LUẬN THẬP TRỤ TỲ BÀ SA
Tác giả: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 7

Phẩm 13: PHÂN BIỆT PHÁP THÍ

Bồ-tát đối với bố thí tiền của (Tài thí), nên tu học như vậy. Lại nên tu học bố thí pháp (Pháp thí).

Như kệ nói:

Các thí: Pháp thí tột

Người trí nên tu hành.

Trong tất cả sự bố thí, tối thượng, tối diệu bậc nhất, đó là Pháp thí. Bố thí này người trí nên hành trì.

Hỏi: Vì sao chỉ nói người trí nên thực hành pháp thí?

Đáp: Người không có trí tuệ hành pháp thí, tức nói như dị luận. Nói như dị luận nên tự mất lợi, cũng mất tha lợi.

Hỏi: Những gì gọi là dị luận?

Đáp: Khi sắp diệt độ, Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: “Kể từ nay về sau, Tôn giả nên nương dựa vào Khế kinh, đừng nương dựa vào người nào khác. Này Tôn giả A-nan! Thế nào là nương dựa vào Khế kinh, không nương dựa vào người nào khác?

Ví như có Tỳ-kheo đến nói như vầy: Tôi hiện theo Phật nghe, hiện theo Phật lãnh nhận, pháp ấy là thiện, là do Phật đã chỉ dạy.

Tỳ-kheo ấy nói vậy, Tôn giả chớ nhận lấy hay xả bỏ, cần phải suy xét cho kỹ, rồi đem kinh luật đối chiếu với những lời Tỳ-kheo ấy nói. Nếu lời nói đó không hợp với Kinh, Luật, lại còn trái ngược với nghĩa nơi tướng của các pháp, thì nên bảo Tỳ-kheo đó: Pháp ấy hoặc không phải là Phật nói, hoặc là do trưởng lão đã nhận lầm. Vì sao? Vì pháp ấy không hợp với Kinh, Luật, lại còn trái ngược với nghĩa của các pháp tướng, nên đó không phải là pháp, không phải là thiện, không phải là những gì Phật đã giảng dạy. Biết như vậy rồi tức nên loại bỏ.

Lại có Tỳ-kheo đến nói như vầy: Nơi trụ xứ kia có đại chúng, có vị Thượng tọa thông hiểu về kinh, khéo thuyết giảng Kinh, Luật, tôi đang theo vị ấy nghe pháp, lãnh nhận lời dạy, pháp ấy là thiện, là do Phật đã chỉ dạy. Lời Tỳ-kheo ấy nói như thế, ông chớ nhận lấy cũng chớ xả bỏ, cần phải suy xét cho kỹ rồi đem kinh luật đối chiếu với những lời Tỳ-kheo ấy nói. Nếu lời nói đó không hợp với Kinh, Luật, lại còn trái ngược với nghĩa của các pháp tướng, ông nên bảo Tỳ-kheo ấy: Này Trưởng lão! Vị Tỳ-kheo Tăng kia về tướng pháp và tướng thiện ấy, hoặc đã hành phi pháp, đã nói điều không phải là thiện, hoặc là trưởng lão đã thọ nhận sai lầm. Vì sao? Vì pháp ấy không đúng với kinh luật, lại còn trái ngược với nghĩa của các pháp tướng, nên đó không phải là pháp, không phải là thiện, không phải là những gì Phật đã giảng dạy. Biết như vậy rồi tức nên loại bỏ.

Lại có Tỳ-kheo đến nói như vầy: Trụ xứ kia có nhiều Tỳ-kheo hành trì Kinh, Luật, Luận, tôi hiện theo nơi ấy nghe pháp, nhận lãnh, đó là pháp, là thiện, là những gì Phật đã giảng dạy. Tỳ-kheo ấy nói như thế, ông chớ nhận lấy cũng chớ bỏ đi, cần phải suy xét cho kỹ, rồi đem kinh luật đối chiếu với những lời ấy. Nếu lời nói đó không đúng với kinh luật, lại còn trái ngược với nghĩa của các pháp tướng, ông nên bảo Tỳ-kheo ấy: Này trưởng lão! Tỳ-kheo Tăng kia, về tướng pháp và tướng thiện, hoặc đã hành phi pháp, hoặc đã nói điều không phải là thiện, hoặc là trưởng lão đã nhận lãnh sai lầm. Vì sao? Vì pháp ấy không đúng với kinh luật, lại còn trái ngược với nghĩa của các pháp tướng, nên đó không phải là pháp, không phải là thiện, không phải là những gì Phật đã giảng dạy. Biết như vậy rồi tức nên loại bỏ.

Lại có Tỳ-kheo đến nói như vầy: Trong trụ xứ kia, có Tỳ-kheo trưởng lão là người hiểu nhiều biết rộng, được mọi người tôn trọng. Tôi hiện theo vị ấy nghe, thọ nhận lời dạy, đó là pháp, đó là thiện, là những gì Phật đã giảng dạy. Tỳ-kheo ấy nói như thế, ông chớ nhận lấy cũng chớ bỏ qua, cần phải suy xét cho kỹ, rồi đem kinh luật đối chiếu với những lời thầy ấy nói. Nếu lời nói đó không đúng với kinh luật, lại còn trái ngược với nghĩa của các pháp tướng, ông nên bảo Tỳ-kheo ấy: Này trưởng lão! Các Tỳ-kheo kia về tướng pháp và tướng thiện ấy, hoặc đã hành phi pháp, hoặc đã nói điều không phải là thiện, hoặc là trưởng lão đã nhận lãnh sai lầm. Vì sao? Vì pháp ấy không đúng với kinh luật, lại còn trái ngược với nghĩa của các pháp tướng, nên đó không phải là pháp, không phải là thiện, không phải là những gì Phật đã giảng dạy. Biết như vậy rồi tức nên loại bỏ”.

Bốn trường hợp vừa nêu gọi là dị luận. Do đó nói người trí không nương vào dị luận để hành trì pháp thí thanh tịnh.

Hỏi: Vì sao biết Pháp thí là bậc nhất trong các thứ bố thí?

Đáp: Kinh nói: Có hai thứ thí là thí tiền của và thí pháp. Trong hai thứ ấy, thì pháp thí là hơn hết.

Lại nữa:

Trong Kinh Quyết Định Vương

Khen công đức thuyết pháp

Và nghi thức thuyết pháp

Nên thường tu tập hành.

Nếu Bồ-tát muốn đem pháp bố thí cho chúng sinh, phải hành trì như Kinh Đại Thừa Quyết Định Vương đã nói, là khen ngợi công đức của Pháp sư, cùng biết rõ nghi thức thuyết pháp, tùy thuận tu học. Nghĩa là: Người thuyết pháp nên hành 4 pháp:

1. Học nhiều hiểu rộng, có thể nắm giữ tất cả ngôn từ, chương câu.

2. Quyết định khéo nhận biết về tướng sinh diệt của các pháp thế gian, xuất thế gian.

3. Đã được thiền định, trí tuệ, nên đối với các kinh pháp là tùy thuận, không tranh cãi.

4. Không tăng không giảm, hành trì theo như pháp đã nêu giảng.

Người thuyết pháp an tọa nơi tòa Sư tử lại có 4 pháp:

1. Trước khi lên tòa cao, phải cung kính lễ bái đại chúng, sau đấy mới bước lên.

2. Trong chúng nghe pháp có người nữ, nên quán bất tịnh.

3. Oai nghi trong những lúc nhìn ngắm phải có tướng của bậc Đại nhân. Khi diễn lời nói pháp, sắc diện phải tươi vui, khiến mọi người tin nhận, không nói đến sách vở của ngoại đạo, tâm không run sợ.

4. Đối với những lời vấn nạn thô ác, nên hành nhẫn nhục.

Ngồi nơi tòa Sư tử lại có 4 pháp:

1. Phải có tưởng là đem lại lợi ích cho các chúng sinh.

2. Đối với các chúng sinh, không sinh tưởng ngã.

3. Đối với các thứ văn tự không sinh khởi tưởng pháp.

4. Nguyện cho các chúng sinh theo mình nghe pháp sẽ đạt được không thoái chuyển đối với đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Ngồi nơi tòa Sư tử lại có 4 pháp:

1. Khéo có thể an trụ trong môn Đà-la-ni, tin và vui thích pháp.

2. Khéo đạt được Tam-muội Ban chu, siêng năng tinh tấn trì giới thanh tịnh.

3. Không ưa thích tất cả xứ sinh, không tham lợi dưỡng, không cầu quả báo.

4. Đối với ba môn giải thoát, tâm không nghi hoặc.

Lại có thể khéo phát khởi các Tam-muội sâu xa. Đầy đủ oai nghi, nhớ nghĩ vững vàng, tâm niệm an ổn trong trí tuệ, không đùa cợt, không vội vàng. Biết hổ thẹn, không ngu tối loạn động, nói không mắc lỗi lầm, giữ gìn các căn, không tham vị ngon, khéo thâu giữ tay chân, những nhớ nghĩ đều không quên. Thích hạnh đầu đà, phân biệt pháp thế gian, xuất thế gian, tâm không nghi hối. Ngôn từ chương câu không thể cùng tận. Đem an ổn, lợi lạc cho người nghe, không xét tìm lỗi lầm của họ. Có những pháp như thế nên ngồi nơi tòa Sư tử.

Lại có 4 pháp:

  1. Không tự xem thường thân.
  2. Không xem thường người nghe.
  3. Không xem thường pháp đã giảng nói.
  4. Không vì lợi dưỡng.

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Người thuyết pháp nên nói những pháp gì? Này Tôn giả A-nan! Pháp có thể thuyết giảng là không thể nêu bày, không thể nói, là vô tướng, vô vi.

Tôn giả A-nan thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Pháp nếu như vậy làm sao có thể giảng nói?

Đức Phật bảo: Này Tôn giả A-nan! Pháp này rất sâu xa, Như Lai dùng 4 tướng làm phương tiện để diễn nói:

  1. Dùng âm thanh.
  2. Dùng chữ, tên gọi.
  3. Dùng ngôn ngữ.
  4. Dùng nghĩa lý.

Lại do 4 nhân duyên nên vì chúng sinh giảng nói pháp:

  1. Vì hóa độ các chúng sinh đáng được hóa độ.
  2. Chỉ nói danh tự của sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
  3. Dùng vô số thứ văn từ chương câu để tạo lợi ích cho chúng sinh.
  4. Tuy dùng danh tự để giảng nói nhưng cũng không thủ đắc.

Ví như có bát dầu trong sạch, không cặn, ai nhìn vào đó thì thấy tướng của mặt họ. Này Tôn giả A-nan! Tôn giả có nghe hoặc thấy người nam trí tuệ, người nữ trì giới, hoặc đệ tử của bậc Thánh, những người ấy nói: Tôi ở nơi bát dầu này thấy được người thật chăng?

Tôn giả A-nan thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Con không nghe, không thấy người nam trí tuệ, người nữ trì giới, hoặc đệ tử bậc Thánh có thể nói như vầy: Tôi ở nơi bát dầu này thấy được người chân thật. Vì sao? Vì người trí biết trước là bát dầu không có, huống nữa là có người. Chỉ do giả danh mà nói bát dầu nhìn vào mà thấy tướng người.

Đức Phật bảo: Này Tôn giả A-nan! Như Lai cũng lại như vậy, chỉ do danh tự giả có thuyết giảng. Này Tôn giả A-nan! Như Lai dùng bốn nhân duyên vì chúng sinh giảng nói pháp. Chúng sinh nghe rồi tâm được an lạc, gieo trồng nhân Niết-bàn. Khi Như Lai giảng nói pháp, âm thanh vang đến khắp mười phương thế giới. Chúng sinh nghe được tâm liền hoan hỷ, xa lìa các nẻo ác, sinh lên cõi trời Đâusuất. Trong âm thanh của Như Lai không có nam nữ, nam không chấp giữ tướng nữ, nữ không chấp giữ tướng nam. Tiếng nói của Như Lai không não hại chúng sinh, không hủy hoại các pháp, chỉ là thị hiện tánh của âm thanh. Người thuyết pháp cần tu tập hành trì những việc như vậy, nên tùy theo chốn hành trì mà thực hiện.

Về quả báo đạt được của người thí, người nhận, phần sau sẽ nói rộng.

***

Phẩm 14: TƯỚNG QUY MẠNG

Ở trên đã nói về tài thí và pháp thí, nay lại phân biệt. Kệ nêu:

Người bạch y tại gia

Nên hành nhiều tài thí

Hành các pháp thiện khác

Nay sẽ lại giải nói.

Trong hai pháp bố thí ấy, người tại gia nên hành Tài thí, người xuất gia nên hành Pháp thí. Vì sao? Vì người tại gia hành pháp thí không bằng người xuất gia, do công việc nghe nhận pháp đối với người tại gia tâm tin còn cạn mỏng.

Lại, phần đông người tại gia có nhiều tiền của. Người xuất gia thì đối với các kinh pháp đã đọc tụng thông đạt, vì mọi người giảng nói, ở nơi đông đảo không còn lo sợ, là điều người tại gia không thể theo kịp.

Lại, người tại gia khiến người nghe khởi tâm cung kính không bằng người xuất gia. Lại nữa, nếu muốn nói pháp để hàng phục tâm người thì không bằng người xuất gia. Như kệ nói:

Trước tự tu hành pháp

Sau đấy dạy người khác

Mới có thể nói lời:

Ông nên làm theo tôi.

Việc này người xuất gia hành trì rất phù hợp, không phải là việc làm của người tại gia. Lại như kệ nói:

Thân tự hành bất thiện

Sao khiến người làm thiện?

Thân không được tịch diệt

Sao khiến được người tịch?

Thế nên thân tự thiện

Mới khiến người hành thiện

Tự thân được tịch diệt

Mới khiến người tịch diệt.

Pháp thiện tịch diệt là pháp nên hành trì của người xuất gia.

Lại, người nghe pháp có tâm cung kính hơn hẳn đối với người xuất gia.

Lại, nếu hành tài thí, người xuất gia dễ hại đến những pháp thiện khác, dễ hại đến hạnh xa lìa, vì người tu phải sống nơi A-lannhã, nơi núi rừng thanh vắng. Nếu ưa thích hành tài thí, người xuất gia tất bị trở ngại về việc tu hành. Các sự việc như thế, nếu hành tài thí, người xuất gia tất phải đến nơi xóm làng, làm việc theo người bạch y, giao tiếp nói năng nhiều. Nếu không theo việc thì làm sao có tiền của để bố thí? Do ra vào nơi xóm làng thấy nghe thanh sắc, các căn khó thâu giữ, dễ phát khởi ba độc. Đối với việc hành trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, tâm trở nên yếu kém.

Lại, cùng theo việc với người bạch y, có thể bị lợi dưỡng làm cấu uế, phát khởi các phiền não như yêu mến, giận dữ, keo kiệt, ganh ghét. Chỉ do sức tư duy của tâm để tự ngăn chận, hạn chế. Người yếu đuối hoặc không tự kìm chế, hoặc có thể đưa đến bỏ mạng, hoặc phải chết do các thứ phiền não khổ nạn. Tham vướng năm dục, xả giới hoàn tục, nên gọi là chết. Hoặc có thể hành trái với giới cấm, khởi nhiều tội nặng, đó gọi là chết với các thứ phiền não khổ nạn.

Vì những nhân duyên ấy đối với người xuất gia nên khen ngợi về Pháp thí, đối với người tại gia nên tán dương về Tài thí.

Như vậy là đã nói rộng về Bồ-tát tại gia hành tài thí. Những hành thiện khác nay sẽ nói. Phát tâm Bồ-tát, trước nên quy y Phật, Pháp, Tăng. Từ nơi ba quy y có được công đức, công đức ấy đều nên hồi hướng về đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Lại nữa, kệ nói:

Quy y Phật, Pháp,

Tăng Bồ-tát đều nên biết.

Bồ-tát phải nên hiểu rõ như thật về quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

Hỏi: Thế nào gọi là quy y Phật?

Đáp:

Không bỏ tâm Bồ-đề

Không hoại pháp đã nhận

Không lìa tâm đại bi

Không ham thích thừa khác

Như vậy tức gọi là:

Như thật quy y Phật.

Tâm Bồ-đề: Là tâm đã phát cầu Phật, không dừng nghỉ, không xả bỏ tâm ấy.

Không hoại pháp đã nhận: Là các Bồ-tát đều yêu mến giới hạnh, là pháp thiện mình đã vui thích thọ nhận, là pháp dạy làm những gì nên làm, không nên làm. Đó là nên làm các pháp Ba-la-mật, hoặc nên làm bốn xứ công đức. Hành vô số pháp thiện như thế là đều đem lợi ích cho chúng sinh. Thọ trì, tu tập đều không khiến thiếu sót, hủy hoại.

Tâm đại bi: Là tâm nhằm cứu độ chúng sinh khổ não, vì cầu Phật đạo, cho đến trong mộng cũng không lìa tâm đại bi.

Không ham thích thừa khác: Là chỉ vui thích tin sâu nơi Phật đạo, không tham các thừa Thanh văn, Phật-bích-chi.

Có được những pháp ấy nên biết đó là Như thật quy y Phật.

Hỏi: Thế nào là quy y Pháp?

Đáp:

Gần gũi người nói pháp

Một lòng nghe nhận pháp

Nhớ, giữ rồi giảng nói

Gọi là quy y Pháp.

Người nói pháp: Là người nêu bày, giải thích, giảng nói về chỗ sâu xa của pháp Phật, chỉ rõ thiện và ác, đoạn trừ những nghi hoặc. Nên luôn gần gũi, đi đến nơi ấy, một lòng cung kính cúng dường để lắng nghe và nhận lãnh pháp. Dùng sức mạnh của sự nhớ nghĩ để nắm giữ khiến không quên mất. Tư duy, xét tính, tùy thuận nghĩa lý sâu xa, sau đó giảng nói cho người khác những gì mình đã nhận biết. Đem công đức của pháp thí ấy hồi hướng về Phật đạo. Đó gọi là quy y Pháp.

Hỏi: Thế nào là quy y Tăng?

Đáp:

Nếu các người Thanh văn

Chưa nhập nơi vị pháp

Khiến phát tâm vô thượng

Giúp đạt mười lực Phật.

Trước đem tài thí thâu

Sau mới dùng pháp thí

Tin sâu bốn quả Tăng

Quý chúng không phân biệt.

Cầu công đức Thanh văn

Nhưng không chứng giải thoát

Đó là quy y Tăng

Lại nên nhớ ba việc.

Người Thanh văn: Là người thành tựu thừa Thanh văn.

Chưa nhập nơi vị pháp: Là đối với đạo Thanh văn, chưa được tất định, có thể khiến cho người này phát tâm cầu Phật đạo để đạt được mười lực. Nếu vào vị pháp, thì trọn không thể khiến họ phát tâm vô thượng. Giả hoặc có phát tâm cũng không thành tựu, như Tôn giả Tu-bồ-đề đã nói trong Bát-nhã Ba-la-mật: Đã nhập nơi vị chánh pháp thì không thể phát tâm vô thượng. Vì sao? Vì người này đối với sinh tử đã tạo nên ngăn cách, không còn qua lại trong sinh tử.

Người phát tâm vô thượng, trước dùng tài thí để thâu giữ, đem những vật dụng cần thiết như y phục, thức ăn uống, đồ nằm, thuốc men để thâu giữ. Người xuất gia thì gồm thâu bằng cách bố thí y phục, thức ăn uống, đồ nằm, thuốc men, hương tạp, hương xoa. Người tại gia thì gồm thâu bằng những nhân duyên sinh tâm thân ái, những gì nói ra khiến tin nhận, sau đó mới dùng pháp thí, khiến phát tâm hướng về đạo quả vô thượng.

Tăng: Là bốn hướng, bốn quả.

Chúng: Là những người ở trong pháp Phật thọ nhận hình tướng xuất gia, là những người vâng giữ đầy đủ các giới, chưa có quả hướng không phân biệt. Tăng như thế do lìa khỏi sự nô lệ của ân ái, nên gọi là Tăng quý. Tin tưởng vui thích ba môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, không phân biệt hý luận, nương dựa vào Tăng ấy, gọi là quy y Tăng.

Cầu công đức Thanh văn, Nhưng không chứng giải thoát: Là biết Tăng này trì giới đầy đủ, thiền định đầy đủ, trí tuệ đầy đủ, giải thoát đầy đủ, giải thoát tri kiến đầy đủ, đạt ba minh, sáu thông, tâm được tự tại, có oai đức lớn, bỏ các thứ dục lạc của thế gian, ra khỏi cảnh giới ma. Không lấy làm mừng với những lợi lộc, danh dự, khen ngợi, hoan lạc. Không lấy làm buồn vì những suy tổn, hủy nhục, chê trách, khổ não. Luôn hành trì sáu pháp xả, được tám giải thoát, theo lời Phật dạy. Có người đang hành đạo, có người được giải thoát, có người hành một đạo, phá hai thứ phiền não, khéo nhận biết ba cõi, khéo thông đạt bốn đế, khéo dứt trừ năm ấm, an trụ nơi sáu pháp hòa kính, đầy đủ bảy pháp không thoái chuyển, tám pháp giác ngộ của bậc Đại nhân, lìa bỏ chín thứ kiết, được mười thứ lực của Thanh văn.

Thành tựu các công đức như thế, gọi là chúng đệ tử của Phật. Chỉ cầu những công đức như vậy, không cầu sự giải thoát của họ. Vì sao? Vì thâm tâm đã tin, thích nẻo giải thoát vô ngại của Phật. Đó gọi là quy y Tăng.

Lại nữa, nếu nghe pháp nơi văn tự chương câu, tức nên nghĩ đến pháp thật tướng, gọi là quy mạng Pháp. Nếu thấy Tăng Thanh văn thì nghĩ ngay đến các chúng Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, đó gọi là quy y Tăng. Thấy hình tượng Phật liền nghĩ đến Phật chân thật, đó là quy y Phật.

Hỏi: Thế nào là nghĩ đến Phật chân thật?

Đáp: Như trong Kinh Bồ Tát Vô Tận Ý đã nói về nghĩa của Tam muội Niệm Phật: Nghĩ tới Phật chân thật nghĩa là không dùng sắc, không dùng tướng, không dùng nơi sinh, không dùng họ, không dùng nhà, không dùng quá khứ, hiện tại, vị lai, không dùng năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, không dùng kiến văn giác tri, không dùng tâm ý thức, không dùng hành tác hý luận, không dùng sinh diệt trụ, không dùng thủ xả, không dùng nhớ nghĩ phân biệt, không dùng tướng pháp, không dùng tướng mình, không dùng tướng một, không dùng tướng khác, không dùng tâm duyên số, không dùng trong ngoài, không chấp giữ tướng nơi giác quán, không dùng xuất nhập, không dùng hình sắc tướng mạo, không dùng những oai nghi đã hành, không dùng trì giới, thiền định, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, không dùng các pháp như mười lực, bốn vô sở úy v.v… để nghĩ đến Phật.

Niệm Phật như thật là vô lượng không thể nghĩ bàn, không hành, không nhận biết, không ngã, không ngã sở, không nhớ, không nghĩ, không phân biệt năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới. Không hình, không ngại, không phát, không trụ, không chẳng trụ. Không trụ nơi sắc, không trụ nơi thọ tưởng hành thức, không trụ nơi nhãn sắc, không trụ nơi nhãn thức, không trụ nơi nhĩ thanh, không trụ nơi nhĩ thức, không trụ nơi tỷ hương, không trụ nơi tỷ thức, không trụ nơi thiệt vị, không trụ nơi thiệt thức, không trụ nơi thân xúc, không trụ nơi thân thức, không trụ nơi ý pháp, không trụ nơi ý thức. Không trụ nơi hết thảy các duyên, không khởi hết thảy các tướng. Không sinh hết thảy động niệm, nhớ tưởng, phân biệt v.v… Không sinh kiến, văn, giác, tri. Tùy hành tất cả tướng giải thoát chân chánh. Tâm không nối tiếp, trừ hết phân biệt. Phá tan các ái giận, hủy hoại các tướng nhân, đoạn dứt đời trước, đời giữa, đời sau. Xét suy thông rõ, không có đây, kia, không động nên không vui mừng, không nhận hương vị nên không hoan lạc. Bản tướng vắng lặng nên không nóng bức. Tâm không lo toan trù liệu nên giải thoát. Tướng không sắc nên không thân. Không nhận nên không gánh chịu. Không tưởng nên không bị trói buộc. Không hành nên vô vi. Không nhận biết nên không có thức. Không giữ lấy nên tâm không hành. Không bỏ nên chẳng phải là không hành. Không xứ nên không trụ. Không nên không đến. Chẳng sinh nên không đi. Hết thảy tâm, tâm số pháp nhớ nghĩ cùng các pháp khác, không tham, không vướng, không lấy, không nhận, không cháy, không tắt. Từ trước tới giờ không sinh nên không có tướng sinh. Gồm thâu tại pháp tánh nên vượt quá nẻo nhãn sắc, hư không. Các tướng như thế gọi là niệm Phật chân thật.

Lại, niệm Pháp là pháp Phật được khéo giảng nói, được quả báo đời này, không có thời nhất định. Có thể quán sát được điều thiện. Người sắp đạt đến đạo trí, bên trong khéo nhận biết trước, giữa, sau thiện, lời thiện, nghĩa thiện, thuần thiện, không xen tạp, đầy đủ thanh tịnh. Có thể đoạn trừ tham dục, giận dữ, ngu si. Có thể đoạn trừ tâm kiêu mạn. Có thể đoạn trừ các kiến chấp. Có thể đoạn trừ nghi hối. Có thể đoạn trừ tâm kiêu mạn cao sang. Có thể đoạn trừ những khát ái, phá bỏ các chốn quy hướng, đoạn dứt đường nối tiếp. Diệt hết ái, lìa dục, đạt đến Niết-bàn tịch diệt. Các tướng như vậy gọi là niệm Pháp.

Do không, vô tướng, vô nguyện, không sinh, không diệt, rốt ráo tịch diệt, không so sánh, không hiện bày, như trong nghĩa niệm Phật đã nói.

Lại, niệm Pháp có ba thứ: Từ pháp Phật là khéo giảng nói đến đầy đủ thanh tịnh gọi là đạo. Từ có thể đoạn trừ tham dục đến Niếtbàn vắng lặng, gọi là Niết-bàn. Từ không, vô tướng v.v… cho đến không so sánh, không hiện bày, gọi là thể của pháp.

Lại, niệm Tăng như trước đã nói về công đức của Tăng.

Niệm Tam bảo ấy đạt được tâm quyết định. Do niệm như vậy để cầu Phật đạo, nên hành bố thí, đó gọi là quy y Phật. Vì hộ trì pháp nên hành bố thí, đó gọi là quy y Pháp. Dùng sự bố thí đó khởi tâm hồi hướng, cho đến khi thành tựu Phật đạo, gồm thâu Tăng Bồ-tát, Thanh văn, đó gọi là quy y Tăng.

***

Phẩm 15: NĂM GIỚI

Bồ-tát tại gia như thế là có thể tu tập nghiệp của người thiện, xa lìa nghiệp của người ác.

Như kệ nói:

Tu khởi nghiệp người thiện

Như pháp chứa của dùng

Gắng sức nhận gánh nặng

Thiếu sức tức không nhận.

Nghiệp của người thiện: Nói gọn là hành tác của người thiện, tự trụ nơi thiện lợi, cũng có thể lợi người.

Nghiệp của người ác: Là tự giam hãm nơi suy não, khiến người khác cũng bị suy não.

Như pháp chứa của dùng: Là không sát sinh, không trộm cắp, không lừa dối người, đem sức mình tích tập tiền của, sử dụng như pháp cúng dường Tam bảo, cứu giúp người già yếu bệnh tật.

Gắng sức thọ nhận, có thể hành trì: Tức là nhận lấy gánh nặng. Không thể hành trì thì không thọ nhận. Nếu Bồ-tát đối với việc làm ở đời này cùng đời sau, hoặc lợi mình, hoặc lợi người, như trước đã nói, tất có thể thành lập. Nếu biết mình không thể hành trì thì không thọ nhận.

Lại nữa:

Pháp đời không lo mừng

Hay xả bỏ tự lợi

Thường siêng hành lợi tha

Biết rõ ơn, báo đáp.

Pháp thế gian là tám thứ: Lợi lộc, suy tổn, hủy nhục, danh dự, khen tặng, trách cứ, khổ não, vui sướng. Ở trong các pháp ấy, tâm không lo, mừng.

Bỏ tự lợi, siêng hành lợi tha: Là những hành thiện Bồ-tát thực hiện, bỏ hẳn tự lợi, giúp người khác thành tựu việc thiện, cả đến những người Bồ-tát chưa từng biết đến, chưa từng có nhân duyên với họ.

Hỏi: Bỏ tự lợi, siêng hành lợi tha, điều này không đúng. Như Phật nói: Người tuy lợi lớn không nên tự bỏ lợi của bản thân mình. Như nói: Bỏ một người để thành một nhà, bỏ một nhà để thành một xóm làng, bỏ một xóm làng để thành một nước, bỏ một nước để thành thân mình, bỏ thân mình để làm chánh pháp.

Trước, tự thành lợi mình

Sau đấy mới lợi người

Bỏ lợi mình, lợi người

Sau tức sinh lo hối.

Bỏ tự lợi, lợi người

Tự cho là trí tuệ

Ở trong thế gian này

Là kẻ ngu bậc nhất?

Đáp: Ở trong thế gian này, vì người khác cầu lợi cũng được khen là thiện, do vì có tâm vững chắc, huống chi là Bồ-tát đã hành trì các pháp vượt quá thế gian. Nếu lợi người cũng tức là lợi mình. Như kệ nói:

Bồ-tát nơi việc người

Tâm ý không yếu kém

Người phát tâm Bồ-đề

Lợi người tức tự lợi.

Nghĩa này đã nói rộng ở Phẩm đầu, thế nên lời ông vừa nói là không đúng.

Biết rõ ơn, báo đáp: Là nếu người làm việc tốt cho mình, Bồtát phải nên báo đáp trọng hậu. Lại, biết rõ về ơn kia, ấy là tướng người thiện.

Lại nữa:

Người nghèo thí tiền của

Kẻ sợ thí không sợ

Những công đức như vậy

Cho đến được bền chắc.

Người nghèo thí tiền của: Là có người do đời trước không gieo trồng phước đức, nên đời này thiếu phương tiện sinh sống, sống thiếu thốn. Theo sức mình Bồ-tát xót thương bố thí cho họ.

Kẻ sợ thí không sợ: Là đối với các thứ sợ hãi, như sợ hãi kẻ oán thù, sợ hãi về đói khát, nóng lạnh, nước, lửa v.v… Bồ-tát khuyến dụ chỉ dạy cho những người có tâm lo sợ ấy, khiến họ được an ổn, vui vẻ, xua tan các thứ sợ hãi cho họ.

Những công đức như vậy, Cho đến được bền chắc: Cuối cùng là đối với những người có nhiều lo âu, Bồ-tát phải trừ bỏ lo âu cho họ. Người thiếu năng lực, Bồ-tát giúp họ thực hành nhẫn nhục, xa lìa kiêu mạn v.v… Đối với những người được tôn kính, Bồ-tát làm tăng thêm sự cung kính. Đối với người hiểu biết rộng, Bồ-tát luôn gần gũi, tiếp xúc. Đối với người trí tuệ, Bồ-tát luôn thỉnh vấn về điều thiện ác. Đối với những việc Bồ-tát thường làm, luôn hành theo chánh kiến. Đối với những chúng sinh, Bồ-tát không có tâm dua nịnh, quanh co, không yêu mến giả tạm. Bồ-tát cầu điều thiện không chán, phải học rộng không cùng, giữ tâm vững chắc để thành tựu các hành bố thí, thường cùng hành tác với người thiện. Đối với kẻ ác, Bồ-tát luôn sinh tâm đại bi. Đối với hàng tri thức thiện hay không phải tri thức thiện, Bồ-tát đều tạo được hình tướng tri thức thiện bền chắc. Tâm bình đẳng đối với chúng sinh, không keo kiệt trong việc giảng nói pháp yếu. Diễn nói hết cho người những gì mình đã nghe, nhận, hiểu biết. Các pháp đã nghe, nhận luôn đạt được nghĩa lý sâu xa. Bồ-tát luôn có tưởng vô thường đối với các thứ hoan lạc của năm dục. Đối với vợ con, Bồ-tát luôn sinh tưởng về địa ngục. Đối với tài sản vật dụng, Bồ-tát luôn khởi tưởng về bệnh khổ. Đối với sản nghiệp, Bồ-tát sinh khởi tưởng ưu não. Đối với những mong cầu, Bồ-tát có tưởng như căn thiện bị hủy hoại. Sống ở trong nhà, Bồ-tát sinh tưởng như lao ngục. Đối với thân tộc, bạn quen, Bồ-tát khởi tưởng như những ngục tốt. Ngày đêm suy xét với tưởng là được lợi gì? Nơi thân không bền chắc, có được tưởng thân bền chắc. Đối với của cải không lâu bền sinh khởi tưởng về của cải lâu bền.

Lại nữa:

Pháp tại gia năm giới

Tâm nên trụ vững chắc.

Bồ-tát tại gia dùng ba tự quy để hành các công đức nói trên, nên trụ vững chắc vào năm giới. Năm giới là pháp chung của hàng tại gia. Nên lìa tâm giết hại, có lòng thương xót chúng sinh. Biết tự dừng đủ, không tham vật dụng của người khác, cho đến một cộng cỏ, không cho cũng không được lấy.

Lìa nơi tà dâm, chán bỏ chuyện phòng nội. Ngăn giữ xa lìa các sắc bên ngoài, mắt không nhìn tà vạy. Thường quán xét những thứ xấu phơi bày để sinh tưởng chán lìa. Biết rõ năm dục rốt cùng đều là khổ. Nếu có niệm dục đối với vợ cũng nên từ bỏ, thường quán bất tịnh, tâm luôn biết lo sợ. Kiết sử bức bách, nên lìa dục, không tham đắm. Luôn biết thế gian là khổ, vô ngã, nên phát nguyện như vầy: Vào lúc nào, tâm ta sẽ không còn khởi tưởng dục? Huống chi thân nên hành xa lìa vọng ngữ, vui thích hành nói thật, không dối gạt người. Tâm, miệng tương ưng nên có niệm an ổn, sáng suốt. Như thấy nghe hiểu biết, vì người giảng nói. Tự hành xử đúng pháp, cho đến bỏ mạng cũng không nói lời dối trá.

Rượu là gốc của các hành phóng dật, xấu ác, Bồ-tát phải luôn xa lìa, không để mùi rượu bén môi. Không cuồng loạn, không mê say, không vội vã, không hoảng sợ. Biết xấu hổ, không đùa cợt, thường có thể nhất tâm xét lường điều xấu tốt.

Bồ-tát này hoặc có lúc vui thích xả bỏ hết thảy, suy nghĩ như vầy: Ai cần ăn cho ăn. Ai cần uống cho uống. Nếu đem rượu bố thí nên khởi niệm: Nay ta hành bố thí Ba-la-mật, theo chỗ cần thì cho, sau sẽ dùng phương tiện để giáo hóa, khiến lìa rượu, để có được niệm trí tuệ, khiến không phóng dật. Vì sao? Vì pháp bố thí Ba-la-mật tất giúp người mãn nguyện. Bồ-tát tại gia dùng rượu bố thí như vậy thì không phải tội. Đem phước đức do giữ năm giới này hồi hướng về đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Hộ trì năm giới như giữ gìn vật báu quý trọng, như giữ gìn thân mạng mình.

Hỏi: Bồ-tát này chỉ nên hộ trì năm giới, còn các nghiệp thiện khác không hộ trì sao?

Đáp:

Bồ-tát nên trụ vững

Trong tướng chung năm giới

Nghiệp thân, miệng, ý khác

Cũng đều phải hành trì.

Đã nói xong về nghĩa của năm giới tại gia. Sau khi thọ năm giới này, nên trụ vững chắc vào đấy. Ba thứ nghiệp thiện còn lại, cũng nên tu hành.

Lại nữa, Bồ-tát tại gia nên hành pháp:

Tùy nên lợi chúng sinh

Thuyết pháp mà giáo hóa.

Bồ-tát đối với các chúng sinh, theo chỗ có thiếu thốn, đều có thể giúp cho. Hoặc tại thành ấp, xóm làng, ven rừng, dưới bóng cây v.v… trong đất nước, ở đấy chúng sinh theo chỗ có lợi ích, Bồ-tát đều nói pháp để giáo hóa. Người chưa có tâm tin Bồ-tát vì họ giảng nói pháp tin tưởng. Người chưa có tâm cung kính thì vì họ giảng nói sự kính lễ. Ai hiểu biết ít thì vì họ giảng nói pháp đa văn. Kẻ tham lam keo kiệt thì giảng nói pháp bố thí. Người nhiều giận dữ thì giảng nói pháp hòa hợp, nhẫn nhục. Người biếng nhác thì giảng nói pháp tinh tấn. Ai có tâm ý bị tán loạn thì giảng nói chánh niệm xứ. Người ngu tối thì giảng nói về trí tuệ.

Lại nữa:

Theo những chỗ thiếu thốn

Đều cũng nên cấp đủ.

Các chúng sinh có những thiếu thốn gì, Bồ-tát đều nên cấp đủ cho họ. Có người tuy giàu vẫn còn có những thứ chưa đủ, cho đến quốc vương cũng còn có thứ thiếu. Thế nên, tuy trước nói đem của cải bố thí cho người nghèo, nay lại nói là tùy theo chỗ thiếu thốn mà cấp đủ.

Lại nữa:

Có những chúng sinh ác

Thêm vô số việc khổ

Nịnh, quanh co, phóng dật

Ghét, mắng, khinh, lừa dối.

Quên ơn, không báo đáp

Ngu si khó giáo hóa

Bồ-tát tâm xót thương

Càng dũng mãnh tinh tấn.

Những chúng sinh ác đem bao chuyện xấu ác nhiễu loạn Bồ-tát, nhưng tâm Bồ-tát vẫn không chán nản biếng trễ. Không nên nghĩ như vầy: Người xấu ác như thế, ai có thể điều phục, ai có thể giáo hóa, ai có thể khuyên can họ được, khiến họ vượt qua sinh tử, rốt cùng tới Niết-bàn? Người nào có thể cùng với họ qua lại nơi sinh tử. Người nào có thể cùng với họ hòa hợp đồng sự. Những điều ác thật vô lý, ai có thể nhẫn chịu nổi? Ta có ý chấm dứt, không thể cộng sự. Ta tất nên xa lìa, không cộng sự được, cũng không hòa hợp nổi với họ. Những thứ xấu ác này là không hề chuyển dời, thay đổi, sao có thể đi cùng với họ được?

Bồ-tát thấy biết các chúng sinh xấu ác như vậy, nhưng cũng biết các thứ xấu ác ấy không phải là khó trừ, nên Bồ-tát lại suy nghĩ: Những hạng xấu ác như vậy không phải là ít. Chỉ nên tinh tấn mới có thể khiến ta trụ vững trong pháp lạc đã có. Vì những hạng ấy nên tâm ta phải gia tăng tinh tấn, gắng sức hơn nữa, tinh tấn gấp trăm lần hơn, để sau đấy có sức mạnh lớn nhằm giáo hóa họ. Hạng xấu ác thuộc loại hơn hết này, khó tỉnh ngộ này, Bồ-tát phải như bậc Đại Y vương, dùng nhân duyên nhỏ nhưng có thể trị dứt bệnh nặng của chúng sinh. Bồ-tát diệt trừ bệnh phiền não của chúng sinh như vậy, khiến họ tùy ý trụ vào chốn công đức đã ưa thích. Đối với các chúng sinh gây tạo trọng tội, đại ác, Bồ-tát cần phát khởi tâm đại bi sâu xa, thương xót họ gấp trăm ngàn lần, như bậc lương y kia có nhiều tâm từ, luôn dốc sức trị lành các bệnh. Đối với người bệnh nặng, ông lại càng thương xót nhiều hơn, siêng năng tạo phương tiện, tìm thuốc hay cho họ. Bồ-tát cũng như thế, đối với bệnh phiền não của các chúng sinh, tất nên luôn xót thương. Đối với loại xấu ác hơn, tức có nhiều phiền não nặng, Bồ-tát càng xót thương hơn, siêng năng tìm phương tiện, gia tâm đối trị. Vì sao?

Bồ-tát tùy chỗ trụ

Không giáo hóa chúng sinh

Để đọa ba đường ác

Tức bị chư Phật trách.

Bồ-tát theo chỗ trụ trong cõi nước, như thành ấp, xóm làng, bên núi, dưới bóng cây, đều phải đem hết sức mình tạo lợi ích và giáo hóa chúng sinh. Nhưng nếu biếng trễ, chán nản, giận ghét, tham vui theo thế gian, không đem sức giáo hóa dẫn dắt, khiến chúng sinh bị đọa vào đường ác, thì Bồ-tát ấy bị chư Phật hiện tại trong mười phương quở trách. Thật đáng xấu hổ : Vì sao chỉ vì nhân duyên nhỏ mà bỏ sự việc lớn? Thế nên Bồ-tát không muốn bị chư Phật quở trách, tức phải dốc tâm sức siêng năng giáo hóa cứu độ chúng sinh, dù họ gây tạo tội nặng, nhiều dua nịnh, quanh co, Bồ-tát cũng không lẩn tránh, ngược lại, phải gắng sức tạo lợi ích cho họ, dùng nhiều phương tiện. Ví như vị tướng dũng mãnh đem quân ra trận để bị nhiều tổn thất, tất bị vua quở trách nặng nề. Nhưng nếu đám binh sĩ không lường nổi sức quân địch nên bị tổn hại nhiều, thì vua không quở phạt vị tướng.

***

Phẩm 16: BIẾT NHỮNG TAI HỌA CỦA GIA ĐÌNH

Bồ-tát học tập như thế nên nhận biết những lỗi lầm xấu kém của đời sống gia đình. Vì sao? Vì nếu nhận biết những lỗi xấu như vậy thì có thể từ bỏ nhà, học đạo. Lại chỉ dẫn cho người khác, khiến họ nhận biết lỗi lầm của đời sống gia đình, xuất gia học đạo.

Hỏi: Thế nào là những lỗi lầm của đời sống gia đình?

Đáp: Như trong kinh nói: Phật bảo Úc-ca-la: Nhà là nơi phá bỏ các căn thiện. Nhà là rừng gai gốc sâu rộng, khó tự có thể ra khỏi. Nhà là nơi chốn hủy hoại pháp tịnh bạch. Nhà là trụ xứ của các thứ giác quán xấu ác. Nhà là trụ xứ của hàng phàm phu xấu ác khó điều phục. Nhà là trụ xứ của hết thảy các hành bất thiện. Nhà là nơi chốn tụ hội của người ác. Nhà là trụ xứ của những tham dục, giận dữ, ngu si. Nhà là trụ xứ của hết thảy khổ não. Nhà là nơi chốn làm tiêu tan hết thảy căn thiện từ đời trước.

Phàm phu ở trong nhà ấy, những gì không nên làm vẫn làm, những điều không nên nói cứ nói. Không nên làm vẫn làm là ở trong nhà này, hoặc khinh mạn cha mẹ cùng các bậc Sư trưởng, không biết kính các thứ phước điền tôn quý như các Sa-môn, Bà-la-môn. Nhà là nhân duyên của các thứ tham ái, buồn lo, khổ não. Nhà là chốn dung thân của những người xấu ác, nói thô ác, mắng nhiếc, khổ bức, dùng dao, gậy trói buộc, tra khảo, đâm chém. Không có cơ hội gieo trồng căn thiện, căn thiện đã gieo trồng thì bị hủy hoại. Có thể khiến cho hàng phàm phu ở trong ấy tạo nhân duyên tham dục nên bị đọa vào đường ác, do nhân duyên giận dữ, nhân duyên ngu si nên bị đọa vào đường ác, do nhân duyên lo sợ nên bị đọa vào đường ác. Nhà là nơi không có phẩm giữ giới, lìa bỏ phẩm định, không quán phẩm tuệ, không được phẩm giải thoát, không sinh phẩm giải thoát tri kiến. Sống ở nhà này, chỗ tham ái của cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, ngựa xe, càng làm tăng trưởng tham cầu, không biết chán đủ. Nhà như biển lớn thâu hết trăm sông khó đầy. Nhà là nơi chốn không biết đủ như lửa thiêu đốt củi. Nhà là nơi chốn giác quán nối tiếp không dứt, như gió thổi qua không trung. Nhà là thân sau xấu ác như thức ăn ngon có chất độc. Nhà là nơi mang tính khổ như kẻ oán phải giả làm thân. Nhà là vật cản trở, có thể gây hại cho Thánh đạo. Nhà là đầu mối của vô số mâu thuẫn tranh chấp giành giật lẫn nhau. Nhà là nơi có nhiều sân giận, trách cứ về tốt xấu. Nhà là chốn vô thường, dù lâu tan hoại. Nhà là nơi chứa nhiều khổ, vì phải tìm cầu các phương tiện để bảo vệ như thức ăn uống, y phục v.v… Nhà là nơi chốn có nhiều nghi ngờ như giặc oán. Nhà là vô ngã, điên đảo, tham chấp, giả gọi là có. Nhà như kỹ nữ, dù trang sức bằng nhiều thứ đẹp để ra người quý phái, nhưng trong giây lát hết vật trang sức trở lại thành bần tiện. Nhà là nơi chốn biến đổi, có hợp tất có tan. Nhà như trò ảo thuật, giả mượn hòa hợp, không có sự thật. Nhà như những thứ giàu sang thấy trong chiêm bao, phút chốc tan biến. Nhà như sương buổi sớm, giây lát tan mất. Nhà như chút mật, vị ngọt không có bao nhiêu. Nhà là lùm cây đầy gai nhọn, thọ nhận vị năm dục như gai nhọn đâm vào người. Nhà là nơi có nhiều trùng độc, giác quán bất thiện, thường rúc rỉa thân người. Nhà là chốn làm ô uế tịnh mạng, do hành nhiều lừa dối. Nhà là tâm sầu buồn với nhiều cặn đục tạp loạn. Nhà là nơi bị hủy hoại do vua, giặc, nước, lửa, kẻ oán, người thân. Nhà là chốn có nhiều bệnh, có nhiều thứ sai lầm.

Này trưởng giả! Bồ-tát tại gia nên nhận biết rõ về lỗi lầm của gia đình như thế.

Lại nữa:

Bồ-tát phải biết rõ

Lỗi xấu của tại gia

Gần gũi nơi bố thí

Trì giới thiện, tốt, vui.

Nếu thấy những người xin

Nên sinh tưởng năm, ba.

Bồ-tát tại gia nên nhận biết rõ về những lỗi lầm tai họa của gia đình như vậy. Phải hành bố thí, trì giới thiện tốt. Bố thí là bỏ tâm tham. Trì giới là nghiệp thân khẩu thanh tịnh. Thiện là khéo gồm thâu các căn. Tốt, vui là tâm đồng an lạc. Tưởng năm, ba là khi gặp trẻ con ăn xin nên sinh tưởng năm, ba. Ba tưởng đầu là tưởng tri thức thiện, tưởng chuyển thân giàu có, tưởng hỗ trợ Bồ-đề.

Lại có 3 tưởng: 1. Tưởng hàng phục tâm tham lam, keo kiệt. 2. Tưởng xả bỏ hết thảy. 3. Tưởng ham cầu được tất cả trí tuệ.

Lại có 3 tưởng: 1. Tưởng theo lời Như Lai dạy. 2. Tưởng không cầu quả báo. 3. Tưởng thâu phục các ma.

Lại có 3 tưởng: 1. Tưởng xem người đến xin như quyến thuộc mình. 2. Tưởng không buông bỏ nhiếp pháp. 3. Tưởng bỏ những thọ nhận không chính đáng.

Lại có 3 tưởng: 1. Tưởng lìa dục. 2. Tưởng tu tâm từ. 3. Tưởng không ngu si.

Nay sẽ giải thích tưởng thứ năm nơi ba tưởng:

1. Nhân có người đến xin, Bồ-tát khiến cho ba độc giảm mỏng, xả bỏ của cải đã bố thí, phát sinh tưởng lìa dục.

2. Nhân duyên đối với người đến xin ban cho niềm vui, khiến tâm sân hận mỏng đi, gọi là tưởng tu tập từ.

4. Đem bố thí này hồi hướng về đạo Bồ-đề vô thượng, tâm ngu si sẽ mỏng, đó gọi là tưởng không ngu si.

Nghĩa của các tưởng khác, cũng nên nhận biết như vậy.

Lại nữa:

Bồ-tát nhân người xin

Đủ sáu Ba-la-mật

Do các nhân duyên ấy

Thấy người xin vui lớn.

Sáu Ba-la-mật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Nhân có người đến xin mới có điều kiện hành đủ Ba-la-mật. Do lợi ích ấy nên khi thấy người xin từ xa đang đến, Bồ-tát sinh tâm rất vui mừng, nghĩ như vầy: Hành phước điền tự nhiên đến. Ta nhân nơi người này mới hành trì đủ sáu Ba-la-mật. Vì sao? Vì khi đem vật bố thí tâm không tham tiếc đó gọi là Bố thí Ba-la-mật. Bố thí cho họ là vì đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó gọi là Trì giới Ba-la-mật. Nếu không giận dữ đối với người ăn xin thì đó gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Khi đang hành bố thí, tâm không lo lắng, không sợ thiếu hụt, không thoái lui, đó gọi là Tinh tấn Ba-la-mật. Nếu cho người xin như cho chính mình, tâm nhất định không hối tiếc, đó gọi là Thiền định Ba-la-mật. Đem tất cả pháp không thể thủ đắc để hành bố thí, không cầu quả báo, như bậc Hiền Thánh không chấp trước. Dùng bố thí này hồi hướng về đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó gọi là Trí tuệ Ba-la-mật.

Lại nữa:

Quả báo vật bố thí

Vô số đều hay biết

Người tại gia xan, hối

Cũng biết đủ các lỗi.

Những vật đem bố thí đều được công đức, lợi vật. Người tại gia keo kiệt, hối tiếc, những lỗi xấu hiện có ấy, Bồ-tát thảy đều biết rõ.

Hỏi: Bố thí thì được công đức gì? Nếu người tại gia tiếc của, không bố thí thì có lỗi gì?

Đáp: Bồ-tát dùng trí tuệ đích thực để biết và Bồ-tát nhận biết như vầy: Vật đem cho rồi là vật của ta, vật còn trong nhà không phải là vật của ta. Vật đã cho rồi thì bền chắc, vật còn trong nhà không bền chắc. Vật đã cho là sự an lạc của đời sau, vật còn trong nhà chỉ là cái vui chốc lát. Vật đã cho thì không lo gìn giữ, vật còn trong nhà thì phải lo gìn giữ. Vật đã cho làm mỏng tâm tham ái, vật còn trong nhà làm gia tăng tâm ái dục.

Vật đã cho rồi không còn ngã sở, vật còn trong nhà là ngã sở. Vật đã cho không hệ thuộc về đâu, vật còn trong nhà có chỗ hệ thuộc. Vật đã cho không còn có lo sợ, vật còn trong nhà gây nhiều lo sợ. Vật đã cho trợ giúp đạo Bồ-đề, vật còn trong nhà chỉ giúp cho đạo ma. Vật đã cho thì không có hết, vật còn trong nhà thì có cạn. Vật đã cho thì từ đó đạt được an vui, vật còn trong nhà thì từ đó chỉ bị sầu khổ.

Bố thí rồi là xả bỏ phiền não, còn vật trong nhà thì tăng thêm phiền não. Vật đã cho thì đạt được cái vui giàu lớn, vật còn trong nhà thì không có được cái vui giàu lớn. Bố thí rồi là hành nghiệp của Đại nhân, vật còn trong nhà là hành nghiệp của tiểu nhân. Đã bố thí thì chư Phật khen ngợi, vật còn trong nhà thì hàng ngu si khen.

Lại nữa:

Đối vợ con, quyến thuộc

Cùng với tri thức thiện

Tài thí và nuôi sống

Nên sinh tưởng huyễn hóa

Hết thảy các hành nghiệp

Đều là nhà ảo thuật.

Đối với vợ con v.v… Bồ-tát tại gia nên sinh tưởng huyễn hóa. Như sự vật huyễn hóa thì chỉ dối gạt mắt người. Hành nghiệp là chủ huyễn. Các việc như vợ con v.v… không lâu cũng sẽ diệt. Như kinh nói: Phật bảo các Tỳ-kheo: Các hành như huyễn hóa, chúng dối gạt, làm mê hoặc kẻ ngu, không có sự thật. Phải biết do nơi nghiệp nên có, nghiệp hết liền diệt, cho nên như huyễn. Bồ-tát nên nghĩ như vầy:

Ta, phi sở hữu kia

Kia, phi sở hữu ta

Kia, ta đều thuộc nghiệp

Theo nhân duyên nghiệp có

Chánh tư duy như thế

Không nên khởi nghiệp ác.

Cha mẹ, vợ con, người thân, bạn quen, tôi tớ nam nữ đều không thể cứu ta, không thể làm nơi nương dựa, làm chỗ hướng đến cho ta được. Họ không phải là ta, không phải là những cái của ta, năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới hãy còn không phải là ta, không phải là cái của ta, huống chi là cha mẹ, vợ con v.v… Chính ta cũng không thể làm người cứu vớt cho họ, làm nơi nương dựa, làm chỗ hướng đến cho họ. Ta cũng thuộc về nghiệp, theo nghiệp nhận lấy quả. Những người kia cũng thuộc về nghiệp, theo nghiệp nhận lấy quả. Các quả báo tốt xấu như vậy, lường xét có 3 thứ:

  1. Có nghĩa lý sâu xa.
  2. Thấy nơi kinh nói.
  3. Thấy sự việc nơi đời này.

Không nên vì cha mẹ, vợ con v.v… khởi nghiệp ác nơi thân khẩu ý dù chỉ là mảy may.

Lại nữa:

Bồ-tát đối với vợ

Nên sinh tưởng ba, ba

Cũng lại có ba, ba

Và lại có ba, ba.

Bồ-tát tại gia sinh khởi ba tưởng: 1. Vợ là tưởng vô thường. 2.

Tưởng mất mát. 3. Tưởng hư hoại.

Lại có ba tưởng: 1. Là bạn cùng vui chơi, không phải bạn của đời sau. 2. Là bạn cùng ăn uống, không phải là bạn thọ nhận quả báo của nghiệp. 3. Là bạn có nhau lúc vui, không phải là bạn lúc khổ não.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng bất tịnh. 2. Tưởng hôi thối. 3. Tưởng đáng chán.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng oan gia. 2. Tưởng não hại. 3. Tưởng trái ngược nhau.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng La-sát. 2. Tưởng quỷ Tỳ-xá-xà. 3. Tưởng xấu xí, thô lậu.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng vào địa ngục. 2. Tưởng vào súc sinh. 3. Tưởng vào ngạ quỷ.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng gánh nặng. 2. Tưởng tổn giảm. 3. Tưởng thuộc về sợ hãi.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng phi ngã. 2. Tưởng không chắc chắn thuộc về. 3. Tưởng giả mượn.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng nhân đó khởi nghiệp ác của thân. 2. Tưởng nhân đó khởi nghiệp ác của miệng. 3. Tưởng nhân đó khởi nghiệp ác của ý.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng là xứ của giác dục. 2. Tưởng là xứ của giác sân. 3. Tưởng là xứ của giác não.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng gông cùm. 2. Tưởng xiềng xích. 3. Tưởng trói buộc.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng ngăn cản trì giới. 2. Tưởng ngăn cản thiền định. 3. Tưởng ngăn cản trí tuệ.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng hầm hố. 2. Tưởng lưới giăng. 3. Tưởng vây bọc.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng tai họa. 2. Tưởng tật bệnh. 3. Tưởng suy não.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng tội lỗi. 2. Tưởng thân đen tối. 3. Tưởng nạn mưa đá.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng bệnh. 2. Tưởng già. 3. Tưởng chết.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng ma. 2. Tưởng xứ của ma. 3. Tưởng xứ của sợ hãi.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng ưu sầu. 2. Tưởng áo não. 3. Tưởng khóc than.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng sài lang. 2. Tưởng cá Ma-kiệt lớn. 3. Tưởng mèo chồn lớn.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng rắn độc đen. 2. Tưởng loài cá Chiên. 3. Tưởng thế lực cướp đoạt.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng không cứu vớt. 2. Tưởng không nơi quay về. 3. Tưởng không nhà.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng mất mát. 2. Tưởng thoái lui. 3. Tưởng mệt nhọc hết sức.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng là giặc. 2. Tưởng là ngục tốt. 3. Tưởng là cai ngục ở địa ngục.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng bị giữ lại. 2. Tưởng bị trói. 3. Tưởng bị buộc.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng là bùn. 2. Tưởng sông trôi. 3. Tưởng bị chìm.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng cái cùm. 2. Tưởng vòng xích. 3. Tưởng bị niêm phong.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng đống lửa bốc cháy dữ. 2. Tưởng vòng đao. 3. Tưởng đuốc cỏ đang cháy.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng không lợi. 2. Tưởng gai gốc. 3. Tưởng ác độc.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng lấn hiếp kẻ trên. 2. Tưởng che phủ trùm khuất. 3. Tưởng tham chấp.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng giận dữ. 2. Tưởng roi gậy. 3. Tưởng đao, kiếm.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng phẫn nộ. 2. Tưởng tranh tụng. 3. Tưởng đánh bằng gậy.

Lại có ba tưởng: 1. Tưởng oán ghét phải gặp. 2. Tưởng ân ái chia lìa. 3. Tưởng náo loạn.

Nói tóm lại, đó là tưởng về tất cả sự hôi thối, xấu xí, bất tịnh. Tưởng về tất cả sự suy tổn, ô trược. Tưởng về hết thảy căn không thiện. Thế nên Bồ-tát tại gia đối với vợ con có những tưởng ấy, nên sinh tâm chán lìa, xuất gia tu tập điều thiện, hành thiện. Nếu không thể xuất gia được thì đối với vợ con, không nên khởi các nghiệp ác.

Lại nữa:

Nếu nơi con yêu sâu

Tức dùng sức trí xả

Nhân con hành bình đẳng

Thương khắp các chúng sinh.

Bồ-tát tại gia nếu tự biết đối với con cái tâm yêu mến sâu nặng, tức nên dùng sức trí để suy nghĩ cách xa lìa. Người có sức mạnh của trí nên suy nghĩ như vầy: Bồ-tát phải có tâm bình đẳng mới có quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Tâm còn phân biệt cao thấp thì không có Bồ-đề. Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng này, từ một tướng là vô tướng mới có được, không từ tướng dị biệt mà được. Ta nay cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng, nếu đối với con quá tham đắm, tức đã có tâm cao thấp, không gọi là bình đẳng, tức đã có tướng khác, không phải là một tướng. Nếu như vậy thì còn cách rất xa quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Do đó ta không nên sinh tâm quá tham ái đối với con.

Bấy giờ, với con nên phát sinh 3 tưởng:

1. Đối với ta, con là giặc. Phật nói: Tâm từ bình đẳng là để phá trừ lòng thương không bình đẳng, là tâm yêu thương quá thiên lệch.

2. Nhân gây tổn hại chính là con, vì đã phá bỏ các căn thiện, ngăn cản thọ mạng của chánh trí.

3. Ta nhân nơi con mà hành tác trái ngược với đạo, không hành thuận với đạo.

Khi ấy, nhân nơi con nên đối với các chúng sinh phát khởi hành tâm từ bình đẳng, nên suy nghĩ: “Con là từ nơi chốn khác đến đây, ta cũng từ nơi chốn khác đến đây. Con đến xứ lạ, ta cũng đến xứ lạ. Ta không biết xứ nó đến. Nó cũng không biết xứ ta đến. Nó không biết xứ ta về. Ta cũng không biết xứ nó về. Đứa con này không phải là sở hữu của ta. Vì sao vô cớ, ngang nhiên sinh ra tham ái trói buộc?”. Như kệ nói:

Con, ta không cùng biết

Nơi chốn đến cùng đi

Nó, ta sao thân nhau?

Mà sinh tâm ngã sở?

Lại nữa, trong nẻo sinh tử từ vô thỉ, hết thảy chúng sinh từng là con ta, ta cũng từng là con của các chúng sinh. Nơi pháp hữu vi, không có gì để quyết định đây là con ta, kia là con người khác. Vì sao? Vì các chúng sinh trong sáu đường luân chuyển, tất cả cùng là cha con, con cha. Như kệ nói:

Vô minh che mắt tuệ

Thường xuyên trong sinh tử

Qua lại tạo tác nhiều

Thay nhau làm cha con.

Tham đắm vui thế gian

Không biết việc thù thắng

Oán xem là thân quen

Thân quen cho là oán.

Thế nên phương tiện của ta là không sinh tâm yêu ghét. Vì sao? Nếu có tri thức thiện thì thường cầu mong nhiều thứ lợi ích. Nếu đó là oán thù thì thường sinh nhiều thứ tưởng vô ích. Có tâm yêu ghét ấy nên không có tưởng thông đạt các pháp bình đẳng. Người có tâm cao thấp, sau khi chết sẽ sinh vào chốn tà vạy. Người có hạnh chánh sẽ sinh vào chốn hạnh chánh. Do vậy, ta không nên hành hạnh tà, phải hành bình đẳng đối với hết thảy chúng sinh, sẽ đạt được Nhất thiết trí bình đẳng.

HẾT – QUYỂN 7