lần giải thích chung bốn câu xong. Luận lại câu thứ hai dùng các câu dưới phối hợp với bốn câu này:

-Đây là phối hợp với câu thứ nhất nói: Dùng các thứ phương tiện.

-Câu kế nói: “vì sao? Phương tiện tri kiến Ba-la-mật” của Như lai đều đã đầy đủ là phối với câu thứ hai “các thứ tri kiến”. Kế đến: “Ngài Xá-lợi-phất cho đến tri kiến của Như lai cho đến giải thoát Tam-muội” là phối với câu thứ ba c các thứ niệm quán.

Kế câu “Sâu nhập vô cùng cho đến xưa nay rốt ráo”… là phối với câu thứ tư “các thứ ngôn từ.” Luận tuy lấy văn kinh dưới riêng phối hợp bốn câu chung ở phần trên nhưng đầu tiên hai lần giải thích ba câu trên rồi. Lại hai lần này giải thích một câu sau. Văn luận kia rất dài vừa lại khó hiểu thích, lẽ ra dựa vào kinh mà đọc, lần đầu trong đây nên giải thích:

-Lại có nghĩa các thứ phương tiện, tức là chỉ cho thấy các lỗi của tà pháp ngoại đạo và các công đức chánh pháp của Chư Phật. Như trong kinh Phật bảo Xá-lợi-phất: Ta từ thành đạo đến nay, nói rộng ngôn giáo dùng vô số phương tiện dìu dắt chúng sanh, chấp trước khiến cho được hiểu thoát. Văn tuy có chịu ít khác mà đại ý cũng đồng. Giải thích câu vô số phương tiện, lại có bốn lần:

  1. Phương tiện: Dùng phương tiện để khiến nhập các thiện pháp.
  2. Dứt các nghi.
  3. Khiến nhập vào thắng trí tăng thượng.
  4. Y theo bốn nhiếp pháp, nhiếp lấy chúng sanh giúp cho được hiểu thoát.

Trong sáu điều giải thích này là để bỏ tà về chánh tiến thiện phá ác, tự nhập vào Thánh trí và khiến cho người giải thoát. Thứ lớp phối hợp là: “Dùng phương tiện này dẫn dắt tất cả chúng sanh để họ lìa hết chấp trước. Trước là chấp bổn, ái nhiễm sanh tử căn bản. Luận chép các chấp trước đó là chấp vào những chỗ kia. Hoặc chấp cõi, chấp địa, chấp phần, chấp thừa.

-Chấp cõi là chấp ba cõi. Chấp địa là chấp: Giới, thủ, Tam muội từ Sơ thiền định địa cho đến Phi tưởng, Phi phi tưởng, định Diệt tận . Tức là thứ lớp lấy chín định làm địa. Giới thủ, kiến thủ, chấp Tam muội này gọi là chấp trước địa.

-Chấp phần là chấp vào phần tại gia đã đồng loại mà gây ra các nghiệp tà kiến.

-Chấp xuất gia phần: Là chấp danh tiếng lợi dưỡng có thể khởi ra các thứ giác sát phiền não. Chấp thừa là chấp vào Thanh văn thừa, thích tu theo tiểu giới để cầu bốn quả. Chấp ở nơi Đại thừa là chấp sự cung kính cúng dường lợi dưỡng. Do chấp mà phân biệt quán sát các pháp tướng, cho đến phân biệt Phật địa.

-Kinh: “Vì sao? Cho đến đều đã đầy đủ.”

-Tán: Đây là câu thứ hai: Luận lần đầu nói: Lại các thứ tri kiến

đó là tự thân thành tựu cảnh giới không thể nghĩ bàn cho thanh văn Bồtát. Như trong kinh nói: Xá-lợi-phất! Tri kiến của Như lai, làm phương tiện đạt đến bờ kia, người đến bờ kia rồi thì vượt hơn tất cả các chúng Bồ-tát. Văn có ít không đồng nghĩa mà ý không khác.

-Tri kiến đó là thể của hai trí chân, tục. Căn bản trí gọi là Tri. Hậu đắc trí là kiến, phương tiện là diệu dụng phương tiện khéo léo của trí này. Do tự thành tựu cảnh giới bất tư nghì mà đầy đủ tri kiến, cùng chúng Thanh văn gọi là phương tiện.

-Ba-la-mật nghĩa là đến bờ kia. Nói Phật thành tựu thể của hai thắng trí, có công năng thành tựu cảnh giới không thể nghĩ bàn. Đã đến bờ kia là vượt hơn tất cả. Do đầy đủ phương tiện diệu dụng của hai trí, lại có thể làm cho người khác đến được bờ kia. Cũng đem cảnh giới tri kiến không thể nghĩ bàn này cho các thanh văn Bồ-tát.

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến Tam muội giải thoát”.

-Tán: Đây là câu thứ ba: Luận lần đầu nói:

Lại nói các thứ niệm quán. Như kinh nói: “Xá-lợi-phất! Tri kiến của Như lai, rộng lớn sâu xa vô chướng vô ngại, lực vô sở úy, bất cộng pháp, căn, lực, Bồ-đề phần, thiền định giải thoát Tam-muội, Tam-mabạt-đề, đều đã đầy đủ.” Văn ý phần lớn đồng, ít có khác nhau. Nay nói tri kiến. Rộng có nghĩa là vô biên, lớn là Vô thượng, sau là ít có lường, xa là dài lâu vô cùng đến tận vị lai.

Trên đây chính là câu nêu chung các đức. Dùng hai trí làm tánh nên gọi là tri kiến.

Lại các đức này cũng thuộc về quyến thuộc của hai trí nên gọi là tri kiến. Từ “Vô lượng trở xuống…” là các câu nói riêng về đức. Y theo văn kinh thì vô lượng là bốn vô lượng, tức luận chép lại kinh là “không có chướng ngại.” Vô ngại là bốn vô ngại giải. Lực là mười lực. Vô sở úy là bốn vô sở úy, luận bổn nhắc lại trong kinh là: Bất cộng pháp, mười tám pháp bất cộng. Căn nghĩa là ngũ căn, lực là ngũ lực. Bồ-đề phần gồm ba mươi bảy pháp. Bốn thứ trên đây, trong kinh vốn không có mà nói Thiền tức là tứ tĩnh lự trong cõi Sắc. Định là Bốn định cõi vô sắc. Giải thoát là tám giải thoát. Tam muội là tam Tam muội. Tam-ma-bạtđề nghĩa là cửu Đẳng chí, loại này trong bổn kinh vốn cũng không có. Luận nhắc lại trong kinh có mười ba môn. Nay trong kinh này gồm có tám môn công đức gọi là niệm quán. Thể tức là tuệ giải đã nói, cho nên không thể giải thêm. Nghĩa môn mỗi loại nên tóm tắt phân biệt như sau. Bốn vô lượng dùng năm môn để phân biệt: Một là nêu danh, hai là giải thích danh, ba là nói về về hành tướng, bốn là nêu thể tánh, năm là nói về sự khác nhau.

-Nêu danh là từ vô lượng, bi vô lượng, hỷ vô lượng, xả vô lượng.

-Giải thích danh là: Một là duyên vô lượng cảnh, duyên tất cả hữu tình khởi ra bốn pháp này; hai là khởi vô lượng hạnh, hành giải cũng thật rộng lớn; ba là cảm vô lượng quả, được phước phạm lớn mà thành tựu Như lai. Danh là vô lượng. Bốn là nêu ra số để giải thích.

-Nói về hành tướng đó là pháp giới hữu tình, chung có ba thứ: Một là không khổ không lạc, không điên đảo cho lạc thì gọi là Từ lấy vô sân làm thể; hai là có khổ thì cứu khổ gọi là Bi lấy không hại làm thể; ba là có lạc thì giúp thêm hỷ gọi là hỷ lấy gốc lành không ghét làm thể. Lại đối với không khổ không vui mà khởi lìa tưởng si với có khổ khởi lìa tưởng sân, với có lạc thì khởi lìa tưởng tham. Bình đẳng muốn chúng sanh lìa các ác gọi là xả, khiến cho xả ác lấy khéo xả làm thể.

-Nêu ra thể tánh gần lại có ba pháp: Đó là vô sân, bất hại và xả.

Thể của không ganh ghét là không sân, không phân biệt pháp.

-Nói về về sai khác, mỗi pháp này có ba:

1/ Hữu tình duyên mà tạo ra hữu tình tưởng.

2/ Pháp duyên không thấy hữu tình chỉ tác pháp tưởng.

3/ Là vô duyên. Lại đối với các pháp lìa tâm phân biệt, tưởng là chân như . Cho nên gọi là vô duyên. Hoặc pháp vô lượng, duyên với các giáo pháp. Trong ba pháp này, đầu tiên là với ngoại đạo, kế là cùng Nhị thừa, sau cùng chỉ có Bồ-tát. Ba pháp đầu là an vui, một pháp sau là lợi ích, cảm quả có thể biết. Sai khác với đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả có , nghĩa là đây chỉ do thật quán, chỉ Phật khởi. Duyên vào ba cõi mà sanh ra, đều có với vô si . Đây có cả giả thật, có cả phàm Thánh mà khởi lên. Duyên vào giới bất định, chẳng phải là vô si đều có.

-Bốn vô ngại giải phân biệt giải thích theo ba cách: Một là nêu danh, hai là nói về tướng, ba là nêu ra thể.

-Nêu danh là: Một là Pháp vô ngại giải, hai là Nghĩa vô ngại giải, ba là Từ vô ngại giải, bốn là Biện tài vô ngại giải.

-Nói về tướng Pháp là văn giáo danh cú năng thuyên. Nghĩa là các pháp đế lý chân tục sở thuyên. Từ là tiếng nói của các nơi. Biện tài gồm có bảy thứ. Duyên bốn vô ngại này trí không bị vướng mắc, gọi là vô ngại giải. Có nhiều định nghĩa khác nhau như trong Bồ-tát Quyết Trạch Địa và Mười Địa luận có nói.

-Nêu ra thể: Bốn thứ này lấy hậu đắc trí vô lậu làm thể, chẳng phải chứng chân. Nghĩa vô ngại giải cũng có cả chánh trí. Sơ địa đắc từng phần. Cửu địa nhậm vận lìa chướng viên thành thì quả Phật đầy đủ.

-Mười lực tóm tắt phân biệt theo năm cách: Một là nói về danh; hai là nêu thể; ba là hành tướng; bốn là thứ lớp; năm là các môn.

-Nói về danh có hai: Một là nêu danh, hai là giải thích danh.

Một là phi xứ trí lực.

Hai là Tự nghiệp trí lực. Kinh Đại Bát-nhã quyển năm mươi ba gọi là Nghiệp dị thục trí lực.

Ba là Tĩnh lự giải thoát, Đẳng trì, Đẳng chí trí lực. Lại gọi là Tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí tạp nhiễm thanh tịnh trí lực.

Bốn là Căn thắng liệt trí lực.

Năm là Chủng chủng thắng giải trí lực.

Sáu là Chủng chủng giới trí lực.

Bảy là Biến thú hành trí lực, Kinh Đại Bát nhã gọi là Biến hành trí lực.

Tám là Túc trụ tùy niệm trí lực.

Chín là Sanh tử trí lực.

Mười là Lậu tận trí lực.

Giải thích danh: Trước giải thích chung, sau là giải thích chi tiết.

Gọi chung là lực thì có khả năng phá trừ kẻ thù, không thể bị khuất phục. Du-già Bồ-tát Địa quyển bốn mươi chín và năm mươi và Quyết Trạch năm mươi bảy. kinh Bồ-tát Tạng quyển năm, Luận Hiển Dương quyển tư. Đối pháp thứ mười bốn, kinh Đại Bát-nhã đều giải thích tướng này, cùng tương ưng với tất cả công năng lợi lạc chúng hữu tình. Cuối cùng khuất phục tất cả ma oán, có đại uy lực nên nói tên là lực. Vì thế dùng uy thế có thể khuất phục những việc ít có khuất phục gọi là lực. Đối pháp gọi là khéo hàng phục chúng ma, khéo hỏi luận ghi nhớ. Cho nên gọi là Mười lực. Mười có nghĩa là số, lực dụng khác nhau, nên có mười thứ gọi là Mười lực. Y theo sáu cách giải thích, đây là giải thích theo số.

Giải thích tên riêng là: Nhân quả tương đương gọi là xứ! Nếu không tương đương thì gọi là phi xứ. Cho nên trong Du-già chép: Quả tịnh bất tịnh chẳng phải không bình đẳng, như nhân như thật chuyển đó gọi là xứ. Xứ nghĩa là kiến lập. Nương vào nghĩa mà khởi nghĩa, có thể kiến lập quả, là vì nhập năng khởi ở quả pháp. Nhân đặt tên xứ nhân bất bình đẳng đều trái ngược với trên nên gọi là phi xứ. Đối với hai thứ này, Nhất thiết trí không vướng trí thanh tịnh, trí lìa tăng thượng mạn gọi là trí. Lực nghĩa như trước. Mỗi pháp đều tự tạo ra ba đời ba nghiệp. Hoặc thuận theo hiện thọ, hoặc thuận theo sanh thọ, thuận theo hậu thọ, bất định thọ gọi là tự nghiệp. Ở đây chánh tri gọi là tự nghiệp trí lực. Đây ở trong nghiệp dị thục thiện ác mà sanh ra trí giải. Cũng gọi nghiệp dị thục trí lực.

Tĩnh lự là bốn tĩnh lự. Giải thoát là tám giải thoát. Đẳng trì là Nhất thiết hữu tâm định. Đẳng chí là định Nhất thiết hữu tâm vô tâm. Ở đây chánh tri gọi là Tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực. Các định này có cả hữu lậu vô lậu thêm gọi là. Căn tạp nhiễm thanh tịnh tức là năm căn: Tín, tấn, niệm, định, tuệ.

Đây nhuần nhuyễn từ hạng trung đến thượng, gọi là hơn, kém. Chánh tri này gọi là căn thắng liệt trí lực. Hoặc từ tha tín làm trước. Hoặc quán các pháp làm trước, thành tựu nhuần nhuyễn từ hạng trung đến thượng. Ái lạc thắng giải gọi là các thứ thắng giải. Ở đây chánh tri gọi là các thứ thắng giải trí lực. Hoặc rộng kiến lập các thứ tánh. Hoặc Nhất thừa, hoặc Ba thừa, hoặc Bốn thừa hoặc Năm thừa. Hoặc tham sân si đẳng phần hành, đẳng, cho đến hữu tình tám mươi ngàn hành gọi là các thứ giới. Giới là tánh, ở đây chánh tri gọi là các thứ giới trí lực. Hoặc là ở trong các đường môn như thế thuận theo theo chánh hạnh. Như người tham hành tu quán bất tịnh gọi là Biến thú hành (hành hướng khắp). Hoặc hướng đến hành của tất cả năm đường, hoặc các hành phẩm loại, dị kiến của các ngoại đạo Sa-môn Bà-la-môn. Hoặc thế giới này thế giới khác vô tội hướng đến hành gọi là Biến thú hành. Ở đây Chánh biến tri gọi là Biến thú hành trí lực. Có thể hành biến hành ở các đường. Cũng gọi là Biến hành hành. Hoặc ở trong các thứ hữu tình, thì bốn phương danh tự giả thiết an lập các phẩm loại khác nhau. Tùy theo tự thể sở hữu trước kia mà có nói cú bát ngôn: Một là như thị danh (tên như thế) Hai là sanh loại.

Ba là chủng tánh.

Bốn là uống ăn.

Năm là thọ khổ vui.

Sáu là sống lâu.

Bảy là tồn tại lâu ở đời.

Tám bờ mé tuổi thọ.

Trong tám loại này tùy niệm lược là sáu hành, mỗi mỗi hành có vô lượng loại của đời sống trước, nay tùy niệm lại.

Lược làm sáu hành là: Một là giả danh kêu gọi; hai là các sắc loại Sát-đế-lợi sai khác; ba là cha mẹ; bốn là khuôn phép uống ăn; năm là hưng suy; sáu là tuổi thọ .

Các thứ túc trú này là cảnh quá khứ ở đời trước, đối với các cảnh này mà khởi ra tùy niệm, niệm đều có trí hành. Gọi là túc trụ tùy niệm trí lực. Các thứ hữu tình lúc sắp qua đời gọi là thời chết, trụ trung hữu gọi là thời sanh. Ở trong cõi thiện ác lúc sống lúc chết đều có thể chánh tri gọi là trí lực sanh tử.

Tất cả các pháp lậu và tùy miên vô dư đều dứt hẳn gọi là lậu tận. Ở đây chánh tri gọi là lậu tận trí lực. Trí là thể lực là tác dụng. Nhưng trí tức là lực càng không có tánh riêng. Túc trụ trong tùy niệm này mà tương ưng với trí lực. Đây là giải thích gần. Từ xứ phi xứ tối sơ khác, cho đến lậu tận là cảnh sở quán. Trí lực là trí năng quán, xứ phi xứ cho đến trí lực lậu tận, đều là y chủ thích, túc trụ là cảnh. Trí lực tùy niệm tương ưng là năng quán, đây cũng là y chủ mà giải thích.

Nêu thể: Phần Quyết trạch năm mươi bảy chép: Phật có đủ tri căn tuệ căn làm thể.

Luận Đối pháp chép: Hoặc định hoặc tuệ và các tâm tâm sở tương ưng kia.

Bồ-tát Địa nói: Cả năm căn là tự tánh của lực. Tuy văn ba kinh nói không đồng nhưng thể có năm:

1. Thể tối thắng: Trong phần quyết trạch, Phật có đủ tri căn tuệ căn làm tánh.

2. Thể dẫn sanh: Đối pháp nói hoặc định hoặc tuệ.

3. Thể khắc thật: Trong Bồ-tát Địa nói năm căn làm tánh. Do tuệ cao siêu lại nói tuệ mười lực là tự tánh cho nên chỉ nói các trí lực Xứ phi xứ… Không nói tín lực, tinh tấn lực v.v… Y vào đây tức đã hợp với văn quyết trạch.

4. Thể tương ưng: Đối pháp lại nói và các tâm tâm sở tương ưng kia lấy bốn uẩn làm tánh.

5. Thể quyến thuộc: năm uẩn làm tánh Định cộng đạo cộng vô lậu sắc v.v… giúp đỡ làm thể. Đây tuy không có văn mà lý hẳn đúng như vậy.

Vì ngăn các cấu uế phạm giới giúp cho dứt trừ oán tặc, ba phân biệt như trong sớ Vô Cấu Xưng quyển hai có nói.

Bốn vô sở úy thì dùng năm môn phân biệt: Một là nói về danh; hai là nêu thể; ba là hành tướng; bốn là thứ lớp; năm là các môn. Cũng như kinh Bồ-tát quyển năm, Đại Bát-nhã quyển năm mươi ba, kinh Hiển Dương quyển bốn, Du-già quyển năm mươi, Đối pháp thứcển mười bốn, có nói:

– Nói về danh có hai: Một là nêu danh; hai là giải thích danh.

Nêu danh là:

  1. Chánh đẳng giác vô úy.
  2. Lậu tận vô úy.
  3. Chướng pháp vô úy.
  4. Xuất khổ đạo vô úy

Giải thích danh có hai: Chung và riêng.

Chung gồm có bốn tức Số danh. Vô sở úy là ở bốn xứ này, có thể biết rõ thản nhiên không sợ. Tâm không yếu đối, không nghi lo, không kinh sợ nên gọi là vô úy.

Riêng là: Các pháp Chánh giác, các pháp Đẳng giác, gọi là Chánh đẳng giác. Các chứng lậu phiền não hiện hành đều dứt trừ nên gọi là Lậu tận. Nói pháp chướng ngại, nhiễm ắt bị chướng, cho nên nói là chướng pháp. Nói đạo xuất ly: Các bậc Thánh tu tập, chắc chắn ra khỏi khổ, nên gọi là đạo xuất khổ.

Trong bốn nghĩa này đều đắc vô sở úy tức đều là y chủ thích.

– Nêu thể tánh: Trong phẩm Quyết trạch năm mươi bảy chép: Tín, tấn, niệm, định, tuệ và đầy đủ trí căn làm tánh.

Đối Pháp chép: Hoặc định hoặc tuệ và các tâm tâm sở tương ưng kia.

Lại chép: Hoặc khởi tác dụng hậu đắc trí làm tánh. Hoặc trụ vào tự tánh chánh trí làm thể. Thể này có năm mà căn cứ vào hai trí thù thắng làm thể, phát khởi xuất định tuệ làm thể, nói về năm căn thật làm thể, bốn uẩn tương ưng làm tánh. Năm uẩn quyến thuộc làm thể. Hành tướng là như trong kinh nói: Đức Thế Tôn tự xưng là ngã là Chánh đẳng giác. Hoặc có Sa-môn, hoặc chẳng phải Sa-môn từ phương khác đến. Phật đều hết lòng an ủi nói: Có an lạc không? Đi khất thật được không?

Đây có người hỏi: Nói Chánh Đẳng Giác tức không có điều gì chưa biết, nay hỏi người khác sao lại trái ngược? Với câu hỏi này, ta nên hiểu đúng, vì không có lí do hỏi Phật đắc an ổn trụ, không sợ, không hãi, xưng là ta ở địa vị Đại tiên. Vì sao Đức Phật nói như thế? Vì để nhiếp thọ người đến để cho họ phát tâm, nghe Phật thăm hỏi an ủi mà phát đạo tâm. Muốn cho người xét rõ sự việc là: Phật biết rõ mà vẫn hỏi huống chi là không biết. Cũng là để cho người sau lấy đó làm khuôn phép, thấy người đến phát tâm nên Phật mới dẫn dắt như vậy, chẳng phải Phật không biết mà vẫn gọi là Đẳng giác.

Lại như trong kinh nói: Sau khi Ta các lậu đã hết, Thiên thọ hành động các việc ác, Phật thường quở trách, Chấp Nhật điều thuận mà Phật thường nói lời mềm mỏng. Có người vặn hỏi: Nói Đức Phật đã lậu tận, các phiền não đã hết, sao còn quở trách Thiên thọ và nói mềm mỏng với Chấp Nhật. Tham sân chưa dứt, sao lậu có thể hết? Sao lại trái ngược vậy?

– Trong vấn nạn này, hiểu rõ ràng là không nguyên nhân nói Phật đắc an ổn trụ, không sợ hãi, tự xưng là ta ở nơi tôn vị Đại Tiên. Thiên thọ như ngựa chứng độc mạnh mới được thuần phục, nếu không trách mắng thì ngược lại nói Ta sợ. Chấp Nhật như voi tuệ tùy theo tâm người, nên Phật dùng lời mềm mỏng để điều phục. Chẳng phải là Phật có tham sân và lậu không tận.

Lại như trong kinh nói: Phật vì chúng đệ tử mà nói pháp chướng ngại, nhiễm ắt là chướng, lại không nói ngăn quả vị Dự lưu, Nhất lai có vợ con v.v… Bèn có hỏi: Nhiễm tất là việc có vợ con làm chướng Thánh đạo? Với câu hỏi này Ta nên chánh kiến không có lý do nói Phật ở nơi quả vị đại tiên an ổn không lo sợ. Vì tà hạnh làm chướng các Thánh đạo. Có vợ con làm chướng con đường lìa dục. Hai quả đầu chưa lìa dục, tánh giới lâu xa mới thành, cho nên trừ được tà hạnh, không đoạn vợ con, ở đây có gì sai! Cho nên các nhiễm pháp chẳng phải là không chướng.

Lại như trong kinh nói: Ta vì chúng đệ tử nói đạo xuất ly, các Thánh tu tập chắc chắn xuất li, chắc chắn thông đạt. Lại có Ca-lưu-đàdi Vô học bị vùi trong hầm phân loại, Ương-quật-ma-la vào Ngục lửa thiêu thân, bèn có người hỏi: Thánh đạo tu hành lâu ngày mong lìa sự khổ. Bậc Vô học đã trở lại chịu khổ thì đâu dùng Tu đạo làm gì. Vì sao lại trái ngược. Với vấn nạn này, ta nên chánh kiến, không có lý do gì nói Phật an ổn ở ngôi vị đại tiên không sợ hãi. Thật sự đắc Vô học thì quả khổ nhất định hết. Vì hiện ra nhân, tất là có khổ báo. Do bậc Thánh này thị hiện tướng khổ, để khởi giáo hóa về sau. Hoặc là khổ dị thục, bậc Vô học không thọ tận ác nghiệp, có thọ khổ ắt là chướng quả không thành tựu Vô học. Kia nói bậc Vô học thọ khổ đó, là hiện ở nơi Hữu học còn chưa lìa dục, vì chắc chắn thành Vô học, nên được đồng tên. Hoặc như đắc thần thông chẳng phải là không trở lại. Vì thế gian cũng đắc năm thông. Hoặc bậc Vô học ấy, khổ chẳng phải là do nghiệp chiêu lấy. Các khổ dị thục ắt đã xuất ly. Như kinh Niết-bàn quyển hai mươi chín giải thích nghiệp ở ba thời, đến quả vị Vô học, không còn thọ ác nghiệp. Nói chưa nhập Thánh vị gọi là định nghiệp, khi nhập vào Thánh rồi thì không gọi là Định nghiệp. Như vậy thì đắc quả A-la-hán, nhất định là không còn quả khổ .

Hai đức còn lại, thiền định và giải thoát như trong sớ Vô Cấu Xưng, quyển hai chép: Thiền là bốn Tĩnh lự cõi sắc. Nghĩa là sơ thiền Tĩnh lự có tầm, tứ. Nhị thiền lìa tầm tư có hỷ. Tam thiền lìa hỷ có lạc. Tứ thiến lìa hỷ lạc, xả niệm thanh tịnh. Định là bốn định cõi vô sắc. Đó là Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Giải thoát là tám giải thoát, dùng ba cách phân biệt: Một là nêu tên gọi, hai là hiển bày hành tướng, ba là nêu thể tánh.

– Nêu danh tự là: Theo Du-già quyển mười hai, mười lăm và bảy mươi ba, Nhiếp sự phần thứ tư: Đối pháp thứcển mười ba, Hiển Dương thứ bốn, thứ hai và hai mươi. Kinh Bồ-tát Tạng quyển thứ tư nói:

Một là quán hữu sắc các sắc giải thoát.

Hai là nội vô sắc tưởng, quán các sắc bên ngoài giải thoát.

Ba là Tịnh giải thoát thân tác chứng trụ đầy đủ.

Bốn là không vô biên xứ giải thoát.

Năm là Thức vô biên xứ giải thoát.

Sáu là Vô sở hữu xứ giải thoát.

Bảy là Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.

Tám là định Diệt thọ tưởng giải thoát thân tác chứng trụ đầy đủ. Nói về hành tướng, trong Câu-xá quyển hai mươi chín chép: Bên trong có tưởng sắc, ngoại quán các sắc là sơ giải thoát. Bên trong chưa hàng phục thấy sắc tưởng, ngoài quán các sắc bất tịnh gọi là quán sắc ngoài. Nay thì không như vậy. Y theo văn Đối pháp thì đầu tiên tu nghiệp là thân tuy ở cõi dục mà đã lìa dục của cõi Dục, chưa y vào vô sắc định để hàng phục trừ thấy sắc tưởng chưa lìa dục cõi sắc. Nếu tập nghiệp đã lâu lìa Cõi sắc, dục thấy sắc tưởng, an lập hiện tiền, mà quán tất cả các sắc trong ngoài đều có ở cõi dục làm ánh sáng tưởng. Do ba pháp giải thoát trước mà dẫn phát các Thắng xứ, Biến xứ. Tức là quán ít nhiều các sắc thuộc về thắng xứ mà làm ánh sáng tưởng. Bởi trừ biến hóa chướng nên làm ánh sáng tưởng. Không trừ tham dục thì không thật hành tưởng bất tịnh. Luận Du-già chỉ nói: Chưa đắc Vô sắc định, chưa lìa nhiễm cõi sắc, quán sắc bên ngoài là sơ giải thoát, tức chỉ y vào sơ nghiệp mà nói. Cho nên trong Câu-xá luận, phần giải thoát thứ hai nói: Bên trong đã trừ kiến (thấy) là sắc tưởng, chỉ quán cảnh ngoài mà làm bất tịnh gọi là: Trong không có sắc tưởng, quán các sắc ngoài. Kinh Đại thừa thì không vậy. Y theo đối pháp thì nói: Tập nghiệp lâu ngày, đã y vào Vô sắc định mà hàng phục thấy là sắc tưởng. Đầu tiên tập nghiệp thì thấy là tưởng vô sắc an lập hiện tiền, mà quán sắc ngoài tác động vào tưởng ít nhiều. Không đồng như ở trong sơ quán trong ngoài sắc đều làm ánh sáng tưởng, chưa tự tại. Nay ở đây chỉ quán ít nhiều mà đã lìa dục sắc thì gọi là quán sắc ngoài. Đã lìa nhiễm nên gọi là bên ngoài. Quán tâm từ từ vượt lên, nên dần dần lược quán. Du-già chép: Lại không tư duy tưởng minh tướng của sắc kia. Chỉ ở nơi sắc ngoài mà tạo ra thắng giải, tức là quán ít nhiều mà không làm tưởng ánh sáng, hoặc ở nơi xứ này đã được lìa dục, nói sắc kia là ngoại. Cho nên chỉ quán sắc đã lìa nhiễm thì gọi đó là ngoại. Lại do giải thoát đầu quán sắc không nói là ngoại, bên trong có sắc cũng không nói là nội, mà duyên chung các sắc căn trần trong ngoài làm tưởng ánh sáng. Cho nên giải thoát thứ hai này bên trong có sắc có căn. Người kia quán sắc ngoài chỉ là quán ít nhiều ngoại trần không duyên căn mà vẫn tạo tưởng ít nhiều. Trong Du-già lại nói: Định trong cõi vô sắc không hiện ra trước. Đây là nói về quán sắc ngoài, không y vào định vô sắc. Định vô sắc không thể duyên vào sắc ngoài. Hoặc đã lìa dục cõi sắc không y vào định vô sắc mà phục trừ sắc tưởng, chỉ y vào định cõi sắc, thấy đó là tưởng vô sắc mà hiện tiền cho nên nói thế. Hai giải thoát trên, đầu tiên là thật hành tưởng ánh sáng, sau là thật hành tưởng ít nhiều, trước rộng sau hẹp, cả hai quán đều có khác. Hiển dương phần thứ hai mươi nói: Hai giải thoát này, trừ biến hóa chướng, ở trong sự biến hóa mà được tự tại. Cho nên biến hóa đã thông hữu của bốn tĩnh lự. Hai giải thoát đầu tiên, đều nương vào bốn tĩnh lự, giải thoát đầu thật hành tưởng nhiều vì dựa vào Sơ, Nhị định, có chỉ ở căn bản địa, không phải, cận phần địa. Kia ưa thích hướng tu mà không có quả chung. Đây chấp nhận mới dự tu có chung quả. Không đồng như hai tĩnh lự đầu trong Câu-xá luận chép: Có thể trừ bỏ Dục giới mà trong sơ tĩnh lự có tham hiển sắc, nên quán bất tịnh.

Giải thoát Thứ ba theo Câu-xá luận chép: Thanh tịnh cùng chuyển, làm chuyển hành tướng ánh sáng thanh tịnh theo. Chỉ có tĩnh lự thứ tư là lìa tám tai hoạn, tâm lắng tịnh. Các địa khác tuy có giải thoát tương tợ, mà không kiến lập, chẳng phải tăng thượng. Nay trong Đại thừa cho: Như có một đã đắc xả niệm, tròn đầy trong sạch. Lấy đây mà nương vào tu tập thì tròn đầy Thánh hạnh thanh tịnh. Các sắc tịnh bất tịnh bên trong đã được lần lượt đối nhau tưởng, lần lượt tướng theo tưởng chuyển nhập vào một vị tưởng. Đó là hành tướng giải thoát thứ ba. Nghĩa là đối các tịnh sắc ở trong sắc khác, gọi là bất tịnh, chẳng phải không có tướng đối đãi. Nếu chỉ thấy một thứ tịnh và bất tịnh cả hai giác không, có tức gọi là sơ tưởng.

Lại đối với tánh tịnh, bất tịnh mà tùy nhập vào, đối với bất tịnh thì tánh tịnh tùy nhập, bởi trong lớp da mỏng che đậy mà chung nói. Ở trong tịnh hiện có ba mươi sáu vật bất tịnh. Tưởng thứ hai lần lượt như thế. Chung tất cả sắc hợp lại thành tưởng một vị giải thanh tịnh. Đó là tưởng thứ ba, mới là thành tựu, chỉ có Tĩnh lự thứ tư là có xả, niệm thanh tịnh.

Luận chép: Vượt qua các khổ vui tất cả mọi sự động loạn đã vắng lặng, như người thợ khéo mài ngọc. Các địa khác không như thế mà chỉ có địa thứ tư. Đây cũng là bên trong không có sắc tưởng mà quán sắc ngoài. Do trước đã nói nên nay lược không luận.

Kế là bốn giải thoát vô sắc. Trong Câu-xá luận chép: Lấy định thiện bốn vô sắc làm tánh, chẳng phải nhiễm vô ký. Đã giải thoát rồi, cũng chẳng phải tánh tán thiện kém yếu cận phần giải thoát đạo cũng được gọi là giải thoát, Vô gián thì không như vậy. Vì sở duyên địa dưới. Người kia cần phải trái với địa dưới mới là giải thoát. Cho nên thường nói Căn bản còn cận phần thì chẳng phải hoàn toàn. Nay nói Đại thừa đều đã lìa dục tự địa, muốn y vào tự căn bản địa mà quán lại cảnh tự địa, tư duy thắng giải khiến cho hoặc chướng càng xa hơn, dẫn sanh ra thắng đức. Nghĩa là như có một pháp ở Không xứ kia đã được lìa dục, tức ở Không xứ mà tư duy thắng giải. Đó gọi là hành tướng giải thoát Không xứ. Ở cõi Thức xứ kia đã được xa lìa dục, tức là ở nơi thức tư duy thắng giải. Đó gọi là hành tướng giải thoát Thức xứ. Đối với chỗ Vô hữu xứ đã được lìa dục, tức đối với thức vô biên xứ, tư duy thắng giải. Đó gọi là hành tướng giải thoát vô sở hữu xứ. Hai tên Không, Thức dùng hành tướng sở duyên tự địa đặt tên. Vô sở hữu xứ lấy thức vô hữu làm tên tự địa. Cho nên thức đều tư duy thắng giải. Ở trong địa hữu đảnh đã được lìa nhiễm càng không ở chỗ khác mà tạo thắng giải. Cho đến khắp ở xứ có thể sanh tưởng, tức đối với xứ ấy mà tạo thắng giải. Vô sở hữu xứ gọi là xứ có thể sanh tưởng. Nay duyên vào tâm, tâm sở vô sở hữu này mà gọi là phi tưởng phi phi tưởng xứ. Cho nên khắp các xứ này mà tư duy thắng giải đến dưới sẽ biết. Trên đây nói việc lìa nhiễm, là nói theo Vô học, cho nên luận Du-già chép: Bảy giải thoát trước là đối với đã giải thoát mà sanh thắng giải. Thân chứng là đắc. Nếu y vào Duy thức thì có hai sư nói:

1. Phục sơ định trở lên thì nhiễm được Diệt định.

2. Phục định thứ tư trở lên thì nhiễm được Diệt định. Từ vô sở hữu trở xuống thì nhiễm có thể hàng phục, để dẫn sanh ra thắng đức mà chướng hoặc xa lìa. Định địa Hữu đảnh chưa thể hàng phục. Cho nên trong Du-già quyển mười hai chép: Hai giải thoát Không và Thức, có nói nói lìa nhiễm tự địa. Hai địa trên không nói lìa nhiễm tự địa. Bậc Hữu học Vô học rõ ràng là lược nói. Chỉ ở nơi căn bản cũng chẳng phải cận phần. Giải thoát Diệt tận Đại Tiểu đều nói: Tức là diệt tận định mà không có hành tướng xả tưởng thọ. Nhưng lúc sắp nhập có hai hành tướng. Nghĩa là y vào phi tưởng phi phi tưởng xứ vô tưởng giới tưởng. Đầu tiên tu, lâu ngày thuần thục thì cả hai đều nhập minh.

-Về thể tánh: Trong luận Câu-xá chép: Ba giải thoát trước là ba tánh vô tham, tánh năm ấm quyến thuộc. Bốn giải thoát kế lấy, bốn định thiện Vô Sắc làm tánh. Thứ tám là diệt định tánh. Trong kinh Đại thừa quyển bảy mươi ba giải thích năm pháp là: Thế gian xuất thế gian lấy chánh trí làm thể.

Hữu lậu vì phân biệt nên chánh trí thế gian làm thể, vô lậu vì vô phân biệt trí và hậu đắc trí nên chỉ lấy tuệ làm tánh. Duyên vào cảnh sắc phi sắc và chân như mà lìa hết các định chướng dẫn sanh ra thắng đức, pháp khác chẳng có. Nếu thể tương ưng bảy giải thoát đầu thì dùng tứ uẩn làm tánh, năm uẩn quyến thuộc làm tánh. Nên Đối Pháp nói: Hoặc định hoặc tuệ và các tâm tâm sở tương ưng kia; trong cõi vô sắc chấp có định đạo vô biểu sắc. Giải thoát thứ tám lấy công năng tâm nhàm chán trên hạt giống hai mươi tám pháp làm thể, tức thuộc bất tương ứng hành uẩn.

Tam-muội là Tiếng Phạn Hán dịch là Đẳng trì, tức ba Đẳng trì: Không, Vô tướng, Vô nguyện. Nghĩa này đến dưới sẽ giải thích. Bátnhã quyển năm mươi ba chép: Ba cảnh đều cùng đều duyên Không. Nhưng y vào luận dẫn từ kinh ra thì lại có năm đức, sơ văn rườm rà nên không nêu ra đây.

Luận giải thoát lập lại ba câu trên, tức lần thứ hai giải thích rằng:

-Lại câu thứ nhất nói thành tựu có thể giáo hóa chúng sanh nương vào thiện tri thức. Nghĩa là dẫn dắt chúng sanh có tánh Bồ-đề, có thể hóa độ người chưa phát tâm, khiến cho họ nương vào bạn lành lìa hết chấp trước gọi là phương tiện dẫn dắt chúng sanh.

-Câu thứ hai là thành tựu chúng sanh căn tánh đã thuần thục, khiến họ được hiểu thoát. Nghĩa là khiến cho người đã phát tâm tu hành lâu dài được hiểu thoát, gọi đó là phương tiện tri kiến Ba-la-mật.

-Câu thứ ba là thành tựu: Lực, gia, tự tại thanh tịnh hàng phục. Nghĩa là Phật bên trong đã thành tựu các công đức, bên ngoài đã dứt trừ các phiền não: uẩn, tử, thiên ma, gọi là năng lực, các thiền định… đều là nơi đức Thế Tôn tạm trú gọi là nhà. Do lực tự tại nên có thể hàng phục. Do nhà tự tại nên có thể làm thanh tịnh các chướng hoặc, lại do an trụ trong thiền định làm nhà, mà được nghiệp thần thông tự tại. Do đây mà thành tựu lực vô lượng vô ngại. Có thể thanh tịnh các hoặc chướng hàng phục chúng ngoại đạo, nên nói “Tri kiến của Như lai rộng lớn sâu xa. Y vào luận bổn giải thích lập lại ba câu trên trong kinh đã xong, kế là dùng bảy câu dưới giải thích thứ tư ở trên rằng: “Các thứ ngôn từ…” Cũng có hai lần giải thích đầu tiên phối hợp trong văn kinh, sau đó giải thích lại.

-Kinh: “Vào sâu không hạn mức cho đến pháp chưa từng có”.

-Tán: Dùng bảy câu giải thích nói ngôn từ ở câu thứ tư bên trên. Kinh này chỉ có năm câu đầu, thiếu câu sáu, câu bảy, xem văn sẽ rõ.

Luận chép câu thứ tư là nói thành tựu có bảy loại. Đây là các thứ thành tựu ở câu đầu: Các pháp vị tằng hữu, lý, sự, không, hữu, thế, xuất thế gian đều sâu nhập, mênh mông không bờ bến nên có thể khởi” các thứ ngôn từ…”.

-Kinh: Xá-lợi-phất cho đến Tâm chúng đều vui mừng.

-Tán: Đây là câu thứ hai: Luận chép: Ngôn ngữ thành tựu: Phật đắc năm thứ âm thanh hay cho nói pháp. Trong luận Đại Trí Độ chép:

Năm thứ âm thanh từ miệng Phật phát ra:

  1. Rất sâu như sấm.
  2. Âm thanh trong trẻo, người từ xa nghe được đều vui mừng hoan lạc.
  3. Nhập tâm yêu kính.
  4. Rõ ràng dể hiểu.
  5. Người nghe không nhàm chán, có thể biện luận các nghĩa hữu lậu vô lậu. Rất sâu như sấm tức câu: “Các thứ phân biệt các pháp.”

Rõ ràng dễ hiểu tức câu: “Khéo nói các pháp”; nói các pháp là chung cả câu, phân biệt các pháp ở trên. Khởi lòng từ bi hết lòng giảng nói khiến cho người nghe không hề nhàm chán, tức câu “dùng lời lẽ êm dịu”, tiếng trong suốt vang xa người nghe được đều vui mừng, nhập tâm yêu kính là câu: “Có thể làm vui lòng chúng”, ba câu đầu mỗi câu đều có một loại âm thanh, một câu sau có hai.

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến không cần nói lại.”

-Tán: Đây là câu thứ ba. Luận gọi là tướng thành tựu. Nhưng luận nêu lại văn kinh, không có câu: “Tóm lại trở xuống là nói Phật sẽ thành tựu” ở văn trên, mà chỉ bắt đầu từ “Thôi! Đừng nói nữa” trở xuống.

Luận chép: Chúng sanh có pháp khí, tâm chúng sanh đã tròn đầy nên gọi là tướng thành tựu. Pháp khí có hai: Một là thật, hai là giả.

Thật là ngài Xá-lợi-phất…

Giả là những người tăng thượng mạn. Đối với chúng sanh thật là pháp khí, tức tâm Thánh đã đầy đủ, tâm ưa thích Pháp mầu, Phật nói: “Thôi!” Là để cho họ mời thỉnh. Nay Phật nói: “Thôi!” là không cần nói pháp vì sao? Đối với chúng sanh giả có pháp khí, tự cho rằng tâm Thánh đã tròn đầy, tâm chẳng ưa pháp mầu, mà ở tòa còn chưa đi, nên Phật hiện tướng nói “Thôi!” khiến họ bỏ đi. Các pháp giải thoát ta đã đắc xong, còn có pháp nào nữa, nên Phật thôi không nói ư? Cho nên gọi là tướng. Như người ở thế gian cùng nhóm họp một chỗ. Khi nói cũng có người thích nghe, người không thích nghe, thì dù có nói, nay thôi không cần nói đâu có ích gì! Nói thôi chẳng qua để cho người thích nghe mời thỉnh, còn người không thích thì động bỏ đi. Nay vì người thật có pháp khí trước, khiến họ hỏi pháp Nhất thừa, nên gọi là Tướng.

-Kinh: “Vì sao? Cho đến pháp khó hiểu”.

-Tán: Đây là câu thứ tư. Luận gọi là kham thành tựu, vì vốn không có lời diễn đạt cho tất cả chúng sanh đáng hóa độ biết Như lai thành tựu công đức ít có, có khả năng nói pháp. Nghĩa là Xá-lợi-phất… là người gốc lành thành thục: Gọi là chúng sanh đáng hóa đo, biết rõ Phật thành tựu công đức khó hiểu ít có bậc nhất, có thể nói pháp đó.

-Kinh: “Chỉ Phật cùng Phật cho đến thật tướng các pháp.

-Tán: Đây là câu thứ năm.

-Luận gọi: là Thành tựu vô lượng nói không thể hết.

-Thật tướng nghĩa là thể Pháp thân Như lai tạng, tánh bất biến. Trí Phật biết đủ, biết thể của thật tướng này tận đến nguồn đáy nên gọi là cứu tận, không chỉ thành tựu muôn đức hữu vi mà Phật muôn đức vô vi, cũng cùng tận. Cho nên nói là vô lượng chủng thành tựu, nói không thể hết. Kinh này bỏ qua câu thứ sáu là giác thể thành tựu. Như lai có thể biết tất cả pháp Phật, tự chứng đắc. Thiếu câu thứ bảy: Cũng thuận theo ý chúng sanh mà nói tức tu hành pháp thành tựu, Như lai có thể nói tất cả pháp tức kinh này nói các pháp tướng như thế. Câu thứ bảy này nói các pháp, các tướng hiện thấy, không gì Phật không thấy.

Trên là lần đầu Luận giải bảy câu đối với câu thứ tư: “Các thứ ngôn từ” ở kinh. Luận giải lần thứ hai, hợp lại dùng bảy câu giải thích lại câu “Các thứ ngôn từ” Được phối hợp như sau.

-Thứ nhất nói các thứ pháp môn, nhiếp lấy tất cả chúng sanh nhập vào Phật pháp, phối hợp với câu sâu nhập không cùng tận.

-Thứ hai khiến không trụ tán loạn, là để giáo hóa chúng sanh khiến không tán loạn, chuyên tâm trụ vào cảnh ít có muốn nghe. Phối với câu “khởi các thứ phân biệt các pháp”.

-Thứ ba là khiến giữ lấy: Khiến cho người căn tánh thuần thục hỏi pháp Nhất thừa, phối hợp với câu : “ Thôi không cần nói nữa!”

-Thứ tư là khiến được hiểu thoát, người căn tánh thuần thục đều được hiểu thoát. Phối hợp với câu: “Phật thành tựu pháp khó hiểu.

-Thứ năm là khiến người tu hành thành tựu pháp đối trị, khiến người tu hành đắc pháp đối trị, đến tận bờ mé chân thật là phối hợp với câu: “Thấu tột tướng chân thật của các pháp”.

-Thứ sáu khiến người tu hành tiến đến thành tựu: Người tu hành tiến đến thành tựu đắc trí diệu tịnh, do đây Như lai biết rõ tất cả pháp.

-Thứ bảy, đắc pháp tu hành không còn lui mất, là khiến cho kia tu hành tròn đầy. Lại vì người mà nói không mất lợi ích. Cho nên Phật có thể nói tất cả pháp yếu. Do Phật thành tựu bảy pháp yếu này rồi giáo hóa chúng sanh dần dần tùy nhập mà tu tập. Dùng luận để phối hợp bảy câu văn kinh trên.

Kết nối cùng khởi như lý nên biết. Bốn câu đầu là trụ quyền, hai câu kế là trụ thật, một câu sau là ngoại hóa. Vì sao phối hợp câu ba ở kinh rằng: Phương tiện tri kiến niệm quán làm giải thích lần thứ ba.

Vì luận chép: Lại cùng giáo hóa thành tựu nghĩa là vào chứng pháp cho nên thứ lớp nói như thế. Tức dùng phương tiện để cho chúng sanh có thể hóa độ mà căn cơ chưa thuần thục khiến nương vào bạn lành, nói tri kiến để là đối với chúng sanh đã thuần thục khiến cho được hiểu thoát. Niệm quán đó là giải thoát chúng sanh khiến cho tất cả được thành tựu lực gia và các công đức. Ở đây y theo thứ lớp chứng pháp mà nói giáo hóa độ chúng sanh. Vì sao phối văn kinh nói: Các thứ ngôn từ” với bảy câu là lần thứ ba giải thích.

Vì Luận chép y vào nói pháp mà nói. Thứ lớp như thế mà nói như trước, sợ văn nhiều, nên không thuật lại. Vì thế luận chép: Lại cùng thành tựu giáo hóa là y vào chứng pháp. Lại nói thành tựu tức là y vào pháp. Hai thứ pháp này như đã nói ở trước.

Luận chép y vào hai pháp này là có thứ lớp gì?

Vì dựa vào đó mà được tu hành. Hỏi: Chứng và nói theo thứ lớp nương vào tu hành ư? Tức là câu văn trước của luận, lập lại nói là nêu biết. Nghĩa là trước luận chép, nay lập lại nói ba loai phương tiện, tri kiến, niệm quán, dựa vào bảy câu nói: “Các thứ ngôn từ theo thứ lớp. Dựa vào nói thứ lớp nên có thứ lớp như thế. Nói đã như thế, y vào đó tu học thì chứng thứ lớp, kết nghĩa phần trước. Khuyên người học nên biết. Hoặc đây là chọn lọc lần đầu giản định thích riêng bốn câu. Trong đó câu hai là giáo hóa thành tựu, câu thứ tư là nói thành tựu, tức hai thứ sai khác.

-Kinh: “Gọi là các pháp cho đến rốt ráo” v.v…

-Tán: Là nói câu thứ bảy.

-Pháp của Phật nói dựa là vào chứng mà nói. Cho nên luận dẫn trong kinh ra có năm câu: Là các pháp nào? Thế nào là pháp? Pháp là tương tợ gì? Tướng pháp thế nào? Thể pháp thế nào? Luận có bốn giải thích:

Thứ nhất y theo việc bỏ quyền lấy thật thừa mà giải thích. Đầu tiên nói Ba thừa là pháp gì? Kế đến mỗi một thừa đều khởi ra mỗi mỗi sự nói. Tức thế nào là pháp. Kế là y vào Ba thừa môn mà tu hành thanh tịnh gọi là tương tợ pháp gì? Kế đến là nói Ba thừa chỉ có một tướng, cho nên gọi là tướng pháp thế nào? Sau rốt ráo chỉ là một Phật thừa mà không có tự thể Nhị thừa. Cho nên nói thể pháp là thế nào?

Thứ hai y vào lần lượt huấn thị giải thích pháp, các pháp nào nghĩa là hữu vi và vô vi. Thế nào là pháp tức là nhân duyên và phi nhân duyên. Dùng nhân duyên sanh mà giải thích pháp hữu vi, phi nhân duyên sanh mà giải thích pháp vô vi. Pháp tương tợ gì nghĩa là pháp thường, vô thường, dùng thường giải thích phi nhân duyên sanh. Vô thường giải thích nhân duyên sanh. Tướng pháp thế nào tức là ba pháp tướng sanh… ba pháp tướng bất sanh cho đến Lấy pháp hữu sanh giải thích nghĩa vô thường trước. Dùng bất sanh … giải thích thường. Thể pháp thế nào? Pháp năm ấm, phi năm ấm. Năm ấm tức là sanh …, phi ấm là phi sanh cho đến.

Thứ ba giải thích chỉ ba câu cuối: chỉ y vào hữu vi mà giải thích. Hai câu đầu trong đây không khác ở trước, nên không giải thích. Luận chép pháp tương tợ gì? Nghĩa là pháp vô thường, hữu vi, nhân duyên. Tướng pháp thế nào? Nghĩa là các pháp tướng có thể thấy. Thể pháp thế nào? Nghĩa là năng thủ sở thủ của năm ấm. Năm ấm là thể khổ tập, cũng là đạo đế. Như luận đã giải thích.

Thứ tư là dựa vào pháp dụng nói pháp mà nói. Những pháp gì, nghĩa là dùng danh cú tự thân mà nói. Thế nào là pháp, tức dựa vào pháp Như lai đã nói mà nói. Pháp tương tợ gì là năng giáo hóa những chúng sanh đáng được giáo hóa, tướng pháp thế nào, là dựa vào âm thanh nhận lấy, tức là khiến cho người nghe, dựa vào âm thanh mà nhận lấy pháp sở thuyên. Thể pháp thế nào, là tạm gọi thể pháp tướng. Tuy khiến nương vào âm thanh nhận lấy pháp sở thuyên mà pháp tánh lìa lời nói, Sở thuyên là tạm gọi thể pháp chứ chẳng phải gọi pháp thật. Nếu không khiến nương vào văn thì liền sanh chấp trước. Nhưng ở văn kinh vì sợ người không hiểu, các nhà phiên dịch lại y vào thứ hai là lần lượt chỉ bày mà giải thích pháp, nhưng ít, không thứ lớp, lấy nghĩa đối chiếu thì không trái với Thánh giáo. Nếu làm giải thích nghĩa riêng tức vì nhân tình chẳng phải Thánh giáo. “Tướng như vậy, tánh như vậy,” hợp lại thành câu thứ nhất hỏi những pháp gì? Tướng là hữu vi, tánh là vô vi. “Thể như vậy” là câu thứ năm. Hỏi thể pháp thế nào? Nghĩa là năm uẩn, phi năm uẩn, hợp lại mà thành văn. Lực như vậy, tác như vậy, hợp lại thành câu thứ ba hỏi pháp tương tợ gì? Lực là pháp thường. Pháp thường có lực năng. Tác là pháp vô thường là có tạo tác. Nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, hợp lại thành câu thứ hai hỏi pháp thế nào? Là pháp nhân duyên. Trong quả báo hữu vi là pháp do nhân duyên sanh. Vô vi là pháp do phi nhân duyên sanh. Vì nghĩa kiến lập quả nên gọi là nhân, vì nghĩa thành tựu báo nên gọi là duyên. gần với nghĩa được quả nên gọi là nhân, xa với nghĩa được quả nên gọi là duyên. Bốn quả gọi là quả. Dị thục là báo. “ Trước sau như vậy “ là câu thứ tư hỏi pháp tướng thế nào? Ba tướng pháp sanh… là sau là thể là sự. Ba tướng như bất sanh… là trước, thể là lý. “Rốt ráo… là giải thích lại lý là trước là pháp tánh rốt ráo .

Luận bổn nêu lại văn kinh lại có năm câu hỏi như trên, Phật lại dùng những câu hỏi này để làm rõ năm nghĩa trước, không có lý khác.

 

PHẦN CUỐI

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế Tôn cho đến không thể suy lường”.

-Tán: Từ câu này xuống hai mươi mốt hàng tụng chia ra làm hai:

  1. Mười bảy hàng rưỡi đầu là tụng hai pháp mầu trước.
  2. Ba hàng rưỡi tụng sau khuyên phát tín tâm nêu rõ nay nói thật.

Trong phần một lại có hai:

  1. Hai hàng tụng chung hai diệu.
  2. Mười lăm hàng rưỡi là tụng riêng hai diệu.

Hàng tụng đầu tiên khen ngợi chung Pháp sư diệu. Một hàng tụng sau khen ngợi chung về pháp mầu, khen ngợi chung thân Phật, công đức thành tựu và pháp thể mầu nhiệm.

-Kinh: “Vốn từ vô số Phật cho đến khó thấy khó hiểu được”.

-Tán: Từ đây trở xuống gồm mười lăm hàng rưỡi tụng chi tiết về hai diệu. Ở đây chia làm hai: Mười bốn hàng đầu tụng về pháp mầu.

Một hàng rưỡi tụng Pháp sư diệu. Mười bốn hàng lại chia ra năm:

  1. Một hàng tụng về hai sự sâu xa đọc tụng, và tu hành.
  2. Một hàng tụng về ba sự sâu xa của quả hành, tâm thêm lớn công đức, tâm ưa thích mầu nhiệm.
  3. Một hàng tụng về vô thượng sâu xa.
  4. Một hàng rưỡi tụng về sâu nhập sâu xa.
  5. Chín hàng rưỡi tụng trụ trì sâu xa không chung với Nhị thừa . một hàng đầu, văn tụng không nêu, chỉ tụng chung tám nghĩa sâu xa. “Vốn từ vô số Phật” mà thọ trì, đọc tụng sâu xa. Tu hành pháp sâu xa đầy đủ. Do hai hành trì này nên trí tuệ môn “khó thấy khó hiểu”.

-Kinh: “Trong vô lượng ức kiếp cho đến Ta đều đã thấy biết”.

-Tán: Một hàng tụng nói ba sự sâu xa: Quả hành, thêm lớn công đức, và tâm ưa thích sự mầu nhiệm. Do tinh tấn mạnh mẽ trong vô lượng kiếp hành trì cđường ác này, mà quả hạnh sâu xa, tiếng tốt đồn xa, tức tâm công đức thêm lớn, tại đạo tràng đắc quả tức ta đều thấy biết. Cho nên, gọi là Tâm ưa thích nhiệm mầu rất sâu, pháp rất sâu xa ít có đều thành tựu.

-Kinh: “Quả báo lớn như thế cho đến có thể biết việc này”.

-Tán: Một hàng tụng vô thượng sâu xa. Tánh là đạo lý. Tướng là sự nghĩa. Trước bỏ qua văn này, nay văn Tụng có nói pháp khó hiểu Như lai đều biết.

-Kinh: “Pháp không thể mở bày cho đến Tín lực vững chắc”.

-Tán: Một hàng rưỡi tụng nói, nhập sâu xa. Sâu xa là pháp danh tự chương cú mà Phật đã nói. Ý khó đắc cho nên khó hiểu, nên rất khó vào hiểu, tức vì người, lại Phật tự trụ trì trong pháp sâu xa đó gọi là nhập. Không đồng với ngoại đạo tuy nói các pháp, nhưng không thể tự thể nhập. Do Như lai nói về lý nhân duyên, chỉ Phật tự nhập, mà không ai biết được, ý thú khó hiểu nên gọi là nhập sâu xa.

Luận chép: Phật tự trụ trì không đồng với ngoại đạo. Nói pháp nhân duyên rất sâu xa. Kinh này nói: “Pháp không thể mở bày”. Tướng ngôn từ vắng lặng, đạo lý nhân duyên vắng lặng sự nói năng các thứ chúng sanh không thể hiểu được, ngoại trừ các chư Bồ-tát có tín lực vững chắc. Từ Sơ địa trở lên chứng bốn thứ chứng tịnh. Tín Phật, Pháp, Tăng, Giới có thể tin pháp mầu mà chưa viên chứng hai diệu như thế. Cho nên phần dưới đây nói: Bồ-tát không lui sụt cũng không thể biết. Không thể biết là không thể viên chứng, chẳng phải là không tin biết. Tuy trước kiến đạo so với cũng biết mà chẳng phải chứng tín, cũng không vững chắc cho nên không nói.

-Kinh: “Chúng đệ tử Chư Phật cho đến cũng lại chẳng hiểu được”.

-Tán: Chín hàng rưỡi tụng sự trụ trì sâu xa không chung với việc làm của Nhị thừa. Trong đây chia làm ba:

Bốn hàng đầu tụng về Thanh văn không biết.

Hai hàng tụng về Bích-chi- Phật không biết.

Ba hàng rưỡi tụng Bồ-tát không biết.

Trong văn xuôi chỉ nói Nhị thừa không biết để hiển rõ điều này nên cũng nói Bồ-tát không biết. Thanh văn không biết cũng chia làm ba: Một hàng rưỡi tụng chung tất cả Thanh văn không biết. Một hàng riêng tụng đều là hàng Thu Tử lợi căn cũng không biết. Một hàng rưỡi là nói riêng đều như lợi căn Thu Tử cùng đệ tử khác cùng suy lường cũng không biết. Một hàng rưỡi đầu tụng chung: Từng gần gũi bạn lành, các lậu đều dứt, trụ vào A-la-hán, ở thân cuối cùng có đủ ba đức mà trí tuệ năng lực cũng không thể biết được.

-Kinh: “Giả sử đầy thế gian cho đến không lường được Phật trí.

-Tán: Một hàng nói dù cho thế gian người nào cũng đều như ngài Thu Tử, là người lợi căn bậc nhất, hết lòng tư duy cùng suy lường cũng không thể hiểu, không biết Phật trí. Cho nên trí tuệ môn khó hiểu khó nhập.

-Kinh: “Chánh khiến đủ mười phương cho đến lại không thể biết”.

-Tán: Một hàng rưỡi tụng nói: Người lợi căn trong mười phương đều như Thu Tử cùng chúng đệ tử khác của Phật, cũng đầy mười phương cùng suy lường cũng không thể biết.

-Kinh: “Bích-chi-Phật Lợi trí chẳng thể biết chút phần”.

-Tán: Hai hàng tụng Bích-chi-phật không biết. Bích-chi là lợi căn so với Thanh văn . Lân giác cũng là lợi căn so với Bộ hành cũng đều không biết. Nếu chưa nhập vào Thiện quyết trạch phần Thanh văn mà làm Độc giác liền thành Lân giác Nhập vào quyết trạch phần rồi sau thật hành, đều thành bộ hành. Trong phần giải thoát, lúc chưa chắc chắn sanh có thể thành Lân giác, nên sanh số nhiều. Đã nhất định sanh thì cũng thành Bộ hành mà sanh số ít.

-Kinh: “Bồ-tát mới phát tâm cho đến không thể biết Phật trí.”

-Tán: Ba hàng rưỡi tụng Bồ-tát không biết. Đây là hai hàng rưỡi đầu tụng phàm Thánh không biết. Hàng Bồ tát mới phát tâm có sáu đức:

  1. Gần gũi.
  2. Đạt nghĩa.
  3. Khéo nói.
  4. Số chúng.
  5. Nhất tâm.
  6. Thời gian lâu.

Bồ tát mới phát tâm có sáu đức cũng không thể biết trí tuệ Phật.

Sát là Tiếng Phạn gọi đủ là Sát-đa-la. Hán dịch là điền, điển thổ.

Có khi dịch là quốc, có khi dịch là độ.

-Kinh: “Bồ-tát Không lui sụt cho đến cũng không thể biết”.

-Tán: Một hàng sau tụng về Thượng thánh không biết, tức bậc Thánh địa thượng. Hai hàng rưỡi trước tụng nói từ Thất địa trở xuống không biết. Sơ địa trở lên cũng gọi là mới phát tâm, vì chứng phát mười thứ tâm. Một hàng sau này tụng từ Bát địa trở lên không biết, cũng gọi là Bất thối. Phần môn sâu xa trước có tám loại. Nay trong phần thứ tám lại khen ngợi Phật trí, nêu rõ trí sâu cho nên môn này cũng sâu. Hoặc trong mười bốn hàng tụng rưỡi pháp mầu, thì sáu hàng đầu tụng khen ngợi trí môn diệu, y theo lựa chọn trước đã phối. Trong đó một hàng rưỡi cuối tụng sâu xa không chung. Tám hàng tiếp là tụng khen ngợi trí sâu. Người Ba thừa không biết trí tuệ Phật. Y theo nghĩa của bài tụng thì có thể biết.

-Kinh: “Lại bảo Xá-lợi-phất cho đến mười phương Phật cũng vậy”.

-Tán: Đây là một hàng rưỡi tụng: Khen ngợi chung pháp sư khéo léo , không có tụng riêng.

-Kinh: “Xá-lợi-phất nên biết cho đến cần nên nói chân thật”.

-Tán: Ba hàng rưỡi dưới tụng khuyên phát tín tâm. Nêu rõ nay nói thật. Trong đây chia làm hai: Một hàng rưỡi đầu tụng: Chỉ bảo Xá-lợiphất! Hiển bày nói sự thật. Hai hàng tụng sau: Bảo khắp Nhị thừa, nói rõ trước là phương tiện. Một hàng rưỡi đầu, ông đã chưa chứng pháp của ta nói, đối với pháp ta nói phải sanh tín tâm.

-Kinh: “Bảo các chúng Thanh văn cho đến dẫn chúng khiến được ra.”

-Tán: Hai hàng tụng nói về bảo khắp Nhị thừa, chia làm hai:

Hàng đầu bảo khắp được đến Niết-bàn. Hàng sau hiển bày ý Phật hóa dùng Ba thừa. Do nơi nơi chấp trước vào giới địa, cho nên dẫn dắt để họ ra khỏi. Lại nói Ba thừa lý chỉ có một: Hội này chỉ có cực quả Thanh văn, Duyên giác không có, cho nên nói và cầu Duyên giác thừa.

Thanh văn thì không như vậy.

-Kinh:”Lúc này trong đại chúng cho đến Đều nghĩ”.

-Tán: Đoạn thứ hai nói bốn chúng kinh nghi, nên phát động ngài Xá-lợi thỉnh. Đây có ba lần thỉnh, Phật bảo “thôi” cũng ba lần. Thôi đều ở trước thỉnh đều ở sau.

Luận giải thích ba lần thôi. Lần đầu tiên thôi là tướng, khiến người hỏi pháp Nhất thừa, lần thứ hai thôi là khiến cho đại chúng truy tìm cảnh sâu xa mà khát ngưỡng muốn nghe pháp, lần thứ ba thôi là để cho người xấu lui khỏi chỗ ngồi (đến phần sau sẽ nói).

-Lại trong ba lần thỉnh, đầu tiên hợp nghi của mình và người nên thỉnh. Kế là trình bày vì đại chúng, ở cõi Phật khác đã gieo trồng nhân duyên nên thỉnh. Lần thỉnh thứ ba là nói mình và người đã theo Phật từ khi giáo hóa đến nay có thể nghe pháp nên thỉnh.

Luận chia theo năm đoạn thì từ đây trở xuống là phần thứ ba đại chúng định nghi. Từ chỉ tự chứng tâm sanh chắc chắn. Đối với lời Phật nói bèn sanh nghi, hoặc dựa sự kinh nghi phát động đến ngài Thu tử thỉnh phật, thỉnh có ba lần, văn theo đó nói ba đoạn. Lần đầu tiên thôi thuộc về xướng pháp Nhất thừa ở trước lần thứ hai thôi, thuộc trong văn thỉnh này.

Lần thỉnh đầu chia làm hai: 1) Đại chúng nghi 2) Ngài Xá-lợi-thỉnh.

Luận chép phần thứ ba định nghi có ba: Từ đây trở xuống chỉ rõ ba thứ nghĩa.

-Một là nghi chắc chắn.

-Hai là nghi nghĩa.

Ba là y vào sự gì nghi.

Hai nghĩa đầu nghi ở trong đại chúng. Y vào sự gì nghi là ngài Thu Tử nghi. Đại chúng nghi có hai: Đầu tiên nêu chúng nghi. Sau giải bày ý nghi.

-Kinh: “Nay Thế Tôn… không thể hiểu kịp…”- Tán: Dưới trình bày ý nghi có hai:

1) Nhắc lại lý do nghi.

Đây là nói lại lý do nghi lời Phật nói ở trước. “Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu và thuật lại. Phật trước nói trí tuệ của Chư Phật rất sâu vô lượng, có ngôn nói ý thú của Phật khó biết thuật lại Phật trước nói, trí tuệ môn khó hiểu, khó vào. Hai chỗ sâu xa này nên người Nhị thừa không thể biết. Câu đầu làm rõ phần trên, câu sau kế ở dưới, hợp lại gọi là phương tiện. Ý nghĩa vì sao Phật lại khen ngợi pháp này?

-Kinh: “Phật nói một nghĩa giải thoát cho đến là nơi nghĩa hướng đến”

-Tán: Phần này trình bày quyết định nghi: Nghĩa là đến Niết-bàn trở lên gọi là nghĩa chắc chắn. Đối với tự sở chứng quả pháp hữu vi vô vi, chắc chắn từ lâu đã không còn nghi, mà nay không biết nơi nghĩa ấy hướng về đâu? Đó gọi là nghi nghĩa. Nghĩa là trước nói pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, có ngôn nói ý thú khó biết. Đối với pháp này nay không biết nghĩa Phật nói ấy và ý nghĩa ấy hướng về đâu? Thì sao sao nói tông chỉ hướng đến thế nào? Nên gọi là nghi nghĩa. Ý nghi: Như nói giải thoát ta đã đắc, giải thoát đó, lại nói là ít có biết ý nói pháp gì?

Vì thế luận chép nghi nghĩa chắc chắn, tức là có Thanh văn phương tiện chứng, đắc pháp sâu xa, khởi tâm chắc chắn, đối với đạo Thanh văn đắc phương tiện và chứng Niết-bàn. Cho nên thị hiện hai pháp hữu vi vô vi như vậy.

Như trong kinh nói: “Bấy giờ trong đại chúng… cho đến cho đến cũng đắc pháp này mà đến bờ Niết-bàn”. Nói hai pháp là phương tiện và chứng Niết-bàn. Phương tiện là hữu vi có thể chứng sanh không trí đạo. Niết-bàn là vô vi chứng không lý. Với hai pháp này, năng đắc, năng tu và đắc được chắc chắn.

Vì thế, luận chép nghi nghĩa đó thì người thanh văn Bích-chi-phật không thể biết, cho nên sanh nghi. Như kinh nói: Mà nay không biết nghĩa ấy hướng về đâu?.

-Kinh: “Bấy giờ Xá-lợi-phất cho đến pháp khó hiểu”.

-Tán: Đây là ngài Thu Tử thỉnh. Trong đây có hai: Phần văn xuôi và kệ tụng, văn xuôi có hai: Trước nghi, sau thỉnh

Trước nghi: Theo luận đây là nghĩa y vào sự gì nghi? Như lai nói Thanh văn giải thoát cũng không khác ta. Ba thừa đều ngồi cùng tòa giải thoát, do đó sanh nghi. Sanh nghi ở nhân. Nhân là nguyên nhân. Như lai vì sao giảng nói cảnh giới sâu xa, trước nói sâu xa, sau nói sâu xa, không đồng Thanh văn, Thanh văn và Phật chỗ giải thoát đã đồng đẳng, vì sao lại không đồng. Trừ đây ra thì pháp khác nhau là gì? Nguyên nhân gì mà sanh nghi hoặc điều này? Kinh Niết-bàn nói nghi có ba việc: Ma-ha Bát-nhã, giải thoát, pháp thân. Giải thoát tuy đồng mà Bát-nhã, Pháp thân tức là thể quả Nhất thừa tánh tướng trí tuệ của Phật, những thứ này Thanh văn chưa đắc, bốn chúng không hiểu, cho nên sanh nghi. Như kinh nói: “Lúc này, Xá-lợi-phất cho đến cho đến mà nói kệ” Nhân gì là nguyên nhân đạo lý gì? Duyên gì là lý do duyên sự gì? Phương tiện thứ nhất của Phật”. Đây là câu chung trở xuống hiển riêng “sâu xa mầu nhiệm” là trí tuệ Phật. Pháp khó hiểu là trí tuệ môn; nghi lại hai diệu trước mà nghi đây là loại pháp chấp, nhiếp dị thục sanh.

-Kinh: “Con từ xưa đến nay cho đến pháp khó hiểu”.

-Tán: Nhắc lại lời thỉnh quyết nghi. Từ chưa từng nghe, bốn chúng sanh nghi: Cúi Xin Phật nói rộng .

-Kinh: “Bấy giờ Xá-lợi-phất cho đến pháp bất khả tư nghì”…

-Tán: Trong mười một hàng tụng chia làm bốn: Ba hàng rưỡi đầu tụng trong lời trước khen ngợi Chư Phật dùng phương tiện thứ nhất, pháp sâu xa mầu nhiệm khó hiểu.

Ba hàng tụng kế tụng về bốn chúng đều có nghi. Một hàng tụng rưỡi kế tụng: Con từ xưa đến nay chưa nghe là tự nghi.

Ba hàng cuối thỉnh: “Cúi xin nguyện Thế Tôn giảng nói việc này.”

Ba hàng rưỡi đầu chia làm ba:

Một hàng rưỡi tụng lời Phật tự bảo. Tri kiến của Như lai rộng lớn sâu xa, vô lượng vô ngại… là đấng Pháp sư mầu nhiệm cho đến Một hàng tụng pháp mầu Phật chứng đắc khó biết khó hiểu. Một hàng hợp tụng khen ngợi pháp và Pháp sư diệu.

Không hỏi mà Phật tự nói. Bậc Đại Thánh tuệ nhật: Trí tuệ của Phật dụ như mặt trời. Kinh Niết-bàn chép: Ví như mặt trời khi mới mọc, ánh sáng rất rực rỡ, đã có thể tự chiếu mà còn dứt trừ hết tăm tối. Hai lợi của Phật cũng như thế. Trong kinh Tăng Nhất A-hàm chép: Mặt trời xuất hiện có bốn việc:

-Khi mặt trời ló dạng thì tất cả tăm tối đều tan biến.

-Nông dân làm việc.

-Trăm loại chim hót vang.

-Trẻ con kêu khóc.

Phật bảo các Tỳ-kheo: Lúc mặt trời mọc bóng tối đều xua tan là: Dụ cho Phật ra đời dứt hết sự si ám, chiếu soi tất cả.

-Nông dân đi làm: Là Nhân dân cùng ra đồng làm. Đây là dụ cho sự tùy thời của đàn việt thí chủ, cung cấp y phục thức uống ăn, giường ghế, thuốc thang .

-Muôn chim hót vang là dụ cho các Pháp sư có đức độ cao có thể nói pháp mầu nhiệm cho bốn chúng nghe.

-Trẻ con kêu khóc: Dụ cho ma chướng, thấy Phật ra đời tâm thật lo sợ áo não. Như trong kinh có bài kệ khen Phật:

Như lai sắc vàng như núi chúa

Như mặt trời hiện chiếu thế gian

Cứu giúp chúng sanh đêm khổ dài

Nay con đảnh lễ Vua ba cõi.

Do đó mà khen ngợi Phật là Tuệ nhật. “Lâu mới nói pháp này”, là nói Phật thành đạo nhiều năm mà không hề bày nói. Nay mới nói ra, nên gọi là lâu. Trên đây là nêu hai câu: Một hàng dưới tụng trước Phật nói các thứ niệm quán.

-Kinh: “Pháp chứng ở đạo tràng cho đến cũng không ai hỏi được”.

-Tán: Nửa hàng trên tụng Phật trước nói pháp chứng đắc quả Bồ-đề Niết-bàn, trí tuệ sâu xa khó hiểu. Nửa hàng dưới tụng trước Phật nói pháp ấy khó hiểu, trí tuệ môn rất sâu. Người Nhị thừa không biết nên không thể hỏi.

-Kinh: “Không hỏi mà tự nói cho đến các Đức Phật chứng được”.

-Tán: Nửa hàng trên hợp tụng khen ngợi hai diệu.

Không hỏi mà tự nói là: Phật xuất định liền nói pháp. Thứ ba là nói pháp mầu. Câu thứ tư nói pháp sư khéo léo.

-Kinh: “Các La-hán vô lậu cho đến xin Phật nói cho nghe.”- Tán: Ba hàng tụng nói nghi của bốn chúng có hai:

Một hàng đầu tụng Thanh văn Hữu học Vô học nghi.

Hai hàng tụng nói Duyên giác và các chúng xin Phật nói.

Nghi dụ cho lưới vây khó thoát ra được.

-Do dự: Do dự theo nói văn Lũng tây nói: Giống như chó sói, tánh chó sói hay nghi ngờ con người nên người không chắc chắn thì gọi là do dự. Bộ Nhĩ Nhã nói: Như con Hoẵn giỏi leo cây.

-Kinh: “Đối với chúng Thanh văn cho đến vì là đạo Phật làm”.

-Tán: Tụng này là phần tự nghi. Đắc trí từ trước là quả pháp, hay là nhân đạo . Nếu là quả thì sở đắc đã đầy đủ. Nay vì sao lại khen ngợi. Nếu là nhân đó lại càng muốn hướng đến cầu nhân mà thành tựu. Trước nói các người tự sở đắc của mình sanh tâm chắc chắn đối với lời Phật nói lại nghi ngờ. Nay Thu Tử không có nghĩa chắc chắn, mà ngay sở đắc của mình cũng sanh nghi ngờ. Lại trước chưa nghe, đối với mình còn có chắc chắn, nay suy nghĩ lại sở đắc của mình, cũng có sanh nghi, cho nên không trái ngược.

-Kinh: “Từ miệng Phật sanh ra cho đến muốn nghe pháp đầy đủ.”

-Tán: Tụng lời thỉnh Phật nói, chia làm hai:

-Một hàng tụng lời thỉnh cầu của chúng đệ tử Thanh văn.

-Hai hàng tụng về các chúng khác thỉnh cầu, đây là phần đầu.

Bẩm thọ lời dạy của Phật, Thánh đạo mới khởi giáo pháp từ miệng Phật nói ra, nên nói từ miệng Phật sanh, để phân biệt với bào Thai là do tinh huyết tạo ra.

-Kinh: “Chư thiên rồng quỷ thần cho đến muốn nghe pháp đầy đủ”.

-Tán: Hai hàng cuối tụng về các chúng khác thỉnh.

Cõi này Phật xuất hiện nên không có Vua chuyển luân, vì thế nói:

Vua chuyển luân các nước đến, đạo đầy đủ là lý Đại thừa.

-Kinh: “Bấy giờ Phật bảo cho đến đều sẽ kinh nghi.”

-Tán: Đoạn thứ hai có hai ý: Phật nói thôi và Xá-lợi-phất lại thỉnh.

Luận này trở xuống giải thích phần định ký. Ghi nhận khác nhau, ghi rõ ràng nghĩa riêng biệt sâu kín, gọi là Ký biệt, tức là trong mười hai bộ kinh gọi là kinh Ký biệt. Kinh Ký biệt có ba thứ:

  1. Ghi nhận sự khác nhau về lỗi lầm công đức của các đệ tử đã trải qua trong quá khứ.
  2. Thọ ký riêng cho các Đại nhân thành Phật.
  3. Là ghi nhận rõ ràng, nghĩa riêng biệt sâu kín. Trong chương nói mười hai phần giáo bên dưới có nói đủ. Đây tức là kinh Ký biệt.

Luận chép: Dưới đây dựa vào bốn việc mà nói:

  1. Tâm chắc chắn.
  2. Nhân thọ ký.
  3. Thủ thọ ký.. Cho thọ ký.

Tâm chắc chắn là tâm Phật xưa nay đã có sự chắc chắn vì người. Do đây mà có lời nói sau khi Phật bảo thôi. Vì thế, lấy tâm chắc chắn mà luận không phối thuộc kinh, chung cho ý văn dưới.

Luận chép: Tâm chắc chắn là gì? Đã sanh tâm kinh sợ thì khiến cho dứt kinh sợ. Vì lợi ích có hai thứ người, cho nên Như lai có tâm chắc chắn.

Kinh sợ có năm nghĩa:

-1 Sợ tổn hoại: Từ chỗ nghe nói cho đó là thật, chê bai cho là không có Đại thừa mà nói: Như lai nói quả rốt ráo Niết-bàn của A-lahán, cuối cùng thì ta đã đạt Niết-bàn như thế. cho nên A-la-hán không nhập Niết-bàn. Đây tức là chủng tánh Thanh văn. Thanh văn là do nghe âm thanh giáo hóa của Phật tu rồi chứng thật quả rốt ráo. Ta cuối cùng đã đạt đến Niết-bàn như thế. Quả đã rốt ráo nên chê bai cho là không có Đại thừa, không thể nghe nay vì nói Đại thừa. Nếu nghe thì pháp đã tu đó không phải là rốt ráo, liền sanh kinh sợ, hoài nghi A-la-hán cuối cùng không nhập Niết-bàn, tức trái với đạo, nghi ngờ sanh nên sợ bị tổn hại.

-2 Kinh sợ nhiều việc: Vì chúng sanh sanh tâm Đại thừa như là.

Trong vô lượng vô biên kiếp ta thật hành hạnh Bồ-tát, chịu khổ lâu xa. Rồi khởi tâm kinh sợ chỉ giữ thừa khác. Nghĩa là Bồ tát Địa tiền tánh bất định, trụ trong Đại thừa, trải qua nhiều kiếp hành Bồ-tát đạo gọi là nhiều việc, sợ kia khởi tâm lui sụt qua thừa khác. Nay Phật nói cho họ 2 nghe để tâm không lui sụt.

-3 Kinh sợ điên đảo: Phân biệt các pháp ngã ngã sở thân kiến bất thiện. Nghĩa là căn chưa thuần thục định tánh phàm phu. Vì phiền não rất nặng nên không thể nói cho họ nghe. Nếu nói thì họ cùng sanh phiền não, điên đảo kinh sợ.

-4 Kinh sợ hối hận: Nghĩa là nếu vì nói: “Đại đức Xá-lợi-phất! Ta không nên chứng Tiểu thừa như thế, và tự dừng Tiểu thừa mà hướng về Đại thừa.” Tức là tâm kinh sợ hối hận.

-5 Kinh sợ lừa dối: Nghĩa là nếu nói cho người tăng thượng mạn nghe thì họ sẽ bảo rằng: Vì sao Như lai lừa dối chúng ta tự cho là đạo đã đạt đến quả vị vô dư tròn đầy.

Thanh văn có hai: Định tánh và Tánh bất định.

Phàm phu có hai: Chưa đắc cho là đắc và còn đủ phiền não.

Bồ-tát có hai: Thoái vị và Không lui sụt vị.

Thanh văn Định tánh tức là lo sợ tổn hại. Thanh văn Tánh bất định là lo sợ hối hận, chưa đắc cho là đắc tức phàm phu lo sợ lừa dối. Phàm phu đầy dãy phiền não tức là điên đảo lo sợ. Bồ-tát Thoái vị tức là lo sợ nhiều việc. Không lui sụt vị Bồ-tát thì không nằm trong năm thứ trên. Bỏ quyền lấy thật, ưa hướng về quả vị Phật, mới nói cho họ nghe Nhất thừa. Đây nói Nhất thừa thì không hợp căn khí vậy. Luận chép: Chính là làm lợi ích cho hai hạng người.

Như lai có tâm chắc chắn: Nghĩa là nhiều việc và hối. Lợi ích cho người hối hận là dẫn xếp họ vào một loại. Lợi người nhiều việc là tùy giữ các thừa khác, cho nên nay nói thôi và sau lại chính nói. Tâm Phật trước đã định vì hai người còn người khác không khác phải chính. Tức trong mười nghĩa nói hai nghĩa đầu của Nhất thừa. Quán ý văn này có nhiều việc. Một loại không nói là có kinh sợ. Nói tức là không kinh sợ, bốn thứ khác thì nói tức là có kinh sợ, không nói thì không sợ. Cho nên luận chép chung đã sanh kinh sợ thì phải dứt trừ kinh sợ, do đó mà thọ ký.

Như kinh nói: Thôi, thôi! Không, cần nói nữa cho đến trời người đều sẽ kinh sợ: Tức trở xuống là văn hai lần thôi. Là nguyên nhân ứng với hai nghĩa vì người nghe người không kham làm người nghe rời chỗ ngồi, cho nên gọi là nhân. Nhân thọ ký đều sanh kinh sợ. Có ba nghĩa:

  1. Khiến cho đại chúng suy tìm cảnh giới sâu xa.
  2. Khiến cho đại chúng sanh tâm tôn trọng cuối cùng muốn nghe.

Trên đây là ứng với hai nghĩa vì người nghe.

3. Khiến cho người tăng thượng mạn rời khỏi chỗ ngồi mà đi.

Tức là không thể làm người nghethì rời chỗ ngồi. Đây là Phật bảo thôi lần thứ hai. Nhưng ứng với hai nghĩa vì người nghe, lần thôi thứ ba mới vì người không thể nghe pháp rời chỗ ngồi. Lấy việc thọ ký như trong kinh. “Bấy giờ Đức Thế Tôn…” là lời hứa của Phật có thể nhiếp thọ, hứa sẽ nói cho đại chúng nghe.

Cho thọ ký là như trong kinh Phật bảo: “Xá-lợi-phất! cho đến” chính vì giải thích kinh Nhất thừa. Trong bốn Định ký thì tâm chắc chắn ban đầu là nguyên nhân dừng và nói. Kế đến, nhân thọ ký chỉ là nguyên nhân thôi sự thỉnh. Thủ ký là hứa giải thích, cho ký là chánh thức trình bày. Nay nói kinh nghi là ứng với người nghe. Kinh sợ nghi ngờ, suy tìm pháp sâu , tôn trọng người muốn nghe.

-Kinh: “Xá-lợi-phất cho đến cúi xin Phật nói.”- Tán: Lần thỉnh thứ hai.

-Luận chép: Chỉ chúng sanh nay đã được vô lượng Phật quá khứ giáo hóa, đầu là văn xuôi, sau là kệ tụng. Phần văn xuôi có hai: Một là thỉnh chung; hai là có khả năng nghe. Đây là phần thỉnh.

-Kinh: “Vì sao cho đến tức hay kính tin được.”

-Tán: đây là phần có khả năng nghe Phật nói, có ba nhân:

  1. Gặp duyên lành từng thấy Chư Phật.
  2. Tánh thông minh các căn lanh lợi
  3. Hiểu biết chân nghĩa. Trí tuệ thông suốt cho nên tin nghe.- Kinh: “Bấy giờ Xá-lợi-phất cho đến có thể kính tin.” – Tán: Bài tụng này có thể biết.

-Kinh: “Phật lại bảo Xá-lợi-phất thôi đi cho đến sẽ rơi vào hầm lớn.”

-Tán: Đoạn thứ ba. Đầu tiên thôi. Sau lại thỉnh. Trong phần thôi có hai: Văn xuôi và kệ tụng, đây là nói phần đầu.

Vì người không có khả năng nghe nên rời chỗ ngồi, lại sợ người tăng thượng mạn đắc Thế bậc nhất, bốn tĩnh lự, liền cho là đắc quả Ala-hán, rồi họ sanh phỉ báng mà đọa địa ngục nên gọi là hầm lớn. Đây đều là phàm phu rơi vào hầm lớn chẳng phải bậc Thánh Hữu học.

Luận Du-già chép: Tất cả bậc Thánh biết quả mình đắc, không tự cho rằng sẽ đắc quả vị Thánh sau mà tăng thượng mạn cho nên không có tà kiến, lại không gây nghiệp đọa vào địa ngục. Cho nên trong các luận có nói các Tỳ-kheo tăng thượng mạn, đắc Thế bậc nhất và bốn Tĩnh lự sau khi mạng chung do chê bai sự giải thoát sanh khởi tà kiến nên đọa vào địa ngục, chính là loại này.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế Tôn cho đến nghe sẽ không kính tin.”

-Tán: Pháp mầu khó hiểu. Người ngu nghe khởi sanh chê bai. Vì không kính tin nên sợ bị đọa hầm lớn.

-Kinh: “Bấy giờ Xá-lợi-phất cho đến. nhiều sự lợi ích.”- Tán: Lần thỉnh thứ ba.

Phần đầu văn xuôi, phần sau kệ tụng.

Văn xuôi có hai: Thỉnh chung và có khả năng nghe.

Ngài Thu Tử lợi căn tự biết túc mạng. Cũng có thể biết người khác ở quá khứ đã theo Phật Thích-ca và từng được giáo hóa. Căn cơ thành tựu đạo đầy đủ, thì sẽ nghe có thể tin. Tin sanh tử đêm dài đã an ổn lợi ích, cho nên nay thỉnh Phật nói.

-Kinh: “Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất cho đến.. rũ lòng phân biệt nói.”

-Tán: Từ đây trở xuống gồm bốn hàng tụng, chia làm ba:

-Một hàng tụng đầu tự xưng là trưởng tử để thỉnh. Phật quyết nghi.

-Một hàng rưỡi tụng… trình bày chúng đã từ lâu theo Phật nên thỉnh.

-Một hàng tụng rưỡi: Trình bày mình và người nghe pháp được ngộ giải liền sanh vui mừng để thỉnh nói. Phật là bậc tôn kính trong tất cả chúng sanh hai chân, nhiều chân, không chân. Nay nói loại tôn quý hai chân. Trong ba thứ, loài hai chân là tôn quý có thể nhập đạo, nghĩa là loại trời, người. Phật cũng hai chân nên nói là Đấng Lưỡng Túc. Ngài Xá-lợi-phất là bậc nhất trong chúng Thanh văn nên nói là Trưởng tử.

-Kinh: “Vô lượng chúng cho đến muốn thọ lời Phật nói”.

-Tán: Một hàng rưỡi tụng v.v… là trình bày chúng từ lâu được Phật giáo hóa, nhân duyên xưa nay đã thuần thục, nên thỉnh Phật nói pháp.

-Kinh: “Chúng con nghi… thì sanh tâm rất vui mừng”

-Tán: Một hàng rưỡi tụng mình và người nghe pháp đều vui mừng, để thỉnh Phật nói.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế Tôn cho đến phân biệt giải thích”.

Tán: Luận trong phần định ký của đoạn thứ tứ. Từ đây trở xuống là phần thủ thọ ký thứ ba. Phật hứa nhiếp thọ mà vì họ nói pháp. Cho nên trong luận chép Thủ thọ ký là vì ngài Xá-lợi-phất muốn được thọ ký. Như kinh Phật bảo Xá-lợi-phất: Ông đã ba lần thỉnh chẳng lẽ không nói, tức Phật hứa nhiếp thọ.

Nếu y vào tự khoa, thì đoạn thứ ba chia ra thật tướng này, khởi lên quyền môn kia. Trong đây có hai:

  1. Nói về nhị ký.
  2. Năm trược.

Phần dưới mới phá bốn nghi. Nhị ký có hai: Trong thủ ký có hai: a) Phật hứa nhiếp thọ. b) Người ác rời khỏi chỗ ngồi.

Ở đây nói phần đầu:

Trong Bồ-tát Địa chép: Hễ người nghe pháp, lãnh tiếng tiếp xúc tai, gột rửa nhiếp trì (lắng nghe).

Trong Trí luận cũng nói: Người nghe nhìn thẳng như đang đói khát, nhất tâm sâu nhập ngữ nghĩa. Tâm bi hỷ hớn hở nghe pháp. Người như thế thì hãy nói cho họ nghe. Ngau thẳng suy xét là vì nếu không căn dặn chúng sanh để họ lắng nghe xem xét thì sợ tâm không định, tuệ giải không sanh, cho nên Phật căn dặn lắng nghe.

-Kinh: “Lúc nói lời này… lễ Phật thoái lui”.

-Tán: Chúng người xấu thối lui: Có bốn phần:

Một là nói việc bỏ đi.

Hai là Phật không ngăn cản.

Ba là Phật vui vẻ dạy bảo.

Bốn là ngài Xá-lợi-phất kính vâng.

Phần một lại có hai: Nêu và giải thích.

Đây là nói nêu:

-Kinh: “vì sao? cho đến nên không ở lại”.

-Tán: Giải thích nguyên nhân bỏ đi.

Đây là tự dẫn chứng rằng: Có năm điều khó được:

  1. Được thân người là ít có.
  2. Sanh ở giữa nước là ít có.
  3. Đầy đủ các căn là ít có
  4. Gặp Phật ra đời là ít có.
  5. Nghe chánh pháp là ít có.

Năm ngàn chúng đệ tử đã có đủ bốn điều khó trên. Vì sao khi Phật sắp nói pháp mầu lại bỏ đi? Việc bỏ đi này là có lý do gì? Nay giải thích có hai ý:

  1. Gốc tội sâu nặng
  2. Có tâm tăng thượng mạn.

Bối nghĩa là bọn. Tội nghĩa là đáng chê, đáng trách, đáng sợ, đáng chán. Hoặc nhân hoặc quả đều chê bai, chán ghét gọi là tội. Nếu theo Tiểu thừa thì tội này rất nhiều, nặng thì có ba: 1) Phiền não chướng

  1. Nghiệp chướng.
  2. Dị thục chướng.

Tất cả phiền não gồm có hai thứ:

  1. Thường khởi gọi là cần.
  2. Khởi mạnh mẽ gọi là lợi, chia làm bốn câu: a. Cần mà không lợi.
  3. Lợi mà không cần.
  4. vừa cần vừa lợi.
  5. Không cần không lợi.

Nay lấy câu đầu và câu thứ ba gọi là phiền não chướng.

Ngũ vô gián nghiệp gọi là nghiệp chướng.

Ba đường tám nạn là dị thục chướng.

Ba chướng này chướng nhập Thánh đạo nên gọi là tội nặng.

Nay theo Đại thừa thì chướng có hai thứ:

  1. Phiền não chướng.
  2. Sở tri chướng.

Sở tri chướng là thích ứng theo nó mà chướng nhập vào Thánh vị Đại thừa. Phiền não chướng thích ứng theo nó mà chương nhập Ba thừa Thánh vị.

Theo luận Phật Địa thì phiền não chướng có ba:

  1. Một trăm hai mươi tám phiền não và tùy phiền não.
  2. Là chỗ phát nghiệp.
  3. Chỗ đắc quả.

Ý này là nói chung phẩm loại kia gọi là chướng, chẳng phải y cứ vào trọng .

Theo Đại Bát-nhã, thì trọng chướng có bốn:

  1. Phiền não chướng.
  2. Nghiệp chướng.
  3. Dị thục chướng.
  4. Pháp chướng.

Phiền não chướng là: Một trăm hai mươi tám căn bản phiền não. Và các đẳng lưu tùy phiền não. Thích ứng theo nó mà làm chướng Thánh đạo đều là chướng này. Nghiệp chướng là: Theo kinh Tát-già-ni Càn Tử thì có năm thứ nghịch:

  1. Phá tháp hoại chùa. Đốt kinh tượng trộm cắp và dùng vật Tam bảo.
  2. Chê bai pháp Ba thừa cho là không phải pháp Thánh. Chướng ngại lưu nạn che giấu điều ác.
  3. Đối với tất cả người xuất gia, hoặc người có giới, không giới, giữ giới, phá giới đều đánh mắng quở trách. Nói lỗi của họ, giam cầm vào lao ngục. Hoặc ép buộc họ cởi cà sa hoàn tục, bắt phục dịch sai khiến, làm cho họ mạng căn bị cắt đứt. Kinh Đại Tập chép: Lỗi hại một Tỳ-kheo phá giới còn hơn tội làm muôn ức thân Phật chảy máu.
  4. Giết hại cha mẹ, làm thân Phật, A-la-hán chảy máu, phá hòa hiệp tăng.
  5. Sanh đại tà kiến, chê bai nói không có nhân quả, thường hành trì các nghiệp bất thiện.

Năm thứ này chỉ có trong Đại thừa gọi là nghiệp chướng năm tội nghịch.

Cũng có nói nói bảy tội, chẳng qua cũng từ năm tội này.

Sở dĩ không nói là dị thục chướng: Nghĩa là quả dị thục hay làm chướng ngại Thánh đạo. Tức ba đường ác, tám vô hạ (gián) v.v… Vì nạn sanh ra trước Phật sau Phật nên nói là trước pháp, sau pháp, là trước sau Phật pháp không người đắc quả Thánh.

Pháp chướng là: Ở đời trước làm chướng ngại việc thiện của người, tạo ra các pháp nghiệp, sanh vào trong đời này không được nghe pháp, chánh pháp thiếu xót nghĩa là thuộc hai quả Tăng thượng, Đẳng lưu trong năm quả .

Gốc tội sâu nặng là cảm pháp nghiệp thiếu kém. Vì gốc tội nên hiện đời không nghe pháp, vì là thể của tội nên là chướng thứ tư.

-Mạn Ngọc Thiên nói là khi thường, không sợ, ngạo mạn. Lấy sự lừa dối làm gốc, chậm rãi, cậy mình ép bức người khác, tự cao.

-Trong luận Du-già nói Mạn có bảy thứ: Một là mạn; hai là quá mạn; ba là mạn quá mạn; bốn là ngã mạn; năm là tăng thượng mạn; sáu là ty mạn; bảy là tà mạn.

  1. Mạn đối với người thấp hèn mà cho là mình hơn hoặc cho là bằng người.
  2. Quá mạn: Đối với người bằng mình cho là mình hơn, hoặc với người hơn cho là mình bằng .
  3. Mạn quá mạn: Với người hơn cho là mình hơn.
  4. Ngã mạn: Cậy thế chấp ngã đề cao mình.
  5. Tăng thượng mạn: Mình ít đức mà cho là nhiều.
  6. Ty mạn: Người hơn mình nhiều, chấp mình kém người khác ít.
  7. Tà mạn: Hoàn toàn không có đức mà cho là có đức.

Nay nói tăng thượng mạn, tức phần thứ năm đã thật là ít đức, cho là mình nhiều đức độ, đắc thiền định Niết-bàn thế gian. Cho nên chưa đắc nhiều cho là nhiều đức. Chưa chứng cho là đã chứng. Đắc cho là đạo hữu vi. Chứng cho là diệt vô vi, đây là tướng tăng thượng mạn. Chẳng phải hoàn toàn chưa đắc mà nay cho là đắc. Nếu không như vậy, thì chẳng phải tướng tăng thượng mạn, chính là tà mạn thứ bảy. Nếu có hai lực phiền não chướng và chướng pháp trước, nên không thể có khả năng nghe pháp.

Hỏi: Bọn năm ngàn người đã không thể nghe pháp, vì sao mắt nhìn thấy hào quang Phật tỏa chiếu, tai nghe lời diệu xướng, thấy hoa trời và an nhiên nhìn đất rung chuyển mà không kinh sợ?

Đáp: Phật phóng quang động địa chưa đủ làm thay đổi tâm hèn kén. Diễn pháp mầu nói việc ít có thật trái với thiển ý. Nghe lời hỏi đáp trong bài tựa làm bước đầu dẫn đến Đại thừa và nhân nghe trình bày sâu xa của nội tông Đại thừa, lại càng thêm mê hoặc thêm chê bai cho nên ở đây Phật bảo bẻ hết cành lá, quét sạch tấm cám.

-Kinh: “Thế Tôn mặc nhiên im lặng mà không ngăn cản”.

-Tán: Phần hai không ngăn cản.

Mặc có nghĩa là im lặng.

Các bộ luận đều nói có hai chắc chắn mà Phật lực không trái: Một là thọ dị thục chắc chắn

Hai là tác nghiệp chắc chắn.

Với người vì tội căn sâu nặng Phật dùng chắc chắn chịu quả, người tăng thượng mạn. Phật chắc chắn tác nghiệp. Do đó mà năm ngàn vị này rời chỗ ngồi đi ra. Phật tuy có thần lực cũng không ngăn họ được, lại vì để họ đi mà không rơi vào địa ngục, không thể ngăn, khiến họ phải khởi nghiệp nặng. Những vị kia nếu phát tâm thì định nghiệp có thể chuyển. Tâm họ không đổi nên Phật lực không ngăn được.

-Kinh: “Bấy giờ Phật bảo cho đến nên vì ông mà nói”.

-Tán: Phần ba Phật vui vẻ dạy bảo.

Gió kinh động rơi hạt lép, sương rụng hạt chắc vẫn còn. Phật hứa nói đã làm kinh tâm người. Chấn uy thần khiến họ phải bỏ đi. Cho nên bỏ ra cành lá là tốt. Xướng người trinh thật trụ lại mà hứa nói. Cành lá dụ cho người khinh bạc hư sơ. Sự thuần trong vững chắc nên dụ là hạt chắc .

-Kinh: “Xá-lợi-phất nói cho đến nguyện ưa muốn nghe”.

-Tán: Phần bốn là kính vâng.

Nguyện vui là ý ít giải. Muốn nghe cũng là tâm mong muốn nghe.

-Kinh: “Phật bảo Xá-lợi-phất cho đến thời một lần hiện”.

-Tán: Phần này cho thọ ký vì họ giải thích. Luận có sáu:

  1. Người chưa nghe khiến cho nghe.
  2. Là nói. “Xá-lợi-phất! Chư Phật tùy nghi nói…”
  3. Nương vào nghĩa gì? cho đến “Vì sao? Vì Chư Phật Thế Tôn chỉ một đại sự nhân duyên cho đến”
  4. Là khiến cho trụ: “Xá-lợi-phất! Như lai dùng một Phật thừa nên vì chúng sanh nói pháp”.
  5. Là y vào pháp. “Xá-lợi-phất! Tất cả Chư Phật mười phương cũng như vậy…”
  6. Ngăn: “Xá-lợi-phất! Trong các thế giới ở mười phương còn không có hai thừa.” Chưa nghe khiến cho nghe, là khen ngợi pháp ít có, hiển bày khiến được nghe.

-Nói là nói pháp sở nói, ý nói việc ít có biết.

-Y vào nghĩa gì? Là người chưa nghe khiến cho nghe và dùng phương tiện nói. Nương vào nghĩa gì là nương vào pháp rất sâu khó hiểu do Phật chứng đắc.

-Trụ là khiến yên trụ pháp Nhất thừa là pháp mà Chư Phật ba đời mười phương đã cùng làm tức là phép tắc, khuông mẫu.

-Đầu tiên là tùy theo thời nghi mà nói: Ý muốn về lâu sau, chúng sanh vẫn giữ hạt giống trí tuệ Phật.

-Ngăn là ngăn phá hai chấp, ngăn cho hai thừa là chân thật, để khen ngợi pháp ít có. Người chưa nghe khiến cho nghe có ba ý:

  1. Khen ngợi sự ít có.
  2. Nêu thí dụ.
  3. Khuyến tín.

Đây là nói hai phần đầu. Điều này nếu thường nói, không có người trí nào không thích. Thời nghi là cảngười trí ngu cùng ưa.

Tiếng Phạn gọi là Ô-đàm-bát-la, Hán dịch là Thụy ứng. Khi Kim luân ra đời thì biển lớn giảm ít. Khi Kim Luân xuất hiện thì hoa Bát-la mới trổ hoa, ứng vào việc ngụ thế của Kim luân, nên gọi là hoa Thụy ứng. Đây là nói pháp luân vương của kinh Pháp Hoa ra đời thì biển sanh tử giảm bớt. Đạo Nhất thừa hiển bày mới giảng nói. Cho nên lấy đây làm thí dụ mà khen ngợi Phật pháp ít có. Ngài Thu Tử từ thời vãng kiếp từng có pháp chưa nghe, nay muốn nghe nên hết lòng khát ngưỡng.

-Kinh: “Xá-lợi-phất! cho đến nói không luống dối”.

-Tán: Đây là phẩn khuyên tin. Vì trí hiểu còn giới hạn, nên chưa thể chứng đạt. Cho nên đây nêu pháp không luống dối để khuyên người tin.

-Kinh: “Xá-lợi-phất!.. ý thú khó hiểu.”

-Tán: Đoạn thứ hai nói Phật nói có hai: Nêu ra và giải thích.

-Kinh: “Vì sao? Là có thể biết”.

-Tán: Đây là phần giải thích trên đã nêu.

-Luận giải thích các thứ nhân duyên: Nghĩa là pháp ba thừa. Pháp ba thừa kia chỉ là danh tự chương cú nói không có thật nghĩa. Vì ý thật nghĩa kia không thể nói, Ý trong đây nói: Ta dùng phương tiện mà nói pháp Ba thừa. Pháp đây chỉ có danh tự chương cú không phân biệt ba thể mà tùy nghi nói ba. Người Nhị thừa không thể suy lường có thể hiểu, chỉ Phật mới có thể biết. Đây là nêu phần trí môn khó hiểu ở trước. Thật nghĩa Ba thừa tức là chân như, là không thể nói. Nói nương vào đâu tức là chỉ cho trí tuệ Phật.

-Kinh: “Vì sao? cho đến xuất hiện ở đời”.

-Tán: Văn thứ ba là y theo nghĩa gì? Có hai: Nêu và giải thích rộng.

Đây là nói phần đầu. Do văn trước mà mượn dẫn chứng rõ. Vì sao nói ngôn từ khó hiểu chỉ có Phật mới hiểu? Y theo nghĩa gì mà nói như thế?

Các Phật Thế Tôn là bao gồm các Phật mười phương ba đời “Chỉ vì một đại sự nhân duyên…”

Sự vật nghĩa là sự, thể sự. Đạo lý tùy ứng cũng đều đắc. Vì đại sự nhân duyên này mà xuất hiện ở đời, tự xưng đức hiệu, rộng làm lợi ích chúng sanh. Nếu như không như vậy thì nhập diệt như Nhị thừa. Do đại sự này, cho nên tùy nghi nói, ý thú khó biết.

-Kinh: “Xá-lợi-phất… xuất hiện ở đời”.

-Tán: Giải thích rộng có hai:

  1. Hiển bày riêng
  2. Giải thích ý

– Hiển bày riêng có ba:

  1. Trình bày
  2. Giải thích
  3. Kết

-Kinh: “Chư Phật Thế Tôn cho đến xuất hiện ở đời.”

-Tán: Đây là phần giải thích. – Thể của việc lớn tức là tri kiến. Chư Phật xuất hiện ở đời vì đại sự này. Có bốn nghĩa là: Khai, thị, ngộ, nhập. Luận chép: Một đại sự đó là nương vào bốn thứ nghĩa nên biết.

Phật tri kiến: Như lai có thể chứng biết như thật nghĩa kia. Đây có ba giải thích

Giải thích thứ nhất: Pháp tánh chân như gọi là như thật, tánh chân thật của pháp tức là sở chứng. Nghĩa lý cảnh giới đều gọi là nghĩa. Thể chánh trí gọi là năng chứng, biết được nghĩa lý, chứng cảnh chân thật, tức năng chứng chánh trí và sở chứng chân như cả hai năng, sở tri kiến đều gọi là tri kiến. Như làm tánh của tri kiến. Trí là dụng của tri kiến, tánh tướng tri kiến đều gọi là tri kiến.

Luận Bát-nhã của ngài Vô Trước nói: Vô thượng Bồ-đề là pháp thân, Chánh Đẳng Bồ-đề là báo thân, như kinh Giải Sâu Mật nói: Bồđề. Bồ-đề đoạn đều gọi là Bồ-đề.

-Luận Trí Độ chép: Trí và Trí xứ đều gọi là Bát-nhã. Hoặc trí là trí chánh thể. Kiến là hậu đắc trí, là hai, là dụng. Năng chiếu hai cảnh chân tục. Hai bổn tánh này tức là chân như hợp lại gọi là tri kiến. Đem tánh hợp tướng thì gọi là tri kiến. Vì muốn người Nhị thừa cầu chủng trí.

Kinh Thắng-man nói: Nhất thừa tức là Phật thừa. Phật thừa là Đại thừa Nhiếp Đại thừa nói: Vừa đại vừa thừa nên gọi là Đại thừa là muôn hạnh. Hoặc nương vào đại tánh nên gọi Đại thừa, là chân như. Cho nên biết Quả Phật Nhất thừa, thể có cả lý và trí. Khế ước với tông nghĩa này thì nhà lửa xe trâu ý ở trí dụng. Nói xe trâu là sở tác của ngã. Đường hiểm, đảo châu báu ý ở trí tánh. Xưng hóa tạo thành thì chẳng phải đảo châu báu. Hợp cả hai này lại gọi là tri kiến.

-Luận này chép: Gồm có bốn pháp:

Khai: Là nghĩa Vô thượng, trừ Nhất thiết trí, không còn có việc khác.

Nhất thiết trí đó là Phật vậy. Lại nói trí đó là căn bản trí và hậu đắc trí. Hai trí này là dụng, tánh của hai trí này tức là chân như. Hoặc dụng hoặc tánh gọi chung là trí.

Trí của bậc Nhất thiết trí thì gọi là trí Nhất thiết trí lại Nhất thiết trí là căn bản trí.

Lại nói trí là hậu đắc trí. Nêu hai trí này là nhiếp ở diệu lý trí tánh chân như. Lại Nhất thiết trí là Bồ-đề trí dụng.

-Lại nói trí là trí tánh Niết-bàn, hai thứ Như lai tạng. Nay nói lên hai trí này đều là Vô thượng. Khen ngợi thù thắng cho người vui mừng. Nhưng thể Bồ-đề này là hạt giống bổn hữu hữu vi. Huân tập học rộng là do tu mà sanh trưởng, thể tức là bốn trí.

Kinh Lăng-già chép: Thức A-lê-da gọi là Không Như lai tạng. Huân tập đầy đủ pháp vô lậu nên gọi là Bất Không Như lai Tạng. Tạng thức hữu lậu là luống dối không thật, cho nên gọi là không, năng chứa 72 tất cả hạt giống vô lậu gọi là Như lai tạng.

Thể của hạt giống bốn trí là vô lậu chẳng phải là pháp luống dối. Do gần gũi bạn lành huân tập học rộng dần dần sanh trưởng, sẽ thành bốn trí. Nhân của trí gọi là Bất Không Như lai Tạng. Tạng là hàm tàng, nghĩa là nhân tánh. Dụ như trồng cây sanh trưởng tròn đầy thể tánh của Niết-bàn này là vô vi. Xưa nay sẳn có tự tánh thanh tịnh. Về sau gặp Bạn lành thì dứt chướng hiển bày tuy là một chân như mà gặp duyên thì chứng riêng nên gọi là bốn thứ Niết-bàn.

Kinh Thắng-man nói: Có hai thứ Như lai Tạng không trí: Nghĩa là hoặc lìa hoặc thoát, hoặc đoạn hoặc dị. Tất cả phiền não tạng cũng không lìa không thoát. Không đoạn không dị. Bất tư nghì Như lai tạng phiền não hữu lậu luống dối không thật, có thểche lấp Như lai, gọi là không Như lai tạng. Thể của Niết-bàn vô lậu là vô vi, chẳng phải là pháp luống dối. Do gần thiện duyên mà dứt các phiền não. dần dần trí khởi thì phương tiện sẽ hiển chứng gọi là Niết-bàn. Thể tánh chẳng phải là không, do không mà hiển bày ra vì là tánh không ở vị trí phiền não che lấp nên gọi là Bất Không Như lai tạng. Tạng có nghĩa là che giấu tánh nhân, cho nên ở vị trí phiền não bị trói buộc gọi là Như lai tạng. Lúc ra khỏi phiền não thì gọi là pháp thân. Tức pháp thân này do không mà hiển bày. Vì bổn tánh vốn là không nên gọi là không Như lai tạng. Như ngọn đao Đề-da đào được vật báu mà được biết đến.

Thức A-lại-da và các phiền não gọi là Như lai tạng kinh Niết-bàn nói chưa đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Pháp thiện bất thiện đều gọi là pháp tánh.

– Kinh Vô Cấu xưng chép: Chủng tánh của thân giả: Bảy thức trụ, tham dục, sân nhuế, ngu si, mười một nghiệp bất thiện đạo làm Như lai chủng, văn chẳng phải nói một, tức trước Bồ-đề gọi là báo thân. Báo thân thì tu sanh, pháp thân thì tu hiển. Pháp thân chứng thì nhân chứng.

Báo thân sanh thì nhân sanh.

Tạng trước có bốn:

  1. Năng hàm tàng: Tạng nghĩa là thức A-lại-da như kho tạng.
  2. Năng sanh đức tạng: Nghĩa là hạt giống báo thân, như hạt giống, lúa…
  3. Năng phú tạng: Tạng nghĩa là phiền não như đất che vậ
  4. Năng hiển đức tạng: Tạng nghĩa pháp thân Phật tánh như kim tánh (tánh vàng), tức nói theo vị trí đại.

Đoạn sở tri chướng thì chứng được báo thân Phật Bồ-đề tròn đầy. Dứt phiền não chướng chứng được pháp thân Phật, Niết-bàn tròn đầy.

Chư Phật ra đời là muốn chúng sanh dứt sở tri chướng và chỗ phát nghiệp cùng quả sở đắc. Tất cả đều hết viên chứng Bồ-đề mở ra tướng tri kiến khiến được thanh tịnh. Chướng hết, trí viên thì gọi là thanh tịnh. Vì muốn chúng sanh dứt trừ phiền não chướng và chỗ phát nghiệp quả sở đắc. Tất cả đều tận viên chứng Niết-bàn, khai tánh tri kiến, khiến được thanh tịnh. Chướng tận, lý hiển thì gọi là thanh tịnh. Duyên vào tri kiến này nên ra khỏi thế gian.

1- Khai: Nghĩa là hiển chứng xuất sanh sanh ra Bồ đề hiển chứng Niết-bàn. Trừ hai việc này thì không có gì cao quý hơn, hai pháp đó gọi là Vô thượng.

2- Thị nghĩa là đồng. Vì pháp thân Ba thừa của Chư Phật, Bíchchi-phật, Thanh văn đều bình đẳng. Pháp thân bình đẳng đó là pháp thân, Phật tánh không có sai khác. Cho nên kinh Niết-bàn chép: Thí như sữa trâu có các màu sắc và đem sữa đó đặt vào một chỗ, màu sắc sữa vẫn không khác. Phật tánh không vậy. Chúng sanh chủng loại tuy không đồng, mà Phật tánh không khác nhau. Ý này nói là pháp thân Ba thừa vốn là bình đẳng. Chúng sanh không biết nên không chịu tu hành để chứng pháp thân tròn đầy. Chư Phật ra đời là muốn chỉ cho chúng sanh tánh của tri kiến này. Ba thừa đều bình đẳng không hai, đồng chứng tròn đầy để thành tựu pháp thân.

3- Ngộ có nghĩa là không biết. Vì tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật không biết chỗ chân thật. Không biết chỗ chân thật là không biết rốt ráo chỉ có một Phật thừa. Như có người đến nhà bạn thân uống rượu say rồi nằm, lấy hạt ngọc vô giá buộc vào áo trong. Người kia lúc đầu không biết, sau giác ngộ rồi mới biết. Ý này nói là: Nhị thừa không biết thể rốt ráo duy nhất chỉ một Phật thừa, thể tức là Bồ-đề bốn trí, cho nên không tu báo thân tròn đầy. Phật ra đời là muốn cho chúng sanh giác ngộ pháp rốt ráo chỉ có một Phật thừa Bồ-đề trí, khiến cho tu mà sanh trưởng. Ba thứ trên là khai để cùng hiển bày pháp thân, báo thân, khen ngợi sự thù thắng của quả Niết-bàn, Bồ-đề Vô thượng để cho người ưa thích. Thị là phân biệt rõ pháp thân Ba thừa Niết-bàn vốn không hai mà có tu chứng. Ngộ là riêng chỉ rõ báo thân Bồ-đề rốt ráo bậc nhất hạt giống vốn có khiến tu hành sanh quả. Cùng nêu trí đức đoạn đức ở trong quả. Đã chứng hai pháp này làm lợi lạc chúng sanh, ứng với vật hiện hình. Ứng cơ mà nói pháp. Tức là hóa thân và thân tha thọ dụng là ân đức.

4- Nhập: Là địa vị khiến cho chứng đắc không lui sụt. Thị hiện cùng vô lượng nghiệp trí. Ba pháp trên là chung, riêng tuy rõ quả Phật Vô thượng, đồng thù thắng mà chưa biết làm thế nào để chứng đắc. Nay

nói nhân năng chứng năng đắc, cho nên gọi là nhập. Y vào luận này này thì từ Sơ địa trở lên gọi là địa Bất thối. Thể dụng của trí Nhất thiết trí, trong quả vị Phật thật lớn thể dụng đại gọi là Vô lượng trí. Nghiệp là nhân. Phật vì đó mà nói từ Sơ địa trở lên có thể đắc nhân Nhất thiết trí của quả Phật gọi là nhập. Đức Phật nói nhân này là muốn cho người Nhị thừa Hữu học, Vô học và trước sơ địa chứng sơ địa trở lên đến Không lui sụt. Nhập vào biến dị sanh tu chủng trí nhân, quán sát trí tánh nhập hai quả vị Phật.

Bốn ý này nói: Phật xuất hiện ở đời là muốn chúng sanh dứt hết hai chướng, khai tri kiến Niết-bàn Bồ-đề Phật khiến chứng thanh tịnh. Khen ngợi hai pháp vô thượng để chúng sanh ưa thích. Mở bày pháp thân đồng có là khiến cho tu chứng. Ngộ chỗ bất trí chỉ có một trí Phật thừa khiến cho chúng sanh tu hành. Đã hiển bày thể tánh cao quý của Bồ-đề Niết-bàn Quả Phật và nói nhân đó cho người hướng nhập, là nói Phật xuất hiện ở đời để nói pháp Nhất thừa, hoặc quả hoặc nhân. Khiến chúng sanh tu nhân chứng quả, đều thành quả Phật, không vì việc gì khác.

Trước khen ngợi trí tuệ và môn trí tuệ tức là lý giáo của Nhất thừa. Nay nói hạnh quả, nên biết đó là nói chung về bốn pháp Nhất thừa gọi là Pháp Hoa. Hoặc bất thối là từ Bát địa trở lên thì hành bất thối. Các luận đều nói là thọ sanh tử biến dịch. Tuy Nhị thừa hồi tâm nhưng chưa liền đến bờ giác kia. Ba thừa đều đồng là hậu chắc chắn, ra khỏi sanh tử phần đoạn nhập vào sanh tử biến dịch.

Lại Nhị thừa đó là phiền não bất thối. Trải qua ba đại kiếp đều gọi là bất thối địa. Lại Nhất thừa là tu hành Nhất thừa, hoặc là tín, vị, chứng, hạnh. Nay ở trong đây đều khiến cho thể nhập, cùng gọi là bất thối. Hoặc thật thể của nhân quả Nhất thừa là trước nói trí tuệ và trí tuệ môn của Phật tức trước nói Ba thừa là quyền giáo khiến cho Nhị thừa xả quyền giữ thật hành nhân Nhất thừa, hướng đến quả Nhất thừa, đây chính là bổn ý.

Trên nói về nhân quả chung riêng để giải thích bốn thứ: Y theo đây trở xuống văn dưới nói thì trong pháp Phật ba đời không nói phần đầu là khai, chỉ nói: Thị, ngộ, nhập, vì thế biết chỉ nên nói như thế là tốt. Thị ngộ nêu riêng hai quả đã xong. Không cần nêu ra. Nêu ra nhân quả này là nhiếp tất cả pháp muôn đức hữu vi vô vi của Phật. Phần pháp nói ở phẩm Phương tiện này nói Nhất thừa chỉ vì người thượng căn. Do đây mà biện chung hoặc nhân hoặc quả Bồ-đề Niết-bàn để làm Nhất thừa. Phẩm Thí dụ thì vì người trung căn nên chỉ nói ngộ. Xe trâu là trí đức Nhất thừa Bồ-đề. Do mê nhân trí mà không mê lý nhân, lý quả trí. Phẩm Hóa Thành Dụ là vì người hạ căn nên chỉ nói về thị. Đảo châu báu là Đoạn đức Niết-bàn Nhất thừa. Do mê lý quả mà không mê trí quả, trí của lý nhân. Mỗi pháp đều tùy theo sở nghi mà dứt chướng kia, khiến cho tiến nhập mà nói riêng Nhất thừa. Hoặc vì trung, hạ căn mà nói hai pháp lý trí nhân quả, rõ ràng khiến cho hiểu, chỉ có phẩm này là nói chung về nhân quả giác, tịch Nhất thừa, lý nghĩa đầy đủ, cho nên luận này giải thích đầy đủ phẩm này, các phẩm khác chỉ giải thích chung, đại ý thì không khác đây. Nếu hiểu rõ phẩm này là hiểu toàn bộ kinh. Nhưng xét văn dưới thì xe trâu ở quả, tức Bồ-đề, văn dưới chỉ nói trí ở trong nhân. Ba thừa cưỡi nhân này thẳng đến đạo tràng.

Lại lý tuy vậy mà trong các kinh luận thường nói trí tuệ lý tánh Niết-bàn cho là Nhất thừa, Nhất thừa là căn bản nên như Vô Lượng Nghĩa.

Giải thích thứ hai: Nay bốn nghĩa này đều dựa vào thể của pháp thân trí tuệ Phật tánh để làm Nhất thừa. Kinh Niết-bàn chép: Đại sự đó chính là Phật tánh.

Lại rốt ráo có hai:

  1. Trang nghiêm rốt ráo.
  2. Rốt ráo rốt ráo.

Trang nghiêm rốt ráo nghĩa là sáu Ba-la-mật.

Rốt ráo rốt ráo: Là tất cả chúng sanh sở đắc Nhất thừa. Nhất thừa tức là Phật tánh. Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh đều có Nhất thừa. Vì vô minh che lấp nên không thể nhận biết được.

Cho nên biết Phật tánh tức là tri kiến, tức là Nhất thừa. Nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh đó tức là khai. Chỉ bày phân biệt gọi là Thị. Đây là pháp Phật tánh, là tánh của báo thân Phật, là tánh nhân, tánh duyên, tánh lý, tánh hành, tánh của người gốc lành, người bất gốc lành… các tánh này gọi là Thị, cho nên kinh Niết-bàn chép: “Như trong nhà cô gái nghèo có nhiều kho vàng ròng. Trong nhà mọi người đều không biết. Lúc này có một người khéo biết phương tiện vừa đến, mới bảo nhà ấy đào lấy vàng lên, người nữ trông thấy lòng rất vui mừng, sanh tâm kính mến tôn trọng người này.

Người Thiện nam! Phật tánh của chúng sanh cũng lại như vậy. Tất cả chúng sanh không thể biết được. Như kho vàng kia cô gái nghèo kia không thể biết.

Người Thiện nam! Nay ta chỉ khắp cho tất cả chúng sanh biết mình có Phật tánh. Người khéo dùng phương tiện đó tức là Như lai. Cô gái nghèo là vô lượng chúng sanh, kho vàng rồng ấy là Phật tánh. Phật dùng đủ loại phương tiện phân biệt để chúng sanh hiểu, gọi đó là ngộ. Khuyên vật khởi tu để chứng nhập nên gọi là nhập. Nếu nương vào giải thích này, thì trong phẩm Thí dụ nói: “Xe trâu đều cho, Ta vì các con mà tạo” bèn trở thành trái với nghĩa này.

Giải thích thứ ba: Ba thứ trước là y theo ba việc Quả Phật Đại bát Niết-bàn mà giải thích. Kinh Niết-bàn quyển hai chép: Ta nay nên khiến cho tất cả chúng sanh, vì Phật tử bốn bộ chúng, thảy đều an trú trong bí mật tạng. Ta cũng an trú trong đó mà nhập Niết-bàn. Sao gọi là tạng bí mật. Như ba điểm của chữ y, để ngang không thành chữ y, dọc cũng không thành, như ba mắt trên mặt Ma-hê-thủ-la, mới thành chữ y, ba điểm nếu riêng biệt cũng không thành. Ta cũng thế, pháp giải thoát chẳng phải Niết-bàn. Thân Như lai cũng chẳng phải Niết-bàn. Ma-ha Bát-nhã cũng chẳng phải Niết-bàn. Ba pháp đều khác cũng chẳng phải Niết-bàn.

Nay ta an trú vào ba pháp như thế là vì chúng sanh cho nên gọi là nhập Niết-bàn, như chữ y ở đời. Trong đây ý nói là: Tiếng Phạn chữ y trên có hai điểm, dưới một điểm, tợ như chữ phẩm để ngược. Để ngang như có chứng trước sau, để dọc như có ba cấp bậc, tức chữ y có ngang dọc, đều không phải, để riêng cũng chẳng phải chữ y. Nếu cả ba hòa hợp không dọc không ngang cũng không cách biệt. Hòa hợp ba điểm không phải một, không phải khác. Như ba mắt trên mặt trời Đại Tự Tại. Trên trán một, dưới mỗi bên chân mày có một. Phật nhập Niết-bàn cũng giống như thế.

Ma-ha Bát-nhã là trí năng chứng, thân Như lai là pháp thân sở chứng. Giải thoát là do trí năng chứng mà chứng lý pháp thân sở chứng. Hai chướng đã diệt hết thì hai sanh tử (phần đoạn, biến dịch) thân hữu đời vị lai không còn tiếp tục, cũng không còn bị trói buộc, mà tam gọi là trạch diệt, tức là giải thoát.

Trong kinh Tạp Tập chép: Diệt đế có ba: Hoặc năng diệt, hoặc sở diệt, hoặc diệt tánh, tức là ba đại Niết-bàn này, Niết-bàn ở trên là năng chứng đạo, như con mắt ở trên trán, pháp thân, giải thoát đều ở dưới là sở chứng nên dụ cho hai mắt ở dưới chân mày. Dùng trí chứng lý để sau đó hoặc khổ thân sau đều dứt trừ không sanh nên gọi là nhập Niết-bàn, là Phật an trụ vào tạng bí mật, không đồng trí liễu sanh không của Nhị thừa, chẳng phải là lý đại tuệ. Chỉ vì lý sanh không vô ngã không gọi là pháp thân. Tuy được phần ít hoặc chủng sanh tử phần đoạn không sanh, tạm trạch diệt mà không được diệt tận tập khí và tri chướng, sanh tử phần đoạn biến dịch chứng quả giải thoát cao quý. Như dọc như ngang chẳng phải là đại Niết-bàn. Thân tan trí diệt kia gọi là nhập. Không hiện thân trí sao có thể gọi là đại. Phật không như thế nên gọi là đại, xưng là tạng bí mật.

Người xưa giải thích, chỉ y vào chân như để làm ba việc gọi là Đại Niết-bàn, thì không có nghĩa nhập. Thường trú bất hoại vì lợi ích chúng sanh mà dùng trí chứng chơn, giải thoát hết hoặc khổ thì mới gọi là nhập. Đây chính là ý Phật, không giống như Nhị thừa nói không có thân trí mới gọi là nhập, nên Phật tự nói: Cũng như các loài quạ, chim, diều hâu vào hẳn Niết-bàn.

Nay giải thích sau đây khéo thuận theo kinh đọc tụng sẽ tự biết .

Ma-ha Bát-nhã là khai tri kiến Phật cho nên trong luận chép: Trừ trí Nhất thiết trí thì không có việc gì khác, Nhất thiết trí đó là chứng vào trí hai không. Lại nói người trí chứng các hữu trí trí, Tối thắng diệu này gọi là vô thượng thì không có gì hơn.

Pháp thân chính là thị tri kiến Phật. Luận chép: Ba thừa đều bình đẳng, pháp thân Phật tánh đều không khác nhau.

Giải thoát là ngộ tri kiến Phật, hai chướng đều dứt, hai sanh tử cũng diệt đó là chân giải thoát. Người Nhị thừa chỉ dứt được một chướng và một sanh tử vô dư, mà không biết như thế. Cho nên luận chép: Nhị thừa không biết được chỗ chân thật , do đó phải khiến cho kia tỏ ngộ.

Ba việc trên tức là chứng nhập đại Niết-bàn. Đây là có nhân mà nói nghĩa nhập, nên luận chép: Nhập là chỉ rõ hiện không lui sụt địa, cùng vô lượng trí nghiệp, Phật ra đời là muốn cho chúng hữu tình trong Ba thừa tu nghiệp không lui sụt địa, an trú vào kho Bí mật, nhập đại Niết-bàn không vì việc khác. Đây cùng danh tự Niết-bàn thể khác mà tánh không khác. Tất cả đều muốn hành nhân chứng nhập quả vị Phật. Nếu giải thích theo đây đã khế ước với nghĩa Hóa thành hướng đến đảo châu báu, còn hợp với trong nhà lửa cưỡi xe trâu đi.

Thể đức của Nhất thừa đã gọi là Đại bát Niết-bàn. Hai thân pháp, thân báo thân chánh giác cùng Viên tịch, mỗi thân nhiếp chung đều đầy đủ, cũng gì mà không chỉ trích? Nay ba giải thích trên chỉ nói trí tuệ sở thuyên là Nhất thừa, giáo môn năng thuyên tức thứ lớp như trước nói. Tùy nghi mà nói, ý thú khó hiểu.

Lại dùng hoa sen để dụ cho Pháp mầu. Đây là nói việc khai mở nhân. Quả tốt đẹp cũng không sai trái. Nhưng kinh Thắng-man và văn kinh phần nhiều nói chân lý cho là Nhất thừa, căn bản của thừa, thật ra có cả hai thứ. Đối với nghĩa thì bao gồm hết mở bày ngộ: Cả ba đều nói về quả Nhất thừa . còn “nhập” thì nói nhân thừa của Phật Nhân thừa tuy có cả ba vô số kiếp, nay chỉ nêu sau kiếp thứ hai. Luận chép: Khiến chứng không lui sụt vị. Cho nên trong kinh Lăng-già, Mười Địa chia làm ba thứ ý sanh thân, như trong chương khác nói.

Lại phẩm sau nói: Người thanh văn, Duyên giác, Không lui sụt, Bồ-tát cưỡi xe báu này thẳng đến đạo tràng.

Kinh Thắng-man nói: Vô minh vì duyên với nghiệp nhân vô lậu. Có ba thứ ý sanh thân là Bồ-tát Đại Lực , Bích-chi-phật quả A-la-hán. Từ Sơ địa trở xuống thì vẫn còn ở trong phần đoạn sanh tử mà chưa ra khỏi nhà lửa. Còn ở trong cửa nên vẫn bị thiêu đốt, không thể gọi là nhất thừa. Hoặc sau Bát địa gọi là Không lui sụt địa. Luận Du-già chép: Sau Bát địa là ý sanh thân, đắc chắc chắn.

Hỏi: Người Nhị thừa quả vị Vô học xe hươu, dê còn ở phần đoạn, nên vẫn còn trong cửa, như tiểu Bồ-tát lẽ ra không ra nhà lửa?

Đáp: Nói phần đoạn chính là chưa ra khỏi nhà lửa, nương vào nơi khác, đắc hẳn quả Niết-bàn thì gọi là ra khỏi cửa, không đồng như ở kia.

Hỏi: Vì sao nói hai người con đi xe trâu, xe hươu, dê thì gọi là ra khỏi nhà lửa. Còn con lớn đi xe trâu tức Bồ-tát đi xe ngưu thì chưa ra khỏi nhà lửa?

Đáp: Người Nhị thừa hoặc nghiệp đã dứt nên nói là ra khỏi nhà lửa. Bồ tát ở kiếp sơ thì hoặc vẫn còn thì sao gọi là ra khỏi. Lại quả thất địa phần đoạn đã hết một đời sanh trở lại đây cũng gọi là ra khỏi. Nhị thừa cũng đồng như vậy. Trở xuống, không phải vì còn sanh nhiều nên như hạng Hữu học. Vậy khi ra khỏi nhà lửa mới lên xe trâu. Nhưng trong văn kinh này, trong phần sơ khai nêu chung về pháp cao siêu đắc quả thanh tịnh. Ba phần sau thì biệt hiển nên lược không nói.

Kinh: “Xá-lợi-phất! cho đến xuất hiện ở đời” là phần kết.

Kinh: “Phật bảo Xá-lợi-phất cho đến thị ngộ chúng sanh”.

– Tán: Đây là giải thích phần trước, nói vì sao có ý này. Thân chúng sanh sẽ là có Phật tánh, cho nên việc giáo hóa chỉ là giáo hóa Bồ-tát. Những gì đã làm đều vì việc này, chỉ dùng tri kiến Phật để khai ngộ chúng sanh. Luận lần thứ hai giải thích ba phần: Thị, ngộ, nhập nói: Thị là vì hàng Bồ-tát có nghi nên khiến cho biết tu hành như thật… Nghĩa là có Bồ-tát nghi ngờ không có Phật tánh, nên không chịu tu hành. Nay Phật thị hiện để giáo hóa chúng Bồ-tát đó để các vị biết là trong Ba thừa đều có Phật tánh. Để dứt trừ nghi kia mà tu hành như thật.

Lại ngộ nhập đó là người chưa phát tâm Bồ-đề khiến cho họ phát tâm, đâu giải thích nghĩa ngộ. Người đã phát tâm khiến nhập vào pháp đạo. Đây là giải thích nghĩa nhập, nói nhân quả hết.

Lại giải thích ngộ nhập: Ngộ là khiến cho chúng sanh ngoại đạo giác ngộ, nhập là đắc quả Thanh văn nhập đại Bồ-đề, bỏ tà về chánh, bỏ quyền lấy thật.

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10