DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI TIÊU TRỪ TAI NẠN NIỆM TỤNG NGHI QUỸ

KINH SỐ 922

Hán văn: A Xà Lê NHẤT HẠNH biên soạn
Việt dịch: HUYỀN THANH

 

Trước tịnh: Thân, Khẩu, Ý

Quy mệnh Phật, Pháp, Tăng

Kính lễ Biến Chiếu Tôn

Các Thánh Chúng mười phương

Nay Ta lược diễn bày

Pháp Tiêu Tai Bí Mật

Thế Tôn nói Pháp này

Là tối thắng bậc nhất

Mau ra khỏi sinh tử

Chóng chứng Đại Bồ Đề

Vì thuận Giới chúng sinh

Nói Pháp Trừ Tai Nạn

TĂNG ÍCH, KÍNH (Kính Ái), GIÁNG PHỤC

Người nữ đang mang thai

Sinh con gặp nguy hiểm

Bị bệnh tật, hoạn nạn

Thần Quỷ gây tai họa

Xây dựng Man Noa La (Maṇla: Đàn Trường)

Tô vẽ tượng Bản Tôn

Bốn mươi chín ngọn đèn

Cúng dường Lưu Ly Tôn (Vaiḍurya-nātha)

Ngày đêm luôn chiếu sáng

Dâng hương, hoa, quả, thực (thức ăn)

Năm màu thành phan lọng

Phóng sinh loài chim cá (sinh vật sống trên bờ hoặc sống dưới nước)

Đủ bốn mươi chín ngày

Gia trì chỉ Ngũ Sắc

Cột ở cổ người bệnh

Muốn tu Pháp như vậy

Bậc Trí trước theo Thầy

Thọ Tam Ma Gia Giới

Phát Tâm Đại Bồ Đề

Được Trì Minh, Quán Đỉnh

A Xà Lê ấn khả

Sau đó mới tu trì

Núi rừng, nơi nhàn tĩnh

Bên bờ biển, ao, sông

Hoặc ngay nơi cư ngụ

Lau xoa Man Noa La

Vuông, tròn tùy ý chọn

Đặt hai bình Át Già (Ārgha)

Bên dưới bảy Tôn Vị (vị trí của 7 Tôn)

Hương đốt, hoa, đèn sáng

Thức ăn uống, hương xoa (dầu thơm)

Bày bốn bên Đàn Trường

Sám Hối Tùy Hỷ

Khuyến Thỉnh với Phát Nguyện

Hồi Hướng các Công đức

Tương ứng thành Tất Địa

Thuận theo Giáo , tu tập

Pháp tắc kết Ấn Khế

 

Phật Bộ Tâm Mật Ấn

Định Tuệ (2 bàn tay) buộc bên trong (Nội Phộc)

Cùng duỗi thẳng hai Tuệ (2 ngón cái)

Quán Phật đầy hư không

Tụng Chân Ngôn bảy biến Rồi bung

Ấn trên đỉnh Chân Ngôn là :

“Án, nhĩ nẵng nhĩ ca, sa-phộc hạ”

Do gia trì này nên

Chư Phật đều vân tập (đến dự nhiều như mây)

Tỏa sáng chiếu Hành Nhân

Lìa Chướng mau thành tựu

 

Tiếp kết Liên Hoa Bộ

Tâm Ấn như Khế trước

Co luân Định (ngón cái trái) vào chưởng

Dựng luân Tuệ (ngón cái phải) thẳng đứng

Nên quán Quán Tự Tại (Avalokiteśvara)

Với quyến thuộc Liên Hoa Bên phải các Như Lai

Niệm Chân Ngôn bảy biến Bung

Ấn bên phải đỉnh Chân Ngôn là :

“Án, a lỗ lực ca, sa-phộc hạ”

 

Do gia trì này nên

Chúng Bồ Tát vân tập

Chung việc với Hành Nhân

Mọi mong cầu mãn túc

 

Tiếp kết Kim Cương Bộ

Tâm Ấn như Khế trước

Co luân Tuệ (ngón cái phải) vào chưởng

Dựng luân Định (ngón cái trái) thẳng đứng

Nên quán Kim Cương Thủ (Vajra-pāṇi)

Tất cả Trì Kim Cương (Vajra-dhāra)

Ở bên trái Như Lai

Niệm Chân Ngôn bảy biến Bung Ấn bên trái đỉnh Chân Ngôn là :

“Án, phộc nhật la địa lực ca, sa-phộc hạ”

Do gia trì này nên

Chúng Kim Cương vân tập

Theo BI NGUYỆN của Phật

Hộ vệ người tu hành

Ba nghiệp như Kim Cương

Kiên cố không thể hoại

 

_Tiếp kết Bị Giáp Ấn

Chỉ Quán (2 tay) đều nắm quyền

Cầm Luân ngang lòng tay

Đặt Chỉ Quyền (quyền trái) nơi tim

Quán Quyền (quyền phải) án năm nơi

Trán, hai vai, tim, họng Gia trì bung trên đỉnh Chân Ngôn là :

Án, bộc, nhập-phộc la, đề nha, hồng”

Do Ấn Chân Ngôn này

Gia trì mặc giáp nên

Các Ma chẳng lấn bức

Mau chóng được thành tựu

Trong tất cả Phật Đỉnh

Ấn này: uy đức lớn

Vừa kết Ấn hộ thân

Trời Người đều kính ngưỡng

Tất cả nơi nguy hiểm

Lúc gặp các tai nạn

Thảy đều được an vui

 

_Tiếp chí tâm thành khẩn

Duỗi Luân Sa Ma Tha (bàn tay trái)

Giữ Tỳ Bát Sá Na (bàn tay phải)

Ấn đất niệm Chân Ngôn

Gia trì đủ bảy biến

Chuyển chốn tạp uế này

Thành cõi Phật tịnh diệu (màu nhiệm thanh tịnh) Chân Ngôn là :

“Án, bộ khiếm”

Do gia trì này nên

Thành Tịnh Thổ Bản Tôn

Có Cung Điện báu lớn

Đủ mọi thứ trang nghiêm

Ở trong cung điện báu

Tưởng Dược Sư Như Lai

Chúng Bồ Tát vây quanh

Mà quán Man Noa La

 

_Tiếp kết Nghinh Thỉnh Ấn

Dùng Phật Bộ Tâm trước

Hai Luân (2 ngón cái) hướng thân mời Niệm Chân Ngôn ba biến Chân Ngôn là :

“Án, nhĩ nẳng nhĩ ca, ê ế duệ tứ, bà nga phộc đố sắt-ni sái dã, sa-phộc hạ”

Do gia trì này nên

Tất cả loài gây chướng

Thảy đều mau chạy xa

Cung kính người tu hành

 

_Tiếp hiến nước Át Già (Ārgha)

Rải hoa mùa trên nước

Thuốc báu, hương, hạt giống

Bỏ bên trong bình nước

Nâng lên đỉnh đầu hiến

Niệm Chân Ngôn bảy biến

Tưởng rửa chân Thánh Chúng Xưng ước nguyện mong cầu Chân Ngôn là :

“Nẵng mạc tam mãn đá một đà nẫm. Án, nga nga nẵng, sa ma sa ma, saphộc hạ”

 

Do hiến nước thơm nên

Lìa nhơ được trong sạch

Sẽ được Địa Quán Đỉnh

Chứng Pháp Thân Như Lai

 

_Tiếp hiến Hoa Tòa Ấn

Hoa hé nở năm đỉnh

Tưởng từ Ấn tuôn ra Tòa Liên Hoa Sư Tử Chân Ngôn là :

“Án, ca ma la, tất-dựng hạ, sa-phộc hạ”

*) OṂ_ KAMALA SIṂHA _ SVĀHĀ

Do Chân Ngôn , Ấn này

Bản Tôn và Quyến Thuộc

Đếu nhận Bảo Liên Hoa

Kim Cương Sư Tử Tọa

 

_Tiếp kết các nghi tắc

Phổ Cúng Dường Đại Ấn

Đan chéo các đầu ngón (Kim Cương Hợp Chưởng Ấn)

 

Từ trong Ấn tuôn ra

Đủ mọi thứ cúng dường

Hương đốt, hoa, đèn sáng

Hương xoa, thức ăn uống

Mây biển loại Kỹ Nhạc

Đài, lụa, lầu gác báu

Các toà báu trang nghiêm

Phan, phướng, lọng thắng diệu

Hiền Bình, mọi nước thơm

Đều từ Ấn tuôn ra

Khắp hư không Pháp Giới

Cúng dường khắp Như Lai Bồ Tát và Thánh Chúng Chân Ngôn là :

“Nẵng mạc tam mãn đá một đà nẫm. Tát phộc tha khiếm, ôn ná nga đế, saphả la tứ hàm, nga nga nẵng kiếm, sa-phộc hạ”

 

Liền dùng lực ba nhóm

Diệu Già Đà (Gāthā:Kệ Tụng) chân thật

Thành Tâm niệm ba biến

Tất cả đều thành tựu

Dùng Lực Công Đức Ta

Lực Như Lai gia trì

Cùng với Lực Pháp Giới

Cúng Dường khắp mà trụ

 

_Tiếp kết các nghi tắc

Phật Đại Bi Hộ Ấn

Năm Đỉnh (5 ngón tay) buộc kiên cố

Hợp dựng Đỉnh Luân Thắng (Ngón giữa)

Ấn: Tim, trán, họng, đỉnh Ngang Tự Thể chư Phật Chân Ngôn là :

“Án, một đà muội đát lị, phộc nhật la, lạc khất-xoa, hàm”

Do gia trì này nên

Tất cả nạn Ma Chướng

Và người ác hãm hại

Mau chóng khởi Tâm Từ

 

_Tiếp kết Phật Nhãn Ấn

Nên dùng Tam Bổ Tra (Samputra)

Hai lọng (2 ngón trỏ) giữ lưng Quang (ngón giữa)

Giống hình con mắt cười

Co hai Luân đều giữ

Vằn lóng giữa hai Quang (ngón giữa)

Ấn năm nơi trên thân

Phật Mẫu thường gia hộ

Niệm Phật Nhãn Căn Bản Chân Ngôn là :

“Nẵng mô bà nga phộc đố sắt ni sái dã. Án, lỗ lỗ sa-phổ lỗ nhập-phộc la , để sắt xá, tất đà, lạc tả nễ, tát phộc la tha sa đà nãnh, sa-phộc hạ”

 

Do Ấn Chân Ngôn này

Uy lực gia trì nên

Hay mãn tất cả nguyện

Trừ tất cả Bất Tường (Điều chẳng lành)

Sinh tất cả Phước Đức

Diệt tất cả tội chướng

Hay khiến các Hữu Tình

Thấy nghe được an vui

 

Tiếp Xưng dương tán thán

Công Đức của Bản Tôn

Quy mệnh Mãn Nguyệt Giới

Tịnh Diệu Lưu Ly Tôn

Thuốc Pháp cứu Trời Người

Mười hai nguyện trong Nhân

Từ Bi Thệ rộng lớn

Nguyện cứu các Hàm Sinh

Nay con xin ca ngợi

Cúi đầu chí Tâm lễ

Kết Mật Ấn Căn Bản

Hai tay cùng cài trong

Hơi để cách cổ tay

Nới xa hai, ba Thốn

Đưa Thiền Trí (2 ngón cái) qua lại

Đại Chân Ngôn ấy là :

“Nẵng mô bà nga phộc đế bội sát tử-dạ, ngu lỗ, phệ nhữ ly-dã, bát-la bà, la nhạ dã, đá tha nghiệt đá dã la hạt-đế, tam miệu tam một đà dã_ đát nễ dã-tha: Án, bội sát nhĩ-duệ, bội sát nhĩ-duệ, bội sát tử-dã, tam ma nỗ nghiệt đế, sa-phộc hạ”

Do Bản Tôn này nên

Tụng biến số Chân Ngôn

Bảy lần đến trăm tám (108)

Xả Ấn trên đỉnh đầu

Trình bày Tâm ước nguyện

Đối trước mặt Bản Tôn

Nguyện xót thương chiếu rọi

Trừ tai họa chết chóc

 

_Tiếp cầm chuỗi tràng hạt

Quấn quanh trong hai tay

Gia trì thành bảy biến Dâng chuỗi an trên đỉnh Chân Ngôn là :

“Án, phộc nhật-la ngu ê duệ, nhạ bả, tam ma duệ, hồng”

Do Ấn Chân Ngôn này

Gia trì niệm tràng hạt

Bắt đầu từ MẪU CHÂU

Niệm một lần một hạt

Hết chữ cuối Chân Ngôn

Đến Mẫu Châu quay lại

Chẳng nên vượt Mẫu Châu

Lần qua, bị vượt Pháp

Số lớn vạn tám ngàn (18000)

Giản lược trăm lẻ tám (108)

Sau khi đủ hạn số

Lại nâng chuỗi gia trì

Khải xưng việc mong cầu

Chí Tâm hồi thí khắp

Ấn Chú của Pháp này.Nếu các trai lành , gái Thiện gặp phải nhiều chướng ngại, bị tất cả bệnh tật, sản phụ bị tai ách lúc sinh sản… nguyện mong cầu chuyển họa thành phước và ngăn trừ bệnh nạn khó trị do Quỷ Thần gây ra. Hãy dùng chỉ Ngũ Sắc buộc thành sợi dây rồi gia trì Chú vào. Xong buộc trên cổ tay, cổ chân, eo bụng… của Bệnh Nhân. Nhưng vẫn nên thỉnh 7 Vị Tăng, xây dựng Đạo Trường, làm tượng Bản Tôn, Viết Kinh Dược Sư, hành Đạo 6 Thời, tạo 7 tầng đèn, Phướng ngũ sắc dài 49 xích (thước Tàu). Mỗi ngày chuyển Kinh 49 lần, phóng sinh 49 mạng chim cá (Sinh vật sống dưới nước hoặc ở trên bờ), ân cần cúng dường hoa trái theo từng mùa, Chú lên dây Ngũ Sắc và Phát Nguyện. Lại dùng Ấn Chú gia trì lên dây, đủ 49 biến thì kết 49 gút (1 biến kết 1 gút), lại niệm Chân Ngôn này Gia Trì Chân Ngôn là :

“Nẵng mô la đát nẵng đát la dạ gia. Na mô Kim Tỳ La, Hòa Tỳ La, Di Khư La, An Đà La, Ma Ni La, Tố Lam La, Nhân Đạt La, Bà gia La, Ma Hưu La, Chân Trì La, Chiếu Đầu La, Tỳ Già La. Na mô tỳ xá đồ, cù lưu, tỳ lưu ly gia, bát la phả la xà dã. Đát điệt tha : Án, tỳ xá thí, tỳ xá thí, tỳ xá xà, sa ma yết đế, sa-phộc hạ”

Lại lễ tán Bản Tôn

Kết Bản Tôn Mật Ấn

Niệm Chân Ngôn bảy lần

Lại hiến nước Át Già

Như trước làm cúng dường

Thực hành Phật Đỉnh Ấn

Niệm Minh Cú ba lần

Vòng bên trái giải Giới

Phụng Tống nơi Thánh Chúng

Như Ấn Nghinh Thỉnh trước

Hướng hai Luân ra ngoài

Tưởng tượng trong hư không

Quay trở lại Tĩnh Thổ

Ngự trong cung điện báu

Án, nhĩ nẵng nhĩ ca, nghiệt tha nghiệt tha, bà nga phộc đổ sắt nhị sái dã, sa-phộc hạ”

 

Phụng Tống Bản Tôn xong

Liền kết Phật Tự Hộ

Tam Muội Gia Mật Khế

Gia trì ấn bốn nơi

Liền kết Phật Nhãn Ấn

Chân Ngôn ấn năm nơi

Kết ba Bộ Tâm Ấn

Mỗi Bản Minh ba biến

Lại kết Giáo Hộ Thân

Chân Ngôn ấn năm nơi

Lễ Phật, Pháp ,Đại Nguyện

Tùy ý đi kinh hành

 

DƯỢC SƯ NHƯ LAI TIÊU TRỪ TAI NẠN NIỆM TỤNG NGHI QUỸ ( Hết )

DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI TIÊU TRỪ NẠN NIỆM TỤNG

NGHI QUỸ, một Bộ do A Xà Lê Nhất Hạnh soạn

Chùa Đông Đại, đệ tử Đạt Nhiên may mắn thỉnh được cho nên ngày nay ghi khắc lại Bản đã kiểm tra bản của Khai Sơn Tịnh Nghiêm Hòa Thượng ở Linh Vân với mong ước dùng các cây Tử có tuổi thọ lâu dài để bày ra khắp trời khiến cho 9 nạn Hoạnh Hoành được tiêu tan trong một thời, bệnh nặng của 4 Đại được tiêu trừ trong khoảng sát na

Thời Hưởng Bảo tinh xá, năm Giáp Dần, tháng Chạp, ngày tốt

Hoà Châu Trường Cốc Luân Hạ_ Sa Môn Vô Đẳng cẩn thận ghi

 

Hiệu chỉnh xong vào ngày 10/01/2013