ĐẠI THỪA A TÌ ĐẠT MA TẠP TẬP LUẬN
An Huệ Bồ-tát tập hợp
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 2

Phẩm 1 – 2: PHẨM 3 PHÁP TRONG BẢN SỰ PHẦN

Những gì là tâm bất tương ưng hành? Là đắc, vô tưởng định, diệt tận định, vô tưởng dị thục, mạng căn, chúng đồng phần, sinh, lão, trụ, vô thường, danh thân, cú thân, văn thân, dị sinh tính, lưu chuyển, định dị, tương ưng, thế tốc, thứ đệ, thời, phương, số, hòa hợp. Như vậy tâm bất tương ưng hành phải lấy 5 môn kiến lập sai biệt là y xứ, tự thể, giả lập, tác ý, và địa. Hai vô tâm định đầy đủ 5 môn, trời vô tưởng dị thục thì trừ tác ý, ngoài ra chỉ có 3 thứ đầu.

Đắc, là trong pháp thiện bất thiện vô ký, hoặc tăng hoặc giảm giả lập được thành tựu. Pháp thiện, bất thiện, vô ký, là hiển thị y xứ. Hoặc tăng hoặc giảm, là hiển thị tự thể. Bởi vì sao? Là do có tăng nên nói là thành tựu thượng phẩm tín v.v…, do có giảm nên nói là thành tựu hạ phẩm tín v.v… Giả lập đạt được thành tựu, là hiển thị giả lập. Như vậy phải biết đối với những cái khác kiến lập tùy theo thích ứng.

Vô tưởng định, nghĩa là đã lìa biến tịnh dục, chưa lìa thượng dục. Xuất ly tưởng, tác ý làm đầu cho nên đối với tâm tâm pháp không hằng hành diệt, giả lập vô tưởng định. Đã lìa biến tịnh dục, là đã lìa tham của đệ tam tĩnh lự. Chưa lìa thượng dục, là chưa lìa tham từ đệ tứ tĩnh lự trở lên. Xuất ly tưởng, tác ý làm đầu, là giải thoát tưởng thì tác ý là phương tiện trước tiên. Không hằng hành, là có trong chuyển thức. Diệt, nghĩa là định tâm dẫn khởi, không thường xuyên hiện hành. Các tâm tâm pháp tạm thời gián diệt sở y vị sai biệt. Vì năng diệt nên gọi là diệt.

Diệt tận định, nghĩa là đã lìa vô sở hữu xứ dục, siêu quá Hữu đỉnh. Tạm dứt tưởng, tác ý làm đầu cho nên trong các tâm tâm pháp không hằng hành và một phần tâm tâm pháp hằng hành diệt, giả lập diệt tận định. Trong đây sở dĩ không nói chưa lìa thượng dục là để hiển thị lìa dục của Hữu đỉnh, vì A-la-hán v.v…cũng được định này. Một phần hằng hành, nghĩa là có trong nhiễm ô ý.

Vô tưởng dị thục, nghĩa là đã sinh vào trời vô tưởng hữu tình, đối với tâm tâm pháp không hằng hành diệt, giả lập vô tưởng dị thục.

Mạng căn, nghĩa là trong chúng đồng phần, trước tiên do nghiệp cảm, trụ thời quyết định giả lập thọ mạng. Chúng đồng phần, là các uẩn liên tục trong một đời. Trụ thời quyết định, là cùng đồng một thời gian khiến chúng đồng phần thường được an trụ, hoặc trải trăm năm ngàn năm v.v…do nghiệp dắt dẫn công năng sai biệt.

Chúng đồng phần, nghĩa là các hữu tình trong các chủng loại, trong tự thể tương tự, giả lập chúng đồng phần. Trong các chủng loại, là các chủng loại khác nhau trong người, trời. Trong tự thể tương tự, là trong một chủng loại tính.

Sinh, nghĩa là các hành trong chúng đồng phần, tính vốn không nay có, giả lập là sinh.

Hỏi: Ngoài ra các sắc v.v…cũng có tướng sinh, sao chỉ nói chúng đồng phần?

Đáp: Vì trong hữu tình liên tục kiến lập tướng hữu vi. Sở dĩ vì sao? Tướng hữu vi của các sắc bên ngoài v.v… hiển thị sự thành hoại. Tướng hữu vi của các hành bên trong hiển thị tướng sinh, lão.

Lão, nghĩa là tính biến đổi khác liên tục của các hành trong chúng đồng phần giả lập là lão.

Trụ, nghĩa là tính không biến đổi hoại diệt liên tục của các hành trong chúng đồng phần giả lập là trụ.

Vô thường, nghĩa là tính liên tục biến đổi hoại diệt của các hành trong chúng đồng phần giả lập vô thường liên tục.

Biến hoại, nghĩa là khi xả bỏ thọ mạng, phải biết trong đây dựa vào tương tục vị kiến lập sinh, không dựa vào sát-na.

Danh thân, nghĩa là trong các pháp tự tính tăng ngôn, giả lập danh thân. Tự tính tăng ngôn, nghĩa là nói các việc thiên nhân nhãn nhĩ v.v…

Cú thân, nghĩa là trong các pháp sai biệt tăng ngôn, giả lập cú thân. Sai biệt tăng ngôn, nghĩa là nói các nghĩa như các hành vô thường, tất cả hữu tình phải chết v.v…

Văn thân, nghĩa là các chữ nơi 2 sở y kia, giả lập văn thân. Các chữ nơi 2 sở y kia, tức là các chữ sở y nơi tự tính tăng ngôn và sai biệt tăng ngôn, như bao, nhất, ổ v.v… Lại nữa tự tính, sai biệt và 2 cái này bao gồm tất cả. Như vậy tất cả là do 3 thứ này biểu thị sở thuyên. Cho nên thiết lập 3 cái này là danh thân, cú thân, và văn thân. Đây nói văn, là có thể làm rõ 2 cái kia, cho nên đây cũng gọi là hiển thị nghĩa năng hiển. Lại nữa đây danh tự không đổi khác. Sở dĩ vì sao? Như tên con mắt khác với con mắt. Ngoài tên này lại còn chuyển đổi những tên khác như chiếu, liễu, đạo v.v… vì chúng cùng hiển thị ý tưởng này. Chẳng phải như các chữ bao, chữ nhất v.v… nếu lìa sự khác biệt của chữ bao, chữ nhất ngoài ra không thể hiển thị sự khác biệt nào khác. Vì là chữ không chuyển đổi khác nên gọi là chữ không đổi khác. Chuyển, nghĩa là không lưu biến.

Dị sinh tính, nghĩa là trong Thánh pháp không được giả lập dị sinh tính.

Lưu chuyển, nghĩa là trong nhân quả liên tục không dứt giả lập lưu chuyển. Sở dĩ chỉ trong liên tục không dứt lập lưu chuyển, là vì ở trong một sát-na hoặc trong gián đoạn thì không nói như thế này.

Định dị, nghĩa là trong nhân quả các thứ sai biệt giả lập định dị. Nhân quả các thứ sai biệt, là quả khả ái thì diệu hành là nhân, quả không khả ái thì ác hành là nhân. Các thứ nhân quả như vậy khác biệt lẫn nhau.

Tương ưng, nghĩa là trong nhân quả tương xứng giả lập tương ưng. Nhân quả tương xứng, nghĩa là tuy nhân quả khác loại nhưng thuận nhau cũng gọi là tương xứng. Như bố thí thì càm được quả giàu có v.v…

Thế tốc, nghĩa là trong nhân quả lưu chuyển nhanh chóng giả lập thế tốc.

Thứ đệ, nghĩa là mỗi một lưu chuyển trong nhân quả gỉa lập thứ đệ nhân quả. Mỗi một lưu chuyển nghĩa là không lưu chuyển cùng một lúc.

Thời, nghĩa là trong nhân quả liên tục lưu chuyển giả lập là thời. Bởi vì sao? Do có nhân quả liên tục chuyển nên nếu nhân quả này đã sinh đã diệt thì lập thời quá khứ, nếu chưa sinh thì lập thời vị lai, đã sinh mà chưa diệt thì lập thời hiện tại.

Phương, nghĩa là trong hướng Đông Tây Nam Bắc 4 góc và trên dưới nhân quả sai biệt giả lập là phương. Bởi vì sao? Tức ở nơi 10 phương nhân quả phổ biến đầy khắp, giả tạm nói là phương. Phải biết rằng trong đây là chỉ nói về nhân quả của sắc pháp. Vô sắc pháp thì không có công năng phổ biến khắp xứ sở.

Số, nghĩa là trong các hành mỗi mỗi sai biệt giả lập là số. Mỗi mỗi sai biệt, là đối với 1 thì không khác, số 2, số 3 v.v… thì không hợp lý.

Hòa hợp, nghĩa là trong nhân quả các duyên tụ hội giả lập là hòa hợp. Nhân quả các duyên tụ hội, là chẳng hạn như thức pháp nhân quả nối nhau ắt phải mượn các duyên hòa hội. Tức là căn không hư hoại, cảnh giới hiện tiền có thể sinh thức này chính lúc khởi tác ý.

Phải biết đối với tất cả những cái khác cũng như vậy.

Như vậy tất cả tâm bất tương ưng hành pháp chỉ dựa vào phần vị sai biệt mà kiến lập. Phải biết tất cả đều là giả có. Nghĩa là đối với thiện, bất thiện, tăng giảm phần vị sai biệt kiến lập 1 thứ, đối với tâm tâm pháp phần vị sai biệt kiến lập 3 thứ, đối với trụ phần vị sai biệt kiến lập 1 thứ, đối với tương tự phần vị sai biệt kiến lập 1 thứ, đối với tướng phần vị sai biệt kiến lập 4 thứ, đối với ngôn thuyết phần vị sai biệt kiến lập 3 thứ, đối với bất đắc phần vị sai biệt kiến lập 1 thứ, đối với nhân quả phần vị sai biệt kiến lập các thứ khác. Nhân quả, nghĩa là tất cả pháp hữu vi có thể sinh ra cái khác gọi là nhân, từ những cái khác sinh ra gọi là quả.

Thức uẩn kiến lập như thế nào? Là sai biệt của tâm, ý và thức.

Tâm, là tập khí của uẩn, giới xứ huân tất cả chủng tử vào A-lạida thức, cũng gọi là dị thục thức, cũng gọi là A-đà-na thức, vì chúng có công năng tích tập các tập khí. Tập khí, nghĩa là do uẩn v.v… hiện hành khiến các chủng tử kia đều được tăng ích. Nói nhất thiết chủng tử thức, nghĩa là có thể sinh và tích tập chủng tử các pháp của uẩn v.v… Nói A-lại-da thức, nghĩa là có khả năng thâu giữ chủng tử các pháp. Lại nữa vì hữu tình chấp thủ nó làm ngã. Nói dị thục thức, nghĩa là vì do nghiệp trước sinh ra. Nói A-đà-na thức, nghĩa là có công năng thường xuyên khiến sinh liên tục, duy trì các căn khiến không hoại. Cũng nói là tâm vì có khả năng chứa nhóm tập khí tất cả các pháp.

Làm sao biết có thức A-lại-da? Nếu không có thức này thì không có chấp thụ, không có bắt đầu minh liễu phân biệt, không có chủng tử, không có nghiệp, không có thân thụ, không có vô tâm định, không có mạng chung, như vậy là không hợp lý. Giải thích kệ này, có nói trong Quyết trạch phần là do 8 thứ tướng chứng minh thức A-lại-da chắc chắn là có. Nghĩa là nếu lìa thức A-lại-da thì không có y chỉ chấp thụ, sinh khởi ban đầu không có được thì minh liễu phân biệt không sinh khởi được, thể tính chủng tử không thể có được, thể tính của nghiệp dụng không thể có được, thể tính của thân thụ không thể có được, không thể ở trong vô tâm định được, không có cái thức khi mạng chung được.

Thế nào là y chỉ chấp thụ không thể có được? Vì 5 nhân, nghĩa là nhân thức A-lại-da đi trước cảm nhãn v.v…chuyển thức hiện phát sinh duyên nhân. Như nói căn, cảnh, sức tác ý nên các chuyển thức sinh, cho đến nói rộng, gọi là nhân ban đầu. Lại nữa 6 thức thân có được thiện ác, đó là nhân thứ hai. Lại nữa 6 thức thân có được một loại dị thục có tính vô ký, đó là nhân thứ ba. Lại nữa 6 thức thân đều có y chuyển riêng biệt. Tùy chỗ y chỉ, khi thức ấy sinh liền thích ứng thức ấy chấp thụ chỗ y chỉ. Ngoài ra không chấp thụ là không hợp lý. Dẫu cho rằng chấp thụ cũng không hợp lý, vì tách rời thức, đó là nhân thứ tư. Lại nữa chỗ y chỉ phải thành lỗi thường xuyên chấp thụ. Bởi vì sao? Do nhãn thức kia có lúc chuyển có lúc không chuyển, các thức khác cũng vậy, đó là nhân thứ năm.

Thế nào là sinh khởi ban đầu không thể được? Nghĩa là giả sử có người vấn nạn nói rằng nếu có thức A-lại-da thì trong một hữu tình phải có 2 thức đồng thời khởi. Nên bảo người kia rằng ông ở chỗ không có lỗi mà vọng sinh lỗi, vì chấp nhận có 2 thức đồng thời chuyển. Sở dĩ vì sao? Cũng như có một mà đồng thời dục kiến cho đến dục thức rồi tùy theo một thức sinh khởi trước là không hợp lý. Bởi vì sao? Vì khi tác ý là không có sai biệt, hiện tiền căn và cảnh không hoại tại sao thức không đồng thời chuyển?

Thế nào là minh liễu sinh khởi không thể được? Nghĩa là nếu chấp chặt rằng thức không đồng thời sinh với nhãn thức v.v… đồng hành một cảnh thì minh liễu ý thức không thể có được. Sở dĩ vì sao? Nếu khi nhớ lại cảnh đã từng thụ, bấy giờ sinh ý thức không rõ ràng, không phải như ý thức sinh nơi hiện cảnh. Được cái tướng không rõ ràng như vậy, cho nên phải tin các thức cùng chuyển, hoặc phải chấp nhận tính không rõ ràng của đệ lục ý thức.

Thế nào là thể tính của chủng tử không thể được? Nghĩa là 6 chuyển thức thân mỗi mỗi đều khác. Sở dĩ vì sao? Sáu chuyển thức này từ thiện vô gián tính bất thiện sinh, bất thiện vô gián tính thiện lại sinh, từ 2 vô gián tính vô ký sinh. Hạ giới vô gián trung giới sinh, trung giới vô gián diệu giới sinh, diệu giới vô gián cho đến hạ giới sinh. Hữu lậu vô gián vô lậu sinh, vô lậu vô gián hữu lậu sinh. Thế gian vô gián xuất thế sinh, xuất thế vô gián thế gian sinh. Không như vậy thì tướng thức là thể của chủng tử phải đúng lý. Lại nữa tâm tương tục gián đoạn thời gian dài, trải qua lưu chuyển lâu không ngớt, cho nên chuyển thức có thể duy trì chủng tử là không đúng lý.

Thế nào là nghiệp dụng không thể được? Nghĩa là nếu không có các thức đồng thời sinh thì khởi nghiệp dụng cùng chuyển là không hợp lý. Sở dĩ vì sao? Thức nghiệp lược nói có 4 thứ là liễu biệt ngoại khí, liễu biệt y chỉ, năng liễu biệt ngã, và liễu biệt cảnh giới. Như vậy 4 thứ liễu biệt nghiệp của thức mỗi mỗi sát-na đều có thể hiện hành, không phải trong một sát-na trong một thức có các nghiệp dụng sai biệt như vậy. Cho nên chắc chắn có các thức cùng chuyển.

Thế nào là thể tính của thân thụ không thể được? Nghĩa là như có một, hoặc như lý tư duy, hoặc không như lý tư duy, hoặc không tư duy, hoặc lại suy tìm, hoặc tâm tại định, hoặc không tại định, thân thụ sinh khởi không phải một mà rất nhiều. Nếu không có thức A-lại-da thì không thể có thân thụ như vậy được. Hiện đã được như vậy nên chắc chắn có thức A-lại-da.

Thế nào là ở trong vô tâm định không thể được? Như Thế Tôn nói nhập vô tưởng định và diệt tận định phải biết lúc bấy giờ thức chẳng rời thân. Nếu không có thức A-lại-da thì lúc bấy giờ thức phải rời thân. Mà thức đã rời thân tức là xả mạng, chẳng phải ở trong định.

Thế nào là cái thức khi mạng chung không thể được? Nghĩa là khi lâm chung, thức dần dần rời bỏ thân phần sở y, phát ra cảm xúc lạnh hoặc trên hoặc dưới chứ không phải ý thức kia có lúc không chuyển. Cho nên biết chỉ có thức A-lại-da có thể gìn giữ thân tùy ở nơi thân phần. Nếu xả bỏ thức này thì có cảm xúc lạnh, thân không còn giác thụ. Ý thức thì không như vậy. Cho nên nếu không có thức A-lại-da thì cái thức khi mạng chung chắc chắn không thể có được.

Ý, là tất cả mọi thời duyên thức A-lại-da, tư đạc làm tính, hằng tương ưng với 4 phiền não là ngã kiến, ngã ái, ngã mạn, và vô minh. Lại nữa ý này biến hành khắp tất cả vị thiện bất thiện và vô ký, chỉ trừ Thánh đạo hiện tiền hoặc ở diệt tận định và tại vô học địa. Lại nữa 6 thức lấy vô gián diệt thức làm ý. Phải biết trong đây do sở duyên, thích nghĩa, tương ưng, khi sinh khởi hiển rõ nơi ý. Vì sao Thánh đạo hiện tiền không có nhiễm ô ý? Vì do thắng nghĩa trí với ngã kiến hiện hành rất trái nghịch nhau. Sau khi xuất Thánh đạo, từ thức A-lại-da lại hiện khởi là vì hữu học vị chưa vĩnh đoạn. Lại nữa diệt tận định vọng vô tưởng định cực kỳ vắng lặng cho nên nhiễm ô ý không hiện hành được. Vô gián diệt ý, là do tùy giác cho nên nghĩa của vô gián giác là nghĩa của ý. Phải biết rằng trong đây là theo hiển tướng mà nói.

Thức, là 6 thức thân như nhãn thức cho đến ý thức. Nhãn thức là dựa vào mắt duyên sắc hiểu biết phân biệt làm tính. Nhĩ thức là dựa vào tai duyên âm thanh hiểu biết phân biệt làm tính. Tỹ thức là dựa vào mũi duyên mùi hiểu biết phân biệt làm tính. Thiệt thức là dựa vào lưỡi duyên vị hiểu biết phân biệt làm tính. Thân thức là dựa vào thân thể duyên sự chạm xúc hiểu biết phân biệt làm tính. Ý thức là dựa vào ý duyên pháp hiểu biết phân biệt làm tính. Phải biết trong đây do sở y, sở duyên, tự tính mà kiến lập thức.

Giới kiến lập như thế nào? Là sắc uẩn tức 10 giới. Nhãn v.v… 5 căn giới. Sắc v.v…5 cảnh giới và một phần của pháp giới. Thụ tưởng hành uẩn tức một phần của pháp giới. Thức uẩn tức 7 thức giới, nghĩa là nhãn v.v…6 thức giới và ý giới.

Vì sao kiến lập giới, xứ không có tướng riêng biệt? Vì trong kiến lập uẩn đã nói nhãn v.v… đều có tướng riêng biệt. Cho nên từ trong các uẩn kiến lập ra giới, từ trong các giới kiến lập ra xứ.

Trong những giới pháp nào không gồm có uẩn? Trong pháp giới, vô vi pháp không gồm có uẩn. Vô vi pháp này lại có 8 thứ là thiện pháp chân như, bất thiện pháp chân như, vô ký pháp chân như, hư không, phi trạch diệt, trạch diệt, bất động, và tưởng thụ diệt.

Như vậy trong kiến lập 8 vô vi, phải biết là sở y vào sai biệt, cho nên phân tích chân như giả lập 3 thứ không do tự tính. Thiện pháp chân như, là tính vô ngã, tính không, thật tế, vô tướng, pháp giới thắng nghĩa.

Vì sao chân như, theo như nói, gọi là chân như? Vì tự tính của nó không biến đổi khác. Nghĩa là trong mọi thời thật tính vô ngã không chuyển đổi, nên nói là không biến đổi khác. Phải biết rằng đó là tính vô ngã vì lìa 2 ngã.

Vì sao lại gọi là tính không? Vì tất cả tạp nhiễm không hiện hành. Sở dĩ vì sao? Vì duyên nơi đây nên có thể khiến tất cả các việc tạp nhiễm đều vắng không. Tuy cũng có lúc nói có tạp nhiễm, nhưng phải biết đó chỉ là khách trần phiền não làm nhiễm ô. Những gì gọi là khách trần nhiễm ô? Nghĩa là do chưa nhổ hết gốc rễ chủng tử sở thủ năng thủ cho nên khiến dựa vào tính tâm khác 2 hành tướng chuyển, chẳng phải pháp tính tâm, bởi vì tự tính pháp tính các pháp là thanh tịnh.

Vì sao lại nói đây là vô tướng? Vì các tướng vắng lặng. Các tướng, là sắc, thụ v.v… cho đến Bồ-đề. Những các hý luận, trong tính chân như tướng của chúng đều vắng lặng nên gọi là vô tướng.

Vì sao lại gọi đây là thật tế? Vì không điên đảo sở duyên. Thật, nghĩa là không điên đảo. Nơi đây cứu cánh nên gọi là thật tế, quá vô ngã tính không còn chỗ tìm cầu.

Vì sao còn gọi đây là thắng nghĩa? Vì đây là chỗ sở hành tối thắng của Thánh trí.

Vì sao còn gọi đây là pháp giới? Vì là tướng sở y của diệu pháp của tất cả Thanh Văn Độc Giác chư Phật. Giống như thiện pháp chân như, phải biết bất thiện pháp chân như, vô ký pháp chân như cũng vậy.

Hư không, là tính không có sắc, thụ nhận tất cả sở tác nghiệp. Tính không có sắc nghĩa là chỉ trái với sắc. Pháp tướng vô tính, cảnh giới của ý thức, là hư không. Cảnh giới của ý thức là gồm trong pháp giới. Chỉ trái với sắc gọi là biệt thụ v.v…, cộng hữu, chân như, trạch diệt, phi trạch diệt, tính vô thường v.v…Tuy sừng thỏ v.v… cũng là vô tính nhưng nó không mâu thuẫn với các pháp bởi nó rốt ráo là không. Lại nữa sừng thỏ v.v… không phải chỉ trái với sắc bởi nó chung với các pháp như thụ v.v… cho nên chỉ nói trái với sắc. Vô tính tướng là pháp vô sắc biệt thụ v.v… Bởi vì sao? Vì thụ v.v… tự thể là hữu tính tướng chẳng phải vô tính tướng.

Phi trạch diệt, là diệt phi ly hệ, không vĩnh hại tùy miên. Trạch diệt, là diệt ly hệ, vĩnh hại tùy miên.

Bất động, là đã diệt dục của biến tịnh, chưa diệt dục cõi trên, khổ lạc diệt, vô vi.

Tưởng thụ diệt, là đã lìa dục của vô sở hữu xứ, chấm dứt tưởng, tác ý làm đầu, cho nên các tâm tâm pháp bất hằng hành và một phần tâm tâm pháp hằng hằng hành diệt, vô vi.

Phải biết trong đây có 2 pháp phải đoạn, là phiền não và thụ sở y ở đây. Thụ có 2 thứ, là biến dị và không biến dị, như thứ tự đó khổ lạc và phi khổ lạc. Phải biết phiền não đoạn cho nên kiến lập trạch diệt 2 thụ đoạn, như thứ tự đó kiến lập bất động và tưởng thụ diệt. Phiền não đoạn, là trừ thô trọng của phẩm này được các chuyển y. Thụ đoạn, là trừ năng trị định chướng này được các chuyển y. Cho nên khi được đệ nhị tĩnh lự, tuy chứng khổ diệt mà không kiến lập vô vi, vì chưa đoạn hết biến dị thụ. Lại nữa như 5 thứ sắc, như thụ, tưởng, hành uẩn và đây nói 8 pháp vô vi, như vậy gọi chung 16 là pháp giới.

Xứ kiến lập như thế nào? Là 10 sắc giới, tức 10 sắc xứ. Bảy thức giới tức ý xứ. Pháp giới tức pháp xứ. Do đạo lý này các uẩn , giới, xứ 3 pháp gồm thâu. Nghĩa là sắc uẩn pháp giới và ý xứ. Do sắc uẩn bao gồm 10 sắc giới. Pháp giới tức gồm pháp giới. Ý xứ gồm 7 thức giới. Cho nên 3 pháp gồm tất cả pháp.

Như vậy đã kiến lập xong uẩn, giới, xứ. Nay nhân nghĩa này cần phân biệt lại.

Hỏi: Nhãn, nhĩ, và tỹ đều có 2 thứ, sao không lập thành 21 giới?

Đáp: Chúng tuy có 2 nhưng giới thì không khác. Sở dĩ vì sao? Vì tướng của nó tương tự cả 2 nhãn tướng, sở tác tương tự cả 2 nhãn cảnh mà nhãn thức sở tác thì có 1. Cũng giống như vậy nhĩ và tỹ theo lý thì biết. Thân đoan nghiêm đều sinh 2 thứ. Bởi vì sao? Như vậy phân bố 1 giới 2 chỗ thân được đoan nghiêm vì không do gì khác.

Hỏi: Thường thường dựa vào 1 con mắt mà nhãn thức được sinh hay cũng dựa vào cả 2 con?

Đáp: Cũng dựa được cả 2 để được rõ ràng. Sở dĩ vì sao? Nếu mở cả 2 mắt thì tiếp nhận sắc rõ ràng hơn, không như mở 1 mắt. Ví như trong 1 phòng cùng thắp 2 ngọn đèn, cùng phát 1 ánh sáng mà rất sáng tỏ. Như vậy 1 ánh sáng dựa vào 2 đèn chuyển, trong đây đạo lý cũng như vậy.

Hỏi: Nơi mỗi một căn môn nhiều cảnh giới khác nhau đồng thời hiện ra trước, đối với nhiều cảnh này có nhiều thức lần lượt khởi lên hay đồng thời khởi?

Đáp: Chỉ có 1 thức mà nhiều hành tướng đồng thời khởi. Cũng giống như cách ăn đoàn thực hợp với thiệt căn. Phải biết rằng thân và thiệt 2 thức thường đồng thời khởi. Lại nữa âm thanh vì gián đoạn nên không từ nơi khác lần lượt sinh khởi liên tục đi đến phương khác. Nhưng thí dụ như ngọn đèn đặt tại một chỗ này, có thể trong một lúc tùy theo thế lực của nó khắp phát ánh sáng thì âm thanh phát ra khắp, lý cũng như vậy.

Hỏi: Vì sao có vật chướng ngại ở gần thì âm thanh nghe không rõ?

Đáp: Vì âm thanh là hữu đối, nơi chướng ngại khe hở nhỏ nên sinh không rõ ràng.

Hỏi: Trong 6 thức, bao nhiêu có phân biệt?

Đáp: Chỉ có 1 ý thức, do 3 phân biệt nên có phân biệt.

Ba phân biệt, là tự tính phân biệt, tùy niệm phân biệt, và kế đạc phân biệt. Tự tính phân biệt, là trong hiện tại thụ các hành, tự tướng phân biệt. Tùy niệm phân biệt, là xưa từng thụ các hành bây giờ nhớ lại phân biệt. Kế đạc phân biệt, là những việc không hiện thấy trong quá khứ vị lai hiện tại, do suy tưởng phân biệt. Lại có 7 thứ phân biệt, là đối với sở duyên nhiệm vận phân biệt, hữu tướng phân biệt, vô tướng phân biệt, tầm cầu phân biệt, tí sát phân biệt, nhiễm ô phân biệt, và bất nhiễm ô phân biệt. Phân biệt đầu tiên là 5 thức thân như tướng sở duyên phân biệt không khác, vì nơi tự cảnh giới mà vận chuyển. Hữu tướng phân biệt, là tự tính và tùy niệm 2 thứ phân biệt, vì nhận lấy các tướng của quá khứ hiện tại. Vô tướng phân biệt, là phân biệt mong cầu cảnh vị lai. Ngoài ra các phân biệt khác đều dùng kế đạc phân biệt làm tự tính. Sở dĩ vì sao? Vì so đo tư duy nên có các thứ phân biệt khi tìm cầu, khi dò xét, có khi nhiễm ô, có khi không nhiễm ô.

Hỏi: Nếu liễu biệt sắc v.v… nên gọi là thức, vì sao chỉ gọi tên nhãn thức v.v… không gọi là sắc thức v.v..?

Đáp: Bởi vì dựa vào nhãn v.v… 5 thứ giải thích mà thành đạo lý, chẳng phải dựa nơi sắc v.v… Bởi vì sao? Vì thức ở trong mắt nên gọi là nhãn thức, dựa nơi nhãn xứ mà thức được sinh. Lại nữa do có mắt mà có được thức. Sở dĩ vì sao? Nếu có nhãn căn chắc chắn sinh nhãn thức. Người không mù lòa thì cho đến trong tối cũng có khả năng thấy, chứ không phải do có sắc là nhất định sinh nhãn thức, vì người mù lòa thì không thể nào thấy được. Lại nữa, mắt phát sinh thức nên gọi nhãn thức. Do mắt biến đổi khác thì thức cũng biến đổi khác. Sắc tuy không biến đổi mà thức thì có biến đổi. Như bệnh camạt-la làm tổn hại nhãn căn, đối với các sắc xanh v.v… đều thấy ra màu vàng. Lại nữa, thức thuộc về mắt nên gọi nhãn thức, do chủng tử của thức theo đuổi nơi mắt mà được sinh. Lại nữa, cái thức trợ giúp cho mắt nên gọi nhãn thức, làm cho nó thành tổn ích. Sở dĩ vì sao? Do căn hợp với thức có chỗ lãnh thụ khiến căn tổn ích, chứ không phải cảnh giới. Lại nữa, như thức của mắt nên gọi nhãn thức, điều này tất cả hữu tình đều như vậy, còn với sắc thì không như vậy, vì không quyết định. Nhãn thức đã vậy các thức khác cũng thế.

Hỏi: Là mắt thấy sắc, hay là thức?

Đáp: Chẳng phải mắt thấy sắc cũng chẳng phải thức. Bởi vì tất cả pháp không tác dụng. Do có hòa hợp, gỉa lập là thấy. Lại do 6 tướng. Mắt trong việc thấy sắc là tối thắng chứ không phải thức v.v…cho nên nói là mắt có thể thấy các sắc. Những gì là 6? 1. Do sinh nhân, mắt có thể sinh sự thấy kia. 2. Do y xứ, vì cái thấy là dựa vào mắt. 3. Do không động chuyển, vì mắt là luôn luôn một loại. 4. Do tự tại chuyển, không đợi duyên hợp, mỗi niệm mỗi niệm sinh. 5. Do đoan nghiêm. Chuyển do đây trang nghiêm thân sở y. 6. Do Thánh giáo, như trong kinh nói mắt có thể thấy sắc. Như vậy 6 thứ tướng mạo đã nói, ở trong thức v.v… không thể có được. Thức động chuyển, là phải biết nhiều thứ sai biệt sinh khởi.

Vì sao vô vi lập nơi giới, xứ không lập nơi uẩn? Vì không có nghĩa uẩn. Sở dĩ vì sao? Sắc v.v…các pháp có quá khứ vị lai các thứ sai biệt tổng lược tích tụ gọi là uẩn. Nghĩa chứa nhóm là nghĩa của uẩn. Pháp thường trụ thì không có nghĩa này. Cho nên vô vi không gồm trong uẩn. Vì sao pháp như vậy dùng uẩn, giới, xứ môn sai biệt mà nói? Vì muốn khiến các hữu tình được hóa độ phát sinh thiện xảo đối với các pháp môn rộng cũng như giản lược. Sở dĩ vì sao? Trong uẩn môn, lược nói sắc thức. Trong giới, xứ môn, tùy chỗ thích ứng rộng nói thành 17. Lại nữa, nơi uẩn môn rộng nói thụ v.v…, nơi giới, xứ môn lược nói là 1 pháp giới pháp xứ. Lại nữa trong uẩn môn chỉ nói kiến lập tướng của pháp hữu vi. Giới môn rộng nói kiến lập năng thủ, sở thủ, và thể tính của thủ. Xứ môn chỉ nói kiến lập năng thủ, sở thủ. Do đây chỉ hiển thị thủ sinh môn.

Đã nói xong nghĩa của bàng thừa, nay sẽ giải thích bản văn.

Hỏi: Như trong kinh nói nhãn và nhãn giới. Vậy nhãn cũng là nhãn giới ư, hay nhãn giới cũng là nhãn ư?

Đáp: Cũng có nhãn chẳng phải nhãn giới, đó là tối hậu nhãn của A-la-hán. Cũng có nhãn giới chẳng phải nhãn, đó là trường hợp ở trong trứng, trong vỏ khi là yết-la-lam, là át-bộ-đà, là bế-thi, ở trong bụng mẹ hoặc không có mắt, có nhưng đã mất, nếu sinh Vô sắc dị sinh có nhãn nhân. Cũng có nhãn cũng là nhãn giới, là ở các vị khác. Cũng có không nhãn không nhãn giới, là trường hợp đã nhập vô dư Niết-bàn giới và các thánh giả sinh Vô sắc giới. Giống như nhãn với nhãn giới, nhĩ, tỹ, thiệt, thân với nhĩ giới v.v… cũng như vậy, tùy chỗ thích ứng phải biết. Tối hậu nhãn của A-la-hán, nghĩa là sát-na sau cùng khi nhập Niết-bàn. Lúc bấy giờ nhãn chẳng phải nhãn giới vì chẳng phải nhân của các nhãn khác. Nói dị sinh ở Vô sắc giới có nhãn nhân, nghĩa là từ nơi kia thoái đọa sẽ sinh cõi Sắc giới, bởi vì thức A-lại-da duy trì chủng tử nhãn chắc chắn sẽ sinh nhãn. Chúng thánh sinh nơi kia không thoái hoàn cho nên không có nhãn giới. Có thân giới không thân, nghĩa là chỉ các dị sinh sinh Vô sắc giới, vì chúng chỉ có thân nhân. Chẳng phải ở trong trứng, trong vỏ v.v… chúng ắt có thân cho nên nếu thân hoại diệt thì thọ mạng cũng không.

Hỏi: Nếu có ý, cũng là ý giới ư? Nếu có ý giới, cũng là ý ư?

Đáp: Cũng có ý chẳng phải ý giới. Đó là tối hậu ý của A-la-hán. Cũng có ý giới chẳng phải ý. Đó là người ở diệt định có ý nhân. Hoặc có ý cũng là ý giới. Đó là ở các vị khác. Hoặc cũng có không ý không ý giới. Đó là trường hợp đã nhập vô dư Niết-bàn giới, chỉ có ý giới mà chẳng phải ý. Sở dĩ không thủ nhập vô tưởng định bởi chúng có nhiễm ô ý.

Hỏi: Nếu sinh trưởng địa ấy, tức dùng con mắt của địa ấy trở lại thấy sắc của địa ấy chăng?

Đáp: Có trường hợp dùng con mắt của địa ấy trở lại thấy sắc của địa ấy. Hoặc lại các địa khác. Nghĩa là sinh trưởng Dục giới dùng con mắt của Dục hành trở lại thấy sắc của Dục hành. Hoặc dùng con mắt của Sắc hành thấy sắc của Sắc hành. Hoặc dùng con mắt của địa trên thấy sắc của địa dưới. Giống như dùng mắt đối sắc, dùng tai đối âm thanh cũng như vậy. Giống như sinh trưởng Dục giới, sinh trưởng Sắc giới cũng như vậy. Sinh, nghĩa là lúc mới thụ sinh. Trưởng, nghĩa là sau tăng trưởng. Nếu sinh trưởng Dục giới tức dùng mũi, lưỡi, thân của Dục hành trở lại ngửi, nếm, cảm giác mùi, vị, và sự chạm xúc của Dục hành. Nếu sinh trưởng Sắc giới tức dùng thân của Sắc hành trở lại cảm giác sự chạm xúc của tự địa. Cõi ấy tự tính không có mùi, vị, lìa tham của cách ăn đoàn thực. Do đạo lý này cũng không có 2 thức là tỹ thức và thiệt thức. Nếu sinh trưởng Dục giới tức dùng ý của Dục hành hiểu pháp 3 cõi và pháp vô lậu. Giống như sinh trưởng Dục giới, sinh trưởng Sắc giới cũng như vậy. Nếu sinh trưởng Vô sắc giới dùng ý của Vô sắc hành hiểu pháp tự địa và pháp vô lậu của Vô sắc hành. Nếu dùng ý vô lậu hiểu pháp 3 cõi và pháp vô lậu, ý của Vô sắc hành hiểu pháp tự địa và pháp vô lậu của Vô sắc hành, nghĩa là căn cứ vào Thánh đệ tử nói. Nếu ngoài ra các dị sinh thì chỉ hiểu pháp của tự địa. Nếu trụ pháp này thì hoặc do sức nghe và huân tập trước, và cũng duyên địa trên mà phát khởi.

Hỏi: Vì sao các uẩn theo thứ tự như vậy?

Đáp: Là vì do thức trụ. Nghĩa là 4 thức trụ và thức. Lại nữa trước là sở y của sau. Như y vào sắc tướng có lãnh thụ, y vào lãnh thụ mà hiểu biết, dựa vào hiểu biết mà tư tác, do tư tác mà hiểu biết phân biệt. Y vào sắc tướng có lãnh thụ, nghĩa là tùy thuận lạc thụ v.v… căn cảnh 2 sức mà lạc thụ sinh. Y vào lãnh thụ mà hiểu biết, nghĩa là tùy theo chỗ thụ nhận các tướng. Y vào hiểu biết mà tư tác, nghĩa là tùy theo chỗ tưởng mà tạo tác các nghiệp. Y vào tư tác mà phân biệt hiểu biết, nghĩa là tùy chỗ tác nghiệp trong các cảnh giới và trong các thú khác mà thức chuyển biến. Lại nữa do nhiễm ô thanh tịnh, nghĩa là nếu y nơi đây mà khởi nhiễm tịnh, nếu do lãnh thụ thủ tướng tạo tác nên nhiễm ô thanh tịnh, hoặc sở nhiễm ô và sở thanh tịnh. Do lý này nên nói thứ tự của uẩn. Nếu y nơi đây khởi nhiễm tịnh, nghĩa là y vào có thân căn. Nếu do lãnh thụ, nghĩa là do có các thụ có nhiễm không nhiễm v.v…như thứ tự nhiễm ô thanh tịnh ấy. Nếu do thủ tướng tạo tác, nghĩa là do như lý, không như lý chuyển nên có thứ tự nhiễm ô thanh tịnh. Như sở nhiễm ô và sở thanh tịnh, nghĩa là tâm có sinh thô trọng và không thô trọng.

Vì sao các giới theo thứ tự như vậy? Do tùy theo thế sự sai biệt chuyển. Thế sự sai biệt chuyển như thế nào? Là người đời lúc mới gặp nhau lần đầu, gặp nhau rồi thăm Hỏi nhau, thăm Hỏi nhau rồi tắm gội, xức nước hoa đeo tràng hoa, rồi thết đãi ăn uống, rồi thị nữ hầu hạ nghỉ ngơi. Nhiên hậu ý giới phân biệt các xứ, theo thứ tự nội giới nên kiến lập ngoại giới, tùy theo thứ tự này kiến lập thức giới. Giống như thứ tự của giới, thứ tự của xứ cũng vậy.

Hỏi: Nghĩa của uẩn thế nào?

Đáp: Các sở hữu sắc hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc kém hoặc hơn, hoặc xa hoặc gần, tất cả chúng lược gọi là một sắc uẩn do nghĩa chứa nhóm như chứa nhóm của cải. Giống như vậy cho đến thức uẩn, phải biết y chỉ vào 11 thứ. Vì là chỗ y chỉ của ái nên trong sắc pháp v.v…kiến lập quá khứ v.v… các sai biệt. Mười một thứ ái là: cố luyến ái, hy vọng ái, chấp trước ái, nội ngã ái, cảnh giới ái, dục ái, định ái, ác hành khổ ái, diệu hành lạc ái, viễn ái, và cận ái. Do cảnh sở duyên của ái như vậy nên theo thứ tự lập quá khứ v.v… các thứ sai biệt. Lại nữa có sai biệt gọi là đã sinh chưa sinh sai biệt, năng thủ sở thủ sai biệt, nội môn ngoại môn sai biệt, nhiễm không nhiễm sai biệt, gần xa sai biệt. Theo chỗ thích ứng đối với sắc v.v… các pháp kiến lập quá khứ v.v… các sai biệt. Đã sinh, là quá khứ hiện tại. Chưa sinh, là vị lai. Ngoại môn, là bất định địa. Nội môn, là các định địa. Các câu khác dễ hiểu không phải phân biệt nữa. Lại nữa khổ tướng rộng lớn nên gọi là uẩn. Như đại tài uẩn y chỉ sắc v.v… phát khởi sinh v.v… quảng đại khổ. Như kinh nói: Như vậy thuần đại các khổ uẩn nhóm họp. Lại nữa gánh vác tạp nhiễm nên gọi là uẩn như vai gánh. Gánh vác tạp nhiễm, nghĩa là các pháp tạp nhiễm phiền não v.v… dựa vào sắc v.v… Ví như người đời, một phần của thân có thể gánh vác, một phần đó tức là vai, là uẩn. Sắc v.v…cũng vậy, có thể gánh cái gánh tạp nhiễm, nên gọi là uẩn.

Hỏi: Nghĩa của giới thế nào?

Đáp: Là nghĩa chủng tử của tất cả pháp. Nghĩa là chủng tử các pháp y chỉ trong thức A-lại-da gọi là giới. Giới là nghĩa của nhân. Lại có thể duy trì nghĩa của tự tướng là nghĩa của giới. Lại có thể duy trì nghĩa của tính nhân quả là nghĩa của giới. Có thể duy trì tính nhân quả, nghĩa là trong 18 giới căn cảnh các giới và 6 thức giới, theo thứ tự đó lại gìn giữ tất cả. Nghĩa sai biệt của pháp là nghĩa của giới. Gìn giữ tất cả pháp sai biệt, nghĩa là các kinh nói địa v.v…các giới và các giới khác, tùy chỗ thích ứng đều gồm trong 18 giới.

Hỏi: Nghĩa của xứ thế nào?

Đáp: Nghĩa của thức sinh trưởng môn là nghĩa của xứ. Phải biết nghĩa của chủng tử gồm nghĩa sai biệt của tất cả pháp, cũng là nghĩa của xứ.

Lại nữa, như Phật nói: Sắc như bọt nước tụ, thụ như bong bóng, tưởng như sóng nắng, hành như cây chuối, thức như ảo hóa.

Hỏi: Vì nghĩa gì mà sắc như bọt nước tụ, cho đến thức như ảo hóa?

Đáp: Vì vô ngã, vì thanh tịnh, vì thiểu vị, vì không kiên thật. Nghĩa là chẳng phải có nghĩa xa lìa hư vọng không chắc thật kinh ấy nói các cú nghĩa. Lại nữa để đối trị ngã, tịnh, lạc, thường 4 điên đảo nên theo thứ tự nói vô ngã v.v… các câu sai biệt.

HẾT QUYỂN 2