ĐẠI THỪA A TÌ ĐẠT MA TẠP TẬP LUẬN
An Huệ Bồ-tát tập hợp
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 9

Phẩm 1 – 4: PHẨM ĐẾ TRONG QUYẾT TRẠCH PHẦN

Thế nào là kiến đạo? Nếu nói chung, là thế đệ nhất pháp vô gián, vô sở đắc Tam-ma-địa Bát-la-nhã, và các pháp tương ưng với nó. Do vô phân biệt Xa-ma-tha, Tì-bát-xá-na v.v… làm thể tướng. Lại sở duyên, năng duyên, bình đẳng, bình đẳng trí làm tướng. Do đây thông đạt sở thủ năng thủ vô tính chân như.

Lại nữa, khiển trừ riêng biệt hữu tình giả, pháp giả, và khiển trừ khắp cả 2 giả, sở duyên pháp trí làm tướng. Thế nào là khiển trừ riêng biệt hữu tình giả sở duyên pháp trí làm tướng? Là do trí này ở trong tự tương tục không phân biệt ngã tướng. Không phân biệt là nghĩa của khiển trừ. Thế nào là khiển trừ riêng biệt pháp giả sở duyên pháp trí làm tướng? Là do trí này trong tự tương tục không phân biệt sắc v.v…các pháp tướng. Thế nào là khiển trừ khắp cả 2 giả sở duyên pháp trí làm tướng? Là do trí này trong tất cả mọi nơi, không sai biệt, không phân biệt ngã tướng và pháp tướng.

Lại nữa, nếu nói riêng kiến đạo sai biệt thì thế đệ nhất vô gián, khổ pháp trí, nhẫn khổ pháp trí, khổ loại trí, nhẫn khổ loại trí, tập pháp trí, nhẫn tập pháp trí, tập loại trí, nhẫn tập loại trí, diệt pháp trí, nhẫn diệt pháp trí, diệt loại trí, nhẫn diệt loại trí, đạo pháp trí, nhẫn đạo pháp trí, đạo loại trí, nhẫn đạo loại trí, như vậy 16 thứ trong các Thánh đế pháp loại trí nhẫn và pháp loại trí là tướng kiến đạo sai biệt. Khổ, là khổ đế. Khổ pháp, là giáo pháp do khổ đế tăng thượng khởi. Pháp trí, là pháp trí tăng thượng do quán sát đế trong phương tiện đạo. Trí nhẫn, là sức quán sát tăng thượng trước tiên trong các khổ đế riêng biệt khởi tuệ vô lậu hiện chứng. Do tuệ này nên vĩnh viễn xả bỏ tất cả phiền não do kiến khổ đoạn. Nay trong đây nói nghĩa, tức là quán sát trong phương tiện đạo, y chỉ khổ đế khởi các pháp của khế kinh v.v…, vì như lý tác ý gồm thâu sức trí tăng thượng. Trong tự tương tục khổ đế hiện chứng chân như kia, thể của xuất thế gian tuệ chính kiến sinh, do tuệ này nên vĩnh viễn xả bỏ 28 tùy miên trói buộc trong 3 cõi, tất cả do kiến khổ đoạn. Đó gọi là khổ pháp trí nhẫn.

Khổ pháp trí, là nhẫn vô gián. Do trí này giải thoát các phiền não trước đã đoạn mà được chứng đắc. Sở dĩ vì sao? Trước do nhẫn nên vĩnh đoạn tất cả phiền não do kiến khổ đoạn. Nay sở y chuyển từ vô gián này, do trí sinh chứng đắc chuyển y như vậy. Đó gọi là khổ pháp trí.

Khổ loại trí nhẫn, là khổ pháp trí vô gián vô lậu sinh, trong khổ pháp trí nhẫn và khổ pháp trí nội chứng riêng biệt. các Thánh pháp nói sau đều là chủng loại này. Sở dĩ vì sao? Do 2 thứ đầu, hoặc nhẫn, hoặc trí là chủng loại Thánh pháp của tất cả học và vô học sau. Từ đây mà kia được sinh, cho nên các nội chứng riêng biệt duyên đây làm cảnh sinh tuệ vô lậu. Các Thánh pháp nói sau đều là chủng loại này. Cho nên gọi là khổ loại trí nhẫn.

Khổ loại trí, là trí vô lậu vô gián này sinh, thẩm định ấn khả khổ loại trí nhẫn. Sở dĩ vì sao? Do trí vô lậu vô gián của khổ loại trí nhẫn sinh, nó ấn khả cái nội chứng của khổ loại trí nhẫn. Cho nên gọi là khổ loại trí.

Như vậy trong các đế khác tùy chỗ thích ứng của nó, các nhẫn các trí tất cả đều phải biết. Ở trong vị này, giác ngộ pháp nhẫn pháp trí là sở thủ, giác ngộ loại nhẫn loại trí là năng thủ. Sở dĩ vì sao? Xuất thế gian đạo có 2 cảnh giới, là chân như và chính trí. Pháp trí phẩm đạo thì chân như làm cảnh. Loại trí phẩm đạo thì chính trí làm cảnh. Do đó hiểu biết như thật các nhẫn trí. Lại nữa trong tất cả nhẫn trí vị, nói an trụ vô tướng quán, là như Bạc-già-phạm nói Bổ-đặc-già-la vô tướng trụ thứ 6, tức là cái hiện trụ trong nhẫn trí vị này vậy. Ở trong vị này tất cả tướng đều không thể có được. Lại nữa vô tướng trụ có 6 thứ, là không, vô tướng, vô nguyện, diệt định, hữu đỉnh, và kiến đạo. Như vậy 16 tâm sát-na gọi là kiến đạo. Sở dĩ vì sao? Do nhẫn trí gồm thâu 16 tâm sát-na như vậy. Trong trường hợp chưa từng thấy cảnh 4 Thánh đế thì đều lấy 4 sát-na mà thấy, cho nên gọi là kiến đạo. Vả lại tâm sát-na, là ở nơi cảnh sở tri trí sinh cứu cánh gọi là 1 sát-na, không phải vốn không nay có, khi sinh gọi là tâm sát-na. Bởi vì sao? Cho đến trong cảnh sở tri, trí năng tri sinh, được cứu cánh cũng gọi là 1 sát-na. Cho nên nói khổ thì phải biết khắp là 1 tâm sát-na. Giống như vậy, tập phải vĩnh đoạn v.v… cũng thế. Lại nữa, như trên đã nói kiến đạo sai biệt đều giả kiến lập chẳng phải chân thật. Bởi vì sao? Vì trong xuất thế vị, các biệt nội chứng, tuyệt dứt hý luận.

Lại nữa tất cả đạo đế do 4 thứ tương ưng tùy giác liễu. Đó là an lập, tư duy, chứng thụ, và viên mãn. An lập, là Thanh Văn v.v… tùy tự sở chứng đã được cứu cánh, vì muốn khiến người khác cũng hiểu biết nên do hậu đắc trí dùng vô lượng danh cú văn thân an lập đạo đế. Nghĩa là ở trong các đế có nhẫn như vậy như vậy, có trí như vậy như vậy v.v… Tư duy, là chính tu tập phương tiện hiện quán dùng thế gian trí như chỗ an lập tư duy tu tập. Chứng thụ, là tu tập như vậy nhiều rồi, tự nội chứng thụ trước tiên kiến đạo chính xuất thế gian vô hý luận vị. Viên mãn, là sau vị này viên mãn chuyển y cho đến chứng được cứu cánh. Đã chứng được cứu cánh vị rồi, lại do hậu đắc trí dùng danh cú văn thân an lập đạo đế. Như vậy bánh xe 4 tướng chân thật đạo lần lượt chuyển, dựa vào nhau mà chuyển không dứt. Như kinh nói: Viễn trần ly cấu, ở trong các pháp sinh chính pháp nhãn, là y nơi kiến đạo này mà nói các pháp nhẫn có thể viễn trần, các pháp trí có thể ly cấu, do trước tiên trong các đế diệu thánh tuệ nhãn làm tự tính. Pháp nhẫn có thể viễn trần, là do các pháp nhẫn vĩnh đoạn tất cả bụi bặm phiền não. Pháp trí có thể ly cấu, là do các pháp trí đã đoạn chướng cấu uế được sinh. Lại nữa ở nơi nhẫn và trí 2 vị theo như thứ tự biến khắp trí nên vĩnh đoạn, nên đã được thanh tịnh, y theo đó mà nói viễn trần ly cấu. Lại nữa kinh nói: Kiến pháp, đắc pháp, cực thông đạt pháp, cứu cánh kiên pháp, vượt qua tất cả hy vọng nghi hoặc, không mượn duyên khác. Đối với vị thầy vĩ đại ngoài ra không ai có thể dẫn dắt. Trong các pháp được vô úy, đây cũng là y vào kiến đạo mà nói. Đối với hữu tình được hóa độ là thánh đế hiện quán vô gián mà nói. Kiến pháp, là các pháp nhẫn, do chúng thông đạt pháp chân thật. Đắc pháp, là các pháp trí, vì trong chuyển y có thể tác chứng. Cực thông đạt pháp, là các loại nhẫn, thông đạt các thánh pháp là 2 loại này. Cứu cánh kiên pháp, là các loại trí, vì đã cứu cánh đối với các sở tri. Vượt qua tất cả hy vọng, là các nhẫn trí xuất thế gian đạo chứng được thánh quả đêm dài hy vọng, không lo đối với tự sở chứng. Vượt qua tất cả nghi hoặc, là ở trong vị này không do dự với sở chứng khác, nghĩa là những cái khác cũng có thể chứng thắng vị này. Không mượn duyên khác, là trong chỗ tu đạo tuy không có người dắt dẫn mà tự nhiên thiện xảo. Đối với vị thầy vĩ đại, ngoài ra không ai có thể dẫn dắt, là trong thánh giáo của Phật đã được chứng tịnh, tuy chuyển sinh đời khác cũng không bị tà đạo lôi kéo. Ở trong các pháp được không sợ hãi, là y vào sở chứng trong vấn ký pháp như ác dục, tăng thượng mạn, hoàn toàn không có tâm khiếp sợ.

Thế nào là tu đạo? Là trên kiến đạo có thế gian đạo, xuất thế gian đạo, nhuyến đạo, trung đạo, thượng đạo, phương tiện đạo, vô gián đạo, giải thoát đạo, thắng tiến đạo v.v… đều gọi là tu đạo. Sở dĩ vì sao? Các thánh đệ tử của Phật được đế hiện quán, từ đây trở lên để đoạn các kết phương tiện thường tập thế gian đạo khác v.v… gọi là tu đạo.

Thế gian đạo, là thế gian sơ tĩnh lự, tĩnh lự thứ hai, tĩnh lự thứ ba, tĩnh lự thứ tư, không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy tĩnh lự Vô sắc do 4 thứ tương ưng rộng phân biệt, như tạp nhiễm, thanh bạch, kiến lập, và thanh tịnh.

Tạp nhiễm, là 4 vô ký căn: một ái, hai kiến, ba mạn, bốn vô minh. Do 4 hoặc này nhiễm ô nơi tâm, trong các nhiễm ô tĩnh lự định môn khiến Sắc Vô sắc giới tất cả hữu phú vô ký phiền não tùy phiền não sinh trưởng không dứt. Sở dĩ vì sao? Do có ái nên trên mùi vị tĩnh lự nhiễm phải tạp nhiễm, vì tham thích mùi vị tịnh định khinh an. Do có kiến nên trên cái kiến tĩnh lự nhiễm phải tạp nhiễm, vì y chỉ tĩnh lự phát khởi chấp trước các kiến đời trước. Do có mạn nên trên cái mạn tĩnh lự nhiễm phải tạp nhiễm, vì dựa vào chứng thắng định khởi cao mạn. Do vô minh cho nên trên cái nghi tĩnh lự nhiễm phải tạp nhiễm. Người cầu giải thoát do chưa thông đạt đạo lý chân thật, đối với thắng phẩm đã chứng thường sinh nghi hoặc cho là giải thoát chăng hay không giải thoát. Những phiền não như vậy hằng nhiễm nơi tâm khiến Sắc Vô sắc 2 hoặc lớn nhỏ tương tục lưu chuyển.

Thanh bạch, là tịnh tĩnh lự không có sắc. Do tính thiện nên gọi là thanh bạch. Tuy là thế gian nhưng lìa triền cấu nên cũng gọi là tịnh.

Kiến lập, là có 4 thứ kiến lập. Tức chi phần kiến lập, đẳng chí kiến lập, phẩm loại kiến lập, và danh tưởng kiến lập. Trong các tĩnh lự đủ 4 kiến lập, trong các Vô sắc chỉ có 3 thứ, trừ chi phần.

Chi phần kiến lập, là 1.Tầm, 2.Tứ, 3.Hỷ, 4.Lạc, 5.Tâm một cảnh tính. Tĩnh lự thứ hai có 4 chi. Những gì là 4? Là 1.Nội đẳng tịnh, 2.Hỷ, 3.Lạc, 4.Tâm một cảnh tính. Tĩnh lự thứ ba có 5 chi. Những gì là 5? Là 1.Xả, 2.Niệm, 3.Chính trí, 4.Lạc, 5.Tâm một cảnh tính. Tĩnh lự thứ tư có 4 chi. Những gì là 4? Là 1.Xả thanh tịnh, 2.Niệm thanh tịnh, 3.Bất khổ bất lạc thụ, 4.Tâm một cảnh tính.

Hỏi: Pháp có vô lượng, vì sao chỉ lập tầm v.v…làm chi?

Đáp: Vì là đối trị chi, là lợi ích chi, 2 sở y ấy là tự tính chi. Do 3 thứ chi phần này là đầy đủ không phải đợi có những thứ khác. Trong sơ tĩnh lự, 2 thứ tầm tứ là đối trị chi, vì nó có thể đoạn dục, nhuế, hại v.v…các tầm tứ của Dục giới. Hỷ lạc 2 chi là lợi ích chi, vì do tầm tứ chi trị sở trị, đã được ly sinh hỷ lạc. Tâm một cảnh tính, là 2 sở y kia là tự tính chi, vì y chỉ định lực mà tàm v.v… chuyển. Trong tĩnh lự thứ hai, nội đẳng tịnh là đối trị chi, vì do đây có thể trị tầm tứ. Hỷ lạc là lợi ích chi. Tâm một cảnh tính là 2 sở y kia. Tự tính chi, nghĩa như đã nói ở trước. Trong tĩnh lự thứ ba, xả, niệm, chính tri là đối trị chi, vì do 3 chi đây có thể trị hỷ. Lạc là lợi ích chi. Tâm một cảnh tính là sở y cúa 2 cái kia. Tự tính chi, nghĩa như đã nói ở trước. Trong tĩnh lự thứ tư xả thanh tịnh, niệm thanh tịnh là đối trị chi, vì do 2 chi này có thể trị lạc. Bất khổ bất lạc thụ là lợi ích chi. Tâm một cảnh tính là sở y của 2 kia. Tự tính chi, trong các Vô sắc không lập chi phần, vì chỉ có tính một mùi vị là Xa-ma-tha.

Đẳng chí kiến lập thế nào? Nghĩa là do 7 thứ tác ý chứng nhập sơ tĩnh lự. Như vậy cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ. Những gì là 7 thứ tác ý? Là liễu tướng tác ý, thắng giải tác ý, viễn ly tác ý, nhiếp lạc tác ý, quán sát tác ý, phương tiện cứu cánh tác ý, và phương tiện cứu cánh quả tác ý. Đây rộng phân biệt như Thanh Văn địa, hậu Dugià xứ. Sao gọi là khi chứng nhập sơ tĩnh lự do 7 tác ý? Nghĩa là do định địa tác ý thấy trong Dục giới tội lỗi v.v… nên hiểu rõ thô tướng. Trong sơ tĩnh lự không có tướng này nên gọi là tĩnh tướng. Đó gọi là liễu tướng tác ý. Tác ý như thế còn bị văn tư xen tạp. Từ đây trở lên mới siêu vượt văn tư, một mực tu tướng duyên thô tĩnh tướng làm cảnh giới. Tu Xa-ma-tha, Tì-bát-xá-na, thường tư duy như tầm tứ thô tĩnh tính tướng. Đó gọi là thắng giải tác ý. Do tu tập đây nên trước tiên đoạn đạo sinh câu hành tác ý, gọi là viễn ly tác ý do đây có thể đoạn thượng phẩm phiền não và có thể viễn ly phẩm thô trọng kia.

Hành giả tu quán này lại vui mừng với thượng đoạn kiến, thượng đoạn công đức, đã chạm đến một phần ít viễn ly hỷ lạc. Vì muốn trừ bỏ hôn trầm thùy miên, thường thường tu tập tịnh diệu tác ý cho tâm vui vẻ. Đó gọi là nhiếp lạc tác ý. Như vậy người chính tu hành phương tiện gìn giữ thiện phẩm, khiến phiền não triền cấu của Dục giới hệ không hiện hành trở lại. Nhân đây vì muốn thẩm xét phiền não đoạn với chưa đoạn, nên lại tác ý quán sát kia sinh tùy thuận tịnh tướng đó gọi là quán sát tác ý. Như vậy hành giả thường thường quán sát tiến tu đối trị để khiến tất cả phiền não của Dục giới tạm thời được ly hệ. Đối trị đạo này tương ưng tác ý là tối hậu phương tiện của tối sơ tĩnh lự, cho nên gọi là phương tiện cứu cánh tác ý. Từ đây vô gián chứng được căn bản tối sơ tĩnh lự câu hành tác ý. Đó là phương tiện cứu cánh quả tác ý. Lại nữa do liễu tướng tác ý phát hy nguyện tâm, vì chính liễu tri phải đoạn, phải đắc. Để đoạn, để đắc nên do thắng giải tác ý vì sở cầu nghĩa phát chính phương tiện, do viễn ly tác ý xả thượng phẩm hoặc, do nhiếp lạc tác ý xả trung phẩm hoặc, do quán sát tác ý an tâm nơi sở chứng viễn ly tăng thượng mạn, do phương tiện cứu cánh tác ý xả hạ phẩm hoặc, do phương tiện cứu cánh quả tác ý lãnh sở tu tác ý tu quả kia. Như để chứng nhập sơ tĩnh lự định tu 7 tác ý. Như vậy cho đến để chứng nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ định cần phải biết. Lại nữa, thô tướng nghĩa là ở tất cả hạ địa từ Dục giới cho đến vô sở hữu xứ. Như vậy thô tướng lược có 2 thứ: 1. Trụ nơi khổ nặng, vì trụ bất tịch tĩnh. 2. Mạng hành nhỏ bé, vì thọ mạng ngắn ngủi. Tĩnh tướng, là ở nơi tất cả thượng địa từ sơ tĩnh lự cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, vì trái nghịch với thô tướng.

Phẩm loại kiến lập, là ở sơ tĩnh lự định đủ 3 phẩm huân tu, nghĩa là nhuyến, trung, thượng. Giống như sơ tĩnh lự, các tĩnh lự khác và Vô sắc 3 phẩm huân tu cũng vậy. Do nhuyến trung thượng phẩm huân tu sơ tĩnh lự cho nên trong sơ tĩnh lự trở lại sinh 3 dị thục. Giống như sơ tĩnh lự, trong các tĩnh lự khác hoặc huân tu hoặc sinh quả cũng đều 3 phẩm như vậy. Trong các tĩnh lự 3 phẩm huân tu sinh 3 quả là trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, và trời Đại phạm. Như vậy v.v… nói rộng như trước. Trong Vô sắc giới, không phân biệt xứ sở nên không lập sinh quả sai biệt. Sở dĩ vì sao? Vì ở Vô sắc giới không có cung điện v.v… nên không kiến lập sinh quả sai biệt. Nhưng do 3 phẩm huân tu Vô sắc định cho nên khi sinh dị thục có cao có hạ có thắng có liệt. Dị thục kia khi sinh có cao có hạ, là do thọ mạng có sai biệt, có thắng có liệt là vì có nhiễm ô không nhiễm ô nhiều hay ít khác nhau.

Danh tưởng kiến lập, là trong 4 tĩnh lựTam-ma-địa sai biệt vô lượng không thể tính toán không thể nghĩ bàn. Bởi vì sao? Ở trong định trong sơ tĩnh lự, chư Phật Thế Tôn và các Bồ-tát Ma-ha-tát được cứu cánh đại oai đức nhập các Tam-ma-địa. Các Tam-ma-địa ấy tất cả Thanh Văn và Độc Giác còn không biết được tên không biết được số bao nhiêu, huống nữa là chứng nhập. Như trong Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa nói số Tam-ma-địa đến quá số trăm. Cũng như vậy trong các kinh Đại thừa khác nói số Tam-ma-địa vô lượng. Giống như các định gồm trong sơ tĩnh lự, các định gồm trong các Vô sắc tĩnh lự khác cũng vậy. Những điều đã nói như vậy đều y vào tĩnh lự Ba-la-mât-đa.

Thanh tịnh, là định tận cùng trong sơ tĩnh lự, cho đến định tận cùng của phi tưởng phi phi tưởng xứ, gọi là thanh tịnh. Định tận cùng của tĩnh lự Vô sắc, là muốn dẫn phát thắng phẩm công đức được tự tại v.v… tu kham nhiệm định đến chỗ cứu cánh.

Xuất thế gian đạo, là trong tu đạo, pháp trí loại trí phẩm bao gồm khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí. Như vậy tướng của 8 trí đã nói rộng trong kiến đạo. Và các Tam-ma-địa tương ưng với chúng, hoặc chưa gồm trong định, hoặc gồm trong sơ tĩnh lự cho đến vô sở hữu xứ. Phi tưởng phi phi tưởng xứ chỉ là thế gian, vì tướng không minh liễu hằng hiện hành. Do tưởng không minh liễu hằng hiện tiền nên không phải chỗ y chỉ của Thánh đạo cực kỳ minh liễu hiện hành, cho nên là hoàn toàn gồm trong thế gian. Do đạo lý này tưởng kia là yếu kém không thể sắc mạnh. Vì thủ sở duyên tướng nên gọi là vô tướng. Lại nữa làm sao biết phi tưởng phi phi tưởng xứ không có Thánh đạo? Do Thế Tôn nói. Cho đến hữu tưởng Tam-ma-bát-để mới có thể như thật chiếu rõ. Thông đạt diệt tận Tam-ma-bát-để là xuất thế gian. Do Thánh đạo sau được chứng đắc cho nên cần phải ở trong cõi người mới có thể dẫn phát. Nói dẫn phát là nghĩa sơ khởi, có thể hiện tiền hoặc ở cõi người hoặc ở Sắc giới, trước đã sinh khởi sau hiện tiền trở lại. Hoặc ở cõi người, nghĩa là tức ở đời này. Hoặc ở Sắc giới, là sau sinh nơi kia. Sao thánh đệ tử đã được Vô sắc định đã lìa Sắc giới lại muốn sinh Sắc giới? Không cần vĩnh viễn lìa Sắc giới mà lại muốn nhập Vô sắc định, cho nên trong đây phải làm 4 câu: Nếu người đã lìa dục của Sắc giới, tất cả đều có thể nhập tịch tĩnh giải thoát định của Vô sắc giới chăng? Giả sử có thể nhập tịch tĩnh giải thoát định của Vô sắc giới thì tất cả đã lìa dục của Sắc giới chăng?

Đáp: Câu đầu tiên là dựa vào chưa đến định đã lìa dục Sắc giới mà không thể được nhập tịch tĩnh giải thoát định của Vô sắc giới. Câu thứ hai là các thánh giả đã được tĩnh lự thứ tư không cầu sinh Vô sắc giới mà khởi chán bỏ. Các hành của tĩnh lự thứ tư hằng hiện tiền, xả đoạn kết đạo, y thắng tiến đạo, dần dần có thể nhập tịch tĩnh giải thoát định của Vô sắc giới. Câu thứ ba là tức nơi đây hành giả cần cầu lìa dục dựa vào đoạn kết đạo dần dần có thể nhập tịch tĩnh giải thoát định của Vô sắc giới. Câu thứ tư là trừ các tướng như vậy ở trên.

Hỏi: Vì sao trong Vô sắc giới diệt định không khởi hiện tiền?

Đáp: Sinh Vô sắc giới, diệt tận định này phần nhiều không khởi hiện tiền, do người trụ tịch tĩnh giải thoát dị thục, trong diệt định này đa số không phát khởi cần phương tiện. Sở dĩ vì sao? Vì các thánh đệ tử vì muốn an trụ nơi tịch tĩnh trụ, cho nên đối với cõi người v.v… dẫn diệt định này khiến hiện tiền. Còn nếu người đã sinh Vô sắc giới thì không phải do công dụng mà tự nhiên an trụ đệ nhất tịch tĩnh giải thoát dị thục trụ, không phát khởi phương tiện công dụng cầu diệt định này khiến hiện tiền nữa.

Nhuyến đạo, là có nhuyến nhuyến, nhuyến trung, nhuyến thượng phẩm đạo. Do đạo này có thể xả bỏ 3 phẩm phiền não thượng thượng, thượng trung, thượng hạ trong các địa, trói buộc trong 3 cõi. Trung đạo, có trung nhuyến, trung trung, trung thượng phẩm đạo. Do đạo này có thể xả bỏ 3 phẩm phiền não trung thượng, trung trung, trung nhuyến trong mỗi địa mỗi địa, trói buộc trong 3 cõi. Thượng đạo, có 3 phẩm đạo là thượng nhuyến, thượng trung, thượng thượng. Do đạo này nên có thể xả bỏ 3 phẩm phiền não nhuyến thượng, nhuyền trung, nhuyến nhuyến trong mỗi địa mỗi địa, trói buộc trong 3 cõi.

Như vậy nhuyến trung thượng phẩm đạo lại riêng biệt chia làm nhuyến v.v… 3 thứ, kiến lập 9 phẩm để thấy rõ tu đạo đoạn phiền não là lần lượt đoạn dần dần. Lại nữa vì nhân duyên gì nhuyến nhuyến phẩm đạo có thể đoạn thượng thượng phẩm phiền não? Do phiền não này cực kỳ sắc mạnh hủy diệt tàm quý. Trong người không biết xấu hổ, sự thô trọng hiện hành dễ thấy biết dễ phân biệt. Cho nên thượng phẩm phiền não này như những cáu bẩn sơ sài, một chút đối trị nhỏ cũng trừ bỏ được. Nếu hạ hạ phẩm phiền não trái nghịch với trên nó vi tế ẩn trong thân, hiện hành của nó khó thấy biết khó phân biệt, phải có sức mạnh tẩy trừ cấu uế vi tế ẩn giấu đem đối trị mới trừ bỏ được. Do đạo lý này phải biết các tướng năng trị sở trị khác chuyển sang kiến lập cũng vậy.

Phương tiện đạo, là do đạo này có thể xả bỏ phiền não. Sở dĩ vì sao? Do khi chính tu đạo như vậy có thể dần dần xả ly các phiền não thượng phẩm riêng biệt đã sinh các phẩm loại thô trọng, một phần dần được chuyển y. Đó là phương tiện đạo trong tu đạo.

Vô gián đạo, là do đạo này không gián đoạn, vĩnh đoạn phiền não khiến không còn sót. Sở dĩ vì sao? Do đạo này không gián đoạn, có thể vĩnh viễn đoạn trừ các phẩm phiền não này đã sinh các phẩm loại thô trọng khiến không còn sót, lại chuyển thô trọng thành không thô trọng. Đó gọi là vô gián đạo trong tu đạo.

Giải thoát đạo, là do đạo này chứng đoạn phiền não được giải thoát. Sở dĩ vì sao? Do đạo này có thể chứng phiền não vĩnh đoạn, được chuyển y.

Thắng tiến đạo, là có phương tiện vô gián giải thoát đạo để đoạn trừ dư phẩm phiền não. Đó gọi là thắng tiến đạo. Sở dĩ vì sao? Vì đoạn phẩm này sau các dư phiền não có phương tiện vô gián giải thoát đạo so với phẩm này là thắng tiến nên gọi là thắng tiến đạo. Lại nữa xả bỏ phương tiện đoạn phiền não, hoặc siêng dùng phương tiện tư duy các pháp, hoặc siêng dùng phương tiện an trụ các pháp, hoặc có các đạo tiến tu các Tam-ma-bát-để, gọi là thắng tiến đạo. Lại nữa để làm rõ các nghĩa xả bỏ các phương tiện đạo đoạn phiền não, chỉ chính tư duy các pháp trong khế kinh v.v…, hoặc trở lại an trụ quán sát trong các pháp trước đã tư duy đã chứng, hoặc lại tiến nhập các thắng phẩm định, như vậy đều gọi là thắng tiến đạo. Lại nữa, để dẫn phát công đức thắng phẩm, hoặc lại an trụ nơi các đạo, gọi là thắng tiến đạo. Sở dĩ vì sao? Nếu để dẫn phát thần thông vô lượng các công đức thắng phẩm, hoặc đã sinh rồi an trụ hiện tiền, những đạo như vậy gọi là thắng tiến đạo. Như vậy đã nói rộng tướng tu đạo sai biệt.

Tu như thế nào? Lược nói có 4 thứ, là đắc tu, tập tu, trừ khử tu, và đối trị tu. Đắc tu, nghĩa là chưa sinh thiện pháp, tu tập làm cho sinh. Tập tu, nghĩa là đã sinh thiện pháp, tu khiến kiên trụ không mất lại làm cho rộng thêm. Trừ khử tu, nghĩa là đã sinh ác bất thiện pháp, tu khiến vĩnh đoạn. Đối trị tu, nghĩa là chưa sinh ác bất thiện pháp, tu khiền không sinh. Như vậy 4 thứ tướng tu sai biệt, tùy chỗ thích ứng dựa vào 4 chính đoạn mà nói. Để được nên tu gọi là đắc tu. Do sức tu này được các thiện pháp chưa được. Tập tức là tu, gọi là tập tu. Do sức tu này thường tập các thiện pháp đã được. Để trừ bỏ nên tu, gọi là trừ khử tu. Do sức tu này trừ bỏ hiện hành vị các bất thiện pháp. Tu tập đối trị, gọi la đối trị tu. Đối trị vị lai các bất thiện pháp khiến thành pháp không sinh. Lại nữa, khi đạo sinh có thể an lập tự tập khí, đó gọi là đắc tu. Từ chủng loại này dần dần tăng thịnh liên tục sinh, lại ngay đạo này hiện tiền tu tập, nên gọi là tập tu. Tức do đạo này hiện tiền hành. Lại nữa, tức khi đạo này hiện tiền có thể xả bỏ tự chướng, đó gọi là trừ khử tu. Do đây có thể diệt thô trọng chướng tự phải đối trị. Lại nữa, ngay đạo này đã xả bỏ tự chướng, lại khiến nó vị lại trụ trong pháp không sinh. Đó gọi là đối trị tu. Do đã được chuyển y nơi đời vị lai an trí các chướng khiến trụ trong pháp không sinh, lại do đủ 4 thứ đối trị, nên gọi là đối trị tu, tức yếm hoại đối trị, đoạn đối trị, trì đối trị, và viễn phần đối trị. Yếm hoại đối trị, là trong các hành hữu lậu thấy nhiều tội lỗi, như bệnh tật như ung nhọt v.v… chán bỏ 5 thủ uẩn. Đoạn đối trị, là phương tiện và vô gián đạo. Do nó có thể đoạn các phiền não. Trì đối trị, là giải thoát đạo, do nó duy trì đoạn đắc. Viễn phần đối trị, là các đạo về sau, do nó khiến các phiền não trước đã đoạn chuyển thành viễn ly. Như vậy 4 thứ đối trị sai biệt là nghĩa đối trị tu sai biệt ở trước.

Lại nữa đạo sai biệt có 11 thứ. Đó là quán sát sự đạo, cần công dụng đạo, tu trị định đạo, hiện quán phương tiện đạo, thân cận hiện quán đạo, hiện quán đạo, thanh tịnh xuất ly đạo, y căn sai biệt đạo, tịnh tu tam học đạo, phát chư công đức đạo, và biến nhiếp chư đạo đạo. Phải biết trong đây do giác phần v.v…sai biệt nên kiến lập 11 thứ đạo, theo thứ tự của nó là 37 pháp Bồ-đề phần, 4 thứ chính hành, 4 thứ pháp tích, Xa-ma-tha, Tì-bát-xá-na, và 3 vô lậu căn. Quán sát sự đạo, là 4 niệm trụ. Do đây trước tiên dùng các hạnh bất tịnh v.v… quán sát tất cả thân thụ tâm pháp sự. Cần công dụng đạo, là 4 chính cần. Do khắp quán sát tất cả sự rồi để đoạn các chướng phát cần tinh tiến. Tu trị định đạo, là 4 thần túc. Như vậy trừ sạch tất cả chướng rồi, lại do dục cần tâm quán môn, tu Tam-ma-địa khiến thành điều thuận kham nhiệm tính. Hiện quán phương tiện đạo, là tín v.v… 5 căn. Như vậy tu trị Tam-ma-địa rồi, vì muốn chứng đắc vô lậu Thánh đạo siêng tu phương tiện tăng thượng duyên noãn đỉnh. Thân cận hiện quán đạo, là tín v.v… 5 lực. Như vậy người đã được tăng thượng duyên rồi, vì muốn vô gián thông đạt đế lý, tu tập xô dẹp các chướng bất tín v.v… vì gần phương tiện nhẫn đệ nhất pháp. Hiện quán đạo, là 7 giác chi. Do đây trước tiên riêng biệt nội chứng giác chân lý. Thanh tịnh xuất ly đạo, là Thánh 8 chi đạo. Do từ đây về sau để khiến các phiền não do tu đạo sở đoạn vĩnh viễn được thanh tịnh nên tu xuất ly đạo. Do đạo lý này pháp Bồ-đề phần theo thứ tự như vậy. Y căn sai biệt đạo, là 4 chính hành. Vì do y cận phần căn bản các địa sai biệt và sự sai biệt của lợi căn độn căn, người khổ chính hành thì y chỉ chưa đến được Vô sắc định vì như thứ tự chỉ quán còn yếu kém. Người lạc chính hành thì y chỉ căn bản tĩnh lự hai đạo chuyển. Người hai chậm thông là độn căn y khổ lạc. Người hai nhanh thông là lợi căn y khổ lạc. Tịnh tu tam học đạo, là 4 pháp tích, do tịnh tu này tăng thượng giới v.v… 3 học. Không tham không giận có thể tịnh tu trị tăng thượng giới học. Hoàn toàn không ở nơi tham dục sân nhuế môn, hủy phạm chỗ học xứ. Chính niệm có thể tịnh tu trị tăng thượng tâm học. Do không mất sở duyên, giữ tâm khiến định. Chính định có thể tịnh tu trị tăng thượng tuệ học. Do tâm được định, có thể chứng như thật trí. Phát các công đức đạo, là Xa-ma-tha, Tì-bát-xá-na. Do đây có thể gồm sơ trung cứu cánh tất cả đạo. Chưa biết dục biết căn, gồm phương tiện đạo và kiến đạo. Đã biết căn gồm tu đạo. Đủ biết căn gồm cứu cánh đạo.

HẾT QUYỂN 9