HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

SỐ 1723

QUYỂN 10

Sa-môn Khuy Cơ soạn tại chùa Đại Từ Ân

 

PHẦN ĐẦU

PHẨM TÙY HỶ CÔNG ĐỨC

Phẩm này chia làm ba môn:

1. Vì sao có phẩm này. 2. Giải thích tên phẩm. 3. Giải đáp nạn vấn.

I. Vì sao có phẩm này có ba:

1. Bảy phẩm trong học hạnh lưu thông, sáu phẩm sau nói người năng hành, chia làm bốn, phần từ đây trở xuống hai phẩm là phần thứ ba nêu rõ bên tu hành và chánh y hành công đức nhiều ít. Phẩm này nói phước bên tu hành, cho nên có phẩm này.

2. Quả Nhất thừa, hai phẩm trên nói quả đã mãn, từ đây trở xuống ba phẩm nói quả chưa mãn chia làm hai, phẩm này nói bên tu tùy hỷ phước quả nhiều ít, sau hai phẩm nêu rõ chánh y hành phước quả nhiều ít cho nên có phẩm này.

3. Luận nói pháp lực có năm, trước đã nêu rõ ba đây là thứ tư nghe pháp, chỉ như phẩm tùy Hỷ công đức nói, do từ người khác nghe năng sanh tùy hỷ nên gọi là nghe pháp, phẩm này nói rộng điều đó nên có phẩm này.

II. Giải thích tên phẩm: Tùy là thuận theo, hỷ là xứng hợp ưa thích, thân tâm thuận theo sanh lòng ưa thích, lấy đây làm nhân sanh quả công đức. Phẩm này nói rộng nên đặt tên phẩm. Tùy chỗ nghe tư duy tu tập đều sanh tâm vui mừng. Luận kinh từ đầu chỉ nói nghe (văn).

III. Giải đáp vấn nạn: Phẩm này không những tự sanh tùy hỷ mà còn khuyên dạy người khác, vì sao không gọi phẩm là khuyến nhân? Đáp: Từ gốc đặt tên nhân tự tùy hỷ mới khuyên người, lại cả hai đều thuộc về tùy hỷ nên hợp đặt tên.

-Kinh: “Lúc bấy giờ ngài Di-lặc cho đến lại được bao nhiều phước”.

-Tán: Phẩm văn chia làm hai:

  1. Di-lặc thỉnh.
  2. Thế tôn đáp.

Di-lặc thỉnh có hai: Văn xuôi và kệ.

-Kinh: “Khi đó Đức Phật bảo cho đến ông phải lóng nghe”.

-Tán: Dưới Thế tôn đáp chia làm ba: Trước so sánh để hỏi, tiếp Di-lặc đáp, sau Phật bảo thành. Văn đầu lại chia ba: Trước nêu năng tùy hỷ, tiếp nêu cảnh so sánh, sau “Ý ông nghĩ sao cho đến” chánh lấy làm hỏi: Văn đầu có hai: Trước nêu người đầu tiên tùy hỷ, sau chỉ so sánh người sau cùng tùy hỷ. Văn đầu lại có ba: Trước nêu người đầu tiếp nêu chỗ đến, sau nêu xoay chuyển dần.

-Kinh: “Nếu bốn trăm muôn ức cho đến đủ tám mươi năm rồi”.

-Tán: Cảnh so sánh trong đây có bốn:

  1. Số loại chúng sanh.
  2. Vật cụ bố thí.
  3. Số tuổi.
  4. Đắc đạo.

Đây là đầu và ba.

Chúng sanh loại có hai:

  1. Biệt nêu ra năm loại:
    1. Lục thú.
    2. Bốn loài sanh.
    3. Hình loại.
    4. Tưởng khác.
    5. Chân khác.

Những nghĩa này như nói ở chương khác. Vàng Diêm-phù-đề là tên cây Thiệm-bộ, cây mọc ở mé châu Bắc này gần cây có nước bên dưới đáy có vàng tử kim, ánh sáng chiếu che phủ mặt trời mặt trăng cho nên lấy làm tên.

2. “Kết Như vậy v.v…”.

-Kinh: “Mà nghĩ rằng cho đến đủ tám món giải thoát.

-Tán: Đây khiến đắc đạo có hai: Trước khởi niệm, sau giáo hóa dẫn dắt.

-Kinh: “Ý ông nghĩ sao cho đến có nhiều chẳng?”.

-Tán: Đây chánh làm câu hỏi.

-Kinh: “Di-lặc bạch Phật cho đến quả A-la-hán”.

-Tán: Đây là Di-lặc đáp, quả thế gian đã nhiều huống chi khiến đắc Thánh quả.

-Kinh: “Phật bảo Di-lặc cho đến không thể biết được”.

-Tán: Dưới Phật bảo thành có hai: Trước thành thứ năm mươi sau thành người thứ nhất. Đây là phần đầu. Tùy hỷ một niệm sẽ đắc Bồ-đề, giáo hóa chúng sanh gấp bội số trên cho nên phước rất nhiều; khiến đắc quả A-la-hán không thể thành Phật rộng độ chúng sanh cho nên phước kém, như so sánh tiếng phạm âm Phật.

-Kinh: “A-dật-đa… không thể sánh được”.

-Tán: Dưới thành người thứ nhất. Văn chia làm năm:

  1. Nói chung người đầu tùy hỷ công đức hơn trước, không sánh bằng.
  2. Quả đến nghe tùy hỷ.
  3. Khuyên nghe phân chia tòa đắc quả tùy hỷ.
  4. Thọ giáo đến nghe đắc quả tùy hỷ.
  5. Nêu kém thành thắng hơn. Đây là phần đầu.

-Kinh: “Lại A-dật-đa cho đến hoặc chỗ ngồi của Vua Thánh Chuyển Luân”.

-Tán: Đây thứ hai lắng nghe được quả tùy hỷ, thứ ba khuyên lắng nghe được quả tùy hỷ. Cũng đắc lục thông tòa báu Kim Cương, đây căn cứ quả thế gian chẳng phải ra đời gian. Bệnh được nằm nghe. Đây căn cứ chẳng phải bệnh, chỗ rộng chỉ khuyên ngồi, chỗ hẹp chia tọa khuyên ngồi.

-Kinh: “A-dật-đa cho đến cùng sanh một chỗ”.

-Tán: Dưới thứ tư thọ giáo đến nghe đắc quả tùy hỷ có ba: Trước nói được bạn lành tốt, kế nêu phước tuệ trang nghiêm, sau thấy Phật nghe pháp. Đây là phần đầu, được bạn giải thích pháp, tức là bạn lành.

-Kinh: “Căn tánh lanh lợi trí tuệ cho đến không có các tướng đáng chê”.

-Tán: Phước tuệ trang nghiêm lợi căn trí tuệ, ngoài ra đều là phước. Trong phước có năm:

  1. Tướng tiếng.
  2. Tướng miệng.
  3. Tướng mũi.
  4.  Tướng mặt.
  5. Các tướng.

“Trăm ngàn muôn đời cho đến” các quả. Tướng miệng có năm:

  1. Khí.
  2. Lưỡi.
  3. Chân răng cho đến không bệnh.
  4. Răng không có sáu điều xấu.
  5. Môi không có mười điều xấu, không bị rút túm chẳng ngắn, chẳng thô rít có mềm trơn, không ghẻ mục là ghẻ trên môi, miệng không dày không nám đen.

-Kinh: “Mũi chẳng xẹp lép cho đến không có các tướng chẳng đáng ưa”.

-Tán: Đây là tướng mũi mặt không bị lõm gãy.

-Kinh: “Môi lưỡi răng nướu cho đến tướng người đầy đủ”.

-Tán: Đây nói các tướng có sáu.

-Kinh: “Đời đời sanh ra thấy Phật cho đến tin nhận lời dạy bảo”.

-Tán: Đây nói thấy Phật nghe pháp.

-Kinh: “A-dật-đa cho đến đúng như lời dạy mà tu hành”.

-Tán: Thứ năm nêu kém thành hơn.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến không thể thí dụ được”.

-Tán: Dưới mười tám hàng kệ tụng chia làm hai: tám hàng đầu tụng bên tùy hỷ, mười hàng sau tụng chánh tùy hỷ. Đây là phần đầu có ba: hai hàng tụng nêu tùy hỷ, tiếp năm hàng tụng so sánh, sau một hàng tụng kết thành.

-Kinh: “Xoay vần nghe như thế cho đến thường từ trong miệng ra”.

-Tán: Dưới mười hàng tụng chánh tùy hỷ chia làm năm, đây có hai: Một hàng tụng nói chung người đầu tùy hỷ, năm hàng tụng thọ giáo đến nghe tùy hỷ.

-Kinh: “Nếu cố đến tăng phường cho đến phước đó chẳng lường được”.

-Tán: Đây có ba: hai hàng tụng lắng nghe tùy hỷ, một hàng tụng khuyến lắng nghe chia chỗ ngồi tùy hỷ, một hàng cuối tụng nêu kém thành hơn.

 

PHẨM PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC

Phẩm này chia thành ba môn:

Vì sao có phẩm này. 2. Giải thích tên phẩm. 3. Giải đáp các vấn nạn.

I. Vì sao có ba:

1/ Sáu phẩm nêu người năng hành, trong đó trước nêu phước của người bên năng tu hành, chưa nêu phước pháp Sư chánh năng hành. Nay chính nêu cho nên có phẩm này.

2/ Dưới hai phẩm nêu rõ chánh y hành phước quả nhiều ít. Trong đây phẩm đầu nói chung đắc nhiều ít, phẩm sau dẫn đã chứng thành đắc cho nên có phẩm này.

3/ Luận giải pháp lực có năm: thứ năm đọc tụng trì nói hạng Bồtát Thường Tinh tấn thị hiện, phẩm này Phật bảo Thường Tinh Tấn cho đến công đức của người trì nói cho đến nên có phẩm này.

II. Giải thích tên phẩm: Y pháp tu hành đáng làm khuôn phép nên gọi là Pháp Sư, chỉ người năng hành chẳng phải pháp sở hành, phẩm này nêu rõ công đức pháp Sư cho nên gọi là phẩm Pháp Sư công đức.

III. Giải đáp các vấn nạn: Hỏi: Vì sao phẩm Pháp Sư trước Đức Phật bảo Dược vương, phẩm Hiện bảo tháp, Thiên Thọ bảo các Bồ-tát và trời người bốn chúng, phẩm An lạc Hạnh bảo riêng Văn-thù, phẩm Như-lai Tuổi thọ, Phân biệt công đức, Tùy hỷ công đức bảo riêng Dilặc, phẩm Pháp Sư công đức lại bảo riêng Thường Tinh Tấn, mà không bảo các vị khác?

Đáp: Phẩm Pháp Sư nêu rõ nhân pháp hai Sư, phẩm Dược vương quá khứ không tiếc thân mạng để mở rộng kinh này, dùng pháp làm thầy thân làm pháp Sư, vì vậy nên bảo riêng, Bảo tháp pháp chứng, Thiên Thọ nhân chứng khuyên bày mọi người, là bảo chung. Phẩm An lạc hạnh nói lìa thương tổn ba nghiệp hành thiện, Văn-thù thường khuyên tu hành phần nhiều làm bạn lành của vì chúng sanh, tự mình cũng lấy hạnh làm đầu nên bảo riêng Văn-thù. Phẩm Tuổi thọ nêu rõ tam Phật Bồ-đề, phẩm Phân biệt công đức nêu rõ đạo chứng tiến dần, phẩm tùy Hỷ công đức so sánh khuyên bày mong cầu Quả Phật, tự mình địa vị chẳng ngang bằng chánh giác trí dần lên đại thánh, do đâu biết chân thật hóa mầu nhiệm sâu xa quán sát viên chứng đạo đức cho nên ba phẩm này bảo riêng Di-lặc, một phẩm này cũng hợp bảo lấy Thường Tinh tấn đặt tên danh hạnh phù hợp nên chỉ bảo riêng. Thật hành hạnh mầu của năm thứ Pháp Sư đạt được sáu ngàn thắng đức, chẳng phải tự mình hành tu thành trọn kiếp, cũng chẳng phải thường tinh tấn mà không thể chứng. Há do biếng nhác buông lung mà được thành! Vì vậy bảo riêng Bồ-tát Thường Tinh Tấn.

-Kinh: “Lúc bấy giờ Đức Phật bảo cho đến hoặc biên chép”.

-Tán: Văn chia làm ba: 1. Bảo tu hành Pháp Sư sai khác, kế hiển sở đắc công đức nhiều ít, sau hiển quả dụng thù thắng của sáu căn. Đây là phần đầu. Căn cứ thật pháp Sư tổng có mười hạng, đây nói lược năm: 1. Trì. 2. Đọc. 3. Tụng. . Nói. . Viết chép. Ngoài ra cúng dường, thí cho người, lắng nghe, tư duy, tu tập, cũng đều là Pháp Sư. Ba hạng đầu dễ nên không luận, hai hạng sau cùng khó nên không nói. Năm hạng giữa khó, dễ nên nói.

-Kinh: “Người ấy sẽ được cho đến đều được thanh tịnh”

-Tán: Đây là nói lên sở đắc công đức nhiều ít. Trước biện rõ sau kết. Xưa có hai giải thích:

1. Nói thập thiện làm gốc, một thiện đều có chín thiện trợ giúp thành, đều thành mười hạnh, mười hạnh đều có tự tác, giáo tha, khen ngợi pháp thù thắng và khen ngợi người hành thập thiện, hợp thành bốn trăm. bốn thứ này đều có thượng trung hạ tu hợp thành một ngàn hai trăm. Nhĩ, thiệt, ý ba thứ: Lắng nghe, đàm nói, tâm đắc pháp nghĩa, lực tu hành thù thắng đầy đủ ba phẩm đều có một ngàn hai trăm. Còn ba căn kia kém đều không có thượng phẩm nên chỉ có tám trăm. Nếu y thập thiện làm đầu tu thành đức này, các kinh khác cũng vậy, công đức sáu căn cũng nên như vậy đâu chỉ riêng kinh này.

2. Nói lục căn đều có một ngàn phước, mỗi phước đều dùng mười thiện trang nghiêm, hợp thành một ngàn cùng với sáu căn hợp đây tổng có sáu ngàn, ba căn thù thắng hơn nên tăng được hai trăm, ba căn yếu nên đều giảm hai trăm. Xưa giải thích dẫn chánh Pháp Hoa và luận Trang Nghiêm sáu phẩm đều có một ngàn thì ba thứ nhãn, tỷ, thân đều cùng hai trăm thì số đó giải thích thế nào? Lại nói hai trăm phước: Là quả từ nhân Thập thiện cảm, nay lấy nhân trợ giúp mà chưa thấy lý do.

Nay chánh giải: Trong luận này chỉ nói ba căn đều là một ngàn hai trăm, còn lại ba thứ đều có tám trăm không được đem luận Trang nghiêm sánh giống kinh này. Lại chưa xét kỹ hai văn kia nay tạm làm bốn giải thích:

Ở trong kinh này tu mười hành pháp: 1. Viết chép. 2. Cúng dường. 3. Thí cho người khác. 4. Lắng nghe. 5. Đọc tụng. 6. Thọ trì. 7. Khai diễn. 8. Phúng tụng. 9. Tư duy. 10. Tu tập. Trong mười thứ này mỗi mỗi tương tợ nhau chuyển thành một trăm hành. một trăm hành đều có bốn, tự tác, giáo tha, khen khuyên, vui an ổn, hợp thành bốn trăm, mỗi trăm có ba phẩm mà tu tập thành một ngàn hai trăm, ba căn thù thắng đầy đủ một ngàn hai trăm, ba căn yếu kém nên không có thượng phẩm đều chỉ tám trăm.

Nhân mười hành pháp trong kinh này, mỗi mỗi đều dùng mười thiện trợ giúp nhau như vậy mười lần mười thành một trăm, tự tác, giáo tha, khen khuyên, vui an ủi hợp thành bốn trăm, ba phẩm tu tập nhân thành một ngàn hai trăm ba căn hơn kém, tăng, giảm giống như trước nói. Kinh này vì thắng diệu nên thành công đức khác không như vậy cho nên không có đức đây, các kinh khác không như vậy cho nên không có đức đây. Văn này lược nên nói năm hạng pháp Sư, sự thật có mười: Mỗi mỗi làm đầu, hành vi ác còn lại trợ giúp thành đều thâu hoạch đức. Lại y kinh này lục căn đều chỉ nói năm pháp Sư chẳng phải mười hạng, nay có hai giải thích:

1/ Nói năm vị Pháp Sư đây mỗi một vị gồm tu mười thiện tức thành năm mươi hợp với tự tác, giáo tha khen khuyên, vui an ủi, tức thành hai trăm, mỗi mỗi căn môn tuy đều là hai trăm mà nhãn, tỷ, thân kém đều có ba căn nhĩ, thiệt, ý này trợ giúp vì tự loại không giúp nhau nên căn bản thành tám trăm, nhĩ thiệt ý hơn vì năng dẫn ba căn trợ giúp, cho nên nhĩ thiệt ý thành một ngàn hai trăm.

2/ Nói chưa thấy văn nói không thể hư bói: Kinh nói: Do công đức ấy trang nghiêm lục căn đều khiến thanh tịnh. Luận chép: Các phàm phu nhờ lực kinh mà được căn dụng thù thắng chưa nhập vị sơ địa. Như Kinh nói dùng mắt thịt do cha mẹ sanh ra, thấy nơi tam thiên đại thiên thế giới như vậy cho đến cho nên có giải thích ở Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, chẳng phải như thập tín lực còn yếu. Nay giải thích chỉ ở tứ gốc lành, dùng mắt thịt kia thấy đại thiên, ở phần vị giải thoát chưa thể như vậy. Phần vị giải thoát thấy hóa Phật ở một châu. Quyết trạch phần vị thấy hóa Phật ở đại thiên. Tức như Kinh nói: Tam thiên đại thiên một cảnh hóa Phật. Cho nên biết Quyết trạch phần mới thấy đại thiên giới. Nếu không vậy thì một cảnh hóa Phật nói phần vị nào thấy? Luận chép: Lại lục căn thanh tịnh ở trong mỗi một căn thảy đều đầy đủ thấy sắc, nghe tiếng, biết hương vị xúc cho đến các căn xử dụng lẫn nhau. Mắt thấy là nghe hương có thể biết. Như Kinh nói Thích-đềhoàn-nhân ở trên thắng điện ngồi ở trên điện này vui đùa ngũ dục, như sắc đáng lẻ mắt thấy mà mũi có thể biết được, cho đến nói pháp nghe hương đều biết, đây là cảnh trí mà tỷ căn biết. Nói pháp lẻ ra trí biết mà tỷ căn biết, đây có hai nghĩa:

a) Các căn dùng lẫn nhau chỉ tại ở Thập địa. Duy Thức cho đến nói: Đắc vị tự tại các căn dùng lẫn nhau, một căn phát thức duyên tất cả cảnh, cho nên chẳng phải địa tiền có thể gọi là tự tại các căn dùng lẫn nhau. Trước kia nói thấy nghe đại thiên là chung cả Địa tiền vị, Sơ địa trở lên thấy trăm thế giới, không phải chỉ có Tam thiên. Lại sơ địa trở lên rộng thấy một trăm Tam thiên đại thiên, căn cứ một cảnh hóa Phật tạm nói thấy đại thiên đối lý không sai.

b) Các căn dùng lẫn nhau đắc đại tự tại chỉ ở Thập địa đó là Duy Thức nói. Nếu năng lực gia hạnh phần cũng được, Địa tiền cũng được. Cho nên luận này đây nói địa tiền được thì nói ở, phàm phu vị. Nếu chung nói dùng lẫn nhau như văn dưới thì phàm phu trước đắc các công đức trước, nay sơ địa trở lên các căn dùng lẫn nhau cho nên chẳng phải Địa tiền mà các căn được xử dụng hổ tương lẫn nhau .

-Kinh: “Người thiện nam cho đến thảy đều thấy biết”.

-Tán: Dưới đoạn thứ ba biệt hiển tác dụng thù thắng của sáu căn.

Trước nói về mặt văn xuôi có ba:

  1. “Mắt thịt chẳng thông v.v…” đều y theo đây mà biết.
  2. Sở kiến xa gần.
  3. Thấy nghiệp báo.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến sức mắt thịt như thế”.

-Tán: Đây có năm hàng tụng chia làm bốn: Một hàng bảo lắng nghe, hai hàng nói gần xa, một hàng nó số, một hàng nêu chúng sanh và kết. Giáo Tiểu thừa nói Nhị thừa mắt trời thấy đại thiên, nay nói lực trì kinh, mắt phàm phu thấy đại thiên, sơ địa Bồ-tát thấy một trăm đại thiên thế giới, công đức của sáu căn nhiều ít khác nhau, mà sở đắc cảnh giới đại thiên không sai khác, tu nhân hơn kém quả đức khác nhau, thức dụng không sai đại thiên đều đồng. Lại đức là bên trong thành do nhân thêm bớt, cảnh là một hóa ngoài chấp lượng đồng, chỉ như Nhị thừa bên chấp liền có hai ngàn ba ngàn, túc mạng mắt trời biết quá vị đều thành tám muôn. Lại như sơ địa mắt trời thấy trăm đại thiên, hơn Nhị thừa. Túc mạng sanh tử chỉ biết trăm kiếp kém thua Nhị thừa cho đến không thể theo lệ chắc chắn.

-Kinh: “Lại nữa Thường Tinh Tấn cho đến mà không hoại nhĩ căn”.

Tán: Nhĩ căn, văn xuôi có bốn:

  1. Đức lượng.
  2. Cảnh lượng.
  3. Nghe sai khác.
  4. Kết nghĩa thù thắng.

Sai khác có bảy loại: 1. Mười hai âm thanh, tạp, 2. mười hai âm thanh tức sáu cặp đối, 3. Tiếng tam tai, 4. ba tiếng đường ác, 5. tám âm thanh Bát bộ, 6. hai âm thanh xuất gia, 7. Tiếng bốn Thánh nhân. Bồtát Địa nói: Thắng giải hành vị, vì là Bồ-tát Tu-lâu, không linh nghiệm, dùng chú thuật đều linh nghiệm, lục căn thanh tịnh ắt tại Địa tiền trên vị phàm phu, chẳng phải hạ trung.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến cả tiếng cõi tam thiên”.

-Tán: Đây có mười tám hàng kệ chia làm ba: một hàng nêu, tiếp mười bốn hàng tụng trên, sau ba hàng kết thắng. Đây là phần đầu.

-Kinh: “Tiếng voi ngựa trâu xe cho đến nghe đều hiểu rõ được”.

-Tán: Tụng trên có mười bốn hàng chia làm bốn: Đầu tám hàng tụng tiếng cõi Dục, tiếp một hàng rưỡi tụng tiếng cõi Sắc, tiếp một rưỡi tụng tiếng người xuất gia, sau ba hàng tụng tiếng Hiền Thánh. Trong mười phương thế giới âm thanh loài cầm thú, là căn cứ mười phương tứ thiên hạ thế giới trong một cõi Tam thiên chẳng phải số đại thiên giới làm mười phương. Lại đắc tam thiên là tai phàm phu, đây là Thập địa cho đến Phật vị cho nên đắc mười phương cũng không trái nhau.

-Kinh: “Cõi Tam thiên đại thiên cho đến công đức đã như vậy”.

-Tán: Đây là kết thúc nghĩa cao siêu.

-Kinh: “Lại Thường Tinh Tấn cho đến các thứ mùi”.

-Tán: Nói về Tỷ căn. Văn xuôi có bốn, trong đây có hai: Đức lượng và cảnh lượng, trên dưới đã xa làm sao có thể biết! Nếu căn xa biết không đến lấy thì hoại căn không hoại cảnh, nếu đến năng lấy đâu phải tất cả hương đều đến nơi căn ư! Luận nói đây là trí cảnh tỷ căn biết. Định trí xa biết nương theo tỷ căn thọ nhận nên gọi là nghe hương, chẳng phải tỷ thật năng lìa mà thọ nhận cảnh lại các căn dùng lẫn nhau tỷ còn thấy sắc, huống chi y trí nhãn nhĩ không nhận được hương đại thiên ư! Được mùi tương tợ, chẳng phải được thể thật, chấp nhận lìa căn mà nhận thì tánh cảnh thể hoại.

-Kinh: “Mùi bông Tu-mạn-na cho đến ghi nhớ không lầm”.

-Tán: Trong đây có hai: Thứ ba sai khác và thứ tư kết thành. “Tuy nghe mùi này cho đến” là sai khác có hai: Phàm và Thánh. Trong phàm lại có hai: Trước cõi Dục, sau cõi Sắc. Lục giới lại có hai: Trước phi thiên sau thiên. Phi thiên có hai: 1. Cảnh vật. 2. Sanh thân. Thiên cũng có hai: Cảnh vật và thân các vị trời. Cõi Sắc làm sao có hương, đây thông quả hương chẳng phải nghiệp quả. Kinh Hoa Nghiêm nói: Tỷ căn Bồ-tát nghe hương cung điện Cõi Vô sắc, đây căn cứ y hình thông lực biến ra, kia căn cứ tợ hình định lực biến ra cho nên không trái nhau. Nhưng Du-già nói: Thắng định quả sắc phải biết chỉ có các tướng hiển sắc, do mùi hương kia sanh nhân thiếu khuyết. Lại vô dụng ấy là nương gá cõi Sắc làm bổn chất của định, biến định cảnh tức không có hương vị, y cảnh dục có. Lại gia hạnh tâm kém sanh nhân thiếu sót không có, nhân mạnh thì có, Bồ-tát có Nhị thừa không có, Thánh nhân có phàm phu không có, đệ tử Phật có, ngoại đạo không có vì yếu kém. Nhưng Du-già nói: Thắng định quả sắc đối tất cả sắc đều được tự tại, cho nên biết định quả thông biến tất cả.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến trước đắc tướng tỷ này”.

-Tán: Đây ba mươi hàng tụng chia làm ba: một hàng đầu là nêu, kế hai mươi tám hàng tụng trên, sau một hàng tụng kết. Hai mươi tám hàng tụng trên chia làm hai: Hai mươi ba hàng tụng mùi phàm, sau năm hàng tụng mùi Thánh. Phàm lại có hai: hai mươi mốt hàng tụng mùi Cõi Dục, sau hai hàng tụng mùi cõi Sắc. Mùi Cõi Dục chia làm hai: bảy hàng lược nêu mùi trời người, sau mười bốn hàng rộng nêu mùi trời người. bảy hàng đầu lại có hai: năm hàng lược tụng cảnh vật trong loài người và mùi chúng sanh, sau hai hàng lược tụng chúng sanh trong cảnh trời và mùi cảnh vật. mười bốn hàng rộng tụng các mùi chia làm hai: chín hàng tụng mùi trong loài người, năm hàng sau tụng mùi trong loài trời. Mùi trong loài người có ba: hai hàng đầu tụng mùi cảnh vật, tiếp năm hàng tụng mùi chúng sanh, sau hai hàng tụng mùi ẩn dấu. Trong năm hàng tụng mùi chúng sanh. Hai hàng đầu tụng mùi hiện sanh, sau ba hàng tụng mùi ẩn sanh. Trong năm hàng tụng mùi ở cõi trời chia làm bốn: một hàng Hoa hai hàng cung điện, một hàng tụng trời, một hàng tụng hý. Trong năm hàng tụng Thánh chia làm bốn: hai hàng tụng Tỳkheo, một hàng tụng Bồ-tát, một hàng tụng Phật, một hàng tụng chúng sanh.

-Kinh: “Lại Thường Tinh Tấn cho đến không món nào chẳng ngon”.

-Tán: Nói về căn lưỡi. Văn xuôi có ba:

  1. Đức lượng.
  2. Căn dụng.
  3. Công dụng đầy đủ lưỡi.

Đây là hai phần đầu, đây không có cảnh lượng, vì sao khác nhau tỷ căn mà có thể biết tam thiên? Đã không năng biết làm sao công đức thành một ngàn hai trăm! Thiệt căn cũng được nếm vị tam thiên giới, chỉ vì tụng văn nói công dụng đầy đủ lưỡi, âm thanh trùm khắp đại thiên cho nên không nói nếm vị, hương lìa chất mà có thể có, vị lìa chất mà lại không, cho nên không nói đắc vị tam thiên giới. Trong kinh cũng nói Phật có tỷ thiệt thông quá mắt tai.

-Kinh: “Nếu dùng thiệt căn cho đến tiếng pháp sâu mầu”.

-Tán: Công dụng đầy đủ lưỡi chia làm năm:

    1. Khéo nói pháp.
    2. Nhiều chúng đến nghe.
    3. Được cúng dường.
    4. Thân gần Hiền Thánh.
    5. Ủng hộ nói pháp.

Nhiều chúng đến nghe có ba: 1. Trời. 2. Rồng v.v… 3. Bốn chúng đến nghe.

-Kinh: “Khi đó Đức Thế tôn cho đến hoặc lúc vì hiện thân”.

-Tán: Dưới tám hàng rưỡi tụng chia làm hai: một hàng tụng thiệt căn dụng, bảy hàng rưỡi tụng cụ dụng đầy đủ của lưỡi. Đây chia làm bốn: một hàng rưỡi tụng khéo nói pháp, ba hàng tụng chúng đến nghe, một hàng tụng cúng dường, hai hàng tụng thánh hiền che chở.

-Kinh: “Lãi nữa Thường Tinh Tấn cho đến hiện sắc tượng ở trong thân”.

-Tán: Nói về thân căn. Văn xuôi có bốn:

    1. Đức lượng.
    2. Hỷ lượng.
    3. Cảnh lượng.
    4. Sai khác.

Sai khác có ba: 1. Khí thế giới. 2. Thượng hạ. 3. Hiền thánh.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến tất cả hiện trong đó”.

-Tán: bảy hàng rưỡi tụng chia làm năm: một hàng tụng ưa thấy, một hàng rưỡi tụng riêng thấy, một hàng rưỡi tụng cảnh lượng, hai hàng rưỡi hàng tụng sai khác, sau một hàng tụng kết nghĩa thù thắng. Sai khác có hai: Một hàng rưỡi tụng cảnh, một hàng tụng Hiền Thánh.

-Kinh: “Lại nữa Thường Tinh Tấn cho đến Đức Phật nói trong kinh”.

-Tán: Nói về ý căn. Văn truyền hàng có bảy:

    1. Đức lượng.
    2. Xa rộng.
    3. Vô cùng.
    4. Thuận lý.
    5. Cảnh lượng.
    6. Hiển thắng.
    7. Chân thật.

Trong vô cùng nói một tháng bốn tháng cho đến lại nêu thời gian tháng, các cảnh giới sở thủ, sở hành của tâm sai khác, các hành tướng tam tánh động tác tâm sở, tâm sở hý luận ngôn nói phân biệt các pháp tánh, hoặc thân ngữ ý như thứ lớp phối hợp.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến đồng thời thảy đều biết”.

-Tán: Dưới mười một hàng tụng chia làm năm, trong đây có ba: một hàng rưỡi đầu tụng xa rộng, nửa hàng tụng vô cùng, hai hàng tụng sai khác.

-Kinh: “Vô số Phật mười phương cho đến ở trong chúng không sợ”.

-Tán: Thứ tư, có bốn hàng tụng, tụng chân thật chia làm bốn: một hàng tụng năng trì, một hàng tụng không quên, một hàng tụng như nói, một hàng tụng không sợ.

-Kinh: “Người trì kinh Pháp Hoa cho đến bởi trì kinh Pháp Hoa”.

Tán: Thứ năm, có ba hàng tụng hiển thắng chia làm ba: một hàng tụng hiển thắng, một hàng tụng hỷ kính, một hàng tụng về khéo nói. Sợ văn rườm rà, phần lớn chọn lọc, phán xét, cùng với Văn xuôi biệt ứng đều phối hợp biết rõ.

 

PHẨM THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT

Phẩm này chia làm ba môn:

1. Vì sao có phẩm này. 2. Giải thích tên phẩm. 3. Giải đáp vấn nạn.

I. Vì sao có bốn:

1/ Người năng học hạnh tuy có sáu phẩm chia làm bốn đoạn, mà đây là thứ tư nêu rõ tự thân Phật ở nhân vị xưa hành an lạc hạnh, tu nhẫn nhục cho đến lưu thông kinh này, sẽ được an lạc, nay nói kinh này khuyến khích thời hội cho nên có phẩm này.

2/ Trong ba phẩm nêu rõ trong quả chưa mãn, trước nói hành đắc lục căn thanh tịnh chưa biết đắc thật là ai? Nay nói tự thân xưa hành hạnh kia đắc sáu căn thanh tịnh, để khuyến khích đương thời chúng hội cho nên có phẩm này.

3/ Muốn nói lên thực hành hạnh an lạc uy thế không gì sánh, ta làm Bất khinh thực hành hạnh an vui chúng sanh lúc bấy giờ làm tổn hại ta, ban đầu tuy chịu khổ, ngược lại do sức ta họ đều đắc Phật đạo, huống chi tự thân thực hành mà không thành Phật ư! Nay nói lý đây do lợi ích cho chúng hội đường thời nên có phẩm này.

4/ Luận nói trong sáu thứ thọ ký, ở đây nói đầy đủ về nhân Bồ-tát thọ ký cho có phẩm này.

II. Giải thích tên phẩm: Thường là hằng, Bất Khinh là cung kính, xem bốn chúng khác đầy đủ nhân Phật tánh, khuyên người khác tu hành sẽ được thành Phật, ba nghiệp thường cung kính nên gọi là Thường Bất Khinh.

III. Giải đáp vấn nạn: Hỏi: Vì sao phẩm này bảo riêng Đắc Đại Thế! Vì muốn hiển rõ oai thần của Kinh năng khiến thuận tu hành sau được thành Phật, người ác trái nghịch kinh cùng có thể mau bạt trừ khổ kia cho nên chỉ bảo Đắc Đại Thế mà không bảo các vị khác.

Hỏi: Phẩm này cũng nói Đức Phật Oai Âm vương vì sao chỉ đặt tên Bất Khinh ư?

Đáp: Đức Phật nhân Bất Khinh mà nói chứ chẳng phải chánh nêu.

-Kinh: “Lúc bấy giờ Đức Phật bảo cho đến Thân ý thanh tịnh”.

-Tán: Phẩm văn chia làm bốn:

  1. Trình bày trước trái thuận sanh tội phước để chỉ bày mọi người.
  2. Hiển bày riêng đối tướng người nói kinh trì kinh người trái thuận.
  3. Kết hợp xưa nay để chỉ bày tướng trái thuận của mọi người.
  4. Kết khuyên mọi người trừ trái hành thuận. Đây là phần đầu.

Tội như phẩm Thí dụ ở trước nói, công đức như thứ lớp phẩm trước.

-Kinh: “Đắc Đại Thế cho đến đều đồng một hiệu”.

-Tán: Thứ hai là hiển bày riêng đối với người nói kinh, người trái thuận có ba: Trước nêu thời gian. Kế nêu gặp Phật, sau hiển tướng trái thuận của người năng hành. Đây là hai phần đầu. Trong gặp Phật có hai:

  1. Sơ Phật.
  2. Hậu Phật.

Sơ Phật có sáu: a. Danh. b. Kiếp. c. Quốc. d. Nói pháp. e. Trú tuổi thọ. f. Niết-bàn. Chư Phật đồng tên Oai Âm Vương hiển nói Pháp Hoa âm thanh như vương tôn quí thù thắng, có uy lực lớn năng khiến chúng sanh đạt được lợi lạc, tức Thường sở đắc của Bất Khinh khi qua đời, Kinh Pháp Hoa này rộng làm lợi ích.

-Kinh: “Đức Phật Oai âm vương đầu hết cho đến có thế lực lớn”.

-Tán: Dưới hiển tướng người năng hành trái, thuận, trong đó có tám:

  1. Người ác thế lực mạnh lớn.
  2. Thiện sĩ thêm siêng năng.
  3. Nói năng thêm năng nhẫn.
  4. Thân hại năng nhẫn.
  5. Danh tốt đã sanh khởi.
  6. Thắng quả liền sanh.
  7. Người ác nghe theo sự giáo hóa.
  8. Thiện sĩ tăng đạo. Đây là phần đầu.

-Kinh: “Bấy giờ có vị Bồ-tát cho đến sẽ được thành Phật”.

-Tán: Thiện sĩ thêm siêng năng có ba:

  1. Nêu danh.
  2. Giải thích danh.
  3. Nói về hành.

“Mà vị Tỳ-kheo đó cho đến” Bồ-tát Tỳ-kheo hiển bày Bồ-tát mà chẳng phải Tỳ-kheo, hoặc Tỳ-kheo chẳng phải Bồ-tát, đều không phải hạnh này, đầu không thể quái lạ sau không thể phạm giới. Tôi rất kính quí ngài chẳng dám khinh mạn, là do có Bổn tánh Phật trú nơi chủng tánh, đây là kính báo thân Như-lai tạng, đều tu hành đạo Bồ-tát sẽ được thành Phật, là do có chủng tánh, hoặc khởi tập tánh phát tâm tu hành ắt sẽ thành Phật. Lại y pháp thân Như-lai tạng nên tất cả đều có “tôi rất kính ngài”. Nếu hành Bồ-tát đạo phát khởi tu tập báo thân Nhưlai tạng sẽ được thành Phật. Kinh Vô úy Đức Nữ nói: Bồ-tát vì độ các chúng sanh kiêu mạn sân não v.v… khiến họ sanh khởi tâm hồi hướng, lại vì gốc lành của chúng sanh nên Bồ-tát lễ bái chúng sanh.

Hỏi: Đây là phần đầu bốn chúng phàm gặp đều lễ bái, lễ bái Tỳkheo ni và người tại gia có phạm hay không?

Đáp: Tỳ-kheo Bồ-tát không làm lễ như vậy, lễ thì phạm nay làm lễ sở dĩ không phạm là do Bồ-tát đối với tánh tội thì trì, già tội thì phạm, khuyên lợi ích lớn. Nếu chỉ Tỳ-kheo chẳng phải Bồ-tát lễ thì phạm không lễ không phạm. Lại lễ bốn chúng mà không phạm, lễ riêng một vị thì thiếu sót. Lại kính Phật tánh chẳng lễ bái thân, đã không chuyên đọc tụng cũng không chuyên lễ bái bao gồm hai việc. Tỳ-kheo tân học lễ dưới chân Duy Ma, chưa có hiểu biết nên chẳng phải cựu học. Nhưng có chỗ giải thích Tỳ-kheo này không hành đọc tụng chỉ làm lễ bái, nếu vậy nên nói không đọc tụng kinh đâu dùng chữ chuyên, cho nên biết không chuyên đọc tụng cũng không chỉ hành lễ bái là ý ở đây.

-Kinh: “Trong bốn chúng cho đến ông sẽ thành Phật”.

-Tán: Lời nói thêm năng nhẫn, đầu nói thêm sau năng nhẫn.

-Kinh: “Lúc nói lời đó cho đến vì Thường Bất Khinh”.

-Tán: Thứ tư: Thân hại năng thọ, thứ năm, thiện danh đã sanh khởi, trên đây chính là vị Bốn mươi tâm.

-Kinh: “Vị Tỳ-kheo đó cho đến nói Kinh Pháp Hoa”.

Tán: Thứ sáu: Thắng quả liền sanh có ba:

  1. Nghe pháp năng trì.
  2. Sáu căn thanh tịnh.
  3. Tăng tuổi thọ nói pháp.

Nếu Thường Bất Khinh không trước ở trong đời tượng pháp đọc Kinh Pháp Hoa thì đâu được khi qua đời liền có nghe năng trì trước không tu nhân quả thì làm sao sanh khởi, đã trước từng lễ bái là vị bốn mươi tâm, nghe pháp căn tịnh địa vị tứ gốc lành, tăng tuổi thọ nên đắc đại thiện tịch dần dần thực hành lý quán quán chân lý.

-Kinh: “Lúc đó các vị tăng thượng mạn cho đến chánh đẳng chánh giác”.

-Tán: Thứ bảy:Người ác được hóa độ, có hai:

  1. Người ác theo hóa.
  2. Sở hóa chuyển nhiều.

Năng lực thần thông lực tăng thọ căn tịnh, nhạo nói biện lực nhớ kệ nói pháp năng lực, đại thiện tịch dần thành đế quán nghe pháp hiểu giải lý.

-Kinh: “Sau khi mạng chung cho đến tâm không sợ sệt”.

-Tán: Thứ tám: Thiện sĩ tăng đạo có năm, văn này có bốn:

  1. Gặp Phật nói pháp.
  2. Gặp Phật trì tụng – hai hạng này tại phàm vị tứ thập tâm, do như đây.
  3. Đắc lục căn thường tịnh, liền nhập sơ địa.
  4. Trừ năm sự sợ hãi đắc bốn vô úy, cho nên biết thường được sáu căn thanh tịnh.

Trong nhập sơ địa Bồ-tát đúng lý nên trú trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh. Thường gặp Phật chưa nhập Thập địa, không gặp Chư Phật như thuyền bị phá lủng, tự không thể vượt qua đâu có thể độ người. Như đổ ít nước nóng xuống ao lớn bị đóng tuyết lớn dù có tan chảy chút ít mà sau lại tích thành băng, phiền não chưa lìa không gặp Phật lợi sanh cũng vậy, cho nên tăng tự hành ắt sẽ gặp Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói trong Thập địa: Bồ-tát ấy đắc vui mừng địa, chỗ có sợ hãi ắt đều xa lìa, tức là: Sợ không sống, sợ danh tiếng xấu, sợ chết, sợ đọa đường ác, sợ uy đức đại chúng Vì sao? Bồ-tát ấy lìa ngã tướng nên không tham tiếc thân huống chi dụng vật cho nên Bồ-tát không sợ không sống. Tâm không hy vọng cung kính cúng dường, Ta nên cúng dường tất cả chúng sanh cung cấp vật cần dùng, vì vậy cho nên Bồ-tát không sợ tên xấu. Xa lìa ngã kiến không có ngã tướng cho nên không có sợ chết. Lại suy nghĩ rằng ta nếu chết rồi sanh sẽ thấy Chư Phật Bồ-tát cho nên không có sợ đọa đường ác, chí nguyện với ta không bằng huống chi có hơn vì vậy cho nên không sợ đại chúng uy đức.

Nếu y luận giải thích vô úy có hai: 1. Bồ-tát vô sở úy. 2. Phật vô sở úy. Phật vô sở úy là chánh đẳng giác đẳng, nay là Bồ-tát vô sở úy. Không sợ đầu là một vì chúng sanh nói pháp vô sở úy, tất cả người nghe năng trì đắc Đà-la-ni thường nhớ nghĩ không quên, ba không sợ sau đều gọi là ở trong đại chúng nói pháp vô sở úy. 1. Biết tất cả chúng sanh dục giải. Nhân duyên, các căn lợi độn tùy theo sự thích ứng mà vì nói pháp. 2. Không thấy mười phương có đến hỏi nạn vấn khiến ta không thể như pháp đáp, không thấy có chút ít tùy theo như vậy. 3. Tất cả chúng sanh nghe thọ vấn nạn, tùy ý như pháp khéo léo giải quyết đoán tất cả nghi, lìa năm sự sợ hãi trước được bốn món vô úy nhập sơ địa, sau nhập bát địa mới lìa nhân sợ hãi.

-Kinh: “Đắc Đại Thế cho đến sẽ được thành Phật”.

-Tán: Thứ năm duyên tu đạo mãn nhập các địa, sau lại được thấy Phật nói kinh điển này.

-Kinh: “Đắc Đại Thế cho đến chánh đẳng chánh giác”.

Tán: Dưới đoạn thứ ba kết hợp xưa nay để chỉ bày tướng trái thuận của mọi người chia làm hai: Đầu hội Bất Khinh, sau hội bốn chúng.

Đây là phần đầu có hai: Đầu hợp thân sau hợp pháp.

-Kinh: “Đắc Đại Thế cho đến đều bất lui sụt”.

-Tán: Đây hợp bốn chúng có ba: Trước hợp quả đầu tiên hành hành vi ác, sau hợp quả giữa đường theo hóa. “Hết tội đó rồi cho đến,” sau hợp chúng xưa nay.

Hỏi: Thiện hiện Thanh-văn còn trụ hạnh vô tránh muốn hộ chúng sanh mà làm lợi ích vì sao Bồ-tát mạnh thọ ký bốn chúng khiến kia đánh mắng chiêu cảm tội báo?

Đáp: Bồ-tát địa nói: Bồ-tát thường dùng sự an ổn giáo hóa chúng sanh, chẳng phải vui an ổn như thật biết, mà tùy lực phương tiện giáo khiến đoạn, trừ. Nếu đầu khổ sau vui an, thì kia tuy ưu phiền khổ não cũng vì làm lợi ích, tức là Bồ-tát y khéo léo phương tiện, hoặc đầu tuy vui mà sau không an, kia tuy khổ não cũng không muốn bỏ, dùng sức phương tiện làm cho dứt trừ.

Vì sao? Vì sau ắt vui. Nay Bất Khinh quán xét ban đầu tuy khổ sau lại giáo hóa dẫn dắt khiến nhập đạo. Cho nên đại thầy thuốc xem người bệnh nặng phải trước phát hiện bệnh sau mới cho thuốc khiến lành cũng như người bắt cá khéo nơm cá, người thợ săn khéo săn gấu, biết nhân sân có lợi ích nên làm cho gấu kia sân để độ, biết nhân tham có ích nên làm cho gấu tham mà độ. Như hóa dâm nữ phóng túng rồi sau độ, hàng Nhị thừa không thể vậy cho nên trú vô tránh hiện tuy trừ tránh mà không thể rốt ráo trừ, sự tránh của người một cách. Bồ-tát tự chứng vô tránh chân như dứt trừ nguồn gốc tránh kia, rốt ráo khiến cũng chứng chân lý vô tránh. Trước tuy khởi tránh sau khiến diệt tránh, đó là hành đại vô tránh, khác nhau Nhị thừa hiện tiểu vô tránh, nên không chướng ngại.

-Kinh: “Đắc Đại Thế cho đến biên chép kinh này”.

-Tán: Đoạn thứ tư kết khuyên mọi người bỏ trái hành thuận có hai: Lợi ích lớn, của kinh và khuyên lưu thông.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến mau thành Phật đạo”.

-Tán: Dưới có mười chín hàng rưỡi kệ tụng ba đoạn sau chia làm ba: mười hàng đầu tụng nói tướng trái thuận người nói kinh, kế ba hàng rưỡi kết hợp xưa nay để chỉ bày tướng mọi người trái thuận, sáu hàng sau tụng kết khuyên mọi người bỏ trái hành thuận. Đây là phần đầu có hai: một hàng rưỡi tụng gặp Phật, tám hàng rưỡi tụng hành trái thuận. Trong hành trái thuận chia làm năm: ba hàng tụng người ác mạnh thế lực, thiện sĩ tăng siêng năng, tiếp một hàng nói thêm năng nhẫn thân hại năng thọ, kế hai hàng tụng thắng quả liền sanh, tiếp một hàng tụng người ác được hóa độ, sau một hàng rưỡi sau tụng về thiện sĩ tăng đạo, không tụng thiện danh đã sanh khởi. Tội hết rồi: là ác mắng, gia hại càng nặng khiến nhẹ tội nghiệp trước.

-Kinh: “Thuở ấy Thường Bất Khinh cho đến nghe Kinh Pháp Hoa đó”.

-Tán: Kết hợp xưa nay chia làm hai: Nửa hàng hợp thân, ba hàng sau hợp chúng.

-Kinh: “Ta ở đời trước cho đến mau chứng thành Phật đạo”.

Tán: Kết khuyên mọi người bỏ trái hành thuận có bốn: hai hàng đầu tụng trước hóa các người, một hàng tụng kinh này khó nghe được, một hàng tụng kinh này ít hiềm khi nói, hai hàng tụng khuyên chớ sanh nghi.

 

PHẨM NHƯ-LAI THẦN LỰC

Phẩm này chia làm ba môn:

1. Vì sao có phẩm này. 2. Giải thích tên phẩm. 3. Giải đáp các vấn nạn.

I. Vì sao có ba:

1/ Trong ba lưu thông, dưới đây tám phẩm là phó thọ lưu thông, chỉ bày tướng phó chúc vâng mệnh hành, cho nên Thần lực, Chúc Lụy, Phó chúc khiến hành, sáu phẩm còn lại tuổi thọ lưu thông phó chúc chia làm hai:

2/ Thực hành thần thông khiến tin phó chúc.

3/ Dùng tay xoa đầu khiến hành phó chúc.

Nay đây là phần đầu, Phó chúc cho người khác sợ không sanh tín, cho nên tác thần thông phát ra ánh sáng cho đến chỉ bày khiến biết Thế tôn có thần thông rộng lớn, từ lâu không vọng ngữ, phát ra lời nói chắc thật khiến sanh tin hiểu mới dùng lời phó chúc, cho nên có phẩm này.

1. Y trong khoa thứ hai, trên một phẩm đầu là phần tựa, kế mười chín phẩm làm chánh tông xong, từ dưới còn tám phẩm thuộc phần lưu thông. Thần lực, Chúc Lụy, Khuyên tin, Phó trao, sáu phẩm sau vâng mạng lưu thông, thế đồng với trước, dưới không nói lại.

2. Luận nói năng lực tu hành có bảy, thứ hai nói lực có ba thứ pháp môn, trong phẩm thần lực thị hiện nói lên Đức Thế tôn có Thần lực này, năng nói pháp đều là thật không luống dối, khuyên bày chúng sanh nên có phẩm này.

II. Giải thích tên phẩm: Phân thân năng tịch đều gọi là Như-lai, diệu dụng vô phương gọi là thần, uy thế năng dẹp trừ gọi là lực. Phân thân đồng Phật đều hiện diệu dụng chẳng thể sánh bằng, uy thế năng trừ dẹp tà kiến không tin để khuyên sanh tin. Phẩm Như-lai Thần lực này rộng nêu rõ nên gọi là Như-lai Thần lực.

III. Giải đáp các vấn nạn: Hỏi: Các Bồ-tát từ đất vọt hiện, Phật từng hóa độ, đâu cần hiện thần thông tin sanh ư? Đáp: Dũng xuất tin từ lâu không cần thần thông, khuyến phát sơ cơ phải hiện thần lực. Lại tin có cạn sâu giao phó có ngặn nhẹ, nếu không hiện thần thông để trao, sợ sự trao còn nhẹ, nếu không lại khiến tin sâu thì kia tin còn cạn, pháp khó mà dễ hành cho nên hiện thần lực.

Hỏi: Vì sao kinh này phó chúc cần phải hiện thần lực, các kinh khác phó chúc không có việc này ư?

Đáp: Kinh này bí mật hội hai thừa về tông, các kinh khác không như vậy nên hiện thần lực.

-Kinh: “Bấy giờ các vị Bồ-tát trong ngàn thế giới cho đến mà cúng dường đó”.

-Tán: Phẩm văn chia làm hai: 1. Bồ-tát từ đất hiện lên thỉnh. 2. Như-lai giao phó.

Đây là phần đầu có hai: Nêu và giải thích. Chẳng những muốn cứu giúp người mà còn tự hành, vì thế thỉnh nên nói, không vậy cũng nói lại là vô dụng. Chân là chân thật, tịnh là ly nhiễm, đại pháp gọi là Nhất thừa thân cung kính, lời giảng nói, thuật tâm ba phen thỉnh.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến hiện đại thần lực”.

-Tán: Văn dưới có hai: Văn xuôi và kệ tụng. Trong Văn xuôi lại có hai: Trước hiện thần lực sau nói phó chúc. Văn đầu có bảy:

  1. Nêu hiện thần lực.
  2. Xuất tướng lưỡi phát ra ánh sáng.
  3. Tằng hắng búng ngón tay.
  4. Đất đều rung chuyển.
  5. Kia thấy qui y.
  6. Hiệp lọng thành trướng.
  7. Thế giới thông làm một.

Đây là phần đầu. Lược làm ba nghĩa cho nên hiện thần lực:

  1. Vì nói lên thắng đức của kinh để khuyên lưu thông, dưới văn xuôi nói Phật bảo Bồ-tát Thượng Hạnh cho đến.
  2. Vì vui chúng sanh khiến sanh tín, tức một hàng tụng đầu.
  3. Thấy các Bồ-tát phát nguyện lưu thông thuận tâm Chư Phật cho nên hiện thần lực, là tụng thứ tư.

-Kinh: “Xuất bày tướng lưỡi rộng dài cho đến phát ra vô lượng ánh sáng”.

-Tán: Dưới đoạn thứ hai, xuất tướng lưỡi phát ra ánh sáng có ba:

  1. Đức Thích-ca xuất tướng lưỡi phóng hào quan.
  2. Phân thân Phật xuất tướng phát ra ánh sáng.
  3. Nêu thời gian.

Đây là hai phần đầu.

Cổ đức tướng truyền có bảy thần lực:

  1. Xuất tướng lưỡi.
  2. Phát ra ánh sáng.
  3. Tắng hắng.
  4. Búng ngón tay.
  5. Đất rung chuyển.
  6. Hợp phướn lọng.
  7. Biến cõi.

Nay gia thêm thành tám, nghĩa là thị hiện, tức khiến phương khác xa thấy nơi đây. Trong sáu thông ban đầu là thần cảnh thông có hai: Năng biến và năng hóa. Năng hóa nghĩa là không mà bỗng nhiên có, nghĩa là hóa thân hóa ngữ hóa cảnh.

Năng biến nghĩa là chuyển đổi chất cũ xưa, đây gọi là mười tám biến:

  1. Sấm động, đất sáu thứ động cho đến
  2. Xí nhiên: Thân trên xuất nước dưới xuất lửa cho đến
  3. Lưu bố: Phát ra ánh sáng dần chiếu khắp xoay chuyển v.v…
  4. Thị hiện: Thị hiện các thứ sự vật của các thế giới phương khác đến v.v… khiến các chúng hội thẩy đều xa thấy
  5. Chuyển biến: Chuyển đất thành vàng, nước thành sữa cho đến
  6. Vãng lai: Ở tất cả mọi nơi chuyển thân qua lại tự tại không ngăn ngại.
  7. có vào.
  8. Duỗi ra. Có khả năng co lớn vào nhỏ, duỗi nhỏ thành lớn, nhét một hạt cải núi Tu-di, triển chuyển một sợi lông khắp nơi pháp giới v.v…
  9. Muôn tượng nhập thân, năng dùng các thế giới nhập vào trong sợi lỗ chân lông của thân cho đến
  10. Đồng loại cùng đến, ứng vật hiện hình vì nói diệu pháp, xong việc lại ẩn mất khiến không thấy biết.
  11. Hiển.
  12. Ẩn: Trong đại chúng ẩn mất tự thân lại khiến hiển hiện.
  13. Sở tác tự tại: Nghĩa là chuyển hữu tình khiến kia qua lại và tự thân cho đến nói năng im lặng, tất cả đều được tự tại.
  14. Chế ngự thần thông khác: Nghĩa là Phật, Nhị thừa, Bồ-tát Thánh phàm, theo thứ bậc dần đều năng chế hục các hiện thần thông ở vị dưới.
  15. Năng thí biện tài thí bảy, bốn biện tài.
  16. Năng thí ức niệm: Đối với pháp thất niệm năng thí ức niệm.
  17. Năng thí an lạc: Vì nói pháp cho đến cứu trừ nguy hiểm tật dịch tai hoạ, được các sự an lạc.
  18. Phát ra ánh sáng minh lớn: Năng phóng một luồng ánh sáng chiếu sáng vô lượng cõi nước làm sự lợi lớn.

Phẩm này có tám thần lực:

  1. Xuất tướng lưỡi là thứ tám duỗi ra.
  2. Phát ra ánh sáng là thứ mười tám phát ra ánh sáng rực rỡ.
  3. Tằng hắng đây tức năng hóa, không mà bỗng có cho nên chẳng phải mười tám biến; hoặc đây.
  4. Búng ngón tay là thứ mười ba sở tác tự lại.
  5. Đất động là thứ một rung chuyển,
  6. Khiến phương khác xa thấy là thứ tư thị hiện.
  7. Hợp phướn lọng là thứ bảy thu vào.

8. Thông làm một cõi là thứ năm chuyển biến, chuyển nhiều làm một, chuyển uế thành tịnh. Nay Phật xuất bày tướng lưỡi: Luận nói khiến nhớ nghĩ tin lời Phật nói. Như Phật vào thành Bà la khất thật không được, sau ra thành rồi gặp một người nữ cúng thí Đức Phật bát cháo gạo hẩm, Đức Phật liền thọ ký cho bà sẽ đắc quả, bấy giờ có Bà-la-môn sanh lòng không tin sâu, Đức Phật liền xuất bày tướng lưỡi chỉ cho họ mới tin Phật thọ ký không luống dối. Phàm lưỡi đến mũi đều còn không vọng ngữ huống chi lại che phủ cả mặt, như Kinh nói rộng. Đến trời Phạm Thế: Là có ngữ biểu, cõi trên nữa không có ngữ nên lại không đến trên. Phát ra ánh sáng: Là cảnh báo người có duyên phá trừ chỗ tối tăm si ám. Mỗi một lỗ chân lông: là tiêu biểu kinh này từ bi Nhất thừa bình đẳng nói lên đều đầy đủ. Vô số ánh sáng: Đầy đủ muôn đức, trùm khắp mười phương. Do Đa-bảo Phật đã chứng kinh xong, lại không hiện thông, chỉ hóa Phật thị hiện.

-Kinh: “Lúc Đức Phật Thích-ca cho đến hoàn nhiếp tướng lưới”.

-Tán: Đây nói về thời gian. Người ngu tâm mê cho là thời ít, người trí tình hiểu đủ trăm ngàn năm, chuyển đổi tâm kia khiến kia không biết, lại báo hóa lợi ích có sai khác, Thánh phàm thấy có sai khác. Lại Phật hiện thần lực thật sự cả trăm ngàn năm, mà thần lực khiến cho chúng sanh không biết, chỉ vì rút ngắn không kéo dài thời gian làm luận, chỉ nói Thế tôn tám mươi tuổi nhập diệt, lại chúng Thánh phàm nghe tuy đồng, mà trải qua thời gian chứng đạo được ngộ hoàn toàn sai khác tức cũng không trái nhau.

-Kinh: “Đồng thời tằng hắng cho đến đất đều sáu điệu vang động”.

-Tán: Đoạn thứ ba tằng hắng búng ngón tay, và đoạn thứ tư động đất. Luận chép: Tằng hắng là nói kệ khiến người nghe, đã nghe tiếng rồi tu hành như thật không buông lung. Luận nói búng ngón tay khiến người giác ngộ khiến người tu hành giác ngộ, tiến tu. Đất động: Là cảnh tỉnh chúng sanh trong mười phương chưa phát tâm khiến họ phát tâm cầu đạo.

-Kinh: “Chúng sanh trong đó cho đến Mâu-ni Phật”.

-Tán: Thứ năm, kia thấy qui y, có ba:

  1. Tự thân thấy sanh vui.
  2. Âm thanh giữa hư không dạy bảo.
  3. Y lời dạy kính lễ.

-Kinh: “Dùng các thứ hoa hương cho đến như một cõi Phật”.

-Tán: Thứ sáu, hợp phướn lọng thành màn trướng và thứ bảy, thế giới thông làm một. Trước rải hoa sau thành màn trướng. Tán: Hoa là nghe Kinh Pháp Hoa. Hợp thành phướn lọng: Là tam thừa đầu sai khác sau thành một, che chở tất cả chúng sanh thế giới này, thế giới thông làm một: Là tâm trí vô ngại tịnh độ không sai khác chỉ có Nhất thừa không có thừa nào khác. Trên tiêu biểu thứ tám thần lực khác nhau luận chỉ giải ba: là xuất tướng lưỡi, búng ngón tay, và tằng hắng, Kinh còn lại năm tướng mà chẳng thù thắng hơn nên không giải thích, ba thứ phần nhiều các kinh không theo nghĩa thú thắng giải thích. Lại ba thứ này chính là dụng phó chúc, do đó riêng giải thích, các thứ khác chung chẳng phải chánh nên không nói.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Phật bảo cho đến như lời nói mà tu hành”.

-Tán: Dưới nói phó chúc có năm, trong đây có bốn:

  1. Kết thúc thần lực vô lượng khó nghĩ bàn.
  2. Vì chúc Lụy nói đức khó cùng tận.
  3. Hiển bốn thứ đều là kinh này nói: 1) Đạo quyền thật. 2) Thần thông lực. 3) Lý tạng của Như-lai. 4) Trí tuệ sự sâu.
  4. Kết thành khuyến thọ.

-Kinh: “Ở cõi nước nào cho đến mà nhập Niết-bàn”.

-Tán: Thứ năm, khuyên tùy hỷ cúng dường. Trước nêu sau giải thích. Giải thích do bốn nghĩa cho nên phải cúng dường. Pháp thân diệu lý trong kinh này đầy đủ, nên chỗ tích chứa Đạo gọi là đạo tràng. Nơi chứng đắc Bồ-đề, nơi nói pháp, nơi Niết-bàn là gọi chung Đạo tràng.

Dưới là ba giải thích riêng.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến hiện vô lượng thần lực”.

-Tán: Dưới có mười sáu hàng tụng chia làm hai: bốn hàng đầU  tụng thần lực, mười hai hàng sau tụng phó chúc. bốn hàng đầu có ba: một hàng tụng nêu ý hiện, hai hàng tụng năm thần lực, một hàng tụng thuận tâm Phật.

*Kinh: “Vì chúc Lụy kinh này cho đến chẳng thể đặng ngằn mé”.

-Tán: Dưới mười hai hàng tụng chúc Lụy chia làm ba: hai hàng nêu vô cùng, tám hàng rưỡi riêng khen ngợi, một hàng rưỡi tụng kết khuyến. Đây là hai hàng đầu. Khen ngợi phước của người trì kinh để khuyên mọi người.

-Kinh: “Người hay trì Kinh này cho đến rốt ráo trú Nhất thừa”.

-Tán: Đây riêng khen ngợi chia làm năm: một hàng rưỡi tụng thấy Phật, hai hàng khen ngợi vui mừng, một hàng đắc pháp, một hàng rưỡi tụng năng giảng nói, hai hàng rưỡi tụng năng làm lợi ích. Nói nghĩa các pháp là nghĩa vô ngại, danh tự là pháp vô ngại. ngôn từ là từ vô ngại. nhạo nói là biện tài vô ngại. Tứ vô ngại đầy đủ như gió không gì ngăn ngại.

-Kinh: “Cho nên người có trí cho đến quyết định không có nghi”.

-Tán: Dưới kết khuyên.

 

PHẨM CHÚC LỤY

Phẩm này chia làm ba môn:

    1. Vì sao có phẩm này.
    2. Giải thích tên phẩm.
    3. Giải đáp các vấn nạn.

I. Vì sao có phẩm này có hai:

1/ Theo thứ tự phẩm kinh thời nay thì phó chúc có hai: Trên đã dùng thần lực khiến tín phó chúc, đây là dùng tay xoa đầu khiến hành phó chúc, cho nên có phẩm này.

2/ Y luận này phẩm này nói sau phẩm Phổ Hiền nói, cho nên luận nói hộ pháp lực nghĩa là Phẩm Phổ Hiền và phẩm thị hiện ở sau. Đây dùng tay xoa đầu Phật tự hộ pháp khiến kia lưu thông nên có phẩm này.

II. Giải thích tên phẩm: Chúc là giao gửi, Lụy là chồng chất, lần thứ hai thứ ba giao giữ khiến cho kia hộ trì nên gọi là phẩm Chúc Lụy.

III. Giải đáp các vấn nạn: Hỏi: Phật dùng một tay xoa đầu chung các Bồ-tát, hay một tay xoa đều từng vị Bồ-tát?

Đáp: Một tay xoa một lúc, vì thần lực lớn, đều dùng một tay xoa mà diệu dụng cùng khắp, nhưng các Bồ-tát đồng thấy riêng xoa, do đó thâm tâm y lời nói lãnh thọ.

-Kinh: “Lúc bấy giờ Đức Phật Thích-ca cho đến làm cho lợi ích rộng lớn”.

-Tán: Phẩm văn chia làm bốn:

  1. Như-lai phó chúc.
  2. Bồ-tát kính nhận.
  3. Khiến tháp hoàn trở lại như cũ.
  4.  Chúng đều vui mừng.

Trong phần đầu có ba:

  1. Ba nghiệp gia trì phó chúc khiến hành kinh này.
  2. “Nếu có chúng sanh không tin thọ cho đến” nếu không tin thọ kinh này khiến hành các kinh.
  3. Nếu Các thầy có thể như vậy cho đến kết thành khuyên ý vì báo ân Phật. Văn đầu lại có ba: Trước dùng tay xoa đầu phó chúc khiến lưu hành rộng làm lợi ích, kế lại xoa đầu phó chúc khiến thọ trì, khiến khắp nghe biết, sau giải thích lý do khuyên khiến giảng nói. Đây là phần đầu. Hai đoạn đầu dùng thân ngữ gia trì, một đoạn sau ý nghiệp gia trì. Đầu tiên dùng tay phải. Xoa là thị hiện điềm rất tốt lành. Ngài Long Thọ giải thích rằng: Các kinh chẳng bí mật, chỉ có Pháp Hoa mới bí mật nói Nhị thừa thành Phật. Chỉ có đại Bồ-tát mới có khả năng dụng hành bí mật đó, như vị thấy thầy thuốc mới có khả năng dùng độc.

-Kinh: “Đức Phật ba phen xoa đảnh như vậy cho đến khắp đều được nghe biết”.

-Tán: Đây lại dùng tay xoa đầu phó chúc khiến thọ trì khiến khắp nơi đều nghe biết. Đến ba phen xoa tức khiến họ ân cần thọ pháp đều ba phen, pháp truyền đèn ắt là trọng trách.

-Kinh: “Vì sao! cho đến trí tuệ tự nhiên”.

-Tán: Dưới giải thích lý do khuyên khiến giảng nói. Ý nghiệp gia trì có ba:

  1. Nêu rõ đã là ba hạng bất gốc lành đã hết thì năng thí trí tuệ.
  2. Nói lên Phật có khả năng làm đại thí chủ khuyên tùy theo chớ sẻn tiếc.
  3. Dạy dùng thí hóa khiến đắc Phật tuệ. Đây là phần đầu. Từ bi nên không sân, ban vui nên cứu khổ, không sẻn tiếc nên không tham, đâu từng tiếc pháp, không còn sợ sệt, không si nên quyết định nói, năng cùng trí Phật chủng trí, Như-lai trí Nhất-thiết-trí. Hai trí này nhậm vận vô Sư mà đắc gọi là tự nhiên trí, hoặc hai trí trước là hữu vi trí, một trí sau là vô vi trí nên gọi là tự nhiên trí.

-Kinh: “Như-lai là vị đại thí chủ cho đến chớ sanh lòng bỏn sẻn”.

-Tán: Đây nói lên Đức Phật năng làm đại thí chủ khuyên tùy theo chớ sẻn tiếc. Thành Thật luận chép: Sẻn có năm thứ:

  1. Trú xứ.
  2. Nhà.
  3. Thí.
  4. Xưng tán.
  5. Pháp.

Sẻn trú xứ là: Ở nơi trú xứ mình sanh bỏn sẻn nghĩ rằng: Ta riêng ở đây khiến ta tự tại không dùng của người khác. Đây lại có năm thứ: 1. Ở đời vị lai các Tỳ-kheo thiện không muốn người khác đến. 2. Ở đời vị lai các thiện Tỳ-kheo sân nhuế không vui. 3. Muốn khiến sớm đi. . Cất giữ tăng thí vật không muốn cho. . Đối với tăng thí vật sanh tâm ngã sở chấp làm ân đức. Người ấy đối với người khác đồng có trong pháp còn không thể bỏ, huống chi tự thân có các vật, cho nên đối với sự giải thoát trọn không có phần.

Bỏn sẻn nhà: Trở về nhà nghĩ gì bỏn sẻn rằng ta ở nhà đây thường

hay ra vào một mình không dụng của các người khác, dù có các người khác khiến ta trên hết, đây cũng có năm: 1. Người tại gia có việc không lành cùng đồng lo. 2. Kia có việc lợi cùng đồng vui. 3. Vui người tại gia có sự thù thắng giàu sang. . Dứt trừ thọ khiến không được thí. . Sanh trong nhà kia làm quỉ trong hầm xí và các chỗ ác.

Sẻn tiếc thí cho: Đối với người khác thí vật sanh tướng sẻn tiếc rằng: Khiến ta ở đây một mình được thí vật các người khác không được, dù khiến cho chớ lại hơn ta, đây cũng có năm: 1. Vật tư Sanh thường thiếu thốn. 2. Khiến người thí không được phước. 3. Khiến người thọ nhận không được tài lợi. . Chê mắng người hiền thiện. . Tâm thường lo buồn nên sẽ đọa địa ngục, dù sanh cõi trời cõi người cũng thường ở chỗ nghèo hèn.

Sẻn tiếc khen ngợi: Đối với khen ngợi người khác sanh tâm sẻn tiếc khiến riêng khen ngợi ta chớ hơn ta, đây cũng có năm: 1. Nghe khen ngợi người khác tâm thường lo lắng xao động. 2. Mắng nhiếc người tốt. 3. Tự cao khinh người. . Thường mang tiếng xấu. . Ở đời vị lai trong trăm ngàn đời không có tịnh tâm.

Sẻn tiếc pháp: Ở trong chánh pháp nghĩ gì sẻn tiếc rằng: Khiến ta riêng biết mười hai bộ kinh đừng để cho người khác biết giả như có họ biết cũng đồng hơn ta. Lại tự biết nghĩa bí mật mà không nói, đây lỗi có bảy: 1. Lúc sanh thường bị mù. 2. Thường ngu si. 3. Sống gặp nhiều oán thù không được tự tại. 4. Lui sụt mất mầu Thánh. 5. Kẻ thù của Chư Phật. 6. Người tốt xa lìa. 7. Không việc ác nào không làm. Do có các lỗi lầm như vậy nên Phật khuyên chớ có sẻn tiếc. Đức Thế tôn năng hành ba thứ xả, ban cho chúng sanh làm Đại thí chủ cho nên phải học theo ta.

-Kinh: “Ở đời vị lai cho đến đắc trí tuệ Phật”.

-Tán: Dạy dùng thí giáo hóa khiến được trí tuệ Phật”.

-Kinh: “Nếu có chúng sanh nào cho đến chỉ dạy cho được lợi ích vui mừng”. Tán: Nếu không tin Kinh này khiến thực hành các kinh khác, nghĩa là gặp Nhị thừa giáo hóa pháp mầu này, nếu họ không tin lại nói Bát-nhã pháp Đại thừa thâm diệu để điều phục tâm kia, sau giáo hóa pháp này.

-Kinh: “Nếu Các thầy được như thế cho đến là đã báo đáp được ân Phật”.

-Tán: Kết thành ý khuyên, ý Phật muốn cho người thành Phật nên lập ra các môn.

-Kinh: “Lúc ấy các vị đại Bồ-tát cho đến xin Thế tôn chớ có lo”.

-Tán: Đây đoạn thứ hai Bồ-tát kính thọ chia làm hai đoạn, ba nghiệp kính lãnh.

-Kinh: “Khi ấy cho đến được hoàn như cũ”.

-Tán: Đoạn lớn thứ ba khiến tháp trở lại như cũ. Từ đây về sau không còn trở lại cho nên biết phẩm này nên ở cuối kinh.

-Kinh: “Phật nói lời đó xong cho đến đều rất vui mừng”.

-Tán: Đoạn lớn thứ tư: Chúng đều vui mừng nghe khen ngợi pháp thù thắng, giao phó dặn dò do đó vui mừng, không phải thấy bảo các hóa Phật trở lại mà vui mừng. Y theo đây cho nên hội tòa giải tán. Bồtát Thiên Thân Giải thích kinh Già-da nói đảnh, nói vui mừng vâng hành có ba nghĩa: 1. Chủ nói thanh tịnh, do đối các pháp được tự tại. 2. Sở pháp nói thanh tịnh, do như thật chứng biết thanh tịnh pháp thể. 3. Nương theo nói pháp được quả thanh tịnh, do đắc cảnh giới thanh tịnh mầu nhiệm. Như kinh đều rất vui mừng tín nhận vâng hành.

 

PHẨM DƯỢC VƯƠNG BỒ-TÁT BỔN SỰ

Phẩm này chia làm ba môn:

1. Vì sao có phẩm này. 2. Giải thích tên phẩm. 3. Giải đáp các vấn nạn.

1- Vì sao có phẩm này: hai phẩm trên đã nêu rõ trao phó, sáu phẩm dưới đây vâng lệnh lưu thông. Căn cứ luận này văn chia làm năm. Dược vương năng lực tự hành khổ hạnh để lưu thông, Quán Âm, Đà-lani hộ chúng sanh các nạn lực để lưu thông, Diệu trang nghiêm vương công đức thắng lực để lưu thông, Phổ Hiền dùng năng lực chúc Lụy hộ pháp để lưu thông. Chúc Lụy đã trình bày ở trước, hộ pháp chỉ có một, Dược vương lúc này tuy tại hội, mà nói quá khứ của ngài từng đốt thân đốt cánh tay tự hành khổ hạnh để lưu thông chánh pháp, lợi ích cho hội chúng nên có phẩm này.

2- Giải thích tên phẩm: Dược có công năng trừ bệnh tật, vương có uy lực tự tại, bổn là do nhân xưa, sự là thể nghiệp. Nay đây Bồ-tát nguyện làm cây thuốc chữa bệnh tật bát trần, dứt bệnh thất lậu trầm kha thế lực vô song uy thần hiếm thấy cho nên gọi là Dược vương Bồ-tát. Nay trong phẩm này trình bày nhân việc tu hành xưa để lợi ích chúng hội bấy giờ, gọi là Phẩm Dược vương Bồ-tát bổn sự.

3- Giải đáp chướng nạn: Hỏi: Các Bồ-tát đều có nguyện lực thần công đồng nhau, vì sao chỉ riêng đây gọi là Dược vương?

Đáp: Luận nói công căn cứ hành quả thật không sai khác, nguyện lợi tu nhân xưa cũng ít khác, chỉ như cứu chúng sanh nhổ trừ khổ hạnh nguyện Bồ-tát đều đồng. Chỉ có Quán Âm được gọi là “cứu khổ” là Dược Vương đâu ngăn ngại hạnh nguyện thù thắng mà có tên riêng.

Kinh: “Lúc bấy giờ ngài tú vương Hoa cho đến nghe đều vui mừng”. Trong phẩm này văn chia làm sáu:

  1. Tú Vương Hoa hỏi.
  2. Như-lai đáp.
  3. “Nếu lại có người dùng bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên cho đến” là khen ngợi công đức mầu nhiệm của Kinh.
  4. “Tú Vương Hoa! Nếu có người nghe Phẩm Dược Vương Bồ-tát Bổn Sự này cho đến” là khen ngợi trao phó thù thắng.
  5. Chúng đương thời được lợi ích.

6. Đa-bảo khen ngợi. Hai đoạn này đều ở cuối phẩm. Đây đầu văn có ba: Hỏi, tiếp thỉnh, sau biện rõ ý thỉnh. Tú Vương Hoa hỏi: là đời trước đến nay trì Kinh Pháp Hoa như Vương tự tại. Cho nên Kinh Bảo Vân nói: Bồ-tát có mười pháp gọi là đại Dược thọ. Thí như Dược thọ tên gọi là Thiện Kiến. Nếu có chúng sanh được gốc rễ cành lá hoa quả cây kia, cũng có thấy sắc nghe hương nếm vị được xúc chạm, gặp mười pháp này bệnh đều trừ khỏi. Bồ-tát cũng vậy. Từ sơ phát tâm vì các chúng sanh có các bệnh phiền não, có nương thí giới nhẫn cần định tuệ mà được nuôi sống, có nương thấy pháp, có nghe tiếng có biết vị có đồng sự mà được nuôi sống. Bồ-tát thuận theo nơi đáng dẫn dắt lợi lạc nên nói Bồ-tát tên là Dược Thọ, năng trừ bệnh phiền não được nuôi sống tuệ mạng. Du hóa là phương pháp thí hóa lợi ích giúp lợi chúng sanh. Có bao nhiêu: là hỏi khổ hạnh sai khác, đốt thân đốt tay là cúng dường chánh pháp.

-Kinh: “Lúc đó Đức Phật bảo cho đến nói Kinh Pháp Hoa”.

-Tán: Dưới Như-lai đáp có bốn:

  1. Trình bày thời gian.
  2. Nêu rõ Phật.
  3. Hiển tu hành.
  4. Hợp xưa nay.

Đây là hai phần đầu. Trong nêu rõ Phật có bảy: 1. Danh hiệu. 2. Quyến thuộc. 3. Trí tuổi thọ. 4. Không có ác. 5. Cõi tướng. 6. Đài thọ trang nghiêm. 7. Kinh pháp Phật nói.

-Kinh: “Ngài Nhất thiết chúng sanh cho đến sắc thân Tam-muội”.

-Tán: Tu hành có ba:

  1. Tinh Tấn đắc định.
  2. Cúng dường Phật pháp.
  3. Cúng dường Xá-lợi.

Đây là phần đầu. Đắc định đây rồi năng tùy lạc ưa hiện thân, sơ địa liền chứng đắc, bát địa tự tại; trong thập bình đẳng năng tùy sở thích của chúng sanh mà thị hiện, sơ địa liền đắc. Kinh Vô Cấu Xứng cũng có nói Bồ-tát này.

-Kinh: “Đắc Tam-muội đó rồi cho đến và Kinh Pháp Hoa”.

-Tán: Cúng dường Phật pháp có bảy:

  1. Hỷ niệm cúng dường.
  2. Nhập định khởi thần thông.
  3. Lại tư duy không đủ.
  4. Đốt thân cúng dường.
  5. Phát ra ánh sáng chiếu xa.
  6. Chư Phật đồng khen ngợi.
  7. Thời gian đốt thân. Đây là phần đầu.

-Kinh: “Tức thời nhập Tam-muội đó cho đến để cúng dường Phật”.

-Tán: Hai là người nhập định khởi thần thông có ba: Nhập định mưa hoa, tiếp mưa chiên đàn, sau mưa hương Hải thử ngạn chiên đàn.

Kinh: “Cúng dường thế đó rồi cho đến dùng thân cúng dường”.

Lại tư duy không đủ.

-Kinh: “Liền uống các chất thơm cho đến mà tự đốt thân”.

-Tán: Đốt thân cúng dường có ba:

1. Uống dầu thơm. 2. Nêu năm tháng. 3. Chánh đốt thân.

-Kinh: “Ánh sáng chiếu khắp cho đến các đức Như-lai”.

-Tán: Trong đây có hai: Thứ năm ánh sáng chiếu xa, thứ sáu Chư Phật đồng khen. Trong đồng khen có ba: Trước nêu chân thật, tiếp so sánh khen ngợi, sau kết thành khen ngợi.

-Kinh: “Các Đức Phật nói lời đó rồi cho đến qua lúc sau đó thân Bồ-tát mới hết”.

-Tán: Thứ bảy thời gian có hai: Trước im lặng sau nêu thời gian.

-Kinh: “Ngài Nhất thiết chúng sanh cho đến bỗng nhiên ngồi xếp bằng hóa sanh ra”.

Tán: Nêu rõ trong tu hành. Nói cúng dường Xá-lợi có mười bốn:

  1. Nơi sanh.
  2. Nói pháp.
  3. Khải bạch.
  4. Đến chỗ Phật.
  5. Phó chúc.
  6. Nhập diệt.
  7. Xây tháp.
  8. Tư duy bảo.
  9. Đốt cánh tay.
  10. Lợi ích.
  11. Chúng sanh bi não.
  12. Tự thệ.
  13. Nguyện mãn.
  14. Cảm sanh ứng hiện điềm lành. Đây là phần một.

-Kinh: “Liền vì vua cha cho đến bỏ thân thể đáng yêu”.

-Tán: Thứ hai: Là nói pháp.

-Kinh: “Nói kệ đó rồi cho đến cúng dường Phật rồi”.

-Tán: Thứ ba: Khải bạch: Đầu bạch việc trước, sau bạch đến thỉnh. Đầu văn có ba: 1. Luận Phật hiện tại. 2. Đắc tổng trì. 3. Nghe thắng pháp. Chân Ca la: Câu xá luận quyển mười hai nói: Số có sáu mươi bỏ mất còn lại tám, lấy mười dần dần tích chứa đến mười sáu gọi là căng yết la, đến mười bảy gọi là Đại căng yết la, mười tám gọi là Asúc-bà, hai mươi mốt gọi là Đại-a-súc-ba. Đây tổng ba thứ: tức là mười sáu, mười tám hai mươi vậy.

-Kinh: “Thưa xong liền ngồi cho đến vẫn còn ở đời”.

-Tán: Thứ tư: Đến chỗ Phật có ba: Trước đến, tiếp khen ngợi, sau bạch.

-Kinh: “Bấy giờ, đức Nhật Nguyệt cho đếnbao nhiêu ngàn tháp”.

Tán: Thứ năm: Phó chúc có bốn:

  1. Xướng diệt.
  2. Trao pháp.
  3. Trao cõi.
  4. Trao thể.

Y Tăng kỳ luật nói: Có Xá-lợi gọi là Tháp bà, không có Xá-lợi gọi là Chi đề. Trong Du-già nói: Hoặc có Xá-lợi gọi là Tốt đổ ba, nếu không có Xá-lợi chỉ gọi là Chế đa.

-Kinh: “Đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh cho đến nhập Niết-bàn”.

-Tán: Thứ sáu: Nhập diệt. Kinh Hoa Nghiêm nói: Rốt ráo Phật sự rồi thị hiện nhập đại Niết-bàn có mười nghĩa:

  1. Nêu tất cả hành đều vô thường.
  2. Nêu tất cả pháp hữu vi chẳng an ổn.
  3. Niết-bàn hướng về chỗ an ổn nhất.
  4. Nêu rõ bát Niết-bàn xa lìa tất cả sự sợ hãi.
  5. Do các trời người ưa đắm sắc thân, nêu rõ sắc thân vô thường là pháp hoại diệt, khiến kia cầu trụ pháp thân thanh tịnh.
  6. Nêu vô thường sức mạnh không thể chuyển.
  7. Nêu pháp hữu vi không tự tại.
  8. Pháp ba cõi thảy đều như vật bằng đất không vững chắc.
  9. Bát Niết-bàn là chân thật nhất không thể hoại.
  10. Bát Niết-bàn xa lìa sanh tử chẳng phải khởi diệt. Dùng mười nghĩa này thị hiện Niết-bàn.

-Kinh: “Lúc đó ngài Nhất Thiết cho đến treo các linh báu”

-Tán: Xây tháp có ba phần: Trước nói thương cãm luyến tiếc, kế nói đốt thân, sau nói xây tháp.

-Kinh: “Bấy giờ ngài Nhất Thiết cho đến Xá-lợi của đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh tức Phật”.

-Tán: Tư duy bảo có hai: Trước tư duy sau bảo.

-Kinh: “Nói xong liền ở trước cho đến hai tay tự nhiên hoàn phục”.

-Tán: Trong đây có năm: Đốt tay. Lợi ích. Chúng sanh bi não. Tự thệ. Nguyện mãn.

-Kinh: “Đó là do Bồ-tát cho đến được việc chưa hề có”.

-Tán: Thứ mười bốn Cảm sanh thoại ứng có ba:

  1. Lý do.
  2. Thoại ứng.
  3. Được việc chưa hề có.

-Kinh: “Đức Phật bảo ngài Tú Vương Hoa cho đến mà cúng dường”.

-Tán: Đoạn lớn thứ hai trong Như-lai đáp phần, thứ tư hợp xưa nay có ba: Trước hợp, kế khen ngợi, sau kết.

-Kinh: “Nếu lại có người cho đến phước đó rất nhiều”.

-Tán: Đoạn lớn thứ ba khen ngợi công đức mầu nhiệm ưa kinh có bốn:

  1. So sánh hơn.
  2. “Thí như nói” so sánh dụ hơn (thắng).
  3. “Kinh này năng cứu hộ cho đến” tác dụng thù thắng.
  4. “Nếu người nào được nghe kinh Pháp Hoa này hoặc tự biên chép cho đến” vô biên thù thắng. Đây là phần đầu.

-Kinh: “Tú Vương Hoa cho đến là vua trong các kinh”.

-Tán: So sánh dụ thắng, văn có mười:

  1. Sâu rộng thù thắng.
  2. Cao hiển thù thắng.
  3. Liễu đạt thù thắng.
  4. Trừ hoặc thù thắng.
  5. Uy thế thù thắng.
  6. Tự tại thù thắng.
  7. Xuất sanh thù thắng.
  8. Khế lý thù thắng, hoặc gọi nhân pháp thù thắng.
  9. Hai lợi thù thắng.
  10. Đức viên mãn thù thắng.

Khế lý thù thắng, trong đó có pháp và người, chấp người này văn nên sau cùng nói, vì tiện nên đây nói. Tu-đà-hoàn gọi là dự lưu, là dự vào dòng Thánh. Tư-đà-hàm gọi là Nhất vãng lai, chỉ có một phen sanh trở lại sanh tử liền thành ứng quả gọi là Nhất-lai. A-na-hàm gọi là Bất hoàn, cõi nghiệp Dục hết thì không còn lại sanh trong cõi Dục nên gọi là Bất hoàn.

-Kinh: “Tú Vương Hoa cho đến đầy đủ chỗ mong cầu”.

-Tán: Tác dụng thù thắng có ba: Pháp, Dụ và Hiệp. Đây là phần đầu có ba câu: Câu đầu năng trừ hoặc nghiệp, tiếp năng trừ quả khổ, sau năng mãn thiện nguyện, lại phát tâm tu hành đắc quả chia làm ba, lại tổng biệt ly ác nhiếp thiện chia làm ba.

-Kinh: “Như ao nước trong mát cho đến như đuốc xua tan bóng tối”.

-Tán: Đây dụ nói có mười hai:

  1. Nguyện mãn.
  2. Thành đạo.
  3. Biết hổ thẹn.
  4. Có được đạo sư.
  5. Đắc trở về.
  6. Vượt sanh tử.
  7. Trừ phiền não.
  8. Đắc trí tuệ.
  9. Đạt được Thánh tài.
  10. Có vây theo.
  11. Biết đảo châu báu.
  12. Phá si tới.

Tùy nghĩa ứng phối hợp ba câu trước.

-Kinh: “Kinh Pháp Hoa này cho đến có thể mở trói sanh tử”.

-Tán: Đây hợp nói lìa bệnh đâu trừ các khổ làm câu đầu, mở trói sanh tử là trừ hoặc nghiệp làm câu thứ hai, không hợp đầy đủ nguyện.

Hoặc trừ khổ đương lai, hiện khổ, khổ nhân như thứ lớp phối hợp.

-Kinh: “Nếu người được nghe cho đến cũng giống vô lượng”.

-Tán: Vô biên thù thắng có hai:

  1. Nghe biên chép công đức vô biên.
  2. Cúng dường công đức vô biên. Đắc vô biên biên, không đắc hữu biên cho nên gọi Phật không đắc.

-Kinh: “Tú Vương Hoa cho đến không còn thọ lại nữa”.

-Tán: Đoạn lớn thứ tư, khen ngợi thù thắng phó chúc có bảy:

  1. Nêu nghe thù thắng.
  2. Chuyển thân nữ.
  3. Sanh tịnh độ.
  4. Tùy hỷ thâu hoạch phước.
  5. Chính nêu phó chúc.
  6. Khiến giữ gìn.
  7. Khuyên cúng trì.

Đây là hai phần đầu.

-Kinh: “Nếu sau khi Như-lai diệt độ cho đến không có ai bằng ông”.

-Tán: Sanh tịnh độ có năm:

  1. Sanh tịnh độ.
  2. Lìa phiền não.
  3. Đắc thần thông.
  4. Thấy nhiều Phật.
  5. Phật xa khen ngợi.

Trong Phật xa khen ngợi có năm:

  1. Khen ngợi phước vô biên.
  2. Khen ngợi đức vô biên.
  3. Năng phá phiền não.
  4. Cùng chung bảo hộ.
  5. Nêu phương tiện trên hết nhiếp dẫn.

Nói trí tuệ Bồ-tát không ai bằng ông.

-Kinh: “Tú Vương Hoa cho đến như trên đã nói”.

-Tán: Tùy hỷ thâu hoạch phước.

-Kinh: “Tú Vương Hoa! Vì thế cho đến không già không chết”.

-Tán: Trong đây có hai: Chánh nêu phó chúc và Khiến giữ gìn. Trong giữ gìn: Trước nêu sau giải thích. Năm trăm năm sau: Kinh Đại Tập nói: Sau khi Phật diệt độ, năm trăm năm đầu giải thoát vững chắc, năm trăm năm tiếp thiền định vững chắc, năm trăm năm tiếp học rộng vững chắc, năm trăm năm tiếp phước đức vững chắc, năm trăm năm tiếp đấu tranh vững chắc. Đều dùng năm trăm năm làm loại ký, cho nên nói sau khi ta diệt độ năm trăm năm, hoặc chánh pháp năm trăm năm tượng pháp một ngàn năm, hoặc sau thời tượng pháp, thì năm trăm năm mạt pháp.

-Kinh: “Tú Vương Hoa cho đến tâm cung kính”.

-Tán: Khuyên cúng trì có ba:

  1. Rãi hoa.
  2. Tâm niệm.
  3. Kết thành.

-Kinh: “Lúc đức Phật nói Phẩm Dược Vương cho đến tất cả chúng sanh”.

-Tán: Đoạn thứ năm, chúng đương thời được lợi ích và đoạn lớn thứ sáu Phật Đa-bảo khen ngợi.

Ngày 12 tháng 12 Niên hiệu Bảo An năm thứ ba ở chùa Hưng Phước Viên Như Phòng, tăng Giác Ấn vốn ở chùa Pháp Long đã kiểm duyệt xong. Vì muốn chánh pháp tồn tại lâu dài vãng sanh cực lạc.

PHẦN CUỐI

PHẨM DIỆU ÂM BỒ TÁT

Phẩm này chia làm ba môn:

  1. Vì sao có phẩm này.
  2. Giải thích tên phẩm.
  3. Giải đáp các vấn nạn.

1- Vì sao có phẩm này: Luận nói năng lực giáo hóa chúng sanh hành khổ hạnh lực, là phẩm Diệu Âm thị hiện, Diệu Âm hiện ở Đông độ thầm ở phương này, bổn truyền Pháp Hoa dạy hành khổ hạnh, nay phát ra ánh sáng nhóm họp chỉ dạy mọi người khuyến phát thắng tâm mở rộng kinh pháp cho nên có phẩm này.

2- Giải thích tên phẩm: Âm là âm thanh, Diệu là thù diệu xưa trú trong nhân ưa lập ra nhạc để cúng dường, nay ở địa vị quả khéo nói pháp làm lợi sanh, cùng nêu nghiệp đức để tiêu biểu danh kia nên gọi là Bồ-tát Diệu Âm. Phẩm này nói việc kia nên gọi là Bồ-tát Diệu Âm phẩm.

3- Giải đáp các vấn nạn: Vì sao phải lấy Diệu Âm làm tên phẩm này?

Đáp: Dược Vương ở phương này tu khổ hạnh tự khuyên chúng sanh, chưa có bậc thượng thượng nhân nào ở phương khác khuyên nói, cho nên gọi Diệu Âm phương xa hành pháp, khuyên người khác khổ hạnh cho nên phải nhóm họp.

-Kinh: “Lúc bấy giờ đức Thích-ca cho đến ánh sáng của sợi lông trắng”.

-Tán: Phẩm văn chia làm bốn:

  1. Thần quang đến gọi.
  2. Diệu Âm đến.
  3. Xong việc trở về nước.
  4. Thời chúng đắc đạo.

Văn đầu có hai: Trước phát ra ánh sáng, sau chỗ đến. Đây là phần đầu. Từ nhục kế phát ra ánh sáng là tướng nhóm họp đại nhân ánh sáng nơi lông trắng giữa hai đầu chân mày là tiêu biểu Kinh này cho nên là bảo đến.

-Kinh: “Chiếu khắp các cõi Phật ở phương đông cho đến chiếu soi khắp cõi nước đó”.

-Tán: Đây chỗ đến có ba:

  1. Phương xứ.
  2. Cõi Phật.
  3. Kết chiếu.

Cõi Phật có ba: 1.Tên nước. 2. Hiệu Phật. 3. Hóa độ lợi lạc.

-Kinh: “Bấy giờ trong nước Nhất Thiết cho đến trí tuệ rất sâu”.

-Tán: Đoạn lớn thứ hai nói Diệu Âm đến có ba:

  1. Kia đến.
  2. “Lúc đó Diệu Âm Bồ-tát chẳng rời khỏi tòa cho đến” đến đây.
  3. “Bấy giờ Hoa Đức Bồ-tát Bạch Phật cho đến” hóa thành.

Văn đầu lại có bốn: 1. Trình bày đức. 2. Thỉnh đến. 3. Phật răn dạy. 4. Thừa lệnh Phật.

Trình bày đức lại có bốn: 1. Thắng nhân sớm gieo trồng. 2. Bạn lành sớm gặp. 3. Bát-nhã trước viên mãn. 4. Đẳng trì đã mãn. Đây là ba phần đầu.

-Kinh: “Đắc Diệu Tràng tướng Tam-muội cho đến các đại Tam-muội”.

-Tán: Đẳng trì đã mãn có hai: Trước nên mười sáu đẳng trì, sau kết vô lượng.

  1. Diệu tràng tướng: Như tràng cao hiển các đức trang nghiêm.
  2. Pháp Hoa: thông đạt lý Nhất thừa.
  3. Tịnh Đức: Đoạn chướng nhiễm đắc công đức thù thắng.
  4. Tú Vương Hý: Tú là tinh tượng, Vương là tự tại, Hý là du lạc, nghĩa là được tự tại năng hiện các tượng cũng như tinh tú thường nhập du hý để lợi lạc chúng sanh.
  5. Vô duyên: Là Diệt tận định hoặc Vô sở duyên định lìa phan duyên.
  6. Trí ấn: Là chân như không lý làm trí ấn, hoặc dùng trí làm ấn phán định thị phi chân vọng v.v…
  7. Giải chúng sanh ngữ ngôn: Phát Từ vô ngại giải định.
  8. Tập tất cả công đức: Là nhóm họp phước vương định cho đến
  9. Thanh tịnh: Là năng sanh 7, 9, tịnh: Sở y tịnh, sở duyên tịnh, tâm tịnh, trí tịnh.
  10. Thần thông du hý: Năng khởi đại thần thông.
  11. Tuệ cự: Chiếu sáng chân tục các cảnh giới.
  12. Trang nghiêm vương: Năng đầy đủ trong ngoài hai thứ trang nghiêm.
  13. Tịnh Quang minh: là phát ra ánh sáng thần.
  14. Tịnh tạng: Bao gồm các đức.
  15. Bất cộng Tam-muội: Không cùng Nhị thừa đắc.
  16. Nhật triền: Như ánh sáng mặt trời chiếu soi bốn loài.

Đây đều là chỗ dạo chơi của Bồ-tát Địa thứ mười, phần nhiều thuộc đệ tứ định do thù thắng.

-Kinh: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cho đến Bồ-tát Dược Thượng”.

-Tán: Thỉnh đến.

-Kinh: “Khi ấy đức Tịnh Hoa cho đến sanh lòng tưởng thấp kém”.

-Tán: Đức Phật răn dạy có bốn:

  1. Răn dạy chung.
  2. Trình bày cõi khác thấp kém.
  3. Nêu mình hơn.
  4. Kết lời răn dạy.

Trong đây chỉ cho tự mình hơn, người khác kém, dùng làm răn dạy. Trong Kinh Tư Ích chép: Bồ-tát Tư Ích Phạm thiên muốn đến thế giới Ta bà, Đức Phật Nhật Nguyệt Quang bảo Tư Ích rằng: Ông nên dùng mười pháp sau đây để đến cõi ấy: 1. Đối sự khen chê tâm không thêm bớt. 2. Nghe thiện ác tâm không phân biệt. 3. Đối với kẻ ngu người trí nên dùng bi tâm. . Đối chúng sanh thượng hạ ý thường bình đẳng. . Đối sự cúng dường khinh rẻ tâm không có hai. 6. Đối với người có lỗi không thấy lỗi của họ. 7. Thấy các thừa đều là Nhất thừa. 8. Nghe ba đường ác cũng chớ kinh sợ. 9. Đối các Bồ-tát nghĩ gì tôn trọng. 10. Phật xuất hiện ở cõi đời có năm thứ vẩn đục sanh trưởng ít có. Kinh Vô Cấu Xứng nói: Phật Đài Hương răn dạy văn đại khái đồng.

-Kinh: “Diệu Âm Bồ-tát cho đến trí tuệ trang nghiêm”.

-Tán: Thừa lệnh có ba: Trước nói năng lực chung của Như-lai, sau hai chi tiết.

-Kinh: “Lúc ấy ngài Diệu Âm cho đến Chân thúc ca đài bằngbáu”.

-Tán: Dưới thứ hai đến đây, văn có mười một: Từ chuẩn bị đến hoa hiện cho đến

-Kinh: “Bấy giờ ngài Văn-thù cho đến làm đài”.

-Tán: Thứ hai, Văn-thù hỏi lý do.

-Kinh: “Bấy giờ Đức Phật Thích-ca cho đến nghe Kinh Pháp Hoa”.

-Tán: Thứ ba, Đức Phật nói lý do.

-Kinh: “Văn-thù -sư -lợi cho đến khiến chúng con được thấy”.

-Tán: Thứ tư, Văn-thù hỏi hành có ba:

  1. Hỏi phước tuệ.
  2. Hỏi nhập định nào.
  3. Tu theo định nào mới năng thấy.

Thỉnh thông lực che chở đến khiến chúng con được thấy, chỉ bày tướng không biết, thật định từ lâu đã biết.

-Kinh: “Khi ấy Đức Phật Thích-ca cho đến mà hiện bày thân tướng của Bồ-tát đó.

-Tán: Thứ năm, đức Thích-ca thùy đáp.

-Kinh: “Tức thời Đức Phật Đa-bảo cho đến muốn thấy thân của ông”.

-Tán: Thứ sáu, Đa-bảo gọi bảo.

-Kinh: “Bấy giờ ngài Diệu Âm cho đến chẳng đánh mà tự kêu”.

Tán: Thứ bảy, Diệu Âm đến đây có bốn:

  1. Số đến.
  2. Mới đi qua.
  3. Thân tướng.
  4. Đến đây.

Đây là phần đầu.

-Kinh: “Mắt của vị Bồ-tát đó cho đến như thân Na la diên bền chắc”.

-Tán: Thứ ba, thân tướng có tám đức:

  1. Mắt trong xanh: Kinh Vô Cấu Xứng nói: Mắt trong xanh do rộng tịnh tu mầu nhiệm đoan nghiêm, sáng như cành lá hoa sen xanh.
  2. Diện mạo sáng tròn đẹp.
  3. Thân sắc vàng.
  4. Trang nghiêm.
  5. Oai đức.
  6. Quang minh.
  7. Tướng đầy đủ.
  8. Vững chắc.

-Kinh: “Ngài vào trong đài bảy báu cho đến núi Kỳ-xà-quật”.

-Tán: Thứ tư, đến đây.

-Kinh: “Đến rối xuống đài bảy báu cho đến kham nhẫn ở lâu được chăng”.

-Tán: Thứ tám, xuống đài lễ bái hỏi có hai: 1. Lễ bái dâng cúng. 2. Thỉnh hỏi. Thỉnh hỏi có bốn: 1. Hỏi thân Phật có năm câu. 2. Hỏi chúng sanh có bảy câu. 3. Hỏi ma tùy hóa có một câu. 4. Hỏi Đa-bảo có hai câu. Hỏi đến và ở lâu.

-Kinh: “Thế tôn! Nay Con cho đến chỉ bày cho con được thấy”.

-Tán: Thứ chín, thỉnh thấy Đa-bảo, Đa-bảo. Thích-ca tuy đồng ngồi trên tháp nhưng do thần lực che phủ khiến kia không thấy, cho nên xin được thấy.

-Kinh: “Lúc đó Đức Phật Thích-ca cho đến nên qua đến cõi này”.

-Tán: Thứ mười, đức Thích-ca vì thỉnh, thứ mười một, Đa-bảo tán dương.

-Kinh: “Lúc bấy giờ ngài Hoa Đức cho đến có sức thần thông như thế”.

-Tán: Đoạn lớn thứ ba là nói hóa hành có năm:

  1. Hoa Đức hỏi nhân.
  2. Như-lai bảo đủ.
  3. Khen ngợi hỏi tu định.
  4. Đức Phật sau đáp.
  5. Chúng đương thời được lợi ích.

Đây là phần một.

-Kinh: “Đức Phật bảo ngài Hoa Đức cho đến có sức thần thông như thế”.

-Tán: Như-lai bảo đủ có năm:

  1. Chỉ bày nhân xưa.
  2. Hợp quả nay.
  3. Từ lâu đã gặp Chư Phật.
  4. Rộng thực hành lợi hạnh.
  5. Kết đáp lý do.

Đây là phần đầu có ba: 1. Phật. 2. Hành. 3. Kết.

-Kinh: “Hoa Đức! Ý ông nghĩ sao cho đến đại Bồ-tát này”.

-Tán: Hợp quả nay.

-Kinh: “Hoa Đức! Bồ-tát Diệu Âm này cho đến na do tha Đức Phật”.

-Tán: Từ lâu đã gặp Phật.

-Kinh: “Hoa Đức! Ông chỉ thấy cho đến không hề tổn giảm”.

-Tán: Rộng thực hành lợi hạnh có hai: Ở phương này và sau ở mười phương. Phương này có bốn:

  1. Nêu hiện thân nói pháp.
  2. Riêng hiển hiện thân nói pháp.
  3. Kết thành hóa.
  4. Trí tuệ không tổn hại.

Trong riêng hiển hiện thân nói pháp có hai: 1. Tùy nghi hiện mười tám loại thân nói pháp. 2. Vì cứu khổ nạn hiện thân nói pháp.

-Kinh: “Vì Bồ-tát này dùng ngần ấy trí tuệ cho đến thị hiện diệt độ”.

-Tán: Đây tại mười phương hiện thân nói pháp có ba: 1. Đầu nêu ở mười phương lợi ích. 2. Tùy căn ứng nghi hiện thân nói pháp. 3. Kết thành thân nói.

-Kinh: “Hoa Đức! Diệu Âm cho đến việc đó như thế”.

-Tán: Kết đáp lý do

-Kinh: “Hoa Đức! Diệu Âm cho đến vô lượng chúng sanh”.

-Tán: Khen ngợi hỏi tu định và Phật lại đáp.

-Kinh: “Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ-tát này cho đến và Đà-lani”.

-Tán: Nêu rõ trong hóa hành. Chúng đương thời được lợi ích. Do nghe hóa hành thâu hoạch lợi thù thắng.

-Kinh: “Khi ngài Diệu Âm cho đến sắc thân Tam-muội”.

-Tán: Đoạn thứ ba việc xong trở về nước có ba: 1. Nêu trở về nước. 2. Tướng các nơi đi qua. 3. Đến rồi bạch.

-Kinh: “Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ-tát cho đến Pháp Hoa Tam-muội”.

Tán: Đoạn thứ tư, thời chúng đắc đạo, đều nghe một phẩm liền được lợi ích thù thắng.

 

PHẨM QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

Phẩm này chia làm ba môn:

1. Vì sao có phẩm này. 2. Giải thích tên phẩm. 3. Giải đáp các vấn nạn.

1- Vì sao: Luận chép: năng Lực cứu chúng sanh khỏi các nạn chính là Quan Thế Âm. Phẩm Đà-la-ni nói thị hiện, Quán Âm cứu nạn cho các chúng sanh chưa phát tâm khiến họ lìa các khổ phát tâm trì kinh. Đà-la-ni nói cứu nạn cho người đã phát tâm trì kinh, khiến họ lìa khổ trì kinh. Lại Quán Âm dùng mắt trời, thiên nhĩ, tha tâm thông che chở người trì kinh. Đà-la-ni nói hai Thánh, hai trời, mười thần dùng minh chú hộ vệ người trì kinh. Lại Quán Âm niệm người cứu nạn, Đà-la-ni tụng pháp cứu nạn, lực trì Kinh đã lìa các khổ nạn; nếu không gia tăng dùng phương pháp dễ cứu, sợ khó tu nghiệp trì kinh, cho nên dùng công dễ giúp thành nghiệp khó, do khuyên trì kinh nên có phẩm này.

2- Giải thích tên phẩm: Quán là quán sát cứu giúp từ bi, Thế nghĩa là có khả năng phá hoại, thể tức sanh tử hữu tình thế gian, Âm là âm thanh ngữ nghiệp của hữu tình. Thế gian hữu tình khởi âm thanh để nhớ nghĩ về. Bồ-tát dùng đại từ bi rũ lòng xem xét thuận theo cứu giúp gọi là Quán Thế Âm, chánh nghĩa nên gọi là Quán tự tại. Ba nghiệp qui y thì sáu thông thùyhóa, không bị nguy hại phi luân dẹp trừ, làm người bạn không mời, ứng bệnh cho thuốc, nhiếp lợi khó nghĩ bàn gọi là Quán tự tại. Bồ-tát như trước nói. Phổ: Là nghĩa bình đẳng trùm khắp. Môn: Là lý do nơi chốn ra vào, nơi tam nghiệp qui y ắt lục thông thùy cứu bình đẳng. Đây chỉ bày lý do nơi chốn xuất khổ nhập lạc cho nên gọi là Phổ Môn. Thần thông, ký nói, giáo giới tam luân là nơi chốn lìa khổ, do tạo nhân nhập tịch tịnh là thể Phổ Môn. Nhưng có người khổ nhiều phát ra tiếng để nhớ nghĩ, đại bi ắt ứng niệm để đến cứu vớt nên gọi là Quán Âm. Phẩm này nói rộng nghĩa nên gọi là Phẩm Quán Thế Âm Phổ Môn.

3- Giải đáp các vấn nạn: Hỏi: Bồ-tát đại bi quán thấy khổ liền cứu, vì sao đợi niệm sau mới rủ lòng thương cứu?

Đáp: Chúng sanh vô tâm mà Phật cứu, Đại Thánh không thông tự phát ý mà hy vọng duyên, các Thánh đồng phép tắc, trước nhân nơi tự nghiệp mình sau mới nhờ duyên. Tự đã không tu, duyên đâu có tạo tác cho nên phải đợi nhớ nghĩ mới cứu giúp. Dù có tự tu mà chưa giải phương tiện, cần phải nhờ bạn lành chỉ bày khổ mới diệt.

Hỏi: Tất cả Bồ-tát đều có khả năng này, vì sao Quán Âm riêng bao trùm hiệu này ư?

Đáp: Bổn nguyện khác nhau việc lợi sai khác, nối dõi Phật Vô lượng thọ sẽ làm Bảo Quang Công Đức Nói Vương Phật, cho nên riêng nêu.

-Kinh: “Lúc bấy giờ ngài Vô tận ý Bồ-tát cho đến tên là Quán Thế Âm”.

-Tán: Phẩm văn chia làm bốn:

  1. Hỏi đáp nhân có tên đó.
  2. Hỏi đáp hóa hành.
  3. Trì Địa khen ngợi.
  4. Kết thành thời ích lợi.

Hai văn đầu có tụng. Văn đầu có ba: 1. Hỏi nguyên nhân gọi tên. 2. Đáp tự nghĩa. 3. So sánh trì danh công đức hơn kém. Đây là phần đầu. Vô tận ý: Kinh A-sai-mạt nói: Hành lục độ tứ nhiếp cho đến các hành thệ độ chúng sanh, cõi chúng sanh tận, Bồ-tát ý mới tận, chúng sanh chưa tận thì Bồ-tát ý cũng không tận cho nên gọi là Vô tận ý.

Trong Kinh Thập Địa nói dùng câu mười cùng giới thành các đại nguyện: 1. Nhất thiết cõi chúng sanh tận. 2. Thế cùng giới. 3. Hư không tận. . Pháp cùng giới. . Niết-bàn cùng giới. 6. Phật ra đời cùng giới. 7. Như-lai trí cùng giới. 8. Tâm sở duyên cùng giới. 9. Phật cảnh trí nhập cùng giới. 10. Thế giới xoay bánh xe pháp trí chuyển cùng giới. Lại như cõi chúng sanh tận nguyện ta cũng không tận, như thế cõi chúng sanh không tận, nguyện của ta cũng không tận. Cho đến trí Phật chứng nhập nhất thiết cùng giới, xoay bánh xe pháp trí chuyển các pháp tận, nguyện của ta cũng không tận. Kinh Vô Cấu Xứng nói: Tuy đắc Phật đạo xoay bánh xe pháp mà không bỏ Bồ-tát đạo đó gọi là Bồ-tát hạnh, cho nên Bồ-tát này hiệu là Vô tận ý. Tuy các Bồ-tát nguyện hành đều đồng, mà các hiệu có sai khác nguyện đều sai khác, muốn nêu rõ kinh này năng khiến hạnh nguyện đều cũng vô tận. Hỏi tên là muốn khiến nương niệm danh hiệu để dứt khổ, hỏi hành là muốn cho tu hành để mong an lạc.

-Kinh: “Phật bảo ngài Vô tận ý cho đến đều được giải thoát”.

-Tán: Dưới đáp tự nghĩa có ba: Đầu ngữ nghiệp qui y, dùng thiên nhĩ thông tìm tiếng cứu giúp. Kế là “nếu có chúng sanh năng về dâm dục v.v…” là y nghiệp qui y, dùng tha tâm thông quán tâm cứu giúp. Sau nếu có người nữ muốn cầu con trai v.v… là thân nghiệp qui y, dùng mắt trời thông quán sắc cứu giúp. Văn đầu có ba: Trước nói chung có khổ xưng danh liền thoát khổ. Tiếp riêng hiển có nguy xưng danh đều được thoát; sau kết bảo uy thần cao lớn như vậy. Đây là phần đầu. Tức là ba đường tám nạn tất cả khổ nạn, chỉ như Pháp lâm qui mạng thoát khỏi hình phạt bảy ngày, cứu giúp qui y thoát khỏi hại ba đường. Dugià quyển chín nói nghiệp có hai. 1. Định dị thục nghiệp, nghĩa là cố tư nghiệp, hoặc tạo tác hoặc thêm lớn nghiệp. 2. Bất định dị thục nghiệp, nghĩa là cố tư duy việc đã làm mà không thêm lớn nghiệp, hoặc không truy hối không tu đối trị còn có thể thọ quả gọi là thêm lớn nghiệp, nếu truy hối cho đến gọi là không thêm lớn nghiệp; hoặc trước thêm lớn nghiệp do truy hối cho đến gọi là không thêm lớn nghiệp. Như Vị Sanh Oán chưa truy hối trước gọi là thêm lớn nghiệp, truy hối rồi sau gọi là không thêm lớn nghiệp. Quyển thứ sáu mươi nói căn cứ người chưa giải thoát kiến lập định thọ nghiệp. Nói giải thoát: Nghĩa là thế đạo phục đoạn, cho đến đắc Thánh thành Vô học cho đến tức đồng kinh Niết-bàn chưa nhập Phật pháp gọi là quyết nghiệp, nếu nhập Phật pháp gọi là bất định nghiệp.

Đối Pháp quyển thứ bảy nói có năm, cố tư (duy) tạo tác: 1. Người khác dạy bảo. 2. Người khác khuyên thỉnh. 3. Không rõ biết. . Căn bản chấp trước nghĩa là ba độc che lấp tâm mãnh liệt chấp trước sanh khởi các nghiệp. . Điên đảo phân biệt, cho rằng hơn tốt, không có tội hành ác nghiệp. Đối trong năm điều này, hai điều sau hoặc tạo tác hoặc thêm lớn, chẳng phải không thọ dị thục vì tư nặng, ba điều tuy tạo tác mà không thêm lớn, không hẳn thọ dị thục vì tư nhẹ. Đây nói tác: Nghĩa là khởi tác các nghiệp khiến cho nó hiện hành.

Thêm lớn: Nghĩa là khiến tập khí lần chuyển thêm lớn, do đó chỉ nói cố tư nghiệp chỉ có năm. Du-già quyển chín nói: Trừ mười thứ, ngoài ra gọi là cố tư: 1. Mộng. 2. Vô tri. 3. Không cố tư. . Không mãnh liệt, không thường. . Cuồng loạn. 6. Thất niệm. 7. Không ưa muốn. 8. Tự tánh vô ký. 9. Hối hận đã tổn thương. 10. Đối trị thương tổn. Trừ ngoài mười thứ ngoài ra đều là thêm lớn. Tức Du-già quyển chín chép: Thêm lớn nghiệp có sáu, kia có mười thứ không tăng và sáu thứ thêm lớn, không vượt qua Đối pháp, ba không tăng hai tăng, ly hợp y địa vi phân chia nhiều ít. Đối Pháp lại nói quyết định có ba: 1. Tác nghiệp quyết định, do nghiệp lực đời trước cảm thân quyết định, sanh ở trong đời này ắt tạo nghiệp đây, sớm kỳ hạn quyết định trọn không trái vượt, thần lực của Phật cũng không thể cứu. 2. Thọ dị thục định tức thuận định thọ nghiệp, quả định đương thọ thời chưa định. Nếu không vậy, Đức Phật xuất ứng không có đường ác chúng sanh tạo ác. 3. Phần vị định, nghĩa là thuận ba thời phần vị định nghiệp.

Nếu nghiệp đạo nhiếp: Thì gọi là thuận định nghiệp, gia hạnh, hậu khởi thông định bất định, lại chưa hối, chưa đối trị v.v… gọi là quyết định nghiệp; đã hối đã đối trị cho đến gọi là bất định nghiệp. Du-già quyển mười nói ba nghiệp: Thuận hiện, thuận sanh, thuận hậu thọ nghiệp. Quyển sáu mươi nói bốn nghiệp: 1. Dị thục định. 2. Thời phần định. 3. Nhị câu định. . Nhị câu bất định Duy Thức cũng nói bốn: Nghĩa là ba thời và bất định. Luận Hiển Dương quyển chín nói năm loại nghĩa là ba thời và thọ báo định, tác nghiệp quyết định, đều như Dugià quyển chín, lược nói sợ rườm rà nên lại thôi. Cho nên niệm Quán Âm, duyên lành thấm nhuần, tự tâm hối thẹn khổ não đều thoát. Cũng có giải thích nói: Kia không thêm lớn và bất định nghiệp có thể được chuyển diệt, kia ba thời quyết định nghiệp và báo định thời bất định chỉ nhẹ bớt chẳng hoàn toàn làm cho dứt hết. Kim Cương Bát-nhã chép: Tội nghiệp đời trước đáng đọa vào đường ác, do trì Kinh nên làm người khinh thường, tội nghiệp đời trước liền bị diệt sẽ đắc Bồ-đề, không nói hoàn toàn diệt. Lại Kinh Hiền Ngu nói: Ương-quật-ma-la tuy đắc A-lahán, vì hiện nghiệp có quả nên bị lửa đốt đốt. Lại nói thành Ca-tỳ-la trừ một đồng tử, còn lại nam nữ đều đắc sơ quả thánh nhân không nên bị lưu ly sát hại, kia quyết định tạo nghiệp Đức Phật còn không bát bỏ được huống chi thọ quả ư! Tại giải thoát lại gọi là bất định, y bất định nghiệp nói đây cũng không đúng. Nếu đắc A-la-hán tất cả bất thiện tận, nghiệp nào thọ quả ư? Tại sơ quả nhị quả bất thiện chưa tận, không chướng nơi quả kia đâu ngăn ngại cũng thọ! Trong Kinh Bát-nhã không nói diệt hết nêu tâm vi tế, chí thành khẩn thiết thọ trì kinh kia tất cả không thọ. Nếu không vậy thì năm vô gián tội đều quyết định nghiệp. Vị Sanh Oán vương làm sao hối rồi tất cả không thọ chịu.

Thập Địa luận chép: 1. Cảm báo định. 2. Tác nghiệp định. Chư Phật uy thần không thể chuyển, nói tự mình không phát sanh hối hận hổ thẹn, không nhập Thánh đạo là nghiệp quả quyết định, không phải hối hận hổ thẹn rồi có thể gọi là định nghiệp. Kinh Pháp Cú nói: “Chẳng phải giữa hư không chẳng phải trong biển, chẳng vào trong núi sâu, không có nơi chốn thoát ra mà không thọ nạn”. Cũng căn cứ người không gặp Phật Bồ-tát cho đến khởi tâm hối hận hổ thẹn mà nhập đạo, tức quyết định nghiệp báo. Do đây, Kinh nghiệp báo sai khác nói: Nếu nghiệp tăng thượng tâm, làm không hổ thẹn, làm rồi, làm nữa, không có tâm cải hối đó là nghiệp quyết định; hoặc nghiệp không phải tâm tăng thượng, tuy tạo ác nghiệp mà lòng thường hổ thẹn đó là nghiệp bất định. Chỉ biết các nghiệp chẳng hối hận, phi đạo làm tổn Phật có thể có thọ

lãnh quả bị tổn hại liền không có nghĩa thọ quả. Nhưng Kinh nói Chỉman cho đến A-la-hán còn thọ nghiệp quả. Khi còn trú trong phàm phu hoặc sơ quả nhị quả, nay thân quyết định đắc A-la-hán từ đó đặt tên, chẳng phải khi thọ quả gọi là A-la-hán. Lại gặp duyên tốt cần phải phát tâm hối lỗi tàm quý nhập Thánh đạo tội nghiệp mới trừ, tuy gặp duyên tốt mà không có tâm hối cải tám quí thì cũng không thể nhập Thánh đạo, cho đến Chư Phật cũng không thể chuyển. Dòng họ Thích ở thành Ca-tỳ-la bị sát hại, tuy đắc sơ quả nhưng biệt báo nghiệp ở sơ quả không thể trừ. Lại chẳng chịu lắng nghe Đại thừa hối hận hổ thẹn thâm tâm khẩn thiết cho nên thọ nghiệp trước. Chỉ nghe qua Đại thừa mà siêng năng tha thiết hối hận thì cũng không bị sát hại, đắc A-la-hán không thọ các khổ, cho dù có bị sát hại cũng chẳng phải nghiệp quả; không vậy thì Chỉ-man giết người cả ngàn chỉ thiếu một người vì sao đắc Thánh quả! Lại nữa nếu không có tâm hối hận hổ thẹn và phục đoạn diệt các tội nghiệp, thì hữu tình bèn không có kỳ hạn được thọ Thánh vị, do đó nên biết nói đầu nói là tốt ứng đồng Niết-bàn Du-già làm chánh.

Kinh: “Nếu có người trì danh hiệu cho đến tên là Quán Thế Âm”. Dưới thứ hai riêng hiển có nguy ách xưng danh đều được thoát, có bảy đoạn chia làm hai: Ba đoạn đầu nói thủy, hoả, phong, tam tai, bốn đoạn sau tạp tai. Đây là đoạn đầu, Hỏa tai lớn nhỏ đều có thể tổn thương, niệm danh hiệu Quán Âm thì tất cả không bị đốt, nước sâu mới có thể tổn hại cho nên được ở nơi cạn. Gió nhẹ không tổn, gió nặng mới tổn thương, hắc phong chắc tổn thương người, do đó riêng nói gặp gió, dù chẳng phải hắc phong cũng đâu bị tổn hại! Đoạn nói gió có bốn: 1. Cầu báu gặp gió. 2. Người thiện dạy niệm. 3. Khỏi tai nạn. . Kết danh nhân.

-Kinh: “Nếu lại có người cho đến liền được giải thoát”.

-Tán: Đây bốn thứ tạp tai:

  1. Hình phạt không tổn thương.
  2. Phi nhân không hại.
  3. Trói buộc được giải thoát.
  4. Oán tặc không tổn hại.

Trói tay gọi là gông cùm, trói chân gọi là xiềng xích tức là gông cùm nói chung là bị lao tù trói buộc. Luận Trí độ nói: Như gió không vào được, như nước không chảy ngược lên hư không không bị hại, không có nghiệp cũng như vậy. Vì sao vô tội bỗng bị tù đày tai ương. Đây căn cứ hiện tại không làm gọi là vô tội, chẳng phải trước không làm. Làm tụng nhà lửa nói: Người chê bai kinh, hoặc bị người khác phản nghịch đoạt cướp trộm cắp như vậy các tội bao trùm rộng lớn tai ương, do trước chê bai kinh cho nên biết có tội. Trong oán tặc không hại có bốn: 1. Trải qua các nạn xứ. 2. Khuyên niệm danh. 3. Y mạng. . Giải thoát. Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói Đức Phật bảo Kiên ý có 1 cây Dược Thọ tên là Diệt trừ, khi Đại quân đánh nhau có vô lượng người bị trúng tên độc, lúc ấy thầy thuốc đem cây Dược vương xoa bôi vào mặt trống ở trong chúng đánh phát ra âm thanh làm vô lượng tên độc đồng thời tự mất Chư Phật Bồ-tát trú trong Thủ lăng Nghiêm Tam-muội lực, có người xưng danh nhớ nghĩ thì vô lượng tội cấu tự nhiên diệt trừ, như một vị đề hồ có khả năng lành các thứ bệnh.

-Kinh: “Vô tận ý cho đến cao lớn như thế”.

-Tán: Kết bảo uy thần tướng mạo cao lớn.

-Kinh: “Nếu có chúng sanh cho đến thường phải một lòng nhớ tưởng”.

-Tán: Đây ý nghiệp qui y, dùng tha tâm thông quán tâm cứu giúp có hai: Trước nói quán ba ý, sau kết uy thần. Lại nêu ba độc không phải chỉ vậy, tất cả phiền não niệm đều diệt.

-Kinh: “Nếu có người nữ cho đến danh hiệu Bồ-tát”.

-Tán: Đây thân nghiệp qui y. Dùng mắt trời thông quán sắc. Cứu giúp, cứu giúp có hai: Trước nói quán hai thân nghiệp, sau kết phước khuyên trì, không phải chỉ từng ấy nghiệp, mà lại theo tình nêu lên.

-Kinh: “Vô tận ý cho đến phước đức lợi ích như thế”.

-Tán: So sánh công đức trì danh hơn kém có bốn:

  1. Vấn.
  2. Đáp.
  3. Thành.
  4. Kết.

Luận này nói so sánh sáu mươi hai hằng hà sa Phật. Kinh đây lại nói sáu mươi hai hằng hà sa Bồ-tát. Đây có hai giải thích: 1. Nói Kinh đúng luận lầm, Bồ-tát đem so sánh, đâu được dùng Phật so sánh với số Bồ-tát? Chỉ như trong kinh Thập Luân chỉ dùng Địa Tạng so sánh với Di-lặc, Văn-thù, Quán Âm, cũng không so sánh với Chư Phật. Nếu không vậy, lẽ ra Đức Phật công đức ít hơn Bồ-tát! 2. Nói y luận cũng không lầm, Quán Âm từ lâu đã thành Phật không xả bỏ Bồ-tát hạnh nên thị hiện làm Bồ-tát, đâu được không sánh với Như-lai ư! Chỉ như Quán Âm thành Phật công đức cõi nước hơn Vô lượng thọ, tất cả Phật thân đâu có hơn kém ư! Cho nên biết chỉ là lời khuyên tín. Tuy Kinh so sánh Bồ-tát, luận giải sánh với Chư Phật cũng không lỗi lầm, cả hai đều không sai. Trong luận giải thành có hai giải thích: 1. Tín lực 2. Rốt ráo biết.

Tín lực có hai: 1. Cầu ngã thân như Quán Âm rốt ráo tin nghĩa là cầu ngã và sáu mươi hai hằng hà sa Phật thân cùng Quán Âm, tín tâm không sai khác, sư cầu Thánh số nhiều ít dù sai khác, nhưng công đức không sai khác, nhân tâm bình đẳng cho đến. 2. Sanh tâm cung kính, như công đức kia Ta cũng đắc rốt ráo, nghĩa là như thân Quán Thế Âm từ lâu đã thành Phật cho nên có trí tuệ công đức, Ta niệm sáu mươi hai hằng hà sa Phật cũng rốt ráo đắc công đức của Chư Phật đây, tin Phật Bồ-tát công đức không sai khác. Hai thứ này là tín lực. Trước là không quán cảnh nhiều ít hơn kém chỉ có tín tâm bình đẳng cho đến sau quán cảnh nhiều ít tuy sai khác nhưng công đức không sai khác, tín tâm cung kính cũng không có hai, cho nên phước không sai khác. Thứ hai rốt ráo biết là quyết định biết pháp giới, đây do Quán Âm đã đắc rốt ráo biết pháp giới cho nên cùng Phật không khác, năng chứng pháp giới bình đẳng không hai, cho nên thành phước bắng nhau cho đến Pháp giới tức pháp tánh nhập Sơ địa Bồ-tát năng chứng thân bình đẳng của tất cả Phật Bồ-tát cho đến Thân bình đẳng: Nghĩa là chân như pháp thân, huống chi Thập địa mãn. Cho nên, thọ trì danh Quán Thế Âm cùng sáu mươi hai hằng hà sa Phật công đức không khác, nếu không như vậy thì Bồ-tát đâu có thể hơn Phật ư! Lại đem số Phật tứng ấy để khen ngợi khuyên phát tâm, Kinh Thập Luân quyển một nói: Giả sử đối với các ngài Dilặc. Diệu Cát Tường – Quán Tự Tại. Phổ Hiền mà làm thượng thủ, hằng hà sa đẳng các đại Bồ-tát ở trong một trăm kiếp dốc lòng qui y xưng danh, niệm tụng lễ bái cúng dường cầu các sở nguyện, không bằng có người chỉ khoảng một niệm dốc lòng qui y xưng danh niệm tụng, lễ bái cúng dường Địa tạng Bồ-tát cầu các sở nguyện, mau được đầy đủ. Lại nữa, như vậy chúng sanh đời mạt pháp có duyên nên nghe, do đó riêng khen ngợi, nếu không như vậy Bồ-tát cũng lẽ ra hơn Phật, các vị Bồ-tát lẽ ra có hơn kém.

-Kinh: “Vô tận ý cho đến việc đó thế nào”.

-Tán: Dưới đoạn lớn thứ hai vấn đáp hành hóa có bốn:

  1. Vấn.
  2. Đáp.
  3. Dâng cúng.
  4. Kết bảo.

Đây là phần đầu. Du là dạo đi tự lợi tức là thần thông; vì nói pháp là giáo hóa lợi tha, lực phương tiện nghĩa là hai thứ trên, trí tuệ khéo léo dụng ứng vật tâm để cứu giúp.

-Kinh: “Phật bảo cho đến mà vì đó nói pháp”.

-Tán: Đáp có ba:

  1. Hóa thân nói pháp.
  2. Kết trước khuyên bày.
  3. Năng cứu nạn gấp.

Đây là phần đầu, hợp mười chín thứ chia làm tám loại ứng thân Thánh có ba, ứng thân trời có sáu, ứng quân thần có năm. Tâm bình, tánh trực, lời nói thật hành đầy đủ, tuổi già tài vật dư thừa gọi là trưởng giả, giữ đạo tự yên, ít dục, chứa đức gọi là cư sĩ, ở địa vị đến gần tột gọi là tể quan. Ứng bốn chúng có một, ứng phụ nữ có một, ứng đồng nam nữ có một, ứng bát bộ có một, ứng thần cầm chày kim cương có một, tay cầm Kim cương Quán Âm khác tượng.

-Kinh: “Vô tận ý cho đến là vị Thí Vô úy”.

-Tán: Trong đây có hai:

  1. Kết trước khuyến bày.
  2. Năng cứu giúp gấp nạn. Thí độ có ba: 1. Tài. 2. Vô úy. 3. Nói pháp. Nói pháp là pháp thí, cứu nạn là vô úy thí, khiến được châu báu là tài thí.

-Kinh: “Vô tận ý cho đến Tháp Phật Đa-bảo”.

-Tán: Dâng cúng có bảy:

  1. Bạch Phật.
  2. Dâng cúng.
  3. Quán Âm không nhận.
  4. Trình bày bạch thỉnh nhận.
  5. Phật dạy khiến nhận.
  6. Quán Âm nhận.
  7. Chuyển thí cúng dường Ruộng phước khó gặp nên thí thuận đạo lý nên chân chánh hành nên cầu Bồ-đề nên gọi là pháp thí.

Không thọ có ba: 1. Thiểu dục. 2. Pháp nhĩ. 3. Chuyển thí. Sợ trái với tâm kia do đó không nhận. Bài kệ trong Luận Đại Trang Nghiêm chép:

Nếu chuyền tay bố thí

Tay ấy gọi “Nghiêm thắng”

Người nhận co tay lấy

Nghiêm thắng lại hơn kia

Nếu nói Ta thí cho

Lời ấy giá khó lường

Người nhận nói ta đủ

Khó lường lại hơn kia.

Trong kinh Thiên Thỉnh Vấn Đức Phật cũng nói: Người thí gọi là được lợi, người nhận gọi là mất lợi, cho nên Bồ-tát không chịu thọ nhận. Vì thương bốn chúng nên mới thọ nhận: 1. Là khiến tùy hỷ. 2. Là muốn học hạnh cứu khổ nạn nên gọi là Thương.

-Kinh: “Vô tận ý cho đến thế giới Ta bà”.

-Tán: Kết bảo.

-Kinh: “Lúc bấy giờ cho đến gọi là Quán Thế Âm”.

-Tán: Dưới tụng lại hai nghĩa Danh và Hạnh ở Văn xuôi nói. Chia làm hai: một hàng tụng hỏi, hai mươi lăm năm hàng sau tụng đáp. Một hàng đầu, chỉ hỏi nguyên nhân tên gọi gồm đáp hành hóa.

-Kinh: “Đấng đầy đủ tướng tốt cho đến hay diệt khổ các cõi”.

-Tán: Dưới Phật bảo chia làm bốn:

  1. Ba hàng tụng nói chung hứa nói.
  2. Mười hai hàng tụng chánh đáp nguyên nhân tên gọi.
  3. Ba hàng tụng đáp hành hóa.
  4. Bảy hàng tụng khen ngợi công đức khuyên qui y.

Đây là phần một. Chia làm ba: Một hàng tụng tổng đáp ứng các phương, danh hạnh cùng nói, tiếp một hàng tụng bàn luận nhân hạnh xưa, phát nguyện gặp duyên nhiều kiếp tu hành hạnh không thể nghĩ bàn, sau một hàng tụng trình bày danh hạnh, tai mắt từng nghe thấy, để tâm niệm không lầm lẫn, định năng diệt khổ.

-Kinh: “Nếu như sanh lòng hại cho đến liền đặng tiêu tan hết”.

-Tán: Đây mười hai hàng tụng chánh đáp nhân nơi tên gọi chia làm chín: một hàng trừ nạn lửa, một hàng trừ nạn nước, hai hàng trừ nạn núi, hai hàng trừ nạn đao, một hàng trừ nạn giam cầm, một hàng trừ nạn nguyền rủa, là chú thuật vậy. Dùng lời thiện ác chúc nhau gọi là chú, trớ là trở, khiến người hành sự cản trở đối với lời nói có châm biếm, chẳng phải nghĩa đây. Như Thầy thuốc giỏi ban đầu động đến người bệnh xem sau khiến cho thuốc lành, cho nên ban đầu bám lấy bổn nhân sau khiến phát sanh ý thù thắng. một hàng là trừ nạn phi nhân hai hàng trừ nạn đường ác. một hàng Trừ nạn thiên tai. Mây kéo sấm nổ, Tây vức gọi là tiếng mây, sét đánh phương đây gọi là âm dương chạm nhau lóe sáng.

-Kinh: “Chúng sanh bị khổ ách cho đến dần đều khiến dứt hết”.

-Tán: Đây đáp hạnh hóa. một hàng tụng nói chung trừ khổ, một hàng tụng năng hiện các thân, một hàng tụng biệt chỉ bày trừ khổ.

-Kinh: “Chân quán tanh tịnh quán cho đến cho nên phải đảnh lễ”.

-Tán: Đây sau bảy hàng tụng khen ngợi công đức khuyên qui y chia làm sáu, một hàng nêu năm quán khuyên nguyện thường chiêm ngưỡng. Có bản dùng chữ “sẽ” không đúng. Hiện thường nguyện chẳng phải đang mới bắt đầu nguyện; một hàng nêu đại trí năng diệt tai nạn; một hàng nêu pháp thí năng trừ phiền não. Đại bi thế giới tợ như sấm động, nói răn khuyên mới nói giới đầy đủ. Văn xưa dùng chữ răn bảo. Ý từ che phủ như diệu đại vân. Có bản dùng Từ âm đây là chép lầm. Tiếng phạn gọi là Mai dát lợi mạt na; một hàng tụng vô úy thí năng trừ sự sợ hãi; một hàng nêu tài thí năng trừ nghèo khổ cũng như sóng biển chắc chắn ứng thời năng diệt các khổ. Nhân Kinh khởi niệm đây có năm âm: Diệu âm ban vui, Quán Âm cứu khổ, Phạm âm tịnh sâu, Triều âm ứng thời, Thắng âm ra đời. Hai hàng sau khuyên niệm.

-Kinh: “Bấy giờ ngài Trì Địa Bồ-tát cho đến công đức không ít”.

-Tán: Bồ-tát Trì Địa khen ngợi. Kinh Bảo Vân nói Bồ-tát có mười pháp gọi là Trì Địa Tam-muội:

1. Như đất rộng lớn vô lượng vô biên, Bồ-tát cũng vậy công đức trí tuệ trang nghiêm nguyện hạnh vô lượng vô biên.

2. Như đất cho chúng sanh nương ở, đều thuận theo ý muốn hợp xứng ý cung cấp đầy đủ cứu giúp không ngăn ngại, Bồ-tát cũng vậy, lục độ hành đủ thảy đều ban cho tâm không ngăn ngại.

3. Như đất không tốt xấu có báo hơn cũng không vui buồn, Bồ-tát cũng vậy nuôi dưỡng chúng sanh không mong báo đáp.

4. Như đất mây mưa rót khắp thảy đều dung nạp kham nổi tất cả, Bồ-tát cũng vậy, tất cả Chư Phật hưng khởi mây đại bi mưa pháp thấm khắp như các pháp ấy thảy đều thọ trì.

5. Như đất tất cả cỏ cây lùm rừng và cùng chúng sanh đi đứng nằm ngồi thảy đều y đó, Bồ-tát cũng vậy, tất cả chúng sanh tu hành đường lành, Nhị thừa học pháp Niết-bàn đều nhân Bồ-tát mà có.

6. Như đất tất cả hạt giống nương sanh, Bồ-tát cũng vậy tất cả thiện nghiệp hạt giống trời người đều y Bồ-tát mà được lớn lên.

7. Như đất năng xuất tất cả các báu, Bồ-tát cũng vậy công đức thiện bảo tất cả sự an vui đầy đủ đều xuất từ Bồ-tát.

8. Như đất xuất các thuốc hay năng trị các bệnh, Bồ-tát cũng vậy, năng xuất tất cả pháp dược, năng trừ tất cả các bệnh phiền não.

9. Như đất gió nhổi không năng động, ve ong bọ hung không thể làm tổn hại, Bồ-tát cũng vậy, tất cả các duyên trong ngoài bức não không thể nhiễu động.

10. Như đất Sư tử hống rồng voi sấm chớp không thể làm kinh sợ, Bồ-tát cũng vậy, tất cả chín mươi lăm thứ ngoại đạo không thể lay động. Có đủ mười việc này Bồ-tát gọi là Trì địa Tam-muội, đắc Trì địa Tam-muội nên gọi là Trì địa, hoặc tu trì mười địa gọi là trì địa. Nói tự tại: Nhiếp luận, Hoa Nghiêm đều nói mười thứ.

Hoa Nghiêm nói: 1. Tuổi thọ tự tại vô biên kiếp trú. 2. Tâm tự tại xuất vô số định nhập thâm trí. 3. Trang nghiêm tự tại năng trang nghiêm tất cả cõi nước, cho nên Nhiếp luận gọi là Chúng cụ tự tại. 4. Nghiệp tự tại tùy thời thọ báo. 5. Sanh tự tại ở trong các cõi thị hiện sanh. 6. Giải thoát tự tại thấy tất cả cõi, Chư Phật đầy đủ nên Nhiếp luận gọi là Thắng giải tự tại. 7. Dục tự tại tùy thời cõi nước thành Bồ-đề. 8. Thần lực tự tại thị hiện tất cả thần biến. 9. Pháp tự tại thị hiện vô lượng vô biên pháp môn. 10. Trí tự tại trong mỗi niệm thị hiện giác ngộ Như-lai thần lực vô sở úy, Nhưng cùng Nhiếp luận giải thích có chút ít sai khác, hành lục độ đắc rộng như Nhiếp luận, nay đây tức thần lực tự tại, hiện khắp các môn.

– Kinh: “Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn này cho đến tâm chánh đẳng chánh giác”.

-Tán: Kết thành lợi ích đường thời.

 

PHẨM ĐÀ LA NI

Phẩm này chia làm ba môn:

1. Vì sao có phẩm này. 2. Giải thích tên phẩm. 3. Giải đáp các vấn nạn.

1- Vì sao có phẩm này: Luận nói vì che chở chúng sanh bị các nạn như trước đã giải thích.

2- Giải thích tên phẩm: Tiếng phạm Đà-la-ni Hán dịch là Tổng trì, lấy niệm tuệ làm thể, do tóm lược một số bí mật không có nghĩa văn tự, thần lực gia trì uy linh chẳng thể lường dẹp tà trấn ác, dưng chánh dương thiện gọi là Đà-la-ni, phẩm này nêu rõ nghĩa này nên gọi tên Phẩm Đà-la-ni.

3- Giải đáp chướng nạn:

Hỏi: Tổng trì có bốn: Đắc Pháp. Nghĩa, Biện Tài, Từ vô ngại giải, như thứ lớp phối hợp nói bốn. Đây nói gì?

Đáp: Trong văn xuôi nói Pháp, Nghĩa trì, nay đây chú trì, vì hộ hai pháp trước, do đó nêu rõ, không đắc vô sanh pháp nhẫn tổng trì.

-Kinh: “Lúc bấy giờ ngài Dược Vương cho đến công đức rất nhiều”.

-Tán: Phẩm văn chia làm ba:

  1. Nói phước trì Kinh.
  2. Nêu phương thần lực.
  3. Nêu chúng đương thời được lợi ích.

Đây là phần đầu có hai:

Trước hỏi sau đáp. Trong đáp có ba: 1. Hỏi ngược. 2. Đáp thẳng. 3. Phật nói.

-Kinh: “Lúc ấy ngài Dược Vương cho đến được nhiều lợi ích”.

-Tán: Dưới là nói phương thần chú có năm, hợp làm ba loại: Đầu hai Thánh, tiếp hai Thiên, sau mười Thần. Đây Thánh có bốn:

  1. Nêu.
  2. Nói.
  3. Kết thắng.
  4. Phật khen ngợi.

-Kinh: “Bấy giờ ngài Dũng Thí cho đến xâm hủy các Đức Phật đó rồi”.

-Tán: Đây hai Thánh có bốn:

  1. Nêu.
  2. Công đức.
  3. Chánh nói.
  4. Kết thắng.

-Kinh: “Bấy giờ Tỳ Sa-môn cho đến không có các điều tai hoạn”.

-Tán: Nêu hai trời, trong đây văn có ba: Trước nêu, kế nói, sau kết thắng. Tỳ Sa-môn đây gọi Học rộng, là vua ở phương Bắc trong Tứ thiên vương, thường khen ngợi Phật pháp.

-Kinh: “Bấy giờ Trì Quốc Thiên vương cho đến các Đức Phật đó rồi”.

-Tán: Văn sau nói Thiên vương, có ba: Trước nêu, tiếp nói, sau kết thắng. Đây tức Đông diện thiên vương.

-Kinh: “Bấy giờ có những La-sát nữ cho đến pháp sư như thế”.

Tán: Đây mười thần, có bảy:

  1. Nêu danh.
  2. Thỉnh nói.
  3. Chánh nói.
  4. Khuyên chớ não hại Pháp Sư.
  5. Lại nói kệ dụ tội.
  6. Thỉnh thân hộ.
  7. Phật tán dương, có ba:
  8. Tổng khen ngợi.
  9. Biệt khen ngợi.
  10. Khuyên khen ngợi.

-Kinh: “Lúc nói phẩm Đà-la-ni này cho đến đắc vô sanh pháp nhẫn”.

-Tán: Đoạn nói chúng đương thời được lợi ích.

 

PHẨM DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BỔN SỰ

Phẩm này chia làm ba môn:

1. Vì sao có phẩm này. 2. Giải thích tên phẩm. 3. Giải đáp các vấn nạn.

I. Vì sao có phẩm này có hai:

1/ Luận nói công đức thắng lực, phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương thị hiện, đây là nói Tịnh Tạng, Tịnh Nhẫn trì Kinh Pháp Hoa nhân, viên đạo hiển, công đức thắng lực dẫn dắt vua cha hồi tà kiến được thọ ký đương lai thành Phật, đây đều do lực công đức của Kinh Pháp Hoa, nói duyên xưa kia lợi ích thời hội nên có phẩm này.

2/ Trước phẩm Diệu Âm nêu rõ Hoa Đức Bồ-tát thưa hỏi Diệu Âm sở đắc Tam-muội, nhân đây tự đắc Pháp Hoa Tam-muội, nay Diệu Trang Nghiêm Vương tức là Hoa Đức, chưa đắc Tam-muội, trở về trước làm Diệu Trang Nghiêm vốn chấp tà kiến. Nay nói hai con khuyên nói vua cha làm thiện tri thức không phân biệt oán thân, để chỉ bày cho mọi người khiến mở mang kinh này, cho nên có phẩm này.

II. Giải thích tên phẩm: Vua thế tục quý châu báu dùng để tô điểm dung mạo, bỏ tà về chánh, thắng pháp bảo mà làm thể của ngọc cho nên gọi là Diệu Trang Nghiêm vương, do nhân duyên đời trước nên gọi là bổn sự.

III. Giải đáp các vấn nạn:

Hỏi: Phẩm này chính là nói Tịnh Tạng Tịnh Nhãn làm thiện tri thức, vì sao không lấy đó đặt tên phẩm?

Đáp: Do công đức thì thắng bỏ tà về chánh chính là thân vua Diệu Trang Nghiêm, chẳng phải hai người con, tuy là bạn lành của cha nhờ công đức ấy mà thân nhập chánh, lại trước Hoa Đức tức là Diệu Trang Nghiêm, muốn hợp thân kia nên lấy đặt tên, lại Tịnh tạng Tịnh Nhãn tức Dược vương Dược Thượng, trước đã nêu rõ Dược vương, sợ đề danh lạm nên không nói.

-Kinh: “Lúc bấy giờ Đức Phật bảo cho đến Kiếp tên Hỷ Kiến”.

-Tán: Phẩm văn chia làm bốn:

  1. Trình bày bổn duyên.
  2. Hợp xưa nay.
  3. Khuyên người qui lễ.
  4. Kết thành chúng lợi ích.

Văn đầu lại có bốn: 1. Trình bày thời. 2. Nêu Phật. 3. Nêu Bồ-tát cha con. 4. Nói rộng lên lý do. Đây là hai phần nêu thời và Phật.

-Kinh: “Trong pháp hội của Phật cho đến hai tên là Tịnh Nhãn”.

-Tán: Nêu Bồ-tát cha con.

-Kinh: “hai người con đó cho đến cũng đều thấu suốt”.

-Tán: Rộng nêu rõ lý do có bốn:

  1. Khen ngợi đức của hai con.
  2. Nêu thời Phật nói pháp.
  3. “Lúc bấy giờ Tịnh Tạng Tịnh Nhãn” cho đến nêu hai con giáo hóa cha.
  4. “Vua Diệu Trang Nghiêm liền đem nước giao cho em” cho đến xuất gia thu hoạch lợi ích.

Đây là phần đầu, chia làm ba: 1. Nêu thành phước trì. 2. Riêng nêu bốn đức. 3. Nêu bảy định. bốn đức: 1. Lục độ. 2. Phương tiện khéo léo có mười hai: Bi tâm, cố luyến, hiểu biết các hành, ưa diệu trí Phật, thường ở trong sanh tử, luân hồi không nhiễm, tinh tấn mạnh mẽ, sáu thứ này là bên trong. Khiến dùng ít thiện cảm quả vô lượng, khiến dùng chút sức nhiếp đại gốc lành, người ghét Thánh giáo thì trừ nhuế não người, trú ở giữa đó khiến kia hướng vào, đã vào rồi khiến cho thành thục, đã thành thục rồi khiến được giải thoát, sáu thứ này là ngoài. 3. Tứ vô lượng. . Ba mươi bảy đạo phẩm. Trong các Tammuội tịnh là đoạn chướng chứng chân. Nhật tinh tú: là mặt trời rộng lớn phá như các ngôi sao phá tan sự tối tăm, cho nên Tịnh quang là phát ra ánh sáng lớn, Tịnh sắc là hiện các sắc mầu nhiệm, Tịnh Chiếu Minh là chiếu sáng Phật pháp, Trường trang nghiêm là chứng đắc công đức không khô héo, Đại uy đức là khởi thần thông.

Lúc ấy Đức Phật kia… nói kinh Pháp Hoa này.

-Tán: Nói về Phật đương thời nói pháp.

-Kinh: “Bấy giờ Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn cho đến nên nghe và tin nhận”.

-Tán: Hai con giáo hóa vua cha có năm:

  1. Thưa mẹ đến chỗ Phật.
  2. Mẹ sai con giáo hóa cha.
  3. Theo lời dạy hành hóa.
  4. “Lúc đó nơi hậu cung của vua Diệu Trang nghiêm vương có tám muôn bốn ngàn người” cho đến tín tâm qui y Phật.
  5. “Lúc đó Đức Phật kia nói pháp cho vua nghe” Đức Phật ứng dẫn dắt lợi ích. Đây là phần đầu có hai: Nêu và giải thích.

-Kinh: “Mẹ liền bảo con rằng” cho đến cùng nhau đồng đi”.

-Tán: Mẹ khiến con giáo hóa cha.

-Kinh: “Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn cho đến sanh vào nhà tà kiến này”.

-Tán: Theo lời dạy thực hành giáo hóa có chín:

  1. Hai con hận sanh.
  2. Mẹ khiến nhớ đến cha.
  3. Thuận lời liền hóa.
  4. Cha thấy vui mừng hỏi.
  5. Hai con đều đáp.
  6. Cha trình bày muốn đến.
  7. Báo mẹ thỉnh xuất gia.
  8. Mẹ liền hứa.
  9. Thưa cha mẹ đến chỗ Phật. Đây là phần đầu.

-Kinh: “Mẹ bảo con rằng cho đến qua đến chỗ Phật”.

-Tán: Mẹ khiến nghĩ đến cha.

-Kinh: “Lúc ấy hai người con cho đến tâm thanh tịnh tin hiểu”.

-Tán: Thứ ba, là thuận theo lời nói hành giáo hóa. Trước nêu kế giải thích sau là kết.

-Kinh: “Bấy giờ cha thấy con cho đến con là đệ tử” – Tán: Cha thấy vui mừng hỏi và hai con đều đáp.

-Kinh: “Cha nói với con rằng cho đến xin cho chúng con xuất gia”.

-Tán: Cha trình bày muốn đến. Thưa mẹ xin xuất gia. Thưa mẹ xin xuất gia có hai: Trước nói cha tín tâm, sau xin mẹ xuất gia. Xuất gia rộng lớn dụ hư không. Như Khế Kinh nói: Chim công tuy có màu sắc tô điểm thân mình không bằng hồng hạc năng bay xa, người tại gia tuy có sức giàu sang mà không bằng công đức xuất gia thù thắng. Kinh Thập Luân nói: Hoa Chiêm bác ca tuy héo còn hơn các hoa tươi tinh kiết, các Tỳ-kheo phá giới hành vi ác còn hơn các ngoại đạo tinh tấn, do đó hai con thỉnh xin mẹ cho xuất gia.

-Kinh: “Mẹ liền bảo con rằng cho đến thời gặp Phật cũng khó”.

-Tán: Mẹ liền chấp nhận. Bạch song thân đến chỗ Phật, có ba: Trước nêu thỉnh, kế là giải thích thỉnh, sau kết thỉnh.

-Kinh: “Lúc đó nơi hậu cung của vua Diệu Trang Nghiêm cho đến ưa mến Phật pháp”.

-Tán: Phần Trong con giáo hóa cha thứ tư. Tín tâm qui y Phật có ba: Trước nêu đạo khí kham thành, tiếp hai con khéo hóa, sau mọi người đến chỗ Phật. Đây là hai phần đầu. Trong đạo khí thành có bốn: 1. Hậu cung. 2. Tịnh Nhãn. 3. Tịnh Tạng. . Phu nhân.

-Kinh: “Bây giờ, vua Diệu Trang Nghiêm vương cho đến đứng qua một bên”.

-Tán: Đây mọi người đến chỗ Phật.

-Kinh: “Lúc đó Đức Phật kia cho đến phát ra ánh sáng”.

-Tán: Hai con giáo hóa cha và Phật nên dẫn dắt lợi ích có bốn:

  1. Phật khéo nói pháp.
  2. Vua mở chuỗi chơn châu cúng thí.
  3. Vua nghĩ sắc thân Phật.
  4. Đức Phật hỏi thọ ký thành.

Đây là hai phần đầu.

-Kinh: “Bấy giờ vua Diệu Trang Nghiêm cho đến công đức như thế”.

-Tán: Vua nghĩ sắc thân Phật và Phật hỏi thọ ký thành. Trong Phật hỏi thọ ký thành, gồm hỏi và thọ ký. Trong thọ ký có sáu:

  1. Nhân.
  2. Thể.
  3. Nước.
  4. Kiếp.
  5. Chúng.
  6. Cõi.

-Kinh: “Vua Diệu Trang Nghiêm liền đem nước cho đến trang nghiêm Tam-muội”.

-Tán: Đây rộng nêu lý do, thứ tư xuất gia được lợi ích có sáu:

  1. Xuất gia.
  2. Tu hành đắc định.
  3. Bay lên hư không bạch Phật.
  4. Khen ngợi ấn rộng trình bày.
  5. Từ hư không xuống tán nguyện.
  6. Nói rồi lạy Phật mà ra.

Đây là hai phần đầu.

-Kinh: “Liền bay lên hư không cho đến đến sanh vào nhà con”.

-Tán: Bay lên hư không bạch Phật có ba: Trước bay lên hư không, tiếp chánh bạch, sau kết khen ngợi.

-Kinh: “Lúc đó đức Vân lôi Âm vương cho đến được gặp thiện tri thức”.

-Tán: Khen ngợi ấn rộng trình bày có ba: Trước nêu nhân xưa mới gặp bạn lành, tiếp giải thích nghĩa bạn lành lợi ích, sau nêu nhân hai con là bạn lành. Đây là phần đầu.

-Kinh: “Vị thiện tri thức cho đến tâm chánh đẳng giác”.

-Tán: Đây giải thích nghĩa bạn lành lợi ích có hai: Trước nêu chỉ dạy cho lợi ích vui mừng khiến chứng quả đại Bồ-đề, sau hiển khiến được thấy Phật nhân phát Bồ-đề tâm. Kinh Thiện giới và Bồ-tát Địa nói: Thân gần bạn lành là giới không thiếu khuyết, học rộng tu chứng, ai mẫn, vô úy, kham nhẫn, không lười mỏi, nguyện, ngôn từ biện rõ, gọi là tướng bạn lành, cầu thí lợi lạc ở đây chánh tri, có lực, thiện quyền, nhiêu ích, không xả, đại bi không bè phái, gọi là bạn lành, tạo tác không luống dối, oai nghi viên mãn ngôn hành thuần hậu, không biếng nhác, không ganh ghét, tiết kiệm, tùy xả, can gián, khen ngợi, khiến nhớ, giáo thọ, giáo giới năng vì nói pháp, đó gọi là bạn lành. Có thể làm chổ nương tin, có bệnh không bệnh ái kính, cung cấp, phụng dưỡng, thăm hỏi, nghinh lễ, tu hòa kính nghiệp, bốn việc đầy đủ vật không thiếu, ứng thời, cẩn kính thừa sự vấn hỏi lắng nghe không động gọi là gần gũi. Kinh Niết-bàn chép: Thiện tri thức nghĩa là Phật, Bồ-tát, Bích Chi Phật, Thanh-văn trú trong loài người. Kinh Phương Đẳng nói: Vì sao gọi là Thiện tri thức ư? Vì thiện tri thức năng dạy mọi người xa lìa mười ác tu hành mười thiện nên gọi là thiện tri thức. Lại nữa Thiện tri thức như pháp mà nói, như lời nói mà tu hành. Vì sao gọi là như pháp mà nói, như lời nói mà tu hành? Vì tự mình không sát sanh dạy người không sát sanh, cho đến tự hành chánh kiến dạy người hành chánh kiến, nếu có thể như vậy thì được gọi là thiện tri thức. Người thiện nam! Trăng giữa hư không từ đầu tháng ngày một đến ngày mười lăm dần dần thêm lớn, thiện tri thức cũng giống như vậy khiến người học đạo xa dần ác pháp thêm lớn thiện pháp.

Theo Kinh Hoa Nghiêm Bồ-tát có mười hạng thiện tri thức. Những gì là mười: 1. Năng khiến an trú tâm Bồ-đề. 2. Năng khiến tu tập gốc lành. 3. Năng khiến rốt ráo các Ba-la-mật. . Năng khiến phân biệt giải nói tất cả pháp. . Năng khiến an trú thành tựu tất cả chúng sanh. 6. Năng khiến đầy đủ biện tài hỏi năng đáp. 7. Năng khiến không đắm trong tất cả sanh tử. 8. Năng khiến ở trong tất cả kiếp hành Bồ-tát hạnh tâm không biếng nhác. 9. Năng khiến an trú hạnh Phổ Hiền. 10. Năng khiến thâm nhập trí Phật. Lại thiện tri thức là cha mẹ lớn lên tất cả gốc lành cho ta, lại là vị thuốc hay cứu trị các bệnh, lại làm mắt sáng dắt đường cho chúng ta, lại làm nhật nguyệt khai chiếu mở đường chánh giác ra đời, cho đến nói rộng. Thiện tri thức ấy phạm hạnh hoàn toàn giáo hóa khiến ta thấy Phật gọi là đại duyên, khiến phát vô thượng đại Bồ-đề tâm gọi là đại nhân, do nhân duyên đây khiến chứng Quả Phật gọi là thành Phật sự.

-Kinh: “Đại vương! Ông thấy hai người con này chăng cho đến làm cho trú trong chánh kiến”.

-Tán: Đây nêu rõ nhân hai con làm bạn lành.

-Kinh: “Vua Diệu Trang Nghiêm cho đến như quả tần bà”.

-Tán: Từ hư không xuống tán nguyện có hai: Trước khen ngợi năm đức, sau phát sáu nguyện. Đây là phần đầu. Quả tần bà màu sắc đỏ lại ướt nên lấy làm dụ.

-Kinh: “Bấy giờ vua Diệu Trang Nghiêm vương cho đến chẳng sanh tâm ác”.

-Tán: Dưới phát sáu nguyện: Trước nêu khen ngợi Phật pháp, sau riêng phát sáu nguyện. Hoặc giáo hoặc giới hành các nơi chốn, thảy đền an ổn, chúng sanh lìa ác mà nhiếp thiện.

-Kinh: “Vua thưa lời đó rồi lạy Phật mà lui”.

– Tán: Nói rồi mà lui ra.

-Kinh: “Phật bảo Đại chúng cho đến Bồ-tát”

– Tán: Đoạn thứ hai, hợp xưa nay.

-Kinh: “Dược Vương và Dược Thượng Bồ-tát đây cho đến cũng nên lễ lạy”.

-Tán: Đoạn thứ ba khuyên người qui lễ, gồm khen ngợi và khuyên.

-Kinh: “Lúc Phật nói phẩm này cho đến đắc pháp nhãn tịnh”.

-Tán: Đoạn thứ tư kết thành thắng ích. Đối Pháp Quyển chín chép: Đạo Vô gián năng lìa trần, đạo giải thoát năng lìa cấu, do hai thứ đầy đủ nên gọi là đắc pháp nhãn tịnh chứng sơ quả.

 

PHẨM PHỔ HIỀN BỒ TÁT KHUYẾN PHÁT

Phẩm này chia làm ba môn:

1. Vì sao có phẩm này. 2. Giải thích tên phẩm. 3. Giải đáp các vấn nạn.

1- Vì sao có phẩm này: Luận nói sức hộ pháp, phẩm Phổ Hiền và phẩm sau thị hiện. Phẩm Chúc lụy Phật tự ba phen (tam chu) phó chúc hộ pháp. Phẩm này Bồ-tát khuyên phát mọi người hộ pháp nên có phẩm này.

2- Giải thích tên phẩm: Nhân từ tuệ ngộ gọi là Hiền, đức lợi đủ khắp gọi là Phổ, đây do trong chứng nhất chân, ngoài thành tựu muôn đức, do đó đức lợi đầy khắp nhân từ tuệ ngộ nên gọi Phổ Hiền. Lý thú Bát-nhã nói: Tất cả hữu tình đều là Như-lai tạng, Phổ Hiền Bồ-tát biến tự thể, do chứng lý trùm khắp hiền thiện, năng chứng đạo ấy gọi là Phổ Hiền. Cho nên Kinh Hoa Nghiêm nói: Phổ Hiền thân tướng nương nơi như như, không nương cõi Phật; hoặc do trong chứng lý hiền phổ biến đây, ngoài hiển ba nghiệp không chỗ nào không hiền, nên gọi là Phổ Hiền. Đây chính là đức tự lợi đặt tên. Dỗ dành, khích lệ gọi là khuyên, dẫn dắt chúng sanh gọi là phát, dạy bảo dẫn dắt khiến tin gọi là khuyên phát. Đây chính là đức lợi tha. Trong phẩm này nêu rõ Phổ Hiền Bồ-tát khuyên phát tín tâm trì kinh nhập đạo cho nên gọi là Phẩm Phổ Hiền Bồ-tát khuyến phát.

3- Giải đáp các vấn nạn: Vì sao Phổ Hiền đến khuyên, mà chẳng phải ai khác đến?

Đáp: Muốn nêu rõ Tín thuận đạo chứng Nhất thừa ba nghiệp cử chỉ không gì không hiền.

-Kinh: “Lúc bấy giờ ngài Phổ Hiền cho đến đi quanh bên phải bảy vòng”.

-Tán: Phẩm văn chia làm sáu:

  1. Phổ Hiền đến.
  2. Khải bạch nghe kinh.
  3. Phật bảo bốn pháp.
  4. Phổ Hiền khuyến phát.
  5. Phật Thích-ca khen ngợi và khuyên.
  6. Chúng đương thời được lợi ích.

Đây là phần đầu, có bốn: 1. Từ phương đông đến. 2. Tướng các nơi đi qua. 3. Chúng tùy thuộc theo. 4. Đến rồi qui y đảnh lễ. Kinh Hoa Nghiêm nói: Thân tướng Phổ Hiền nương nơi như như, không nương nơi Phật quốc. Luận Trí độ nói: Mỗi một lỗ chân lông của Bồ-tát Phổ Hiền thường xuất ra thế giới Chư Phật và Bồ-tát trùm khắp mười phương để giáo hóa chúng sanh không dựa vào trú xứ, nay nói từ phương đông đến, là căn cứ một hóa thân ứng cho chúng sanh thấy nghe làm luận.

Kinh Bảo Vân nói: Đại Bồ-tát có mười pháp thiện năng biến hóa: 1. Ở nơi 1 cõi Phật thân bất động, mà năng trùm khắp các cõi Phật thỉnh hỏi nói pháp. 2. Ở nơi một cõi Phật bất động năng trùm khắp các cõi Phật nghe nhận lý sâu xa. 3. Ở nơi một cõi Phật bất động năng trùm khắp các cõi Phật cúng dường Chư Phật mười phương. 4. Ở trong một cõi Phật bất động năng trùm khắp các cõi Phật trang nghiêm Bồ-tát thảy đều đầy đủ. 5. Ở trong một cõi Phật bất động mà cúng dường cung kính khen ngợi ở tất cả cõi Phật, khi mới thành Phật ngồi nơi đạo tràng dưới cây Bồ-đề. 6. Ở nơi một cõi Phật bất động năng dùng tự thân hiện tất cả cõi Phật ngồi nơi đạo tràng hiện thành Phật đạo. 7. Ở nơi một cõi Phật bất động năng hiện khắp các cõi Phật xoay bánh xe pháp. 8. Ở nơi một cõi Phật bất động năng hiện tất cả cõi Phật nhập Niết-bàn. 9. Ở nơi một cõi Phật bất động mà năng ứng thọ hóa ở tất cả cõi Phật, thảy đều hiện thân. 10. Bồ-tát đắc vô tác thần thông ở nơi tất cả mười phương cõi Phật không tác tưởng biến hóa không tác tưởng thần thông, tùy các chúng sanh thích ứng hiện, thảy đều hiện. Xét thấy ngài Phổ Hiền đây từ lâu đã thành Phật nay thị hiện làm Bồ-tát khuyên tu hạnh mầu. Kinh Vô Cấu Xứng nói: Tuy đắc Phật đạo xoay bánh xe pháp mà không bỏ Bồ-tát đạo đó gọi là Bồ-tát hạnh.

-Kinh: “Bạch Phật rằng cho đến Kinh Pháp Hoa này”.

-Tán: Khải bạch nghe kinh, có hai: Trước trình bày ý đến, sau nghi thỉnh. Nghĩa là Phật tại thế, pháp còn khó đắc huống chi sau này Phật diệt độ không có chủ làm sao được nghe kinh đắc văn tư tu sanh tín thuận? Lại Phật còn tại thế thì chúng sanh mê hoặc nhẹ, nghiệp mỏng có thể được nghe Kinh này, sau khi Phật diệt độ chúng sanh nghiệp dày hoặc nặng làm sao được nghe Kinh? Do khó tin khó nghe khó tư khó tu.

-Kinh: “Phật bảo Phổ Hiền cho đến đắc kinh này”.

-Tán: Phật bảo bốn pháp chia làm ba: Trước nêu, tiếp hiển, sau kết. Bốn pháp là:

1/ Chư Phật giữ gìn, nghĩa là căn cần thuần thục. Luận Bát-nhã nói: Khéo giữ gìn các Bồ-tát vì các Bồ-tát căn thuần thục, mà nói người căn chưa thuần thục nghe danh còn chưa đắc, căn đã thuần thục nghe liền có thể đắc giáo và lý.

2/ Trồng các cội công đức, cần trước phải song tu hai nhân phước tuệ, khởi các căn Tin cho đến mới được nghe kinh cho đến.

3/ Nhập chánh định tụ là chánh kiến quyết định.

4/ Phát tâm đại bi cứu độ tất cả chúng sanh.

Trước là đạo tư lương năng nghe năng tư duy, tiếp là gia hạnh đạo năng tu định quán, tiếp là kiến đạo năng chứng lýsau, sau là tu đạo năng tập năng chứng. Y bốn vị này đều tăng thượng. Lại ngoài gặp Phật hộ, trong tu gốc thiện, quyết định không chê bai, từ bi rộng lớn, tức đều ở Địa tiền mới có thể đắc ngộ giáo lý của Kinh. Nhưng y Du-già chánh định tụ chủ yếu nhập sơ địa, đây nói không như vậy.

-Kinh: “Lúc đó ngài Phổ Hiền Bồ-tát cho đến trong đời ác trược”.

-Tán: Phổ Hiền khuyến phát có bốn:

  1. Nêu hộ trì.
  2. Cho hiện đời lợi ích.
  3. “Hoặc chỉ viết chép người ấy mạng chung sẽ sanh lên cõi trời Đao lợi” cho đến là đời sau được lợi ích.
  4. “Có công đức lợi ích như vậy” cho đến kết chuyển phát tâm.

Đây là phần đầu. Kinh Đại Tập Nguyệt Tạng phần nói: Sau khi Phật diệt độ cho đến năm trăm năm đầu giải thoát vững chắc, năm trăm năm tiếp thiền định vững chắc, năm trăm năm tiếp học rộng vững chắc, năm trăm năm tiếp tạo tháp chùa cho đến phước đức vững chắc, năm trăm năm tiếp đấu tranh vững chắc. Đây có ba giải thích: 1. Nói nay đang ở thời kỳ pháp một ngàn năm, sau chánh pháp cho nên nói au năm trăm năm. 2. Nói nay đang thời kỳ thứ năm – năm trăm năm, trong đây nói sau năm trăm năm tức sau cùng. Theo hai giải thích trên trước sau có thọ trì Kinh, tuy chẳng phải không có hộ trì, mà trong thời sau người nhiều tệ ác, người tin khó nên cần phải ửng hộ. 3. Nói Thế tôn ký biệt thời phần, mỗi một chủng loại đều năm trăm năm đều gọi là sau khi diệt độ năm trăm năm các thời này Bồ-tát đều gia hộ. Do ủng hộ trong Thập Địa luận nói có ba hộ pháp: 1. Hộ giáo pháp, là viết chép đọc tụng vì người khác nói. 2. Hộ hành pháp là tư duy tu tập trong lúc tu hành có các chướng nạn mà nhiếp thọ cứu hộ. 3. Hộ chứng pháp tam Phật Bồ-đề, nhiếp chứng pháp đây giáo hóa chuyển thọ. Tức nói rõ Bồ-tát thời chánh pháp hộ ba pháp này vì còn có người chứng, thời tượng pháp hộ giáo hành pháp lại không có chứng, sau thời mạt pháp chỉ hộ giáo pháp lại không có hành. Bí yếu của thiền pháp chẳng phải. Đại thừa tông không cần hòa hợp. Kinh Bi Hoa và Chân Đế nói sau khi Như-lai diệt độ sau năm mươi năm, theo lý sợ văn lầm. Có nói nói sau người diệt độ năm mươi năm cho nên không trái nhau.

-Kinh: “Nếu có người thọ trì cho đến đều chẳng được tiện lợi”.

-Tán: Cho hiện đời lợi ích có ba:

  1. Nêu ba phẩm tu cho lợi ích sai khác.
  2. “Nếu Kinh Pháp Hoa lưu hành trong cõi Diêm-phù-đề” cho đến nêu rõ kinh lưu hành ở đời là Phổ Hiền lực.
  3. “Nếu có người thọ trì đọc tụng” cho đến là người năng hành cùng hợp với hạnh Phổ Hợp.

Trong văn đầu hạng hạ phẩm thọ trì được gia hộ, tiếp “Người đó hoặc đi cho đến” là trung phẩm thọ trì được gia hộ. Sau: “Thế tôn! Nếu đời sau cho đến.” là người thượng phẩm thọ trì được gia hộ. Đây nói hạng hạ phần có hai: Trước nêu tất cả pháp, ác nhân không tiện lợi, sau riêng nói mười hai thứ phi nhân cũng không được tiện lợi.

-Kinh: “Người đó hoặc đi cho đến Đà-la-ni”.

-Tán: Hạ trung phẩm thọ trì được gia hộ. Có bốn:

  1. Khi đọc kinh được gia hộ.
  2. Khi suy nghĩ kinh được gia hộ.
  3. Khi quên khiến cho được nhớ.
  4. Cho thấy thân Bồ-tát để tăng tiến.

Tăng tiến có ba: 1. Thấy để vui tiến tu. 2. Đắc định. 3. Đắc tổng trì. Pháp âm phương tiện là gia hạnh trí định của nói pháp.

-Kinh: “Thế tôn cho đến thần thông lực”.

-Tán: Người thượng phẩm thọ trì được che chở có năm:

  1. Dạy quy tắc hai mươi mốt ngày tu đựơc tinh thông.
  2. Khiến cho thấy thân Bồ-tát trao cho đạo nghe pháp đắc tổng trì.
  3. Người ác không làm tổn hại.
  4. Chánh nói thần chú.
  5. Kết năng lực mình.

Người cầu xin là người cần kinh Pháp Hoa, hoặc phàm là người có mong cầu tốt, có phép tắc cầu, trong ba tuần một lòng siêng năng. Kinh Phổ Hiền Quán nêu hành pháp có năm: 1. Ba tuần liền thấy. 2. Bảy tuần được thấy. 3. Một đời được thấy. . Hai đời được thấy. . Ba đời được thấy. Trong đây xưa nói thượng phẩm tinh tấn, ba tuần thấy, cho đến phẩm thứ năm tu ba đời mới được thấy. Lại đây bất định. Mới thấy thân chỉ thô sơ có thể một tuần, cho đến ba đời được thấy thân thù thắng. Tu sai khác thời dài mới thấy thù thắng. Tinh tấn: Kinh kia nói sáu pháp: 1. Trang nghiêm đạo tràng. 2. Tẩy thân sạch sẽ. 3. Sáu thời lễ bái. . Khải thỉnh lục sư. . Ngày đêm đọc tụng kinh điển Đại thừa. 6. Tư duy đạo lý pháp không sâu xa. Khi tác quán liền thấy Phổ Hiền năng diệt trừ trăm muôn ức na do tha A-tăng-kỳ trọng tội sanh tử, chưa thấy văn nói lục sư. Nay tạm giải thích. Lục sư là: Đức Phật Thích-ca làm Hòa-thượng. Văn-thù-sư -lợi làm A-xà-lê. Di-lặc Bồ-tát làm giáo thọ sư, mười phương Phật làm chứng, mười phương Bồ-tát làm đồng pháp lữ, Phổ Hiền Bồ-tát giới chủ sám hối mới có thể sám hối thọ tam tụ giới cho đến Như vậy khải thỉnh mới thấy Phổ Hiền.

-Kinh: “Nếu Kinh Pháp Hoa cho đến sức uy thần của Phổ Hiền”.

-Tán: Kinh lưu hành ở đời là lực của Bồ-tát Phổ Hiền.- Kinh: “Nếu có người thọ trì cho đến lấy tay xoa đầu.

-Tán: Người năng hành cùng hợp với hạnh Phổ Hiền cho nên Phật xoa đầu.

-Kinh: “Nếu chỉ biên chép cho đến vui chơi khóai lạc”.

-Tán: Đời sau được lợi ích có ba: Hạ phẩm tu sanh cõi Đao Lợi. Trung phẩm tu thọ trì sanh cõi trời Dạ-ma v.v… Thượng phẩm tu ngàn Đức Phật trao tay cho đến đây là phần đầu có ba:

  1. Chỉ biên chép nơi sanh.
  2. Tướng đón rước.
  3. Thân trạng.

Sanh bốn tầng trời dưới cũng là hạ phẩm sanh, lược qua không nêu.

-Kinh: “Huống là thọ trì cho đến đúng như lời dạy tu hành”.

-Tán: Trong đây phẩm tu thọ trì cho đến sanh trời Dạ Ma và hai cõi trời trên không thấy Phật, văn lược vì không có quả.

-Kinh: “Nếu có người cho đến mà ở trong đó sanh”.

-Tán: Đây thượng phẩm tu ngàn Đức Phật trao tay cho đến có bốn:

  1. Được ngàn Đức Phật trao tay.
  2. Khiến không sợ hãi.
  3. Chỗ vãng sanh.
  4. Thấy Bồ-tát.

Trước nói ba phẩm tu sanh, tạm nêu một tướng mà chẳng phải là cùng tận thật lý, thật lý mười pháp hành mỗi mỗi đều có ba phẩm. Chỉ như trung phẩm đã có thọ trì cho đến giải nghĩa, thượng phẩm cũng có tùy theo tự tu tập có thượng hạ. Như lời nói mà tu hành đều có hạ thượng nay chỉ ở trung phẩm nói có, thượng phẩm liền không. Căn cứ một tướng nói mười pháp hành, trên luận Biên trung Biên nói: Tám pháp hành trước là Văn tuệ làm hạ phẩm, thứ chín, là Tu tuệ làm trung phẩm, thứ mười, là Tu tuệ làm thượng phẩm. Trong Văn tuệ: Viết chép, cúng dường, thí cho người, là hạ dễ, lắng nghe, đọc, phương tụng làm trung, thọ trì, khai diễn làm thượng khó. Lại tu pháp hành thứ một, hai, ba là hạ. Thứ hai, bốn, sáu hành là trung. Thứ ba, bảy, tám, chín, mười hành là thượng, tuy có pháp hành giống nhau mà hướng tu đến có khác.

-Kinh: “Có công đức lợi ích như thế cho đến khiến chẳng đoạn dứt”.

-Tán: Bồ-tát Phổ Hiền kết khuyên phát tâm có hai: Trước hiển bày thù thắng khuyên hành, sau hộ pháp khiến hành.

-Kinh: “Lúc bấy giờ đức Thích-ca cho đến danh hiệu Phổ Hiền Bồ-tát”.

*Tán: Đức Thích-ca tán khuyên có ba: Trước khen Phổ Hiền, kế khen ngợi người trì Kinh, sau đối với các tướng trái thuận của hành giả.

Đây là phần đầu có ba: 1. Khen ngợi hộ trợ kinh. 2. Khen ngợi nguyện hạnh. 3. Hộ người trì danh. Khen ngợi nguyện hạnh có ba nhân:

1. Tự lợi. 2. Lợi tha. 3. Khen ngợi người.

-Kinh: “Phổ Hiền! Nếu có người cho đến lấy y trùm cho”.

-Tán: Dưới khen ngợi người trì kinh có bốn:

  1. Thuận theo Phật thực hành.
  2. Lìa các điều ác.
  3. Sẽ được ra đời.
  4. Nhất Định nhàm chán sanh tử.

Đây là phần đầu có sáu: Được thấy Phật biết ba thứ thân lý, trí, hóa. 2. Được tự thân nghe pháp hiểu ý giáo. 3. Vì cúng dường Phật cúng dường pháp. . Vì Phật khen ngợi khế hợp bổn tâm Phật tùy hỷ. . Được Phật dùng tay xoa dạy bảo và được thọ ký. 6. Được Phật lấy y trùm tức được đầy đủ hổ thẹn nhu hòa nhẫn nhục! cho đến – Kinh: “Người như thế cho đến hạnh Phổ Hiền”.

Tán: Lìa các điều ác có năm:

  1. Nhàm Chán vinh hoa thế gian.
  2. Không ưa duyên ác.
  3. Tâm khéo điều tịnh.
  4. Diệt trừ phiền não.
  5. Thiểu dục tu hành.

Không ưa ác duyên trong đó có ba: 1. Tà hạnh. 2. Nghiện Ác. 3. Ngoại đạo tay biên chép kỹ nghệ.

Tâm khéo điều tịnh có ba: 1. Ngay thẳng. 2. Chánh niệm. 3. Phước đức.

Dứt trừ phiền não có ba: 1. Trừ ba độc. 2. Diệt ganh ghét. 3. Bỏ ba mạn.

Trong thiểu dục tu hành cũng có ba: 1. Thiểu dục. 2. Tri túc. 3. Tu hạnh Phổ Hiền hạnh.

-Kinh: “Phổ Hiền sau khi Như-lai diệt độ cho đến trên pháp tòa”.

-Tán: Sẽ được ra đời có năm:

  1. Hướng đạo tràng.
  2. Phá chúng ma.
  3. Đăng chánh giác.
  4. Xoay bánh xe pháp.
  5. Lên pháp tòa.

-Kinh: “Phổ Hiền! Nếu ở đời sau cho đến được phước báo đó”.

-Tán: Định nhàm chán sanh tử có hai:

  1. Không tham vật dụng nuôi sống.
  2. Được hiện quả báo.

-Kinh: “Nếu có người cho đến quả báo hiện tại”.

-Tán: Trong phần nói đức Thích-ca khuyên khen ngợi. Đây đoạn thứ ba, đối với tướng thuận nghịch của hành giả có năm, trong đây có hai:

  1. Người hủy không có mắt do hủy pháp nhãn tịnh.
  2. Người khen ngợi hiện tại thọ báo ruộng tâm đều thù thắng.

-Kinh: “Nếu lại thấy người thọ trì cho đến phải như kính Phật”.

-Tán: Trong đây có hai:

  1. Nói lỗi người mắc bệnh bạch lại.
  2. Khinh cười mắc tội. Khuyên sanh tâm cung kính. Khinh cười mắc tội có mười bệnh, như văn có thể biết. Liệu lệ là cong quẹo cho đến.

-Kinh: “Lúc Phật nói phẩm Phổ Hiền Bồ-tát cho đến làm lễ mà đi”.

-Tán: Chúng đương thời được lợi ích có hai: Trước được lợi ích, sau vâng hành.

Nguyên nhân luận bàn giao tiếp khiến dần thông suốt vượt lên, đạo tục khóa hư mệnh khiến giảng giải kinh điển này không thể tu các nghĩa, liền tự biên tập văn mới, sớm chế tác chiều luận bàn cuối cùng sớ đã xong. Than ôi người ít học hiểu biết nông cạn lý mà ghi chép các lời nói. Kinh điển nghĩa lý sâu xa vụng thành sáng tỏ, lo sợ y nơi thành giáo nhanh nhẹn phân biệt nơi huyền tông còn sợ ý chỉ sai lầm lời nói sơ xuất, đâu uổng chịu viện cứ làm dẫn chứng. Kinh này chính đáng làm quan trọng, ai lại không khen ngợi văn nghĩa u mầu, đã không thể lặng lẽ như vô vi, tạm nương theo dụng trình bày phân biệt, quân tử thông đạt may mắn vì tôi nói lược, vẫn làm kệ tụng:

Đã chọn các kinh làm hạnh lý

Lược khen Nhất thừa chân pháp nghĩa

Nói rộng khế thật thí chúng sanh

Nguyện cùng mau thành quả vô thượng.

Tháng 9 niên hiệu điều lộ năm thứ hai, ở chùa Đại Từ Ân ở Tây Kinh dịch Kinh viện trí luận Sư phòng, viết chép lạc hậu, rộng suy cứu trình bày việc thường xưa cũ, thế lúc ý chí cao quí của Đại vương, khen ngợi nét đẹp của tiểu vương, tại sách số đã định vẫn không ở tâm phân biệt, trong khoảng thời gian đó bỗng nhiên biến hóa, thần tuy mất mà phong cách vẫn còn, thường giảng giải sơ cấp luôn lo nghĩ nhớ tưởng, xin nguyện nương phước thiện ba hội sơ đăng, nhờ đây huân tu mới chứng nhập thượng phẩm trong biển chân như rộng lớn, dạo thuyền Bátnhã dứt bị khổ hữu tình được trí vui Niết-bàn, cùng vô cùng cùng giới vô tận sanh, đều diệt nhân khổ đều đăng quả lạc.

Ngày 11 tháng 7 năm Đinh Mão thuộc Niên hiệu Bảo An Năm thứ ba đã khắc chép xong. Tăng Giác Ấn ở chùa Pháp Long.

Nguyện xin viết chép Kinh Pháp Hoa

Giải thích Đại thừa từ ân ký

Đại Sư cha mẹ đến bảy đời

Cho đến pháp giới mau thành Phật.

Ngày 11 tháng 2 năm Bính Tuất Thiên thừa nguyên niêm nhiếp kiến.

Bắt đầu từ cuối tháng giêng năm ngoái ở chùa Dược Sư thiện minh phòng đắc nghiệp rồi ví lợi ích vãng sanh tịnh độ.

Ngày 13 tháng chạp Niên hiệu Bảo An năm thứ ba ở chùa Hưng Phước viên như Phòng kiểm duyệt xong, vì muốn pháp trú thế lâu dài lợi ích hàng trời người.

Ngày 12 tháng 7 Niên hiệu Đại chánh thứ mười lăm, đối chiếu Giác Ấn năm Sư kiểm duyệt bổn thêm một phen giao rồi, ngày nay đã giảng xong phẩm Tuổi thọ. Hạ an cứ giảng ba kinh, cuốn phần học ở chùa Pháp Long để mong nối nghiệp cho con cháu.

 

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10