TẠI GIA BỒ TÁT GIỚI KINH GIẢNG LỤC

Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm dịch Phạn Hán
Thái Hư Đại Sư giảng
Thích Tịnh Nghiêm dịch Hán Việt

 

Phẩm mười chín: Bố thí Ba la mật

[Giải]    Từ đây trở xuống, biện minh sáu độ mà Bồ tát tu tập, còn mười bảy phẩm trên là giảng về kẻ tu hành sáu độ.

Phẩm này là thí độ, nhân vì văn chương quá dài, phân ra khắc bản trong hai quyển bốn và năm (bản gỗ), cho nên có tên là Tạp phẩm phần một, phần hai, kỳ thực chỉ là một phẩm. Đề là phẩm Tạp, cũng là do văn dài, nghĩa rộng, kỳ thực đều giảng về thí độ, nên đặt phẩm này là Đàn (bố thí) ba la mật mới đúng!

B2. Biện minh Bồ tát tu tập lục độ
C1. Bố thí độ
D1. Hỏi đáp về việc có thể làm

Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Bồ tát sau khi đã tu sáu Ba la mật, có thể làm được những việc gì cho chúng sinh?”

– Thiện nam tử! Vị Bồ tát đó có thể cứu vớt những chúng sinh đang chìm đắm trong biển khổ.

[Giải]    Ý của Thiện Sinh muốn hỏi: “Những kẻ đã tu sáu độ, có thể làm những điều lợi ích gì cho chúng sinh?”

Biển khổ, tức là ba cõi, do vì chúng sinh trong sáu nẽo đều không thể thoát ly sự khổ, cho nên dùng chữ “biển” để chỉ cho sự sâu rộng của sự khổ.

Như trong ba khổ, có khổ khổ, tức là sự khổ của sinh, lão, bệnh, tử của chúng sinh. Lại có hoại khổ, tức là cõi người đôi lúc cũng có sự vui sướng, cõi trời tuy hưởng thọ nhiều sự vui sướng, nhưng đến lúc hết vui thì lại là khổ; lại còn hành khổ, tức là sự khổ của vô thường không trụ. Do vì chúng sinh đều ở trong cảnh khổ, giống như ngựa bị sa lầy, không thể tự giải thoát.

Cõi người, tuy có trí tuệ, nhưng vẫn bị ngũ dục chìm đắm, khó có thể nhìn rõ sự thực, cũng có kẻ muốn vượt thoát, nhưng lại gặp bọn tà ma ngoại đạo, bị chúng trói buộc, cũng khó mà vượt thoát được.

Nếu có vị Bồ tát phát tâm Bồ đề, tu hành lục độ, ắt có thể cứu bạt những chúng sinh trong biển khổ này.

D2. Biện minh chi tiết về Bố thí độ
E1. Nêu sơ lược thể của Bố thí

Thiện nam tử! Nếu có kẻ nào sinh tâm bỏn sẻn đối với của cải, Phật pháp, hay thức ăn, phải nên biết kẻ đó, ở trong vô lượng đời, sẽ bị quả báo nghèo khổ. Bởi thế, Bồ tát khi tu hành Bố thí Ba la mật, cần phải làm lợi ích cho chính mình và mọi người.

Thiện nam tử! Nếu có người ưa thích bố thí, xem kẻ thù như người thân, giúp cho kẻ không tự do được tự do, tin tưởng quả báo của sự bố thí và sự trì giới, kẻ đó sẽ được thành tựu quả báo của sự bố thí.

Thiện nam tử! Có người cho rằng “Sự bố thí chỉ là ý tưởng. Vì sao? Ý tưởng là cội gốc của sự bố thí.” Nghĩa này không đúng! Vì sao? Sự bố thí liên quan đến năm ấm. Tại sao như vậy? Do ba nghiệp thân, miệng, ý mà thành tựu sự bố thí. Sự bố thí, nếu lợi mình, lợi người, và lợi cho cả hai bên, thì phải liên quan đến cả năm ấm. Sự bố thí như vậy có thể trang nghiêm đạo Bồ đề. Quả báo chính của sự bố thí là xa lìa phiền não, giàu có nhiều của cải; còn quả báo phụ của sự bố thí là được sống lâu, sắc đẹp, sức khỏe, sung sướng, và sự khéo ăn nói. Quả báo bố thí có ba loại: một là vì vật bố thí thù thắng, đưa đến quả báo thù thắng; hai là vì phước điền thù thắng, đưa đến quả báo thù thắng; ba là vì kẻ bố thí thù thắng, đưa đến quả báo thù thắng. Phước điền thù thắng, nghĩa là từ các vị Tu đà hoàn hướng, nhẫn đến các vị hậu thân Bồ tát; bố thí những vị này, sẽ được quả báo thù thắng. Nếu vật bố thí đầy đủ màu sắc, hương thơm, mùi vị, cùng sự chạm xúc vi diệu, thì gọi là vật bố thí thù thắng; bố thí những vật như vậy được quả báo thù thắng. Nếu người bố thí có lòng tin nồng hậu, thuần thành, lại còn tu tập đầy đủ những hạnh bố thí, trì giới, nghe nhiều, trí tuệ, thì gọi là người bố thí thù thắng, kẻ bố thí đó sẽ được quả báo thù thắng.

[Giải]    Bộ kinh này là kinh điển khai thị Bồ tát tại gia tu hành Bồ tát hạnh, mà bố thì là điều mà Bồ tát tại gia dễ thực hành, cho nên đặc biệt chú trọng đến việc thuyết minh về bố thí ba la mật.

Ngũ ấm tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Lúc bố thí, sắc thân, cảm thọ, tưởng tượng, hành uẩn (sát na sinh diệt tương tục), cùng ý thức và năm thức trước (của người bố thí) đều là thể của sự bố thí.

Bố thí có thể đoạn trừ các phiền não bỏn sẻn, tham lam; vì bỏn sẻn, tham lam là đầu đàn của các phiền não, cho nên bố thí trong hiện đời có thể đoạn trừ được bỏn sẻn, tham lam, đồng thời lại được quả báo giàu có trong đời sau. Còn những quả báo khác, như tuổi thọ dài lâu, sức khoẻ dồi dào, thân tâm an lạc, ăn nói hùng biện, đều là do quả báo của bố thí đưa đến.

Hậu thân Bồ tát, tức là Nhất sinh bổ xứ Bồ tát, giống như Đức Bồ tát Di Lặc hiện nay đang ở Đâu suất nội viện, kế đó, giáng sinh xuống trần, ắt là Hậu thân Bồ tát, tức thân thành Phật.

E2. Phân biệt hành tướng của sự bố thí
F1. Năm loại bố thí

Thiện nam tử! Người trí thực hành năm loại bố thí: một là hết lòng bố thí, hai là tự tay mình bố thí, ba là bố thí với lòng tin, bốn là bố thí đúng lúc, năm là bố thí đúng như pháp.

Thiện nam tử! Hết lòng bố thí sẽ được những quả báo nào? Nếu người hết lòng bố thí, thì họ sẽ được của cải tràn đầy, vàng bạc, lưu ly, xa cừ, trân châu, voi, ngựa, trâu, dê, ruộng vườn, nhà cửa, tôi tớ, quyến thuộc đông nhiều. Người hết lòng bố thí sẽ được những quả báo như vậy! Tự tay mình bố thí sẽ được những quả báo nào? Nếu người tự tay mình bố thí, thì cũng sẽ được quả báo như vừa nói trên, và có thể tự mình hưởng dụng. Người tự tay mình bố thí sẽ được những quả báo như vậy! Người bố thí với lòng tin sẽ được những quả báo nào? Người bố thí với lòng tin sẽ được những quả báo như vừa nói trên, hơn nữa, thường được cha mẹ, anh em, họ hàng, cùng tất cả chúng sanh yêu mến. Người bố thí với lòng tin được những quả báo như vậy! Người bố thí đúng lúc sẽ được những quả báo nào? Người bố thí đúng lúc sẽ được những quả báo như vừa nói trên, hơn nữa, mọi việc mong cầu đều được toại nguyện. Người bố thí đúng lúc được những quả báo như vậy! Người bố thí đúng như pháp sẽ được những quả báo nào? Người bố thí đúng như pháp sẽ được những quả báo như vừa nói trên, hơn nữa, của cải không bị mất mát bởi sự xâm hại của nhà cầm quyền, giặc cướp, nước, lửa, v.v…

[Giải]    Đoạn này thuyết minh năm loại bố thí sẽ đưa đến năm loại quả báo.

F2. Bố thí bốn trần: sắc, hương, vị, xúc

Nếu bố thí những vật màu sắc lộng lẫy, người đó sẽ được quả báo dung mạo đẹp đẽ; nếu bố thí những vật thơm tho, người đó sẽ được quả báo tiếng tăm lừng lẫy; nếu bố thí thức ăn ngon quí, người đó sẽ được quả báo người khác ưa gần gũi, sau khi gần gũi, sinh lòng yêu mến, kính trọng. Nếu bố thí vật mềm mại, người đó sẽ được quả báo những vật mềm mại vi diệu nhất. Sau khi người xin nhận thọ, người bố thí sẽ được những quả báo như tuổi thọ, sắc đẹp, sức lực, an vui, và tài khéo ăn nói.

Thiện nam tử! Có người cho rằng “Bố thí nơi tháp tượng, sẽ không được những quả báo, như tuổi thọ, sắc đẹp, sức lực, tài khéo ăn nói, v.v…, vì không có người thọ nhận.” Điều này không đúng! Vì sao? Vì người bố thí có lòng tin. Người bố thí có lòng tin khi làm việc bố thí, cho nên phải được năm quả báo như vậy.

Thiện nam tử! Ví như một vị tỳ kheo tu tập lòng từ bi, tuy trên thực tế, không có người thọ nhận lòng từ bi của vị tỳ kheo đó, thế nhưng, vị tỳ kheo đó vẫn được vô lượng quả báo. Bố thí nơi tháp tượng được năm quả báo, cũng giống như vậy.

Thiện nam tử! Như người trồng lúa, quyết chắc sẽ không sinh ra dưa; bố thí nơi tháp tượng, cũng giống như vậy. Bởi vì đó là phước điền, nên được những quả báo như vậy. Cho nên, do ba nhân duyên: phước điền, của vật, và người bố thí, mà được quả báo.

[Giải]    Đoạn này thuyết minh, dùng màu sắc lộng lẫy, hương thơm, thức ngon, vật mềm mại bố thí, ắt sẽ được các quả báo thọ mệnh dài lâu, sắc đẹp lộng lẫy, sức lực dồi dào, vui sướng, ăn nói hùng biện.

Năm quả báo, tức là thọ mệnh, sắc đẹp, sức lực, vui sướng và tài ăn nói.

E3. Hai loại, ba loại bố thí

Thiện nam tử! Bố thí có hai loại: một là pháp thí, hai là tài thí. Bố thí chính pháp được hai loại quả báo là của cải châu báu và chính pháp; còn bố thí của cải chỉ được quả báo của cải châu báu. Bồ tát vì hai sự kiện mà tu hành hai loại bố thí này: một là làm cho chúng sinh xa lìa khổ não, hai là làm cho tâm của chúng sinh được điều phục.

Thiện nam tử! Lại có ba loại bố thí: một là bố thí chánh pháp, hai là bố thí sự không khiếp sợ, ba là bố thí của cải. Bố thí chánh pháp, nghĩa là dạy bảo người khác thọ giới, xuất gia, tu hành, làm pháp bạch tứ yết ma, giảng nói chánh pháp để phá hủy tà kiến, phân biệt giảng nói những điều chân thực không chân thực, giảng nói bốn sự điên đảo, cùng sự không phóng dật. Đây gọi là bố thí chánh pháp. Nếu Bồ tát thấy kẻ nào khiếp sợ nhà cầm quyền, sư tử, cọp, sói, chỗ có nạn nước, lửa, trộm cướp, v.v…, bèn có thể cứu vớt họ. Đây gọi là bố thí sự không khiếp sợ. Đối với của cải của mình, hoặc tốt hoặc xấu, hoặc nhiều hoặc ít, đều không sanh tâm tham tiếc. Đối với của cải như trâu, dê, voi, ngựa, nhà cửa, giường ghế, cây cối, ao giếng, nô bộc, tôi tớ, trâu, lạc đà, xe cộ, kiệu cáng, bình, chậu, nồi chảo, giường chiếu, tọa cụ, đồ đồng, đồ sắt, đồ sành, quần áo, đồ trang sức, đèn đuốc, hương, hoa, quạt, dù, mũ, dép, ghế, gậy, dây thừng, cầy, bừa, búa, rìu, cỏ, cây, nước, đá, v.v…, đều đem bố thí, tùy theo sở thích của người xin; đây gọi là bố thí của cải. Hơn nữa, nên xây chùa chiền hoặc tịnh thất bố thí cho những kẻ xuất gia, trừ bố thí voi, ngựa.

[Giải]    Đoạn này thuyết minh tướng trạng của hai loại, ba loại bố thí.

Pháp thí, tức là dùng chánh pháp khải phát chánh kiến, chánh niệm, chánh tín, chánh hạnh, chánh trí tuệ, v.v…, cho kẻ khác. Vô úy thí (bố thí sự không sợ), tức là nếu chúng sinh gặp sự khủng bố sợ hãi, có thể làm cho họ xa lìa, đây gọi là bố thí sự không sợ.

Bạch tứ yết ma, tức là phép bạch yết ma trong quá trình truyền thọ giới (tỳ kheo) cho người xuất gia.

Bốn điên đảo, tức là vô thường cho là thường, bất tịnh cho là tịnh, không vui cho là vui, vô ngã cho là ngã.

E4. Trừ chướng ngại của việc bố thí

Thiện nam tử! Có bốn điều chướng ngại cho sự bố thí: (1) tâm tham lam bỏn sẻn, (2) không tu bố thí, (3) coi thường vật nhỏ, (4) cầu quả báo thế gian. Có hai pháp trừ được bốn sự chướng ngại này: (1) tu tập vô ngã, (2) tu tập vô thường.

Thiện nam tử! Nếu muốn ưa thích bố thí, phải diệt trừ năm việc: (1) tâm sân hận, (2) tâm san tham, (3) tâm ghen ghét, (4) tham tiếc thân mệnh, (5) không tin nhân quả. Diệt trừ được năm việc như thế, sẽ ưa thích bố thí. Kẻ ưa thích bố thí, sẽ được năm điều lợi ích: (1) không bao giờ xa lìa bậc thánh nhân, (2) tất cả chúng sinh đều ưa thấy, (3) vào trong đám đông tâm không sợ hãi, (4) được tiếng tăm tốt, (5) trang nghiêm Bồ đề.

Thiện nam tử! Bồ tát còn có tên là “Bố thí tất cả”. Kẻ nào thường bố thí với tâm thanh tịnh, thì gọi là bố thí tất cả; tuy có ít của cải, vẫn có thể bố thí, gọi là bố thí tất cả; đối với vật mình ưa thích, có thể phá trừ tâm sẻn tiếc để bố thí, gọi là bố thí tất cả; bố thí mà không cầu quả báo, gọi là bố thí tất cả; lúc bố thí, không phân biệt là phước điền hay không, gọi là bố thí tất cả; bố thí bình đẳng cho người thân kẻ thù, gọi là bố thí tất cả; Có hai loại đối tượng cho sự bố thí của Bồ tát: một là chúng sinh, hai là phi chúng sinh. Khi Bồ tát bố thí cho hai loại này, nhẫn đến thân mình cũng không tiếc nuối, gọi là bố thí tất cả. Bồ tát do lòng thương xót mà bố thí, gọi là bố thí tất cả. Lúc khởi tâm bố thí, lúc đang bố thí, sau khi bố thí, đều không hối tiếc, gọi là bố thí tất cả. Đôi lúc, hoặc tự mình, hoặc bị người khác bắt buộc, cũng không đem những vật không thích đáng (Hán: bất tịnh), chẳng hạn như rượu, thuốc độc, dao, gậy, gông xiềng, v.v…, để bố thí, mặc dù điều này làm cho người nhận vui mừng. Không bố thí người bệnh thức ăn, hoặc thuốc men không tinh khiết. Không trộm cướp đồ vật kẻ khác, dù một đồng tiền, để đem bố thí. Bồ tát, lúc bố thí, tuy được tự tại, cũng không bao giờ đánh mắng tôi tớ, làm cho họ sinh lòng hờn giận, khổ não. Bố thí của cải đúng pháp mà không mong cầu quả báo đời này hoặc đời sau. Sau khi bố thí, thường quán sát lỗi lầm của phiền não, quán sát sâu xa những công đức vi diệu của Niết bàn. Không mong cầu điều gì khác hơn là Vô thượng Bồ đề.

Lúc bố thí cho kẻ nghèo, khởi lòng thương xót; lúc bố thí cho bậc phước điền, sinh lòng cung kính; lúc bố thí cho người thân, bạn bè, không khởi tâm coi như của bỏ (Hán: phóng xả tâm); nếu thấy người đến xin, biết được sự cần dùng của họ, cung cấp tùy theo sở cầu, mà không đợi kẻ đó mở lời van xin. Vì sao? Bố thí mà không đợi người khác cầu xin, sẽ được vô lượng phước báo.

[Giải]    Đoạn này thuyết minh sự phá trừ bốn loại chướng ngại; đối với hành tướng của sự bố thí, phải phá trừ bốn sự chướng ngại, thì mới có thể bố thí tất cả.

E5. Biện minh về thí chủ

Thiện nam tử! Kẻ bố thí có ba hạng: hạ, trung, thượng. Bậc hạ là kẻ không tin nghiệp báo, tính tình keo kiết, sợ hết của cải, thấy người đến xin, sinh lòng hiềm giận xua đuổi; bậc trung là kẻ tuy tin nghiệp báo, nhưng vẫn còn sẻn tiếc, sợ hết của cải, thế nhưng thấy người đến xin thì vẫn bố thí; bậc thượng là kẻ tin sâu nghiệp báo, không còn tâm sẻn tiếc, quán sát tài sản là vật vô thường, thấy có người đến xin, nếu còn của cải để bố thí, thì cảm thấy mừng rỡ, nếu không còn của cải để bố thí, tâm rất buồn rầu áy náy, đem thân mình đổi lấy tài vật để bố thí cho kẻ đến xin. Lại nữa, bậc hạ là kẻ thấy người đến xin, ngoảnh mặt làm lơ, lại còn mắng chửi, hạ nhục; bậc trung là kẻ tuy cũng bố thí, nhưng lại khinh khi coi rẻ người đến xin; còn bậc thượng là kẻ tuy chưa xin đã bố thí, và bố thí một cách cung kính. Lại nữa, bậc hạ là kẻ muốn quả báo hiện đời mà bố thí; bậc trung là kẻ muốn quả báo đời sau mà bố thí; còn bậc thượng là kẻ vì thương xót mà bố thí. Lại nữa, bậc hạ là kẻ vì báo ơn mà bố thí; bậc trung là kẻ vì muốn tạo nghiệp lành mà bố thí; còn bậc thượng là vì muốn tăng trưởng kho tàng pháp của chính mình mà bố thí. Lại nữa, bậc hạ vì háo thắng mà bố thí; bậc trung muốn kẻ đến xin được như mình mà bố thí; còn bậc thượng thì không phân biệt người thân kẻ thù. Lại nữa, bậc hạ có của nói không có; bậc trung có nhiều nói ít; còn bậc thượng xin ít cho nhiều. Kẻ bố thí không có của cải cũng có ba bậc. Bậc hạ thấy người đến xin, khởi tâm giận dữ trách mắng; bậc trung thấy người đến xin, nói thẳng là không có; còn bậc thượng thấy người đến xin, hổ thẹn mình không có vật bố thí, lòng sinh lo buồn. Lại nữa, bậc hạ là kẻ thường bị các bậc thánh hiền quở trách; bậc trung là kẻ được các bậc thánh hiền thương xót; còn bậc thượng là kẻ các bậc thánh hiền thấy mặt liền sinh lòng hoan hỷ.

[Giải]    Ở đây biện minh thí chủ có ba bậc thượng, trung, hạ.

E6. Quán sát nghĩa lý của sự bố thí

Thiện nam tử! Người trí thực hành bố thí, vì muốn lợi mình lợi người, biết rằng tài vật đều là vô thường, vì muốn làm cho chúng sinh vui mừng, vì thương xót chúng sinh, vì muốn phá trừ tính bỏn sẻn, vì muốn cầu mong quả báo đời sau, vì muốn trang nghiêm đạo Bồ đề, vì thế Bồ tát sau khi bố thí tất cả, không sinh lòng hối tiếc, không lo hao hụt của cải, không xem thường tài vật, không xem thường thân mình, cũng không lựa chọn ngày giờ, cũng không phân biệt kẻ đến xin, thường nghĩ tưởng đến người xin giống như là kẻ đói tưởng nghĩ đến thức ăn, gần gũi bạn lành, hỏi han, thọ trì chánh pháp; thấy người đến xin, sinh lòng hoan hỷ, giống như người đem được của ra khỏi nhà đang bị cháy; vui mừng ca ngợi công đức bố thí; thường nói những lỗi lầm của sự quyến luyến tài vật. Sau khi bố thí, sinh lòng vui mừng, giống như gửi gấm của cải cho kẻ lành; lại còn nói với người đến xin: “Ông nay chính thực là nhân công đức của tôi. Hôm nay tôi rời được tâm bỏn sẻn tham lam là do ông đến cầu xin.” Tức thời đối với người đến xin bằng tấm lòng thân ái. Sau khi bố thí, lại dạy người đến xin phải y như pháp mà giữ gìn, siêng năng cúng dường Phật pháp tăng bảo. Bồ tát nếu có thể ưa thích bố thí như vậy, thì có thể lìa xa sự phóng dật; dù cho có đem bộ phận trên thân thể mà bố thí, thì cũng không bao giờ khởi tâm, sinh một niệm ác. Do đây mà được tăng trưởng từ bi hỷ xả. Không xem thường người xin, cũng không tự cao, tự tâm vui mừng vì có thể bố thí đồ vật xứng với ý muốn của người đến xin. Tăng trưởng lòng tin, không còn nghi ngờ nghiệp báo.

Thiện nam tử! Nếu có thể như thế quán tướng vô thường của tài sản, quán sát chúng sinh như đứa con một của mình, thì kẻ đó mới có thể làm việc bố thí.

Thiện nam tử! Kẻ đó không còn bị tâm bỏn sẻn làm lay động, giống như núi Tu Di không còn bị gió làm lay động. Những kẻ như vậy, mới có thể làm chỗ nương tựa cho chúng sinh, kẻ đó có thể đầy đủ Bố thí ba la mật.

[Giải]    Ở đây thuyết minh trong lúc bố thí, nếu tu quán “ly”, sẽ thành Bố thí Ba la mật.

E7. Có thể ưa thích bố thí

Thiện nam tử! Người trí, vì bốn việc mà ưa thích thực hành bố thí: (1) do bố thí mà có thể phá phiền não; (2) do bố thí mà phát nhiều lời nguyện; (3) do bố thí mà được an lạc; (4) do bố thí mà được giàu có.

Thiện nam tử! Tâm không tham gọi là bố thí. Thế nào là không tham? Bố thí tức là hành nghiệp, tài vật tức là sự tạo tác. Bố thí mà đầy đủ hai yếu tố hành nghiệp và tạo tác, thì gọi là không tham. Nhân sự bố thí phá trừ phiền não, có nghĩa là sự bố thí có thể phá trừ sự bỏn sẻn, keo kiết, giận dữ, ngu si. Thế nào là nhân sự bố thí phát nhiều lời nguyện? Bởi do sự bố thí, có thể phát nhiều thệ nguyện, hoặc thiện hoặc ác. Do thệ nguyện thiện ác này mà bị quả báo hoặc thiện hoặc ác. Vì sao? Vì lực lượng của các thệ nguyện này vậy. Thế nào là do bố thí mà được an lạc? Bởi vì do sự bố thí mà được những quả vui ở loài trời loài người, nhẫn đến quả vui vô thượng. Thế nào là do bố thí mà được giàu có? Bởi do sự bố thí mà tất cả điều nguyện cầu, như vàng, bạc, nhẫn đến gia súc, đều được toại ý.

Thiện nam tử! Nếu có người ưa bố thí, kẻ ấy sẽ trừ được năm pháp ác: (1) tà kiến, (2) không tín tâm, (3) buông lung, (4) bỏn sẻn, (5) giận dữ và ngu si. Sau khi lìa pháp ác, tâm sinh vui mừng, do sự vui mừng mà dần dần được sự giải thoát chân chánh. Người đó hiện đời được bốn quả báo: (1) mọi người, dù kẻ oán thù, cũng thích thấy mặt, (2) tiếng tốt lan rộng khắp mọi nơi, (3) đứng trước đám đông không khiếp sợ, (4) tất cả người lành đều đến nương nhờ.

Thiện nam tử! Sau khi tu tập bố thí, tâm không hối hận. Kẻ đó dù bị khách trần phiền não làm cho đọa địa ngục, tuy ở nơi ác, nhưng không bị đói khát, do nhân duyên này mà không bị hai thứ khổ: (1) khổ ăn hòn sắt nóng, (2) khổ uống nước sắt sôi. Nếu đọa vào súc sinh, thì thức ăn dễ tìm, không bị thiếu thốn. Nếu đọa vào ngạ quỷ, thì không bị đói khát, thường được no đủ. Nếu được thân người, thì thọ mệnh, sắc đẹp, sức lực, vui sướng, tài ăn nói, cùng tín, giới, thí, đa văn, trí tuệ đều hơn người khác, Tuy ở trong đời ác mà không làm ác, tuy gặp lúc thiên tai mà vẫn tránh khỏi. Tuy ở nơi nguy hiểm, vẫn không sinh tâm lo sợ. Nếu làm thân trời, được mười thứ thù thắng.

Thiện nam tử! Người trí vì hai việc mà bố thí: (1) điều phục tâm mình, (2) phá hoại tâm oán hận. Đức Như Lai cũng nhờ đây mà được gọi là bậc Vô Thượng Tôn. Thiện nam tử! Người trí bố thí xong rồi, không cầu người xin tưởng nhớ mình, cũng không cầu danh tiếng, tránh được sự lo sợ, không cầu người lành đến nương nhờ mình, cũng không cầu quả báo trời người, mà thường quán sát hai việc: (1) đem tài sản không bền (hữu lậu) đổi lấy tài sản bền chắc (pháp thân), (2) không bao giờ chiều theo lòng bỏn sẻn. Vì sao? Những của cải đó, nếu ta mất đi, cũng không đi theo ta, bởi vậy, phải nên tự tay mình bố thí, không nên vì mất của mà sinh buồn rầu, mà phải nên vì sự bố thí mà sinh tâm vui mừng.

Thiện nam tử! Người cho trước tiên nên thử thách tâm mình, đem của cải bố thí; sau khi tâm đã được điều phục, kế đó đem thân thể bố thí. Nhân vì hai sự bố thí đó, mà được hai pháp: (1) vĩnh viễn xa lìa ba cõi, (2) được giải thoát chân chánh.

Thiện nam tử! Giống như người đi xa, thân mang đồ vật nặng nề cực khổ, nếu vứt bỏ được ắt sinh vui mừng. Kẻ tu hạnh bố thí,  thấy người đến xin, xả bỏ tài sản bố thí, cũng giống như vậy.

[Giải]    Đoạn này thuyết minh hành tướng của vị thí chủ ưa thích bố thí.

Khách trần phiền não, nghĩa là phiền não khởi lên do tập khí phiền não đời trước, hoặc do hoàn cảnh quan hệ, chứ không phải do mình tự chủ hay tự nguyện phát khởi.

Tài sản không bền, tức là những vật dễ hư hoại trên thế gian. Tài sản bền chắc, tức là tài sản công đức (thất thánh tài).

E8. Khuyên người nghèo bố thí

Thiện nam tử! Người trí suy nghĩ như thế này: “Nếu muốn mang vật này theo ta qua đến đời sau, thì không gì hơn sự bố thí”. Lại phải nên quán sát nỗi khổ của sự bần cùng, nỗi vui sướng của sự giàu sang, thế nên thường tưởng nghĩ vui thích việc bố thí.

Thiện nam tử! Nếu người có của cải, thấy kẻ đến xin, lại nói là không có, nên biết kẻ ấy đang nói đến sự nghèo hèn bạc phước của chính họ trong đời vị lai. Kẻ ấy gọi là kẻ buông lung.

Thiện nam tử! Kẻ không có của cải, tự cho rằng mình không có của cải. Điều này không đúng. Vì sao? Tất cả nước, cỏ ngoài đồng, đều là tài sản chung của mọi người. Tuy là nhà vua, chưa chắc có thể bố thí, tuy là kẻ nghèo, chưa chắc là không thể bố thí. Vì sao? Vì người nghèo cũng có phần ăn. Ăn xong rửa bát, nước đó đáng lẽ đem bỏ, thì đem bố thí cho loài khác, cũng được phước đức. Nếu đem chút bột bố thí cho loài kiến, cũng được vô lượng phước đức. Kẻ dù nghèo nhất trong thiên hạ, chẳng lẽ không có được chút bột? Có ai ngày ăn ba vắt cơm, mà mạng sống bị nguy ngập không? Cho nên mọi người nên đem nửa phần ăn của mình bố thí cho người xin.

Thiện nam tử! Ai là kẻ nghèo đến độ lõa lồ không có quần áo mặc? Nếu có quần áo, chẳng lẽ không thể bố thí một miếng vải nhỏ để kẻ khác buộc vết thương, hoặc một miếng vải nhỏ chỉ độ ngón tay để làm tim đèn hay sao?

Thiện nam tử! Trong thiên hạ, ai là kẻ nghèo đến nỗi không có thân thể? Nếu như có thân, thấy người khác làm việc phước đức, nên đến giúp đỡ, vui mừng, tận tụy. Đây cũng gọi là người bố thí, cũng được phước đức. Phước đức do sự giúp đỡ ấy, hoặc kém hơn, hoặc bằng, hoặc có khi hơn cả kẻ chủ động. Vì lý do này, khi thọ dụng thức ăn cúng dường của vua Ba Tư Nặc, ta chú nguyện phước đức bố thí của đức vua và của kẻ bần cùng bằng nhau không khác.

Thiện nam tử! Như người mua bốn loại hương: hương nước, hương thoa, hương bột, hương đốt. Bốn loại hương này, hoặc người xúc chạm, hoặc người mua, hoặc người cân, tuy đều ngữi mùi thơm, thế nhưng, mùi thơm của hương không hề hao giảm. Công đức của sự tu tập bố thí cũng giống như vậy. Dù ít, dù nhiều, dù lớn, dù nhỏ, nếu như khởi tâm tùy hỷ, hoặc dùng sức lực phụ giúp, hoặc tuy ở xa, nghe việc thiện của kẻ khác sinh tâm vui mừng, vì trong ba trường hợp (tùy hỷ, phụ giúp, vui mừng), tâm đều như nhau, cho nên quả báo cũng bằng như nhau, không có sai khác.

Thiện nam tử! Nếu như không có của cải, thấy người khác bố thí, trong lòng không vui mừng tin tưởng, lại còn nghi ngờ các bậc phước điền, đây gọi là kẻ bần cùng. Nếu như có nhiều của cải, quyền uy thế lực, tuy gặp được các bậc phước điền chân thực, thế nhưng, không có lòng tin, cũng không chịu bố thí, đây cũng gọi là kẻ bần cùng; bởi thế, người trí dù có ít nhiều, nên đem hết khả năng mình ra bố thí. Ngoài pháp bố thí ấy ra, không có pháp nào có thể giúp hành giả được quả vui trời người, nhẫn đến quả vui vô thượng. Do đây, trong khế kinh có nói: “Người trí quán sát như vầy: Như có một nắm cơm, nếu ăn thì sẽ sống, nếu cho người khác thì sẽ chết đói, trong trường hợp như vậy còn phải nên bố thí, huống là có nhiều của cải?”

Thiện nam tử! Người trí nên quán sát của cải là vô thường, vì là vô thường cho nên trong vô lượng đời, tuy đã từng hư hao mất mát bao nhiêu tài sản, mà vẫn không được lợi ích. Ngược lại, tuy của cải là vô thường, thế nhưng, nếu có thể bố thí, thì sẽ được vô lượng lợi ích. Nếu vậy, tại sao vẫn còn bỏn sẻn, không chịu bố thí? Người trí lại quán sát trên thế gian có những kẻ trì giới,  học rộng, đa văn, do lực lượng của nhân duyên trì giới, đa văn này mà được quả vị A la hán, tuy được quả vị như thế, vẫn không ngăn chận, đoạn trừ được quả báo khổ não của sự đói khát. Nếu như các vị A la hán bị thiếu thốn những phương tiện như phòng nhà, quần áo, thức ăn uống, giường chiếu, thuốc men, đây là đều do nhân duyên đời trước không chịu bố thí. Những kẻ phá giới, nếu ưa làm việc bố thí, kẻ đó tuy đọa vào ngạ quỷ, hoặc súc sinh, vẫn thường được ăn uống no đủ, không bị thiếu thốn.

Thiện nam tử! Ngoài pháp bố thí, không có pháp nào đem đến hai quả báo: một là tự tại, hai là giải thoát. Còn như người trì giới, tuy được sinh lên trời, nhưng vì không tu tập bố thí, không được ăn những món ngon thù thắng, cùng những trang sức thượng diệu. Người trí nên quán sát sinh tử không có bờ bến, sự vui của bố thí cũng như vậy, rộng lớn không có bờ bến. Bởi vậy, phải nên bố thí là vì muốn trừ đoạn sinh tử, chứ không phải vì muốn cầu quả báo vui trời người. Lại phải quán như thế này: “Dù là giàu có, ruộng đất rộng bốn châu thiên hạ, hưởng thọ sự vui vô lượng, ta cũng sẽ vẫn không thỏa mãn. Cho nên ta phải vì quả vui vô thượng mà làm việc bố thí, không nên vì quả vui trời người. Vì sao? Vì sự vui trời người là vô thường, là có giới hạn.”

[Giải]    Ở đây thuyết minh, tuy là người nghèo, cũng có thể làm việc đáng làm là bố thí.

E3. Luận về ý nghĩa của sự cho và nhận
F1. Nói lược về cho và nhận

Thiện nam tử! Nếu có người cho rằng: “Người thí, người nhận, cùng vật bố thí, đều là năm ấm, mà năm ấm là pháp vô thường, như vậy thí xả năm ấm, ai là người thọ nhận pháp năm ấm này? Tuy không có người thọ nhận, thế nhưng, quả báo lành vẫn không hoại diệt, do đây biết rằng không có người bố thí.” Phải nên hỏi ngược lại kẻ đó như sau: “Có kẻ bố thí cùng người thọ nhận hay không?” Nếu họ trả lời: “Bố thí tức là sự bố thí, còn kẻ thọ nhận tức là ngã”. Nên nói với họ rằng: “Lập trường tôi cũng vậy, bố thí tức là sự bố thí, còn ngã tức là năm ấm”.

[Giải]    Đoạn này biện minh sự bố thí sẽ được quả báo, không phải hoàn toàn vô ích.

Hoặc có người cho rằng người trí, người thọ, vật thí, đều là không, ắt không thể thành lập hành tướng và quả báo của sự bố thí.

Đức Phật nói bố thí ắt thọ quả báo, tất cả đều là ngũ ấm tương tục bất đoạn.

F2. Ấm làm ấm thọ

Nếu hỏi: “Sau khi năm ấm của kẻ bố thí ở nơi đây bị biến diệt, thì ai là kẻ thọ quả báo của sự bố thí ở nơi kia?” Hãy chú ý nghe, ta sẽ giảng cho ông biết. “Hạt giống là thường hay vô thường?” Nếu bọn họ nói là thường, tại sao khi nẩy ra mầm, hạt giống lại bị hủy diệt? Nếu đối phương thấy lập luận của họ không đúng, bèn cho rằng hạt giống là vô thường, thì nên nói với bọn họ rằng: “Nếu hạt giống là vô thường, tại sao lại có thể nẩy mầm khi được ánh sáng, bón phân, tưới nước, v.v…?” Nếu bọn họ lại cho rằng: “Hạt giống tuy vô thường, bởi do sự chăm sóc nên nẩy mầm, sinh quả.” Nên trả lời bọn họ rằng: “Năm ấm cũng giống như thế”. Nếu bọn họ lại cho rằng: “Trong hạt giống, trước đó đã có mầm, còn sự chăm sóc, bón phân, tưới nước, v.v…, chỉ là liễu nhân”. Điều này không đúng! Vì sao? Vì liễu nhân không làm cho một vật tăng trưởng hay tổn giảm, thế nhưng, hiện nay, sự chăm sóc, bón phân lại làm cho hạt giống nẩy mầm, sinh quả, nên biết vật trước vốn không mà nay có. Nếu nói: “Liễu nhân có hai loại, một là nhiều, hai là ít. Nhiều ắt thấy lớn, ít ắt thấy nhỏ, giống như thắp đèn, đèn lớn thì ánh sáng lớn, đèn nhỏ thì ánh sáng nhỏ”. Đây là điều sai lầm. Vì sao? Giống như hạt giống, dù bón bao nhiêu phân, tưới bao nhiêu nước, cũng không thể trong một ngày cao bằng hay cao hơn một thân người. Nếu bọn họ lại cho rằng: “Liễu nhân tuy có hai loại, nhưng cần phải đúng lúc mới phát sinh hiệu quả. Liễu nhân chính gây hiệu quả lớn, liễu nhân phụ gây hiệu quả nhỏ, do đây cho rằng liễu nhân không tăng thêm”. Điều này không đúng! Vì sao? Vì bọn họ chấp trước rằng các pháp là thường hằng. Do đó, không thể lập luận như thế được.

Thiện nam tử! Hạt giống không phải là mầm, tuy có khác biệt, nhưng vẫn có sự tương tục giữa hai bên. Năm ấm cũng giống như thế.

Thiện nam tử! Do động năng của hạt sinh ra mầm, do động năng của mầm sinh ra cành, do động năng của cành sinh ra lá, do động năng của lá sinh ra hoa, do động năng của hoa sinh ra quả. Thân năm ấm của một cõi chuyển thành thân năm ấm của năm cõi cũng giống như thế. Nếu như cho rằng: “Kẻ tạo nghiệp và kẻ thọ báo khác nhau”, thì đây là lập luận của bọn ngoại đạo, chứ không phải của ta. Vì sao? Trong pháp của bọn ngoại đạo, kẻ tạo nghiệp là cái ngã, còn kẻ thọ báo là cái thân hiện đời, mà không nói rằng kẻ tạo nghiệp khác với kẻ thọ báo. Kẻ trì giới không sát sanh, tức là cái ngã, do nhân duyên trì giới này được thân tướng trang nghiêm, nếu vậy thì kẻ thọ báo không có nhân, còn kẻ tạo nghiệp không có quả. Lập luận trên của ngoại đạo có những điều lầm lỗi như vậy. Còn nếu bọn họ cho rằng: “Nếu cái ngã tạo nghiệp mà cái thân thọ quả báo, thì tương tự như vậy, người này tạo nghiệp, kẻ khác thọ quả báo”. Nên hỏi bọn họ rằng: “Cái thân khác với cái ngã. Cái thân hưởng dụng sự ăn uống, y phục cùng đồ trang sức. Nếu thọ dụng những thức ăn bổ dưỡng sẽ được hồng hào khỏe mạnh, nếu ăn món thiếu dinh dưỡng sẽ bị ốm yếu xanh xao. Nếu sự hồng hào, xanh xao của thân xác là pháp nhân duyên, thì cái ngã sẽ được cái gì?” Nếu nói cái ngã sẽ được sự vui sướng hay bị sầu lo, thì tại sao lại không phải là “kẻ này tạo nghiệp, kẻ khác thọ báo”? Ví như có người ăn bơ sữa để tăng gia sức lực, sau một thời gian, nhờ ăn bơ sữa mà được hồng hào khỏe mạnh, có người ốm yếu, thấy kẻ đó liền sinh tâm ưa thích, thử hỏi, kẻ ốm yếu đó có nhân sự vui thích đó mà được hồng hào khỏe mạnh hay không? Nếu bọn họ trả lời “không”, thì cái ngã cũng giống như vậy. Cái thân tạo nghiệp, cái ngã làm thế nào được quả báo? Vì sao? Vì có sự khác biệt giữa thân và cái ngã. Phật pháp không giống như kiến giải của bọn ngoại đạo. Năm ấm thọ quả báo do sự tạo nghiệp của chính mình.

[Giải]    Ở đây biện minh vấn đề “do ngũ ấm tạo tác ngũ ấm thọ báo”, tức là do năm ấm ở cõi người làm việc bố thí, mà do sự tương tục bất đoạn chuyển sinh thành năm ấm ở cõi khác thọ quả báo, dùng đây để phá trừ thường kiến.

Liễu nhân không làm cho vật tăng trưởng hay tổn giảm, ví như trong giảng đường có bốn chậu hoa, chúng không nhân vì ánh sáng (liễu nhân) có hay không, hoặc mờ hoặc tỏ, mà có sự tăng giảm kích thước.

Quan điểm này (Trong hạt giống đã có mầm, còn sự chăm sóc, v.v… là liễu nhân) là quan điểm của ngoại đạo Số luận, vì bọn họ chấp trước sự thường hằng và sự hiện hữu của thần ngã.

F3. Trước làm sau thọ

Thiện nam tử! Nếu có kẻ cho rằng: “Năm ấm là vô thường, cho nên năm ấm cõi này không đến cõi khác, mà vẫn có sự thọ báo.” Điều này không đúng. Vì sao? Trong Phật pháp, hoặc có khi nói: “Kẻ tạo nghiệp cũng tức là kẻ thọ báo”, hoặc nói: “Kẻ này tạo nghiệp khác kẻ thọ báo”, hoặc nói: “Không có kẻ tạo nghiệp cũng không có kẻ thọ báo”. Nói “Kẻ tạo nghiệp tức là kẻ thọ báo”, có nghĩa là năm ấm thọ nhận quả báo do sự tạo nghiệp của chính mình; nói “Kẻ tạo nghiệp khác kẻ thọ báo”, có nghĩa là lúc làm thân người tạo nghiệp, được quả báo sinh làm thân trời để hưởng khoái lạc”; còn nói: “Không có kẻ tạo nghiệp cũng không có kẻ thọ báo”, có nghĩa là tất cả đều do nhân duyên hòa mà có, vốn không có tự tánh, làm gì có kẻ tạo nghiệp, kẻ thọ báo? Nếu bọn họ cho rằng: “Nếu kẻ tạo nghiệp khác kẻ thọ báo, tại sao lại nói đến sự tương tục không gián đoạn giữa kẻ tạo nghiệp và kẻ thọ báo?” Điều này không đúng. Vì sao? Ví như bỏ thuốc độc vào trong sữa, sau đó đem sữa này tinh luyện thành đề hồ, thì đề hồ này vẫn có thể giết người. Sữa tuy khác với đề hồ, nhưng vì có sự sinh trưởng trước sau tương tục không gián đoạn, từ giai đoạn sữa đến giai đoạn đề hồ, cho nên đề hồ có thể giết người. Năm ấm cũng giống như thế, tuy có sự khác biệt, nhưng vì sự sinh trưởng trước sau tương tục không gián đoạn, cho nên có thể nói, hoặc kẻ tạo nghiệp khác kẻ thọ báo, hoặc kẻ tạo nghiệp là kẻ thọ báo, hoặc không có kẻ tạo nghiệp lẫn kẻ thọ báo. Nếu lià năm ấm, sẽ không có ngã và ngã sở. Tất cả chúng sinh bị sự điên đảo che mờ tâm linh, cho nên hoặc nói sắc tức là ngã, nhẫn đến, hoặc nói thức tức là ngã. Hoặc có kẻ cho rằng: “Lìa năm ấm có cái ngã riêng biệt”. Đây là điều phi lý. Vì sao? Trong giáo thuyết của Đức Phật, sắc ấm không phải là ngã. Tại sao như vậy? Bởi vì sắc pháp là vô thường, không có tạo tác, không được tự tại, cho nên bốn ấm kia (thọ, tưởng, hành, thức) không phải ngã sở (vật sở hữu của ngã); nhẫn đến thức ấm cũng giống như thế. Do nhân duyên hòa hợp mà có pháp khác sinh ra, gọi là có kẻ tạo tác, nhưng thực sự không có kẻ tạo tác. Lại nữa, do nhân duyên hòa hợp mà có pháp khác sinh ra, gọi là có kẻ thọ báo, nhưng thực sự không có kẻ thọ báo. Cho nên gọi là không có kẻ tạo nghiệp, không có kẻ thọ báo. Nếu như bọn họ cho rằng: “Nếu kẻ tạo nghiệp khác kẻ thọ báo, như vậy hai người khác nhau, đều là năm ấm, tại sao người này tạo nghiệp mà kẻ kia không thọ báo?” Điều này không đúng. Sự khác nhau có hai loại: một là thân thể khác nhau, hai là tên họ khác nhau. Ví như có hai người, một tên là Phật Đắc, hai tên là Thiên Đắc. Hai người này vì thân thể và tên họ đều khác nhau, cho nên thân thể và ngôn ngữ khác nhau. Vì thân thể và ngôn ngữ khác nhau nên sự tạo nghiệp của họ cũng khác nhau. Vì sự tạo nghiệp khác nhau, cho nên tuổi thọ, tướng mạo, sức lực, sự an vui, tài ăn nói, đều khác nhau, vì thế, không thể nào có trường hợp, người tên Phật Đắc tạo nghiệp, mà người tên Thiên Đắc thọ báo. Tuy cả hai đều là sự tổ hợp của năm ấm, thế nhưng chỉ có danh và sắc là giống nhau, còn ba phần kia: thọ, tưởng, hành đều khác biệt. Vì sao? Ví như trong lúc người tên Phật Đắc hưởng thọ vui sướng, thì người tên Thiên Đắc đang nhẫn thọ khổ sở; hoặc đang lúc Phật Đắc đang sinh khởi tâm tham lam, thì Thiên Đắc đang sinh khởi tâm sân hận. Vì thế không thể nói hai người là giống nhau. Danh và sắc của hai người tuy giống nhau, nhưng trên thực tế có sự khác biệt; hoặc giả, Phật Đắc là người da trắng, còn Thiên Đắc là người da đen. Nếu cho rằng hễ tên gọi giống nhau thì phải có cùng một ý nghĩa, như vậy khi một người được sinh ra thì tất cả người khác cũng đang được sinh ra, khi một người chết thì tất cả những người khác cùng chết! Nếu bọn họ không thừa nhận điều này thì phải đồng ý với quan điểm sau: “Người tạo nghiệp không khác với người thọ báo”. Nếu bọn họ cho rằng: “Các ông nói người tạo nghiệp khác người thọ báo, chúng tôi cũng nói như thế, người tạo nghiệp khác người thọ báo. Nếu cả hai đều cho rằng người tạo nghiệp khác người thọ báo, thì các ông cũng đã mắc vào lỗi của chúng tôi. Tại sao các ông không tự thấy lỗi mình, mà lại quở trách chúng tôi?” Điều này không đúng. Vì sao? Phật pháp đề cập đến sự khác biệt, có hai loại: một là phút chốc sinh ra, rồi trong phút chốc biến diệt, hai là phút chốc sinh ra, song không phải phút chốc biến diệt. Bởi vì sự sinh khởi khác nhau, nên sự biến diệt cũng khác nhau. Bởi thế, Phật pháp cho rằng: “Kẻ tạo nghiệp khác kẻ thọ báo”, hoặc: “Kẻ tạo nghiệp tức là kẻ thọ báo”. Điều này không giống như lỗi lầm của bọn họ. Ví như có người muốn đốt làng, bèn liệng một cụm lửa vào đám cỏ khô. Vì cụm lửa đã làm nhân duyên cho đám lửa cháy lan ra, đám lửa có thể cháy lan một trăm hay hơn một trăm dặm. Khi người trưởng làng bắt được kẻ đốt làng, bèn hỏi hắn ta: “Ông là kẻ tàn ác. Lý do gì mà ông lại thiêu hủy làng này?” Gã đó trả lời: “Đây thực không phải là tôi đốt. Tại sao? Đóm lửa mà tôi ném, đã bị tắt từ lâu. Chỗ mà nó đốt, chỉ là một nắm cỏ. Bây giờ tôi sẽ bồi thường cho ông hai nắm cỏ. Còn những chỗ khác, tôi không phải bồi thường”. Lúc đó, ông trưởng làng nói với gã đó: “Đồ ngu! Do đóm lửa nhỏ của ông cháy lan ra mà đã thiêu rụi cả một vùng từ một trăm dặm đến hai trăm dặm. Đây đều là do lỗi ông, làm sao mà không bồi thường!” Tuy biết rằng ngọn lửa đầu tiên khác với ngọn lửa sau này, thế nhưng, do sự nối tiếp không ngừng, thành thử gã đốt làng này phải chịu tội.

Các việc thiện ác do năm ấm tạo ra cũng giống như thế! Năm ấm lúc thọ báo, tuy không phải là năm ấm lúc tạo nghiệp, song vì sự sinh trưởng tương tục không gián đoạn, cho nên bị sự thọ báo. Ví như có người đánh cá với người khác là anh ta có thể cầm ngọn đuốc đi xa ngoài trăm dặm mà đuốc vẫn không tắt. Nếu như đi không đến trăm dặm mà đuốc tắt, thì phải bồi tiền cho người kia; nếu như đi ngoài trăm dặm thì người kia phải chung tiền. Kẻ cầm đuốc, sau khi đi ngoài trăm dặm, liền đòi người kia chung tiền. Người kia bèn nói: “Ngọn lửa lúc ông khởi hành đã bị tắt từ lâu, khác với ngọn lửa cuối cùng, lúc ra ngoài khỏi trăm dặm, làm sao ông lại có thể đòi chung tiền?” Kẻ cầm đuốc bèn trả lời: “Ngọn lửa đầu tiên tuy đã bị tắt, song có sự sinh trưởng tương tục từ đó cho đến đây”. Cả hai người đó, ai cũng có lý cả. Vì sao? Hai sự lập luận “Kẻ tạo nghiệp tức là kẻ thọ báo”, “Kẻ tạo nghiệp khác kẻ thọ báo” đều đúng cả. Cho nên cả hai đều không có lỗi. Bởi vậy, nếu có người cho rằng: “Năm ấm cũng như thế, người tạo nghiệp tức là người thọ báo, người tạo nghiệp khác người thọ báo”. Cả hai điều này đều không có sai lầm.

Ví như sông Hằng, hai bên bờ sông, cùng với giòng sông, đều gọi là sông Hằng. Lúc mùa hè thì hai bờ sông cách nhau rất xa vì nước sông dâng lên, đến mùa thu thì hai bờ sông cách nhau rất gần. Tuy hình tướng của con sông không nhất định, lúc nước lớn lúc nước nhỏ, song mọi người đều vẫn gọi là sông. Hoặc nếu có người nói: “Đây không phải là con sông”, thì người trí nên trả lời rằng: “Đó là con sông, mà cũng không phải là con sông”. Người trí thấy rằng năm ấm cũng giống như thế, “người tạo nghiệp tức là người thọ báo, người tạo nghiệp khác với người thọ báo”. Nếu bọn họ cho rằng: “Hai bờ sông là đất, giòng nước là nước, còn thần sông chính là con sông”. Điều này không đúng. Vì sao? Nếu thần sông là con sông, tại sao lại nói sông trong, sông đục, có bờ bên này, bờ bên kia, giữa giòng sâu cạn, chảy đến biển lớn, có thể qua được, hoặc không qua được. Ví như, nếu có cây cối, ắt có quỷ thần cư trú, nếu như không có cây cối, quỷ thần cư trú nơi nào? Sông và thần sông cũng giống như vậy. Cho nên, hai bờ sông, giữa giòng, tuần tự không gián đoạn, đều gọi là sông. Do đây, có thể nói rằng ngũ ấm cũng vậy, vừa giống vừa khác. Ví như có người chửi rủa kẻ quyền thế, nhân vì ác khẩu mà bị cùm chân. Cặp chân thực không bị phạm tội ác khẩu, nhưng lại bị dùm, do đây có thể nói chắc rằng kẻ tạo nghiệp khác kẻ thọ báo, hoặc kẻ tạo nghiệp tức là kẻ thọ báo. Chỉ có người trí mới có thể nói: “Kẻ thọ nghiệp tức là kẻ thọ báo, kẻ tạo nghiệp khác kẻ thọ báo”. Ví như, đầy đủ các duyên như giá đèn, dầu, lửa, nhân công, v.v…, hợp lại mới gọi là ánh đèn. Nếu ông cho rằng ánh đèn mờ tỏ, điều này không đúng. Vì sao? Mờ nên không tỏ, tỏ nên không mờ, do tuần tự sanh diệt nên gọi là đèn mờ tỏ. Nếu ông cho rằng ánh đèn là vô thường, còn dầu là thường, dầu nhiều đèn tỏ, dầu ít đèn mờ, điều này không đúng. Vì sao? Dầu cũng là vô thường, có lúc cạn, lúc bị đốt. Nếu dầu là thường, thì phải có hai niệm trước sau không biến đổi, và nếu như vậy, thì dầu làm sao có thể bị đốt cạn được? Bởi thế, người trí có thể  nói rằng ánh đèn tức là dầu, ánh đèn khác với dầu. Ngũ ấm cũng như thế. Ánh đèn ví cho lục nhập, còn dầu ví cho nghiệp. Do nhân duyên nghiệp cho nên năm ấm  có tăng có giảm, có đây có kia. Lại như có người nói tiếng A để da, tiếng A để da, được nói lúc ban sơ, đã tan vào quá khứ lâu xa rồi, hiện nay không còn, nhưng do người đời truyền dạy nhau, đời này qua đời kia không gián đoạn, cho nên vẫn được gọi là tiếng A để da. Người trí cung nói là tiếng A để da, hoặc nói không phải tiếng A để da. Nói phải hay nói không phải, cả hai đều có lý.

Ngũ ấm cũng thế, có thể nói rằng kẻ tạo nghiệp tức là người thọ báo, hoặc kẻ tạo nghiệp khác với người thọ báo. Lại như, có một cự phú, không người kế thừa gia sản, khi mệnh chung tài sản bị chính quyền tịch thu. Có người đến nói: “Tài sản đó là thuộc về tôi”. Nhà chức trách hỏi: “Tài sản của kẻ kia làm sao thuộc về ông?” Người đó nói: “Tôi là cháu bảy đời của người chết, kế tiếp không ngừng, tại sao tài sản lại không thuộc về tôi?” Nhà chức trách liền nói: “Đúng như lời ông nói, tài sản này thuộc về của ông”. Người trí nói rằng: “Ngũ ấm cũng thế. Kẻ tạo nghiệp tức là kẻ thọ báo, hoặc kẻ tạo nghiệp khác với kẻ thọ báo”.

[Giải]    Đoạn này biện minh trong năm ấm vô ngã, có sự bố thí và sự thọ nhận.

Giải thích tường tận về ý nghĩa của sự bố thí như ở đây, trong các kinh điển khác rất ít có, điều này chính là chỗ thù thắng của bổn kinh.

“Năm ấm cõi này không đến cõi kia mà vẫn có sự thọ báo”, nhân đời này bố thí mà qua đời khác thọ báo, trong ý nghĩa năm ấm tương tục của Phật pháp, điều này chấp nhận được.

“Năm ấm tạo tác, năm ấm thọ báo”, nghĩa là năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức tạo nghiệp, và chính năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức đó thọ báo (quả báo hiện đời).

“Năm ấm này tạo nghiệp, năm ấm khác thọ báo”, giống như năm ấm trong cõi người tạo nghiệp, và năm ấm ở cõi trời thọ báo (quả báo đời sau).

“Không có năm ấm tạo nghiệp, cũng không có năm ấm thọ báo”, nghĩa là năm ấm hòa hợp tạo nghiệp thọ báo, thế nhưng, năm ấm tạo nghiệp vốn không tự tính, sự tạo nghiệp cũng không tự tính, và năm ấm thọ báo cũng không có tự tính. Ba nghĩa này, có thể trong một việc mà nhận thấy đầy đủ. Giống như năm ấm cõi người tạo nghiệp, năm ấm cõi trời thọ báo, thế nhưng, năm ấm vốn là do nhân duyên hòa hợp tạo nghiệp thọ báo, trong một việc này thấy được ba điều: năm ấm tạo nghiệp, năm ấm thọ báo; kẻ này thọ nghiệp, kẻ khác thọ báo; và không người tạo nghiệp cũng không người thọ báo.

Phật pháp, nhân vì các pháp không có tự tính, thuyết minh tất cả pháp không. Thế nhưng, cái “không” của Phật pháp, không phải là sự diệt tận mà gọi là không, mà là do nhân duyên hòa hợp của sự vật, không có tự tính chân thực, nên gọi là không, cho nên khác với cái không của khoa học, như hư không, chân không, chẳng hạn. Khoa học hiện nay,  dùng vật chất làm bổn thể, mà tinh thần là phụ thuộc, lại có tôn giáo cho linh hồn là chủ thể, còn thân thể là công cụ, đây cũng chẳng khác gì với sự chấp trước “sắc”, nhẫn đến chấp trước “thức” là ngã, còn những cái khác là ngã sở.

Phật Đắc, Thiên Đắc là tên hai người. Người tên Phật Đắc được quả báo do sự bố thí của chính ông ta, không phải là do người tên Thiên Đắc bố thí mà được; ngược lại, nếu Thiên Đắc làm việc bố thí, cũng không phải do Phật Đắc bố thí mà được quả báo.

Ví dụ về sự đốt làng, ví cho do sự bố thí của năm ấm cõi người, từng sát na từng sát na, tương tục trước sau mà thành năm ấm cõi khác, nhân đây, do sự bố thí của năm ấm tương tục trước sau mà có sự thọ báo.

Những thí dụ về cấm đuốc, dòng sông lớn nhỏ, chửi rủa kẻ quyền thế, ánh sáng của đèn dầu, tiếng A để da, cùng kẻ thừa kế tài sản, đều chỉ là muốn chứng minh ý nghĩa trước làm sau thọ.

Lục nhập, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.

A để da, ý nghĩa chưa thể tra lục. Tiếng (Hán: ngữ), là một loại phương ngôn (tiếng nói của một vùng).

F4. Đợi thời thành thọ

Như ông cho rằng: “Ngũ ấm tạo nghiệp, sau khi hoàn thành, nghiệp đó đã trở thành quá khứ, thế nhưng thân  vẫn còn tồn tại, nghiệp vừa tạo không có chỗ nương tựa, nếu nghiệp không có chỗ nương tựa, tức là không có nghiệp, nếu thế, tại sao khi mất thân này, lại phải thọ báo?” Điều này không đúng! Vì sao? Tất cả nghiệp quá khứ, phải đợi lúc thọ thân, và thời tiết nhân duyên, ví như cây quít sanh quả quít, trước chua sau ngọt. Người ta vì muốn được quít  bèn trồng hạt quít. Hạt quít, thân, nhành, lá, hoa, quả mới sanh đều không chua, đợi đến lúc quả quít chín lại có mùi chua. Vị chua này không phải trước không nay có,  cũng không phải không có nhân duyên,  mà là do nhân duyên của quả quít trước. Nghiệp cuả thân, khẩu, ý cũng giống như vậy.

Nếu hỏi nghiệp đó trụ ở nơi nào, nên biết nghiệp đó trụ ở quá khứ, đợi thời tiết nhân duyên, cùng lúc thọ thân, mà phát khởi quả báo. Giống như người uống thuốc, qua một đoạn thời gian, thuốc tuy bị tiêu hóa, thế nhưng, đúng lúc vẫn phát sinh tác dụng như sức lực, tráng kiện, v.v… Nghiệp thân, khẩu, ý cũng giống như vậy, phát động xong thì biến vào quá khứ, thế nhưng, đến lúc nhân duyên chín muồi sẽ chịu quả báo. Lại như đứa trẻ học những điều đầu tiên trong đời, tuy khi đang học, mỗi niệm đều trở thành quá khứ, nhưng dù có trải qua cả trăm năm, cũng không quên những điều đã học. Nghiệp quá khứ cũng giống như thế, tuy không chỗ nương, nhân duyên thời tiết chín muồi sẽ thọ quả báo. Cho nên nói rằng kẻ tạo nghiệp không phải kẻ thọ báo, nhưng cũng không khác kẻ thọ báo.  Kẻ nào thông đạt được điều này, sẽ được quả vị vô thượng.

[Giải]    Đây là ba loại khác nhau của dị thục báo, nghĩa là (1) dị thời nhi thục (nhân và quả cách thời, nghĩa là quả chín muồi vào lúc khác), (2) dị loại nhi thục (quả khác nhân, nhưng do nhân mà được chín muồi), (3) biến dị nhi thục (quả chín muồi do nhân biến đổi). Nếu muốn biết rõ, cần phải nghiên cứu nghĩa lý về sự huân tập sinh trưởng do chủng tử và hiện hành. Những điều giảng ở đây, đã bao hàm nghĩa lý này.

“Mỗi niệm đều trở thành quá khứ” (Hán: niệm niệm diệt vô hữu trụ xứ), điều này cũng còn chưa nói rõ ý nghĩa hiện hành huân tập thành chủng tử trong tàng thức. Nếu muốn hiểu rõ ý nghĩa này, cần phải nghiên cứu về sự thành lập thức A lại da trong Thành Duy Thức Luận.

“Không phải ngũ ấm tạo nghiệp ngũ ấm thọ báo”, đây tức là chân đế, “nhưng không phải không có năm ấm tạo nghiệp năm ấm thọ báo”, đây tức là tục đế, nếu có thể thông đạt ý nghĩa này của hai đế chân, tục, thì có thể hiểu rõ sự bố thí thọ báo, tuy không có tự tính nhưng nhân quả rõ ràng.
Đoạn văn này có thể gọi là “thành thí thọ luận”, thành lập nghĩa lý tác nghiệp thọ báo của sự bố thí.

E4. Trở thành thí chủ thanh tịnh
F1. Xa lìa sự bố thí không thanh tịnh

Thiện nam tử! Nếu kẻ nào đối với thân, mệnh, tài sản, lận tiếc không chịu bố thí, thì gọi là kẻ bỏn sẻn. Những kẻ này ôm chặt tâm không bố thí, không biết thương xót, lấy lý do tích giữ của cải để tìm bậc phúc điền, thế nhưng, khi đã gặp được thì lại tìm lỗi của họ, tự nghĩ tài sản gây dựng khó nhọc, nếu đem cho kẻ khác mình sẽ bị khổ sở (nên không chịu bố thí), hoặc cho rằng không có nhân quả, không có sự bố thí, cũng không có người thọ nhận; lại có kẻ ôm lòng mến tiếc vợ con quyến thuộc, bòn mót tiền của để cầu danh, cho rằng tài sản là bền chắc, đây gọi là những kẻ keo kiết bẩn thỉu. Sự bẩn thỉu này làm nhơ nhớp tâm của chúng sinh, do nhân duyên này, tài vật của kẻ khác, họ còn không dám đem bố thí, huống chi là tài vật của chính họ.

Người trí làm việc bố thí, không phải vì muốn được báo ơn, không phải vì mong cầu phụng sự, không phải vì bênh vực những kẻ bỏn sẻn tham lam, không phải để được mọi người biết được tiếng tốt, không phải vì sợ hãi, không phải vì cầu cạnh kẻ khác, không phải để tranh hơn thua, không phải vì sợ mất của, không phải vì muốn tăng gia của cải, không phải vì không dùng đến, cũng không phải vì sự quy định của gia tộc, cũng không phải vì muốn kẻ khác gần gũi mà bố thí. Người trí làm việc bố thí vì thương xót chúng sinh, vì muốn làm cho mọi người được sự an lạc, vì muốn người khác học tập hạnh bố thí, vì muốn thực hành những hạnh mà các bậc thánh nhân đã làm, vì muốn diệt trừ các phiền não, vì muốn đoạn trừ hữu lậu, chứng nhập Niết bàn.

Thiện nam tử! Bồ tát làm việc bố thí, xa lìa bốn pháp ác: (1) phá giới, (2) nghi ngờ, (3) tà kiến, (4) bỏn sẻn. Lại xa lìa năm pháp: (1) lúc bố thí không chọn người đức hạnh hay không đức hạnh, (2) lúc bố thí không nói việc thiện ác, (3) lúc bố thí không lựa chọn chủng tính, (4) lúc bố thí không coi thường người xin, (5) lúc bố thí không thóa mạ chửi rủa. Lại có ba việc, làm cho người bố thí không được quả báo thù thắng: (1) mới đầu định cho nhiều, sau lại cho ít, (2) lấy đồ vật hư xấu đem bố thí, (3) sau khi bố thí sanh lòng hối hận.

Thiện nam tử! Lại có tám việc, làm cho người bố thí không được quả báo thù thắng: (1) bố thí xong, tìm lỗi người nhận; (2) lúc bố thí, tâm không bình đẳng; (3) bố thí xong, yêu cầu người nhận phục vụ cho mình; (4) bố thí xong, hay tự khen mình; (5) trước nói không có, sau đó mới bố thí; (6) bố thí xong, thóa mạ chửi rủa; (7) bố thí xong, đòi trả lại gấp đôi; (8) bố thí xong, khởi tâm nghi ngờ (công đức của sự bố thí). Những kẻ bố thí như vậy, ắt sẽ không được gần gũi chư Phật cùng các bậc Hiền thánh.

[Giải]    Đoạn này nói về việc xa lìa sự bố thí không thanh tịnh.

F2. Chánh thức nói rõ sự bố thí thanh tịnh:

Nếu đem đồ vật đầy đủ sắc, hương, vị, xúc, bố thí cho kẻ khác, gọi là bố thí thanh tịnh; nếu đồ vật bố thí có được đúng như pháp, gọi là bố thí thanh tịnh; nếu biết rõ tài vật là vô thường, không thể giữ lâu, rồi đem làm việc bố thí, gọi là bố thí thanh tịnh; nếu vì muốn diệt trừ phiền não mà bố thí, gọi là bố thí thanh tịnh; nếu vì muốn thanh tịnh tự tâm mà bố thí, gọi là bố thí thanh tịnh; nếu có thể quán sát ai là kẻ bố thí, ai là người nhận, bố thí vật gì, do nhân duyên gì mà bố thí, sự bố thí tức là mười hai nhập, kẻ nhận, người cho, vật bố thí tức là mười hai nhập, nếu kẻ bố thí có thể quán sát như vậy, gọi là bố thí thanh tịnh. Lúc bố thí, đối với các bậc phước điền, sanh lòng hoan hỷ, giống như các bậc phước điền nguyện cầu công đức, ta cũng phải nguyện cầu công đức không ngừng nghỉ. Bố thí cho vợ con, quyến thuộc, tôi tớ, nên sinh lòng thương xót; bố thí cho kẻ nghèo khốn, vì muốn diệt trừ sự khổ não cho họ. Lúc bố thí không cầu quả báo thế gian, bố thí để diệt trừ sự kiêu mạn, bố thí với tâm nhu hòa, bố thí để được lìa ba cõi, bố thí vì cầu mong sự giải thoát vô thượng, bố thí vì đã quán sát thâm sâu đường sanh tử nhiều tội lỗi, bố thí mà không màng đối tượng có phải là phước điền hay không, kẻ nào có thể bố thí như vậy, nến biết phước báo sẽ không rời kẻ đó, giống như trâu nghé quấn quít bên trâu mẹ.

[Giải]    Đoạn này nói rõ về sự bố thí thanh tịnh; mười hai nhập, tức là sáu căn và sáu trần.

F3. So lường phước đức của sự bố thí:

Nếu có tâm mong cầu quả báo của sự bố thí, thì chẳng khác gì sự đổi chác ở chợ búa. Giống như vì thân mệnh mà cầy cấy trồng trọt sinh sống, tùy mỗi loại hạt giống, mà được cây trái khác nhau. Kẻ bố thí cũng giống như thế, tùy vào vật bố thí và người nhận mà được phước báo khác nhau. Nếu như người nhận, sau khi thọ nhận sự bố thí, tăng trưởng thọ mệnh, nhan sắc, sức lực, an vui, biện tài, thì người bố thí cũng được năm quả báo như thế!

Nếu bố thí cho súc sanh, được phước gấp trăm lần; bố thí cho kẻ phá giới, được phước gấp ngàn lần; bố thí cho người trì giới, được phước gấp mười vạn lần; bố thí cho ngoại đạo đã ly dục, được phước gấp trăm vạn lần; bố thí cho bậc hướng đạo, được phước gấp ngàn ức lần; bố thí cho bậc Tu đà hoàn, được phước vô lượng; bố thí cho bậc Tư đà hàm hướng, được phước vô lượng; nhẫn đến bố thí cho Đức Phật, cũng được vô lượng phước.

Thiện nam tử! Nay ta vì ông mà phân biệt các loại phước điền, mà nói rằng bố thí được phước gấp trăm lần, nhẫn đến được phước vô lượng. Nếu có thể chí tâm phát lòng thương xót rộng lớn, bố thí cho súc sanh, hoặc chuyên tâm cung kính cúng dường chư Phật, hai phước báo này bằng nhau không khác. Nói được phước gấp trăm lần, nghĩa là, như đem thọ mệnh, nhan sắc, sức lực, an vui, biện tài, bố thí cho người xin, thì sau đó người cho sẽ được thọ mệnh, nhan sắc, sức lực, an vui, biện tài, mỗi mỗi đều gấp trăm lần, nhẫn đến vô lượng, cũng giống như vậy. Cho nên trong khế kinh, ta có nói: “Ta bố thí cho ông Xá Lợi Phất, ông Xá Lợi Phất cũng bố thí cho ta, thế nhưng ta được nhiều phước hơn ông ấy.”

[Giải]    Ở đây thuyết minh các loại bố thí được phước đức nhiều ít.

Bậc hướng đạo, tức là các bậc tu tập ngũ đình tâm, tổng tướng niệm, biệt tướng niệm, noãn, đỉnh, nhẫn và thế đệ nhất. Mỗi bậc tu đà hoàn, tư đà hàm, a na hàm và a la hán đều có hướng và quả. “Nhẫn đến”, là chỉ tư đà hàm quả, hướng a na hàm, a na hàm, a na hàm quả, hướng a la hán, a la hán quả, bích chi phật, v.v…

Đức Phật và ngài Xá Lợi Phất bố thí cho nhau, nhân vì lòng đại bi của Đức Phật biến hư không, tận vị lai, coi tất cả chúng sinh đều như con một, tâm lượng bao la, cho nên được vô lượng phước đức mà ngài Xá Lợi Phất không thể sánh được.

F4. Bố thí không bị ác báo:

Hoặc có người nói: “Nếu người nhận làm ác, người cho sẽ bị tội.” Điều này không đúng. Vì sao? Người cho, lúc bố thí, vì muốn trừ diệt sự khổ não cho người xin, chứ không phải muốn tạo tội, vì thế người cho phải được phước báo! Người nhận dùng của bố thí làm ác, tự họ tạo tội, không can hệ gì đến người cho. Người bố thí, nếu dùng những vật quý báu để bố thí, sau đó sẽ được dung mạo trang nghiêm, mọi người đều ưa mến, tiếng tốt đồn xa, mọi sự mong cầu đều như ý, sinh vào dòng dõi cao quý, không thể gọi đây là ác báo, tại sao lại nói thí chủ bị tội? Người cho sau khi bố thí, vui vẻ không tiếc nuối, gần gũi người lành, giàu sang tự tại, sinh vào gia đình quý tộc, được sự vui người, trời, nhẫn đến sự vui vô thượng, lìa xa tất cả mọi sự trói buộc của phiền não. Chỉ có kẻ bố thí mới có được phước báo như vậy, tại sao lại cho rằng bị ác quả báo? Thí chủ nếu có thể tự tay mình bố thí, sẽ được sinh vào nhà quyền quý, gặp thiện tri thức, tiền của dư dật, quyến thuộc đông đảo, của cải mặc sức tự tiêu dùng hay đem bố thí, tất cả chúng sinh đều vui mừng mong được thấy mặt, thấy rồi cung kính tôn trọng, ca ngợi. Người bố thí được quả báo tốt đẹp như vậy, sao lại cho là bị thọ ác báo? Thí chủ nếu đem của cải thanh tịnh bố thí, nhờ nhân duyên đó của cải, kho đụn tràn đầy, sinh vào nhà quyền quý, quyến thuộc nhiều vô lượng, thân không bệnh khổ, tâm không sợ hãi lo buồn, tất cả tài sản sở hữu, chính quyền, trộm cướp, lửa cháy, nước trôi, đều không làm tổn hoại. Giả sử có mất mát của cải, cũng không sầu não. Trong vô lượng đời thân tâm an lạc. Tại sao cho rằng thọ ác quả báo? Nếu như, lúc chưa bố thí, phát lòng tin tưởng vào công đức của sự bố thí, lúc bố thí lòng hoan hỷ, sau khi bố thí, trong lòng an lạc, thì lúc đang tìm cầu tài vật để bố thí, lúc giữ gìn tài vật đợi bố thí, lúc ban bố tài vật, đều không cảm thấy khổ não. Nếu dùng y phục bố thí, sẽ được dung mạo trang nghiêm; nếu dùng thức ăn bố thí, sẽ được sức mạnh vô địch; nếu dùng đèn đuốc bố thí, sẽ được đôi mắt sáng ngời; nếu dùng xe cộ bố thí, sẽ được thân thể khoẻ mạnh; nếu dùng nhà cửa bố thí, sẽ được vật dụng dư xài. Kẻ bố thí sẽ được quả lành như thế, tại sao cho rằng bị quả báo xấu?

[Giải]    Đoạn này phá trừ quan niệm cho rằng “nếu bố thí cho người ác, rồi họ dùng của bố thí làm ác, thì thí chủ sẽ bị quả báo ác”, bởi do quan niệm này làm người nghe khởi tâm nghi hoặc, làm trở ngại sự bố thí của họ.

F5. Quả báo sai biệt

Lại nữa, kẻ bố thí cúng dường cho Đức Phật xong, Ngài thọ dụng hay không thọ dụng, quả báo bố thí đã được quyết định.

Bố thí cho người khác và bố thí cho chúng tăng có hai loại phước báo: (1) từ sự thọ dụng của người nhận phát sinh, (2) từ công đức của người nhận phát sinh. Vì sao? Lúc thí chủ bố thí, tự trừ diệt được sự bỏn sẻn của chính mình; lúc người nhận thọ dụng, trừ diệt được sự bỏn sẻn của thí chủ, cho nên khế kinh có nói: “Từ sự thọ dụng của người nhận, phát sinh phước báo của thí chủ”. Lại từ phương diện thọ dụng mà nói, nếu người nhận là người tại gia, đem bố thí cho người khác, người bố thí cũng được phước bằng như trước; nhưng nếu người nhận là người xuất gia, nhận xong lại đem bố thí cho vị xuất gia khác, thì phước báo của thí chủ càng lúc càng tăng trưởng. Nếu như khi bố thí không cầu quả báo thế gian, hoặc không vì lý do tăng trưởng phiền não mà bố thí, thì sự bố thí sẽ được quả báo thanh tịnh vô thượng, tức là Niết bàn.

Nếu có người mỗi ngày lập thệ nguyện: “Trước sẽ bố thí cho kẻ khác thức ăn, sau đó mới dùng. Nếu như vi phạm lời nguyện, sẽ đền tài vật cho Phật.” Khi vi phạm, sinh lòng hổ thẹn. Nếu như không vi phạm lời nguyện, đây tức là nhân duyên phát sinh trí tuệ vi diệu. Bố thí như vậy là sự bố thí thù thắng nhất. Người bố thí đó được gọi là vị thí chủ bậc thượng.

Nếu như thuận theo ý của người xin, trong vô lượng đời vị lai, thí chủ sẽ được tất cả sở cầu như ý. Nếu như tâm ý, tài vật, phước điền đều thanh tịnh, thì vị thí chủ sẽ được vô lượng quả báo lành. Nếu như đem lòng lo lắng, vui vẽ, cung cấp quần áo, thức ăn cho vợ con, tôi tớ, thí chủ trong tương lai sẽ được vô lượng phước đức.

Nếu thấy vườn ruộng, hoặc trong kho có nhiều chuột, hay chim chóc ăn phá lúa gạo, nên khởi tâm thương xót, nghĩ rằng: “Chim chuột này nhờ ta mà được sống.” Nghĩ xong vui mừng, không còn ý tưởng muốn tàn hại chúng. Nên biết kẻ đó được phước vô lượng.

Nếu vì tự thân mà may sắm quần aó, chuỗi ngọc anh lạc, đồ trang sức, các loại dụng cụ. Sắm sửa xong, lòng sinh vui mừng, nếu chưa kịp sử dụng mà lại đem bố thí cho người khác, thì kẻ đó về sau tất cả sở cầu đều được như ý.

Nếu có người cho rằng: “Lìa sự bố thí được quả báo lành.” Đây là điều không thể có. Không tài vật, hoặc không người nhận, hoặc không xả bỏ tâm bỏn sẻn, mà thành sự bố thí, đây là điều không thể có.

Nếu như có người, kẻ khác chưa xin mà đã bố thí, hoặc tự mình đang thiếu thốn mà bố thí, hoặc xin ít mà bố thí nhiều, xin đồ xấu mà bố thí đồ tốt, chỉ cho người khác cách cầu xin, tự mình đến nơi người xin mà bố thí, nên biết kẻ đó, trong đời vị lai sẽ được nhiều kho báu, những đồ vật tầm thường đều biến thành trân bảo.

Nếu như vì bởn cợt đối phương mà bố thí, hoặc bố thí cho kẻ không phải phước điền, hoặc tuy bố thí mà không tin nhân quả, đây không gọi là bố thí.

Nếu như có người chỉ riêng bố thí cho bậc phước điền lớn, không thích bố thí cho kẻ tầm thường, nên biết kẻ ấy đời sau khi được quả báo, sẽ không ưa thích bố thí.

Nếu có người sau khi bố thí, sinh lòng hối hận, hoặc cướp đoạt vật của kẻ khác đem bố thí, kẻ đó đời sau, tuy được tài vật, thường bị tiêu hao, không cất giữ được.

Nếu làm khổ người thân, lấy vật đem bố thí, kẻ đó đời sau tuy được quả báo lớn, nhưng thường bị bệnh khổ.

Nếu như không biết cúng dường cha mẹ, bức não vợ con, làm tôi tớ khốn khổ, để lấy của đem bố thí, đây gọi là kẻ ác, giả danh bố thí, không phải là sự bố thí có ý nghĩa. Kẻ bố thí đó là kẻ không lòng thương xót, là kẻ vô ơn, trong đời vị lai tuy được tiền tài trân bảo, nhưng thường hao tổn, tán thất, không thể tiêu dùng, thân nhiều bệnh khổ.

Nếu có người như pháp dùng tiền tài bố thí, trong đời vị lai sẽ được vô lượng phước, có tiền của tiêu dùng. Nếu như bố thí tiền tài không như pháp, kẻ đó đời sau tuy được quả báo, phải nương nhờ vào người khác mới được. Nếu như người kia mệnh chung, thì kẻ đó trở lại nghèo cùng.

[Giải]    Đoạn này biện minh quả báo sai biệt của sự bố thí,  nghĩa là từ ba phương diện: người thí, vật thí và người nhận, mà phán định sự khác biệt của quả báo.

F6. Biện minh tài thí và pháp thí

Thiện nam tử! Bố thí có hai loại, tài thí và pháp thí. Tài thí là bậc hạ, pháp thí là bậc thượng. Thế nào là pháp thí? Nếu có tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, có thể dạy người khác đầy đủ tín tâm, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ; hoặc đem giấy mực cho người khác biên chép, hoặc tự mình biên chép kinh điển của Như Lai, sau đó bố thí cho người khác đọc tụng, đây gọi là pháp thí. Kẻ bố thí pháp, trong vô lượng đời sau, sẽ được dung nhan mỹ lệ. Vì sao? Chúng sinh nghe pháp, đoạn trừ tâm sân, do nhân duyên này, kẻ bố thí trong vô lượng đời, được dung nhan tuyệt thế. Lại nữa, chúng sinh nghe pháp, sinh lòng từ không sát hại, do nhân duyên này, kẻ bố thí trong vô lượng đời sau, được tuổi thọ dài lâu. Lại nữa, chúng sinh nghe pháp, không trộm cướp kẻ khác, do nhân duyên này, thí chủ trong vô lượng đời sau, được nhiều của cải. Lại nữa, chúng sinh nghe pháp, sinh lòng ưa thích bố thí, do nhân duyên này, thí chủ trong vô lượng đời sau, được sức khoẻ dồi dào. Lại nữa, chúng sinh nghe pháp, đoạn trừ sự buông lung, do nhân duyên này, thí chủ trong vô lượng đời sau, thân được an lạc. Lại nữa, chúng sinh nghe pháp, đoạn trừ tâm ngu si, do nhân duyên này, thí chủ trong vô lượng đời sau, được lòng tin sáng tỏ. Các trường hợp trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, cũng giống như vậy. Do đây, pháp thí thù thắng hơn tài thí.

[Giải]    Ý nghĩa của tài thí, pháp thí, phần trên đã giảng qua. Ở đây nói rộng hơn về sự ích lợi của pháp thí. In kinh cũng đồng nghĩa với biên chép kinh điển. Bỏ tiền ra in kinh tặng người khác (ấn tống) cũng đầy đủ hai loại tài thí và pháp thí.

F7. Biện minh sự bố thí cho quỉ thần

Hoặc có người cho rằng: “Con tu pháp lành, cha làm việc ác. Nhân vì người con tu thiện, người cha sẽ không bị đọa vào ba đường ác.” Điều này không đúng. Vì sao? Vì nghiệp thân khẩu ý của mỗi người đều khác nhau.

Nếu như người cha sau khi mất đọa vào ngạ quỉ, người con vì cha mà tu phước, thì người cha sẽ được phần; còn nếu người cha sinh vào cõi trời, thì sẽ không còn nghĩ đến những vật nhân gian. Vì sao? Vì cõi trời có sẵn những vật trân bảo thù thắng. Nếu như người cha đọa vào địa ngục, thân bị thọ khổ, không còn rãnh để tưởng nghĩ đến vật nhân gian, cho nên không được phần. Đọa vào súc sanh, hoặc sanh cõi người, cũng giống như vậy.

Nếu như hỏi rằng ngạ quỉ vì nhân duyên gì mà được? Nên biết, vì kẻ mệnh chung bổn tính tham lam bỏn sẻn, cho nên đọa vào ngạ quỉ. Sau khi làm ngạ quỉ, tâm thường hối hận lỗi lầm xưa, tưởng nghĩ mong được, cho nên hoạch được phước báo do sự hồi hướng.

Giả như người tu phước đó thác sinh vào cõi khác, còn tất cả quyến thuộc đều bị sinh vào ngạ quỉ, thì tất cả quyến thuộc này sẽ được phước báo do người tu phước hồi hướng. Vì thế, người trí phải nên vì loài ngạ quỉ mà siêng tu phước đức.

Nếu đem quần áo, thức ăn, phòng xá, ngọa cụ, các vật cần dùng, bố thí sa môn, bà la môn, v.v…, những khất sĩ bần cùng, dùng công đức này chú nguyện cho loài ngạ quỉ được phước báo, và nhờ thế lực của nhân duyên bố thí chú nguyện này, những kẻ đọa vào ngạ quỉ sẽ được thế lực lớn. Thí chủ bố thí bao nhiêu, thì họ được hưởng bấy nhiêu phước báo? Vì sao? Vì chỗ thác sinh là như thế.

Thức ăn của loài ngạ quỉ không đồng; hoặc ăn mủ, hoặc ăn phẩn, hoặc ăn máu dơ, đồ thổ mửa, khạc nhổ. Nếu như được sự bố thí vừa nói trên, thì tất cả món ăn của họ sẽ biến thành màu sắc xinh đẹp, mùi vị thơm tho.

Nếu đem nước cặn rửa bát bố thí cho những loài có thể dùng được, như lại bị kẻ khác ngăn chặn, làm cho những loài kia rốt cuộc không được ăn, tuy thế, kẻ bố thí vẫn được phước báo. Vì sao? Vì kẻ bố thí có lòng thương xót.

Nếu như cúng tế quỉ thần thì ai là kẻ thọ hưởng? Tùy vào nơi chốn của chỗ thờ tự đó. Nếu như gần rừng, thì thọ thần hưởng; gần sông, gần suối, gần giếng, rừng núi, ụ đất, v.v…, cũng giống như vậy. Phần kẻ cúng tế cũng được phước đức. Vì sao? Làm cho kẻ thọ nhận sanh lòng vui mừng. Phước của việc cúng tế có thể bảo hộ thân mạng, tài sản.

Nếu cho rằng sát sinh để tế tự sẽ được phước. Điều này không đúng! Vì sao? Chưa từng thấy người thế gian trồng hạt cây y lan mà lại sinh cây chiên đàn, hoặc giết hại sinh mạng của chúng sinh mà lại được phước đức.

Nếu như muốn tế tự, nên dùng hương, hoa, sữa, lạc, tô, thuốc men. Có ba tời gian cầu phước cho người mất: tháng hai mùa xuân, tháng năm mùa hạ, và tháng chín mùa thu.

[Giải]    Ở đây biện minh về ý nghĩa của sự bố thí cho quỷ thần. Tuy phần trên nói kẻ tạo nghiệp khác kẻ thọ báo, nhưng đây có nghĩa là đời này tạo nghiệp, đời sau thọ báo, chứ không  thể nào người này tạo mà người khác thọ báo.

Còn vấn đề tu phước để hồi hướng cho người mất, nếu như triển chuyển làm tăng thượng duyên cho họ, đây không phải là điều vô ích, nhưng ý nghĩa rốt ráo, không phải là phước báo đáng lẽ người này được hưởng, lại có thể chuyển đến cho kẻ kia thọ quả báo.

Loài ngạ quỷ, nhân vì có chút ít túc mệnh thông, cho nên biết hối hận việc làm đời trước. Pháp thí thực “phóng diệm khẩu”, nguyên vì loài ngạ quỷ mà thiết lập, bởi thế, các chùa chiền mỗi thời công phu tối, đều có cúng mông sơn thí thực để cứu tế loài ngạ quỷ.

Như ở tỉnh Quảng đông, hoặc các vùng Nam dương, v.v…, mỗi khi cúng dường Đức Bồ tát Quán Thế Aâm, đều giết heo để tế lễ; nếu y theo bổn kinh mà phán xét, ắt là không được phước báo.

Chú nguyện, giống như “đọc sớ”, tức là hồi hướng cho các vong linh, cầu được siêu độ.

Cây Y lan (Hán: xú thọ, cây thối), mùi rất hôi thối.

Thông thường cho rằng người chết thành quỷ, nhưng không ắt phải như vậy, vì người sau khi chết, có thể sinh vào sáu đường: trời, người, a tu la, quỷ, súc sinh, địa ngục; không có định chuẩn, chẳng qua, họ có thể sinh vào đường ngạ quỷ. Lại còn một cõi trung ấm (ý sinh thân), tức là các thần thức sau khi chết mà chưa đi đầu thai.

Chỉ có ngạ quỷ và cõi trung ấm là có thể cảm thọ được sự ích lợi của việc siêu độ

F8. Biện minh ý nghĩa của sự bố thí

Nếu đem phòng xá, ngọa cụ, thuốc men, vườn, rừng, ao, giếng, trâu, dê, voi, ngựa, các loại đồ dùng, bố thí cho kẻ khác. Sau khi bố thí rồi mệnh chung, tùy theo những đồ vật bô thí xử dụng lâu hay mau, phước đức của người bố thí, tùy đó mà sinh trưởng. Phước đức theo bên người đó, như bóng theo hình.

Hoặc có người cho rằng: “Sau khi mệnh chung, phước đức của sự bố thí gián đoạn.” Điều này không đúng. Vì sao? Chỉ có hai lúc, hoặc vật bố thí bị hư hoại, hoặc người nhận không còn xử dụng, thì phước đức bố thí mới gián đoạn, chứ không phải lúc người bố thí mệnh chung.

Nếu người xuất gia bắt chước kẻ tại gia, vào những ngày lễ lộc, bày tiệc ăn uống vui mừng, đây gọi là bắt chước thế gian, chẳng phải chân thực lợi ích, tuy cũng tin pháp thế gian và pháp xuất thế gian.

Nếu có thể tùy đồ vật trong nhà, dù tốt hay xấu, thường ưa thích đem bố thí, đây gọi là bố thí tất cả.

Nếu đem thân thể, vợ con, những vật quí báu bố thí cho kẻ khác, thì gọi là sự bố thí không thể nghĩ bàn.

Nếu bố thí cho mười một loại người như sau: (1) kẻ ác, (2) kẻ hủy giới, (3) kẻ oán thù, (4) kẻ không biết ơn nghĩa, (5) kẻ không tin nhân quả, (6) kẻ cưỡng bức cầu đòi, (7) kẻ có thế lực lớn, (8) kẻ hung hãn chửi rủa, (9) kẻ nhận bố thí rồi sinh sân, (10) kẻ giả bộ đạo đức, (11) kẻ giàu sang quyền quí, thì gọi là sự bố thí không thể nghĩ bàn.

Thiện nam tử! Tất cả sự bố thí có ba căn bổn: (1) bố thí cho người nghèo vì lòng thương xót, (2) bố thí cho kẻ oán thù không cần đền ơn, (3) bố thí cho bậc phước đức, tâm vui mừng kính trọng.

Thiện nam tử! Nếu có người giàu có, trong vô lượng đời cúng dường Tam bảo, tuy được vô lượng phước đức, không bằng khuyên người khác cùng mình làm việc thiện.

Nếu có người hiềm vật bố thí ít ỏi, hư xấu, hổ thẹn không chịu đem bố thí, người đó đang làm tăng trưởng sự nghèo khổ của chính mình ở đời sau.

Hai người cùng làm việc bố thí, nếu tài vật, bậc phước điền, tâm bố thí bằng nhau, thì hai người sẽ được quả báo bằng nhau không khác.

Nếu tài vật và tâm bố thí như nhau, kẻ nào bố thí cho bậc phước điền thù thắng, thì được phước báo thù thắng.

Nếu phước điền và tâm bố thí đều là bậc hạ, kẻ nào bố thí tài vật thù thắng, sẽ được quả báo thù thắng.

Nếu như phước điền, tài vật đều là bậc hạ, kẻ nào có tâm bố thí thù thắng, sẽ được quả báo thù thắng.

Nếu như phước điền và tài vật đều thù thắng, kẻ nào tâm bố thí bậc hạ, được quả báo sẽ không bằng kẻ kia.

F9. Bố thí rốt ráo

Thiện nam tử! Người trí lúc bố thí không cầu quả báo. Vì sao? Biết chắc tạo nhân ắt sẽ có quả. Nếu người không có tâm từ, không biết ơn nghĩa, không ham thích công đức của các bậc thánh nhân, luyến tiếc tài sản, thân mệnh, lòng tham mạnh mẽ, những kẻ như vậy không thể bố thí.

Người trí quán sát tất cả chúng sanh, nếu có kẻ nào, lúc cầu tài sản, không tiếc thân mệnh, sau khi được tài vật lại có thể đem bố thí cho kẻ khác, nên biết kẻ đó có thể hy sinh thân mệnh. Người bỏn sẻn không thể bố thí tài sản, nên biết kẻ đó cũng tham tiếc thân mệnh. Người nào có thể xả bỏ thân mạng, cầu được tài vật để đem bố thí, nên biết kẻ đó là đại thí chủ.

Nếu người được tài sản, tham tiếc không bố thí, nên biết kẻ đó là hạt giống bần cùng trong đời vị lai. Cho nên trong khế kinh, ta có nói: “Trong bốn châu thiên hạ, người châu Diêm phù đề có ba việc thù thắng: (1) dũng kiện, (2) có tâm ghi nhớ, (3) hạnh thanh tịnh.” Không thấy quả báo mà biết tu nhân; không tiếc thân mệnh cầu được tài vật, phá trừ tâm bỏn sẻn, đem tài sản bố thí, sau khi bố thí tâm không hối tiếc, lại có thể phân biệt phước điền và không phải phước điền. Đây gọi là dũng kiện.

Thiện nam tử! Bố thí xong sinh lòng hối tiếc là do ba việc: (1) tham tiếc tài sản, (2) nghe theo tà kiến, (3) thấy lỗi của người nhận. Lại có ba việc: (1) sợ kẻ khác quở trách, (2) sợ hết của sẽ bị khổ, (3) thấy kẻ khác sau khi bố thí trở nên nghèo cùng khổ não.

Thiện nam tử! Người trí đối với việc bố thí không bao giờ sinh tâm hối hận. Lại có ba việc làm cho không sinh tâm hối hận: (1) sáng suốt tin nhân quả, (2) gần gũi bạn lành, (3) không tham tiếc tài sản. Tin nhân quả lại có hai việc: (1) tin sâu, (2) trí tuệ. Không tham tiếc tài sản cũng có hai việc: (1) quán vô thường, (2) không được tự tại.

Thiện nam tử! Kẻ bố thí nếu có thể quán sát, thực hành việc bố thí như thế, nên biết kẻ đó có thể thực hành đầy đủ bố thí ba la mật. Cho nên trước đây ta đã nói: “Có bố thí không phải ba la mật, có ba la mật không phải bố thí, có bố thí vừa là ba la mật, có không phải bố thí vừa không phải ba la mật.”

[Giải]    Lúc bố thí không vì quả báo, không phải là không tin quả báo, chính vì rất tin tưởng quả báo, cho nên không cầu thêm, nghĩa là chỉ lo siêng năng cầy cấy, không cần hỏi đến sự thu hoạch.

Khế kinh, đại để là chỉ kinh A Hàm mà nói.

Bốn thiên hạ, tức là bốn châu đông, tây, nam, bắc. Diêm phù đề là nam châu.

F10. Trước tiên giáo hóa, sau đó bố thí

Thiện nam tử! Người trí có ba hạng: (1) có thể xả bỏ vật bên ngoài, (2) có thể bố thí thân thể, (3) sau khi bố thí thân mệnh tài sản, lại còn giáo hóa chúng sinh.

Làm thế nào để giáo hóa? Thấy kẻ nghèo khổ, trước tiên nên hỏi họ: “Ông có thể quy y Tam bảo không? Có thể thọ trai giới không?” Nếu trả lời có thể, trước tiên truyền thọ Tam quy y và trai giới, sau đó bố thí tài vật. Nếu trả lời không thể, nên nói với họ: “Nếu như không thể, ông có thể lập lại theo tôi rằng các pháp là vô thường, vô ngã, Niết bàn tịch tĩnh hay không?” Nếu trả lời có thể, liền dạy họ nói, sau đó bố thí. Nếu họ trả lời chỉ có thể nói hai việc, mà không thể nói các pháp vô ngã, thì nên nói với họ: “Nếu ông không thể nói các pháp vô ngã, ông có thể nói các pháp không có tự tính hay không?” Nếu trả lời có thể, dạy họ nói xong, sau đó bố thí. Nếu như có thể trước tiên giáo hóa sau hành bố thí, kẻ đó sẽ được gọi là bậc đại thí chủ.

Thiện nam tử! Nếu như có thể giáo hóa chúng sinh như thế, nhẫn đến không phân biệt người thân kẻ thù, kẻ đó được gọi là bậc đại thí chủ.

Thiện nam tử! Người trí lúc có tài vật để bố thí, phải nên tu tập hạnh bố thí như trên. Nếu như không có tài vật, nên chỉ bảo cho những kẻ có tài vật tu hạnh bố thí. Nếu như các vị thí chủ đó, trước đã biết pháp này, không cần phải chỉ bảo, thì tự mình nên đến giúp đở họ làm việc bố thí.

[Giải]    Trong đây biện minh, trước hết giáo hóa đối phương, sau đó mới bố thí cho họ, tức là tài, pháp đều bố thí.

F11. Bố thí thuốc men cho người bệnh

Nếu người nghèo không tài vật, nên học các phương thuốc cùng các loại chú thuật, tìm cầu những phương thuốc thông thường, đem bố thí cho những kẻ cần dùng. Hết lòng khám bệnh, chăm sóc, trị liệu. Khuyến khích người có của, bào chế các thứ thuốc, hoặc thuốc viên, thuốc bột, thuốc thang, v.v…

Sau khi biết rõ phương pháp trị bệnh, đi khắp nơi để khám bệnh, tùy phương chẩn mạch, tìm rõ bệnh tình, sau đó tùy theo căn bệnh mà trị liệu. Trong lúc trị liệu, khéo biết phương tiện, tuy gặp hoàn cảnh thiếu vệ sinh, cũng không sinh tâm nhờm gớm. Không những biết rõ bệnh tình tăng giảm, lại còn biết rõ loại thuốc nào, thức ăn nào có thể làm tăng thêm hoặc giảm bớt căn bệnh. Nếu như người bệnh đòi ăn những thứ thức ăn, hoặc uống những thứ thuốc làm tăng bệnh, thì phải nên khéo léo giảng giải cho họ, không nên cấm đoán. Nếu như cấm đoán, có thể làm cho họ tăng thêm đau khổ. Nếu như biết chắc người bệnh sẽ chết, không nên nói thẳng với họ, mà nên dạy họ quy y Tam bảo, niệm Phật pháp tăng, siêng tu cúng dường. Nên nói với họ bệnh khổ là do nhân duyên không lành đời trước, cho nên bị khổ báo, nay phải nên sám hối. Nếu người bệnh nghe xong, hoặc sinh lòng sân hận, chửi rủa, nhục mạ, nên im lặng không đối đáp, cũng không xả bỏ họ. Mặc dù chăm sóc trị liệu cho họ, cẩn thận không nên trách cứ họ vô ơn. Sau khi lành bệnh, vẫn đến thăm nom, sợ sau đó họ lao nhọc, bệnh sẽ tái phát.

Nếu thấy bình phục sức khoẻ như xưa, nên sinh lòng vui mừng, không cầu báo ơn. Nếu như người bệnh mệnh chung, nên lo việc an táng. Thuyết pháp an ủi những người quen biết và thân quyến của họ.

Không nên đem thức ăn hoặc thuốc men có hại cho sức khoẻ, bố thí cho người khác. Nếu người bệnh sau khi lành mạnh, vui mừng đem đồ vật đền ơn, cũng nên thâu nhận, sau đó đem bố thí cho người nghèo khổ khác.

Nếu có thể khám bệnh, chăm sóc, trị liệu như thế, nên biết người đó là đại thí chủ, chân thực cầu đạo Vô thượng Bồ đề.

Thiện nam tử! Người trí lúc cầu Vô thượng Bồ đề, tuy của cải dư dật, cũng nên học tập phương pháp trị bệnh, tạo lập phòng khám bệnh, cung cấp đầy đủ đồ cần dùng, thực phẩm, thuốc men, v.v…, cho bệnh nhân.

[Giải]    Đoạn này biện minh, không luận thí chủ là giàu hay nghèo, đều nên nghiên cứu y dược để trị bệnh cho người khác. Thí chủ càng giàu càng phải nên bố thí thuốc men.

F12. Nói rộng phạm vi bố thí

Đường xá lồi lõm, chật hẹp, nên sửa chửa cho bằng phẳng, rộng rãi; trừ dẹp chông gai, đá sỏi, phẩn uế, nhơ nhớp. Chỗ hiểm trở nếu cần dùng ván, thang, cây, dây thừng, thảy đều bố thí.

Cạnh đường lộ nơi chốn hoang vu, nên đào giếng, trồng cây ăn trái, sửa sang khe lạch. Nơi không cây cối, vun trồng cây cối. Vệ đường nơi các người gánh gồng nghỉ chân, vì họ đắp những chỗ ngồi. Xây tạo trạm nghỉ ngơi, trang bị đầy đủ các vật cần dùng như bình, bồn, đèn đuốc, giường chiếu. Nơi có các dòng nước dơ chảy qua, làm cầu bắc ngang. Nơi các bến đò, bến sông, làm cầu, bố thí thuyền bè. Những người không thể tự qua sông lạch, tự mình đến đưa họ qua. Đối với người già, trẻ con, bệnh hoạn, ốm yếu, tự tay dẫn dắt, giúp họ băng qua sông lạch. Bên cạnh đường xây tháp, trồng hoa, cây ăn trái. Thấy kẻ sợ hãi trốn chạy, giúp họ bằng cách che dấu, sau đó đem của cải, dùng lời khéo léo khuyên người bắt tha mạng.

Nếu thấy người đến gần chỗ nguy hiểm, liền đến đón đưa, giúp cho qua khỏi. Nếu thấy có người không nhà cửa, linh đinh lưu lạc, tùy nghi bố thí, dùng lời an ủi. Người đi đường xa mệt mỏi, giúp họ tắm rửa, xoa bóp tay chân, cho họ giường ghế, nếu không giường ghế, lấy cỏ trải mà làm chỗ nghỉ ngơi.

Lúc nóng nực, bố thí quạt và quần áo mát; lúc lạnh, bố thí lửa và quần áo ấm. Hoặc tự mình bố thí, hoặc chỉ bảo người khác bố thí.

Đối với người mua bán, khuyên nhắc họ nên đối xử bình đẳng, không vì tham chút lợi mà dối gạt lẫn nhau.

Thấy người đi đường, chỉ dẫn đường nào nên đi, đường nào không nên đi. Đường nên đi là đường có nước cỏ, không có giặc cướp. Nói rõ đường không nên đi là chỉ chỗ có nhiều hoạn nạn.

Thấy có người giày, dép, quần áo, bình bát cũ rách hư tổn, giúp cho họ vá may, giặt nhuộm, sửa chửa.

Nếu có nạn chuột, rắn, chấy rận, trùng độc, đều nên trừ dẹp.

Bố thí vật cọ lưng, đồ cắt móng tay, móc tai; vá may, giặt giũ đồ vật của chúng tăng, nghĩa là tọa cụ, y áo, v.v… Trong nhà xí để sẵn nước sạch, xà phòng hay tro đất sạch, v.v…

Nếu tự mình may y phục, làm bình bát, trước tiên nên dâng cúng Phật, sau đó dâng cho cha mẹ, sư trưởng, Hòa thượng thọ dụng trước, sau đó mới tới phiên mình. Nếu như trước đã cúng Phật y, bát, v.v…, có thể dùng hoa, hương chuộc lại, cúng cho người khác dùng.

Các thức ăn uống, trước tiên phải nên cúng dường sa môn, phạm chí, rồi sau mới ăn.

Thấy có người ở xa đến, nhỏ nhẹ hỏi han, cung cấp cho họ nước sạch tắm rửa, sau đó đưa dầu xoa chân, hương, hoa, tăm xỉa răng, xà phòng, tro đất sạch, dầu thơm, nước thơm, mật tỳ bát la xá lặc, áo lót; sau khi người đó xoa dầu, tắm rửa xong, lại đem các loại hương hoa, thuốc hoàn, thuốc tán, thức ăn, nước trái cây, tùy theo chỗ cần dùng mà bố thí.

Lại bố thí dao cạo râu tóc, đảy lọc nước, kim, chỉ, y nạp, giấy, bút, mực, v.v… Nếu không thể thường thường bố thí, thì nên bố thí vào những ngày thọ bát quan trai.

Nếu thấy người mù, tự đến cầm tay, bố thí gậy và chỉ đường cho họ. Nếu thấy người khổ, mất mát tài sản, cha mẹ chết hết, nên đem tài vật cung cấp, dùng lời khéo léo nói pháp, an ủi, can gián, khuyên lơn, khéo nói về hai loại quả báo: phiền não và phước đức.

Thiện nam tử! Nếu kẻ nào có thể tu tập sự bố thí như vậy, thì được gọi là vị đại thí chủ.

[Giải]    Trong đây, làm việc bố thí thanh tịnh rộng lớn, nếu khảo cứu lịch sử, như vua A Dục ở Ấn độ, ở khắp nơi trong nước, làm những việc từ thiện to tát, như xây chùa, xây tháp, bắt cầu, đắp đường, đào giếng, v.v…

Kẻ ở địa vị cao, có thế lực lớn, thì đây là cơ hội quý báu để có thể tu huệ thí.

Mật tỳ bà xá lặc, chưa thể tìm ra nghĩa của chữ này, đại khái, có thể là một vật dụng bình thường nào đó.

Đại thí chủ thanh tịnh, nếu sinh vào cõi người, nhất định sẽ là các bậc lãnh tụ tôn giáo, hoặc lãnh tụ chánh quyền. Bởi thế, các bậc đại phú quý, hoặc các người đã phát Bồ đề tâm, phải tìm tất cả phương tiện để thành đại thí chủ.

Hoặc có người tu học Phật pháp vì muốn hưởng phước thanh nhàn (để người khác cung phụng, còn mình thì thọ hưởng), hoặc có người tu học Phật pháp, nhưng trước đó đã dùng nhiều phương tiện bất lương để được tài sản, mưu cầu sự an hưởng, hoặc có người sau khi tu học Phật pháp, ra đời làm việc, lại còn dùng Phật pháp làm phương tiện để mưu cầu lợi lạc. Phàm những sự việc như vậy, căn bệnh là dùng sự tu học Phật pháp để mưu cầu hưởng thụ, phó mặc những việc công ích xã hội cho người thế tục, vậy mà còn chuyên môn đem “người xuất gia” ra để làm “tiêu chuẩn học Phật”.

Người xuất gia giáo hóa kẻ khác học Phật, lại đem pháp của người xuất gia ra mà dạy cho họ, thế nhưng, đây là điều không hợp với ý nghĩa chân thực của Phật giáo Đại thừa.

Phụ chú: Ý của Đại sư muốn nói “HỌC PHẬT KHÔNG BẮT BUỘC PHẢI XUẤT GIA“.

D3. Kết luận tại gia khó tu

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng, một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia làm thí chủ thanh tịnh, điều này không khó; Bồ tát tại gia làm thí chủ thanh tịnh, điều này mới khó. Vì sao? Vì kẻ tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc