ĐẠI THỪA A TÌ ĐẠT MA TẠP TẬP LUẬN
An Huệ Bồ-tát tập hợp
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 5

Phẩm 1 – 5: PHẨM 3 PHÁP TRONG BẢN SỰ PHẦN

Đẳng vô gián duyên, nghĩa là trung gian không gián cách, bình đẳng không gián đoạn, đồng phần dị phần tâm tâm pháp sinh bình đẳng không gián đoạn, là nghĩa của đẳng vô gián duyên. Trung gian không gián cách, bình đẳng không gián đoạn, nghĩa là bất tất trong sátna không gián cách mà tuy sát-na gián cách chỉ không có dị tâm gián cách cũng gọi là trung gian không gián cách. Nếu không như vậy thì nhập vô tâm định tâm trông đợi xuất định tâm phải chẳng còn là đẳng vô gián duyên. Nhưng là duyên của nó cho nên trong một tương tục có tâm trước trông ngóng tâm sau. Trung gian không có các tâm khác gián cách, là đẳng vô gián duyên. Giống như tâm trông ngóng tâm, tâm pháp phải biết cũng như vậy. Đồng phần dị phần tâm tâm pháp sinh bình đẳng không gián đoạn, nghĩa là thiện tâm tâm pháp trông ngóng đồng phần thiện dị phần bất thiện và vô ký không gián đoạn sinh tâm tâm pháp, là đẳng vô gián duyên. Như vậy bất thiện vô ký tâm tâm pháp trong ngóng đồng phần dị phần không gián đoạn sinh tâm tâm pháp cũng như vậy. Lại nữa Dục giới tâm tâm pháp trông ngóng Dục, Sắc, Vô sắc giới và vô lậu không gián đoạn sinh tâm tâm pháp, là đẳng vô gián duyên. Như vậy Sắc giới v.v… tâm tâm pháp mỗi mỗi đều trông ngóng riêng sắc giới v.v… và Dục giới v.v…không gián đoạn sinh tâm tâm pháp tùy theo chỗ thích ứng đều phải biết hết.

Hỏi: Là tất cả tâm không gián đoạn tất cả tâm sinh, hay là có quyết định riêng biệt ư?

Đáp: Có. Nay trong đây nếu nói rộng riêng biệt tâm không gián đoạn như vậy tâm sinh như vậy thì nói nhiều vô lượng. Cho nên chỉ tổng quát kiến lập sơ lược tướng sinh khởi của tâm. Nghĩa là các tâm sinh khởi do 10 sức: 1. Sức do quán tập. 2. Sức do lạc dục. 3. Sức do phương tiện. 4. Sức do đẳng chí. 5. Sức do dẫn phát. 6. Sức do nhân. 7. Sức do cảnh giới. 8. Sức do nghĩ nhớ. 9. Sức do tác ý. 10. Sức do sự liên tục.

Sức quán tập, lại có 3 thứ là hạ phẩm trung phẩm thượng phẩm. Nếu trong các định chưa hiểu rõ tướng nhập trụ xuất, đó là hạ phẩm. Tuy đã hiểu rõ chưa quán tập tốt, đó là trung phẩm. Đã hiểu rõ rồi lại quán tập tốt, đó là thượng phẩm. Nếu có sức quán tập hạ phẩm thì đối với các tĩnh lự, các Vô sắc định chỉ có thể theo thứ tự nhập. Nếu có sức quán tập trung phẩm cũng có thể siêu việt nhập, nhưng chỉ có thể phương tiện siêu việt một khoảng. Nếu có sức quán tập thượng phẩm thì tùy ý muốn hoặc siêu vượt tất cả, hoặc thuận hoặc nghịch nhập các đẳng chí.

Sức lạc dục, nghĩa là người đã được đệ nhị tĩnh lự nhập sơ tĩnh lự rồi nếu muốn dùng tâm đệ nhị tĩnh lự địa xuất, hoặc muốn dùng tâm Dục giới thiện và vô phú vô ký xuất, liền có thể hiện tiền mà xuất định. Như vậy cho đến nói rộng. Ngoài ra tất cả địa khác như lý phải biết.

Sức phương tiện, nghĩa là người mới tu hành chỉ Dục giới thiện tâm vô gián thì Sắc giới tâm sinh. Vị chí định thiện tâm vô gián thì sơ căn bản tĩnh lự tâm sinh. Sơ căn bản tĩnh lự thiện tâm vô gián thì đệ nhị tĩnh lự địa tâm sinh. Như vậy nói rộng cho đến Hữu đỉnh đều như lý mà biết.

Sức đẳng chí, nghĩa là đã nhập thanh tịnh Tam-ma-bát-để, hoặc có khi trở lại sinh thanh tịnh đẳng chí, hoặc có khi sinh nhiễm.

Sức dẫn phát, nghĩa là từ Tam-ma-địa khởi cho đến hiện hành địa địa tâm với bất định sát-na tâm xen tạp tùy chuyển. Cho đến do phiền não trái nhau của chúng hiện hành nên liền thoái mất tâm tương ưng với phiền não trái nhau này. Lại nữa do nhân v.v… 4 sức mới được hiện hành.

Sức của nhân, là trước do tích tập có thể thoái chướng nên quyết định phải thoái.

Sức của cảnh giới, nghĩa là tịnh tướng của thế lực tăng thượng cảnh giới hiện tiền, cho nên có thể tùy thuận sinh tham v.v… các phiền não.

Sức nghĩ nhớ, nghĩa là nghĩ nhớ phân biệt các cảnh giới quá khứ mà sinh hý luận.

Sức tác ý, nghĩa là do quán sát tác ý tư duy các thứ tướng mạo tịnh diệu.

Sức tương tục có 9 thứ. Mạng chung tâm với tự thể ái tương ưng, trong 3 cõi đều khiến sinh tương tục Dục, Sắc, Vô sắc giới. Nghĩa là người từ Dục giới chết trở lại sinh Dục giới, là vì Dục giới tự thể ái tương ưng, mạng chung tâm kết sinh tương tục. Cũng giống như vậy từ Sắc, Vô sắc giới chết tức sinh nơi ấy hoặc sinh nơi khác. Có 6 thứ tâm tùy theo chỗ thích ứng đều phải biết hết. Lại nữa cái tự thể ái này chỉ là câu sinh, không biết cảnh sở duyên, ở trong tính hữu phú vô ký mà có thể phân biệt tự thể của ngã, sinh cảnh giới sai biệt. Do thế lực này các dị sinh khiến trong vô gián có tương tục. Các Thánh giả chưa lìa dục cũng vậy, khi sắp sửa mạng chung cho đến khi chưa đạt tới địa vị không minh liễu tưởng, trong khoảng trung gian đó có thể khởi hiện hành ái này, nhưng có thể hiểu rõ dùng sức đối trị mà nhiếp phục. Các Thánh giả đã lìa dục có sức đối trị mạnh nên tuy chưa vĩnh đoạn nhưng cái ái này không trở lại hiện hành. Chúng do thế lực của tùy miên khiến tương tục trong trung hữu. Sátna tương tục đầu tiên chỉ có vô phú vô ký, do đó nó gồm trong dị thục. Từ đó về sau, hoặc thiện hoặc bất thiện hoặc vô ký là tùy chỗ thích ứng trừ một tâm của nó, bởi một tâm của trung hữu thường là nhiễm ô. Cũng như sát-na của tử hữu, sinh hữu, tương tục tâm cũng chỉ có vô phú vô ký. Nếu là nguyện lực của các Bồ-tát thụ sinh thì mạng chung các tâm ấy đều hoàn toàn là thịện. Đã nói xong nghĩa của nhân luận, sinh luận, đẳng vô gián duyên.

Sở duyên duyên, nghĩa là cảnh sở duyên có phân tề, cảnh sở duyên không phân tề, cảnh sở duyên không hành tướng khác, cảnh sở duyên có hành tướng khác, cảnh sở duyên hữu sự, cảnh sở duyên vô sự, sự sở duyên, phân biệt sở duyên, sở duyên có điên đảo, sở duyên không điên đảo, sở duyên hữu ngại, sở duyên vô ngại, đó là nghĩa của sở duyên duyên.

Cảnh sở duyên có phân tề, nghĩa là cảnh giới sở duyên của 5 thức thân, bởi 5 thức thân đều có cảnh giới riêng biệt. Cảnh sở duyên không phân tề, nghĩa là cảnh giới sở duyên của ý thức, bởi ý thức thân duyên tất cả pháp làm cảnh giới.

Cảnh sở duyên không hành tướng khác, nghĩa là không thể hiểu rõ danh tưởng chúng sinh, ý thức sở duyên cảnh giới do nó đối với cảnh không thể làm ra danh tự. Cảnh sở duyên có hành tướng khác, là trái ngược với đây.

Cảnh sở duyên hữu sự, là các cảnh giới sở duyên trừ kiến, mạn và pháp tương ưng với đây. Cảnh sở duyên vô sự, cảnh giới sở duyên đã trừ ở trước, vì do kia khởi nơi ngã. Sự sở duyên, là các cảnh giới sở duyên trừ vô lậu duyên không đồng phần giới địa biến hành nơi sự không quyết liễu và vị lai sở duyên. Phân biệt sở duyên, là cảnh giới sở duyên đã trừ ở trước, bởi chúng chỉ duyên tự sở phân biệt làm cảnh giới. Sở duyên có điên đảo, là thường đẳng hành với cảnh sở duyên. Sở duyên không điên đảo là không thường đẳng hành với cảnh sở duyên. Sở duyên hữu ngại, là người chưa đoạn sở tri chướng duyên cảnh giới. Sở duyên vô ngại, là người đã đoạn sở tri chướng duyên cảnh giới. Lại nữa, nếu muốn quyết trạch nghĩa sở duyên duyên thì nên dùng tướng, dùng sai biệt, dùng an lập, dùng biến tri, dùng đoạn. Tướng kiến lập sở duyên, nghĩa là như nghĩa tựa như đây hiển hiện sinh nhân của tâm tâm pháp, khi đã sinh rồi lại có thể chấp trước, hiển rõ nội chứng nghĩa này là tướng của sở duyên. Sai biệt có 29 thứ: 1. Phi hữu sở duyên, là tâm tâm pháp điên đảo và duyên các cảnh giới sở duyên trong quá khứ, vị lai, trong chiêm bao và ảo ảnh. 2. Hữu sở duyên, là các cảnh giới sở duyên khác. 3. Vô sở duyên duyên, là sắc, tâm bất tương ưng hành, vô vi. 4. Hữu sở duyên duyên, là tâm, tâm pháp. 5. Chính tính sở duyên, là thiện pháp. 6. Tà tính sở duyên, là nhiễm ô pháp. 7. Phi chính tính phi tà tính sở duyên, là vô phú vô ký pháp. 8. Như lý sở duyên, là thiện tâm tâm pháp. 9. Bất như lý sở duyên, là nhiễm ô tâm tâm pháp. 10. Phi như lý phi bất như lý sở duyên, là khác các tâm tâm pháp này. 11. Đồng loại sở duyên, là thiện v.v… duyên thiện v.v…, tự địa duyên tự địa, hữu lậu duyên hữu lậu, vô lậu duyên vô lậu, v.v… 12. Dị loại sở duyên, là thiện v.v… duyên bất thiện v.v…, các địa khác duyên các địa khác, hữu lậu vô lậu duyên vô lậu hữu lậu, v.v… 13. Dị tính sở duyên, là tâm tâm pháp sở duyên có tầm có tứ. 15. Uy thế sở duyên, là vô tưởng và cảnh giới sở duyên của phương tiện tâm tâm pháp nơi đó, và cảnh giới sở duyên của không vô biên xứ, thức vô biên xứ. Trong đó 2 câu đầu là có thể trừ tưởng nên gọi là uy thế. Ngoài ra tính lớn nên gọi là uy thế. 16. Lược tế sở duyên, là cảnh giới sở duyên của vô sở hữu xứ. 17. Cực tế sở duyên, là sở duyên của phi tưởng phi phi tưởng. Vì quá đây không còn tính cực kỳ vi tế nữa. 18. Phiền não sở duyên, tức là đây có thể có sở duyên, như trong kinh nói đoạn diệt sở duyên. 19. Pháp sở duyên, là các Thánh giáo danh cú văn thân. 20. Nghĩa sở duyên, là dựa vào pháp nghĩa này. 21. Hiệp tiểu sở duyên, là Thanh Văn thừa v.v… 22. Quảng đại sở duyên, là Đại thừa. 23.

Tướng sở duyên, là tướng chỉ, cử, xả. 24. Vô tướng sở duyên, là

Niết-bàn và đệ nhất hữu. 25. Chân thật sở duyên, là chân như và 16 hành sở duyên các đế. 26. An trụ sở duyên, là diệt tận định và định phương tiện tâm tâm pháp sở duyên. 27. Tự tại sở duyên, là giải thoát v.v… cho đến nhất thiết chủng trí các công đức sở duyên. 28. Tu du sở duyên, là sở duyên của vô học chỉ đây sinh. 29. Tùy chuyển sở duyên, là cảnh giới sở duyên của Phật Bồ-tát.

An lập, nghĩa là thể của cảnh sở duyên chẳng phải chân thật vì chỉ an lập. Do 4 thứ nhân mà biết thể của cảnh sở duyên chẳng phải chân thật. Nghĩa là trái với tướng của thức nên không có cảnh sở duyên. Thức có thể được nên không do dụng công, ứng vô đảo nên tùy theo 3 trí chuyển. Do đạo lý này, thể tính của năng thủ cũng chẳng phải chân thật. Ba trí là tự tại trí, quan sát trí, và vô phân biệt trí. Để làm rõ 4 nhân nên nói bài tụng như sau:

Quỷ, bàng sinh, người, trời

Đều tùy theo chỗ ứng,

Đẳng sự tâm khác nên

Có nghĩa chẳng chân thật.

Như các việc quá khứ,

Chiêm bao, cùng ảnh tượng,

Tuy sở duyên, chẳng thật

Mà tướng cảnh thành tựu.

Nếu nghĩa thành nghĩa tính,

Không trí vô phân biệt,

Đây nếu không Phật quả,

Chứng đắc, không đúng lý.

Được tự tại Bồ-tát,

Vì do sức nguyện giải.

Như dục địa …được thành,

Người được định cũng vậy.

Người thành tựu giản trạch,

Người có trí được định,

Tư duy tất cả pháp,

Như nghĩa đều hiển hiện.

Hành trí vô phân biệt,

Các nghĩa đều không hiện.

Phải biết không có nghĩa,

Do đó cũng không thức.

Biến tri, nghĩa là biết như thật cảnh sở duyên của tướng, sai biệt, an lập.

Đoạn, nghĩa là Thanh Văn v.v… và Đại thừa được chuyển y. Thanh Văn thừa v.v… được chuyển y tuy đối với sở duyên của uẩn giới xứ được giải thoát nhưng họ không được tự tại. Đại thừa được chuyển y thì được đủ 2 thứ đã nói. Sở duyên duyên thì tùy văn mà quyết trạch nghĩa.

Tăng thượng duyên, là nhiệm trì tăng thượng, là dẫn phát tăng thượng, là câu hữu tăng thượng, là cảnh giới tăng thượng, là sản sinh tăng thượng, là trụ trì tăng thượng, là thụ dụng quả tăng thượng, là thế gian thanh tịnh ly dục tăng thượng, là xuất thế thanh tịnh ly dục tăng thượng. Đó là nghĩa của tăng thượng duyên.

Nhiệm trì tăng thượng , nghĩa là phong luân v.v… trong thủy luân v.v…khí thế gian, trong đại chủng của hữu tình thế gian, trong các căn sở tạo, trong các thức v.v… Dẫn phát tăng thượng, nghĩa là cộng nghiệp của tất cả hữu tình ở trong khí thế gian, là nghiệp hữu lậu trong quả dị thục v.v… Câu hữu tăng thượng, nghĩa là tâm đối với tâm pháp tác ý, đối với tâm xúc nơi thụ v.v… Từ đây về sau tăng thượng dựa vào 22 căn kiến lập. Cảnh giới tăng thượng, nghĩa là nhãn căn, nhĩ căn, tỹ căn, thiệt căn, thân căn ý căn do sức tăng thượng đây sinh sắc v.v… Sản sinh tăng thượng, nghĩa là nam căn nữ căn do sức tăng thượng đây được nhập thai. Trụ trì tăng thượng, nghĩa là mạng căn do sức tăng thượng đây chúng đồng phần được trụ. Quả thụ dụng tăng thượng, nghĩa là khổ căn, lạc căn, ưu căn, hỷ căn, xả căn do đây có thể thụ ái phi ái dị thục. Thế gian thanh tịnh ly dục tăng thượng, nghĩa là tín căn, cần căn, niệm căn, định căn, tuệ căn do đây chế phục các phiền não. Xuất thế thanh tịnh ly dục tăng thượng, nghĩa là sở kiến lập vị tri dục tri căn, dĩ tri căn, cụ tri căn do đây vĩnh hại các tùy miên.

Thế nào là đồng phần bỉ đồng phần, bao nhiêu là đồng phần bỉ đồng phần, vì nghĩa gì quán đồng phần bỉ đồng phần? Vì không lìa thức chúng tương tự căn đối với cảnh tương tục sinh, lìa thức tự nó tương tự tương tục sinh, đó là nghĩa của đồng phần bỉ đồng phần. Ban đầu là đồng phần, các căn cùng với thức tương tự với thức tương tục sinh trong các cảnh giới do căn với thức có chuyển nghĩa tương tự nên gọi là đồng phần. Thứ hai là bỉ đồng phần, các căn lìa thức tự loại tương tự tương tục sinh, do căn không hợp cùng thức chỉ tự thể tương tự tương tục sinh. Tướng của căn có nghĩa tương tự gọi là bỉ đồng phần. Một phần của sắc uẩn, một phần của nhãn v.v…5 hữu sắc giới xứ, là đồng phần bỉ đồng phần. Để xả bỏ chấp trước ngã với thức tương ưng không tương ưng, nên quán sát đồng phần bỉ đồng phần.

Thế nào là chấp thụ, bao nhiêu là chấp thụ, vì nghĩa gì nên quán sát chấp thụ? Nghĩa là sự thụ sinh được dựa vào sắc nên đó là nghĩa của chấp thụ. Nếu dựa vào sắc này thụ được sinh, đó gọi là chấp thụ. Một phần của sắc uẩn, toàn 5 hữu sắc giới xứ, và một phần của 4, là chấp thụ. Một phần của sắc uẩn, là căn trong căn cư xứ. Toàn 5 hữu sắc giới xứ, là nhãn v.v… Một phần của 4, là không lìa căn sắc hương vị xúc. Để xả bỏ chấp trước thân tự tại chuyển ngã, nên quán sát chấp thụ.

Thế nào là căn, bao nhiêu là căn, vì nghĩa gì nên quán sát căn? Là thủ cảnh tăng thượng, là chủng tộc bất đoạn tăng thượng, là chúng đồng phần trụ tăng thượng, là thụ dụng tịnh bất tịnh nghiệp quả tăng thượng, là thế gian ly dục tăng thượng, là xuất thế gian ly dục tăng thượng, đó là nghĩa của căn. Thủ cảnh tăng thượng, nghĩa là mắt v.v… 6 thứ do sức tăng thượng này đối với săc v.v… các cảnh tâm tâm pháp chuyển. Chủng tộc bất đoạn tăng thượng, nghĩa là nam căn nữ căn do sức tăng thượng này, con cháu nối tiếp lưu chuyển không tuyệt, ngoài ra như đã nói trong phần tăng thượng duyên. Toàn thụ uẩn, thức uẩn, một phần sắc uẩn, hành uẩn, toàn 12 giới 6 xứ, một phần pháp giới pháp xứ, là căn. Một phần của sắc uẩn, là nhãn căn, nhĩ căn, tỹ căn, thiệt căn, thân căn, nam căn, nữ căn. Một phần của hành uẩn, là mạng căn, tín căn, cần căn, nỉệm căn, định căn, tuệ căn. Toàn 12 giới, là 6 căn và 6 thức giới. Toàn 6 xứ, là 6 xứ bên trong. Một phần pháp giới pháp xứ, là mạng và lạc v.v…tín v.v… 5 căn. Để xả bỏ chấp trước ngã tăng thượng, nên quán sát căn.

Thế nào là tính khổ khổ, bao nhiêu là tính khổ khổ, vì nghĩa gì nên quán tính khổ khổ? Là tự tướng của khổ thụ, là tự tướng của pháp tùy thuận khổ thụ, đó là nghĩa của tính khổ khổ. Tự tướng của khổ thụ, nghĩa là khổ thụ tức dùng thể của khổ làm tự tướng nên gọi là tính khổ khổ. Tự tướng của pháp tùy thuận khổ thụ, nghĩa là có thể sinh căn cảnh của thụ này và pháp tương ưng tùy thuận khổ thụ nên gọi là tính khổ khổ. Tất cả một phần là tính khổ khổ. Để xả bỏ chấp trước ngã hữu khổ, nên quán sát tính khổ khổ.

Thế nào là tính hoại khổ, bao nhiêu là tính hoại khổ, vì nghĩa gì nên quán tính hoại khổ? Là tự tướng biến hoại của lạc thụ, là tự tướng biến hoại của pháp tùy thuận lạc thụ, vì ái tâm đối với chúng biến hoại, đó là nghĩa của tính hoại khổ. Trong đây lạc thụ và pháp tùy thuận lạc thụ trong biến hoại vị có thể sinh ưu não cho nên biến hoại này là tính của hoại khổ. Lại nữa do ái nên khiến tâm biến hoại cũng là hoại khổ. Như trong kinh nói: Nhập biến hoại tâm, tất cả một phần, là tính của hoại khổ. Để xả bỏ chấp trước ngã hữu lạc, nên quán sát tính của hoại khổ.

Thế nào là tính của hành khổ, bao nhiêu là tính của hành khổ, vì nghĩa gì nên quán tính của hành khổ? Là tự tướng của bất khổ bất lạc thụ, là tự tướng của pháp tùy thuận bất khổ bất lạc, là nhiếp thụ trong 2 thô trọng kia, là không lìa 2 vô thường theo đuổi không an ổn là nghĩa của tính hành khổ. Bất khổ bất lạc thụ, nghĩa là thức A-lại-da tương ưng thụ. Pháp tùy thuận bất khổ bất lạc thụ, nghĩa là thuận với các hành của thụ này. Nhiếp thụ trong 2 thô trọng kia, nghĩa là khổ hoại 2 khổ thô trọng theo đuổi. Không lìa 2 vô thường theo đuổi, không an ổn, nghĩa là không giải thoát 2 khổ, hoặc trong nhất thời đọa tại khổ vị, hoặc trong nhất thời đọa tại lạc vị, không phải tất cả mọi thời chỉ có bất khổ hay bất lạc vị, cho nên là nghĩa vô thường theo đuổi không an ổn. Đó là tính của hành khổ. Trừ một phần các uẩn của 3 cõi 2 xứ, tất cả là tính của hành khổ. Ba cõi, là ý giới, pháp giới và ý thức giới. Hai xứ, là ý xứ và pháp xứ. Một phần, là trừ tướng vô lậu. Để xả bỏ chấp trước ngã có bất khổ bất lạc, nên quán sát tính của hành khổ.

Thế nào là hữu dị thục, bao nhiêu là hữu dị thục, vì nghĩa gì nên quán sát hữu dị thục? Nghĩa là bất thiện và thiện hữu lậu là hữu dị thục. Bởi bất thiện và pháp thiện hữu lậu có khả năng có thức A-lạida và tương ưng dị thục sau này. Do chúng là dị thục nên 2 thứ này gọi là hữu dị thục. Một phần các uẩn, 10 giới, 4 xứ, là hữu dị thục.. Mười giới là 7 thức, sắc giới, thanh giới, và pháp giới. Bốn xứ là sắc xứ, thanh xứ, ý xứ, và pháp xứ. Một phần là trừ vô ký, vô lậu. Để xả bỏ chấp trước ngã có thể xả bỏ, có thể tương tục các uẩn, nên quán sát hữu dị thục. Lại dị thục nghĩa là duy chỉ thức A-lại-da và pháp tương ưng. Ngoài ra chỉ là dị thục sinh, chẳng phải dị thục. Nói ngoài ra, là nhãn, nhĩ v.v… và khổ, lạc v.v… là thức A-lại-da, ngoài đây ra chỉ được gọi là dị thục sinh vì từ dị thục sinh ra.

Thế nào là ăn, bao nhiêu là ăn, vì nghĩa gì nên quán cái ăn? Nghĩa là vì biến hoại nên có biến hoại, vì cảnh giới nên có cảnh giới, vì hi vọng nên có hy vọng, vì thủ nên có thủ, đó là nghĩa của ăn. Trước tiên là đoàn thực, do khi biến hoại nuôi lớn các căn. Hai là xúc thực, do y vào cảnh khả ái xúc nhiếp ích sở y. Ba là ý tư thực, do cột ý hi vọng vào việc khả ái, lực nhiếp ích sở y. Bốn là thức thực, do sức chấp trì của thức A-lại-da thân được trụ. Sở dĩ vì sao? Nếu lìa thức này, chỗ y chỉ của thân sẽ hư hoại. Ba uẩn, 11 giới và một phần của 5 xứ là ăn. Để xả bỏ chấp trước ngã trụ do ăn, nên quán sát cái ăn. Lại nữa, 4 cái ăn này sai biệt kiến lập lược có 4 thứ: 1. Bất tịnh y chỉ trụ thực. Nghĩa là Dục giới dị sinh do đủ các trói buộc. 2. Tịnh bất tịnh y chỉ trụ thực. Nghĩa là hữu học và dị sinh cõi Vô sắc có những trói buộc khác. 3. Thanh tịnh y chỉ trụ thực. Nghĩa là A-la-hán v.v… giải thoát tất cả trói buộc. 4. Thị hiện trụ thực. Nghĩa là chư Phật và các Bồ-tát đã chứng đại oai đức, do chỉ thị hiện sự ăn uống mà trụ.

Thế nào là hữu thượng, bao nhiêu là hữu thượng, vì nghĩa gì nên quán hữu thượng? Là tất cả hữu vi, là một phần vô vi, đó là nghĩa của hữu thượng. Trừ một phần pháp giới pháp xứ, tất cả là hữu thượng. Bởi trong tất cả pháp Niết-bàn và thanh tịnh chân như là tướng tối thắng. Để xả bỏ chấp trước ngã hạ liệt, nên quán sát hữu thượng.

Thế nào là vô thượng, bao nhiêu là vô thượng, vì nghĩa gì nên quán vô thượng? Là một phần vô vi là nghĩa của vô thượng, một phần của pháp giới pháp xứ như trước đã nói là nghĩa của vô thượng. Để xả bỏ chấp trước ngã tối thắng, nên quán sát vô thượng. Do đây nói đạo lý sai biệt này, ngoài ra vô lượng môn có thể theo đây quán sát. Lại nữa sai biệt của uẩn giới xứ đại lược có 3 thứ là sai biệt của tướng biến kế sở chấp, sai biệt của tướng sở phân biệt, và sai biệt của tướng pháp tính. Sai biệt của tướng biến kế sở chấp, nghĩa là trong uẩn giới xứ, biến kế sở chấp ngã là mạng của hữu tình, là sinh, là dưỡng, là sổ thủ thú, là ý sinh, là Ma-nạp-bà v.v… Ở trong uẩn v.v… thật không có tự tính của ngã v.v…vì chỉ là tướng biến kế sở chấp. Sai biệt của tướng sở phân biệt, tức là pháp của uẩn giới xứ. Do nơi xứ này ngã hữu tình v.v… hư vọng phân biệt chuyển. Sai biệt của tướng pháp tính, nghĩa là tức ở trong uẩn giới không có tính ngã v.v…, có tính vô ngã, do lìa tướng hữu vô, dụng của chân như v.v… nên trong uẩn v.v…ngã v.v…có tính vô tính vô ngã làm tướng. Phải biết trong đây y vào 3 tự tính và đa phần y vào lý số thủ thú vô ngã mà nói 3 thứ tướng.

Lại có 4 thứ sai biệt, là tướng sai biệt, phân biệt sai biệt, y chỉ sai biệt, và tương tục sai biệt. Tướng sai biệt, nghĩa là uẩn xứ giới mỗi mỗi tự tướng sai biệt như sắc thụ v.v…Phân biệt sai biệt, nghĩa là tức ở trong uẩn giới xứ thật hữu giả hữu, thế tục hữu thắng nghĩa hữu, hữu sắc vô sắc, hữu kiến vô kiến, có vô lượng sai biệt như vậy. Phân biệt, như trước đã nói. Y chỉ sai biệt, nghĩa là cho đến hữu tình y chỉ sai biệt có như vậy thì phải biết uẩn giới xứ cũng vậy. Do dựa vào các khác biệt nội thân uẩn v.v… các pháp khác nhau. Tương tục sai biệt, nghĩa là mỗi một sát-na uẩn giới xứ chuyển. Ở trong một thân uẩn v.v… các pháp tính của nó biến khác từng mỗi một sát-na.

Hỏi: Đối với tướng sai biệt thiện xảo làm sao biết?

Đáp: Biết lỗi lầm của ngã chấp.

Hỏi: Đối với phân biệt sai biệt thiện xảo làm sao biết?

Đáp: Biết lỗi lầm của tụ tưởng.

Hỏi: Đối với y chỉ sai biệt thiện xảo làm sao biết?

Đáp: Biết lỗi lầm của không làm mà được tuy làm mà mất.

Hỏi: Đối với tương tục sai biệt thiện xảo làm sao biết?

Đáp: Biết lỗi lầm của tưởng an trụ.

Lại nữa, uẩn giới xứ có 6 thứ sai biệt. Đó là ngoại môn sai biệt, nội môn sai biệt, trường thời sai biệt, phần hạn sai biệt, tạm thời sai biệt, hiển thị sai biệt. Ngoại môn sai biệt, nghĩa là đa phần sai biệt Dục giới. Nói đa phần là pháp giản đẳng lưu, là nhân văn tư sinh tuệ. Nội môn sai biệt, nghĩa là tất cả định địa. Trường thời sai biệt, nghĩa là các dị sinh. Phần hạn sai biệt, nghĩa là các hữu học và trừ uẩn xứ giới của sát-na sau cùng các vô học khác. Tạm thời sai biệt, nghĩa là uẩn xứ giới sủa sát-na sau cùng các vô học. Hiển thị sai biệt, nghĩa là chư Phật và các Bồ-tát Ma-ha-tát đã được cứu cánh thị hiện các uẩn giới xứ.

Phẩm 2: PHẨM NHIẾP TRONG BẢN SỰ PHẦN

Lại nữa, nếu nói đại lược, nhiếp có 11 thứ. Đó là tướng nhiếp, giới nhiếp, chủng loại nhiếp, phần vị nhiếp, bạn nhiếp, phương nhiếp, thời nhiếp, nhất phần nhiếp, cụ phần nhiếp, cánh hỗ nhiếp, thắng nghĩa nhiếp.

Tướng nhiếp, nghĩa là uẩn giới xứ mỗi mỗi tự tướng tức thể tự nhiếp.như sắc uẩn nhiếp sắc uẩn, nói rộng cho đến pháp xứ nhiếp pháp xứ.. Giới nhiếp, nghĩa là uẩn giới xứ có các chủng tử, thức A-lại-da có thể thâu nhiếp giới của chúng, do chủng tử của nó có trong đó. Chủng loại nhiếp, nghĩa là tướng của uẩn giới xứ tuy khác nhau nhưng nghĩa của uẩn, nghĩa của giới, nghĩa của xứ lần lược nhiếp thuộc lẫn nhau. Nghĩa của uẩn v.v , nghĩa là sắc thụ v.v..đều có nghĩa tụ. Tuy tướng khác nhau, nhưng tất cả nhiếp thuộc lẫn nhau, rồi lại ngóng trông nhau bởi vì đồng một loại. Nghĩa của giới v.v…, nghĩa là mắt tai v.v…đều có nghĩa có khả năng duy trì thụ dụng cho nên tất cả nhiếp thuộc lẫn nhau. Nghĩa của xứ v.v…, nghĩa là mắt tai v.v… đều có nghĩa sinh trưởng môn tương ưng cho nên tất cả nhiếp thuộc lẫn nhau.

Phần vị nhiếp, nghĩa là lạc vị uẩn giới xứ tức tự tướng nhiếp, khổ vị bất khổ bất lạc vị cũng vậy. Vì đều là phần vị nên như sắc thụ v.v… tuy đồng một loại uẩn nhưng khổ lạc v.v… phần vị sai biệt, lạc vị trở lại nhiếp thuộc lạc vị không phải khổ vị v.v… Như vậy khổ vị bất khổ bất lạc vị trở lại tự nhiếp thuộc lẫn nhau. Giống như uẩn, giới xứ cũng vậy.

Bạn nhiếp, nghĩa là sắc uẩn với các uẩn khác là bạn của nhau cho nên là bạn tiếp trợ. Các uẩn giới xứ khác cũng vậy. Như sắc uẩn với các thụ v.v… làm trợ bạn cho nhau có thể nhiếp thụ 5 uẩn. Như vậy thụ v.v… mỗi mỗi trợ bạn đều nhiếp thụ 5 uẩn. Giống như uẩn, giới xứ cũng vậy. Vì là trợ bạn của nhau nên mỗi mỗi đều nhiếp thụ tất cả giới xứ. Phương nhiếp, nghĩa là các uẩn giới xứ dựa vào phương Đông trở lại tự nhiếp thuộc với các phương khác. Uẩn giới xứ cũng vậy.

Thời nhiếp, nghĩa là các uẩn giới xứ đời quá khứ trở lại tự nhiếp thuộc lần nhau, các uẩn giới xứ đời vị lai hiện tại cũng vậy.

Nhất phần nhiếp, nghĩa là có các pháp thâu nhiếp trong uẩn giới xứ, là chỉ nhiếp thuộc một phần mà không phải các phần khác. Như giới uẩn chỉ thâu nhiếp một phần sắc uẩn v.v…, định tuệ uẩn v.v… chỉ nhiếp thuộc một phần của hành uẩn. Dục, nhuế, hại giới chỉ nhiếp thuộc một phần của pháp giới. Không, vô biên xứ v.v… chỉ nhiếp thuộc một phần của ý xứ pháp xứ v.v…

Cụ phần nhiếp, nghĩa là có các pháp thâu nhiếp trong uẩn giới xứ có thể nhiếp thuộc toàn phần. Như khổ uẩn thâu nhiếp 5 thủ uẩn. Dục giới thâu nhiếp 18 giới. Vô tưởng hữu tình xứ thâu nhiếp 10 xứ, trừ hương, vị. Do đạo lý này trong các kinh các uẩn giới xứ thuộc tất cả pháp có thể nhiếp thuộc toàn phần.

Cánh hỗ nhiếp, nghĩa là sắc uẩn nhiếp bao nhiêu giới bao nhiêu xứ? Mười toàn phần, một thiểu phần. Thụ uẩn nhiếp bao nhiêu giới bao nhiêu xứ? Một thiểu phần. Như thụ uẩn, tưởng uẩn hành uẩn cũng vậy. Thức uẩn nhiếp bao nhiêu giới bao nhiêu xứ? Bảy giới, một xứ. Nhãn giới nhiếp bao nhiêu uẩn bao nhiêu xứ? Thiểu phần sắc uẩn toàn phần một xứ. Như nhãn giới, nhĩ tỹ thiệt thân sắc thanh hương vị xúc giới cũng vậy. Ý giới nhiếp bao nhiêu uẩn bao nhiêu xứ? Một uẩn một xứ. Pháp giới nhiếp bao nhiêu uẩn bao nhiêu xứ? Toàn 3 uẩn, thiểu phần sắc uẩn, toàn phần 1 xứ. Nhãn thức giới nhiếp bao nhiêu uẩn bao nhiêu xứ? Thức uẩn nhiếp thiểu phần ý xứ. Như nhãn thức, nhĩ tỹ thiệt thân ý thức giới cũng vậy. Nhãn xứ nhiếp bao nhiêu uẩn bao nhiêu giới? Nhiếp thiểu phần sắc uẩn, toàn phần 1 giới. Như nhãn xứ, nhĩ tỹ thiệt thân sắc thanh hương vị xúc xứ cũng vậy. Ý xứ nhiếp bao nhiêu uẩn bao nhiêu giới? Một uẩn 7 giới. Pháp xứ nhiếp bao nhiêu uẩn bao nhiêu giới? Toàn 3 uẩn, 1 thiểu phần, 1 giới toàn phần. Như vậy bao nhiêu các pháp khác lấy tên uẩn giới xứ nói, và bao nhiêu chẳng phải tên uẩn giới xứ nói, như thật hữu giả hữu, thế tục hữu thắng nghĩa hữu, sở tri sở thức sở đạt, hữu sắc vô sắc, hữu kiến vô kiến v.v…như trước đã nói rõ tùy chỗ thích ứng cùng với uẩn giới xứ nhiếp thuộc lẫn nhau. Nói tùy chỗ thích ứng, là như mỗi mỗi uẩn nhiếp các giới xứ, mỗi mỗi giới nhiếp các uẩn xứ, mỗi mỗi xứ nhiếp các uẩn giới, như vậy nói rộng, phải suy nghĩ hiểu biết.

Thắng nghĩa nhiếp, nghĩa là uẩn giới xứ thâu nhiếp trong chân như. Như vậy tướng của nhiếp là tùy các thế gian cùng chung thành lập. Đạo lý của tướng nhiếp lại có 6 thứ: 1. Y xứ nhiếp, nghĩa là như thế gian nói Thiệm-bộ châu thuộc về người, A-luyện-nhã là nơi thuộc về loài nai. Phải biết trong đây nhãn v.v… các căn thuộc nhãn v.v… các thức cũng vậy. 2. Nhiệm trì nhiếp, là như thế gian nói sợi dây thuộc về loại để bó củi v.v… Phải biết trong đây thân căn thâu nhiếp nhãn v.v… các căn cũng vậy. 3. Đồng sự nhiếp, là như thế gian nói nhiều người cùng làm việc bảo đãm tin nhau tùy thuộc vào nhau. Phải biết trong đây đồng một duyên chuyển, các pháp tương ưng nhiếp thuộc lẫn nhau cũng vậy. 4. Nhiếp thụ nhiếp, là như thế gian nói ông chủ có thể thâu nhiếp sai khiến tôi tớ của mình v.v… Phải biết trong đây thức A-lại-da nhiếp thụ tự thân cũng vậy. 5. Bất lưu tán nhiếp, là như thế gian nói cái bình chứa giữ nước. Phải biết trong đây các Tam-ma-địa thâu giữ các tâm tâm sở cũng vậy. 6. Lược tập nhiếp, là như thế gian nói biển thâu nạp các dòng nước. Phải biết trong đây sắc thụ uẩn v.v… thau nhiếp nhãn nhĩ v.v… cũng vậy. Như trước đã nói 11 thứ nhiếp đều dựa vào trong đây mà lược tập nói về nhiếp.

Hỏi: Đối với nhiếp thiện xảo được thắng lợi gì?

Đáp: Được lược tập thắng lợi nơi sở duyên, tùy theo các cảnh lược tụ nơi tâm, cứ như thế thiện căn tăng thắng.

Phẩm 3: PHẨM TƯƠNG ƯNG TRONG BẢN SỰ PHẦN

Lại nữa lược nói tương ưng có 6 thứ, là bất tương ly tương ưng, hòa hợp tương ưng, tụ tập tương ưng, câu hữu tương ưng, tác sự tương ưng, và đồng hành tương ưng.

Bất tương ly tương ưng, nghĩa là tất cả sắc có phương phần với cực vi xứ không rời nhau, do các sắc được cực vi thâu nhiếp cùng một chỗ không tách rời nhau. Hòa hợp tưong ưng, nghĩa là từ cực vi trở lên tất cả sắc có phương phần hòa hợp lẫn nhau, như trong nước đục cực vi của đất và nước hòa hợp lẫn nhau. Tụ tập tương ưng, nghĩa là phương phần tụ sắc lần lượt tập hội, như 2 cục bùn dập vào nhau thành một. Câu hữu tương ưng, nghĩa là các uẩn giới xứ trong một thân cùng thời lưu chuyển đồng sinh trụ và diệt. Tác sự tương ưng, nghĩa là trong một việc làm lần lượt nhiếp lẫn nhau, như hai Bí-sô cùng làm một việc tương ưng với nhau. Đồng hành tương ưng, nghĩa là tâm tâm pháp lần lượt đồng hành trong một sở duyên. Đồng hành tương ưng này lại có nhiều nghĩa. Nghĩa là tha tính tương ưng không phải kỷ tính, như tâm không tương ưng với các tâm khác thụ không cùng tương ưng với các thụ khác v.v… Lại nữa bất tương vi tương ưng không phải tương vi, như tham sân không tương ưng, thiện bất thiện không tương ưng v.v… Lại nữa đồng thời tương ưng không phải khác thời, như hiện tại quá khứ vị lai không tương ưng. Lại nữa đồng phần giới địa tương ưng, không phải dị phần giới địa, như Dục giới Sắc Vô sắc giới không tương ưng, sơ tĩnh lự đệ nhị tĩnh lự không tương ưng v.v…Lại nữa có tất cả biến hành đồng hành tương ưng, nghĩa là thụ tưởng tư xúc tác ý và thức, do 6 pháp này quyết dịnh tương ưng trong tất cả vị, vì tùy 1 pháp không tất cả các pháp khác cũng không. Lại có nhiễm ô biến hành đồng hành tương ưng, là 4 thứ phiền não trong nhiễm ô ý, do 4 pháp này hằng tương ưng trong mọi thời. Lại có phi nhất thiết thời đồng hành tương ưng, là y chỉ hoặc có lúc khởi tín v.v… các thiện pháp, hoặc có lúc khởi tham v.v… các pháp phiền não tùy phiền não. Lại có phần vị đồng hành tương ưng, là các pháp tương ưng với lạc thụ, các pháp tương ưng với khổ thụ bất khổ bất lạc thụ. Lại có vô gián đồng hành tương ưng, là tại hữu tâm vị. Lại có hữu gián đồng hành tương ưng, là vô tâm định sở gián. Lại có ngoại môn đồng hành tương ưng, là đa phần tâm tâm pháp của Dục giới hệ. Lại có nội môn đồng hành tương ưng, là các tâm tâm pháp ở các định địa. Lại có tằng tập đồng hành tương ưng, là các tâm tâm pháp của các dị sinh và một phần tâm tâm pháp của hữu học vô học. Nói một phần là gồm hoàn toàn thế gian thiện bất thiện vô ký pháp tùy chỗ thích ứng. Lại có vị tằng tập đồng hành tương ưng, là các tâm tâm pháp xuất thế gian và các tâm tâm pháp đạt được lúc sơ hậu thời sau khi xuất thế. Nói sơ hậu thời là hiển thị không phải chủng loại trước, mà tâm tâm pháp xuất thế của niệm đầu tiên đã qua và niệm thứ hai v.v… đã qua là tính chưa từng tập.

Hỏi: Đối với tương ưng thiện xảo được thắng lợi gì?

Đáp: Có thể liễu ngộ tốt, chỉ y chỉ tâm có nghĩa tương ưng bất tương ưng các pháp nhiễm tịnh của thụ tưởng v.v… Do liễu ngộ này tức có thể xả bỏ chấp trước nhiễm tịnh cái ngã năng thụ năng tưởng năng tư năng niệm, lại có thể thiện xảo mau ngộ nhập vô ngã.

Phẩm 4: PHẨM THÀNH TỰU TRONG BẢN SỰ PHẦN

Lại nữa, tướng thành tựu như trước đã nói là đối với pháp thiện bất thiện vô ký, hoặc tăng hoặc giảm giả lập đạt được thành tựu. Đây có 3 thứ sai biệt,mlà chủng tử thành tựu, tự tại thành tựu, và hiện hành thành tựu.

Chủng tử thành tựu, nghĩa là nếu sinh Dục giới, các phiền não tùy phiền não thuộc Dục, Sắc, Vô sắc giới hệ do chủng tử thành tựu nên thành tựu, và sinh được thiện sinh, Dục giới thì phiền não tùy phiền não 3 cõi thành tựu là dựa vào dị sinh chưa ly dục mà nói. Nếu đã ly dục hoặc sinh thượng địa nơi địa ly dục thì các phiền não tùy phiền não của địa này cũng thành tựu cũng không thành tựu vì chưa vĩnh hại tùy miên, đối trị đạo làm tổn giảm theo thứ tự của nó. Và sinh được thiện thì tùy nơi địa sinh liền thành tựu địa này. Nếu sinh Sắc giới thì các phiền não tùy phiền não thuộc Dục giới hệ do chủng tử thành tựu nên thành tựu cũng gọi không thành tựu. Các phiền não tùy phiền não thuộc Sắc, Vô sắc giới hệ do chủng tử thành tựu nên cũng thành tựu và sinh được thiện. Nếu sinh Vô sắc giới thì các phiền não tùy phiền não thuộc Dục, Sắc giới hệ do chủng tử thành tựu nên thành tựu nên cũng gọi không thành tựu. Các phiền não tùy phiền não thuộc Vô sắc giới hệ do chủng tử thành tựu nên thành tựu và sinh được thiện. Nếu đã được đối trị đạo 3 cõi tùy phẩm loại như vậy như vậy đã sinh như vậy như vậy phẩm loại chủng tử thành tựu, được không thành tựu là tùy như vậy như vậy phẩm loại chưa sinh. Các phẩm loại như thế như thế do chủng tử thành tựu nên thành tựu. Nói đã được đối trị đạo 3 cõi, nghĩa là đã được xuất thế Thánh đạo. Nói tùy phẩm loại như vậy như vậy đối trị đã sinh, nghĩa là tu đạo sở đoạn, các phiền não thượng phẩm v.v… đối trị đã sinh, như thế như thế chủng loại chủng tử thành tựu được không thành tựu nghĩa là vì đã vĩnh hại tùy miên.

Tự tại thành tựu, nghĩa là phương tiện thiện pháp, như thế các công đức xuất thế tĩnh lự giải thoát Tam-ma-địa Tam-ma-bát-để v.v… và một phần của vô ký pháp, do tự tại thành tựu nên thành tựu. Phương tiện thiện pháp, nghĩa là do nghe mà sinh tuệ v.v…, tuy trước có chủng tử nhưng nếu đời này lìa sự tu tập tăng trưởng thì hoàn toàn không thể khởi hiện tiền. Một phần của vô ký pháp, nghĩa là tâm biến hóa nơi công xảo.

Hiện hành thành tựu, nghĩa là các pháp uẩn giới xứ tùy hiện tiền hoặc thiện hoặc bất thiện hoặc vô ký, chúng do hiện hành thành tựu nên thành tựu. Nếu người đã đoạn thiện căn có các thiện pháp thì do chủng tử thành tựu mà thành tựu. Cũng gọi không thành tựu nếu chẳng phải pháp Niết-bàn, các pháp tạp nhiễm cứu cánh thành tựu của Nhất-xiển-để-ca, do thiếu nhân giải thoát. Cũng gọi là A-điênđể-ca bởi giải thoát được nhân, rốt ráo không thành tựu.

Hỏi: Thế nào là giải thoát được nhân?

Đáp: Nếu đối với chân như trước đã tập khởi phiền não thô trọng, nếu gặp duyên được tùy thuận đối trị lền có thể vĩnh hại tính kham nhiệm này, gọi là giải thoát được nhân. Nếu trái với đây thì gọi là không có nhân giải thoát.

Hỏi: Đối với thành tựu thiện xảo được thắng lợi gì?

Đáp: Có thể khéo hiểu rõ các pháp tăng giảm. Biết tăng giảm nên lìa tưởng quyết định hưng thịnh hay suy vong, cho đến có thể đoạn ái đoạn sân.

HẾT QUYỂN 5