ĐẠI THỪA A TÌ ĐẠT MA TẠP TẬP LUẬN
An Huệ Bồ-tát tập hợp
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 12

Phẩm 2 – 2: PHẨM PHÁP TRONG QUYẾT TRẠCH PHẦN

Thế nào là tu? Lược có 5 thứ: y chỉ nhiệm trì tu, y chỉ tác ý tu, y chỉ ý lạc tu, y chỉ phương tiện tu, và y chỉ tự tại tu.

Y chỉ nhiệm trì tu lại có 4 thứ: 1. Y chỉ nhân tu, nghĩa là do sức của chủng tính tu tập chính hạnh đối với Ba-la-mật-đa. 2. Y chỉ báo tu, nghĩa là do sức thắng tự thể tu tập chính hạnh đối với Ba-la-mậtđa. 3. Y chỉ nguyện tu, nghĩa là do sức bản nguyện tu tập chính hạnh đối với Ba-la-mật-đa. 4. Y chỉ sức giản trạch, nghĩa là do sức tuệ tu tập chính hạnh đối với Ba-la-mật-đa.

Y chỉ tác ý cũng có 4 thứ: 1. Y chỉ thắng giải tác ý tu, nghĩa là tương ưng kinh giáo khởi tăng thượng thắng giải đối với tất cả Ba-lamật-đa. 2. Y chỉ ái vị tác ý tu, nghĩa là đối với Ba-la-mật-đa đã được, thấy thắng công đức khởi ái vị sâu sắc. 3. Y chỉ tùy hỷ tác ý tu, nghĩa là ở trong tất cả thế giới , tất cả hữu tình được hành thí v.v… sinh tùy hỷ sâu sắc. 4. Y chỉ hỷ lạc tác ý tu, nghĩa là đối với tự tha, đương lai thắng phẩm Ba-la-mật-đa sinh nguyện lạc sâu sắc.

Y chỉ ý lạc lại có 6 thứ là do vô nhiễm ý lạc, quảng đại ý lạc, hoan hỷ ý lạc, ân đức ý lạc, vô nhiễm ý lạc, và thiện hảo ý lạc tu các Ba-la-mật-đa. Trong đây Bồ-tát đối với thí Ba-la-mật-đa ý lạc không chán, nghĩa là chư Bồ-tát đối với tất cả hữu tình trong khoản 1 sát-na giả sử đem 7 báu đầy trong thế giới nhiều như số cát sông Khắc-già ra bố thí, lại còn đem thân mạng nhiều như cát sông Khắc-già ra bố thí, bố thí như vậy trải qua số đại kiếp nhiều như cát sông Khắc-già, giống như ở nơi 1 hữu tình, như vậy bố thí cho đến khi ở nơi tất cả cõi hữu tình đều khiến chúng mau chóng được thành thục A-nậu-đala Tam-miệu Tam-bồ-đề. Khi tu hành bố thí sai biệt như vậy, ý lạc Bồ-tát còn không chán đủ. Ý lạc như vậy gọi là Bồ-tát không chán ý lạc đối với thí Ba-la-mật-đa.

Lại khi chư Bồ-tát tu hành thí Ba-la-mật-đa như vậy, lần lượt liên tục không một sát-na thoái lui, gián đoạn cho đến khi cứu cánh ngồi tòa Bồ-đề. Ý lạc như vậy gọi là ý lạc rộng lớn của Bồ-tát đối với thí Ba-la-mật-đa.

Lại khi chư Bồ-tát tu hành thí Ba-la-mật-đa như vậy, đối với hữu tình do bố thí được nhiếp hóa sinh đại hoan hỷ. Các hữu tình được nhiếp thụ bố thí này sinh hoan hỷ còn không thể bằng được ý lạc kia. Đó gọi là hoan hỷ ý lạc của Bồ-tát đối với thí Ba-lamật-đa.

Lại khi chư Bồ-tát tu hành thí Ba-la-mật-đa như vậy, quán sát tất cả hữu tình được nhiếp thụ bố thí là có ơn đức lớn đối với ta, chứ không thấy mình có ơn đối với chúng, vì giúp thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ- đề. Ý lạc như vậy gọi là ân đức ý lạc của Bồ-tát đối với thí Ba-la-mật-đa.

Lại khi chư Bồ-tát tu hành thí Ba-la-mật-đa như vậy, tuy làm việc phúc đại thí đối với vô lượng chư hữu tình mà không mong báo ân quả báo đời sau. Ý lạc như vậy gọi là vô nhiễm ý lạc của Bồ-tát đối với thí Ba-la- mật-đa.

Lại khi chư Bồ-tát tu hành thí Ba-la-mật-đa như vậy, được quả báo do tu hành quảng đại bố thí, thí cho chư hữu tình chứ không để cho mình. Lại đem phúc này cùng chư hữu tình hồi hướng A-nậu-đala Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ý lạc như vậy là thiện hảo ý lạc của Bồ-tát đối với thí Ba-la-mật-đa.

Lại khi chư Bồ-tát tu hành giới Ba-la- mật-đa, cho đến tuệ Bala-mật-đa ý lạc không chán, nghĩa là chư Bồ-tát giả sử trải qua nhiều đời sống như cát sông Khắc-già, mỗi mỗi đời sống như cát sông Khắc-già ấy thọ mạng đại kiếp, trong thời gian dài như vậy những thứ cần cho đời sống thường không thiếu hụt. Trong 3 ngàn đại thiên thế giới đầy lửa cháy, hằng ở trong đó đi đứng ngồi nằm, chỉ hay tu tập 1 sát-na giới Ba-la-mật-đa, hoặc cho đến tuệ Ba-la-mật-đa, như vậy lần lượt tu tập sai biệt được giới tụ cho đến tuệ tụ cứu cánh đầy đủ hiện có thể chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Khi chư Bồ-tát tu hành giới Ba-la-mật-đa cho đến tuệ Ba-la-mật- đa như vậy, đối với giới tụ cho đến tuệ tụ này tu tập ý lạc còn không mãn túc. Ý lạc như vậy gọi là ý lạc không chán của Bồ-tát đối với chỗ tu tập giới Ba-la-mật-đa cho đến tuệ Ba-la-mật-đa.

Lại khi chư Bồ-tát tu hành giới Ba-la-mật-đa, cho đến tuệ Bala-mật-đa như vậy lần lượt liên tục không 1 sát-na có thoái lui gián đoạn cho đến cứu cánh ngồi tòa Bồ-đề. Ý lạc như vậy gọi là ý lạc rộng lớn của Bồ-tát đối với chỗ tu hành giới Ba-la-mật-đa, cho đến tuệ Ba-la-mật-đa.

Lại khi chư Bồ-tát tu hành giới Ba-la-mật-đa, cho đến tuệ Bala-mật-đa như vậy, đối với chư hữu tình được nhiếp thụ sinh đại hoan hỷ. Các hữu tình được nhiếp thụ này tuy sinh hoan hỷ còn không bằng được ý lạc như vậy. Đó gọi là hoan hỷ ý lạc của Bồ-tát đối với chỗ tu hành giới Ba-la-mật-đa, cho đến tuệ Ba-la-mật-đa.

Lại khi chư Bồ-tát tu hành giới Ba-la-mật-đa, cho đến tuệ Bala-mật-đa như vậy, quán tất cả hữu tình được nhiếp thụ này có ân đức lớn đối với mình mà không thấy mình có ân đối với họ, do đã giúp mình có thể chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ý lạc như vậy là ân đức ý lạc của Bồ-tát đối với chỗ tu hành giới Ba-la-mật- đa, cho đến tuệ Ba-la-mật-đa.

Lại khi chư Bồ-tát tu hành giới Ba-la-mật-đa, cho đến tuệ Bala-mật-đa như vậy, tuy đối với vô lượng chúng hữu tình đã hưng khởi đại giới phúc cho đến tuệ phúc mà không mong báo ân quả báo đời sau. Ý lạc như vậy là vô nhiễm ý lạc của Bồ-tát đối với chỗ tu hành giới Ba-la-mật-đa, cho đến tuệ Ba-la-mật-đa. Sở dĩ tu hành quảng đại giới tụ cho đến tuệ tụ đạt được quả báo thí cho các hữu tình mà không vì mình, lại đem phúc này cùng chư hữu tình hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ý lạc như vậy là thiện hảo ý lạc của Bồ-tát đối với chỗ tu hành giới Ba-la-mật-đa, cho đến tuệ Ba-la-mật-đa.

Y chỉ phương tiện tu lại có 3 thứ, là do vô phân biệt trí quán sát tam luân đều thanh tịnh. Sở dĩ vì sao? Do phương tiện này tất cả tác ý tu các hạnh mau thành tựu mỹ mãn.

Y chỉ tự tại tu cũng có 3 thứ, là thân tự tại, hành tự tại, và thuyết tự tại. Thân tự tại, nghĩa là Như Lai tự tính thụ dụng. Hai thân hành tự tại, là biến hóa thân của chư Như Lai. Do đây có thể thị hiện tất cả thứ đồng pháp hành của tất cả hữu tình. Thuyết tự tại, nghĩa là có thể tuyên thuyết tất cả thứ sai biệt của 6 Ba-la-mật-đa không chút trở ngại.

Thế nào là sai biệt? Là do 18 thứ nhiệm trì để làm rõ sự sai biệt của 6 Ba-la-mật-đa. Những gì là 18? Là thân nhiệm trì, tâm nhiệm trì, thiện pháp nhiệm trì, thiện nhiệm trì, Bồ-đề nhiệm trì, bi nhiệm trì, bất xả hữu tình nhiệm trì, xả hạ liệt tâm nhiệm trì, vô sinh pháp nhẫn nhiệm trì, thiện căn phương tiện nhiệm trì, thiện căn viên chứng nhiệm trì, thiện căn vô tận nhiệm trì, vô yếm quyện nhiệm trì, chư sở tư sự thành mãn nhiệm trì, ngự chúng nghiệp nhiệm trì, chứng nhập đại địa nhiệm trì, dẫn phát Phật tính nhiệm trì, kiến lập Phật sự nhiệm trì, thí v.v… 6 thứ mỗi thứ đều có 3 sai biệt, theo như thứ tự 3 nhiếp 3. Thí 3 thứ là tài thí, vô úy thí và pháp thí. Giới 3 thứ là luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, và nhiêu ích hữu tình giới. Nhẫn 3 thứ là nại oán hại nhẫn, an thụ khổ nhẫn, và đế sát pháp nhẫn. Tinh tiến 3 thứ là bị giáp tinh tiến, phương tiện tinh tiến, và nhiêu ích hữu tình tinh tiến. Tĩnh lự 3 thứ là hiện pháp lạc trụ tĩnh lự, dẫn phát thần thông tĩnh lự, và nhiêu ích hữu tình tĩnh lự. Tuệ 3 thứ là duyên thế tục tuệ, duyên thắng nghĩa tuệ, và duyên hữu tình tuệ. Phải biết tài thí có thể duy trì thân, do ăn uống v.v… và các vật giúp ích cho thân sở y của người thụ nhận. Vô úy thí có thể duy trì tâm, vì an ủi làm cho người tâm lìa lo sợ. Như vậy các câu khác tùy theo nghĩa suy nghĩ. Hạ liệt tâm, nghĩa là chư Bồ-tát chán khổ sinh tử đồng với tâm nhị thừa. Do duy trì an chịu nhẫn khổ mới có thể xả bỏ tâm này. Thiện căn vô tận, nghĩa là tận cùng biên giới sinh tử, hằng làm việc lợi ích an lạc tất cả hữu tình, cho đến vô dư Niết-bàn giới cũng không xả bỏ, do duy trì tinh tiến nhiêu ích hữu tình. Ngự chúng nghiệp, nghĩa là y chỉ nội chứng nên dạy dỗ giáo hóa hữu tình, kẻ tâm chưa định thì khiến được định, kẻ tâm đã định khiến được giải thoát, do tĩnh lự duy trì sự nhiêu ích hữu tình. Chứng nhập đại địa, nghĩa là trước tin hiểu giáo pháp thậm thâm, tư lương viên mãn có thể chứng nhập sơ cực hỷ địa do duyên thế tục tuệ duy trì. Ngoài ra dễ hiểu nên không phải giải thích nữa.

Lại sai biệt là có 7 thứ thí: 1. Căn bản thí, nghĩa là Bồ-tát chủng tính vị có thí Ba-la-mật-đa, vì y chỉ chủng tính mà hành thí. 2. Hoằng thệ thí, nghĩa là Bồ-tát phát tâm vị có thí Ba-la-mật-đa, vì y thụ đại nguyện mà hành thí. 3. Nhiếp thụ thí, nghĩa là Bồ-tát tự tha lợi hành vị có thí Ba-la-mật-đa. 4. Vô chấp thụ thí, nghĩa là Bồ-tát quán chân thật nghĩa vị có thí Ba-la-mật-đa, vì vô thí giả v.v…phân biệt chấp thụ. 5. Vô nhiếp thụ thí, nghĩa là Bồ-tát oai đức vị có thí Ba-la-mậtđa. Tuy không nhiếp thụ những vật cần cho đời sống bên ngoài, chỉ do sức Tam-ma-địa của hư không tạng v.v… giơ tay vẩy hư không thì tùy ý muốn châu báu rơi xuống như mưa. 6. Tùy sở ưng thí, nghĩa là Bồ-tát thành thục vị có thí Ba-la- mật-đa, vì tùy chỗ hóa nghi mà hành thí. 7. Quảng đại thí, nghĩa là Bồ-tát tối thắng Bồ-đề vị có thí Ba-la-mật-đa, vì vô thượng. Giống như thí có 7 thứ, cho đến tuệ cũng vậy, tùy chỗ thích ứng.

Nhiếp thế nào? Nghĩa là nhiếp vào Bồ-tát địa, trong đó lược nói thí v.v… các Ba-la-mật-đa. Nhiếp này lược có 4 thứ: 1. Chủng tính nhiếp, nghĩa là thí Ba-la- mật-đa v.v…chủng tính tương ưng tùy thuận biết. 2. Phát tâm nhiếp, nghĩa là sai biệt phát tâm nhiếp. Phát tâm có 2 thứ là vô sai biệt và sai biệt. Vô sai biệt, là nguyện ta sẽ chứng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Sai biệt, là nguyện thí Ba-la-mật-đa của ta mau được viên mãn, cho đến tuệ Ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Phải biết trong đây do sai biệt phát tâm nhiếp các Ba-la-mật-đa vì đây là nhân của kia. 3. Tự tha lợi nhiếp, nghĩa là do thí nhiếp nên nhiếp thụ tất cả phú lạc tự tại, đó là tự lợi nhiếp. Do thí này nên dẫn nhiếp tài vật để làm lợi ích cho người, đó là tha lợi nhiếp. Như vậy các tướng nhiếp khác tùy theo nghĩa nên biết. 4. Thắng nghĩa nhiếp, đây lại có nhiều thứ, nghĩa là hoặc y vào pháp giới mà nói, bởi chân như là cộng tướng của thí v.v… Hoặc y vào trí tư lương mà nói, bởi có thể làm thành khí cụ của nhất thiết trí. Hoặc y vào trí nhiếp thụ mà nói, bởi có thể hoàn thành viên mãn nhất thiết trí. Hoặc y vào tri tùy chuyển mà nói, bởi 5 Ba-la-mật-đa tùy theo tuệ Ba-la-mật-đa chuyển. Hoặc y vào trí tướng mà nói, bởi tuệ Ba-lamật-đa là tự thể của chính trí. Như vậy thắng nghĩa lấy chân như và chính trí làm thể, nên có thể nhiếp thí v.v… Do nói sơ lược này, các nghĩa nhiếp khác nên tư duy như lý.

Sở trị, là thí v.v… 6 theo thứ tự bởi xan lẫn, phạm giới, phẫn nhuế, giải đãi, tán loạn, ác tuệ là sở trị. Lại nữa cho đến tất cả thiện pháp gồm trong Ba-la-mật-đa, sở đối trị và sở tri chướng của chúng đều là sở trị của Ba-la-mật-đa.

Công đức, là y vào 5 quả vô lượng vô biên xưng tán thắng lợi đều gọi là công đức. Nghĩa là có thể vĩnh đoạn tự sở đối trị là quả ly hệ của các Ba-la-mật-đa. Trong hiện pháp do thí này v.v… nhiếp thụ tự tha là quả sĩ dụng. Vào các đời về sau lần lượt tăng thắng sinh khởi là quả đẳng lưu. Đại Bồ-đề là quả tăng thượng. Cảm đại tài phú, vãng sinh nẻo thiện, không oán không hoại, nhiều các hỷ lạc, trong hữu tình được thân tôn quý không tổn hại, tuần tự phát triển dòng họ lớn, là quả dị thục của thí v.v… Ba-la-mật-đa.

Cùng nhau quyết trạch lược có 3 thứ: 1. Phương tiện, 2. Sai biệt, 3. Sai biệt hiển thị. Phương tiện, nghĩa là trong thí phương tiện tất cả có thể được. Như xả trong ngoài tất cả thân mạng tài sản là thí phương tiện. Trong phương tiện này nếu xả tất cả, là thí Ba-la-mậtđa. Tức ở trong đây nếu tâm từ bi ngăn chận tất cả sự tổn hại bức bách não loạn người khác, là giới Ba-la-mật-đa. Tức ở trong đây nhẫn chịu những sự trở ngại tổn hại mệt mỏi, là nhẫn Ba-la-mật-đa. Tức ở trong đây thường thường phát khởi tâm dũng mãnh cố gắng, là tinh tiến Ba-la-mật- đa. Tức ở trong đây tâm thuần thiện, buộc tâm vào một cảnh không lưu tán ra ngoài, là tĩnh lự Ba-la-mật-đa. Tức ở trong đây thi hành tốt như thật nhân quả, không chấp thủ dị kiến, là tuệ Ba-la-mật-đa. Như vậy cho đến trong phương tiện tuệ Ba-lamật-đa, tùy chỗ thích ứng phải khéo kiến lập. Do vô úy thí nên mọi nơi có thí.

Sai biệt lược có 4 thứ: 1. Tự thể sai biệt, 2. Trợ bạn sai biệt, 3. Khuyến tán sai biệt, 4. Chủng thực sai biệt. Thí v.v…Ba-la-mật-đa tự thể sai biệt, là như theo thứ tự lấy khí xả, phòng hộ, kham nại, sách lệ, tâm trụ, quyết trạch làm thể. Trợ bạn sai biệt, là trong phương tiện thí v.v… các Ba-la-mật-đa khác đều chuyển theo, như trước đã nói rộng. Khuyến tán sai biệt, là đối với thí v.v… khuyến khích khen ngợi tùy hỷ. Chủng thực sai biệt, là trong các tương tục khác kiến lập thí v.v…Ba-la-mật-đa. Vì trong đây thí Ba-la-mật-đa là tài thí, 5 Bala-mật-đa là vô úy thí, tất cả 6 là pháp thí, đều gieo trồng trong các tương tục khác. Sai biệt hiển thị, là do nhất hành v.v… sai biệt hiển thị thí v.v… Ba-la-mật- đa. Như có câu hỏi: Nếu thí Ba-la-mật-đa cũng là giới Ba-la-mật-đa? Hay giới Ba-la-mật-đa cũng là thí Ba-lamật-đa? Để đáp câu hỏi ngày nên làm câu thuận như sau, nghĩa là tất cả giới Ba-la-mật-đa đều là thí Ba-la-mật-đa. Hoặc có thí Ba-lamật-đa chẳng phải giới Ba-la-mật-đa. Nghĩa là có giới Ba-la-mật-đa không gồm trong thí Ba-la-mật-đa. Như vậy cho đến dùng tuệ Bala-mật-đa đối thí Ba-la-mật-đa đều nên làm thuận câu sau. Ngoài ra tương vọng vào nhau cũng nên như lý tư duy. Trong đây y vào nghiệp địa ban đầu lần lượt tu, là nói sau phải đợi trước, trước không đợi sau. Cho nên đều làm thuận câu sau. Nếu đã quen tập 6 thứ đốn tu đều nhiếp lẫn nhau, như Bồ-tát địa nói.

Nhiếp thiện pháp giới, nghĩa là 6 Ba-la-mật-đa nếu dựa vào thuần và tạp tương trợ nhau mà nói thì phải làm 4 câu. Lại nữa, tất cả thí đều Ba-la-mật-đa ư hay Ba-la- mật-đa đều là thí ư? Để đáp câu hỏi này, nên làm 3 câu: Hoặc có thí chẳng phải Ba-la-mật-đa. Nghĩa là chỗ hành thí v.v… không hồi hướng đại Bồ-đề. Hoặc có cũng thí cũng Ba-la-mật-đa. Nghĩa là chỗ hành thí v.v… hồi hướng đại Bồđề. Hoặc có chẳng phải thí chẳng phải Ba-la-mật-đa. Nghĩa là trừ chỗ nói pháp trên. Như vậy cho đến dựa vào tuệ Ba-la-mật-đa, mỗi mỗi đều phải làm 4 câu như lý tư duy. Lại nữa, tất cả hành thí đều có thể sinh chủng loại phúc thí Ba-la-mật-đa ư? Đây nên làm 4 câu. Câu đầu là hành thí không hồi hướng đại Bồ-đề. Câu thứ hai là thí Ba-la-mật-đa khuyến khích ca ngợi tùy hỷ. Câu thứ ba là hành thí hồi hướng đại Bồ-đề. Câu thứ tư là trừ các tướng trên. Như vậy cho đến y vào tuệ Ba-la- mật-đa mỗi mỗi đều làm 4 câu như lý tư duy.

Lại nữa, vì duyên gì nói phần Phương quảng là quảng đại thậm thâm? Do tính của nhất thiết chủng trí là quảng đại thậm thâm. Nghĩa là vì đây được quả của tính nhất thiết chủng trí quảng đại thậm thâm, nhân đó nhận lấy tên của quả. Cho nên đặc biệt nói phần Phương quảng là quảng đại thậm thâm.

Lại nữa, vì duyên gì một phần chúng sinh trong phần Phương quảng quảng đại thậm thâm không sinh thắng giải, trở lại ôm nỗi lo sợ? Vì do xa lìa pháp tính, chưa trồng thiện căn, bạn ác nhiếp giữ. Pháp tính, nghĩa là chủng tính Bồ-tát là tự thể của nó. Do một phần chúng sinh không có chủng tính Bồ-tát nên tâm tính hạ liệt không thể thắng giải giáo pháp quảng đại thậm thâm cho nên sợ hãi. Lại, một phần chúng sinh tuy có chủng tính Bồ-tát, nhưng đối với đại Bồ-đề chưa trồng các thiện căn chính nguyện v.v… nên đối với đây không thể thắng giải mà sinh sợ hãi. Lại, một phần chúng sinh tuy đã trồng thiện căn mà bị chúng sinh, bạn ác phỉ báng Đại thừa giữ lấy, nên đối với đây không thể thắng giải mà sinh sợ hãi.

Lại nữa, vì duyên gì một phần chúng sinh trong phần Phương quảng quảng đại thậm thâm tuy sinh thắng giải, mà không được xuất ly? Do an trụ sâu trong tự kiến thủ nên thường chấp trước chặt cứng như nghĩa của ngôn từ. Vì an trụ sâu trong tự kiến thủ nên không tiến lên cầu hiểu rõ nghĩa kinh. Thường chấp trước chắc cứng như nghĩa của ngôn từ nên thường phong kín chấp cứng không hiểu nghĩa kinh. Như nghe nói tất cả pháp rốt ráo là vô tự tính thì liền bác bỏ cho rằng tất cả các pháp tính tướng đều là vô sở hữu. Như vậy đối với các kinh bất liễu nghĩa khác, chấp chặt như nghĩa của ngôn từ cũng vậy. Vì vậy cho nên tuy tin Đại thừa mà không được xuất ly. Bởi kinh Đại thừa được nói với nhiều ý. Dựa vào mật ý này, Bạc-già-phạm trong Kinh Đại Pháp Kính có nói như vầy: Nếu chư Bồ-tát theo ngôn từ mà thủ nghĩa là vì tư duy chọn lựa pháp không đúng chính lý, liền sinh 28 thứ không chính kiến. Những gì là 28 bất chính kiến? Là tướng kiến, tổn giảm thi thiết kiến, tổn giảm phân biệt kiến, tổn giảm chân thật kiến, nhiếp thụ kiến, chuyển biến kiến, vô tội kiến, xuất ly kiến, khinh hủy kiến, phẫn phát kiến, điên đảo kiến, xuất sinh kiến, bất lập tông kiến, kiểu loạn kiến, kính sự kiến, kiên cố ngu si kiến, căn bản kiến, ư kiến vô kiến kiến, xả phương tiện kiến, bất xuất ly kiến, chướng tăng ích kiến, sinh phi phúc kiến, vô công quả kiến, thụ nhục kiến, phỉ báng kiến, bất khả dữ ngôn kiến, quảng đại kiến, tăng thượng mạn kiến.

Tướng kiến, nghĩa là nghe trong kinh Đại thừa có nói tất cả các pháp đều không tự tính, không sinh không diệt, xưa nay vắng lặng, tự tính Niết-bàn v.v… không hiểu rõ mật ý, chỉ theo nghĩa của ngôn từ liền sinh thắng giải, cho rằng Phật có nói tất cả các pháp nhất định không có tự tính, nhất định không sinh v.v…, chấp trước các tướng vô tính như vậy là kiến tướng. Khi chấp trước vô tính v.v… các tướng như vậy thì liền chê bai 3 tự tính, đó là biến kế sở chấp tự tính, y tha khởi tự tính, và viên thành thật tự tính. Biến kế sở chấp tự tính, nghĩa là các ngu phu đối với các sắc tướng chấp khắp tất cả, khởi thêm nhiều chấp trước, bảo đây là sắc, cho đến đây là Niết-bàn. Nghĩa của chấp trước đó là không thật, không thể, chỉ có thi thiết bằng danh ngôn. Y tha khởi tự tính, nghĩa là ngay nơi cái gọi là sắc đây chỉ là hư vọng phân biệt tự thể, lại tính nhân quả hoặc khác hoặc không khác. Viên thành thật tự tính, nghĩa là tất cả pháp chân như thật tính. Trong 3 tính khởi phỉ báng này, tức 3 kiến như sau là tổn giảm thi thiết kiến, tổn giảm phân biệt kiến, và tổn giảm chân thật kiến. Kia khi phỉ báng nhất thiết chủng, nhất thiết pháp, là muốn thành lập tà kiến này, nên lại nhiếp thụ một phần ít đạo lý, và chỗ khai thị chư pháp thật tính ly ngôn trong liễu nghĩa khế kinh, rộng bày phương tiện, đều chuyển đổi tất cả khiến thuận theo kiến chấp của mình. Hai thứ như vậy tức 2 kiến sau đây là nhiếp thụ kiến và chuyển biến kiến. Kia lại khởi kiến như vầy: Nếu dựa vào kiến này mà hành thiện bất thiện, nhất định đều không có tội lỗi gì hết. Tất cả mọi việc làm đều quy về diệu thiện. Tất cả chướng cấu tích tập trước kia đều được xuất ly. Hai thứ như thế tức 2 kiến sau đây, là vô tội kiến và xuất ly kiến. Kia đã chấp tự kiến như vậy rồi liền đối với các pháp an lập uẩn v.v…trong Thanh Văn tạng trái với kiến này, vọng sinh khinh chê, lại sinh ganh ghét sâu sắc những người Thanh Văn không tin tà kiến như thế. Hai thứ này tức 2 kiến sau đây, là khinh hủy kiến và phẫn phát kiến. Kia lại thuận theo ác tà kiến của mình bảo rằng ta sẽ kiến lập như thật không, vô tướng, vô nguyện, với chẳng phải tướng đó thì khởi tưởng tướng đó, còn đối với tướng đó thì điên đảo kiến lập. Lại có suy nghĩ như vầy: Nếu có thể ngộ nhập pháp tính như vậy, hoặc khiến người nhập, tất cả đều sinh vô lượng công đức. Hai thứ như vậy, tức là 2 kiến sau đây, là điên đảo kiến và xuất sinh kiến. Nếu người khác đúng lý trách các ác kiến của người kia, bấy giờ người kia thôi không muốn kiến lập tông mình, trở lại chê trách người ấy. Hai thứ như vậy, tức 2 kiến sau đây, là bát lập tông kiến và kiểu loạn kiến. Kia lại khởi tăng thượng mạn như vầy: Nếu có thể tu hành được như vậy là chân thật cúng dường cung kính Thế Tôn. Kiến chấp như vậy gọi là kính sự kiến. Có người thấu hiểu pháp tính không điên đảo, vì muốn khiến người kia lìa bỏ ác kiến, tuy dùng các thứ chân thật thành lập đạo lý làm phương tiện khai ngộ, vẫn giữ chặt kiến chấp ngu muội không bỏ, bảo rằng chỉ có đây là chân thật ngoài ra đều tà vọng. Kiến chấp đó gọi là kiên cố ngu si kiến. Như điều nói trên, các kiến chấp có tập khí thô trọng, là căn bản kiến. Vì muốn khai thị, như trên đã nói các tội lỗi của 17 thứ kiến chấp, lại nói các kiến khác tức tướng kiến gọi là kiến vô kiến kiến. Đây thật cố chấp các tướng vô tính mà khởi. Không chấp tất cả tướng tưởng, tức tổn giảm thi thiết kiến, tổn giảm phân biệt kiến, tổn giảm chân thật kiến, gọi là xả phương tiện kiến. Do kia phỉ báng tất cả pháp tính, đối với siêng năng tinh tiến khởi vô dụng tưởng, tức nhiếp thụ kiến chuyển biến kiến, gọi là bất xuất ly kiến. Chẳng phải phương tiện tu học không thể chứng quả, tức vô tội kiến, xuất ly kiến, gọi là chướng tăng ích kiến. Làm các điều tà vạy không dung hết chướng, tức khinh hủy kiến, phẫn phát kiến gọi là sinh phi phúc kiến. Do nơi chính pháp đồng phạm hạnh khởi tà hạnh môn, có thể dẫn phát suy tổn lớn, tức điên đảo kiến , xuất sinh kiến gọi là vô công quả kiến. Do chỗ an lập tính phi chính pháp, người trao người nhận đều không thể chứng quả thắng tiến, tức bất lập tông kiến, kiểu loạn kiến, gọi là thụ nhục kiến. Phi lý lập luận không được đắc thắng, tức kính sự kiến, gọi là phỉ báng kiến. Chỗ không nên nói mà cưỡng tăng ích, tức kiên cố ngu si kiến, gọi là bất khả dữ ngôn kiến. Với người tà chấp không thì không nên nói, dẫu nói nhiều lời cũng thành vô ích, tức căn bản kiến, gọi là quảng đại kiến. Do đây về sau các loại ác kiến chuyển tăng rộng, tức như trên nói 27 kiến đều gọi là tăng thượng mạn kiến, vì đều có thể phát khởi hư vọng không thật tăng thượng mạn. Điều này làm sao biết? Do trong kinh kia, tức sẽ nói sau. Như vậy các kiến 17 tức 10, 10 tức 17, 27 tức 1, 1 tức 27.

Lại nữa, như Phương quảng phần nói: Tất cả các pháp đều không tự tính. Câu này dựa vào mật ý gì mà nói? Là vô tự nhiên tính, vô tự thể tính, vô trụ tự thể, không như người ngu chấp thủ tính tướng. Vô tự nhiên tính, là do không có tính tự nhiên nên nói là vô tự tính, không có tính giá đãi duyên nên nói vô tự tính. Vô tự thể tính, là do tự thể này đã từng có, tức tự thể này không thể lại có nên nói là vô tính. Vô trụ tự thể, là thể tuy hiện tại chưa đến hoại, tiếp đến ắt phải diệt, vì thể không trụ nên nói vô tính. Không như người ngu chấp thủ tính tướng, là những người ngu chưa kiến đế, dựa vào danh ngôn, hý luận, huân tập môn, vọng chấp tính tướng các pháp. Xa lìa sự chấp thủ tự tính như vậy nên nói là vô tính.

Lại nữa nơi biến kế sở chấp tự tính là tướng vô tính, nơi y tha khởi tự tính là sinh vô tính, nơi viên thành thật tự tính là thắng nghĩa vô tính. Lại y vào dị môn mà hiển nghĩa vô tính nên nói như vậy. Lại nữa, tất cả pháp tức 3 tự tính. Nghĩa là biến kế sở chấp tự tính, y tha khởi tự tính, và viên thành thật tự tính. Biến kế sở chấp tự tính nhất định không có tự tướng. Không có tự tướng nên gọi là tướng vô tính. Tướng không có tính nên gọi là vô tính. Y tha khởi tự tính đợi các duyên nên không phải tự nhiên sinh. Không có tính tự nhiên sinh nên gọi là sinh vô tính. Vì sinh vô tính nên gọi là vô tính. Viên thành thật tự tính thanh tịnh sở duyên. Ở trong y tha khởi không có biến kế sở chấp, tướng sở hiển tự thể nên thắng nghĩa là tự thể, vô tính hiển nên gọi là thắng nghĩa vô tính. Thắng nghĩa không có tính nên gọi là vô tính. Do đạo ý này nên Như Lai nói: Tất cả pháp đều không tự tính. Chẳng phải tất cả mọi thứ tính tướng đều không mà nói là vô tính.

Lại nữa như kia nói: Tất cả các pháp không sinh không diệt, xưa nay vắng lặng, tự tính Niết-bàn. Đây là dựa vào mật ý gì nói? Giống như không tự tính không sinh cũng vậy. Giống như không sinh không diệt cũng vậy. Giống như không sinh không diệt xưa nay vắng lặng cũng vậy. Giống như xưa nay vắng lặng tự tính Niết-bàn cũng vậy.

Lại nữa có 4 thứ ý thú. Do ý thú này nên trong phần Phương quảng tất cả các ý thú của Như Lai đều phải tùy theo đó quyết liễu. Những gì là 4? Là bình đẳng ý thú, biệt thời ý thú, biệt nghĩa ý thú, chúng sinh ý ác ý thú. Bình đẳng ý thú, nghĩa là như nói: Ta lúc bấy giờ từng được gọi là Thắng Quán Như Lai ứng chính đẳng giác, cùng pháp thân kia không sai biệt. Biệt thời ý thú, nghĩa là như nói: Nếu có người nguyện sinh về thế giới cực lạc đều được vãng sinh. Nếu chỉ chốc lát được nghe tên Vô Cấu Nguyệt Quang Như Lai thì liền được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề quyết không thoái chuyển. Ý những câu nói như vậy là ở một biệt thời mà nói. Biệt ý thú, nghĩa là như nói: Tất cả các pháp đều không có tự tính. Những câu nói như vậy không thể y như câu văn mà lấy nghĩa. Chúng sinh ý lạc ý thú, nghĩa là đối với một thiện căn, hoặc có lúc thì khen ngợi để khiến hoan hỷ dũng mãnh mà tu hành, hoặc có khi chê trách là để ngăn chận tưởng làm được một việc thiện nhỏ đã vui mừng cho là đủ. Với người tu hành còn tâm tham thì ca ngợi cõi Phật là phú lạc trang nghiêm. Với người tu hành còn tâm ngã mạn thì ca ngợi chư Phật còn có tăng thắng. Để hằng giáo hối người tu thiện mà còn não chướng nên nói những câu như vậy. Đối với Phật Bồ-tát dẫu hành khinh hủy nhưng những chúng sinh ấy cũng sinh cõi trời. Vì những người chủng tính bất định có ý lạc lìa bỏ Thanh Văn hạ liệt, thụ ký Đại Thanh Văn sẽ được thành Phật. Cho nên nói một thừa mà không có thừa thứ hai.

Lại nữa có 4 thứ bí mật. Do bí mật này nên trong phần Phương quảng có tất cả những bí mật của Như lai đều phải tùy theo đó quyết liễu. Những gì là 4? Là khiến nhập bí mật, tướng bí mật, đối trị bí mật, và chuyển biến bí mật. Như vậy 4 thứ ở trong Đại thừa lược nhiếp tất cả đạo lý bí mật Như Lai nói. Khiến nhập bí mật, nghĩa là đối với Thanh Văn thừa nói sắc v.v… các pháp đều có tự tính để khiến không sợ hãi, dần vào Thánh giáo. Tướng bí mật, nghĩa là đối với 3 tự tính nói tất cả pháp đều không tự tính không sinh không diệt v.v… Đối trị bí mật, nghĩa là để điều phục các tội lỗi, Như Lai tuyên thuyết các thứ Mật giáo. Như để đối trị 8 thứ chướng nên nói tối thượng thừa. Những gì là 8? là khinh Phật pháp, giải đãi, chút ít thiện đã sinh mừng đủ, tham, mạn, hành ác tác, bất định tính, và sai biệt. Nói rộng chỉ sự tùy theo chỗ thích ứng như nói 4 ý thú. Chuyển biến bí mật, nghĩa là kinh nói danh ngôn ẩn mật, như nói: Trong bất kiên, kiên giác thâm trụ nơi điên đảo. Cực phiền não sở não, được tối thượng Bồ-đề. Trong đây mật ý là ở trong không tán động khởi kiên cố thắng giác. Sở dĩ vì sao? Kiên có 2 nghĩa: 1. Trinh thật, 2. Tán động. Do tán động này khiến tâm kiên cường, cho nên cũng gọi là kiên. Thâm trụ nơi điên đảo, nghĩa là đổi thường, lạc, ngã, tịnh 4 đảo làm vô thường v.v… nên gọi là điên đảo. Ở đây không thoái nên gọi thâm trụ. Cực phiền não sở não, nghĩa là trong thời gian dài lâu tinh cần khổ hạnh bị rất cực nhọc bức não. Được tối thượng Bồ-đề, nghĩa là đủ như trên nói 3 việc, chắc chắn sẽ mau chứng vô thượng Bồ-đề.

Lại nữa, trong phần Phương quảng làm sao có thể biết tướng thiện xảo của Bồ-tát trong Tam-ma-địa? Nghĩa là do 5 thứ nhân: 1. Sát-na sát-na tiêu trừ tất cả thô trọng sở y. 2. Xuất ly các thứ tưởng được vui pháp lạc. 3. Hiểu rõ vô lượng vô phân biệt tướng đại pháp quang minh. 4. Thuận thanh tịnh phần, tướng vô phân biệt hằng hiện tại tiền. 5. Năng nhiếp thụ chuyển thượng chuyển thắng, thành tựu viên mãn nhân pháp thân của Phật. Như vậy 5 thứ là y vào 3 thứ xưng tán công đức chư Bồ-tát mà nói. Tức là Xa-ma-tha xưng tán công đức, Tì-bát-xá-na xưng tán công đức, gồm cả 2 phần xưng tán công đức. Xa-ma-tha xưng tán công đức lại có 2 thứ: 1. Sát-na sát-na thắng tiến khinh an không thiếu không gián đoạn, vì sở y biến khắp nên sát-na sát-na tiêu trừ tất cả sở y thô trọng. 2. Thắng giải đế quán tất cả giáo pháp không có sai biệt, vì đồng một mùi vị, xa lìa các nghĩa tướng tưởng của các thứ uẩn, giới, xứ v.v…, được ý lạc pháp lạc của khế kinh. Tì-bát-xá-na xưng tán công đức cũng có 2 thứ: 1. Tùy chỗ trạch pháp không thiếu không gián đoạn vì không quên mất , do ức niệm môn trong vô lượng pháp, tướng vô phân biệt của khế kinh dùng tuệ chiếu rõ. 2. Trước khi chuyển y tuy có các sắc tượng, nhưng hằng hiện tại tiền tướng vô phân biệt, vô gia hành. Một cái thứ 5 là 2 cái này. Gồm cả 2 phần xưng tán công đức pháp thân, nghĩa là sở tri chướng vĩnh đoạn nhiếp trong chuyển y. Đây trong địa thứ 10 gọi là viên mãn, trong Như Lai địa gọi là thành tựu. Để khiến pháp thân mau được thành tựu viên mãn nên dẫn thực, chuyển thượng, chuyển thắng, đẳng lưu tập khí nên gọi là nhiếp thụ. Kia 5 thứ nhân như vậy hiển thị 5 tu có thể đắc 5 quả. Những gì là 5? Là dứt tưởng tu, hòa hợp tu, vô tướng tu, vô công dụng tu, và chuyển tướng tu.

Hỏi: Tạng pháp Thanh Văn, tạng pháp Bồ-tát v.v… là từ pháp thân lưu xuất, vì sao chúng sinh dùng hương hoa man cúng dường Bồ-tát tạng pháp liền được vô biên phúc tụ rộng lớn mà không phải Thanh Văn tạng pháp?

Đáp: Vì Bồ-tát tạng pháp là chỗ y chỉ lợi ích an lạc của tất cả chúng sinh, có thể kiến lập nghĩa lớn cho nên là nơi sinh vô thượng vô lượng đại công đức tụ.

HẾT QUYỂN 12