TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch
QUYỂN 58
Bất định có bốn món: hối, miên, tầm, tứ; vì các tâm sở này đối với thiện ác v.v… đều bất định, chẳng phải như xúc v.v… quyết định đầy khắp tâm, chẳng phải như dục v.v… quyết định đầy khắp địa, nên gọi là bất định.
1- Ác tác: nghĩa là những việc thiện ác đã tạo và chưa tạo, hoặc nhiễm hay chẳng nhiễm ấm ức đuổi theo làm thể, hay chướng xa-ma-tha làm nghiệp. Thức Luận gọi là hối, đây là nơi quả tạm lập tên nhân, trước tạo nghiệp ác sau mới ăn năn.
2- Thùy miên: nghĩa là tâm không được sáng suốt làm thể, hay chướng tỳ-bát-xá-na làm nghiệp.
3- Tầm: nghĩa là hoặc có khi do tư tạo tác pháp, hoặc có khi do tuệ tìm cầu pháp, chạy theo ngoại cảnh khiến tâm thô chuyển làm thể, chướng sự thanh tịnh bên trong của tâm làm nghiệp.
4- Tứ: nghĩa là từ chủng tử của thức a-lại-da sinh ra mọi thứ cùng tâm chuyển động tương ưng, đối với pháp được suy tìm chạy theo ngoại cảnh khiến tâm tế chuyển làm thể; chướng nội tịnh của tâm làm nghiệp.
Giải thích: Tầm là tìm tòi cạn, tứ là suy xét sâu. Tầm là nói lời thô tháo, tứ là nói lời vi tế. Thức Luận nói:
“Bất định, vì đối với việc thiện ác v.v… đều bất định”. Giải thích: một là đối với giới, tính, thức v.v… đều bất định; hai là lược bỏ các tâm sở thiện như tín v.v… và các tâm sở căn bản phiền não như tham v.v… Tâm sở bất định này gồm cả ba tính, vì tính bất định. Căn bản phiền não và tùy phiền não trên gây nên tội lỗi rất sâu, mở toang con đường ác, chướng đạo bồ-đề. Như luận Du-già nói: “Phiền não sai biệt là có nhiều loại khác nhau cần nên biết, đó là kết, phược, tùy miên, tùy phiền não, triền, bộc lưu, ách, thủ, hệ, cái, chu ngột, cấu, thường hại, tiễn, sở hữu, căn, ác hạnh, lậu, quỹ, thiêu, não, hữu tranh, hỏa, xí nhiên, trù lâm, câu ngại. Những loại phiền não sai biệt ấy, phải biết ở trong hay hòa hợp với khổ nên gọi là kết; không cho ưa thích thiện hạnh nên gọi là phược; chạy theo chủng tử làm tăng trưởng thế gian nên gọi là tùy miên; làm điên đảo nhiễm ô tâm gọi là tùy phiền não; luôn khởi hiện hành nên gọi là triền; sâu khó vượt qua và dễ trôi theo dòng nên gọi là bộc lưu; phương tiện tà hạnh nên gọi là ách; luôn chấp lấy tự thân nối tiếp không dứt nên gọi là thủ; khó thể giải thoát nên gọi là hệ; che nghĩa chân thật nên gọi là cái; phá hoại ruộng tốt nên gọi là chu ngột; tự tính nhiễm ô nên gọi là cấu; thường hay làm hại nên gọi là thường hại; tướng chẳng yên tĩnh hay đi xa nên gọi là tiễn; tùy thuộc và nương gá sự vật nên gọi là sở hữu; nơi nương tựa của bất thiện nên gọi là căn; tự tính tà hạnh nên gọi là ác hạnh; làm cho tâm lưu chuyển nên gọi là lậu; khiến cho thọ dụng không nhàm chán nên gọi là quỹ; khiến cho sự tham dục thường thiếu thốn nên gọi là thiêu; hay làm suy tổn nên gọi là não; hay làm cho đấu tranh kiện tụng nên gọi là hữu tranh; thiêu đốt các khúc cũi thiện căn được chứa nhóm gọi là hỏa; như bệnh sốt cao nên gọi là xí nhiên; tập hợp các cây to tự thân nên gọi là trù lâm; hay khiến chúng sinh say đắm dục trần hấp dẫn, hay chướng sự chứng đắc pháp xuất thế nên gọi là câu ngại.
Các phiền não sai biệt này cho đến phiền não quá hoạn nên biết các phiền não có rất nhiều tai họa, nghĩa là lúc phiền não khởi, trước tiên não loạn tâm, sau đó phát khởi điên đảo nơi cảnh được duyên khiến các tùy miên đều được kiên cố, khiến các hành đẳng lưu chuyển đổi tương tục, hay làm hại mình, hay làm hại người, hay làm hại cả hai; tạo ra tội lỗi hiện tại, vị lai, sinh cả hai tội; khiến cho thân tâm buồn khổ, hay đưa đến các nỗi khổ lớn, hay khiến xa lìa niềm vui niết-bàn, hay khiến lui sụt các thiện pháp thù thắng, hay làm cho của cải suy tổn tán thất, hay khiến vào chúng không được vô úy, sợ hãi không còn uy thế, hay khiến tiếng xấu đồn đại khắp nơi, thường bị người trí quở trách, khiến lúc lâm chung buồn rầu hối hận, khiến thân hoại rồi phải đọa vào đường ác sinh trong na-lạc-ca, khiến chẳng chứng đắc lợi ích của thắng nghĩa chính mình. Những tội lỗi như thế nhiều vô lượng vô biên.
Những phiền não trên sinh các tai họa đều dấy khởi từ một niệm vô minh đầu ban. Thế nào là vô minh ? Vì chẳng biết tiền cảnh vốn không nên vọng sinh đối đãi; chỉ là tự tâm phân biệt. Bởi gió phẫn hận thổi lửa tâm thức, tự thiêu tự hại mà chẳng hay biết, chẳng rõ duy tâm đệ nhất nghĩa đế nên gọi là vô minh si ám trói buộc uổng sinh luống tử.
Luận Đại Trí Độ ghi: “Lại nữa, tính của tất cả pháp đều không, chẳng thật có, nhân duyên làm ông sân hận cũng là hư dối không thật, tại sao ông đem việc hư dối để sân giận chửi mang não hại cho đến đoạn mạng người. Do tạo tội nghiệp nặng nề này nên rơi vào ba đường ác chịu vô lượng khổ,ông chớ nên đem việc hư dối không thật để tạo tội lớn. Như trong núi kia có một ngôi chùa Phật, trong chùa có một căn phòng quỉ hay xuất hiện quấy phá đạo nhân. Các đạo nhân bỏ phòng không dám ở. Một hôm có khách tăng xin tá túc, ông Duy-na sắp xếp cho khách tăng ở phòng ấy, nói rằng: Trong phòng này có quỉ thần ưa quấy rối người, ngài có thể ở được không ? Khách tăng tự cho mình có năng lực đa văn, trì giới nên nói: Tiểu quỉ làm gì được tôi, tôi có thể hàng phục nó.
Khách tăng liền vào ở trong phòng ấy. Tối hôm đó có vị tăng đến xin ở trọ, ông Duy-na cũng cho ở trong phòng ấy và nói trong phòng có quỉ não hại người. Khách tăng cũng nói tiểu quỉ làm gì được tôi, tôi sẽ hàng phục nó. Vị tăng vào trước đóng cửa ngồi chờ quỉ, vị tăng đến sau đẩy cửa muốn vào. Vị tăng vào trước tưởng là quỉ đến nên chẳng mở cửa, vị tăng đến sau cực lực đẩy cửa. Vị tăng bên trong dùng sức chống lại. Tăng bên ngoài thắng thế đẩy cửa vào được, tăng bên trong liền đánh, tăng bên ngoài đánh lại kịch liệt. Đến sáng hôm sau mới nhận ra là đồng học cũ, họ đều xấu hổ xin lỗi nhau. Mọi người trong chùa chê cười họ. Chúng sinh cũng thế, năm chúng vô ngã, vô nhân, không chấp tướng cho đến không đấu tranh; nếu mổ xẻ thân chỉ là xương thịt không nhân, không ngã. Thế nên Bồ-tát bảo chúng sinh: Ông chớ nên ở trong “căn bản không” đấu tranh tạo tội; do đấu tranh nên thân người còn không được huống chi gặp được Phật”.
Lại nói: “Tất cả phiền não tuy là nhân duyên của nghiệp quá khứ, vô minh là căn bản, cho đến nếu biết nhân duyên của nghiệp vô minh một đời thì có thể biết nhân duyên ức vạn đời. Ví như lửa hiện tại nóng bức, lửa quá khứ, vị lai cũng như thế. Lại nữa, Bồ-tát tìm thể của vô minh là minh, nghĩa là thật tướng của các pháp gọi là thật tế, quán các pháp như huyễn, như hóa; vì bởi chúng sinh điên đảo nên khởi các phiền não tạo ác nghiệp bị xoay vần trong năm đường chịu khổ sinh tử, như con tằm nhả tơ tự trói buộc sa vào nước sôi lửa đốt. Phàm phu chúng sinh cũng như thế, lúc mới sinh chưa có các phiền não, sau đó tự sinh các phiền não tham dục, sân khuể v.v… Bởi nhân duyên phiền não này che lấp trí tuệ chân thật nên chuyển thân vào địa ngục lửa thiêu, nước sôi. Bồ-tát biết pháp ấy gốc ngọn đều không, chỉ vì chúng sinh mê lầm điên đảo nên chịu các khổ như thế. Đối với chúng sinh này Bồ-tát khởi tâm đại bi, muốn phá trừ điên đảo ấy nên cầu thật pháp, thực hành bát-nhã ba-la-mật thông đạt thật tế, đầy đủ nhân duyên giáo hóa chúng sinh khiến họ trụ thật tế, vì thế Bồ-tát trụ thật tế không có lỗi.
Giải thích:
Nếu rõ nghiệp vô minh đời này là tâm thì có thể thông đạt tất cả nghiệp thiện ác trong quá khứ, vị lai đều là tự tâm, như một ngọn lửa nóng thì tất cả ngọn lửa đều nóng, nếu đã thật biết thì không để lửa liếm vào tay vì sợ cháy tay. Nếu như thật biết một trần một niệm hiện tại là tự tâm thì chẳng còn cố khởi tâm tham đắm tiền cảnh, vì sợ mất tông. Cho nên luận Bảo Tạng nói: “Tất cả như huyễn, huyễn này chẳng thật, biết huyễn là huyễn, giữ chân gìn nhất, như thế thì đèn trí thường chiếu, biển nghiệp tự khô, cứu cánh trụ nơi thật tế chân duy thức tính không lỗi lầm. Trong thật tế chẳng thấy có một pháp hoặc sinh, hoặc diệt, hoặc hợp, hoặc tan”.
Do đó kinh Tịch Điệu Âm Sở Vấn ghi: “Thiên tử Tịch Điệu Âm thưa với ngài Văn-thù-sư-lợi:
– Vì có phiền não nên điều phục hay vì không phiền não nên điều phục ?
Ngài Văn-thù-sư-lợi đáp:
– Này thiên tử, ví như người nằm mộng thấy bị rắn độc cắn rất đau đớn, khi ấy liền được uống thuốc giải độc nên độc khí tiêu trừ. Này thiên tử, ý ông thế nào ? Người ấy thật có bị rắn cắn chăng ?
– Dạ không.
– Độc khí kia thật có tiêu trừ chăng ?
– Chẳng thật bị rắn cắn thì tiêu trừ cũng chẳng thật.
– Này thiên tử, tất cả hiền Thánh điều phục cũng như thế. Này thiên tử, ông hỏi có phiền não nên điều phục hay không có phiền não nên điều phục. Này thiên tử, như ngã và vô ngã, có phiền não và không có phiền não cũng lại như thế, cho đến tất cả pháp vô ngã vì không có chủ tể; tất cả pháp không có chủ tể, vì đồng với hư không; tất cả pháp không đến, vì không có chỗ nương tựa; tất cả pháp không đi, vì không có nơi chốn; tất cả pháp không trụ, vì không có chỗ an lập; tất cả pháp không an lập, vì sinh là diệt; tất cả pháp vô vi, vì vô lậu; tất cả pháp không thọ vì rốt ráo điều phục”.
Kinh Đại Trang Nghiêm Pháp Môn ghi: “Văn-thù-sư-lợi thấy đại chúng không còn tâm ái nhiễm Kim sắc Nữ, ngài hỏi Kim sắc Nữ:
– Hôm nay ngươi gởi phiền não ở đâu mà các vương tử cho đến cư sĩ v.v… không sinh tâm ái nhiễm ?
– Tất cả phiền não và chúng sinh phiền não đều an trụ nơi bờ trí tuệ giải thoát. Trong pháp giới bình đẳng như như, các phiền não chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng trụ”.
Luận Trung Quán có kệ:
Pháp nhiễm, người nhiễm, một
Là một làm sao hợp
Pháp nhiễm, người nhiễm, khác
Là khác làm sao hợp ?
Người xưa giải thích: Phiền não là năng nhiễm, chúng sinh là sở nhiễm, nhất thì năng sở chẳng thành, dị thì giống nước với lửa, đều không có nghĩa hợp. Chỉ Quán nói: “Nếu một niệm phiền não tâm khởi đủ mười pháp giới, trăm pháp chẳng ngại nhau, tuy nhiều mà chẳng có, tuy một mà chẳng không, nhiều mà chẳng tích tụ, một mà chẳng tan rả, nhiều mà chẳng khác, một mà chẳng đồng, nhiều là một, một là nhiều. Cũng như đèn mới thắp với bóng tối ở một chỗ thì sáng tối chẳng chướng ngại nhau, cũng chẳng phá hoại nhau. Như vậy biết rõ phiền não tính không thì bốn dòng nước xiết chỉ có mặt trời chính pháp có thể làm cạn, bảy ngọn đồi ngã mạn chỉ nhờ gió trí tuệ bình đẳng xô ngã. Năng hại sở hại đều mất, trói mình trói người cùng mở, gặp duyên như nước trên hoa sen, trải qua việc như gió trong hư không. Nếu lúc nào cũng sống trong Tông Cảnh sẽ thấy muôn pháp như hư không, do sinh phân biệt danh sắc liền hiện, chẳng khởi phân biệt danh sắc rỗng không; nếu hướng về tính không thì thiện ác bình đẳng. Như luận Đại Trí Độ nói: “Ví như dẹp bỏ cung điện và nhà nhỏ, như đốt chiên-đàn và gỗ tạp nhưng trong hư không chẳng có sắc khác biệt, các pháp tát-bà-nhã (nhất thiết trí) v.v… tìm thật tướng của nó đều như thế”. Cho nên Tịnh Danh Sớ nói: “Chỉ trừ bệnh chứ chẳng trừ pháp”, đây là nói về sự lấy bỏ.
Có sư giải: như người bệnh mắt thấy hoa đốm trong hư không, khi bệnh mắt hết thì không có hoa đốm để trừ. Chúng sinh cũng thế, vọng thấy các pháp nên chỉ trừ mê lầm hư dối; mê lầm hư dối đã diệt thì không có pháp để trừ. Đây là nghĩa vốn không có pháp, sao lại nói chẳng trừ pháp.
Ngày nay nói tất cả chúng sinh có đủ mười pháp giới, vì vô minh chẳng rõ được chỗ phát bệnh sinh. Nếu có trí tuệ vô ngại tự tại đều là Phật sự, như lửa là pháp thiêu đốt, nếu chạm vào lửa thì bị bỏng đau đớn, cẩn thận chẳng chạm vào tức là trừ bệnh, chẳng thể trừ lửa. Nếu trừ dẹp lửa thì mất đi công năng sưởi ấm, chiếu sáng, nấu nước; pháp mười hai nhân duyên thuộc tam thừa cũng thế. Đây có pháp lấy bỏ chẳng đồng nên dẹp trừ.
Lại lửa hay đốt cháy người, nhưng người có pháp thuật ra vào lửa không chướng ngại nên chẳng cần trừ lửa. Vì vậy tám muôn bốn nghìn phiền não phàm phu cho là khổ não, chư Phật, Bồ-tát cho là Phật sự, cũng như pháp trị bệnh mắt, bệnh mắt hết nhưng chẳng tổn hại con ngươi. Kinh nói: “Vì dứt trừ gốc bệnh mà chỉ dạy”. Đây xác định sự giáo hóa; gốc bệnh chính là một niệm vô minh chấp tướng, cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: “Ba cõi không pháp khác, chỉ là do tâm tạo”. Nay nói chỉ là một niệm vô minh chấp tướng là tâm tạo, là gốc bệnh của ba cõi sinh tử. Nếu biết vô minh chẳng khởi “thủ”, “hữu” là xong việc nên chẳng tạo cái mới, tức là đoạn trừ gốc bệnh. Thế nên biết một niệm tâm vừa là gốc bệnh, vừa là nguồn đạo; chấp thật thành trái, rõ không chẳng lỗi, ngộ trong sát-na, không có trước sau.
Đạo Thể Bất Nhị Ca của hòa thượng Chí Công ghi:
Chúng sinh chẳng hiểu tu đạo,
Liền muốn dẹp trừ phiền não
Chẳng biết phiền não vốn không
Dùng đạo để tìm kiếm đạo
Chính là một niệm tâm này
Cần gì chạy tìm chỗ khác ?
Đại đạo sáng rỡ trước mắt
Người ngu điên đảo chẳng biết
Phật tính thiên chân tự nhiên
Cũng không nhân duyên tu tạo.
Chẳng biết ba độc hư giả
Vọng chấp chìm đắm sinh tử
Xưa khi mê cho là muộn
Nay mới giác tỉnh chẳng sớm.
* Thứ ba là sắc pháp, sắc có 15 thứ:
1- Địa: có hai thứ: một nội, một ngoại.
Nội là năm căn nương gá trong thân như nhãn căn v.v… thuộc về cứng chắc, có tính chấp thọ; lại thêm tích tập như tóc, lông, móng, răng, da, thịt: gân, xương v.v … là thể đất bên trong; hình đoạn thọ dụng làm nghiệp.
Ngoại là năm cảnh nương gá ngoài thân như sắc v.v…, thuộc về cứng chắc, chẳng phải tính chấp thọ; lại thêm tích tập như gạch, đá, đồi, núi v.v… là thể đất bên ngoài; hình đoạn thọ dụng làm nghiệp, lại giữ gìn, vun bồi làm nghiệp.
2- Thủy: có hai thứ: một nội, một ngoại.
Nội là năm căn nương gá trong thân như nhãn căn v.v… thuộc về ẩm ướt, có tính chấp thọ; lại thêm tích tập như nước mũi, nước mắt, nước bọt, mồ hôi v.v… là thể nước bên trong; thấm nhuần, tụ tập, thọ dụng làm nghiệp.
Ngoại là năm cảnh nương gá ngoài thân như sắc v.v…, thuộc về ẩm ướt, chẳng phải tính chấp thọ; lại thêm tích tập như suối, nguồn, khe nước, ao đầm v.v… là thể nước bên ngoài; giữ gìn, thọ dụng, vun bồi làm nghiệp.
3- Hỏa: có hai thứ: một nội, một ngoại.
Nội là năm căn nương gá trong thân như nhãn căn v.v… thuộc về hơi ấm, có tính chấp thọ; lại có thêm tích tập như là hay làm cho hữu tình ấm áp toàn thân, làm tiêu hóa thức ăn làm thể lửa bên trong; thành thục, hòa hợp, thọ dụng làm nghiệp.
Ngoại là năm cảnh nương gá ngoài thân như sắc v.v… thuộc về ấm nóng, chẳng phải tính chấp thọ; lại có thêm tích tập như ngọn lửa trong xóm làng hoặc dùi cây cọ đá lấy lửa, đây là thể lửa bên ngoài; biến hoại, thọ dụng, đối trị, vun bồi làm nghiệp.
4- Phong: có hai thứ: một nội, một ngoại.
Nội là năm căn nương gá trong thân như nhãn căn v.v… thuộc về khinh động, có tính chấp thọ; lại có thêm tích tập như hơi thở lên xuống, ngang dọc, ra vào v.v… là thể gió bên trong; động tác sự, thọ dụng làm nghiệp.
Ngoại là năm cảnh nương gá ngoài thân như sắc v.v… thuộc về khinh động, chẳng phải tính chấp thọ; lại có thêm tích tập như phá hủy vách núi, xô ngã rừng cây v.v… Nó đã tan mất không nương tựa nên tĩnh. Muốn có gió thì phải phe phẩy quạt hoặc giũ tay áo; cái chẳng dao động ấy không duyên nên dứt, đây là thể gió bên ngoài; giữ gìn, thọ dụng, đối trị, vun bồi làm nghiệp.
5- Nhãn: nghĩa là sắc do bốn đại tạo ra từ sự chấp thọ của tất cả chủng tử thức a-lại-da làm cảnh giới, tịnh sắc do duyên sắc cảnh nương vào thức làm thể, thuộc về sắc uẩn, không thể thấy được và phải có đối tượng.
6- Nhĩ.
7- Tỷ.
8- Thiệt.
9- Thân: cũng như thế.
Sự sai biệt trong đây là mỗi căn đều hoạt động trong lĩnh vực riêng của nó.
10- Sắc: là đối tượng của mắt, sắc do bốn đại tạo ra mà nhãn thức duyên làm thể, thuộc về sắc uẩn, có thể thấy được và có đối đãi.
11- Thanh: là đối tượng của tai, âm thanh do bốn đại tạo ra mà nhĩ thức duyên làm thể, thuộc về sắc uẩn, không thể thấy và phải có đối đãi.
12- Hương: là đối tượng của mũi, vật do bốn đại tạo ra mà tỷ thức duyên làm thể, thuộc về sắc uẩn, không thể thấy và phải có đối đãi.
13- Vị: là đối tượng của lưỡi, vật do bốn đại tạo ra mà thiệt thức duyên làm thể, thuộc về sắc uẩn, không thể thấy và phải có đối đãi.
14- Xúc: là đối tượng của thân, vật có thể chạm vào do bốn đại tạo ra mà thân thức duyên làm thể, thuộc về sắc uẩn, không thể thấy và phải có đối đãi.
15- Pháp xứ thuộc về sắc: là đối tượng của ý vào mọi lúc, thuộc về sắc uẩn, không thể thấy và không có đối đãi.
Lại Bách pháp nói sắc có 11 thứ: năm căn và sáu cảnh.
Năm cảnh, luận A-tỳ-đạt-ma nói: “Lấy sự tạo sắc làm thể”. Một, năng tạo là bốn đại: địa, thủy, hỏa, phong; hai, sở tạo là bốn vi: sắc, hương, vị, xúc.
Sáu cảnh:
1- Sắc có 31 thứ:
– Hiển sắc có 13 thứ: xanh, vàng, đỏ, trắng, ánh sáng, bóng, sáng, tối, mây, khói, bụi, mù, hư không.
– Hình sắc có 10 thứ: dài, ngắn, vuông, tròn, thô, tế, cao, thấp, ngay, cong.
– Biểu sắc có tám thứ: lấy, bỏ, co, duỗi, đi, đứng, ngồi, nằm.
– Pháp sắc xứ có năm thứ: cực hướng sắc, cực lược sắc, định tự tại sở sinh sắc, thọ sở dẫn sắc, biến kế sở chấp sắc.
Sắc năm căn lấy năng tạo làm thể, sắc trong pháp xứ lấy cực hướng, cực lược làm thể. Bốn sắc biến kế sở chấp và thọ sở dẫn sắc v.v… chẳng phải là do sắc tạo, vì không có thể tính nên hư giả chẳng thật.
Trừ bốn sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng là thật; 27 thứ sắc còn lại là giả. Bốn thật sắc trên được lập ra, vì có hình tướng.
2- Thanh có 11 thứ:
1/ Nhân chấp thọ đại chủng thanh: Nhân là nghĩa mượn nhờ, tức là nhờ thức thứ tám chấp thọ âm thanh do bốn đại tạo ra, đó là âm thanh lưu chú trong huyết mạch, vì âm thanh do bốn đại hữu tình bên trong tạo ra đều là chấp thọ.
2/ Nhân chẳng chấp thọ đại chủng thanh: là âm thanh do bốn đại bên ngoài.
3/ Nhân chấp thọ, chẳng chấp thọ đại chủng thanh: như bốn đại bên ngoài trực tiếp tạo âm thanh, như cánh tay là bốn đại bên trong trực tiếp tạo âm thanh căn bản, bốn đại bên ngoài chỉ là trợ duyên để cùng tạo một âm thanh.
4/ Thế sở cộng thành thanh: lời dạy, sách vở, lẽ âm dương của thế gian v.v… gọi là cộng thành thanh, như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín …
5/ Thành sở dẫn thanh: là lời dạy từ thành sở tác trí của Như Lai.
6/ Khả ý thanh: âm thanh làm cho ưa thích.
7/ Bất khả ý thanh: âm thanh làm cho khó chịu.
8/ Câu tương vi thanh: âm thanh làm cho chẳng thích chẳng ghét.
9/ Biến kế sở chấp thanh: là lời dạy của ngoại đạo.
10/ Âm thanh thuộc Thánh giáo lượng.
11/ Âm thanh không thuộc Thánh giáo lượng.
3- Hương có sáu thứ:
1/ Thơm tho: nói theo tình chấp, tùy theo tự thức biến ra vừa ý mình mới gọi là hương thơm.
2/ Hôi thối.
3/ Bình thường: chẳng thơm, chẳng thối.
4/ Cùng sinh: trầm hương, chiên-đàn v.v… cùng khởi với chất liệu.
5/ Hòa hợp: các hương hợp thành một hương.
6/ Biến dị: lúc chưa chín không có thơm.
4- Vị có 12 thứ:
1/ Đắng.
2/ Chua.
3/ Ngọt.
4/ Cay.
5/ Mặn.
6/ Nhạt.
7/ Vừa ý.
8/ Chẳng vừa ý.
9/ Cùng trái: hai thứ trên trái nhau.
10/ Cùng sinh: cùng có với chất liệu.
11/ Hòa hợp: các vị tụ hội.
12/ Biến dị: sau khi chín vị sai khác.
5- Xúc có 26 thứ:
1/ Đất.
2/ Nước.
3/ Lửa.
4/ Gió.
5/ Trơn.
6/ Rít.
7/ Nhẹ.
8/ Nặng.
9/ Mềm.
10/ Hoãn.
11/ Gấp.
12/ Lạnh.
13/ Đói.
14/ Khát.
15/ No.
16/ Mạnh.
17/ Yếu.
18/ Bực bội.
19/ Ngứa.
20/ Dính.
21/ Bệnh.
22/ Già.
23/ Chết.
24/ Mệt mỏi.
25/ Nghỉ ngơi.
26/ Mạnh bạo.
Bốn thứ trước đất, nước, lửa, gió là thật; 22 thứ còn lại nương vào bốn đại sai biệt lập ra là giả.
Hỏi: Sắc pháp có mấy nghĩa ?
Đáp: Có bốn nghĩa. Bách pháp ghi: “Một là sắc mà thức nương gá, chỉ thuộc năm căn; hai là sắc mà thức duyên, chỉ thuộc sáu cảnh; ba là theo tổng tướng chất ngại gọi là sắc; bốn là theo biệt tướng đại khái có hai thứ: một là hữu đối, theo hữu tông là do cực vi tạo thành, Đại thừa cho là có cái năng tạo thì sắc mới thành; hai là vô đối, chẳng phải do cực vi thành tức là sắc thuộc về pháp xứ. Tất cả sắc pháp đất, nước, lửa, gió như trên nhân duyên dường như có, thể dụng đều rỗng. Tự thể tha thể đều tính không nên năng duyên sở duyên không có lực. Bởi tự do tha lập, tha do tự sinh, tha là tha của tự, tự là tự của tha, làm thành nhau, xâm đoạt nhau nên chẳng có tính cố định. Lại năng do sở thành, sở từ năng lập; năng không có lực thì vào sở, sở không có lực thì vào năng, lệ thuộc nhau, trợ giúp nhau đều tạm lập bày. Duyên hội dường như có, duyên tan trở về không, bởi chỉ có thức gìn giữ nhưng cuối cùng cũng trở về tính không. Như luận Đại Trí Độ ghi: “Lại nữa, nếu đất là thường là tướng (tính chất) rắn, lẽ ra không thể xã bỏ tướng ấy, như bơ, mật, sáp, nhựa cây có thể bỏ tướng rắn chắc sang tướng lỏng chảy, vàng bạc đồng sắt v.v… cũng thế; như nước là tướng lỏng, gặp lạnh sẽ chuyển sang tướng rắn, những thứ như thế đều là lìa bỏ tướng của nó. Lại nữa, các luận sư có thể từ có làm cho không, từ không làm cho có; các bậc hiền Thánh và người tọa thiền có thể biến đất thành nước, nước thành đất. Như vậy các pháp đều có thể chuyển tướng, vì không có cái thể nhất định nên tùy duyên biến hiện, không thể chấp có chấp không, trái với pháp tính.
* Thứ tư là bất tương ưng hành pháp có 24 món.
Bất tương ưng hành, tương ưng là nghĩa hòa thuận như tâm vương, tâm sở. Vì đắc v.v… chẳng phải năng duyên nên chẳng tương ưng với tâm và tâm sở, gọi là bất tương ưng; lại đắc v.v… chẳng phải nghĩa chất ngại nên chẳng tương ưng với sắc; lại vì có sinh diệt nên chẳng tương ưng với vô vi; vì chọn lọc bốn pháp nên gọi là bất tương ưng.
1- Đắc: nghĩa là thuộc về chủng tử của các hành, tự tại sinh khởi tương tục có tính sai biệt. Luận Tạp Tập nói: “Đối với pháp thiện, ác, vô ký, tạm lập ra hoặc tăng hoặc giảm được thành tựu”. Pháp thiện, ác, vô ký là hiển bày y xứ; hoặc tăng hoặc giảm là hiển bày tự thể. Vì sao ? Do có tăng nên nói là thành tựu thượng phẩm tín v.v.. do có giảm nên nói là thành tựu hạ phẩm tín v.v…
2- Vô tưởng định: nghĩa là đã lìa tịnh dục nhưng chưa lìa dục cõi trên, do khởi tưởng xuất ly nơi cõi trời Vô tưởng. Luận Tạp Tập nói: “Hiện hành của tâm và tâm sở chẳng diệt hẳn, tạm lập vô tưởng định”. Chẳng luôn vận hành thuộc về chuyển thức. Diệt nghĩa là những tâm và tâm sở được định tâm dẫn đến chẳng luôn hiện hành, chỉ tạm thời diệt.
3- Diệt tận định: nghĩa là đã lìa dục của Vô sở hữu xứ hoặc nhập vào định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Luận nói: “Dục vượt qua hữu đảnh làm dứt tưởng; tác ý làm đầu nên các tâm và tâm sở chẳng thường hiện hành và một phần tâm và tâm sở thường hiện hành đã diệt nên tạm lập diệt tận định, do đó không nói chưa lìa dục cõi trên là hiển bày lìa dục cõi hữu đỉnh, bậc a-la-hán cũng được định này. Một phần thường hiện hành thuộc về ý nhiễm ô.
4- Vô tưởng thiên: nghĩa là ở nơi này đắc vô tưởng định, đời sau sinh trong cõi trời Vô tưởng, tâm và tâm sở chẳng thường hiện hành đã diệt, gọi là vô tưởng dị thục.
5- Mạng căn: nghĩa là nơi chúng đồng phận do chiêu cảm nghiệp đời trước nên thời gian tồn lại có nhất định, gọi là thọ mạng.
Chúng đồng phận là các uẩn nối tiếp trong một đời.
Trụ thời quyết định là thời gian có giới hạn khiến chúng đồng phận thường được tồn tại; hoặc qua trăm năm, nghìn năm v.v… do nghiệp đưa đến công năng sai biệt. Lại theo nghiệp dẫn dắt, chủng tử thức thứ tám làm cho sắc tâm chẳng gián đoạn gọi là mạng căn.
6- Chúng đồng phận: nghĩa là các loài hữu tình có tự thể tương tợ nơi mỗi chủng loại.
7- Dị sinh tính: nghĩa là hiện hành của tự tướng phát khởi tính; lại do chủng tử hai chướng mà các loài sai biệt.
8- Sinh: nghĩa là nơi chúng đồng phận, các hành trước không nay có tính, tạm lập là sinh.
9- Dị: nghĩa là nơi chúng đồng phận, các hành nối tiếp biến đổi nên gọi là dị; cùng gọi là lão.
10- Trụ: nghĩa là nơi chúng đồng phận, các hành nối tiếp chẳng biến hoại.
11- Vô thường: nghĩa là nơi chúng đồng phận tự tướng của các hành sinh, sau đó hoại diệt.
12- Danh thân: nghĩa là gắn tên gọi lên tự tính của các pháp.
13- Cú thân: nghĩa là gắn tên gọi lên các pháp sai biệt.
14- Văn thân: nghĩa là chữ nghĩa nương vào văn cú.
15- Lưu chuyển: nghĩa là nơi nhân quả nối tiếp chẳng dứt.
16- Định dị: nghĩa là nơi nhân quả sai biệt.
17- Tương ưng: nghĩa là nhân quả của các hành tương xứng với tính.
18- Thế tốc: nghĩa là các hành có tính lưu chuyển nhanh chóng.
19- Thứ đệ: nghĩa là các hành có tính tuần tự lưu chuyển.
20- Thời: nghĩa là các hành có tính xoay vần sinh diệt mãi mãi.
21- Phương: nghĩa là các sắc hành đều có tính giới hạn.
22- Số: nghĩa là các hành v.v… đều có tính thể tướng lưu chuyển tương tục.
23- Hòa hợp: nghĩa là các hành có tính thuận duyên.
24- Chẳng hòa hợp: nghĩa là các hành có tính nghịch duyên.
Bất tương ưng hành pháp này tuy chẳng tương ưng với bốn vị tâm vương, tâm sở, sắc pháp và vô vi nhưng đều là phận vị của tâm, cũng chẳng lìa tâm biến và chẳng ngoài chân tính duy thức, vì căn cứ vào hành tướng phân biệt trong một giai đoạn nên như thế, như luận Quảng Bách ghi: “Cảnh giới do tự tâm phân biệt thấy được chính là tự tâm, chỉ theo các duyên các chủng tử hiện hành thành thục, tự tâm biến thành các thứ phận vị. Những gì tự tâm biến hiện đều không có thể tướng chân thật, tại sao cố đặt ra những pháp khác, chỉ cần tin nhận các pháp duy tâm”.
Hỏi: Diệu chỉ nhất tâm, nguồn chân tám thức trong môn hữu vi đã nói tâm vương, tâm sở; trong pháp vô vi làm thế nào chỉ bày ?
Đáp: Đây nói về pháp vô vi thứ năm, vì hữu vi, vô vi đều là nhất tâm biến khởi, và vì chẳng ngoài tính nhất tâm.
Hỏi: Hữu vi, vô vi có bao nhiêu thứ ? Làm thế nào phân biệt hành tướng của nó ?
Đáp: Hữu vi đại lược có ba thứ; vô vi đại lược có sáu thứ.
Trước tiên pháp hữu vi cực thành có ba thứ: Thức Luận nói: một là pháp hiện sở tri như sắc tâm v.v…; hai là pháp hiện thọ dụng như cái bình, chiếc áo v.v… Hai pháp này thế gian đều biết có, không nhờ nhân tố để làm thành; ba là pháp có tác dụng như mắt, tai v.v…, do nó có tác dụng nên chứng biết là có.
Giải thích:
– Như sắc, tâm v.v…, tức là thân năm thức, cảnh tha tâm trí, nghĩa là năm trần như sắc v.v… và tâm vương, tâm sở; đây là nói chung, chẳng riêng phân biệt đây là thức cảnh gì, biết bằng hiện lượng chẳng phải biết nhờ cảnh.
– Như cái bình, chiếc áo v.v…, đây tuy hiện thấy thọ dụng mà chẳng phải hiện lượng duyên được vì là pháp hư dối, chỉ là vật thọ dụng trong hiện đời.
Hỏi: Khi tâm duyên cái bình v.v… thuộc lượng nào ?
Đáp: Thuộc phi lượng, vì chẳng trực tiếp duyên tự thể của pháp, vì chẳng phải suy tính so sánh nên thuộc phi lượng, như mắt, tai v.v…, năm sắc căn này chẳng được hiện lượng, cũng chẳng phải người hiện đời biết được. Mắt, tai v.v… đều do nó có tác dụng phát ra thức nên so sánh biết là có.
Chứng biết là chứng thành đạo lý. Vì hiện lại thấy quả biết là có nhân, quả là tâm tâm sở pháp được sinh, tỷ lượng biết có các tịnh sắc căn, đây chẳng phải hiện lượng, tha tâm trí biết. Nhưng cảnh của thức thứ tám theo Đại thừa được hiện lượng, lúc Phật trí duyên cũng được hiện lượng, ngoại trừ đức Phật ra, các sư đều thừa nhận thế gian chẳng đạt được.
Kế đó y cứ các kinh luận có sáu loại vô vi. Bách Pháp nói:
1- Hư không vô vi: nghĩa là lìa tất cả các pháp sắc tâm chướng ngại, hiển bày chân lý. Hư không có ba:
a)- Thức biến hư không: là trên thức thứ sáu sinh tâm hiểu biết, biến khởi tướng phần hư không.
b)- Pháp tính hư không: là thể chân như xa lìa các chướng ngại nên gọi là hư không.
c)- Sự hư không: là ngoan không có thể thấy được.
2- Trạch diệt vô vi: Do trí vô lậu giản trạch diệt trừ các chướng nhiễm, hiển bày lý chân như.
3- Phi trạch diệt vô vi: Có pháp chẳng do sức giản trạch, khởi trí vô lậu giản trạch mà bản tính thanh tịnh, chính là tự tính thanh tịnh niết-bàn. Tức là bản tính chân như lìa các chướng nhiễm, chẳng do khởi trí đoạn hoặc, vì bản thể thanh tịnh.
4- Bất động vô vi: Đệ tứ thiền lìa bát nạn tam tai, chứng đắc bất động vô vi.
5- Tưởng thọ diệt vô vi: Từ đệ tứ thiền đến vô sở hữu xứ không còn xả thọ và cũng không còn thô tưởng, hiển được chân như, gọi là tưởng thọ diệt vô vi.
6- Chân như vô vi: Có hai: một là ước đối đắc danh, nghĩa là lý chân như đối sự được tên; hai là giản pháp, nghĩa là chân như xả biến kế lìa sinh diệt.
Xuất thể, nghĩa là Đại thừa căn cứ tướng phần tâm biến tạm nói có hư không, chẳng phải lìa ngoài tâm có hư không.
Nếu nói bản chất vô vi thì chẳng lìa thức biến mà có.
Hỏi: Nếu nói tướng phần thức biến là vô vi, tức là tướng của tướng trạng theo thức mà có thì làm sao thành vô vi ?
Đáp: Đây nói là thức biến tạm nói là vô vi, thật ra chẳng phải vô vi, vì vô vi là pháp thường trụ. Nay y cứ thể vô vi, chỉ nắm lấy tướng phần độc ảnh theo thức làm thể, vì trước sau giống như không có biến mà chỉ có một tướng đồng hư không nên tạm nói vô vi.
Sáu pháp vô vi này đối với Bồ-tát Địa tiền thức biến là hữu lậu; đối với Bồ-tát Địa thượng hậu đắc trí là vô lậu.
Nếu y cứ pháp tính xuất thế, năm pháp vô vi đều là chân như; ngoài thể chân như không riêng có sáu pháp vô vi, vì mỗi pháp đều y cứ thật đức chân như.
Hỏi: Tại sao Thánh giáo nói chân như là thật ?
Đáp: Nay nói có chẳng phải tên chân như thật có, nói có chính là để dẹp trừ ác kiến chấp không nên nói có tự thể. Đây là chân không diệu hữu nên nói phi không phi hữu.
Hỏi: Tại sao Thánh giáo nói chân không là không ?
Đáp: Nghĩa là phá chấp ngoài tâm thật có chân như cho nên nói là không, tức là không có tình chấp, chẳng phải không có chân không của chân như.
Lại Thức Luận nói: “Nhưng các khế kinh nói có pháp vô vi hư không v.v… đại khái có hai loại:
1- Y cứ thức biến tạm đặt ra có, nghĩa là từng nghe nói tên hư không v.v… theo sự phân biệt có tướng hư không v.v… Do thói quen suy tính nên lúc tâm sinh dường như tướng hư không vô vi v.v… hiện. Tướng hiện ra trước sau tương tự, không thay đổi tạm gọi là thường.
2- Y cứ pháp tính tạm đặt ra có, nghĩa là không vô ngã hiển bày chân như, hữu vô đều sai, đường ngôn ngữ tâm ý đều bặt, cùng tất cả pháp chẳng phải một, chẳng phải khác v.v… vì là chân lý của pháp nên gọi là pháp tính; vì lìa các chướng ngại nên gọi là hư không; do sức giản trạch diệt các tạp nhiễm, chứng đắc cứu cánh nên gọi là trạch diệt; chẳng do sức giản trạch, bản tính thanh tịnh, hoặc hiển bày thiếu duyên nên gọi là phi trạch diệt; dứt khổ thọ và lạc thọ nên gọi là bất động; tưởng thọ chẳng vận hành gọi là tưởng thọ diệt. Năm pháp này đều nương vào chân như tạm lập; chân như cũng là tên tạm đặt.
Giải thích:
1- Y cứ thức biến tạm đặt ra có, đây không có bản chất, chỉ do tâm biến hiện, như cực vi v.v… biến tợ tướng hư không v.v… đây đều cảnh được biến ra để duyên.
2- Y cứ chân như (pháp tính) cũng là tạm lập, những loại chân như được nói đến thể chỉ là một.
Năm pháp vô vi y cứ trên chân như tạm gọi là hư không v.v… nhưng thể của chân như chẳng phải như, chẳng phải chẳng như, cho nên tên chân như cũng là giả lập. Như trùng ăn dầu chẳng hợp với thể chất của nó, chỉ là một cách nói. Ví như có trùng tên là ăn dầu, mà thật ra nó không ăn dầu, tạm gọi là ăn dầu, chẳng hợp với thể chất của nó, chân như cũng thế. Luận Thích Ma-ha-diễn nói: “Pháp vô vi có bốn: một là chân như vô vi, hai là bản giác vô vi, ba là thỉ giác vô vi, bốn là hư không vô vi. Pháp hữu vi có năm: một là căn bản vô minh hữu vi, hai là sinh tướng hữu vi, ba là trụ tướng hữu vi, bốn là dị tướng hữu vi, năm là diệt tướng hữu vi”.
* Bốn pháp vô vi lấy gì làm thể và có những tác dụng gì ? Tụng nói:
Sở y có hai thứ
Đó là thông và biệt
Thể và dụng cũng thế
Theo giải thích quán sát.
Luận nói: Chân như vô vi có hai sở y:
1- Thông sở y: lấy bản pháp nhất tâm phi hữu vi, phi vô vi làm thể.
2- Biệt sở y: lấy lý pháp tịch tĩnh trong môn sinh diệt làm thể.
Bản giác vô vi có hai sở y:
1- Thông sở y: lấy bản pháp nhất tâm phi hữu vi, phi vô vi làm thể.
2- Biệt sở y: lấy bản trí tự nhiên trong môn sinh diệt làm thể.
Thỉ giác vô vi có hai sở y:
1- Thông sở y: lấy bản pháp nhất tâm phi hữu vi, phi vô vi làm thể.
2- Biệt sở y: lấy tùy tha khởi trí trong môn sinh diệt làm thể.
Hư không vô vi có hai sở y:
1- Thông sở y: lấy bản pháp nhất tâm phi hữu vi, phi vô vi làm thể.
2- Biệt sở y: lấy vô sở hữu sự trong môn sinh diệt làm thể.
Lại nữa, chân như vô vi có hai tác dụng:
1- Thông dụng: khiến sinh ra tất cả các pháp.
2- Biệt dụng: khiến chẳng mất đi tính bình đẳng.
Bản giác vô vi có hai tác dụng:
1- Thông dụng: vì chẳng giữ gìn tự tính.
2- Biệt dụng: vì chẳng chuyển biến.
Thỉ giác vô vi có hai tác dụng:
1- Thông dụng: vì theo vọng chuyển.
2- Biệt dụng: vì đối trị lỗi của chính nó.
Hư không vô vi có hai tác dụng:
1- Thông dụng: vì muốn có khiến có.
2- Biệt dụng: vì chẳng mất tính không vô.
Hai tác dụng nói trên, thông là nghĩa tha, biệt là nghĩa tự.
* Năm pháp hữu vi lấy gì làm thể và có những tác dụng gì ? Tụng nói:
Sở y có hai thứ
Đó là thông và biệt
Thể và dụng cũng thế
Theo giải thích quán sát.
Luận nói: Căn bản vô minh hữu vi có hai y:
1- Thông sở y: lấy bản pháp nhất tâm phi hữu vi, phi vô vi làm thể.
2- Biệt sở y: lấy đại lực ưu địa trong môn sinh diệt làm thể.
Sinh tướng hữu vi có hai y:
1- Thông sở y: lấy bản pháp nhất tâm phi hữu vi, phi vô vi làm thể.
2- Biệt sở y: lấy phần vi tế của nhiễm pháp trong môn sinh diệt làm thể.
Trụ tướng hữu vi có hai y :
1- Thông sở y: lấy bản pháp nhất tâm phi hữu vi, phi vô vi làm thể.
2- Biệt sở y: lấy phần thô của nhiễm pháp trong môn sinh diệt làm thể.
Dị tướng hữu vi và diệt tướng hữu vi cũng có thông y và biệt y cũng như trụ tướng hữu vi.
Lại nữa, căn bản vô minh hữu vi có hai tác dụng:
1- Thông dụng: vì hay sinh tất cả nhiễm pháp.
2- Biệt dụng: vì tùy theo nơi đến làm chướng ngại mọi việc.
Sinh tướng hữu vi có hai tác dụng:
1- Thông dụng: vì ban cho năng lực đối với ba bậc thượng trung hạ.
2- Biệt dụng: vì tùy theo nơi đến làm chướng ngại mọi việc.
Trụ tướng và dị tướng hữu vi cũng như sinh tướng hữu vi.
Diệt tướng hữu vi có hai tác dụng:
1- Thông dụng: vì ban cho năng lực đối với bậc thượng và chính nó.
2- Biệt dụng: vì hay làm chướng ngại mọi việc.
Do nghĩa gì nói tất cả pháp hữu vi, vô vi đều lấy nhất tâm làm thể ? Trong khế kinh nói về đạo trí như sau: “Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:
– Thế Tôn, thức a-lại-da đủ tất cả pháp hơn cả Hằng sa, hơn cả Hằng sa. Các pháp ấy lấy gì làm gốc, sinh nơi nào ?
Phật đáp:
– Tất cả các pháp hữu vi, vô vi ấy sinh nơi thù thắng bất khả tư nghì. Vì sao ? Vì pháp hữu vi và vô vi hay sinh nơi phi hữu vi, phi vô vi.
Văn-thù lại bạch Phật:
– Thế Tôn, thế nào gọi là nơi phi hữu vi, phi vô vi ?
Phật đáp:
– Nơi phi hữu vi, phi vô vi, nghĩa là bản pháp nhất tâm phi hữu vi nên hay tạo hữu vi, phi vô vi nên hay tạo vô vi, thế nên ta nói “sinh nơi thù thắng bất khả tư nghì”.
Lại nữa, này thiện nam, ví như thứ dân có hai nơi nương tựa: một là đại vương, hai là cha mẹ; tất cả các pháp hữu vi vô vi cũng như thế, đều có hai y: thông đạt y và chi phần y.
Lại nữa, này thiện nam, ví như tất cả cỏ cây có hai nơi nương tựa: một là đất, hai là hạt giống; tất cả các pháp hữu vi, vô vi cũng như thế đều có hai y: đó là thông đạt y và chi phần y.
Cho đến nói rộng ra bất sinh bất diệt cùng với sinh diệt hòa hợp chính là khai thị sự sai biệt giữa năng huân và sở huân. Khai thị như thế nào ? Nghĩa là hiển bày các pháp nhiễm tịnh hữu lực, vô lực đều có hơn kém. Hôm nay sẽ lập hai môn để trình bày rõ ràng: một là hạ chuyển môn, hai là thượng chuyển môn. Trong môn sinh diệt, tất cả các pháp không ngoài hai môn này.
Hai môn này khác biệt như thế nào ?
Tụng nói:
Các pháp nhiễm hữu lực
Các pháp tịnh vô lực
Trái gốc càng đi xuống
Gọi là hạ chuyển môn.
Các pháp tịnh hữu lực
Các pháp nhiễm vô lực
Thuận nguồn càng đi lên
Gọi là thượng chuyển môn.
Luận nói: “Do các pháp nhiễm tịnh đều có hơn kém nên có hai chuyển môn”.
Trước tiên nói về hạ chuyển môn, căn bản vô minh lấy pháp gì làm sở huân và khi nào huân tập ?
Tụng nói:
Sở huân có năm thứ,
Là một pháp giới tâm,
Và bốn pháp vô vi
Chẳng phải trước, giữa, sau
Chấp lấy trước, giữa, sau.
Luận nói: “Căn bản vô minh lấy năm pháp làm sở huân, đó là một pháp giới và bổn pháp vô vi”.
Huân tập một pháp giới, tướng nó thế nào ? Tụng nói:
Một loại pháp giới tâm
Có hai thứ tự tại
Hữu vi và vô vi
Là căn bản vô minh
Nương tự tại ban đầu
Hay huân tập các việc.
Luận nói: “Một pháp giới tâm có hai thứ tự tại:
1- Hữu vi tự tại: vì hay làm điểm tựa cho pháp hữu vi.
2- Vô vi tự tại: vì hay làm điểm tựa cho pháp vô vi”.
Căn bản vô minh nương nơi tự tại ban đầu huân tập các việc, chẳng phải tự tại sau, trong khế kinh nói về trung thực như sau: “Căn bản vô minh huân tập lượng có giới hạn của tự sở y, vì chẳng phải tha sở y”.
Huân tập pháp chân như, tướng nó thế nào ?
Tụng nói:
Pháp chân như vô vi
Có hai thứ tác dụng
Đó là thông và biệt
Như quyết trạch trước nói
Là căn bản vô minh
Nương tác dụng ban đầu
Hay huân tập các việc
Vô vi khác cũng thế.
Luận nói: “Chân như vô vi có hai tác dụng, đó là thông và biệt”. Như trước đã nói, căn bản vô minh nương nơi tác dụng ban đầu hay huân tập các việc, chẳng phải tác dụng sau. Cũng như chân như vô vi, ba pháp vô vi kia cũng thế, đều nương nơi tác dụng ban đầu, vì chẳng phải tác dụng sau.
Lúc huân tập, lượng chẳng phải ban đầu, khoảng giữa, rốt sau, vì chấp lấy khoảng trước, khoảng giữa, khoảng sau. Trong khế kinh nói về bản trí như sau: “Lúc sức vô minh huân tập các việc, đồng loạt chấp lấy khoảng trước, khoảng giữa, khoảng sau mà không lấy riêng từng phần”.
Chữ huân của năng huân và sở huân có nghĩa gì ? Huân nghĩa là hay dẫn pháp hợp về tự thể chẳng xa lìa, cùng vận hành cùng lưu chuyển nên gọi là năng huân; lại hay chẳng chướng ngại với pháp ấy, tùy thuận không trái nghịch nên gọi là sở huân. Nghĩa là năm pháp hữu vi hay huân bốn pháp vô vi và một pháp giới tâm; năm pháp sở huân cùng năm pháp năng huân hòa hợp đồng sự cùng chuyển, cho nên nói “bất sinh bất diệt cùng sinh diệt hòa hợp”. Như vô minh hữu vi lấy bản pháp nhất tâm làm thông y, nương nơi tự tại ban đầu huân tập các việc, bốn tướng hữu vi kia cũng như thế. Như vô minh hữu vi nương nơi bốn vô vi thông đạt tác dụng hay huân tập các việc, bốn tướng hữu vi kia cũng như thế.