NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Vô Tính Bồ-tát tạo luận
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 9

10 – Quả đoạn

Luận nói: Như vậy là đã nói về sự thù thắng của tuệ tăng thượng, vậy làm thế nào thấy sự thù thắng của quả đoạn?

Đoạn nghĩa là Niết-bàn vô trụ của Bồ-tát, vì xả bỏ tạp nhiễm mà không xả bỏ sinh tử. Chuyển y 2 chỗ y chỉ làm tướng. Trong đó sinh tử là phần tạp nhiễm của tính y tha khởi, Niết-bàn là phần thanh tịnh của tính y tha khởi. Hai chỗ y chỉ là 2 phần của tính y tha khởi. Chuyển y là tính y tha khởi, khi khởi đối trị thì chuyển bỏ phần tạp nhiễm được phần thanh tịnh.

Giải thích: Trí vô phân biệt có thể trị tất cả sở trị đã sinh, quyết định phải đoạn cho nên kia luôn luôn nói đoạn thù thắng. Vo trụ Niếtbàn, là không đồng như thế gian, Thanh Văn, Độc Giác an trụ sinh tử hoặc Niết-bàn. Bởi xả bỏ tạp nhiễm mà không bỏ sinh tử, nghĩa là làm hại cái thế lực kia như nguyền rủa, rắn độc, tuy không xả bỏ mà không nhiễm. Hai sở y chỉ, chuyển y làm tướng, nghĩa là hoặc y chủ thích hoặc trì nghiệp thích. Trụ chuyển y này như cõi Vô sắc. Nếu y tự lợi với thù thắng tuệ cùng tương ưng thì không có phiền não. Nếu y lợi tha, do cùng tương ưng với đại bi nên hiện ở sinh tử mà không xả bỏ Trong đây cái gì là sinh tử Niết-bàn? Y chỉ chuyển y đều phải nói rõ. Sinh tử là phần tạp nhiễm của tính y tha, nghĩa là tâm tâm pháp phiền não mê loạn, lỗi lầm sinh tử tiếp nối không dứt phần biến kế sở chấp. Niết-bàn là phần tghanh tịnh của tính y tha khởi, nghĩa là rốt ráo chuyển biến kế sở chấp thành phần viên thành thật. Hai sở y chỉ, là thông hai phần tính y tha khởi, nghĩa là hai sở y tính y tha khởi. Chuyển y là tính y tha khởi, nghĩa là tâm tâm pháp y tính y tha khởi. Là các tạp nhiễm chuyển diệt sở y. Cũng là sở y của tất cả Phật pháp. Như có thuyết nói đây là tất cả Phật pháp, quả của các địa Ba-la-mật-đa. Sở y v.v… thế nào là chuyển y? Chuyển y những gì? Nghĩa là ngay khi khởi đối trị tính y tha khởi, khi khởi trí vô phân biệt. Chuyển xả phần tạp nhiễm là chuyển diệt tất cả phần mê loạn của sở thủ năng thủ. Chuyển được phần thanh tịnh, là xả bỏ tính sở thủ năng thủ kia nên được xa lìa sở thủ năng thủ do tự nội chứng, là phần thanh tịnh nhất tuyệt dứt các hý luận.

Luận nói: Lại nữa sự chuyển y này đại lược có 6 thứ. Một là chuyển bớt sức lực thêm khả năng. Nghĩa là do sức thắng giải trụ trong đa văn huân tập và do có sự biết hổ thẹn nên khiến một phần ít phiền não hiện hành, hoặc không hiện hành. Hai là chuyển sự thông đạt. Nghĩa là các Bồ-tát đã nhập địa, cho đến địa thứ 6, hiện tiền trụ trước mắt là chân thật thì hiển hiện, phi chân thật thì không hiển hiện. Ba là chuyển sự tu tập. Nghĩa là cho đến địa thứ 10 vì còn chướng ngại, tất cả tướng không hiển hiện, chỉ chân thật hiển hiện. Bốn là chuyển quả viên mãn. Nghĩa là vĩnh viễn không còn chướng ngại, tất cả tướng không hiển hiện, chỉ hiển hiện chân thật thanh tịnh cùng tột, được tự tại đối với tất cả tướng. Năm là chuyển sự thấp kém. Nghĩa là Thanh Văn v.v… chỉ có thể thông đạt tính nhân không vô ngã, một bề quay lưng xả bỏ sinh tử. Sáu là chuyển một cách rộng lớn. Nghĩa là các Bồ-tát gồm thông đạt pháp không vô ngã, nên ngay nơi sinh tử mà thấy là thanh tịnh vắng lặng, tuy đoạn trừ tạp nhiễm mà không bỏ sinh tử.

Các Bồ-tát trụ ở địa vị thấp kém, đối với sự chuyển y có lỗi gì?

Có lỗi là không đoái tưởng đến sự lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh, trái với tất cả các pháp Bồ-tát, chỉ giải thoát bản thân đồng với các thừa thấp kém.

Nếu các Bồ-tát trụ ở địa vị chuyển đổi rộng lớn thì có công đức gì?

Ở trong pháp sinh tử lấy sự tự chuyển y làm chỗ dựa nên được tự tại. Thị hiện thân chúng sinh trong tất cả mọi nẻo luận hồi, nếu sinh vào hàng chúng sinh tối thắng và trong 3 thừa thì có thể dùng các phương tiện khéo léo điều phục an lập giáo hóa chúng sinh. Đó là công đức.

Giải thích: Chuyển bớt sức lực thêm khả năng, nghĩa là do sức thắng giải và sức đa văn huân tập tổn giảm phiền não huân tập bám phụ trong thức dị thục, tăng thêm huân tập công năng tịnh pháp, lại do thắng giải văn huân tập nên có sự biết hổ thẹn khiến một phần ít phiền não hiện hành, hoặc không hiện hành. Chuyển sự thông đạt, nghĩa là các Bồ-tát đã chứng nhập đại địa, đối với chân phi chân hoặc hiện hoặc không hiện, trí vô phân biệt hiện hành có hoặc không có gián đoạn. Cho nên có khi chân hiện là khi nhập quán. Có khi phi chân hiện là khi xuất quán. Phi chân và chân trong hai lúc ấy như tuần tự nói là hiện không hiện. Sự kiện hiện không hiện này diễn ra cho đến địa thứ 6. Chuyển sự tu tập, nghĩa là do sở tri chướng gọi là có chướng. Vị chuyển y này cho đến địa thứ 10 các tướng không hiển hiện, chỉ chân thật hiển hiện. Chuyển quả viên mãn v.v…, nghĩa là do tất cả chướng mà gọi là không chướng, bởi tất cả chướng vĩnh viễn không còn nên được tất cả tướng đều không hiển hiện, được hiển hiện chân thật thanh tịnh cùng tột. Y vào chuyển y này, được tự tại đối với tất cả tướng. Vì được tự tại đối với các tướng nên tùy theo sở thích mà lợi lạc hữu tình. Chuyển sự thấp kém v.v…các câu này dễ hiểu không phải giải thích nữa. Chuyển một cách rộng lớn, nghĩa là đối với tạp nhiễm thì đoạn mà không xả bỏ, vì trong sinh tử đạt được vô ngã. Đoạn các tạp nhiễm, tức là trong đó thấy nó vắng lặng cho nên không có xả bỏ. Trụ ở hạ liệt chuyển có lỗi gì v.v…văn đây dễ hiểu. Trụ ở quảng đại chuyển có công đức gì, nghĩa là vì đối với tất cả pháp được tự tại nên trong tất cả các nẻo thú thị hiện thân đồng phần dùng phương tiện khéo léo điều phục tất cả, đem các chúng hữu cảm, hữu tình được hóa độ an trí nơi tối thắng sinh và trong 3 thừa. Tối thắng sinh, nghĩa là sinh nơi an lạc trong các thế gian. Phải biết rằng đây là công đức thuyết pháp.

Luận nói: Ở đây có các bài tụng như sau:

Phàm phu chân thật che,

Chỉ hiển lộ hư vọng.

Các Bồ-tát xả vọng,

Chỉ hiển lộ chân thật.

Phải biết hiển, không hiển,

Chân nghĩa, phi chân nghĩa.

Chuyển y tức giải thoát,

Tùy ý được tự tại.

Nơi sinh tử Niết-bàn,

Nếu khởi trí bình đẳng,

Bấy giờ do chứng đắc,

Sinh tử tức Niết-bàn.

Do đó với sinh tử,

Chẳng bỏ, chẳng chẳng bỏ.

Cũng giống như Niết-bàn,

Chứng đắc, chẳng chứng đắc.

Giải thích: Để làm rõ nghĩa chuyển y nên lại nói một số tụng. Các phàm phu chân thật che v.v…, nghĩa là như phàm phu chưa đoạn trừ vô minh, chân nghĩa không hiển lộ nên nói là che. Vì sức vô minh nên tất cả hư vọng đều hiển hiện. Bồ-tát không như vậy vì đoạn trừ vô minh nên hiểu rõ hư vọng đều vô sở hữu, nên gọi là xả vọng. Chỉ có chân nghĩa hiển hiện mà thôi. Do đạo lý này phải biết hiển không hiển, chân nghĩa phi chân nghĩa, nghĩa là chân nghĩa viên thành thật hiển hiện, biến kế sở chấp phi chân thật nghĩa đều không hiển hiện. Nói chuyển y, là phi chân nghĩa đều không hiển hiện, các chân nghĩa thảy đều hiển hiện, nên gọi là chuyển y. Tức giải thoát, nghĩa là chuyển y tức là giải thoát. Tùy theo ý muốn mà làm được tự tại, nghĩa là chuyển y giải thoát tự tại này, được làm theo ý muốn một cách tự tại trong các thế gian. Do làm được tự tại theo ý muốn nên gọi là giải thoát. Không phải như chặt đầu lìa bỏ thân mạng mà gọi là giải thoát. Đối với sinh tử Niết-bàn, nếu khởi trí bình đẳng v.v…, nghĩa là tự tính biến kế sở chấp gọi là sinh tử. Đây tức vô tính. Vô tính tức không. Không tức Niết-bàn. Tính viên thành thật, do đây đối với sinh tử phi xả phi bất xả v.v…, nghĩa là ngay nơi sinh tử là Niết-bàn nên gọi là phi xả, không có tướng sinh tử chuyển nữa nên gọi là phi bất xả. Chẳng phải lìa sinh tử riêng được Niết-bàn nào khác, nên gọi là phi đắc. Ngay ở trong đó chứng Niết-bàn nên gọi là phi bất đắc.

11 – Quả trí

Luận nói: Như vậy là đã nói về sự thù thắng của quả đoạn, vậy làm thế nào thấy sự thù thắng của quả trí?

Nên biết do 3 thứ Phật thân mà biết sự thù thắng của quả trí: một là do tự tính thân, hai là do thụ dụng thân, ba là do biến hóa thân.

Trong đây tự tính thân là pháp thân Như Lai, chuyển đổi chỗ y chỉ tự tại đối với tất cả pháp.Thụ dụng thân là y vào pháp thân hiển hiện các chúng hội chư Phật trong các cõi Phật thanh tịnh, thụ dụng pháp lạc của Đại thừa. Biến hóa thân là cũng y vào pháp thân từ cung trời Đổ-sử-đa ẩn mình, thị hiện thụ sinh, thụ dục lạc,, vượt thành xuất gia, đến nơi ngoại đạo tu các khổ hạnh, chứng Đại Bồ-đề, chuyển Đại pháp luân, nhập Đại Niết-bàn.

Giải thích: Do đoạn sở đoạn đạt được trí vô cấu vô ngại nên đoạn thù thắng không gián đoạn. Tiếp nói sự thù thắng của quả trí. Trong tự tính thân không phải do giả lập nên gọi là tự tính. Là chỗ y chỉ nên gọi là thân. Pháp tính tức thân nên gọi pháp thân. Hoặc là chỗ y chỉ của các pháp nên gọi pháp thân. Nói chỗ y chỉ của tất cả pháp tự tại chuyển , nghĩa là đối với tất cả pháp được tự tại chuyển và cũng là chỗ y chỉ nên gọi là chỗ y chỉ của tất cả pháp tự tại chuyển. Hoặc y trì nghiệp thích, trong thụ dụng thân y pháp thân, nghĩa là do có kia nên có được đây. Hiển thị trong các Phật hội, nghĩa là các chúng đại Bồ-tát vân tập nơi cõi Phật. Do đây mà biết, nên gọi là sở hiển, tức như cõi Cực lạc phương Tây v.v… Được thụ pháp lạc Đại thừa nơi cõi Phật thanh tịnh, nghĩa là ở trong cõi Phật thanh tịnh, thụ dụng các thứ pháp lạc Đại thừa lĩnh thụ hiểu rõ nghĩa lý, cho nên hoặc ở trong cõi Phật thanh tịnh thụ dụng các thứ vàng bạc báu vật v.v…, chư Phật Bồ-tát làn lượt thụ dụng diệu sắc thân v.v… và thụ pháp nghĩa các kinh v.v…, an lập tự tướng và cộng tướng. Cái gì là sở y và ai là năng y? Nghĩa là cái trí vô cấu vô ngại trước, do sức tăng thượng của diệu trí này cho nên có thể khiến an trụ giải thoát không thể nghĩ bàn. Các đại Bồ-tát đã nhập đại địa, pháp lạc Đại thừa, cõi Phật thanh tịnh, tướng hiện trí sinh. Trong biến hóa thân y pháp thân, là như trước đã nói. Nghĩa là do sức thù thắng của quả trí, từ cung trời Đổ-sử-đa hiện mất, cho đến Niết-bàn. Đây tức có thể khiến trong các liên tục sinh khởi thức tướng đồng phần với con người.

Luận nói: Ở đây có một bài tụng như sau:

Tướng, chứng đắc, tự tại,

Y chỉ và nhiếp trì,

Sai biệt, đức, thậm thâm,

Niệm, nghiệp rõ chư Phật.

Giải thích: Lược nêu nghĩa chung gọi là Ốt-đà-nam. Tướng chứng đắc v.v… là nêu nghĩa.

Luận nói: Pháp thân chư Phật lấy gì làm tướng?

Nên biết pháp thân chư Phật lược nói có 5 tướng.

Giải thích: Ban đầu nêu chung tướng có 5 thứ , sau chuyển y v.v… giải thích riêng 5 tướng.

Luận nói: Một là tướng chuyển y. Nghĩa là chuyển diệt tất cả chướng của phần tạp nhiễm trong tính y tha khởi, chuyển được giải thoát tất cả chứng, tự tại đối với pháp, chuyển hiện phần thanh tịnh trong tính y tha khởi.

Giải thích: Chuyển diệt phần tạp nhiễm tất cả chướng của tính y tha khởi, nghĩa là chuyển phần tạp nhiễm tính y tha khởi tương tự tướng sở thủ và tướng năng thủ khiến vĩnh viễn không sinh, cho nên chuyển được giải thoát tất cả chướng. Đối với pháp tự tại chuyển phần thanh tịnh hiện tiền tính y tha khởi, nghĩa là chuyển được sở thủ năng thủ, vô tính hiển hiện tính viedn thành thật vô cấu chân như, và được tất cả pháp tự tại mà chuyển vì hiển hiện ra trước nhân của phần cực thanh tịnh của tính y tha khởi.

Luận nói: Hai là tướng do bạch pháp thành tựu. Nghĩa là viên mãn 6 Ba-la-mật-đa , được 10 tự tại. Trong đây thọ mạng tự tại, tâm tự tại, phương tiện sinh hoạt tự tại là do viên mãn thí Ba-la-mật-đa. Nghiệp tự tại, sinh tự tại là do viên mãn giới Ba-la-mật-đa. Nghiệp tự tại và sinh tự tại là do viên mãn giới Ba-la-mật-đa. Thắng giải tự tại là do viên mãn nhẫn Ba-la-mật-đa. Nguyện tự tại là do viên mãn tinh tiến Ba-la-mật-đa. Thần lực tự tại gồm 5 thần thông là do viên mãn tĩnh lự Ba-la-mật-đa. Trí tự tại và pháp tự tại là do viên mãn Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Giải thích: Bạch pháp tạo thành là tướng v.v…, nghĩa là các Thanh Văn được chuyền y là chỉ hiển cái vĩnh đoạn phiền não, không có bạch pháp tạo thành tướng. Nếu các Bồ-tát được chuyển y, tu tập 6 thứ Ba-la-mật-đa hoàn toàn viên mãn, cho nên bạch pháp tự tính 10 thứ tự tại làm tướng. Trong lúc ấy không có một niệm là phần vô ký huống chi là phần nhiễm ô. Trong đây trở xuống là giải thích 10 tự tại. Thọ tự tại, nghĩa là tùy ý muốn có thể xả mạng sống. Tâm tự tại, nghĩa là vì ở trong sinh tử không nhiễm ô cho nên tùy ý muốn có thể vì người dẫn nhiếp các thứ. Trong đó vận chuyển cái tâm được tự tại nên gọi là tâm tự tại. Chúng cụ tự tại, nghĩa là việc ăn uống v.v… các thứ cần cho đời sống, tùy ý muốn có thể góp chứa. Các thứ, cùng một nghĩa với của cải tài vật. Do thí Ba-la-mật-đa viên mãn, nghĩa là do pháp thí, vô úy thí, tài thí viên mãn, do sở ứng được quả này. Nghiệp tự tại, nghĩa là được đại tự tại đối với các nghiệp. Chỉ tạo thiện nghiệp không có ác hay vô ký, và trong đó còn khuyến khích người khác làm. Sinh tự tại, nghĩa là đối với những nơi được sinh ra, nếu muốn là được hiện thụ sinh. Do giới Ba-la-mật-đa viên mãn, nghĩa là hai tự tại là quả của Thi-la. Bởi người đầy đủ giới chỉ tạo thiện nghiệp. Lại nữa người đầy đủ giới có nguyện gì đều được thành tựu. Thắng tự tại, nghĩa là ở trong địa v.v… phát khởi thắng giải khiến thành vàng v.v…, như chỗ thắng giải, đất v.v…, vàng v.v… tùy thắng giải mà chuyển. Do nhẫn Ba-la-mật-đa viên mãn, nghĩa là tự tại này là do quả của nhẫn. Như nhân xưa thích tu nhẫn, cho nên tùy tùy tam hữu tình thích mà chuyển, cho nên nay được đất v.v…, vàng v.v…tùy thắng giải chuyển. Nguyện tự tại, nghĩa là tùy nguyện mọi việc đều thành tựu. Do tinh tiến Ba-la-mật-đa viên mãn, nghĩa là tự tại này là quả của tinh tiến. Do xưa khi tu nhân tinh tiến, đối với các hữu tình không mệt mỏi phế bỏ các việc lợi lạc, cho nên các nguyện thời nay được tự tại. Thần lực tự tại gồm 5 thần thông, nghĩa là tùy ý lạc, dẫn phát các thứ thần thông tối thắng. Do tĩnh lự Ba-la-mật-đa viên mãn, nghĩa là tự tại này là quả của tĩnh lự. Do xưa khi tu nhân, thích tu định, nên tùy các hữu tình muốn làm việc gì, chứng nhập các thứ tĩnh lự đẳng chí, cho nên ngày nay được định làm các thần thông tự tại. Trí tự tại, nghĩa là tùy có các thứ ngôn ngữ âm thanh, trí hiện tiền. Pháp tự tại, nghĩa là tùy ý lạc tuyên thuyết các tụng của khế kinh v.v… Do Bát-nhã Ba-la-mật-đa viên mãn, nghĩa là tự tại này là quả của Bát-nhã. Do xưa khi tu nhân thích tu tuệ, tùy loại âm thanh mà nói chính pháp, cho nên nay chứng đắc thù thắng Bát-nhã. Do xưa khi tu nhân thích tu tuệ, tùy loại âm thanh mà vì nói chính pháp, cho nên nay chứng đắc thù thắng Bát-nhã, diệu đạt ngôn ngữ âm thanh kbéo nói chính pháp.

Luận nói: Ba là tướng không hai. Nghĩa là không có 2 tướng có và không. Do tất cả pháp là vô sở hữu mà tướng hiển lộ của không, là thật có cho nên tướng hữu vi vô vi là không hai. Do nghiệp phiền não chẳng phải sở vi mà tự tại thị hiện là tướng hữu vi. Khác tính một tính là tướng không hai. Do chỗ sở y của tất cả chư Phật là không sai biệt cho nên vô lượng liên tục hiện thành đẳng giác. Ở đây có 2 bài tụng như sau:

Vì không có ngã chấp,

Không chỗ nương riêng biệt.

Nhưng tùy thân chứng đắc,

Nên thiết lập có khác.

Chủng tính khác , không rỗng,

Vì viên mãn không đầu,

Vô cấu y không khác,

Nên chẳng một, chẳng nhiều.

Giải thích: Có không không hai là tướng, nghĩa là phi hữu tướng, bởi tất cả pháp biến kế sở chấp đều vô hữu, cho nên cũng phi vô tướng, bởi không hiển tự tính hữu. Hữu vi vô vi không hai là tướng, nghĩa là bởi nghiệp phiền não là phi sở vi, cho nên phi hữu là tướng. Đối với năng thị hiện tương tự hữu vi pháp được đại tự tại. Thường thường thị hiện tương tự hữu vi, cho nên phi vô vi tướng. Khác tính một tính không hai là tướng, nghĩa là bởi pháp thân Phật, thể là một cho nên không phải khác tướng. Vô lượng y chỉ, chứng đắc riêng biệt cho nên không phải một tướng. Đều một không cho nên gọi là không hai tướng. Lại dùng 2 tụng gồm thâu nghĩa như vậy khiến dễ hiểu. Nói ngã chấp không có v.v…, nếu ở đó có ngã chấp, chấp mình là ngã, chấp ngoài mình là người khác, tức trong đó phân biệt tự tha, đây kia đều khác. Trong pháp thân không có ngã chấp, nên không phân biệt đây kia có khác. Nếu vậy thì sao nói có nhiều Phật? Vì tùy theo trước năng chứng có sai biệt. Thi thiết có khác, nghĩa là tùy địa vị năng chứng của Bồ-tát khác mà thi thiết có khác. Tùy thuận theo ngôn thuyết thế gian cho nên nói đây là Phật Thíchca Mâu-ni, đây là Phật Thắng Quán v.v… Vì chủng tính khác, nghĩa là vốn nhân tính có sai biệt, cho nên chẳng phải duy nhất một Phật. Chủng tính có hai: Một là bản tính trụ chủng tính, nghĩa là vô thủy đến nay, 6 chỗ thù thắng lần lượt liên tục pháp nhĩ sở đắc. Hai là tập sở thành chủng tính, nghĩa là từ trước đến giờ tập theo sức của thiện hữu mà thành. Bản tính trụ tính có sai biệt nên tập sở thành tính có nhiều thứ. Vì chủng tính nhiều cho nên chấp chỉ có một Phật duy nhất mà không có các Phật khác là không đúng đạo lý. Nói không phải trống rỗng, nghĩa là có nhiều Bồ-tát y chủng tính trước tu tập riêng biệt Bồ-đề tư lương. Nếu duy nhất một Phật chứng một Bồ-đề, các vị khác không chứng thì sự tu tập tư lương thành không có quả, thế là không đúng đạo lý. Vì viên mãn, nghĩa là chư Như Lai đều biến khắp giáo hóa hữu tình. Thành lập các việc an lạc chân chính lợi ích, nghĩa là như an lập 3 thừa. Nếu chỉ một Phật thì không thể an lập hữu tình nơi Phật thừa. Bởi vì không có vị Phật thứ hai. Như vậy là Như Lai làm Phật sự sẽ không viên mãn. Cho nên chắc chắn phải có nhiều Phật. Nói không đầu, nghĩa là chư Như Lai xuất thế từ trước trước, cũng như sinh tử không có cái bắt đầu. Lìa tu tập tư lương, tự nhiên thành Phật là không đúng lý. Lìa gặp Phật mà có thể tập họp tư lương là không đúng lý. Do đó quyết định không phải chỉ có một Phật. Lại không nên chấp chặt có nhiều Phật vì vô cấu sở y là không sai biệt. Pháp giới vô lậu gọi là vô cấu y, vì do trí thù thắng rốt ráo khiển trừ khách trần cấu. Ở trong chân pháp giới vô lậu không thể định chấp chư Phật có khác. Vì vậy chư Phật là chẳng phải một chẳng phải nhiều.

Luận nói: Bốn là tướng thường trụ. Nghĩa là vì tướng chân như thanh tịnh nên do bản nguyện dẫn xuất làm các việc phải làm, không có thời kỳ thôi nghỉ.

Giải thích: Hằng không thay đổi, liên tục không gián đoạn. Cho nên nói thường trụ là tướng. Do 3 nhân duyên thành lập tướng này. Vì tướng chân như thanh tịnh, nghĩa là đây hiển thị tính chân như là thường không biến đổi, hiển thị thành Phật quả gọi là tính pháp thân. Nếu thay đổi tức chẳng phải chân như. Vì vậy cho nên bản nguyện thường trụ dẫn xuất, nghĩa là chư Như Lai đều trước phát khởi đại nguyện như vầy: Ta sẽ độ thoát vô lượng hữu tình khiến Bát-niếtbàn. Các loài hữu tình chưa Bát-niết-bàn thì nguyện dẫn quả liên tục không dứt nên là thường trụ. Nguyện dẫn này tách rời tính liên tục thường, là không đúng đạo lý. Việc phải làm không có thời kỳ làm xong, nghĩa là đại nguyện làm việc độ thoát hữu tình không có thời kỳ hoàn tất, vì hữu tình là vô số lượng. Cho nên cho đén khi hữu tình còn liên tục hiện hữu không dứt thì việc Phật độ thoát cũng không dứt, nên nói là thường.

Luận nói: Năm là tướng không thể nghĩ bàn. Nghĩa là chân như thanh tịnh chứng đắc từ bên trong, không có ví dụ nào trong thế gian có thể ví dụ được, không phải chỗ mà sự suy tư tìm kiếm có thể đến được.

Giải thích: Nói nghĩ bàn, nghĩa là dựa vào đạo lý mà tư duy thẩm xét, khởi trí phân biệt, thuộc lãnh vực tầm tư thí dụ sở hiển. Chẳng phải chỗ sở hành của chư Phật. Không thể nghĩ bàn, là vượt quá tất cả phạm vi của tư duy suy tìm, cho nên chỉ nên tin hiểu không nên luận bàn.

Luận nói: Lại nữa pháp thân như thế đầu tiên làm sao chứng đắc?

Nghĩa là duyên cái tổng tướng của pháp Đại thừa, trí vô phân biệt và trí hậu đắc khéo tu tập 5 tướng, khéo tập họp tư lương nơi tất cả các địa. Kim cương dụ định phá diệt các chướng vi tế khó phá, định này liên tục không gián đoạn, lìa tất cả chướng nên chứng đắc chuyển y.

Giải thích: Tín giải cũng gọi là sơ đắc pháp thân. Pháp hành cũng vậy. Để giản lược chúng nên nói hiện chứng đắc. Chỉ nói chứng đắc chẳng phải sinh khởi, nghĩa là vì thể là thường. Duyên tướng chung v.v…, nghĩa ấy dễ hiểu. Khéo tu 5r tướng, nghĩa là không sinh không diệt, bản lại vắng lặng, tự tính Niết-bàn và không tự tính gọi là 5 tướng. Lại nữa họp chung 5 tướng khéo tu, làm xong 5 quả, nghĩa là trong mỗi niệm tiêu tan tất cả các y chỉ thô nặng, lìa các tưởng, được pháp lạc, có thể hiểu biết đúng khắp vô lượng tướng không phân chia giới hạn. Đại pháp quang minh thuận thanh tịnh phần, hiện hành vô tướng vô phân biệt. Để hoàn thành pháp thân viên mãn, có thể chính nhiếp thụ các thắng nhân về sau. Phá diệt các chướng vi tế khó phá trừ, nghĩa là hiển thị định này dụ cho Kim cương làm nhân. Ví như kim cương tính cứng có thể phá vỡ những gì khó phá vỡ. Như vậy định này vượt hơn các loại thấp, có thể phá các thứ khó phá bất nhiễm vô tri, có thể phát trí thanh tịnh vô thượng cho nên ví với kim cương, vì định này không ngừng lìa tất cả chướng. Được chuyển y, nghĩa là do trí vô phân biệt và trí hậu đắc, nên chứng chuyển y được pháp thân Phật.

Luận nói: Lại nữa, pháp thân do bao nhiêu thứ tự tại mà được tự tại?

Đại lược do 5 thứ. Một là tự tại của cõi Phật, tự thân, tướng tốt, âm thanh vô biên, vô kiến đỉnh tướng, do chuyển y của sắc uẩn. Hai là tự tại về an vui rộng lớn, không tội lỗi, do chuyển y của thụ uẩn. Ba là tự tại về biện luận giảng nói tất cả danh, cú, văn thân, do chuyển y của tưởng uẩn. Bốn là tự tại hóa hiện, biến đổi, dẫn dắt đại chúng tiếp thụ bạch pháp, do chuyển y hành uẩn. Năm là tự tại bởi đại viên kính trí, bình đẳng tính trí, diệu quan sát trí, thành sở tác trí, do chuyển y thức uẩn.

Giải thích: Do chuyển y 5 uẩn, nên được 5 tự tại. Các Thanh Văn v.v…sợ khổ nên vĩnh đoạn các uẩn. Như người ngu hủi lác tự xả thân mạng. Nếu các Bồ-tát thì có phương tiện khéo léo chuyển diệt các uẩn có tội như sắc v.v…, chuyển khởi các uẩn như sắc v.v… thành vô tội. như người trí hủi lác tìm các thuốc hay, chuyển đổi được thân có bệnh thành thân không bệnh. Trong đây do chuyển y sắc uẩn, được năng lực thị hiện cõi Phật tự tại. Như muốn hiện các cõi Phật thành vàng bạc v.v…có thể thị hiện tự thân tự tại, tùy tâm suy nghĩ đều có thể thị hiện. Ở trong các đại tập hội, tùy theo có nghi hóa độ hữu tình mà hiện khác nhau, có thể thị hiện tướng hảo tự tại. Tùy chỗ ưa thích, thị hiện các diệu tướng hảo, có thể thị hiện vô biên âm thanh, vô kiến đỉnh tướng hai thứ tự tại. Hiện âm thanh Phật vô biên. Hiện đỉnh tướng Phật không thể trông thấy. Do chuyển y thụ uẩn nên được vô tội, trụ đại an lạc tự tại rộng lớn vô lượng. Trong đây lìa phiền não nên gọi là vô tội. Có nhiều nên gọi là vô lượng. Vượt quá cái an vui tất cả ba cõi nên gọi là rộng lớn. Do chuyển y tưởng uẩn, được năng lực biện thuyết tất cả danh thân cú thân văn thân một cách tự tại, bởi có thề thủ tướng là tự tính của tưởng. Do gồm thâu các nhân tư lưong như vậy, chuyển được công năng sai biệt như vậy. Do đó có thể đối với danh thân v.v… các việc, tùy theo ý muốn mà được tự tại. Do chuyển y hành uẩn được khả năng biến đổi hóa hiện dắt dẫn đại chúng, hướng dẫn bạch pháp một cách tự tại. Nghĩa là trong hành uẩn, tư duy là rất ưu việt. Do tư duy này nên hóa hiện được tự tại. Có thể chuyển biến hóa hiện tự tại, nghĩa là có thể hóa hiện như ý muốn. Có thể biến đổi tự tại, nghĩa là như muốn biến đổi đất thành vàng v.v…Dắt dẫn đại chúng một cách tự tại, nghĩa là dắt dẫn đại chúng, chư thiên như ý muốn. Hướng dẫn bạch pháp tự tại, nghĩa là khiến pháp vô lậu hiện tiền như ý muốn.

Do chuyển thức A-lại-da v.v…8 sự thức uẩn được trí đại viên kính v.v…4 thứ diệu trí. Như nhiều lần, tuần tự hoặc tùy ý, phải biết trong đây chuyển thức A-lại-da nên được trí đại viên kính. Tuy sở thức, cảnh không hiện ra trước mà có thể không quên, không giới hạn thời gian, nơi chốn, đối với tất cả cảnh thường không ngu mê, hạnh vô phân biệt có thể khởi thụ dụng Phật trí ảnh tượng. Chuyển Mạt-na nhiễm ô nên được trí tính bình đẳng. Khi mới hiện quán trước đã chứng đắc, trong tu đạo vị chuyển được thanh tịnh. Do đó an trụ vô trụ Niết-bàn, hằng tương ưng với đại từ đại bi, có thể tùy ý muốn hiện ảnh tượng Phật. Vì chuyển ý thức, nên được trí diệu quan sát, đầy đủ tất cả Đà-la-ni môn. Tam-ma-địa môn như kho báu. Trong đại chúng hội có ghể hiện tất cả tác dụng một cách tự tại.., có thể đoạn các nghi, có thể xuống cơn mưa pháp. Chuyển 5 thức, nên được trí thành sở tác, khắp tất cả thế giới 10 phương có thể hiện biến hóa mất từ thiên cung trời Đổ-sử-đa cho đến Niết-bàn, có thể hiện trụ giữ tất cả các việc lợi lạc hữu tình.

Luận nói: Lại nữa, pháp thân có mấy trụ xứ?

Nên biết đại lược có 3 chỗ y chỉ. Một là chỗ trụ xứ y chỉ của chư Phật. Ở đây có 2 bài tụng như sau:

Chư Phật chứng được 5 tính hỷ,

Đều do đẳng chứng tự giới tính.

Không hỷ đều do không chứng đây,

Nên người cầu hỷ phải đẳng chứng.

Một do năng lực, hai sự thành,

Pháp vị nghĩa đức đều viên mãn.

Được hỷ tối thắng không tội lỗi,

Là chư Phật thấy thường vô tận.

Hai là chỗ y chỉ của các thụ dụng thân, chỉ để thành thục cho các Bồ-tát. Ba là chỗ y chỉ của các biến hóa thân, phần nhiều để thành thục cho các Thanh Văn v.v…

Giải thích: Phải biết y chỉ do bao nhiêu chỗ? Đây hỏi pháp thân với bao nhiêu pháp làm chỗ y chỉ. Lược do 3 chỗ, rộng thì vô lượng công đức y chỉ. Nay chỉ lược nói do 3 chỗ. Do các Phật trụ y chỉ, nghĩa là do chư Như Lai sở đắc pháp thân cùng với các chỗ an trụ như thiên trụ, thánh trụ, phạm trụ làm chỗ y chỉ. Trong các thiên trụ, Như Lai phần nhiều trụ ở đệ tứ tĩnh lự. Trong các thánh trụ, Như Lai phần nhiều trụ ở không giải thoát môn. Trong các phạm trụ, phần nhiều trụ nơi bi. Như vậy Như Lai có nhiều chỗ trụ hơn Thanh Văn v.v…Để hiển thị chỗ chứng Niết-bàn của Như Lai hơn sở đắc Niếtbàn của Thanh Văn v.v…nên nói chư Phật chứng đắc 5 tính hỷ v.v… Chứng tự giới, nghĩa là chứng tự pháp giới. Ở đây tu trị tác chứng gọi là đẳng chứng. Nói lìa hỷ, nghĩa là chư Như Lai chứng tự pháp giới, an trụ 5 hỷ. Các Thanh Văn đẳng chứng như bị chặt đầu, vĩnh viễn Niết-bàn lìa xa, như vậy là niềm hoan hỷ cao tột. Cầu hỷ là phải đẳng chứng, nghĩa là các Bồ-tát cầu 5 hỷ phải cầu chứng chân pháp giới này. Những gì là 5? Sở cầu thắng hỷ nên tiếp nói do năng vô lượng và sự thành. Do nhân khác nên sở hỷ khác. Năng nghĩa là kham năng. Nói vô lượng, nghĩa là quá hơn số cát sông Hằng. Chư Phật Như Lai sở hữu kham năng đồng y vào pháp thân, tất cả hòa tạp bình đẳng không khác. Do thấy kham như vậy là vô lượng nên sinh đại hoan hỷ. “Và” là tập nghĩa. “Sự” là sở tác tất cả việc lợi lạc hữu tình, tùy sở năng kia không điên đảo mà an lập nơi 3 thừa. “Thành” nghĩa là làm xong, vì trải vô lượng thời gian việc làm này tùy chuyển không trở ngại. Do thấy kham năng nên việc làm cũng vô lượng mà sinh đại hoan hỷ. Nói pháp vị, nghĩa là pháp vị vô thượng của các khế kinh. Nghĩa là cái lý vị do chứng được chân đế. Nghĩa viên mãn, nghĩa là nghĩa sở thuyên của các pháp trong khế kinh, tỳ ý muốn mà hiện ra trước. Đức viên mãn, nghĩa là công đức thần thông v.v… viên mãn. Do thấy pháp vị cũng vô lượng, thấy nghĩa viên mãn cũng vô lượng, thấy đức viên mãn cũng vô lượng nên sinh đại hoan hỷ. Lại có thuyết nói rằng nghĩa, nghĩa là Niết-bàn, đức nghĩa là tùy ý muốn mà khởi công đức, đầy đủ viên mãn nên sinh đại hoan hỷ, được niềm vui tối thắng không tội lỗi. Ra khỏi 3 cõi nên gọi là tối thắng. Phiền não sở tri 2 chướng và các tập khí đều vĩnh đoạn, nên gọi là không tội lỗi. Do các thứ thụ dụng thân y chỉ, nghĩa là do pháp thân làm duyên tăn g thượng mà kia được chuyển, nên gọi là y chỉ, không phải đạo lý như ánh sáng mặt trời y chỉ mặt trời. Nghĩa làm chỗ y chỉ cho biến hóa thân cũng như vậy. Nói phần nhiều làm, nghĩa là nhiếp thủ thắng giải của hành địa Bồ-tát. Bởi tín giải của các Thanh Văn v.v…thấp kém tuy thấy Phật thân mà không thành thục. Phải biết rằng Bồ-tát sơ nghiệp cũng vậy. Đã nhập vào đại địa các Bồ-tát, không do hóa thân mới được thành thục, vì thông đạt đại pháp rất sâu rộng.

Luận nói: Nên biết pháp thân do bao nhiêu Phật pháp nhiếp trì?

Đại lược do 6 thứ: Một là do thanh tịnh. Nghĩa là chuyển thức A-lại-da được pháp thân. Hai là do dị thục. Nghĩa là chuyển sắc căn được trí dị thục. Ba là do an trụ. Nghĩa là chuyển các dục hành v.v… được trụ vô lượng trí. Bốn là do tự tại. Nghĩa là chuyển sự tự tại các nghiệp nhiếp thụ được sự tự tại của trí thần thông vô ngại trong tất cả thế giới. Năm là do ngôn ngữ. Nghĩa là chuyển ngôn ngữ hý luận của tất cả thấy nghe hay biết được sự tự tại của trí biện luận giảng thuyết, khiến tất cả chúng sinh sinh tâm hoan hỷ. Sáu là do cứu tế. Nghĩa là chuyển sự cứu vớt tất cả tai họa lỗi lầm được cái trí cứu vớt tất cả tai họa lỗi lầm cho tất cả chúng sinh. Nên biết pháp thân do 6 thứ Phật pháp nói trên gồm thâu.

Giải thích: Lấy tự tính nhiếp để hiển thị sự nhiếp trì tự tính pháp thân. Do thanh tịnh, nghĩa là do Phật pháp thanh tịnh nhiếp trì tự tính pháp thân. Bởi thể của pháp thân thanh tịnh. Nói tịnh là ai chuyển cho ai mà được thanh tịnh? Để đáp câu hỏi ấy thì nói như thế này. Chuyển thức A-lại-da được pháp thân. Bởi thức A-lại-da chấp trì tất cả chủng tử tạp nhiễm. Khi khởi đối trị chuyển diệt tất cả chủng tử tạp nhiễm ấy. Chuyển được tùy thuận tất cả vô tội, công đức viên mãn. Ví như thuốc A-yết-đà của thế gian có thể biến có độc thành không độc, nên gọi là chuyển. Do dị thục, nghĩa là do dị thục Phật pháp nhiếp trì. Tự tính pháp thân chuyển sắc căn, nghĩa là chuyển nhãn v.v…các căn hữu sắc. Được trí dị thục, nghĩa là chuyển xả bỏ dị thục này nên giả nói chuyển được, cũng gọi dị thục. Như xưa được các căn dị thục, nay được thiện trí tạm nói dị thục. Do an trụ, nghĩa là do an trụ Phật pháp nhiếp trì tự tính pháp thân. Chuyển dục hành v.v…, nghĩa là đẳng thủ thắng giải hạnh v.v…Do chuyển kia nên chứng đắc vô ngại thần thông tự tại. Do ngôn thuyết, nghĩa là do ngôn thuyết Phật pháp nhiếp trì tự tính pháp thân. Do chuyền cái thấy v.v… ngôn thuyết thế gian chứng đắc cái thấy nghe hay biết tự tại. Do đây đạt được cái tâm hỷ diệu trí của tất cả hữu tình. Do cứu tế, nghiã là do cứu tế Phật pháp nhiếp trì tự tính pháp thân. Tai họa v.v…, nghĩa là như quốc vương v.v… trong thế gian làm các ưu khổ, hoặc sức của người thân bạn bè, hoặc sức của tiền bạc của cải mà có thể dứt trừ. Do chuyển đây nên chứng đắc dứt trừ tất cả tai họa tội lỗi của tất cả hữu tình. Diệu trí chuyển xả 6 thứ thế pháp như vậy được 6 thứ Phật pháp như vậy.

Luận nói: Pháp thân chư Phật nên nói là có khác nhau , hay nên nói là không khác?

Vì y chỉ, vì ý lạc, vì nghiệp dụng không khác nên nói là không khác. Nhưng vô lượng thân chúng sinh hiện thành đẳng chính giác nên nói là có khác. Nói pháp thân Phật như vậy thì thụ dụng thân cũng vậy. Vì ý lạc và nghiệp dụng không khác nên phải nói là không khác. Nhưng không do chỗ y chỉ không sai biệt mà do vô lượng y chỉ sai biệt chuyển. Phải biết biến hóa thân nên nói như thụ dụng thân.

Giải thích: Pháp thân chư Phật y chỉ, ý lạc, tác nghiệp, không khác nên nói không khác, vì chân như chư Phật không khác. Y chỉ không khác. Tất cả đều vì lợi ích an lạc tất cả hữu tình. Ý lạc cũng giống như vậy nên ý lạc không khác. Tất cả đều cùng lợi tha là hơn cả. Hiện đẳng chính giác, Bát-niết-bàn v.v… có nhiều thứ tác nghiệp nên nghiệp không khác, vì y vô lượng thân hiện đẳng chính giác. Nên nói có khác , nghĩa là do y vô lượng thân riêng biệt mà Bồ-đề-tát-đỏa hiện thành Phật. Chẳng phải không có khác như trước đã nói rõ. Nói như pháp thân thì thụ dụng thân cũng vậy. Đây nói ý lạc và nghiệp không khác, không nói y chỉ không có sai biệt, vì y chỉ vô lượng sai biệt mà chuyển. Nghĩa là trong tất cả thế giới sai biệt, các cõi Phật, chúng hội, danh hiệu, gthân lượng, tướng hảo, thụ pháp lạc v.v…đều không đồng nhau. Phải biết biến hóa thân của Phật cũng vậy.

Luận nói: Pháp thân tương ưng với bao nhiêu đức?

Tương ưng với 4 vô lượng rất thanh tịnh, giải thoát, thắng xứ, biến xứ, vô tránh, nguyện trí, 4 vô ngại giải, 6 thần thông, 32 tướng Đại sĩ, 80 vẻ đẹp, 4 tất cả tướng thanh tịnh, 10 lực, 4 vô úy, 3 bất hộ, 3 niệm trụ, nhổ trừ tập khí, pháp không quên mất, đại bi, 18 pháp không chung và tất cả tướng diệu trí v.v…

Giải thích: Trong đây nói rõ chư Phật Thế Tôn cùng Thanh Văn v.v… có các công đức thanh tịnh thù thắng. Rất thanh tịnh, nghĩa là hiển thị công đức này vĩnh đoạn phiền não chướng và sở tri chướng khởi trong thân. Như vậy nói rất thanh tịnh là khắp mỗi mỗi công đức. Bốn vô lượng, nghĩa là duyên vô lượng hữu tình làm cảnh từ, bi, hỷ, xả. Nói giải thoát, nghĩa là 8 giải thoát. Tức là hữu sắc quán các sắc v.v… Nói thắng xứ là 8 thắng xứ. Nói biến xứ là 10 biến xứ. Vô tránh nguyện trí lại không sai biệt. Bốn vô ngại giải, là pháp vô ngại giải, nghĩa vô ngại giải, huấn từ vô ngại giải, biện thuyết vô ngại giải. Sáu thần thông là đầu tiên là như ý thông và sau cùng là trí lậu tận. Ba mươi hai tướng của đại sĩ là ấn diệu luân tướng nơi tay chân v.v… Tám mươi vẻ đẹp là mũi thẳng v.v… Bốn tất cả thanh tịnh, là sở y thanh tịnh, sở duyên thanh tịnh, tâm thanh tịnh, trí thanh tịnh. Nói 10 lực là xứ phi xữ trí lực, nghiệp dị thục trí lực, tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí trí lực, căn thắng liệt trí lực, các thứ thắng giải trí lực, các thứ giới trí lực, biến thú hành trí lực, túc trụ tùy niệm trí lực, tử sinh trí lực, lậu tận trí lực. Bốn vô úy, là Phật Thế Tôn tự phát lời thành thật nói ta là chân thật chính đẳng chính giác. Nếu có người hỏi rằng đối với pháp như vậy là không cính đẳng giác. Ta đối với câu hỏi kia, chính kiến vô duyên, là vô úy thứ nhất. Lại nói lời thành thật rằng ta là chân thật các lậu đã hết. Nếu có người hỏi nói rằng như vậy như vậy là các lậu chưa hết. Ta đối với câu nạn vấn kia chính kiến vô duyên, là vô úy thứ hai. Lại phát lời thành thật rằng ta vì đệ tử dạy đạo xuất ly. Nếu có người hỏi rằng tu đạo như vậy chẳng phải chân chính ra khỏi khổ. Ta đối với câu nạn vấn kia chính kiến vô duyên, là vô úy thứ ba. Lại phát lời thành thật rằng ta vì đệ tử nói chướng ngại pháp, nhiễm tức là chướng. Nếu có người hỏi rằng tuy nhiễm pháp ấy không thể là chướng. Ta đối với câu nạn vấn kia chính kiến vô duyên, là vô úy thứ tư. Đối với 4 thứ này đều phải nói rõ. Chính vì thấy vấn nạn kia không có duyên, nên được đại an ổn. Được đại an ổn nên đều vô úy. Ba bất hộ, nghĩa là chư Như Lai có thân nghiệp thanh tịnh, hiện hành không gì không thanh tịnh. Hiện hành thân nghiệp sợ người khác biết phải phòng hộ. Như vậy gọi là bất hộ thứ nhất. Như nói thân nghiệp ngữ nghiệp ý nghiệp, cũng nói 3 bất hộ như vậy. Ba niệm trụ, là chư Như Lai khi thuyết pháp, có một loại đệ tử cung kính nghe, tâm tinh tiến tu hành, đối với họ Phật không sinh tâm vui mừng. Có một loại đệ tử không sinh tâm cung kính, Như Lai cũng không giận. Có một loại đệ tử cũng có cung kính cũng có không cung kính. Như Lai đối với họ tâm không hai, nghĩa là không vui cũng không giận. Đối với họ đều hỷ xả. Nhổ trừ tập khí, nghĩa là vĩnh viễn trừ bỏ, tuy không phiền não nhưng có những việc làm tương tự như phiền não xảy ra. Pháp không quên mất, nghĩa là đối với những việc lợi lạc hữu tình thì chính niệm, chính tri, không quá thời phần. Nói đại bi, nghĩa là đối với hữu tình phải nói nghĩa lớn của lợi lạc, ý lạc. Mười tám Phật pháp không chung, nghĩa là nghĩa không đồng tức là nghĩa không chung. Tức chư Như Lai không có sai lầm như A-la-hán. Tuy hết các lậu, vì khất thực nên xuất du vào thành ấp. Hoặc nhất thời với voi dữ, ngựa dữ, bò dữ, chó dữ cùng đi, hoặc nhất thời chân dậm đạp gai gốc, rắn độc đi ngang nhau hay nhảy lên xuống, hoặc nhất thời vào nhà cùng các bà nói chuyện mà không y chính lý, hoặc nơi rừng núi đồng nội bỏ con đường tốt mà đi con đường xấu, hoặc cùng oán tặc, sư tử, thú dữ và vợ người v.v… cùng đi. Có các loại A-la-hán có lầm lỗi như vậy, chư Phật thì hoàn toàn không. Lại chư Như Lai không có cách nói đột ngột mạnh bạo như A-la-hán. Hoặc nhất thời lạc đường trong rừng núi hay đồng nội. Hoặc vào nhà trống lớn tiếng kêu gọi. Hoặc nhân không nhiễm tập khí lỗi lầm, chẫu mỏ nhe răng cười lớn. Các loại như vậy, các A-lahán có đột ngột phát âm thanh mạnh bạo, nhưng chư Phật hoàn toàn không. Lại chư Như Lai không quên mất niệm. Như A-la-hán có không nhiễm ô từ lâu đã làm, từ lâu đã nói. Những sự quên mất niệm, chư Phật đều không. Lại chư Như Lai không có các tưởng như A-lahán, đối với hữu dư sinh tử một bề khởi nghịch tưởng rất chán ghét, đối với Niết-bàn vô dư một bề tưởng rất vắng lặng. Như Lai đối với sinh tử hữu dư, Niết-bàn vô dư, không có tưởng sai biệt, trụ tối thắng xả. Lại chư Như Lai không lúc nào không định tâm, còn A-la-hán thì giữ tâm mới định, xuất thì bất định.Như Lai đối với tất cả phần vị không phần vị nào không định tâm. Lại chư Như Lai không gì không trạch xả. Còn A-la-hán không dùng trí tuệ giản trạch các việc lợi lạc hữu tình mà lại khí xả. Như Lai không có các trườn hợp không trạch mà xả. Lại chư Như Lai không có 6 thứ thoái mất như dục v.v…Còn A-la-hán trong sự vĩnh tịnh sở tri chướng chưa có được mất, nghĩa là chí muốn thoái tinh tiến, thoái niệm, thoái định, thoái tuệ, thoái giải thoát. Thoái như vậy 6 thứ chư Phật đều không. Lại chư Như Lai thân ngữ ý nghiệp, trí là tiền đạo, theo trí mà chuyển. Còn A-la-hán hoặc nhất thời thiện thân nghiệp chuyển, hoặc nhất thời vô ký nghiệp chuyển, ngữ nghiẹp ý nghiệp cũng vậy. Như Lai thì 3 nghiệp trí là tiền đạo cho nên theo trí chuyển không có vô ký. Trí đẳng khởi nên nói trí là tiền đạo. Trí câu hành nên nói theo trí chuyển. Lại chư Như Lai đối với cảnh 3 đời biết, thấy đều không trụ trước không chướng ngại. Còn A-la-hán thì đối với việc 3 đời không có tâm tạm khởi là giải thoát, cho nên cái biết, cái thấy có trụ trước, không thể hiểu biết tất cả, vì vậy mà thấy biết có chướng ngại. Như Lai đối với việc 3 đời khi tâm tạm khởi tức biết khắp tất cả cảnh giới nên cái biết cái thấy không trụ trước không chướng ngại. Do nhân duyên 18 thứ này, mỗi mỗi đều gọilà Phật pháp không chung. Tất cả tướng diệu trí, nghĩa là trong tất cả uẩn, giới, xứ khéo hiểu biết rõ. Tất cả hành tướng v.v… là các công đức vô lượng khác tương ưng với pháp thân.

Luận nói: Ở đây có nhiều bài tụng như sau:

Kính lễ đấng xót thương,

Khởi 4 thứ ý lạc:

Hòa, viễn ly, không bỏ,

Lợi lạc chúng hữu tình.

Giải thích: Trong bài tụng này hiển thị 4 vô lượng. Thương xót ccs hữu tình, là câu tổng quát. Khởi ý lạc hòa hợp, là hiển thị từ vô lượng, muốn khiến hữu tình an vui hòa hợp. Khởi ý lạc viễn ly, là hiển thị bi vô lượng, muốn khiến hữu tình xa lìa khổ. Khởi ý lạc thường bất xả, là hiển thị hỷ vô lượng, muốn khiến hữu tình bất xả lạc. Khởi ý lạc lợi lạc, là hiển thị xả vô lượng, muốn khiến hữu tình được lợi ích và an lạc. Xả là xả bỏ, muốn khiến hữu tình xả lạc thụ v.v… phiền não tùy miên, không xả bỏ hữu tình lại trụ trong đó gọi là xả. Duyên công đức này quy y kính lễ pháp thân chư Phật, nên nói quy lễ. Các tụng khác nên biết dựa theo đây. Luận nói:

Giải thoát tất cả chướng,

Mâu-ni thắng thế gian.

Trí châu biến sở tri,

Kính lễ tâm giải thoát.

Giải thích: Giải thoát tất cả chướng, nghĩa là câu này hiển thị chư Phật giải thoát hơn Thanh Văn v.v…Mâu-ni thắng thế gian, nghĩa là câu này hiển thị thắng xứ của Phật hơn cả Thanh Văn v.v… Trí chu biến sở tri, nghĩa là câu này hiển thị biến xứ của chư Phật hơn cả Thanh Ván v.v…Không như Thanh Văn thừa chỉ có 8 thứ giải thoát, 8 thứ thắng xứ, 10 thứ biến xứ. Giải thoát là trước mà có thắng xứ. Thắng xứ là trước mà có biến xứ. Do môn này nên tác ý tư duy, giải thoát tất cả chướng, hơn tất cả thế gian. Trí biến khắp tất cả cảnh, tâm giải thoát , là đủ 3 đức trên thì tâm thoát khỏi trói buộc.

Luận nói:

Trừ diệt cho hữu tình,

Tất cả hoặc không sót.

Hại, phiền não, hữu nhiễm

Kính lễ đấng xót thương,

Giải thích: Tụng này hiển thị không tranh giành. Trí thế tục là tính, không đồng với sở đắc không tranh giành của Thanh Văn vào thành ấp trước quán sát kỹ. Nếu có một hữu tình duyên thân ta, theo đó khởi một thứ phiền não tranh chấp thì liền không vào. Như Lai quán thấy tuy các hữu tình sẽ duyên Phật thân khởi các phiền não, nhưng nếu hữu tình đó kham nhiệm sự giáo hóa của Phật thì liền đến với hữu tình ấy mà phương tiện điều phục, khiến diệt phiền não. Có thể diệt cho hữu tình tất cả hoặc không sót, nghĩa là chẳng phải như Thanh Văn trụ vô tránh định, phương tiện xa lìa không để tự thân gây cho hữu tình sinh chút phiền não, chỉ điều phục hữu sự phiền não của cõi Dục, không phải các phiền não khác. Chư Phật không như vậy, phương tiện có thể diệt cho tất cả hữu tình, tất cả phiền não không sói. Hại, phiền não, nghĩa là chỉ hại phiền não, không hại hữu tình hữu nhiễm. Thường xót thương, nghĩa là nếu các hữu tình có phiền não nhiễm, Phật thường thương xót mà không trách hại. Như có tụng nói:

Như chú quỷ, thuốc hay,

Trị các loài quỷ mị.

Chỉ trách hại quỷ mị,

Không trách bị quỷ hại.

Đại Từ Tôn như vậy,

Trị phiền não làm hại,

Chỉ trách hại phiền não,

Không trách hại hữu tình.

Luận nói:

Vô công dụng vô trước,

Vô ngại thường tịch định.

Với tất cả vấn nạn,

Kính lễ hay giải thích.

Giải thích: Tụng này hiển thị nguyện trí hơn Thanh Văn v.v… do 5 tướng. Nghĩa là không công dụng nên không trụ trước, không ngại nên thường vắng lặng ở trong định, tất cả nghi nan đều có thể giải thích. Nguyện trí của các Thanh Văn đạt được là tùy sở nguyện mà nhập vào định, chỉ có thể biết đây không biết cái khác. Phật thì không như vậy, do trí vô công dụng không làm sự dụng công. Như ngọc Ma-ni, nhạc trời, tùy nguyện đều có thể biết tất cả cảnh giới. Do trí vô trước nên đối với cảnh sở tri đều không trở trệ. Do trí vô ngại đoạn phiền não chướng và các tập khí. Do thường tịch định, đoạn sự chướng ngại của định. Như có tụng nói:

Na-già hành tịch định,

Na-gì trụ tịch định.

Na-già tọa tịch định,

Na-già ngọa tịch định.

Luận nói:

Về sở y, năng y,

Sở thuyết lời và trí.

Năng thuyết tuệ vô ngại.

Kính lễ đấng thường nói.

Giải thích: Tụng này hiển thị 4 vô ngại giải. Nói sở y, tức là các giáo pháp khế kinh v.v… Nói năng y, tức là nghĩa sở thuyên. Nhs vậy 2 thứ đều gọi là sở thuyết, vì là nghiệp sở tác. Nói trí 2 thứ đều là năng thuyết, vì người làm và công cụ làm, khởi lên. Tuệ vô ngại, tức là trong đây trí không thoái chuyển. Thường thiện thuyết, là vì đủ 4 thứ vô ngại giải nên thường thiện thuyết. Nếu với giác tuệ sở y vô ngại thì gọi là pháp vô ngại, vì đối với pháp khác môn không quái ngại. Nếu với giác tuệ năng y vô ngại thì gọi là nghĩa vô ngại, vì trong tất cả pháp tự tướng cộng tướng không quái ngại, hoặc trong các pháp biệt nghĩa, ý thú không quái ngại. Nếu với giác tuệ ngôn ngữ vô ngại thì gọi là huấn từ vô ngại, vì trong các nước cảnh giới riêng biệt có ngôn ngữ khác biệt tùy tự lần lượt tùy tưởng tùy nói không quái ngại, hoặc với ngôn ngữ giải thích các pháp không trở ngại. Nếu với giác tuệ trong trí phân tích các pháp vô ngại thì gọi là biện thuyết vô ngại, vì trí có thể biện chiết các pháp không trở ngại.

Luận nói:

Vì các hữu tình kia,

Hiện tại tri, ngôn, hành,

Vãng, lai và xuất ly.

Kính lễ đấng thiện giáo,

Giải thích: Tụng này hiển thị 6 thứ thần thông. Vì các hữu tình kia, đây là câu tổng quát. Đấng khéo dạy, nghĩa là nói mỗi mỗi đều có. Khéo là giỏi, tốt. Dạy là nói. Vì để thắng tiến nói lời vi diệu gọi là người khéo dạy. Hiện thiện giáo, là như ý thông, tùy chỗ ứng hóa nên đến đó hiện đại thần thông khéo dạy họ. Tri ngôn thiện giáo, là thiên nhĩ thông, nghe từ xa hiểu nghĩa tất cả âm thanh, tùy chỗ thích ứng mà vì nói pháp. Tri hành thiện giáo, là tâm sai biệt thông. Biết tâm thắng hay liệt mà khéo giáo hóa họ. Tri vãng thiện giáo, là túc trụ tùy niệm trí thông, rõ thấu quá khứ khéo giáo hóa họ. Tri lai thiện giáo, là tử sinh trí thông, hiểu rõ vị lai mà giáo hóa họ. Tri xuất ly thiện giáo, là lậu tận trí thông biết đoạn phiền não mà giáo hóa họ.

Luận nói:

Các chúng sinh tôn quý,

Biết là bậc Thiện sĩ.

Thấy được liền tin sâu.

Kính lễ đấng khai đạo.

Giải thích: Tụng này hiển thị các tướng tùy hảo. Pháp thân là sở y các tướng tốt. Đến với tướng hảo kính lễ pháp thân. Các chúng sinh thấy tôn nhan biết là bậc thiện sĩ, nghĩa là tất cả thế gian do thấy Thế Tôn đầy đủ tướng hảo đều biết đây là bậc Đại thiện sĩ. Các chúng sinh, là nói chung những người đương thời và sau này kham thụ giáo hóa. Vừa thấy liền tin sâu, nghĩa là vừa thấy Thế Tôn đầy đủ tướng tốt liền sinh tịnh tín, biết là bậc khéo khai đạo thế gian.

Luận nói:

Nhiếp thụ trụ trì, xả,

Hiện hóa và biến đổi,

Trí đẳng trì tự tại.

Kính lễ đấng chứng đắc.

Giải thích: Tụng này hiển thị 4 nhất thiết tướng thanh tịnh. Nhiếp thụ trụ trì xả, là hiển thị sở y thanh tịnh. Y chỉ tĩnh lự như ý muốn. Thân cao thấp tùy theo ý muốn. Tiếp nhận, giữ lại hay xả bỏ được tự tại. Hiện hóa và biến đổi, là hiển thị sở duyên thanh tịnh. Hóa làm các thứ sắc chưa từng sinh gọi là hóa hiện. Biến đổi các thứ sắc đã sinh, thành vàng bạc v.v…gọi là biến đổi. Đối với tất cả các phẩm loại biến hóa này đều được tự tại. Đẳng trì tự tại, là hiển thị tâm thanh tịnh. Tùy theo ý muốn chuyển Tam-ma-địa môn được tự tại. Mỗi mỗi sát-na tùy theo ý lạc có nhập vào các định. Trí tự tại, là hiển thị trí thanh tịnh. Nhiệm trì Đà-la-ni môn tự tại như ý muốn. Tùy chứng đắc, nghĩa là tùy thuận chứng đắc 4 thanh tịnh trên.

Luận nói:

Phương tiện, quy y, tịnh,

Và Đại thừa xuất ly.

Bọn lừa dối chúng sinh.

Kính lễ đấng phá ma.

Giải thích: Tụng này hiển thị 10 lực. Nghĩa là trong thiện thú ác thú phương tiện các nghiệp, quy y thế xuất thế tịnh, trong 4 thứ nghĩa xuất ly của Đại thừa. Ma lừa dối chúng sinh, trong đây hiển thị nghiệp dụng của 10 lực có thể phá ma kia. Nói phương tiện, là thiện thú phương tiện, nghĩa là các thiện nghiệp. Ác thú phương tiện, là bất thiện nghiệp. Khi tuyên thuyết thú phương tiện như vậy, ma lừa dối nói không như vậy, nói trái với đây, nói bất thiện nghiệp là thiện thú phương tiện, nói các thiện nghiệp là ác thú phương tiện. Hoặc nói tất cả đều không có nhân. Hoặc nói trời Tự Tại là nhân của tất cả. Xứ phi xứ lực có thể xô ngã thuyết kia. Huấn thích từ, nghĩa là xứ là sở dĩ, có chỗ dung nạp. Nếu không sở dĩ, không chỗ dung nạp, gọi là phi xứ. nghĩa là không có chỗ, không dung chứa các loại chúng sinh, không nhân, nhân ác mà sữ có được. Đây là thế nào? Do đây có nên kia có, đây sinh nên kia sinh. Nghĩa là vô minh duyên hành v.v…, chẳng phải trời Tự Tại v.v… khiến lần lượt được sinh. Nói quy y, như nói các nghiệp, như nói thế gian đều do tự nghiệp. Nghiệp làm y chỉ, nghiệp làm quy y. Khi nói nghiệp này là có ma ở trong lừa dối, như trước đã nói rõ. Do trí lực của đệ nhị nghiệp dị thục có thể xô ngã thuyết kia không trở ngại. Nghĩa là nghiệp của hữu tình được phân biệt cao thấp hơn kém, không do vô nhân hay trời Tự Tại v.v…như trước đã nói rõ. Nói tịnh, là thế gian tịnh và xuất thế tịnh. Tạm thời dẹp hết các phiền não, hằng hại tùy miên do các tĩnh lự, đẳng trì, đẳng chí và Thánh đạo. Khi nói tịnh này là có ma lừa dối ở trong đó, như trước đã nói rõ. Do trí lực của tĩnh lự, đăng trì, đẳng chí có thể xô ngã thuyết kia không trở ngại. Và Đại thừa xuất ly, là đây hiển thị các lực khác tạo nghiệp dụng. Nghĩa là khi nói Đại thừa cứu cánh xuất ly, quả đức của Phật là có ma ở trong đó lừa dối nói cái vô thượng chính đẳng Bồ-đề này rất khó có thể được, hãy cầu Thanh Văn cứu cánh xuất ly. Do 7 lực khác có thể xô ngã thuyết kia không trở ngại.

Luận nói:

Năng thuyết trí và đoạn,

Xuất ly và chướng ngại,

Vì đối trị tự tha.

Kính lễ trừ ngoại đạo.

Giải thích: Tụng này hiển thị 4 vô sở úy. Năng thuyết trí, nghĩa là Phật nói lời thành thật rằng ta là chân thật chính đẳng giác, tức là trí biết khắp tất cả pháp. Năng thuyết đoạn, nghĩa là Phật thành thật nói rằng ta chân thật các lậu đã hết, tức là các lậu phiền não vĩnh viễn hết rồi. Như vậy 2 thứ đó là y vào tự lợi mà nói. Năng thuyết xuất ly, nghĩa là Phật thành thật nói ta vì đệ tử nói pháp xuất ly, chân thật xuất ly. Năng thuyết năng chướng ngại, nghĩa là Phật thành thật nói ta vì đệ tử nói pháp năng chướng, chân thạt năng ngại. Như vậy 2 thứ đó là y vào lợi tha mà nói. Bốn thứ như vậy gọi là tự tha lợi. Không phải hàng phục các ngoại đạo, là hiển thị nghĩa xa lìa sự bố úy, giải ghích nghĩa vô úy. Không phải các ngoại đạo có thể làm cho hàng phục chúng, cho nên là vô úy.

Luận nói:

Trong chúng thuyết phục được,

Xa lìa hai tạp nhiễm.

Bất hộ, không quên mất.

Kính lễ đấng thuyết phục.

Giải thích: Tụng này hiển thị bất hộ niệm trụ. Ở trong chúng có thể thuyết phục, nghĩa là ở trong đại chúng có thể thuyết phục mọi người. Bởi thân nghiệp v.v…và các oai nghi đều không có gì xấu ác phải che giấu phòng hộ sợ người chê bai. Cho nên ở trong chúng có thể thuyết phục mọi người. Như vậy tức nói rõ 3 thứ bất hộ. Xa lìa 2 tạp nhiễm, nghĩa là cung kính nghe hay không cung kính nghe, trong chúng đệ tử trụ trong thiện niệm nên xa lìa thương, giận. Như vậy tức rõ 3 thứ niệm trụ. Do không phòng hộ, không quên mất này có thể khéo điều khiển chúng đệ tử.

Luận nói:

Trong những lúc đi đứng,

Trí giác đều viên minh.

Biết khắp cả mọi thời,

Kính lễ đấng thật nghĩa

Giải thích: Tụng này hiển thị sự nhổ trừ tập khí. Trong những lúc đi đứng, nghĩa là vì khát thực vào làng xóm hay thành ấp, đi về, kinh hành dưới gốc cây v.v… thân trụ trong 4 oai nghi vắng lặng. Trí trọn vẹn mọi sự, nghĩa là Thanh Văn v.v…tuy hết phiền não nhưng còn tập khí trói buộc nên có những việc như trạo cử v.v… Như tôn giả Đại Mục-kiền-liên kia trong 5 trăm kiếp thường làm thân con khỉ. Do tập khí đó còn bám theo nên tuy lìa phiền não mà khi nghe nhạc thì nhảy nhót làm như con khỉ. Có một vị Độc Giác nhiều kiếp xưa từng làm dâm nữ, nay vẫn còn tập khí sót lại nên hay trang điểm mặt mày. Những loại sự việc như vậy người được nhất thiết trí không làm. Thế Tôn đều không có, cho nên gọi là Như Lai bất cộng công đức. Tất cả mọi thời biết khắp thật nghĩa, nghĩa là chẳng phải như ngoại đạo Phẫu-thích-noa v.v… chẳng phải là chân thật nhất thiết trí. Cho nên nói Như Lai là thật nghĩa nhất thiết trí. Thuận kết tụng pháp nên nói điên đảo, hoặc nghĩa câu này trước sau khác nhau. Biết khắp mọi thời, là đây hiển thị Phật là bậc nhất thiết trí. Thật nghĩa, là hiển thị Phật là bậc có thật nghĩa. Như người có gậy thì nói là người chống gậy.

Luận nói:

Lợi lạc các hữu tình,

Việc làm không bỏ lỡ,

Và cũng không trống rỗng.

Kính lễ đấng không quên,

Giải thích: Tụng này hiển thị pháp không quên mất. Các hữu tình lợi lạc, sở tác không quá thời, nghĩa là Phật Thế Tôn nếu có giáo hóa, nếu lúc bấy giờ nên làm thì liền làm ngay khi ấy. Việc làm không để mất hời gian. Như có tụng nói:

Ví như nước biển lớn,

Nổi sóng đều đúng lúc.

Phật thương xót chúng sinh,

Phó cảm thường không mất.

Việc làm thường không trống rỗng, nghĩa là việc làm của Phật không có trống không không quả. Không quên mất, nghĩa là việc làm kịp thời gian, thường không bỏ lỡ hay quên mất.

Luận nói:

Ngày đêm thường 6 thời,

Quán sát khắp thế gian.

Cùng đại bi tương ưng,

Kính lễ ý lợi lạc.

Giải thích: Đây hiển thị đại bi, lợi ích an lạc ý lạc làm thể. Đây nói đại, nghĩa là chứng phúc trí tư lương viên mãn nên khiến thoát 3 khổ làm hành tướng, hữu tình 3 cõi làm sở duyên, tâm bình đằng đối với các hữu tình, quyết định không có ai hơn đây. Ngày đêm thường 6 thời quán tất cả thế gian, đây là hiển thị đại bi làm nghiệp dụng.

Nghĩa là Phật Thế Tôn trong ngày và đêm đèu 3 thời quán tất cả thế gian, ai thiện pháp tăng ai thiện pháp giảm, ai thiện căn thành thục, ai thiện căn chưa thành thục, ai có thể thụ thắng sinh pháp khí, ai có thể thụ định thắng pháp khí, ai là Phật thừa khí, ai là dư thừa khí, v.v… Luận nói:

Do hành và do chứng,

Do trí và do nghiệp,

Hơn tất cả 3 thừa.

Kính lễ đấng tối thắng,

Giải thích: Đây hiển thị 18 bất công Phật pháp. Nói do hành, là nói khi hành tất cả sự nghiệp, tức là Như Lai không có sai lầm, cho dedns không có cái gì không lựa chọn mà bỏ. và do chứng, tức là khi trụ 6 thứ không thoái lui. Nghĩa là dục vô thoái cho đến thứ 6 giải thoát không thoái lui. Nói do trí, nghĩa là trong 3 đời trí kiến không trụ trước, không trở ngại mà chuyển. và do nghiệp, tức là thân ngữ ý nghiệp của Như Lai, trí là tiền đạo, tùy theo trí mà chuyển. Tối thắng trong 3 thừa, đây là hiển thị Phật ở trong tất cả Thanh Văn và Độc Giác thừa là tối thắng hơn cả, vì do tương ưng đầy đủ với 18 công đức không chung.

Luận nói:

Nghi hoặc cho mọi người,

Do chứng đắc 3 thân,

Đủ tướng Đại Bồ-đề.

Kính lễ đấng tối thắng.

Giải thích: Tụng này hiển thị tính của tất cả tướng diệu trí. Tất cả hành tướng đều chính liễu tri gọi là tất cả tướng diệu trí. Cái thể của diệu trí này gọi là tính của tất cả tướng diệu trí. Tức là tất cả cảnh giới sở tri, thể của tất cả hành tướng thù thắng trí. Nói 3 thân, là tự tính v.v… Do 3 thân này đến được tự tính quả Đại Bồ-đề đầy đủ tướng vô cấu vô ngại diệu trí. Nói đủ tướng, là đầy đủ tất cả tướng. Có thuyết nói vô thường v.v…16 thứ hành tướng gọi là tất cả tướng, vì Bồ-đề lấy nó làm nhân trước. Có những thuyết khác lại nói tức đây và tất cả các pháp khác đều vô tự tính, vô sinh vô diệt, bản lai tịch tĩnh, tự tính Niết-bàn tướng vô sở đắc gọi là tất cả tướng. Có các thuyết khác lại nói chẳng phải ở đây nói tướng của các phẩm loại trị sở trị, nhưng nói tất cả nghĩa lợi viên mãn, như ngọc như ý đủ tất cả tướng. Ta nay quán tất cả tướng này, tức là tất cả phẩm loại chướng đoạn. Bởi vì sao? Vì vĩnh đoạn phẩm loại tất cả chướng. Nghĩa là đoạn tất cả phẩm sở tri chướng và đoạn phẩm tất cả tập khí. Lại nữa đây đủ tướng Đại Bồ-đề, tức là chính tri tất cả cảnh tướng. Vì vậy cho nên có thể đoạn tất cả những nghi khác. Tất cả mọi nơi là những nghi khác của tất cả thế gian, tức là có tất cả nghi hoặc của người và trời. Ở đây những nghi khác đều có thể đoạn trừ. Do đây có thể đoạn tất cả tác dụng nghi hoặc của ngưởi và trời, hiển thị cái thù thắng của tất cả tướng diệu trí.

Luạn nói: Pháp thân chư Phật tương ưng với các công đức như vậy, lại còn tương ưng với các công đức khác như tự tính, nhân quả, nghiệp và chuyển y. Do đó phải biết pháp thân chư Phật công đức vô thượng. Ở đây có 2 bài tụng như sau:

Phật thành thật thắng nghĩa,

Tất cả địa xuất ly.

Trên tất cả chúng sinh,

Giải thoát các hữu tình.

Đức vô tận, vô đẳng,

Tương ưng. Hiện thế gian,

Và chúng hội thấy được,

Người trời không thể thấy.

Giải thích: Pháp thân tương ưng với công đức này. Lại cùng tương ưng với 6 công đức khác. Đây lược nêu nghĩa. Hai tụng giải thích rộng. Phật thành thật thắng nghĩa, nghĩa là pháp thân Phật thành thật thắng nghĩa. Chân như sở hiển tức tuyên thuyết công đức của pháp thân tự tính. Tương ưng nói lực sai biệt, tương ưng không mất. Ví như nói tương ưng với cái đức của lửa nóng. Tất cả địa đều xuất ly, tức là cực hỷ v.v… tất cả 10 địa đều có nghĩa xuất ly. Đây tức là nhân của thành thật thắng nghĩa. Đến trên tất cả chúng sinh, nghĩa là tất cả trí tính trong các hữu tình là thù thắng nhất. Đây tức là quả của thành thật thắng nghĩa. Giải thoát các hữu tình, tức là nghiệp của thành thật thắng nghĩa. Tương ưng với đức vô tận vô đẳng, nghĩa là tương ưng cùng với các tướng công đức, vì tương ưng với vô biên bất cộng, lực, vô úy v.v…vô tận vô đẳng đức. Hiện thế gian và chúng hội có thể thấy, nghĩa là biến hóa thân xuất hiẹn thế gian, và fhụ dụng thân ở trong đại chúng hội. Cà hai đều có thể trông thấy. Người, trời không thể thấy, nghĩa là pháp thân Phật người và gtrời không thể thấy. Đây nói 3 thân sai biệt của Thế Tôn để hiển thị cái nghĩa chuyển. Chuyển, nghĩa là thể tính chuyển biến sai biệt. Trong 3 thân, 2 thân có thể thấy, một không thể thấy.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10