ĐẠI THỪA A TÌ ĐẠT MA TẠP TẬP LUẬN
An Huệ Bồ-tát tập hợp
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 11

Phẩm 2 – 1: PHẨM PHÁP TRONG QUYẾT TRẠCH PHẦN

Thế nào là quyết trạch pháp? Pháp, là 12 phần Thánh giáo. Những gì là 12? 1. Khế kinh, 2. Ứng tụng, 3. Ký biệt, 4. Phúng tụng, 5. Tự thuyết, 6. Duyên khởi, 7. Thí dụ, 8. Bản sự, 9 Bản sinh, 10. Phương quảng, 11. Hy pháp, và 12. Luận nghị.

Khế kinh, là biên tập lược nói các nghĩa cần nói.

Hỏi: Vì sao Như Lai không rộng khai diễn các nghĩa cần nói?

Đáp: Như Lai quán sát 10 thứ thắng lợi, lược nói các pháp. Nghĩa là dễ kiến lập được, dễ nói rõ được, dễ chấp nhận được. Vì cung kính pháp nên Bồ-đề tư lương mau được viên mãn, mau có thể thông đạt thật tính các pháp, được chứng tịnh tín đối với chư Phật, được chứng tịnh tín đối với pháp tăng, xúc chứng đệ nhất hiện pháp lạc trụ, đàm luận quyết trạch đẹp lòng người trí, được dự vào hàng thông minh anh duệ.

Sao gọi là dễ kiến lập được? Vì những người thuyết pháp dùng vô lượng pháp môn, an lập khai thị nghĩa cần phải nói, nay dùng sơ lược mà dễ kiến lập được.

Sao gọi là dễ nói rõ được? Vì có thể dùng một ít ngôn từ mà làm rõ rộng được nghĩa lớn, như nói có thể khiến tâm trụ bình đẳng trụ, như vậy nói rộng. Có thể dễ chấp nhận, nghĩa là khiến người nghe dễ thụ trì. Vì cung kính pháp nên Bồ-đề tư lương mau được viên mãn, nghĩa là hiểu biết Phật pháp do trí tuệ sâu mới chứng được nên đối với pháp sinh kính ái sâu xa, do kính ái môn, tín v.v…các tư lương mau viên mãn. Mau có thể thông đạt thật tính các pháp, tức là do sức phương tiện kính pháp nên trí tuệ lại chuyển tăng sắc mạnh, dần dần có thể thông đạt thật tính các pháp. Được chứng tịnh tín đối với Tam Bảo, nghĩa là do ngộ Thánh giáo khéo kiến lập, với người nói được sinh tịnh tín. Xúc chứng đệ nhất hiện pháp lạc trụ, nghĩa là đối với mật ý thâm nghĩa của Như Lai, gia hành sắc mạnh chính tư lương rồi, đạt được tăng thượng chứng hoan hỷ. Đàm luận quyết trạch làm đẹp lòng người trí, nghĩa là khéo có thể khai phát ý nghĩa sâu kín. Được dự vào số những bậc thông minh anh duệ, nghĩa là được tiếng khen rộng lớn loan khắp 10 phương. Phải biết sau hai thứ hợp làm một thắng lợi.

Ứng tụng, nghĩa là trong các kinh hoặc giữa kinh hoặc cuối kinh dùng kệ tụng lặp lại. Lại với kinh bất liễu nghĩa thì dùng kệ tụng giải thích lại, nên gọi ứng tụng.

Ký biệt, nghĩa là ở nơi đó đệ tử Phật v.v… đã tịch vãng quá khứ, ghi nhận sai biệt chỗ nào đã sinh công đức hoặc lỗi lầm. Lại với kinh liễu nghĩa gọi ký biệt là ghi nhận phân biệt khai thị ý sâu kín.

Phúng tụng, nghĩa là trong các kinh dùng câu để nói rõ, hoặc dùng 2 câu, hoặc 3 hoặc 4 hoặc 5 hoặc 6.

Tự thuyết, nghĩa là trong các kinh, hoặc có khi Như Lai nhiệm ý tự nói. Như Già-tha nói: Nếu đối với pháp như thế, phát dũng mãnh tinh tiến tĩnh lự tư duy kỹ, khi ấy gọi là Phạm chí.

Duyên khởi, nghĩa là nhân thỉnh mà nói, tùy theo Bổ-đặc-già-la như vậy mà nói như vậy. Lại nữa có nhân duyên chế lập học xứ cũng gọi là duyên khởi. Nghĩa là dựa vào nhân duyên như vậy, dựa vào sự việc như vậy, cho đến nói rộng.

Thí dụ, nghĩa là trong các kinh có nói các so sánh, sánh ví để được rõ bản nghĩa nên nói các thí dụ.

Bản sự, nghĩa là nói các việc tương ưng của các đệ tử Phật v.v… trong đời trước.

Bản sinh, nghĩa là nói các việc vốn tương ưng với hạnh Bồ-tát.

Phương quảng, nghĩa là tương ưng các điều nói về Bồ-tát tạng. Giống như nói phương quảng cũng gọi là quảng phá, cũng gọi vô tỷ. Vì nghĩa gì gọi là phương quảng? Vì là chỗ sở y lợi ích an lạc của tất cả hữu tình, nên nói pháp quảng đại thậm thâm. Vì nghĩa gì gọi là quảng phá? Vì có thể rộng rãi phá hủy tất cả chướng. Vì nghĩa gì gọi là vô tỷ? Vì không có pháp nào có thể so sánh. Các phương quảng này đều là các nghĩa khác của Đại thừa. Do tương ưng với 7 thứ tính đại nên gọi là Đại thừa. Những gì là 7 thứ tính đại? 1. Cảnh đại. Vì Bồ-tát đạo duyên trăm ngàn vô lượng các kinh, giáo pháp rộng lớn làm cảnh giới. 2. Hạnh đại. Vì hạnh rộng lớn chính hành tất cả tự lợi lợi tha. 3. Trí đại. Vì hiểu rõ pháp Bổ-đặc-già-la rộng lớn là vô ngã. 4. Tinh tiến đại. Vì trong 3 đại kiếp A-tăng-xí-da phương tiện siêng tu vô lượng trăm ngàn hạnh khó làm. 5. Phương tiện thiện xảo đại. Vì không trụ sinh tử và Niết-bàn. 6. Chứng đắc đại. Vì chứng đắc các lực, vô úy, bất cộng Phật pháp v.v… vô lượng vô số đại công đức của Như Lai. 7. Nghiệp đại. Vì cùng tột biên tế của sinh tử, thị hiện tất cả thành Bồ-đề v.v… kiến lập các Phật sự rộng lớn.

Hy pháp, nghĩa là nếu ở nơi đó nói các pháp đặc thù thậm thâm hy hữu của Thanh Văn, chư đại Bồ-tát và Như Lai v.v…

Luận nghị, nghĩa là nếu ở nơi đó không điên đảo, giải thích tất cả pháp tướng sâu kín, bởi không điên đảo tất cả pháp tướng, nên luận nghị nghĩa sâu kín của kinh v.v…

Như vậy khế kinh 12 phần Thánh giáo đều gồm trong 3 tạng. Những gì là 3? 1. Tố-đát-lãm tạng, 2. Tì-nại-da tạng, 3. A-tì-đạt-ma tạng. Đây lại chia làm 2: 1. Thanh Văn tạng, 2. Bồ-tát tạng. Khế kinh, ứng tụng, ký biệt, phúng tụng, tự thuyết 5 loại này gồm trong Tố-đát-lãm tạng của Thanh Văn tạng. Duyên khởi, thí dụ, bản sự, bản sinh 4 loại này gồm trong Tì-nại-da tạng và các quyến thuộc của 2 tạng. Duyên khởi, là giảng nói có nhân duyên kiến lập các học xứ, đây chính gồm trong Tì-nại-da tạng. Thí dụ v.v… 3 loại gồm trong quyến thuộc kia. Phương quảng và hy pháp 2 loại này gồm trong Tốđát-lãm tạng của Bồ-tát tạng. Phương quảng là văn nghĩa rộng, chính gồm trong Bồ-tát tạng. Hy pháp thì sai biệt khó tư nghị, tối thắng tương ưng với oai đức rộng lớn, cho nên cũng gồm trong Bồ-tát tạng. Nghị luận một loại thì gồm trong A-tì-đạt-ma tạng của 2 tạng Thanh Văn và Bồ-tát.

Hỏi: Vì sao Như Lai kiến lập 3 tạng?

Đáp: Vì muốn đối trị nghi tùy phiền não nên lập ra Tố-đát-lãm tạng. Vì muốn đoạn trừ các hữu tình được hóa độ phát khởi các thứ nghi hoặc, nên giảng nói khế kinh, ứng tụng v.v… Vì muốn đối trị thụ dụng, nhị biên tùy phiền não, nên thiết lập Tì-nại-da tạng. Nhị biên, nghĩa là dục lạc hạnh biên và tự khổ hạnh biên. Đối trị thụ dụng, nghĩa là ngăn chận kia thụ dụng chứa để v.v… khai mở cho kia thụ dụng trăm ngàn thứ y phục đúng như pháp v.v… Để đối trị tự kiến thủ chấp tùy phiền não, nên lập A-tì-đạt-ma tạng, xứ xứ giải thích rộng rãi các pháp sai biệt như thật tướng. Lại nữa vì muốn khai thị 3 thứ học, nên kiến lập Tố-đát-lãm tạng. Sở dĩ vì sao? Cần phải dựa vào tạng này các hữu tình được hóa độ hiểu rõ 3 học. Do trong tạng này rộng mở 3 thứ phải tu học. Vì muốn thành lập tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học nên kiến lập Tì-nại-da tạng. Phải dựa vào tạng này 2 tăng thượng học mới được thành lập. Sở dĩ vì sao? Rộng giải thích biệt giải thoát luật nghi học, Thánh đạo giáo làm chỗ y chỉ, mới có thể tu trị tịnh Thi-la. Vì dựa vào tịnh Thi-la sinh vô hối v.v… dần dần tu học tâm được định. Vì muốn thành lập tăng thượng tuệ học nên kiến lập A-tì-đạt-ma tạng. Phải dựa vào tạng này tăng thượng tuệ học mới được thành lập. Sở dĩ vì sao? Do trong tạng này có thể rộng khai thị, lựa chọn các pháp xảo phương tiện. Lại nữa vì muốn khai thị nghĩa của chính pháp nên kiến lập Tố-đát-lãm tạng. Dựa vào văn nghĩa của tạng này thì dễ hiểu. Để làm rõ pháp nghĩa tác chứng và an túc xứ, nên kiến lập Tì-nại-da tạng. Dựa vào tạng này có thể tu 2 thứ tác chứng và học hạnh. Tì-nại-da là pháp nghĩa tác chứng an túc xứ. An túc xứ, nghĩa là nghĩa sở y. Để khiến người trí luận nghị, lựa chọn, thụ dụng pháp lạc trụ, nên kiến lập A-tì-đạt-ma tạng. Dựa vào tạng này các người có trí vấn đáp nghị luận nhau, lựa chọn mà trụ nơi pháp lạc. Do trong tạng này dùng vô lượng môn khai thị tự tướng cộng tướng của các pháp v.v…, pháp tính chân thật. Như vậy 3 tạng có đủ 8 vạn 4 ngàn pháp uẩn, là dựa vào Thanh Văn thừa Tôn giả A-nan thường thụ trì.

Hỏi: Mỗi mỗi pháp uẩn số lượng bao nhiêu?

Đáp: Số lượng của pháp uẩn là 10 trăm. Mười trăm nghĩa là 1 ngàn.

Nếu vậy sao không nói thẳng là 1 ngàn? Là để hiển thị kiến lập mỗi một pháp uẩn là 1 ngàn. Sở dĩ vì sao? Số 1 đầu tiên tăng lên thành số 10. Số 10 lại tăng lên thành số 100, số 1000 v.v… Do đó số 10 trăm mới được thành lập. Gọi 10 trăm là ngàn. Trăm ngàn là 100 ngàn. Trăm 100 ngàn là Câu-chi. Như vậy tất cả những số vị, về sau quyết định dùng 2 số mười trăm làm 1. Vì vậy cho nên trong đây chỉ lấy chung 2 số mười trăm để kiến lập mỗi mỗi pháp uẩn. Do số lượng này tổng kê có 8 vạn 4 ngàn pháp uẩn, thành 8 Câu-chi 40 Lạc-xoa.

Hỏi: Như vậy 3 tạng bao gồm những pháp gì, sở hành bao nhiêu cảnh giới?

Đáp: Là văn, tư, tu sinh ra các tâm tâm pháp sở hành cảnh giới.

Sở hành tức là nghĩa sở duyên.

Lại nữa, nhân tướng sở duyên này, dựa vào tâm tâm pháp kiến lập nghĩa có duyên v.v… Như trong kinh nói: Các tâm tâm pháp này có duyên, có hành, có y tương ưng.

Chúng đối với pháp này lấy gì làm sở duyên? Là khế kinh v.v…. Đây hiển thị danh cú văn thân bao gồm các giáo pháp trong khế kinh làm cảnh sở duyên. Làm các hành gì? Là các nghĩa tương ưng với uẩn v.v… Đây là nói rõ dựa vào nghĩa của uẩn mà phát khởi giáo pháp ngôn giáo. Các tâm tâm pháp kia làm hành tướng này. Y chỉ vào đâu? Nghĩa là người kia biểu lộ sự hiểu rõ nghĩ nhớ tập khí. Đây nói rõ chính khi nói pháp lấy việc người kia biểu lộ hiểu rõ làm sở y. Như nói từ ngôn ngữ âm thanh của người kia, sau đó nghĩ nhớ làm chỗ y chỉ. Như đã nghe rồi tùy theo đó nghĩ nhớ nhiều lần. Rồi sau đó tập khí làm chỗ y chỉ. Do sau nhiều lần tập quen, sức tập khí mạnh, tuy lìa nghĩ nhớ mà tựa như nó hiển hiện. Những gì là tương ưng? Nghĩa là cùng nhau làm trợ bạn, trong sở duyên hành bình đẳng hiểu rõ. Do tâm tâm pháp làm trợ bạn nên trong cảnh giới sở duyên trong khế kinh, dùng nghĩa tương ưng với uẩn v.v… hành bình đẳng hiểu rõ.

Thế nào là sở duyên sai biệt đối với pháp? Nếu lược nói có 4 thứ, là biến mãn sở duyên, trị hành sở duyên, thiện xảo sở duyên, và tịnh hoặc sở duyên. Biến mãn sở duyên lại có 4 thứ: Hữu phân biệt ảnh tượng sở duyên, vô phân biệt ảnh tượng sở duyên, sự biên tế sở duyên, và sở tác thành tựu sở duyên. Hữu phân biệt ảnh tượng sở duyên, nghĩa là do thắng giải tác ý có các cảnh sở duyên của Xa-ma-tha, Tì-bátxá-na. Thắng giải tác ý, là tác ý hoàn toàn thế gian. Vô phân biệt ảnh tượng sở duyên, nghĩa là do chân thật tác ý có cảnh sở duyên của chỉ quán. Chân thật tác ý, là tác ý hoàn toàn xuất thế gian và các tác ý có sau đó. Sự biên tế sở duyên, nghĩa là tất cả pháp tận sở hữu tính, như sở hữu tính. Tận sở hữu tính, là uẩn, giới, xứ. Để làm rõ thể sự các pháp chỉ có phần lượng biên tế như vậy nên kiến lập 3 uẩn, giới, xứ. Như sở hữu tính, là 4 Thánh đế 16 hành chân như. Tất cả hành vô thường, tất cả hành khổ, tất cả pháp vô ngã, Niết-bàn tịch tĩnh, không, vô nguyện, vô tướng. Do như vậy các nghĩa sai biệt môn hiểu cảnh sở tri, nên gọi là như sở hữu tính. Hoặc dùng đế môn hiểu cảnh sở tri, nghĩa là như trước đã nói các uẩn giới xứ, tùy chỗ thích ứng hiểu là khổ cho đến là đạo. Hoặc dùng hành môn hiểu cảnh sở tri, nghĩa là mỗi mỗi đế đều do 4 hành và tất cả pháp không có sai biệt, đều chân như.hành. Hoặc dùng các pháp Ô-đà-na môn hiểu cảnh sở tri, nghĩa là các hành vô thường cho đến Niết-bàn tịch tĩnh. Hoặc dùng giải thoát môn hiểu cảnh sở tri, nghĩa là không, vô nguyện, vô tướng như vậy v.v… sở tác thành tựu. Sở duyên, nghĩa là chuyển y. Đã được chuyển y thì không điên đảo vì sở duyên hiển hiện. Như vậy chuyển y là không thể nghĩ bàn. Trước nói trong sở hữu tính có 16 hành và 3 giải thoát môn. Như vậy 2 thứ lại nhiếp thuộc lẫn nhau.

Hỏi: Không, nhiếp bao nhiêu hành?

Đáp: Hai, là không hành và vô ngã hành.

Hỏi: Vô nguyện nhiếp bao nhiêu hành?

Đáp: Sáu, là vô thường hành, khổ hành, nhân hành, tập hành, sinh hành, và duyên hành. Vì chúng trong 3 cõi không có chỗ nguyện cầu.

Hỏi: Vô tướng nhiếp bao nhiêu hành?

Đáp: Tám, là diệt đạo 8 hành. Vì chúng không thể hành các tướng.

Trị hành sở duyên, lược có 5 thứ: Đa tham hành thì duyên cảnh bất tịnh. Đa sân hành thì duyên cảnh tu từ. Đa si hành thì duyên chúng duyên tính các cảnh sở duyên. Kiêu mạn hành, thì duyên cảnh giới sai biệt. Tầm tứ hành, thì duyên cảnh niệm hơi thở ra vào.

Vì sao đa tham hành v.v…, thì duyên cảnh bất tịnh v.v…? Là cảnh sở duyên của tu trị hành chăng? Vì do đây có thể dứt trừ tăng thượng tham v.v…

Thiện xảo sở duyên, lược có 5 thứ: Uẩn thiện xảo, giới thiện xảo, xứ thiện xảo, duyên khởi thiện xảo, và xứ phi xứ thiện xảo. Xứ phi xứ thiện xảo nên quán như thế nào? Nên quán như duyên khởi thiện xảo.

Hỏi: Duyên khởi thiện xảo với xứ phi xứ thiện xảo có gì khác biệt?

Đáp: Nếu lấy các pháp lưu nhuận các pháp khiến lìa vô nhân, bất bình đẳng nhân sinh, là duyên khởi thiện xảo. Nghĩa là lấy vô minh v.v… các pháp lưu nhuận hành v.v… các pháp, chẳng phải các pháp ấy không có nhân mà sinh, cũng chẳng phải trời Tự Tại v.v…, bất bình đẳng nhân sinh. Quán trí như vậy gọi là duyên khởi thiện xảo. Nhân quả tương xứng nhiếp thụ mà sinh khởi, là xứ phi xứ thiện xảo. Nghĩa là tuy có pháp làm nhân, nhưng do nhiếp thụ nhân tương xứng mới có thể sinh khởi quả tương xứng. Như thiện hành thì cảm khả ái dị thục, ác hành thì cảm bất khả ái dị thục. So sánh như vậy, quán trí như vậy, gọi là xứ phi xứ thiện xảo.

Tịnh hoặc sở duyên, là hạ địa thô tính thượng địa tĩnh tính, chân như và 4 Thánh đế. Hạ địa thô tính thượng địa tĩnh tính, là y thế gian đạo mà nói, vì do đây chế phục các triền. Chân như và 4 Thánh đế, là y xuất thế gian đạo nói. Lược nên nói chân như. Rộng nên nói 4 Thánh đế. Vì do đây vĩnh hại các tùy miên.

Lại nữa, nhân biện luận về quán sát khế kinh v.v… các pháp, cần phải giải thích đạo lý các pháp. Do dựa vào đạo lý này có thể quán các pháp ấy.

Hỏi: Nếu muốn quán sát thẩm xét các pháp thì do bao nhiêu đạo lý có thể quán sát đúng?

Đáp: Do 4 thứ đạo lý. Đó là quán đãi đạo lý, tác dụng đạo lý, chứng thành đạo lý, và pháp nhĩ đạo lý. Quán đãi đạo lý, là khi sinh các hành cần phải đợi các duyên. Như khi nảy mầm cần phải đợi có các duyên là hạt giống, thời tiết, nước, ruộng v.v…Khi các thức sinh phải đợi có các duyên như căn, cảnh, tác ý v.v… Tác dụng đạo lý, là các pháp có tướng khác nhau có tác dụng khác nhau. Như nhãn căn v.v…là sở y tác dụng của nhãn thức v.v… Sắc v.v… các cảnh giới là sở duyên tác dụng của nhãn thức v.v… Nhãn v.v… các thức phân biệt hiểu biết sắc v.v… Thợ vàng bạc v.v… khéo chế tạo các vật bằng vàng bạc cũng ví như vậy. Chứng thành đạo lý, là để chứng thành cần phải thành nghĩa. Nói rõ các lượng, lời không mâu thuẫn. Cần phải thành nghĩa, tức là phải thành nghĩa trong tự thể sai biệt. Các lượng, lời nói không mâu thuẫn, nghĩa là hiện lượng v.v… lời nói không mâu thuẫn với chỗ lập tôn. Pháp nhĩ đạo lý, nghĩa là từ vô thủy đến nay tự tướng cộng tướng đều trụ trong pháp mà thành tựu pháp tính pháp nhĩ. Như lửa có thể đốt cháy, nước có thể làm nhão loãng, các pháp thành tựu pháp tính pháp nhĩ như vậy. Như kinh nói: Nhãn tuy viên tịnh không vô hữu thường cho đến vô ngã. Sở dĩ vì sao? Tính của nó là pháp nhĩ. Lại nữa, trong các pháp chính cần quán sát 4 đạo lý rồi, làm sao mà khởi tầm tư? Nghĩa là khởi 4 thứ tầm tư: 1. Danh tầm tư, 2. Sự tầm tư, 3. Tự thể giả lập tầm tư, 4. Sai biệt giả lập tầm tư. Danh tầm tư, nghĩa là suy tìm tự tướng của các pháp như danh thân cú thân văn thân đều không thành thật. Bởi danh thân v.v… là giả hữu, cho nên quán tự tướng của chúng đều không thành thật. Sự tầm tư, nghĩa là suy tìm tướng uẩn, giới, xứ của các pháp đều không thành thật. Bởi các uẩn v.v… như danh thân v.v… việc tuyên thuyết đều không thành thật, cho nên quán tướng của chúng là không thành thật. Suy tìm là nghĩa của quán sát. Tự thể giả lập tầm tư, nghĩa là suy tìm tự thể trong tương ưng năng thuyên sở thuyên của các pháp, chỉ là giả lập ngôn thuyết về tính nguyên nhân. Tương ưng của năng thuyên sở thuyên, nghĩa là 2 cái này là tính nguyên nhân để hiểu lẫn nhau. Sở dĩ vì sao? Giỏi danh ngôn thì chỉ nghe năng thuyên rồi do ức niệm môn liền hiểu được sở thuyên, hoặc chỉ được sở thuyên rồi do ức niệm môn liền hiểu được năng thuyên. Trong những chủng loại như vậy, cộng lập tương ưng, nhãn v.v…tự tướng chỉ là giả lập, chỉ nơi danh ngôn của cục thịt v.v… vì trong nhân khởi lên danh ngôn này. Nếu quán sát như vậy, gọi là tự thể giả lập tầm tư. Sai biệt giả lập tầm tư, nghĩa là trong tương ưng năng thuyên sở thuyên của các pháp suy tìm sai biệt chỉ là giả lập tính nguyên nhân của danh ngôn. Sở dĩ vì sao? Bởi ở trong tương ưng năng thuyên sở thuyên suy tìm các tướng sai biệt như thường vô thường, hữu thượng vô thượng, có sắc không sắc, có thấy không thấy v.v… chỉ là giả lập tính nguyên nhân của danh ngôn. Quán sát như vậy gọi là sai biệt giả lập tầm tư.

Lại nữa trong pháp chính cần tu tầm tư rồi, chắc chắn đối với các pháp được trí như thật. Thế nào là khởi trí như thật? Nghĩa là khởi 4 trí như thật: 1. Danh tầm tư sở dẫn như thật trí, 2. Sự tầm tư sở dẫn như thật trí, 3. Tự thể giả lập tâm tư sở dẫn như thật trí, 4. Sai biệt giả lập tầm tư sở dẫn như thật trí. Danh tầm tư sở dẫn như thật trí, nghĩa là trí như thật biết danh ngôn là không thể có được. Sự tầm tư sở dẫn như thật trí, nghĩa là trí như thật biết sự tướng cũng không thể có được. Tự thể giả lập tầm tư sở dẫn như thật trí, nghĩa là trí như thật biết thật có tự tính là không thể có được. Sai biệt giả lập tầm tư sở dẫn như thật trí, nghĩa là trí như thật biết thật có sai biệt là không thể có được. Bốn trí như thật này như trước suy tìm hiểu biết danh v.v… như thật là đều không thể được.

Lại nữa, y pháp tu Tam-ma-địa, là Du-già địa. Làm sao biết? Địa này lược có 5 thứ, là trì, nhiệm, kính, minh, và y. Trì, nghĩa là đã tích tập Bồ-đề tư lương. Ở noãn vị v.v… y vào các Thánh đế được đa văn, như chỗ đa văn an lập chỉ quán sở duyên cảnh nên gọi là trì. Lại nữa, đã tích tập Bồ-đề tư lương, là vì cầu đế hiện quán mà nghe thụ các pháp khế kinh nên gọi là đa văn. Nhiệm, nghĩa là duyên cảnh này, như lý tác ý. Do tác ý này dựa vào chỗ đa văn không tư duy điên đảo nên nghĩa tướng được nghe tự nhiên duy trì trong tâm. Kính, nghĩa là duyên cảnh này hữu tướng Tam-ma-địa. Tam-ma-địa này liền duyên đa văn làm cảnh. Cùng với tướng định nên gọi là hữu tướng vì do Tam-ma-địa này hãy còn mang tướng ảnh tượng của sở tri sự đồng phần. Lại Tam-ma-địa này có thể thẩm chiếu quán sát cái chất của sở tri sự nên ví dụ như tấm gương. Minh, nghĩa là trí vô sở đắc của năng thủ sở thủ. Do kiến đạo của trí này nhiếp hiện quán chuyển. Thế nào là Bồ-tát y vào phương tiện của Du-già địa tu học chứng vô sở đắc? Nghĩa là chư Bồ-tát đã khéo tích tập 2 thứ tư lương là phúc đức trí tuệ rồi, qua vô số đại kiếp thứ nhất rồi, nghe và tùy thuận thông đạt chân như, các pháp của khế kinh như lý tác ý, phát khởi Tam-ma- địa, y chỉ định tâm, tư duy các ảnh tượng sở tri trong định, quán ảnh tượng này không khác định tâm, dựa vào ảnh tượng này xả bỏ tưởng ngoại cảnh, chỉ dùng định quán sát ảnh tượng tự tưởng. Bấy giờ Bồ-tát biết các pháp chỉ là tự tâm, trong trụ nơi tâm biết tất cả mọi thứ cảnh giới sở thủ đều không có sở hữu. Tiếp đến nội tâm lại xả bỏ 2 thứ tự tính sở đắc, chứng vô sở đắc. Y theo đạo lý này Phật Bạc-già-phạm đã khéo nói rõ: Bồ-tát trong định vị, quán ảnh chỉ là tâm, tưởng nghĩa đã diệt trừ, thẩm quán chỉ là tự tưởng, biết sở trụ nội tâm, biết sở thủ là phi hữu, tiếp đến năng thủ cũng không, sau xúc vô sở đắc. Y, là chuyển y, vì lìa bỏ tất cả thô trọng được chuyển y thanh tịnh. Phải biết trong đây dùng 2 vị nhân quả giải thích Du-già địa. Do trì v.v…4 thứ giải thích nhân của địa này, sau cùng 1 thứ giải thích quả của địa này,

Lại nữa, thế nào là pháp thiện xảo trong các pháp? Thế nào là nghĩa thiện xảo? Thế nào là văn thiện xảo? Thế nào là từ thiện xảo? Thế nào là tiền tế hậu tế mật ý thiện xảo? Như vậy 5 câu hỏi, tùy thuận trong kinh có nói các câu: Như Tôn giả A-nan bảo Xá-lợi tử: Trưởng lão nên biết rằng nếu các Tì-khưu thành tựu 5 pháp tức có thể thụ nhanh, thụ nhiều, thụ tốt, thụ rồi không mất. Ở trong kinh này là do 5 pháp tùy chỗ thích ứng mà có nghĩa của 4 câu như thụ nhanh v.v…

Thế nào là pháp thiện xảo? Là đa văn. Với pháp thiện xảo thì có thể thụ nhanh, do nghe nhiều đầy đủ phần nhiều có thể thụ nhanh chỗ sai biệt của câu văn.

Thế nào là nghĩa thiện xảo? Là trong A-tì-đạt-ma, Tì-nại-da biết rõ tướng của nó nên với nghĩa thiện xảo có thể thụ nhiều. Nếu khéo hiểu rõ tướng của A-tì-đạt-ma v.v… thì đối với những điều nói trong uẩn, giới, xứ v.v… mới có thể thâu thập nhiều văn. Thế nào là văn thiện xảo? Nghĩa là biết huấn thích, giỏi văn từ. Thế nào là từ thiện xảo? Nghĩa là biết giỏi các ngôn từ thế tục như ngã, ngã sở v.v… không chấp trước sâu, tùy thuận nói. Nếu đối với văn từ đều được thiện xảo thì có thể lãnh thụ tốt điều nói ra. Biết giỏi huấn thích văn từ nên biết giỏi ngôn từ thế tục như ngã ngã sở v.v… Không chấp trước sâu, tùy thuận nói nên có thể lãnh thụ văn nghĩa không đảo lộn. Thế nào là tiền tế hậu tế mật ý thiện xảo? Nghĩa là khéo biết những gì đã lãnh thụ đời trước và những gì đời sau sẽ xuất ly. Nếu mật ý thiện xảo đối với đời trước đời sau thì có thể những gì thụ rồi không hỏng mất. Dựa vào các pháp đời trước đã thụ, đời sau có thể chứng đắc xuất ly. Do khéo hiểu rõ mật ý của Như Lai có thể chứng được Thánh giáo kiên thật. Thế nào là an trụ nơi pháp trong các pháp? Nếu không được tu tuệ, chỉ siêng năng phương tiện tu tập văn, tư, không được gọi là an trụ nơi pháp. Nếu được cả hai thứ phương tiện an trụ, như vậy mới gọi là an trụ nơi pháp, mới có thể gọi là Tì-khưu trụ pháp. Trong kinh này Thế Tôn nói rõ: Nếu có thể trụ đầy đủ vào văn, tư, tu, mới gọi là trụ pháp, không phải tùy trụ một phương tiện tu tập được gọi là trụ pháp. Nếu chỉ đối với pháp thụ trì đọc tụng giảng nói cho người khác v.v… là văn, tư sinh tuệ. Như nói nếu ở chỗ này nghiên cứu nhiều văn, đọc tụng giảng nói lại nhiều tư duy suy tìm, là chỉ tu văn tư tuệ. Không tu tập tu tuệ, lìa bỏ Du-già v.v… không thể kiến lập là trụ pháp. Nếu tu Tam-ma-địa phương tiện bất tri túc, gọi là tu sinh tuệ. Như nói nếu có không được tu văn, tư, chỉ tu tu tuệ cũng không thể lập là trụ pháp. Cho nên Thế Tôn nhân Tì- khưu trụ pháp mà nói lời ấy. Nếu Tì-khưu cứu cánh nơi pháp, như khế kinh, ứng tụng, cho đến nói rộng. Về sau lại nói không bỏ Du-già. Những điều như vậy nên như lý mà biết. Nếu có đủ được văn tư tu tuệ dựa vào 2 thứ trụ, thì gọi là trụ pháp không bỏ Du-già. Như vậy v.v…, nghĩa là tu Tam-ma-địa phương tiện bất tri túc, hiển thị do tu mà sinh tuệ. Tam-ma-địa phương tiện, nghĩa là vô gián ân trọng phương tiện và vô điên đảo phương tiện. Đây là hiển thị 2 thứ phương tiện: 1. Gồm trong vô gián ân trọng phương tiện là như nói không bỏ Du-già. 2. Gồm trong vô điên đảo phương tiện là như nói không bỏ tác ý. Bất tri túc, nghĩa là không sinh mùi vị chấp trước tu thượng Xa-ma-tha phương tiện. Như nói không bỏ nội tâm Xa-ma-tha. Đây tức hiển thị không sinh mùi vị đắm trước và tu thượng Xa-ma-tha phương tiện, gọi là không bỏ.

Lại nữa, vì nhân duyên gì trong 12 phần Thánh giáo, phần Phương quảng được gọi là Bồ-tát Ba-la- mật-đa tạng? Do trong phần này nói rộng số, tướng, thứ tự, giải thích từ, tu, sai biệt, nhiếp, sở trị, công đức, quyết trạch lẫn nhau của tất cả các Ba-la-mật-đa.

Hỏi: Nói ở đâu?

Đáp: Như trong kinh nói: Đại thừa tức Ba-la- mật-đa tạng của Bồ-tát.

Thế nào là tuyên thuyết số, tướng, thứ tự, cho đến sự quyết trạch lẫn nhau của Ba-la-mật-đa?

Số có 2 thứ: 1. Số kế toán, 2. Số quyết định. Số kế toán, là 6 Ba-la-mật-đa. Số quyết định, là số của Ba-la- mật-đa chỉ có 6 không tăng không giảm. Bởi vì sao? Tất cả Bồ-tát đạo lược có 2 thứ: 1. Tăng thượng sinh đạo, 2. Quyết định thắng đạo. Theo thứ tự gồm có 3 và 3. Sở dĩ vì sao? Tăng thượng sinh có 3 thứ: 1. Đại tư tài, 2. Đại tự thể, 3. Đại quyến thuộc. Thí Ba-la-mật-đa cảm quả đại tư tài. Giới Ba-la-mật-đa cảm quả đại tự thể, do giữ tịnh giới sinh trong nẻo thiện được thân tôn quý. Nhẫn Ba-la-mật-đa cảm quả đại quyến thuộc. Tu hành nhẫn nhục thì tất cả chúng sinh đều về theo. Quyết định thắng đạo có 3 thứ: 1. Đè bẹp các phiền não, tu tập thiện phẩm phương tiện. 2. Thành thục hữu tình phương tiện. 3. Thành thục Phật pháp phương tiện. Như vậy trong 3 thứ thiếu 1, chắc chắn Bồ-tát không thành tựu thắng đạo. Thành thục hữu tình phương tiện, nghĩa là tĩnh lự Ba-la- mật-đa, vì dựa vào đây phát thần thông thành thục hữu tình. Lại nữa, Ba-la-mật-đa là vô trụ xứ Niết-bàn phương tiện. Số của nó chỉ có 6. Sở dĩ vì sao? Bởi chư Bồ-tát là trái nghịch với trụ Niết-bàn, ở trong sinh tử gồm tăng thượng sinh để trái nghịch với trụ sinh tử. Tức ở trong sinh tử mà không nhiễm ô. Cho nên 3 thứ trước là đắc tăng thượng sinh phương tiện. Ba thứ sau là bất nhiễm ô phương tiện. Tùy theo chỗ thích ứng, nên biết như trước. Bất nhiễm ô phương tiện, nghĩa là do tinh tiến cho nên tu tập đối trị, do tĩnh lự cho nên đè bẹp các phiền não, do trí tuệ nên vĩnh hại tất cả phiền não tùy miên.

Lại nữa, để nhiếp ích tất cả hữu tình, đối trị tất cả phiền não nên Ba-la-mật-đa chỉ có 6 thứ. Sở dĩ vì sao? Bồ-tát Ma-ha-tát do bố thí nên dẫn nhiếp tư tài phương tiện nhiếp ích tất cả hữu tình. Do trì giới nên không khởi xâm tổn bức bách não loạn, phương tiện nhiếp ích hữu tình. Như thứ tự đó không hủy hoại của cải thân tâm người khác. Do nhẫn nhục nên chịu đựng được sự xâm tổn bức bách não loạn, phương tiện nhiếp ích tất cả hữu tình do kham chịu người khác xâm tổn của cải của mình v.v… Do 3 thứ này có thể nhiếp ích tốt tất cả hữu tình. Do tinh tiến nên tuy chưa vĩnh viễn đè bẹp tất cả phiền não mà y vào thiện phẩm tu đối trị kia. Do tĩnh lự nên vĩnh viễn đè bẹp phiền não. Do trí tuệ nên vĩnh hại tùy miên. Do 3 thứ này có thể đối trị tốt tất cả phiền não.

Tướng, nghĩa là tướng Ba-la-mật-đa của chư Bồ-tát.

Thế nào là tướng của thí Ba-la-mật-đa? Nghĩa là chư Bồ-tát an trụ pháp tính, Bồ-đề tâm của Bồ-tát làm y chỉ, dùng bi đạo tâm xả bỏ tất cả thân, ngữ, ý nghiệp của tất cả mọi thời. Như vậy do chủng tính, do nguyện, do ý lạc, do sự, do tự thể, hiển thị tướng của thí Ba-la- mật-đa. Chủng tính, nghĩa là pháp tính của Bồ-tát. Nguyện, là Bồ-đề tâm. Ý lạc, là bi đạo tâm. Sự, là xả các sở hữu. Tự thể, là thân ngữ ý nghiệp.

Thế nào là tướng của giới Ba-la-mật-đa? Nghĩa là chư Bồ-tát an trụ pháp tính Bồ-đề tâm của Bồ-tát làm y chỉ, dùng bi đạo tâm khi thụ trì tất cả giới Bồ-tát có các nghiệp thân ngữ ý.

Thế nào là tướng của nhẫn Ba-la-mật-đa? Nghĩa là chư Bồ-tát an trụ pháp tính Bồ-đề tâm của Bồ-tát làm y chỉ, dùng bi đạo tâm khi kham chịu các oán khổ có các nghiệp thân ngữ ý.

Thế nào là tướng của tinh tiến Ba-la-mật-đa? Nghĩa là chư Bồtát an trụ pháp tính Bồ-đề tâm của Bồ-tát làm y chỉ, dùng bi đạo tâm khi dẫn phát tất cả thắng thiện pháp có các nghiệp thân ngữ ý.

Thế nào là tướng của tĩnh lự Ba-la-mật-đa? Nghĩa là chư Bồ-tát an trụ pháp tính Bồ-đề tâm của Bồ-tát làm y chỉ, dùng bi đạo tâm khi khởi tất cả thứ nghiệp thân ngữ ý tự tại dụng có tất cả tâm hằng an trụ.

Thế nào là tướng của tuệ Ba-la-mật-đa? Nghĩa là chư Bồ-tát an trụ pháp tính Bồ-đề tâm của Bồ-tát làm y chỉ, dùng bi đạo tâm khi khởi tất cả thứ nghiệp thân ngữ ý tự tại dụng có tất cả các pháp giản trạch.

Lại nữa, nếu chỗ hành thí y chỉ vào tính Tát-phạt- nhã, có thể cảm tính Tát-phạt-nhã, nhiếp thụ tính Tát- phạt-nhã, có thể làm tất cả việc Tát-phạt-nhã, đó gọi là tướng của thí Ba-la-mật-đa. Bốn câu như vậy theo thứ tự của nó do phát khởi, do tập khí, do tự thể, do đẳng lưu hiển lộ tướng của Ba-la-mật-đa. Phát khởi, là y chỉ tính nhất thiết trí, vì mọi sinh khởi tất cả hạnh thí đều hồi hướng tính Tát-phạt-nhã. Tập khí, là có thể cảm tính nhất thiết trí, vì sở hành thí liên tục huân tu, vào đời sau có thể cảm tính Tát-phạt-nhã. Tự thể, là nhiếp thụ tính nhất thiết trí, vì sở hành thí cứu cánh viên mãn, bấy giờ có thể thành Phật pháp thân. Đẳng lưu, là có thể làm tất cả việc nhất thiết trí. Từ đó về sau do thụ dụng biến hóa thân đẳng lưu môn phát khởi tất cả việc Tát-phạt-nhã. Giống như tướng của thí Ba-la-mật-đa, cho đến tướng của tuệ Ba-la-mật-đa đều phải nói như vậy.

Thứ tự, nghĩa là các Ba-la-mật-đa trước có thể làm chỗ y chỉ cho sau. Sở dĩ vì sao? Bồ-tát Ma-ha-tát do thí Ba-la-mật-đa quen xả thí nội ngoại sự, nên không kể gì thân mạng, bỏ của cải thụ trì cấm giới. Do hộ giới nên dẫu bị người chê mắng cũng không đáp lại. Do như vậy nên mới có thể kham chịu nhẫn nhục, có thể nhịn chịu các khổ lạnh nóng. Tuy gặp phải duyên này cũng gia hành không nghỉ, phát siêng năng tinh tiến. Phương tiện tinh tiến chứng quả cứu cánh thành mãn tĩnh lự. Tĩnh lự đầy đủ rồi, do tịnh định tâm biết được như thật, nên chứng đắc xuất thế cứu cánh đại tuệ. Lại nữa, các Ba-lamật-đa trước được những cái sau duy trì, nghĩa là giới có thể duy trì thí, cho đến tuệ có thể gìn giữ tĩnh lự. Do đủ Thi-la, thí được thanh tịnh. Bởi vì sao? Do hành bố thí nhiếp ích hữu tình. Do đủ Thi-la không bị não hại. Cho nên Bồ-tát với người thụ thí, bởi lìa não hại mới có thể thí đủ cái vui thanh tịnh. Do sức của tịnh giới, thí được thanh tịnh. Như vậy do sức của nhẫn nên giới được thanh tịnh. Bởi vì sao? Do có thể nhẫn chịu người không làm lợi ích, hoàn toàn không phạm chỗ học xứ. Do tinh tiến nên nhẫn được thanh tịnh. Bởi vì sao? Do sức dũng mãnh nên ở lâu trong sinh tử không lấy làm khó, có thể chịu cái khổ bị chúng sinh làm trái nghịch. Do tĩnh lự nên tinh tiến thanh tịnh. Bởi vì sao? Do hỷ lạc đều có thể siêng tu tập tất cả thiện pháp không thôi nghỉ. Do đủ tuệ nên tĩnh lự thanh tịnh. Bởi vì sao? Nếu do vô lượng môn thường thường quán các pháp có thể chứng nội tịch tĩnh, tăng trưởng Tam-ma-địa. Lại nữa, Già-tha nói: Không có tĩnh lự nào mà không do tuệ. Lại nữa, do thô tế nên Ba-la-mật-đa trước sau tuần tự. Sở dĩ vì sao? Trong các hành, hành thí là thô nhất nên kiến lập trước. Trong nhẫn v.v…, hành giới là thô nên kiến lập tiếp theo. Cho đến trong tuệ, tĩnh lự là thô. Trong tất cả hành, tuệ là thô nhất nên lập sau cùng.

Giải thích từ, nghĩa là chư Bồ-tát hành bố thí sở dĩ gọi thí Ba-lamật-đa là do đại thí nên lìa lỗi, lìa cấu uế, nên gọi là thí Ba-la-mật-đa. Đại thí, là xả bỏ tất cả việc trong ngoài, thí dài lâu. Lìa lỗi, là xa lìa các lỗi theo đuổi bất bình đẳng. Lìa cấu uế, là vĩnh đoạn tất cả sở trị xan, như nói trong Thí vô tận trong Kinh Vô Tận Tuệ: Thế nào là lìa cấu uế? Vì vĩnh viễn đoạn sở trị và tập khí. Như vậy 3 câu hiển thị 3 thứ tối thắng của Ba-la-mật-đa. Những gì là 3? 1. Tự thể tối thắng và tích tập. 2. Phương tiện tối thắng. 3. Quả tối thắng. Tích tập, là thí dài lâu. Như thí Ba-la-mật-đa có 3 thứ, cho đến tuệ Ba-la-mật-đa cũng vậy. Giới v.v… lìa lỗi, nghĩa là xa lìa ngã tăng ích v.v… tùy chỗ thích ứng, như Kinh Vô Tận Tuệ có nói rộng. Lại nữa do tương ưng với 12 thứ tối thắng nên gọi là Ba-la-mật-đa. Những gì là 12 tối thắng? 1. Quảng đại tối thắng, vì không cầu cái vui thế gian, lại nữa là tối thượng. 2. Trường thời tối thắng, là vì tích tập trải qua 3 đại kiếp A-tăng-xí-da. 3. Chỗ làm tối thắng, vì lợi ích an lạc tất cả hữu tình. 4. Vô tận tối thắng, vì hồi hướng đại Bồ-đề cứu cánh vô tận. 5. Vô gián tối thắng, do được tự tha bình đẳng thắng giải, khiến các hữu tình trong sự bố thí v.v… mau chóng viên mãn Ba-la-mật-đa. 7. Đại tự tại tối thắng, do được Hư không tạng v.v… các Tam-ma-địa khiến bố thí v.v…mau chóng viên mãn Ba-la-mật-đa. 8. Nhiếp thụ tối thắng, là vì trí vô phân biệt nhiếp thụ. 9. Phát khởi tối thắng, là trong giải hành địa thượng phẩm nhẫn vị hành thí v.v… các Ba-la-mật-đa. 10. Chứng đắc tối thắng, là trong sơ địa được thí v.v… các Ba-la-mật- đa. 11. Đẳng lưu tối thắng, là ngoài ra trong 8 địa hành thí v.v… các Ba-lamật-đa. 12. Viên mãn tối thắng, là địa thứ 10 và Như Lai địa có thí v.v… các Ba-la-mật-đa. Theo thứ tự đó Bồ-tát viên mãn, Phật viên mãn. Lại nữa, tối thắng sở tác, tối thắng sở chí, nên gọi là Ba-la-mậtđa, vì tất cả Phật Bồ-tát đã làm và đã đạt đến. Lại nữa, đến chỗ biết của bờ kia nên gọi là Ba-la-mật-đa, vì an trụ Phật tính. Lại nữa, tế độ tự tha tai nạn cực kỳ to lớn nên gọi là Ba-la-mật-đa, vì có thể khiến mình và người vượt qua biển khổ lớn sinh tử.

Từ cộng đã giải thích, nay sẽ nói về từ bất cộng. Năng xả thí thì đời sau nghèo khổ, năng xả thụ thì hiện tại nhiệt não, nên gọi là thí. Có thể khiến các căn vĩnh viễn tịch tĩnh nên có thể hướng đến các cõi thiện thanh tịnh. Có thể làm chỗ sở y cho thanh lương, nên gọi là giới. Tùy theo thứ tự, có thể dẫn đến việc thủ hộ các căn môn, đó là nhân hướng đến cõi thiện thanh tịnh, có thể làm vô hối v.v… lần lượt cho đến sở y của Niết-bàn, xa lìa tất cả giận dỗi nóng nảy, xa lìa tâm không bỏ oán hại, hiển phát tổn, thường an ổn nên gọi là nhẫn. Tâm oán hại, là tâm khởi báo oán. Bất xả, là không bỏ cái tâm ấy. Có thể hoại cái oán tâm, gọi là tổn. Làm rõ cái vô úy này nên gọi là hiển phát. Tổn nên thường an ổn. Tổn hại sinh trưởng tác dụng tương ưng nên gọi là tinh tiến. Tổn hại tác dụng tương ưng, là 2 chính đoạn trước, vì có thể tổn hại pháp bất thiện. Sinh trưởng tác dụng tương ưng, là 2 chính đoạn sau, vì có thể sinh trưởng các thiện pháp. Năng trì, năng tức, năng tĩnh, năng điều, lại năng dẫn phát, nên gọi là tĩnh lự. Năng trì, nghĩa là buộc tâm đối với cảnh. Năng tức, nghĩa là dứt các tán loạn. Năng tĩnh, nghĩa là khiến tâm vắng lặng. Năng điều, nghĩa là điều phục các trói buộc. Năng dẫn phát, nghĩa là có thể dẫn phát các tác dụng một cách tự tại. Trí từ người khác phát sinh, trí do tự chứng bên trong, trí phân biệt các chủng loại, trí được vắng lặng, trí thắng đức, gọi là tuệ. Trí từ người khác phát sinh, là tuệ sinh ra do từ tiếng nói lời nói của người khác, và tuệ tương ưng với tác ý như lý. Trí do tự chứng bên trong, là tuệ xuất thế gian. Trí phân biệt các chủng loại, là tuệ xuất thế gian hậu sở đắc. Trí được vắng lặng, là tuệ trị phiền não trong lúc tu đạo. Trí thắng đức, là tuệ có thể dẫn phát công đức thù thắng.

HẾT QUYỂN 11