ĐẠI THỪA A TÌ ĐẠT MA TẠP TẬP LUẬN
An Huệ Bồ-tát tập hợp
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 4

Phẩm 1 – 4: PHẨM 3 PHÁP TRONG BẢN SỰ PHẦN

Thế nào là bất thiện? Bao nhiêu là bất thiện? Vì nghĩa gì nên quán bất thiện? Là tự tính, là tương thuộc, là tùy trục, là phát khởi, là đệ nhất nghĩa, là sinh đắc, là phương tiện, là hiện tiền cúng dường, là tổn hại, là dẫn nhiếp, là sở trị, là chướng ngại, đó là nghĩa của bất thiện. Năm uẩn, 10 giới, một phần của 4 xứ là bất thiện. Để xả bỏ chấp trước chẳng phải ngã hợp với pháp nên quán sát bất thiện. Tự tính bất thiện, là trừ nhiễm ô ý tương ưng và Sắc Vô sắc giới phiền não v.v…, ngoài ra là các phiền não và tùy phiền não có thể phát khởi ác hành. Đây là thế nào? Nghĩa là những gì thuộc Dục giới hệ khởi một cách tự nhiên là bất thiện. Nếu tự nhiên khởi có thể phát ác hành cũng là bất thiện, ngoài ra là hữu phú vô ký. Tương thuộc bất thiện, là các pháp tương ưng với phiền não tùy phiền não này. Tùy trục bất thiện, là các tập khí của nó. Phát khởi bất thiện, là nó khởi thân nghiệp, ngữ nghiệp. Đệ nhất nghĩa bất thiện, là tất cả lưu chuyển. Sinh đắc bất thiện, là do quán tập bất thiện nên càm được dị thục như vậy. Do tự tính này tự nhiên lạc trụ nơi bất thiện. Phương tiện bất thiện, là y chỉ thân cận bất thiện trượng phu, nghe pháp bất chính, không như lý tác ý, làm các ác hạnh thân ngữ ý. Hiện tiền cúng dường bất thiện, là tưởng đối trước một thiên chúng quy y theo rồi hoặc trước tiên là do ý giết hại, hoặc trước tiên là do tà ác kiến xây dựng đền miếu tạo nghiệp cúng dường, khiến rộng rãi vô lượng chúng gieo trồng phi phúc. Trước tiên là do ý sát hại xây dựng đền miếu, nghĩa là nơi đó giết bò dê v.v… để cúng tế thiên thần. Trước tiên do tà ác kiến xây dựng đền miếu, nghĩa là nơi đó tự chịu các khổ như nhịn đói v.v… để cầu nguyện cầu phúc. Tổn hại bất thiện, nghĩa là ở mọi nơi phát khởi các thứ tà hạnh thân ngữ ý. Dẫn nhiếp bất thiện, nghĩa là làm các ác hạnh thân ngữ ý rồi, dẫn nhiếp quả dị thục bất ái trong các ác thú thiện thú, hoặc dẫn hoặc mãn. Ở trong ác thú thì thụ đầy đủ quả dị thục dẫn mãn. Ở trong các thiện thú thì chỉ thụ quả mãn. Nghĩa là sinh nơi kia rồi, do sức của ác hạnh chịu khổ nghèo cùng. Sở trị bất thiện, nghĩa là các pháp đối trị sở đối trị. Chướng ngại bất thiện, nghĩa là có khả năng chướng ngại các pháp thiện phẩm, như số với chúng tập v.v…

Thế nào là vô ký? Bao nhiêu là vô ký? Vì nghĩa gì nên quán vô ký? Là tự tính, là tương thuộc, là tùy trục, là phát khởi, là đệ nhất nghĩa, là sinh đắc, là phương tiện, là hiện tiền cúng dường, là nhiêu ích, là thụ dụng, là dẫn nhiếp, là đối trị, là tịch tĩnh, là đẳng lưu, đó là nghĩa của vô ký. Toàn 8 giới, 8 xứ, và một phần của các uẩn giới xứ khác là vô ký. Tám giới là 5 sắc căn, hương giới, vị giới, và xúc giới. Tám xứ cũng vậy. Để xả bỏ chấp trước ngã lìa pháp phi pháp, nên quán sát vô ký. Tự tính vô ký, nghĩa là 8 sắc giới xứ ý tương ưng phẩm, mạng căn, chúng đồng phần, danh cú văn thân. Tương thuộc vô ký, nghĩa là hoại phi uế phi tịnh tâm, tức các tâm tâm pháp được nhiếp thụ trong danh cú văn thân. Phi uế phi tịnh tâm, là hiển thị tâm thiện bất thiện trái nhau. Do danh cú văn thân nhiếp thụ, là hiển thị nghĩa của hành tướng của nó, do ý ngôn môn của nó chuyển. Tùy trục vô ký, tức là hý luận tập khí của nó do danh thân v.v… huân tập tâm, do tập khí này sau hý luận sinh. Phát khởi vô ký, nghĩa là nó gồm các tâm tâm pháp phát khởi thân nghiệp ngữ nghiệp. Đây bao gồm, nghĩa là hoại phi uế phi tịnh tâm, là có danh thân v.v… các hành tướng hý luận bao gồm tâm tâm pháp. Đệ nhất nghĩa vô ký, nghĩa là hư không phi trạch diệt. Sinh đắc vô ký, nghĩa là các bất thiện, hữu lậu thiện pháp báo. Phương tiện vô ký, nghĩa là phi nhiễm phi thiện tâm, tức có các oai nghi lộ công xảo xứ pháp. Phi nhiễm phi thiện tâm, là đây hiển thị nếu phi nhiễm phi thiện tâm phát oai nghi lộ v.v… là tính vô ký, ngoài ra tùy theo thích ứng hoặc thiện hoặc bất thiện. Hiện tiền cúng dường vô ký, nghĩa là như có tưởng đối trước một thiên chúng quy y, xa lìa ý sát hại, tà ác kiến, mà xây dựng đền miếu tạo nghiệp cúng dường, khiến vô lượng chúng ở nơi đó không sinh trưởng phúc hay phi phúc. Nhiêu ích vô ký, nghĩa là như có một người đầy tớ của mình khiến hành huệ thí vợ con bằng tâm phi uế phi tịnh. Thụ dụng vô ký, nghĩa là như có một người thụ dụng tư cụ bằng tâm không lựa chọn, không nhiễm ô. Tâm không lựa chọn, là biệt thiện tính. Tâm không nhiễm ô, là biệt bất thiện tính. Dẫn nhiếp vô ký, nghĩa là như có một người quán tập nơi nghề công xảo, đến đời sau lại dẫn thụ thân tướng như vậy. Do thân như vậy nên tập nghề công xảo mau được thành đạt. Đối trị vô ký, nghĩa là như có một người vì chữa trị tật bệnh được an lạc nên dùng tâm chọn lựa thích uống thuốc thang. Tịch tĩnh vô ký, nghĩa là các phiền não v.v… của Sắc giới, Vô sắc giới, do Xa-ma-tha làm cho làm cho nép phục chôn giấu. Đẳng lưu vô ký, nghĩa là biến hóa tâm câu sinh phẩm là chứng đẳng lưu, cho nên gọi là đẳng lưu vô ký. Tâm biến hóa tương ưng với các pháp cộng hữu, gọi là câu sinh phẩm. Tâm tâm pháp này là hy hý nên phát khởi biến hóa, đó là tính vô ký. Nếu là lợi ích an lạc hữu tình thì đó là thiện. Lại nữa còn có thị hiện thiện bất thiện vô ký pháp. Đây là thế nào? Nghĩa là Phật và các Bồ-tát Ma-ha-tát được đệ nhất cứu cánh vì muốn làm lợi ích hữu tình nên có các thị hiện. Phải biết trong đó không có một pháp chân thật nào có thể có được. Nói có các thị hiện, nghĩa là Phật Bồ-tát do sức hóa độ hữu tình mà thị hiện có nhiều thứ thiện bất thiện v.v… Thị hiện bất thiện, là như hóa làm giặc v.v… thị hiện các việc chặt tay, chặt đầu v.v… làm cho các hữu tình khác khiếp sợ để điều phục chúng.

Thế nào là Dục giới hệ? Bao nhiêu là Dục giới hệ? Vì nghĩa gì nên quán Dục giới hệ? Là người chưa lìa dục, có các pháp thiện bất thiện vô ký, đó là nghĩa của Dục giới hệ. Chưa lìa dục, nói rõ là còn chưa lìa bỏ thiểu phần dục của Dục giới, là chưa chứng được nghĩa Tam-ma-địa. Những người khác đây mà chưa đến được định pháp cũng là Dục giới hệ. Sở dĩ vì sao? Do chúng đã được Tam-ma-địa nên yêu thích đoạn diệt. Bởi đoạn thiểu phần thô trọng sở trị, nên cũng được gọi là có một phần lìa dục. Ngoài các sắc v.v… là chưa lìa dục. Vì sức của nghiệp tăng thượng sinh, cũng gọi là Dục giới hệ. Kinh nói: Sức nghiệp tăng thượng cộng hữu của tất cả hữu tình sinh, là để nói rõ những người sinh ở Sắc giới, Vô sắc giới cũng có người chưa lìa dục, vì nghiệp chủng theo đuổi. Toàn 4 giới, 2 xứ và một phần uẩn, giới, xứ khác, là Dục giới hệ. Bốn giới, là hương giới, vị giới, tỹ giới, thiệt giới, và thức giới. Hai xứ, là hương xứ và vị xứ. Một phần khác, là trừ Sắc giới hệ, Vô sắc giới hệ, và vô lậu pháp. Để xả bỏ chấp trước ngã dục tăng thượng, nên quán sát Dục giới hệ.

Thế nào là Sắc giới hệ? Bao nhiêu là Sắc giới hệ? Vì nghĩa gì nên quán Sắc giới hệ? Là người đã lìa dục của Dục giới, chưa lìa dục của Sắc giới, có thiện pháp vô ký pháp là nghĩa của Sắc giới hệ. Trừ trước đã nói 4 giới 2 xứ, một phần của uẩn giới xứ khác là Sắc giới hệ. Nói một phần, nghĩa là trừ Dục giới hệ, Vô sắc giới hệ và vô lậu pháp. Để xả bỏ chấp trước ngã lìa dục của Dục giới, nên quán sát Sắc giới hệ.

Thế nào là Vô sắc giới hệ? Bao nhiêu là Vô sắc giới hệ? Vì nghĩa gì nên quán Vô sắc giới hệ? Là người đã lìa dục của Sắc giới, chưa lìa dục của Vô sắc giới, có thiện pháp, vô ký pháp, là nghĩa của Vô sắc giới hệ. Một phần của 3 giới, 2 xứ, 4 uẩn, là Vô sắc giới hệ. Ba giới, là ý giới, pháp giới, và ý thức giới. Hai xứ, là ý xứ và pháp xứ. Bốn uẩn, là thụ v.v… Cũng có sắc do Tam-ma-địa sinh ra nhưng ít nên không nói. Một phần, là trừ Dục giới hệ, Sắc giới hệ và vô lậu pháp. Để xả bỏ chấp trước ngã lìa dục của Sắc giới, nên quán sát Vô sắc giới hệ.

Lại nữa còn có nhất phần ly dục, cụ phần ly dục, thông đạt ly dục, tổn phục ly dục, vĩnh hại ly dục. Nhất phần cụ phần ly dục. Nghĩa là hoặc y vào địa lìa dục mà nói, như ở địa này cho đến có thể đoạn 8 phẩm phiền não là nhất phần ly dục, nếu đã đoạn phẩm thứ 9 là cụ phần ly dục. Hoặc y vào Tát-ca-da lì dục mà nói thì nếu ở hữu học vị là nhất phần ly dục, nếu vô học vị là cụ phần ly dục. Thông đạt ly dục, là do kiến đạo mà ly dục. Tổn phục ly dục, là do thế gian đạo mà ly dục. Vĩnh hại ly dục, là do xuất thế gian đạo ly dục.

Lại có 11 thứ ly dục, đó là tự tính ly dục, tổn hại ly dục, nhiệm trì ly dục, tăng thượng ly dục, ngu si ly dục, đối trị ly dục, biến tri ly dục, vĩnh đoạn ly dục, hữu thượng ly dục, vô thượng ly dục. Như vậy phải biết 10 thứ ly dục là trái ngược nghĩa không cứ phải đoạn nghĩa. Do tự tính nên lìa dục, cho nên gọi là tự tính ly dục. Cho đến do vĩnh viễn đoạn trừ nên lìa dục, vì vậy gọi là vĩnh đoạn ly dục. Phải biết dùng các cú nghĩa như vậy mà phân biệt chủng loại. Tự tính ly dục, nghĩa là đối với khổ thụ và pháp thuận khổ thụ xứ sinh tính chán nghịch lại. Tổn hại ly dục, nghĩa là người tập dục quá nhiệt não rồi sinh tính chán nghịch. Nhiệm trì ly dục, nghĩa là người đã ăn no rồi, đối với món ăn ngon sinh tính chán nghịch. Tăng thượng ly dục, nghĩa là được thắng xứ rồi, đối với hạ liệt xứ sinh tính chán nghịch. Cũng như người đời đã được làm chúa thành v.v… địa vị cao thắng rồi thì đối với địa vị thôn trưởng thấp kém sinh tâm chán nghịch. Ngu si ly dục, nghĩa là hạng ngu phu đối với Niết-bàn giới sinh tính chán nghịch, vì không thấu rõ tính vắng lặng nên chấp chặt Tát-ca-da. Đối trị ly dục, nghĩa là do thế xuất thế gian đạo đoạn các phiền não. Biến tri ly dục, nghĩa là đã được kiến đạo thì đối với pháp trong 3 cõi sinh tính chán nghịch do biết rõ hết khắp cả tính hành khổ nên chán nghịch tất cả việc hữu lậu. Vĩnh đoạn ly dục, nghĩa là đã vĩnh viễn đoạn trừ các phiền não ở mỗi địa mỗi địa rồi sinh tính chán nghịch. Hữu thượng ly dục, nghĩa là các người Thanh Văn, Độc Giác ở thế gian có sự lìa dục. Vô thượng ly dục, nghĩa là Phật Bồ-tát có sự lìa dục là vì muốn lợi lạc hữu tình.

Thế nào là hữu học? Bao nhiêu là hữu học? Vì nghĩa gì nên quán hữu học? Là người cầu giải thoát có các thiện pháp, đó là nghĩa của hữu học. Từ tích tập tư lương vị trở đi gọi là người cầu giải thoát. Phải biết, cầu chứng giải thoát phần vị gọi là tích tập tư lương vị. Mười giới, 4 xứ, một phần các uẩn là hữu học. Mười giới, là 7 thức, sắc giới, thanh giới, và pháp giới. Bốn xứ, là săc xứ, thanh xứ, ý xứ, và pháp xứ. Để xả bỏ chấp trước ngã cầu giải thoát, nên quán sát hữu học.

Thế nào là vô học? Bao nhiêu là vô học? Vì nghĩa gì nên quán vô học? Là người đã cứu cánh trong các học xứ có các thiện pháp, đó là nghĩa của vô học. Vì các A-la-hán đối với tăng thượng giới học xứ, tâm học xứ, và tuệ học xứ đã được cứu cánh nên gọi là vô học. Mười giới, 4 xứ, một phần các uẩn là vô học. Để xả bỏ chấp trước ngã đã thoát, nên quán sát vô học.

Thế nào là phi học phi vô học? Bao nhiêu là phi học phi vô học? Vì nghĩa gì nên quán phi học phi vô học? Là các dị sinh có các pháp thiện, bất thiện, vô ký, và các hữu học giả có pháp nhiễm ô, vô ký, các vô học giả có pháp vô ký và vô vi. Đó là nghĩa của phi học phi vô học. Các dị sinh, là trừ những người cầu giải thoát. Bởi những người này đối với các học xứ cầu tu học, tức gọi là hữu học. Hữu học nhiễm ô vô ký là tùy theo thích ứng. Bất thiện và hữu phú vô ký là nhiễm ô. Vô phú vô ký là vô ký. Toàn 8 giới, 8 xứ và một phần các uẩn giới xứ khác là phi học phi vô học. Để xả bỏ chấp trước ngã không giải thoát, nên quán sát phi học phi vô học.

Thế nào là kiến sở đoạn? Bao nhiêu là kiến sở đoạn? Vì nghĩa gì nên quán kiến sở đoạn? Là do phân biệt khởi nhiễm ô kiến nghi, kiến xứ nghi xứ, và từ nơi kiến v.v… khởi tà hạnh phiền não tùy phiền não, và kiến v.v… phát thân ngữ ý nghiệp, cùng tất cả uẩn giới xứ của ác thú v.v…, là nghĩa của kiến sở đoạn. Trong đây do phân biệt khởi nhiễm ô kiến nghi, là trước tiên nghe pháp bất chính khởi 5 kiến chấp, phân biệt khởi là giản, là câu sinh Tát-ca-da kiến và biên chấp kiến.

Hỏi: Tướng của biên chấp kiến thế nào? Có phải là câu sinh không?

Đáp: Nghĩa là người đoạn kiến rồi, học hiện quán có nỗi sợ như thế này: Ta nay, ta ở đâu? Kiến xứ, nghĩa là các kiến tương ưng với pháp cộng hữu và chủng tử nghi xứ của chúng cũng vậy. Đối với kiến v.v… khởi tà hạnh phiền não tùy phiền não, nghĩa là y vào kiến v.v.. môn và duyên kiến v.v…khởi tham v.v… tất cả, một phần, là kiến sở đoạn. Một phần, là trừ tu sở đoạn và vô lậu. Để xả bỏ chấp trước ngã kiến viên mãn, nên quán sát kiến sở đoạn.

Thế nào là tu sở đoạn? Bao nhiêu là tu sở đoạn? Vì nghĩa gì nên quán tu sở đoạn? Là sau khi được kiến đạo, các pháp hữu lậu trái với kiến sở đoạn, là nghĩa của tu sở đoạn. Nói trái với kiến sở đoạn, nghĩa là các pháp hữu lậu khác trừ phân biệt khởi các kiến nhiễm ô v.v… Pháp hữu lậu cũng gồm tùy thuận quyết trạch phần thiện vì có thô trọng đi theo.. Tất cả, một phần, là tu sở đoạn. Một phần, là trừ kiến sở đoạn và pháp vô lậu. Để xả bỏ chấp trước ngã tu viên mãn, nên quán sát tu sở đoạn.

Thế nào là phi sở đoạn? Bao nhiêu là phi sở đoạn? Vì nghĩa gì nên quán phi sở đoạn? Là các pháp vô lậu trừ quyết trạch phần thiện, là phi sở đoạn. Pháp vô lậu, là xuất thế Thánh đạo và hậu sở đắc và pháp vô vi. Mười giới, 4 xứ, một phần các uẩn, là phi sở đoạn.

Hỏi: Những sắc thanh nào là phi sở đoạn?

Đáp: Tự tính thiện nghiệp của thân ngữ trong thân vô học là phi sở đoạn. Để xả bỏ chấp trước ngã thành mãn, nên quán sát phi sở đoạn.

Thế nào là duyên sinh? Bao nhiêu là duyên sinh? Vì nghĩa gì nên quán duyên sinh? Là tướng, là phân biệt chi, là lược nhiếp chi, là kiến lập chi duyên, là kiến lập chi nghiệp, là chi tạp nhiễm nhiếp, là nghĩa, là thậm thâm, là sai biệt, là thuận nghịch, đó là nghĩa của duyên sinh.

Tướng, nghĩa là vô tác duyên sinh, là vô thường duyên sinh, là thế dụng duyên sinh, đó là tướng của duyên sinh. Do tướng này nên Bạc-già-phạm nói: Đây có nên kia có. Đây sinh nên kia sinh. Nghĩa là vô minh duyên hành cho đến nói rộng. Đây có nên kia có, là hiển thị nghĩa của vô tác duyên sinh. Chỉ do có duyên nên có quả pháp. Chẳng phải duyên có thật tác dụng có thể sinh quả pháp. Đây sinh nên kia sinh, là hiển thị nghĩa của vô thường duyên sinh. Vì chẳng phải pháp vô sinh làm nhân nên ít sở sinh pháp được thành lập. Vô minh duyên hành v.v…, là hiển thị nghĩa của thế dụng duyên sinh. Tuy các pháp là vô tác vô thường, nhưng không theo một pháp làm duyên nên tất cả quả sinh. Sở dĩ vì sao? Vì các pháp có công năng sai biệt, như từ sức vô minh nên các hành sinh, cho đến sức của sinh nên có lão tử. Phân biệt chi, nghĩa là phân biệt duyên sinh làm 12 phần bởi 12 chi duyên khởi khác nhau. Những gì là 12? Là vô minh, hành, thức, danh sắc, 6 xứ, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh và lão tử.

Lược nhiếp chi, nghĩa là trước có phân biệt vô minh v.v… 12 chi. Nay lại lược gồm làm 4 nhân. Đó là năng dẫn chi, sở dẫn chi, năng sinh chi, và sở sinh chi. Chỉ do 4 thứ chi như vậy lược gồm tất cả pháp nhân quả sinh khởi. Nghĩa là khi ở trong nhân thì có năng dẫn sở dẫn, khi ở trong quả thì có năng sinh sở sinh. Năng dẫn chi, là vô minh, hành, thức làm sinh khởi đời vị lai. Đối với các cảnh giới đế lý trước tiên là vô trí tạo các hành nghiệp huân tập vào tâm. Sở dẫn chi, là danh sắc, 6 xứ, xúc, và thụ, do sức tập khí của tâm có thể khiến danh sắc v.v…trước sau dựa vào nhau thứ tự sinh khởi làm tăng trưởng chủng tử. Năng sinh chi, là ái, thủ, hữu, do ái lực của dục v.v… chưa vĩnh đoạn nên ở trong dục còn ái lạc. Trước tiên là sự sai biệt giữa diệu hạnh và ác hạnh làm phát khởi tham dục. Do có hữu thủ thức nên nơi mạng chung vị sẽ cùng dị thục tùy thuận tham dục, tùy một nghiệp có tập khí hiện tiền. Sở sinh chi, là sinh, và lão tử. Do nghiệp sai biệt như vậy nên có tập khí hiện tiền. Tùy theo một thú, một đời v.v…, trong sai biệt chúng đồng phần như trước đã dẫn danh sắc v.v…mà dị thục sinh khởi. Sinh, lão tử nói hiển là dựa vào tam hữu làm tướng. Sở dĩ lão tử hợp làm 1 chi là hiển thị lìa lão có tử, không phải như thai sinh trong thân lìa danh sắc v.v…có các pháp của 6 xứ, nên đối với chúng đều lập ra chi riêng biệt.

Kiến lập chi duyên, là tập khí, là dẫn phát, là tư duy, là câu hữu. Kiến lập chi duyên là tùy theo thích ứng dựa vào tướng của 4 duyên kiến lập chi duyên. Hơn nữa như vô minh trông đợi hành, trước sinh tập khí cho nên được làm nhân duyên. Do tập khí kia liên tục sinh các nghiệp có thể tạo hậu hữu, khi ấy hiện hành vô minh có thể dẫn phát làm đẳng vô gián duyên. Do dẫn phát sai biệt kia, các hành lưu chuyển liên tục sinh, tư duy kia làm sở duyên duyên. Do chấp tối thắng v.v… không như lý tư duy, duyên ngu si vị làm cảnh giới, kia câu hữu nên làm tăng thượng duyên. Do sức tăng thượng kia khiến tương ưng tư duy điên đảo duyên cảnh mà tạo tác. Như vậy tất cả tùy chỗ thích ứng càn phải biết hết.

Kiến lập chi nghiệp, là vô minh chi có 2 thứ nghiệp: 1. Khiến các hữu tình ở trong ngu si. 2. Cùng với hành làm duyên. Khiến các hữu tình ở trong ngu si, nghĩa là do chúng ngăn che, trong đời trước đời này đời sau không biết được như thật. Do nhân duyên ấy nên khởi nghi như vầy: Trong đời quá khứ có ta hay không có ta v.v… Cùng với hành làm duyên, nghĩa là do thế lực kia khiến nghiệp hậu hữu được tăng trưởng. Hành có 2 thứ nghiệp: 1. Khiến các hữu tình ở trong các thú có nhiều thứ sai biệt. 2. Cùng với thức làm duyên. Khiến các hữu tình ở trong các thú có nhiều thứ sai biệt, nghĩa là do thế lực của nghiệp khiến các hữu tình đến các thú khác nhau. Cùng với thức làm duyên, nghĩa là do sức của tập khí có thể khiến về sau danh sắc v.v…chủng tử sinh khởi được tăng trưởng. Thức có 2 thứ nghiệp: 1. Giữ các nghiệp trói buộc của hữu tình. 2. Tác duyên với danh sắc. Giữ các nghiệp trói buộc của hữu tình, nghĩa là cùng voéi hành dắt dẫn tập khí cùng sinh diệt. Tác duyên với danh sắc, nghĩa là do thức nhập vào thai mẹ danh sắc được tăng trưởng. Danh sắc có 2 thứ nghiệp: 1. Nhiếp giữ tự thể các hữu tình. 2. Tác duyên với 6 xứ. Nhiếp giữ tự thể hữu tình, là do kia sinh rồi được dự vào số chúng đồng phần sai biệt của hữu tình. Tác duyên với 6 xứ, là do sắc v.v… các chi trước làm y chỉ 6 xứ v.v… các chi sau được sinh khởi. Sáu xứ lại có 2 thứ nghiệp: 1. Nhiếp giữ tự thể viên mãn của các hữu tình. 2. Tác duyên với xúc. Nhiếp giữ tự thể viên mãn của các hữu tình, là do kia sinh rồi các căn không thiếu. Xúc có 2 thứ nghiệp: 1. Khiến các hữu tình lưu chuyển trong cảnh giới sở thụ dụng. 2. Tác duyên với thụ. Khiến các hữu tình lưu chuyển trong cảnh, nghĩa là dựa vào đây làm cửa nẻo thụ dụng thuận lạc thụ v.v… 3 thứ cảnh giới. Thụ có 2 thứ nghiệp: 1. Khiến các hữu tình lưu chuyển trong quả do sở thụ dụng sinh. 2. Tác duyên với ái. Khiến hữu tình lưu chuyển trong quả do sở thụ dụng sinh, nghĩa là do đây làm chỗ dựa thụ dụng các thứ nghiệp dị thục khả ái. Làm duyên với ái, nghĩa là mong cầu hòa hợp với đây làm cửa nẻo các ái sinh. Ái có 2 thứ nghiệp: 1. Dẫn các hữu tình lưu chuyển sinh tử . 2. Tác duyên với thủ. Dẫn các hữu tình lưu chuyển sinh tử, nghĩa là do thế lực ấy sinh tử lưu chuyển không đoạn dứt. Tác duyên với thủ, nghĩa là ái vị cầu dục làm cửa nẻo, trong dục v.v… tham dục chuyển. Thủ có 2 thứ nghiệp: 1. Vì thủ hậu hữu khiến các hữu tình phát hữu thủ thức. 2. Tác duyên với hữu. Vì thủ hậu hữu phát hữu thủ thức, nghĩa là vì Na-lạc-ca thú v.v… sai biệt nên hậu hữu nối tiếp nhau không dứt khiến nghiệp tập khí được quyết định. Tác duyên với hữu, nghĩa là do thế lực ấy các tập khí của hành được chuyển biến. Hữu có 2 thứ nghiệp: 1. Khiến các hậu hữu của các hữu tình hiện tiền. 2. Tác duyên với sinh. Khiến hậu hữu hiện tiền, nghĩa là có thể dẫn không gián đoạn đến các thú. Tác duyên với sinh, nghĩa là do thế lực đó các chúng đồng phần khác chuyển. Sinh có 2 thứ nghiệp: 1. Khiến danh sắc, 6 xứ, xúc, thụ của các hữu tình thứ tự sinh khởi. 2. Tác duyên với lão tử. Khiến danh sắc v.v…thứ tự khởi, nghĩa là có thể dẫn các hậu vị sai biệt sau này. Tác duyên với lão tử, nghĩa là do có sinh này nên các biến hoại liên tục kia đều được hiện hữu. Lão tử có 2 thứ nghiệp: 1. Thường khiến thời phần biến hoại của hữu tình ít thịnh. 2. Thường khiến thọ mạng của hữu tình biến hoại.

Chi tạp nhiễm nhiếp, nghĩa là như vô minh, ái, thủ là gồm trong phiền não tạp nhiễm. Như hành, thức, hữu là gồm trong nghiệp tạp nhiễm. Ngoài ra là gồm trong sinh tạp nhiễm.

Hỏi: Vì sao thức chi gồm trong nghiệp tạp nhiễm?

Đáp: Vì tập khí các hành hiển lộ.

Nghĩa, nghĩa là nghĩa vô tác giả, nghĩa có nhân, nghĩa ly hữu tình, nghĩa y tha khởi, nghĩa vô tác dụng, nghĩa vô thường, nghĩa có sát-na, nghĩa nhân quả liên tục không dứt, nghĩa nhân quả tương tự nhiếp thụ, nghĩa nhân quả sai biệt, nghĩa nhân quả quyết định, đó là nghĩa của duyên khởi. Nghĩa là lìa bỏ Tự tại thiên v.v… là tác giả, đó là nghĩa của vô tác giả. Vì vô minh v.v… là nhân nên đó là nghĩa của có nhân. Vì không có ngã tự nhiên, nên đó là nghĩa của ly hữu tình. Nhờ các duyên mà sinh, đó là nghĩa của y tha khởi. Tác dụng của các duyên là không, đó là nghĩa của vô tác dụng. Vì không phải hằng thường, nên đó là nghĩa của vô thường. Thời gian sinh qua rồi không tạm dừng, là nghĩa của có sát-na. Thời phần của nhân sát-na diệt quả sát-na sinh v.v… là nghĩa của nhân quả liên tục liên tục không dứt. Không từ tất cả mà tất cả sinh, là nghĩa của nhân quả tương tự nhiếp thụ. Từ không phải nhất nhất loại nhân, nhất phi nhất loại quả sinh, là nghĩa của nhân quả sai biệt. Trong các tương tục khác không thụ quả, là nghĩa của nhân quả quyết định. Thậm thâm, là nhán thậm thâm, tướng thậm thâm, sinh thậm thâm, trụ thậm thâm, chuyển thậm thâm, đó là nghĩa của thậm thâm. Nghĩa là do nghĩa vô tác giả v.v…hiển rõ 5 thứ thậm thâm của pháp duyên khởi. Do 2 thứ nghĩa hiển rõ nhân thậm thâm, vì đối trị luận bất bình đẳng nhân và vô nhân. Do một thứ nghĩa hiển rõ tướng thậm thâm, là tướng vô ngã. Do 2 thứ nghĩa hiển thị sinh thậm thâm. Tuy từ các duyên mà quả pháp được sinh, nhưng chẳng phải do chúng làm ra. Do 2 nghĩa hiển thị trụ thậm thâm, thật không an lập vì hiển hiện tựa trụ. Do 4 nghĩa hiển chuyển thậm thâm, vì nhân quả lưu chuyển khó hiểu rõ. Lại nữa các pháp duyên khởi tuy sát-na diệt mà có thể trụ được, tuy không tác dụng duyên mà có thể có được công năng duyên, tuy ly hữu tình mà có được hữu tình, tuy không có tác giả mà có thể có được các nghiệp quả không hoại, cho nên là thậm thâm. Nghiệp quả không hoại, nghĩa là tuy trong không có tác giả mà có tác nghiệp thụ quả báo kia. Lại nữa các pháp không từ tự sinh, không từ tha sinh, không từ cộng sinh, chẳng phải không tự tác nhân tha tác nhân sinh, cho nên là thậm thâm. Không từ tự sinh, nghĩa là tất cả pháp không phải tự sở tác, vì khi chúng chưa sinh không có tự tính. Không từ tha sinh, nghĩa là vì các duyên kia không phải là tác giả. Không từ cộng sinh, nghĩa là tức 2 nhân này. Chẳng phải không tự tác nhân tha tác nhân sinh, nghĩa là duyên trông mong quả sinh có công năng. Lại nữa có sai biệt, nghĩa là đợi các duyên mới sinh, nên chẳng phải tự tác. Tuy có các duyên mà không chủng tử cũng không sinh, nên chẳng phải tha tác. Chúng đều không có tác dụng, nên chẳng phải cộng tác. Chủng tử và các duyên đều có công năng, nên chẳng phải không nhân mà sinh. Vì vậy cho nên nói có tự chủng nên không từ tha, đợi các duyên nên chẳng phải tự tác, không tác dụng nên chẳng phải cộng sinh, có công năng nên chẳng phải không nhân. Nếu lý duyên khởi là phi tự phi tha, thì khiển trừ 2 câu hãy còn thậm thâm, huống nữa bỏ hết 4 câu. Cho nên duyên khởi là cực kỳ thậm thâm.

Sai biệt, nghĩa là thức sinh sai biệt, nội tử sinh sai biệt, vỏ ngoài sinh sai biệt, thành hoại sai biệt, thực trì sai biệt, ái phi ái thú phân biệt sai biệt, thanh tịnh sai biệt, oai đức sai biệt, đó là nghĩa của sai biệt. Thức sinh sai biệt, nghĩa là mắt duyên sắc sinh nhãn thức. Như vậy v.v..nội tử sinh sai biệt là dựa vào hữu tình thế gian mà nói. Nghĩa là vô minh v.v… là duyên sinh hành v.v… Vỏ ngoài sinh sai biệt, nghĩa là hạt duyên mầm, mầm duyên chồi, như vậy lần lượt đến lá cành hoa quả lần lượt sinh. Thành hoại sai biệt, nghĩa là sức tăng thượng của cộng nghiệp của tất cả hữu tình là duyên đại địa v.v… sinh. Thực trì sai biệt, nghĩa là 4 cách ăn là duyên mà nhờ đó hữu tình trong 3 cõi tương tục tồn tại. Ái phi ái thú phân biệt sai biệt, nghĩa là diệu hạnh ác hạnh là duyên đi đến thiện thú ác thú. Thanh tịnh sai biệt, nghĩa là thuận giải thoát phần thiện là duyên sinh thuận quyết trạch phần thiện. Như vậy kiến đạo v.v…dần dần cho đến được quả A-la-hán v.v… Hoặc nghe âm thanh người khác từ bên ngoài, trong như lý tác ý là duyên phát sinh chính kiến lần lượt cho đến vĩnh viễn hết các lậu. Oai đức sai biệt, nghĩa là nội chứng là duyên phát sinh thần thông v.v… công đức tối thắng. Do các sai biệt này nên tùy theo đó nói rộng duyên khởi các hành.

Thuận nghịch, là tạp nhiễm thuận nghịch, thanh tịnh thuận nghịch. Tức là nói thuận nghịch của duyên khởi. Tạp nhiễm thuận nghịch, nghĩa là hoặc dựa vào lưu chuyển lần lượt nói như vô minh duyên hành, như vậy thuận theo thứ tự nói. Hoặc dựa vào an lập đế mà nói như lão tử khổ, lão tử tập, lão tử diệt, lão tử thú diệt hành, như vậy nghịch thứ tự nói. Phải quán nghĩa của duyên sinh khởi như vậy. Tất cả đều là duyên sinh, chỉ trừ pháp giới pháp xứ, một phần của các pháp vô vi. Để xả bỏ chấp trước ngã không có nhân, nhân không bình đẳng, nên quán sát duyên sinh.

Thế nào là duyên, có bao nhiêu là duyên, vì nghĩa gì nên quán duyên? Là nhân, là đẳng vô gián, là sở duyên, là tăng thượng, đó là nghĩa của duyên, tất cả là duyên. Để xả bỏ chấp trước ngã là nhân pháp, nên quán sát duyên. Nhân duyên, nghĩa là thức A-lại-da và tập khí thiện cùng các pháp hữu lậu vô lậu theo thứ tự của nó là nhân duyên. Thức A-lại-da lại có 2 thứ là dị thục và gia hành. Dị thục, là nhân duyên các pháp sinh đắc. Gia hành, là các pháp phương tiện và các nhân duyên của thức A-lại-da đời sau. Lại nữa gia hành thức A-lại-da, là chỗ huân tập các chuyển thức hiện hành trong đời này. Thiên tập khí, là tập khí của thuận giải thoát phần. Do tập khí này dùng xuất thế gian chứng pháp đẳng lưu làm duyên sinh nên có thể làm nhân duyên với pháp xuất thế. Lại nữa, tự tính, sai biệt, trợ bạn, đẳng hành, tăng ích, chướng ngại, nhiếp thụ, là tướng của nhân duyên. Phải biết rằng trong đây lấy lấy tự tính v.v… 6 thứ tướng của nhân hiển thị nghĩa của nhân duyên. Nghĩa là 2 câu tự tính, sai biệt kiến lập nhân năng tác. Các câu khác theo thứ tự của nó kiến lập nhân câu hữu, tương ưng, đồng loại, biến hành, và dị thục.

Tự tính, nghĩa là tự tính của nhân năng tác, vì dựa vào tự tính của nhân kiến lập nhân năng tác. Phải biết rằng tất cả nhân đều gồm trong nhân năng tác. Để hiển thị nghĩa sai biệt, nên lại kiến lập riêng nhân trợ bạn v.v…

Sai biệt, nghĩa là sai biệt của nhân năng tác. Sai biệt lược có 20 thứ: 1. Sinh năng tác, nghĩa là thức hòa hợp trông ngóng thức, do hòa hợp này tạo ra vì vốn không nay có. 2. Trụ năng tác, nghĩa là cái ăn trông ngóng đã sinh và cầu sinh hữu tình, do thế lực này sinh rồi nối tiếp không dứt. 3. Trì năng tác, nghĩa là đại địa trông ngóng hữu tình, chuyên chở khiến không rơi rụng. 4. Chiếu năng tác, nghĩa là ngọn đèn trông ngóng các sắc làm sáng tỏ tối tăm. 5. Biến hoại năng tác, nghĩa là lửa ngóng trông củi, khiến nó liên tục đổi khác. 6. Phân ly năng tác, nghĩa là lưỡi liềm trông đợi cái gì để cắt đứt, khiến vật dính liền thành ra 2 đoạn. 7. Biến chuyển năng tác, nghĩa là trí công xảo trông tìm các vật vàng bạc v.v… chuyển đổi nó thành ra tướng khác.

8. Tín giải năng tác, nghĩa là khói trong ngóng lửa, do đó so sánh biết cái không hiện thấy. 9. Hiển liễu năng tác, nghĩa là tông, nhân, dụ trông mong thành nghĩa, do đó được chính quyết định. 10. Đẳng chí năng tác, nghĩa là Thánh đạo mong cầu Niết-bàn, do đây chứng kia. 11. Tùy thuyết năng tác, nghĩa là danh, tưởng, kiến. Do như danh tự, thủ tướng, chấp trước tùy khởi mà nói. 12. Quán đãi năng tác, nghĩa là quán đợi nơi đây muốn cầu sinh nơi kia. Như đói khát đợi cầu ăn uống. Do đây là nhân muốn sinh kia. 13. Chiêu dẫn năng tác, nghĩa là duyên xa, như vô minh trông ngóng lão tử, do đây khác vị lần lượt chiêu cảm cái sẽ có. 14. Sinh khởi năng tác, nghĩa là duyên gần, như vô minh trông ngóng hành, do đây không gián đoạn sinh cái sẽ có. 15. Nhiếp thụ năng tác, nghĩa là ngoài ra các duyên khác, như ruộng, nước, phân v.v… trông đợi lúa mọc v.v…tuy hạt giống mọc nhưng tăng sức cho hạt giống. 16. Dẫn phát năng tác, nghĩa là duyên tùy thuận, như bề tôi thờ vua làm cho vua vui lòng, do tùy thuận dẫn phát. 17. Định biệt năng tác, nghĩa là duyên sai biệt, như duyên ngũ thú trông đợi quả ngũ thú, do tự tính sai biệt chiêu cảm quả khác nhau. 18. Đồng sự năng tác, nghĩa là duyên hòa hợp, như căn không hoại cảnh giới hiện tiền. Chính khi tác ý khởi là trông mong sinh thức. Bởi thành tự sở tác là phải đợi các năng tác. 19. Tương vi năng tác, nghĩa là duyên chướng ngại, như mưa đá trông lúa má, vì có thể làm tổn hại chúng. 20. Bất tương vi năng tác, nghĩa là không chướng ngại, như lúa má không chướng ngại với trái nghịch ở trên. Ở đây trong năng tác nhân sai biệt chỉ nói thức hòa hợp v.v… là chỉ nêu lên cương yếu để các trí giả dựa theo cách này loại suy những cái khác.

Trợ bạn, nghĩa là các pháp cộng hữu mà sinh ắt không khuyết giảm, như 4 đại chủng và sở tạo sắc tùy chỗ thích ứng, không phải tất cả tụ phải có 4 đại và sắc v.v… tạo ra. Nếu ở nơi đó thì có sở lượng. Đây chắc chắn không tách rời câu sinh.

Đẳng hành, nghĩa là các pháp cộng hữu bình đẳng hành sở duyên ắt không khuyết giảm. Như tâm tâm pháp trước thuộc trợ bạn, quyết định kiến lập trong câu hữu nhân, chỉ nói đại chủng và sở tạo sắc là đây chỉ lược nêu cương mục bởi tâm tâm pháp có tính không tách rời nhau quyết định cho nên cũng gồm trong trợ bạn. Nếu vậy không nên biệt lập tương ưng nhân, vì các tâm tâm pháp cũng gồm trong cộng hữu nhân. Tuy vậy nhưng nghĩa có khác. Nghĩa là các pháp cộng hữu, đẳng hành, sở duyên không tách rời nhau. Đẳng hành này vẫn lập tương ưng nhân không phải chỉ có nghĩa cộng hữu như tâm tâm pháp.

Tăng ích, nghĩa là đời trước tu tập pháp thiện bất thiện vô ký nên có thể khiến đời sau các pháp thiện v.v… lần lượt tăng thắng sinh khởi về sau. Đời trước tu tập, có nghĩa là hiện hành những gì trước đã thường tu tập. Đời sau lần lượt tăng thắng sinh khởi về sau, nghĩa là do trước kia trưởng dưỡng các chủng tử nên đời vị lai các chủng loại đó tăng thắng mà sinh khởi. Như vậy các pháp có thể làm nhân tương tự tăng trưởng, cho nên lập đồng loại nhân.

Chướng ngại, nghĩa là tùy chỗ thường tập các phiền não nên tùy chỗ có hoặc đều được liên tục tăng trưởng kiên cố rồi khiến liên tục xa lánh Niết-bàn. Nhân biến hành này chẳng phải chỉ khiến tương tự phiền não tăng trưởng. Sở dĩ vì sao? Nếu có tùy tập tham v.v… các phiền não thì đều khiến sân v.v… tất cả phiền não liên tục tăng trưởng kiên cố. Do sự trói buộc sâu nặng này nên chướng ngại giải thoát. Vì vậy kiến lập biến hành nhân.

Nhiếp thụ, nghĩa là các pháp bất thiện và thiện hữu lậu có thể nhiếp thụ tự thể, nên đó tức là nhân dị thục. Do đó có thể dẫn nhiếp hoàn toàn không tương tự trong vị lai. Tự thể của vô phú vô ký bao gồm quả dị thục cho nên đó tức là nghĩa của nhiếp thụ kiến lập dị thục nhân. Thiện hữu lậu là giản biệt vô lậu, do trái nghịch sinh tử cho nên không thể chiêu cảm quả dị thục.

HẾT QUYỂN 4