NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Vô Tính Bồ-tát tạo luận
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 8

8 – Tăng thượng tâm học

Luận nói: Như vậy là đã nói về sự thù thắng của giới tăng thượng, vậy làm sao thấy sự thù thắng của tâm tăng thượng?

Đại khái có 6 thứ sai biệt cần phải biết: một là do sở duyên sai biệt, hai là do chủng loại sai biệt, ba là do đối trị sai biệt, bốn là do năng lực sai biệt, năm là do dẫn phát sai biệt, sáu là do tác nghiệp sai biệt.

Giải thích: Như tăng thượng giới khác với Thanh Văn thì tăng thượng tâm cũng phải có khác nên có câu hỏi này. Sáu thứ sai biệt lược đáp câu hỏi này. Sau đây sẽ giải thích riêng.

Luận nói: Sở duyên sai biệt là lấy pháp Đại thừa làm đối tượng sở duyên.

Giải thích: Pháp Đại thừa là giáo pháp rất sâu xa rộng lớn trong Bồ-tát tạng. Thanh Văn v.v… chắc chắn không duyên được cho nên thù thắng.

Luận nói: Chủng loại sai biệt là Đại thừa quang minh, Tập phúc định vương, Hiền thủ, Kiện hành v.v… vô lượng các chủng loại Tamma-địa.

Giải thích: Bồ-tát được các Tam-ma-địa sai biệt nhiều vô lượng. Trong đây sơ lược nói là thượng thủ. Nói v.v… nghĩa là các Thanh Văn thừa v.v… còn không nghe đến tên huống chi là có thể đạt được.

Luận nói: Đối trị sai biệt là cái trí duyên cái tướng chung của các pháp như cách dùng cây nêm để tháo một cây nêm. Đó là đạo lý khiển trừ tất cả các chướng thô nặng trong thức A-lại-da.

Giải thích: Vô phân biệt trí duyên chân như. Đó là hiển thị tướng chung của các pháp. Cho nên nói trí này gọi là duyên tướng chung. Định có thể phát sinh cái trí năng đối trị này, nên cũng gọi là đối trị. Thánh đạo vi diệu cho nên như cây nêm nhỏ. Trị các chủng tử có tính thô trọng nên như cây nêm lớn.

Luận nói: Năng lực sai biệt là an trụ trong cái vui tĩnh lự, tùy ý thụ sinh.

Giải thích: Do tính của tĩnh lự này điều hòa nhu thuận nên có khả năng làm được. Tùy nơi muốn làm lợi ích hữu tình thì qua đó thụ sinh mà không thoái mất tĩnh lự. Trong Thanh Văn thừa không có được như vậy. Vì vậy nên thù thắng.

Luận nói: Dẫn phát sai biệt là có thể dẫn phát thần thông vô ngại trong tất cả thế giới.

Giải thích: Do sức của định này dẫn phát các thứ thần thông vô ngại trong tất cả thế giới.

Luận nói: Tác nghiệp sai biệt là có thể làm chấn động khắp cả, hiển thị các chuyển biến đi lại co duỗi, tất cả sắc tượng đều nhập trong thân, ở trong đồng loại hoặc hiện hoặc ẩn, việc làm tự tại, chế ngự các thần thông của người khác, làm cho người được tài hùng biện, phóng ánh sáng lớn, dẫn phát các thần thông lớn như vậy.

Giải thích: Do sức định này dẫn phát các thứ thần thông. Hiển nghĩa là hiển hiện. Ẩn nghĩa là ẩn giấu. Việc làm tự tại , nghĩa là như biến ma vương làm thân Phật v.v… Chế ngự thần thông người khác, nghĩa là có thể đoạt lấy sức thần thông của người khác. Không có biện tài thì làm cho có biện tài, không có niềm vui làm cho có niềm vui. Để mời gọi Bồ-tát ở xa các phương khác phóng đại quang minh. Dẫn phát các thần thông lớn như vậy, là dẫn các thứ thần thông đã nói ở trước. Những chủng loại như vậy Thanh Văn v.v… hoàn toàn kông có nên gọi là thù thắng.

Luận nói: Lại có thể dẫn phát thực hiện các việc khó làm. Có 10 việc khó làm. Mười việc khó làm là: Một, tự thệ là khó làm, vì thệ nguyện thụ vô thượng Bồ-đề. Hai, không thoái lui là khó làm, vì các khổ sinh tử không thể làm thoái lui. Ba, không bỏ là khó làm, vì chúng sinh tuy làm tà hạnh cũng không bỏ. Bốn là những điều khó làm trước mắt, vì với những kẻ oán thù vẫn phải làm điều lợi ích cho họ. Năm, không nhiễm là khó làm, vì sống trong thế gian không bị pháp thế gian làm ô nhiễm. Sáu, thắng giải là khó làm, vì đối với Đại thừa tuy chưa thể liễu đạt nhưng phải sinh tin hiểu giáo pháp rộng lớn sâu xa. Bảy, thông suốt là khó làm, vì có thể thông suốt nhân vô ngã pháp vô ngã. Tám, tùy giác khó làm, vì đối với các ngôn từ bí mật rất sâu của chư Như Lai nói có thể tùy theo đó mà hiểu. Chín, không lìa không nhiễm là khó làm, vì không bỏ sinh tử mà không nhiễm. Mười, gia hành khó làm, vì có thể tu giải thoát tất cả chướng ngại như chư Phật, cho đến tận cùng sinh tử, không dụng công mà vẫn thường xuyên làm việc nghĩa lợi cho tất cả hữu tình.

Giải thích: Như nói Bồ-tát tu các hạnh khó làm, là hiển thị tất cả hạnh khó làm có 10 thứ. Tự thệ là khó làm, vì thệ nguyện thụ vô thượng Bồ-đề, là không đoái tưởng đến sự an vui cho mình mà thệ nguyện làm việc lợi ích cho hữu tình nên rất là khó. Không thoái lui là khó làm, vì các khổ sinh tử không thể làm thoái lui, là ở lâu trong sinh tử chịu các khổ như gió rét cũng không thoái lui là rất khó. Không bỏ là khó làm, vì chúng sinh tuy làm tà hạnh cũng không bỏ chúng sinh, là đối với cha mẹ v.v… làm các tà hạnh ác hạnh, như hoặc đùa giỡn xin tròng con mắt rồi bỏ xuống hai chân dẫm đạp mà không thấy tội lỗi ấy, chỉ làm việc lợi ích là rất khó. Những điều khó làm trước mắt, vì với những kẻ oán thù vẫn phải làm điều lợi ích cho họ, là tuy hiện có oán nặng mà vẫn làm việc lợi ích cho họ là rất khó. Không nhiễm là khó làm, vì sống trong thế gian không bị pháp thế gian làm ô nhiễm, nghĩa là thường ở trong 8 pháp của thế gian như lợi v.v… mà không nhiễm trước là rất khó. Thắng giải là khó làm v.v…, là đối với nghĩa vi diệu của thần lực thù thắng tuy chưa có thể hiểu mà thâm tín là rất khó. Thông suốt là khó làm, là thông đạt hiện quán v.v…, hiểu nhất thiết nghĩa đầy đủ thông suốt, biến kế sở chấp, Bổ-đặc-già-la, tất cả pháp tính đều vô sở hữu là rất khó. Tùy giác khó làm v.v…, là đối với ngôn từ bí mật do Phật nói, xả bỏ cái nghĩa theo mình nghe được hiểu cái nghĩa mà mình không nghe thấy, là rất khó. Không lìa không nhiễm là khó làm v.v…, là không bỏ sinh tử mà không nhiễm tội lỗi của sinh tử là rất khó. Gia hành khó làm v.v…, là đã đoạn đã thoát tất cả phiền não chướng và sở tri chướng mà thường xuyên hiện tiền khởi làm tất cả các việc lợi ích hữu tình, cho đến tận đời vị lai vui thích tu hạnh này không ngừng nghỉ là rất khó.

Luận nói: Lại nữa, trong tùy giác khó làm là Phật có những ngôn từ bí mật, các Bồ-tát có thể tùy theo đó hiểu. Như kinh có nói.

Giải thích: Nghĩa khó làm thứ 8 chưa rõ nên giải thích nữa.

Luận nói: Thế nào là Bồ-tát có thể hành bố thí v.v…?

Là nếu Bồ-tát không có chút gì để bố thí, mà rộng làm việc bố thí trong 10 phương vô lượng thế giới.

Thế nào là Bồ-tát vui làm việc bố thí?

Là nếu các Bồ-tát đối với tất cả việc bố thí đều không ưa muốn.

Thế nào là Bồ-tát tin hiểu sâu xa trong việc bố thí?

Là nếu các Bồ-tát không tin Như Lai mà hành bố thí.

Thế nào là Bồ-tát khích lệ việc bố thí?

Là nếu các Bồ-tát không tự khích lệ trong việc bố thí.

Thế nào là Bồ-tát đam mê sự bố thí?

Là nếu Bồ-tát không tạm thời có chút bố thí.

Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí rộng lớn?

Là nếu Bồ-tát trong sự bố thí lìa tưởng Sa-lạc.

Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí thanh tịnh?

Là nếu Bồ-tát xan lẫn Ốt-ba-đà.

Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí cứu cánh?

Là nếu Bồ-tát không trụ cứu cánh.

Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí tự tại?

Là nếu Bồ-tát không tự tại trong sự bố thí.

Thế nào là Bồ-tát có sự bố thí vô tận?

Là nếu Bồ-tát không trụ vô tận. Như trong bố thí, nên biết giới là đầu tiên cho đến sau cùng là tuệ tùy sự thích hợp phải như vậy.

Giải thích: Nếu chư Bồ-tát không có chút gì bố thí v.v…, nghĩa là chư Bồ-tát thâu nhiếp tất cả hữu tình làm tự thể của mình, thông đạt tính bình đẳng giữa mình và người, cho nên khi người hành thí tức Bồ-tát hành thí. Không chút gì bố thí, nghĩa là có thể hành thí. Lại có nghĩa là dùng của tất cả bố thí cho tất cả, nên gọi là không có chút gì bố thí. Lại có nghĩa là người hành thí, vật thí và người nhận thí cả ba đều thanh tịnh vắng lặng, nên nói không có chút gì bố thí. Nếu chư Bồ-tát trong tất cả sự bố thí không dục lạc, nghĩa là đây đã là câu nói ngăn cản không có nghĩa dục lạc. Đối với người đến cầu xin bố thí, sự hành thí, ta hành thí, hành thí trước ta hành thí v.v… những điều này đều không có dục lạc. Chỉ mỗi một niềm vui thích là duyên an trụ Niết-bàn mà hành thí. Nói chư Bồ-tát không tin Như Lai mà hành bố thí, nghĩa là chứng pháp tính, tự hiểu, tự tin mà hành bố thí, không phải chỉ tin ở Như Lai. Nếu chư Bồ-tát trong việc hành thí không tự sách lệ, nghĩa là có thể thường hành bố thí một cách tự nhiên, không cần phải tự mình cố gắng mới có thể khuyến khích người hành thí. Nếu chư Bồ-tát không tạm thời có chút bố thí, thì đó là tất cả nghĩa bố thí, mọi lúc bố thí. Nếu chư Bồ-tát trong khi hành thí lìa tưởng Sa-lạc. Đây nói Sa-lạc là gồm có hiển, mục kiên thật, mật, thiên lưu tán. Nay lấy nghĩa mật, lìa tưởng lưu tán, tức là Tam-ma-địa, là tâm trụ nơi định mà hành bố thí. Nếu chư Bồ-tát Ốt-ba-đà xan, nghĩa là Ốt-ba-đà là hiển mục sinh khởi, mật thuyên bạt túc. Nay lấy nghĩa mật đánh bạt trừ bỏ xan túc mà hành bố thí. Nếu chư Bồ-tát không trụ cứu cánh, nghĩa là không đồng với Thanh Văn một bề hướng tới tịch diệt, an trụ vô dư Niết-bàn cứu cánh. Nếu chư Bồ-tát trong việc bố thí không tự tại chuyển, nghĩa là khiến xan lẫn v.v… thí trị chướng không tự tại chuyển. Nếu chư Bồ-tát không trụ vô tận, nghĩa là được viên mãn vô tận tăng thượng quả Phật cứu cánh mà không an trụ thì cái gì khởi hóa độ vị tha thường hành bố thí? Như đối với bố thí, cho đến đối với giới nên biết cũng phải như vậy, nghĩa là thông cả 5 thứ khác, như kinh nói. Thế nào là Bồ-tát có thể đầy đủ Thi-la? Nếu chư Bồ-tát không hộ một chút giới, nghĩa là thấy mình và người tính đều bình đẳng, nên người hộ tịnh giới tức là mình đã đầy đủ Thi-la.

Luận nói: Thế nào là có thể sát sinh?

Là nếu đoạn dứt sự sinh tử lưu chuyển của chúng sinh.

Thế nào là không cho mà lấy?

Là nếu các hữu tình không cho mà tự nhiên lấy.

Thế nào là dục tà hạnh?

Là nếu đối với các dục hiểu rõ là tà, mà tu chính hạnh.

Thế nào là có thể vọng ngữ?

Là nếu ở trong vọng có thể nói được là vọng.

Thế nào là Bối-thú-ni?

Là nếu có thể thường trụ không tịch tối thắng.

Thế nào là Ba-lỗ-sư?

Là nếu biết khéo an trụ bờ kia.

Thế nào là nói thêu dệt?

Là nếu nói pháp đúng phẩm loại sai biệt.

Thế nào là có thể tham dục?

Là nếu luôn luôn muốn mình chứng được vô thượng tĩnh lự.

Thế nào là có thể giận dữ?

Là nếu trong tâm ghét và làm hại tất cả phiền não, một cách đúng đắn.

Thế nào là có thể tà kiến?

Là nếu tà tính ở khắp tất cả mọi nơi đều thấy đúng như thật.

Giải thích: Như trong kinh nói: Bí-sô ! Ta là người có thể sát v.v… Trong đây hiển thị ý nghĩa của câu nói ấy. Nếu đoạn cái sinh tử lưu chuyển của chúng sinh, nghĩa là đoạn lầnghĩ của sát. Tương ưng với câu hỏi. Không có người cho, tự nhiên mà lấy, nghĩa là nghĩa của không có người cầu mà vẫn làm việc lợi ích. Nếu trong các dục hiểu rõ là tà mà tu chính hạnh, tức là biết cảnh giới như thật. Nếu cảnh giới dục nếu phân biệt dục chỉ là tà loạn, như có tụng nói:

Phật nói tham sân si,

Đều từ phân biệt khởi.

Tịnh bất tịnh điên đảo,

Đây cũng là duyên sinh.

Tịnh bất tịnh điên đảo,

Chính do duyên mà có.

Tự tính kia đều không,

Nên dục chẳng chân thật.

Nếu ở trong vọng mà có thể nói là vọng, nghĩa là nói vọng là vọng nên gọi vọng ngữ, như có tụng nói:

Tất cả pháp hư vọng,

ThếTôn như thật nói.

Ở trong pháp hư vọng,

Các hành rất hư vọng.

Nếu có thể thường ở trong tối thắng không trụ, nghĩa là y theo giải thích thích văn từ đạo lý ở đời đáp câu hỏi trên. Bối-thú-ni là nói lời ly gián. Mật thuyên thường thắng không là biểu hiện đầy đủ thắng nghĩa. Thú là biểu hiện không nghĩa. Ni là biểu hiện thường nghĩa. Nay lấy mật nghĩa vấn đáp phù hợp nhau. Còn hiển thì không như vậy. Ba-lỗ-sư v.v…giải thích văn từ đạo lý cũng vậy. Ba-lỗ-sư đây hiển là lời thô ác. Mật thuyên trụ bỉ ngạn. Nay lấy mật nghĩa cho nên nói nếu khéo an trụ sở tri bỉ ngạn. Sở tri bỉ ngạn là nhất thiết trí. Phật khéo an trụ trong đó gọi là Ba-lỗ-sư. Nói chính thuyết pháp phẩm loại sai biệt, là giải thích ỷ gián ngữ, nghĩa này dễ hiểu. Nếu có thường thường muốn tự chứng đắc vô thượng tĩnh lự, là như trên giải thích vắn từ đạo lý. Trong thân chư Phật có tĩnh lự nói là vô thượng. Nếu ở trong tâm có thể tu chính tất cả phiền não như ganh ghét, làm hại, nghĩa là đã diệt đã đoạn cái nghĩa ganh ghét, làm hại này. Nếu khắp các nơi tà tính đều thấy như thật, nghĩa là thấy tính của tất cả hư vọng phân biệt là tà loạn.

Luận nói: Pháp của Phật rất sâu. Thế nào là pháp của Phật rất sâu?

Ở đây nên giải thích như sau:

Pháp thường trụ là pháp của chư Phật, vì pháp thân là thường trụ. Pháp đoạn diệt là pháp của chư Phật,vì vĩnh viễn đoạn diệt các chướng. Pháp sinh khởi là pháp của chư Phật, vì biến hóa thân hiện các sinh khởi. Pháp có sở đắc là pháp của chư Phật, vì là pháp có thể đối trị được các hành nghiệp của 8 vạn 4 ngàn chúng sinh. Pháp có tham là pháp của chư Phật, vì tự thệ nguyện tiếp thụ chúng sinh có tham làm tự thể của mình. Pháp có giận dữ là pháp của chư Phật, pháp có si là pháp của chư Phật, pháp dị sinh là pháp của chư Phật, cũng nên biết như vậy. Pháp không nhiễm ô là pháp của chư Phật, vì viên mãn thành tựu chân như, tất cả chướng cáu bẩn không thể làm nhiễm ô. Pháp không ô uế là pháp của chư Phật, vì sinh tại thế gian mà các pháp thế gian không thể làm ô uế. Cho nên vì thế mà nói pháp Phật là rất sâu.

Giải thích: Khế kinh nói nghĩa Phật pháp rất sâu như thế nào? Nghĩa là các kinh nói như thường trụ pháp là các Phật pháp. Nói rộng cho đến pháp không nhiễm ô là Phật pháp. Nay sẽ hiển thị mật ý trong đó. Vì pháp thân là thường trụ, nghĩa là pháp thân tức là chuyển y làm tướng, lìa tất cả chướng, vì chân như thường trụ không biến đổi, là diệu trí vô thượng không cấu uế không quái ngại, như cõi vô sắc mà chẳng phải dị thục ví vô lậu. Đây cũng ở trong pháp thân thường trụ vì vô sai biệt, vì không phải nghiệp phiền não có thể tạo ra. Có thể đối trị tất cả tám vạn bốn ngàn các hành của hữu tình, nghĩa là tám vạn bốn ngàn pháp uẩn có thể đối trị các hành của hữu tình như tham, sân, si v.v… Bốn thứ mỗi thứ đều có hai vạn một ngàn. Lại pháp vô nhiễm là các Phật pháp, là thiện tịnh chân như tất cả chướng cấu không thể nhiễm. Các nghĩa khác dễ hiểu không phải giải thích.

Phật nói những lời mật ngữ như vậy còn có quả gì? Nghĩa là cho người nói có thể dễ an lập. Vì nghĩa chung tổng quát nên dễ cho người nói. Tức đây là nhân có thể khiến người nghe dễ thụ trì, tư lương dễ đầy đủ. Thụ trì giáo pháp nên dễ đạt pháp tính. Tư lương đầy đủ nên được Phật chứng tịnh, được Đại ngã. Pháp tăng cũng vậy, đều tối thắng. Do đây chứng được hiện pháp lạc trụ. Biết rõ đó nên đối với người trí theo luận nghĩa mà thông tỏ quyết đoán lựa chọn. Vì 10 sự ích lợi này mà nói lời bí mật. Trong Thanh Văn thừa cũng nói những lời mật ý như sát hại phụ mẫu v.v… Mười sự lợi ích cũng vậy.

Luận nói: Lại nữa còn có thể dẫn phát sự tu hành đến bờ kia, thành thục chúng sinh, thanh tịnh cõi Phật. Vì vậy nên biết các pháp của Phật cũng là các tác nghiệp sai biệt đẳng trì của Bồ-tát.

Giải thích: Bồ-tát được các Tam-ma-địa còn có 4 thứ tác nghiệp sai biệt. Nghĩa là y vào định này có thể tu tất cả Ba-la-mật-đa, thành thục tất cả các loại hữu tình, phát các thứ thần thông phương tiện dẫn nhập chính pháp, có thể làm thanh tịnh cõi Phật, tùy theo ý muốn mà biến thành vàng ròng báu vật, có thể chính tu tập lực, vô úy v.v… tất cả Phật pháp. Chảng phải rời bỏ đó mà nói đẳng trì có thể tu tập đến bờ kia v.v…4 thứ tác nghiệp như Thanh Văn v.v…

9 – Tăng thượng tuệ học

Luận nói: Như vậy là đã nói về sự thù thắng của tăng thượng tâm học. Vậy làm thế nào thấy được sự thù thắng của tăng thượng tuệ học?

Đó là trí vô phân biệt như tự tính, sở y, nhân duyên, sở duyên, hành tướng, nhiệm trì, trợ bạn, dị thục, đẳng lưu, xuất ly, đến cứu cánh, được thắng lợi sau khi gia hành vô phân biệt, sai biệt, thí dụ, tác sự vô công dụng, thậm thâm. Nên biết rằng trí vô phân biệt được gọi là sự thù thắng của tuệ tăng thượng.

Giải thích: Tâm đã ở trong định thì có thể biết như thật. Cho nên đẳng trì, vô gián nói là tăng thương tuệ học không phải sao? Tiếp thụ sự sáng suốt tức gọi là học. Tuệ và học phải là hai cái không khác nhau. Nếu như vậy là dựa vào một chỗ mà giải thích. Nghĩa là tăng thượng tuệ tức vlà cái học đó. Nếu vậy thì trong đây không nên có nghĩa dựa vào. Nghĩa là dựa vào các tuệ khác mà khởi cái học. Cho nên gọi tên là tăng thượng tuệ học. Như trước 2 cái học là dựa vào giới mà học, dựa vào định mà học, chẳng phải như ở đây dựa vào tuệ mà học, vì tuệ tức là học, phải nói như vậy. Gia hành tuệ kia dựa vào căn bản học. Căn bản tuệ kia dựa vào hậu đắc học. Hậu đắc tuệ kia dựa vào 2 vô gián mà khởi tu học. Những gì gọi là tăng thượng tuệ học? Nghĩa là trí vô phân biệt. Nay trong đây trước tiên là tự tính, sau cùng là rất sâu, giải ghích rộng trí này.

Luận nói: Trong đây tự tính của trí vô phân biệt lìa 5 tướng: một là lìa sự không tác ý, hai là lìa lỗi có tầm có tứ, ba là lìa tưởng thụ diệt, tịch tĩnh, bốn là lìa sắc tự tính, năm là lìa các phân biệt đối với nghĩa của chân như. Phải biết rằng lìa 5 tướng này gọi là trí vô phân biệt.

Giải thích: Dựa vào trí tự tính nói lìa 5 tướng. Do giá thuyên môn nói trí thể tướng. Bởi biểu hiện thuyên môn không thể nói nên khiển trừ phân biệt môn. Trí vô phân biệt, tướng của nó có thể rõ. Nếu khác trí này thì phải có phân biệt. những phân biệt gì? Nghĩa là sau nói rõ, không tác ý v.v… nếu không tác ý là trí vô phân biệt thì ngủ say v.v…không có tác ý cũng phải thành trí vô phân biệt. Nhưng không được nhận do lìa công dụng, phải được không điên đảo. Nếu quá trạng thái tầm, tứ là trí vô phân biệt thì các địa từ đệ nhị tĩnh lự trở lên tất cả dị sinh và Thanh Văn v.v…phải thành trí vô phân biệt. Nhưng kia không có trí vô phân biệt. Nếu tưởng thụ diệt là trí vô phân biệt thì thể tướng trí này khó có thể thành lập trong Vô tưởng v.v… vì tách rời tâm không có các tâm pháp. Do ý thức diệt nói nó là vô tâm, như trước đã nói nếu như sắc của nó là trí vô phân biệt thì sẽ không thành được trí vô phân biệt. Ví như đại chủng tạo ra sắc. Nếu ở nơi chân nghĩa kế chấp khác tướng nói đây đúng là vô phân biệt vì có phân biệt.

Luận nói: Đối với sự thành lập các tướng của trí vô phân biệt như đã nói. Ở đây còn có nhiều tụng như sau:

Giải thích: Dựa theo trí vô phan biệt đã nói ở trước, có nhiều tụng nói về thành lập tướng. lần lượt sẽ nói rõ. Bài tụng đầu nói về tự tính.

Luận nói:

Tự tính các Bồ-tát,

Xa lìa 5 thứ tướng,

Là trí vô phân biệt,

Không chấp trước chân nghĩa.

Giải thích: Trong bài tụng này do 3 câu trước ngăn 5 thứ tướng, phương tiện hiển thị trí vô phân biệt. Do câu thứ tư chính thuyết tự tính. Không chấp trước khác chân nghĩa, nghĩa là đối với chân nghĩa không chấp trước khác cho là tự tính. Tự tính và tự thể nghĩa không sai biệt nhau. Như nói vòng xuyến thì vàng là tự thể. Một bài tụng sau nói chỗ sở y của trí.

Luận nói:

Sở y các Bồ-tát,

Chẳng phải tâm mà tâm,

Là trí vô phân biệt,

Phi chủng loại tư lường.

Giải thích: Trí là tâm pháp nên phải dựa vào tâm, y chỉ nơi tâm mà vô phân biệt là không hợp đạo lý vì tâm và thanh là tướng tư lường. Nếu dựa vào phi tâm, ví như các sắc thì không thành trí. Để giải 2 cái lỗi như vậy nên nói nửa tụng. Phi chủng loại tư lường, nghĩa là sở y của trí vô phân biệt là phi tâm vì chẳng phải nghĩa tư lường. Cũng chẳng phải phi tâm vì chỗ y chỉ là chủng loại của tâm. Lấy tâm làm nhân, do sức huân tập nhiều lần được trạng thái này nên gọi là chủng loại của tâm. Đây tức hiển thị trí dựa vào tâm, ra khỏi mọi tư lường phân biệt. Tiếp có một tụng hiển thị nhân duyên của trí.

Luận nói:

Nhân duyên các Bồ-tát,

Do đa văn huân tập,

Là trí vô phân biệt,

Và tác ý đúng lý.

Giải thích: Nhân duyên và nhân duyên có khả năng tạo tác là một nghĩa. Nói có nghe đa văn huân tập, nghĩa là ở nơi các vị ấy có tiếng nói của Đại thừa, nên nói là có nghe các vị ấy chứ không phải ai khác. Do đây dẫn xuất công năng sai biệt gọi là huân tập. và như lý tác ý, nghĩa là đây là nhân sinh ý thức. Như lý tác ý, tức thuận lý thanh tịnh nên gọi như lý. Có trí ắt có cảnh, nên tiếp đến một tụng nói sở duyên của trí.

Luận nói:

Sở duyên các Bồ-tát,

Là pháp tính ly ngôn,

Là trí vô phân biệt,

Tính chân như vô ngã.

Giải thích: Không thể nói pháp tính, nghĩa là có thể nói tính của pháp là không tự tính. Tức có nghĩa là lìa cái tự tính có thể nói là biến kế sở chấp. Tính chân như vô ngã, là thành nghĩa này khiến sáng tỏ , tức tất cả Bổ-đặc-già-la các pháp không tự tính hiển hiện chân như, giải thoát khỏi tăng ích tổn giảm hai bên. Trí vô phân biệt duyên cảnh giới, vì có pháp sở duyên nên quyết chắc có hành tướng. Tiếp đến là một tụng hiển thị hành tướng của trí.

Luận nói:

Hành tướng các Bồ-tát,

Lại ở trong sở duyên,

Là trí vô phân biệt,

Sở tri kia vô tướng.

Giải thích: Tương tự khởi hiện hành trong cảnh sở duyên gọi là hành tướng. Trí vô phân biệt khởi hiện hành tương tự trong cảnh chân như. Sở tri vô tướng kia, là nói trí này khởi hiện hành trongn cảnh chân như. Ý này nói trí vô phân biệt duyên cảnh chân như, lìa tất cả hành tướng của tướng tác ý làm tướng. Tiếp nói 2 tụng giải thích các nghi thông thường về hành tướng của trí và sở duyên ở trên.

Luận nói:

Tự tính nghĩa tương ưng,

Chỉ là sở phân biệt,

Các chữ tương ưng nhau,

Là nghĩa của tương ưng.

Chẳng lìa năng thuyên kia,

Mà sở duyên trí chuyển,

Chẳng phải thuyên không đồng,

Tất cả không thể nói.

Giải thích: Nếu thật không có nghĩa phân biệt thì lấy gì phân biệt mà nói như vậy? Tương ưng với nghĩa của tự tính là phân biệt chứ không gì khác. Nghĩa là các văn tự lần lượt tương ưng, tuyên xướng không dứt. Các tâm biến kế duyên đây mà thành lập nghĩa biến kế làm sở phân biệt chứ không có một thật nghĩa nào riêng khác làm sở phân biệt, nên nói là không gì khác. Nếu không có văn tự liên tục tuyên xướng, vì không có phân biệt. Thế nào là các pháp đều không thể nói? Vì để hiển thị lý này nên nói như vậy, chứ chẳng phải lìa trí năng thuyên kia nơi sở thuyên chuyển v.v… Nếu thật có nghĩa có thể nói, thì lìa cái tên năng thuyên thì nơi kia phải khởi cái trí tương tự lời nói. Chẳng phải chưa hiểu rõ danh ngôn của năng thuyên mà đã khởi cái trí của nghĩa sở thuyên, cho nên là không thể nói. Hoặc nói ngoài nghĩa tuy chắc chắn thật có nhưng phải đợi trí năng thuyên sở thuyên khởi. Vì để ngăn chận điều này nên nói như vậy chứ chẳng phải thuyên không đồng nhau. Nghĩa là khác nhau nên chẳng phải thật năng thuyên, vì cái tên năng thuyên với nghĩa sở thuyên là hai cái riêng biệt, tướng của chúng khác nhau làm sao biểu thị được thật thuyên. Tất cả không thể nói, nghĩa là do đạo lý này tất cả những gì là năng thuyên sở thuyên đều không thể nói. Trí vô phân biệt nhiệm trì như thế nào?

Luận nói:

Nhiệm trì các Bồ-tát,

Là trí vô phân biệt,

Các hạnh hậu sở đắc,

Làm tiến thú tăng trưởng.

Giải thích: Các hạnh hậu sở đắc, nghĩa là các hạnh Bồ-tát trong trí vô phân biệt hậu sở đắc. Các hạnh này đều lấy trí làm sở y. Làm tiến thú tắng trưởng, nghĩa là làm tăng trưởng các hạnh Bồ-tát. Đây nói nhiệm trì là phải có chỗ dụng. Vì không điên đảo nên có thể duy trì các hạnh. Không có trí phân biệt thì ai làm trợ bạn, nếu chỉ có một sẽ không có khả năng, Luận nói:

Trợ bạn các Bồ-tát,

Nói có 2 thứ đạo,

Là trí vô phân biệt,

Năm tính đến bờ kia.

Giải thích: Hai thứ đạo là: một, tư lương đạo, hai, y chỉ đạo. Lấy 5 đến bờ kia làm tự tính. Trong đây 4 Ba-la-mật-đa trước là tư lương đạo.Tĩnh lự thứ 5 Ba-la-mật-đa là y chỉ đạo. Nếu ở trong định tâm thì 4 thứ Ba-la-mật-đa nói ở trước là các trợ thiện khiến sinh trưởng trí vô phân biệt. Trí này gọi là tuệ Ba-la-mật-đa. Cho đến từ chưa được Phật quả đến nay trí vô phân biệt cảm quả dị thục ở đâu?

Luận nói:

Dị thục các Bồ-tát,

Ở trong 2 Phật hội,

Là trí vô phân biệt,

Do gia hành chứng đắc.

Giải thích: Trong 2 Phật hội, là 2 thân tức biến hóa thân và thụ dụng thân của chư Phật trong các hội. Do gia hành chứng đắc, là hiển ghị nghĩa năng cảm quả dị thục. Đây không phải nhân dị thục vì có thể đối trị kia, tức quả tăng thượng giả danh là dị thục. Do sự huân tập này các nghiệp hữu lậu khiến cảm dị thục nên lập tên này. Nếu khi tu gia hành vô phán biệt sinh trong chúng hội chư Phật hiện biến hóa thân, nếu khi ấy chứng đắc trí vô phân biệt thì liền sinh trong chúng hội chư Phật hiện thụ dụng thân. Trí vô phân biệt ai là đẳng lưu?

Luận nói:

Đẳng lưu các Bồ-tát,

Trong các đời về sau,

Là trí vô phân biệt,

Tự thể thắng hơn lên.

Giải thích: Trí vô phân biệt trong các đời trước lần lượt tăng thắng trong các đời sau là quả đẳng lưu. Trí vô phân biệt xuất ly như thế nào?

Luận nói:

Xuất ly của Bồ-tát,

Được thành tựu tương ưng,

Là trí vô phân biệt,

Nên biết trong 10 địa.

Giải thích: Khi kiến đạo nhập sơ cực hỷ địa thấy lý vô phân biệt của tất cả các địa. Ban đầu được xuất ly, sau trong tu đạo mới được thành tựu trong các địa tương ưng với trí vô phân biệt. Ai là cứu cánh?

Luận nói:

Chư Bồ-tát cứu cánh,

Được thanh tịnh 3 thân,

Là trí vô phân biệt,

Được tự tại cao tột.

Giải thích: Thanh tịnh ba thân, nghĩa là tfrong sơ địa tuy được ba thân mà chưa thanh tịnh, đến địa thứ 10 mới được thanh tịnh, mới gọi là cứu cánh. Cho nên nói bấy giờ được ba thân thanh tịnh. Được tự tại cao tột, nghĩa là lúc bấy giờ trí vô phân biệt không phải chỉ được ba thân thanh tịnh mà còn được 10 thứ tự tại cao tột. Cho nen nói là trí vô phân biệt cứu cánh. Như cái gì, từ cái gì, do cái gì không nhiễm?

Luận nói:

Như hư không không nhiễm,

Là trí vô phân biệt,

Các ác nghiệp cực nặng,

Chỉ nhờ tin và hiểu.

Giải thích: Ban đầu nói không nhiễm như cái gì, đáp không nhiễm như hư không. Tiếp hỏi từ cái gì được không nhiễm, đáp từ các thứ ác cực nặng. Sau hỏi do cái gì được không nhiểm, đáp chỉ do tin và hiểu. Nghĩa là chỉ do tin, do tuệ hiểu làm nhân, nên được không nhiễm.

Luận nói:

Như hư không không nhiễm,

Là trí vô phân biệt,

Giải thoát tất cả chướng,

Được thành tựu tương ưng.

Giải thích: Giải thoát tất cả chướng, là giải thoát phiền não chướng và sở tri chướng. Được thành tựu tương ưng, nghĩa là ở sơ địa được tương ưng, đến Phật địa thì sự tương ưng thành tựu.

Luận nói:

Như hư không không nhiễm,

Là trí vô phân biệt,

Thường ở trong thế gian,

Không bị thế gian nhiễm.

Giải thích: Thường hành trong thế gian không bị pháp thế gian nhiễm, là đây hiển thị sinh khắp trong các loài sinh, ở trong 8 pháp thế gian như lợi v…mà không nhiễm, như hoa sen đò xuất hiện trong thế gian. Như vậy 3 tụng hiển thị 3 trí được thắng lợi. Gia hành căn bản và hậu đắc, 3 thứ trí vô phân biệt có những khác biệt gì?

Luận nói:

Như người câm muốn biết,

Đúng như người câm biết,

Như người không câm biết,

Ba trí ví như vây.

Như người ngu muốn biết,

Đúng như người ngu biết,

Như người không ngu biết,

Ba trí ví như vậy.

Như 5 thức muốn biết,

Đúng như 5 thức biết,

Và như Mạt-na biết,

Ba trí ví như vậy.

Như người chưa hiểu luận,

Muốn hiểu được nghĩa luận,

Lần lượt ví 3 trí,

Như gia hành vân vân.

Giải thích: Để làm rõ hành tướng sai biệt của 3 trí nên nói thí dụ này. Như người câm muốn biết, nghĩa là như người câm muốn cầu thụ cảnh giới mà chưa chưa thụ được cũng không thể nói ra. Cũng như vậy, trí gia hành vô phân biệt cầu chứng chân như mà chưa thể chứng được. Phải biết như tuyệt không nói năng. Đúng như người câm biết, ví như người câm chính khi thụ cảnh giới không ngôn thuyết. trí căn bản vô phân biệt cũng vậy. Phải biết chính chứng chân như là lìa tất cả hý luận. Như người không câm biết, nghĩa là như người không câm thụ các cảnh giới cũng khởi ngôn thuyết. Cúng như vậy đó là trí hậu đắc vô phân biệt. Phải biết, phản chiếu chân như hiện chứng cảnh giới có thể khởi ngôn giáo cũng như vậy. Do đạo lý này giải thích bài tụng về người ngu. Như 5 cầu muốn biết, nghĩa là ví như 5 thức muốn cầu thụ cảnh giới. Tuy có sở cầu mà không phân biệt. Phải biết trí gia hành vô phân biệt cũng như vậy. Đúng như 5 biết, nghĩa là chính khi 5 thức thụ cảnh giới lìa các phân biệt. Phải biết trí căn bản vô phân biệt cũng như vậy. Như Mạt-na biết, là ví như ý thức có thể thụ cảnh giới cũng có thể phân biệt. Phải biết trí hậu đắc vô phân biệt cũng như vậy. Như người chưa hiểu luận, muốn hiểu được nghĩa luận, nghĩa là như chưa hiểu luận muốn hiểu nghĩa luận mà chưa thể hiểu. Phải biết trí gia hành vô phân biệt cũng như vậy. Như ôn tập lãnh thụ luận văn, phải biết trí căn bản vô phân biệt cũng như vậy. như đã nghe, tập thông suốt pháp nghĩa, phải biết trí hậu đắc vô phân biệt cũng như vậy. Do các thí dụ như vậy lần lượt ví dụ cho gia hành v.v… sự sai biệt của 3 trí. Tiếp đến thí dụ hiển thị sự sai biệt của 2 trí căn bản và hậu đắc.

Luận nói:

Như lúc người nhắm mắt,

Là trí vô phân biệt,

Lúc người ấy mở mắt,

Là trí của hậu đắc.

Phải biết như hư không,

Là trí vô phân biệt,

Trong đó hiện sắc tượng,

Trí hậu đắc cũng vậy.

Giải thích: Do 2 tụng này hiển thị sự sai biệt của căn bản và hậu đắc. Nhắm mắt mở mắt, hư không sắc tượng đều hiển thị 2 trí là không phân biệt, là có phân biệt, là bình đẳng, là bất bình đẳng. Về trí gia hành chưa có sở chứng nên lược không nói. Lại nữa trí gia hành là nhân của bản trí. Về trí hậu đắc là quả của bản trí, vì vậy nên nói trí vô phân biệt thành sở tác sự. Trí vô phân biệt tu thành Phật quả đã không phân biệt làm sao có thể làm lợi hữu tình?

Luận nói:

Như Mạt-ni, nhạc trời,

Vô tư mà thành sự,

Rất nhiều Phật sự thành,

Cũng thường từ vô tư.

Giải thích: Nay trong tụng này dẫn ngọc Ma-ni và nhạc trời 2 dụ thành lập sở đắc của trí vô phân biệt. Tuy vô phân biệt, không làm dụng công mà thành các việc như ngọc Như ý và nhạc trời. Tuy không có ý niệm ta phải phóng quang, ta phải phát âm thanh, hoàn toàn không có ý nghĩ nhưng do sinh hữu tình kia , thế lực ý lạc phúc nghiệp không đợi phải tấu lên hay phóng các thứ ánh sang mà phát ra các thứ âm thanh. Phải biết trí vô phân biệt của chư Phật Bồ-tát cũng vậy. Tuy lìa phân biệt không làm công dụng mà có thể tùyný lạc phúc lực hóa độ hữu tình ấy hiện làm các việc lợi lạc. Tiếp sẽ hiển thị trí vô phân biệt rất sâu. Cảnh giới của trí vô phân biệt như thế nào? Là duyên phân biệt tính y tha khởi. Là duyên tự thể các cảnh cũng vậy.

Là trí phi trí. Nếu vậy có lỗi gì? Nếu duyên phân biệt tính y tha khởi thì làm sao thành trí vô phân biệt được? Nếu duyên các cảnh khác, các cảnh khác chắc chắn là không, làm sao duyên? Nếu là trí thì trí ấy phải có sở tri. Nếu là phi trí thì làm sao gọi là trí vô phân biệt được? Để lìa tất cả các lỗi ấy cho nên nói tụng như sau.

Luận nói:

Chẳng đây chẳng đâu khác,

Chẳng phải trí mà trí,

Với cảnh nào có khác,

Trí thành vô phân biệt.

Giải thích: Trí vô phân biệt không duyên tính phân biệt y tha khởi vì nó vô phân biệt. Chẳng phải duyên phân biệt thành vô phân biệt, cũng không duyên những gì khác để làm cảnh giới vì duyên ngay phân biệt pháp tính này làm cảnh giới. Pháp cùng pháp tính đều không thể nói là một hay khác. Cho nên trí này không không thể nói nhất định là duyên cảnh phân biệt hay phi phân biệt. Tự thể cũng vậy, không thể nói quyết định là trí. Như trí gia hành và trí hậu đắc vì không phân biệt nên cũng không thể nói quyết định là phi trí. Bởi trí gia hành là nhân trước. Với cảnh không có trí khác thành vô phân biệt, nghĩa là không thể phân biệt đây là năng tri đây là sở tri, vì không có phân biệt năng thủ sở thủ. Trí này cùng với cảnh tương không sai biệt, ví như hư không với ánh sang trong hư không. Vì vậy trí này thành vô phân biệt. Trong các khế kinh khác nói tính của tất cả pháp là vô phân biệt. Nay sẽ giải thích.

Luận nói:

Phải biết tất cả pháp,

Bản tính vô phân biệt,

Vì sở phân biệt không,

Trí vô phân biệt không.

Giải thích: Vì sở phân biệt không, nghĩa là vì hằng không có nghĩa biến kế sở chấp nên trong các khế kinh khác nói tính của tất cả pháp là vô phân biệt. Nếu tự tính bản lai của tất cả pháp là vô phân biệt thì sao tất cả loài hữu tình từ xưa đến nay không dụng công không tự nhiên giải thoát? Vì chúng không có trí vô phân biệt. Do chúng hữu tình kia đối với tính vô phân biệt của tất cả pháp chưa sinh hiện chứng chân trí bản lai. Các Bồ-tát v.v… đối với tính vô phân biệt của tất cả pháp, chủng tính là nhân, chứng trí đã sinh. Do đạo lý này các Bồ-tát v.v… có thể được giải thoát không phải như các hữu tình khác. Tiếp đến sẽ hiển thị trí gia hành v.v…, mỗi mỗi đều có 3 thứ 5 thứ khác nhau.

Luận nói: Ở đây gia hành của trí vô phân biệt có 3 thứ là nhân duyên, dẫn phát và thường tập, nên sinh sai biệt.

Giải thích: Trí gia hành này sinh khởi sai biệt do 3 thứ sức: Một là sức nhân duyên.Hai là sức dẫn phát. Ba là sức thường tập. Sức nhân duyên là sức chủng tính. Hoặc có chủng tính gặp duyên mạnh mau khởi gia hành. Như vậy chủng tính gia hành là nhân mà được sinh khởi. Nói chủng tính , là 6 chỗ thù thắng từ vô thủy đến nay có thể được công năng pháp nhĩ của Phật quả . Sức dẫn phát, nghĩa là trong đời trước những gì đã tập, làm nhân phát khởi gia hành. Sức thường tập, nghĩa là đời hiện tại thường tu tập, do sức sĩ dụng phát khởi gia hành.

Luận nói: Căn bản của trí vô phân biệt cũng có 3 thứ là mừng đủ, không điên đảo và không hý luận, nên vô phân biệt sai biệt.

Giải thích: Mừng đủ vô phân biệt, nghĩa là ở nghĩa thấp kém mà sinh vui mừng cho là đủ, không mong cẩu thắng tiến, gọi là vô phân biệt, như được 2 trí văn, tư của thế gian, đối với một ít nghĩa lý hoặc đã tin hiểu hoặc đã quyết định liền sinh vui mưng cho là đủ. Hoặc như đã được tu tuệ thế gian chứng đệ nhất hữu, dứt thô trọng phiền não, trong đó chấp cho là cứu cánh giải thoát liền sinh mừng đủ. Những loại như vậy đều gọi là trí hỷ túc vô phân biệt. Vô điên đảo vô phân biệt, nghĩa là Thánh đệ tử v.v… chúng do tu tuệ đối với khổ đế v.v… khởi vô thường v.v… 4 vô đảo hạnh, không khởi thường v.v… điên đảo phân biệt, gọi là trí vô điên đảo vô phân biệt. Vô hý luận vô phân biệt, nghĩa là các Bồ-tát đối với vo thường v.v… cũng không phân biệt, cho đến Bồ-đề cũng lìa hý luận. Do lý tất cả pháp là vô phân biệt mà ra khỏi tất cả đường danh tự ngôn thuyết, siêu độ cảnh nhất thiết thế trí. Do hý luận gọi là thế tục thanh, gồm thế tục trí. Vì xa lìa đây nên gọi là trí vô hý luận vô phân biệt.

Luận nói: Hậu đắc của trí vô phân biệt có 5 thứ là thông đạt, tùy niệm, an lập, hòa hợp, như ý, vì tư duy lựa chọn mà sai biệt.

Giải thích: Trí hậu đắc này tác sự sai biệt có 5 thứ là thong đạt v.v… Thanh của tư trạch mỗi mỗi đều có. Thông đạt tư trạch, nghĩa là trong chân quyết định trong chân hiện quán nên gọi là thông đạt. Do trí hậu đắc tư trạch như vậy được thông đạt. Nghĩa là ngay trong tự nội thẩm sát việc này như vậy, cho nên gọi là thông đạt tư trạch.. Tùy niệm tư trạch, nghĩa là vào lúc sau tùy niệm thông đạt, nghĩ rằng ta từng thông suốt việc này, cho nên gọi là tùy niệm tư trạch. An lập tư trạch, nghĩa là từ đây ra, như chỗ thông đạt vì người khác nói rõ, cho nên gọi là an lập tư trạch. Hòa hợp tư trạch, nghĩa là tổng tướng quán duyên tất cả pháp. Do quán này nên tiến thú chuyển y, hoặc chuyển y rồi trở lại khởi quán này, cho nên gọi là hòa hợp tư trạch. Như ý tư trạch, nghĩa là trí hiện tiền tùy chỗ tư duy, tất cả như ý. Như khiến đất v.v… biến thành vàng v.v…, cho nên gọi là như ý tư trạch. Cái thanh tư trạch này, ý nói là trí, vì trước nói tất cả pháp bản tính là vô phân biệt vì sở phân biệt là không. Làm sao biết được nghĩa của sở phân biệt là thật vô sở hữu? Vì muốn thành lập cái vô sở hữu của chúng nên nói nhiều bài tụng.

Luận nói:

Quỷ, bàng sinh, người, trời,

Mỗi loại tùy thích ứng,

Đồng cảnh do tâm khác,

Nên nghĩa không chân thật.

Cảnh quá khứ, vị lai,

Chiêm bao, hai ảnh tượng,

Tuy sở duyên chẳng thật,

Mà cảnh tướng hiện tiền.

Nếu nghĩa thành nghĩa tính,

Không trí vô phân biệt.

Trí này nếu không có,

Chứng Phật quả vô lý.

Bồ-tát được tự tại,

Là do sức thắng giải.

Như muốn được thứ gì,

Được định thì được cả.

Người thành tựu giản trạch,

Có trí mà được định.

Tư duy tất cả pháp,

Như nghĩa đều hiển hiện.

Trí vô phân biệt hiện,

Các nghĩa đều không hiện.

Nên biết không có nghĩa,

Thì thức cũng là không.

Giải thích: Quỷ, bàng sinh, người, trời v.v…, nghĩa là đối với người v.v…thấy chỗ có nước, ngạ quỷ thấy đó là lục địa, cao nguyên, đối với người thấy chỗ có phân nhơ, bàng sinh thấy là thức ăn uống ngon sạch, đối với người thấy vật không sạch thì ngạ quỷ súc sinh thấy là sạch, đối với người thấy là thức ăn uống ngon sạch thì chư thiên thấy là hôi hám bất tịnh. Những việc trái nhau như vậy không phải có cùng một chỗ cho nên biết rằng nghĩ của biến kế sở chấp là không. Nếu không có nghĩa thì làm sao không cảnh mà thức hiện hành được? Vì cớ gì hỏi như vậy? Ông là kinh bộ sư, cảnh giới quá khứ vị lai là phi hữu, làm sao trong đó có trí chuyển được? Lại nữa ở trong chiêm bao, cảnh tượng chiêm bao thật sự là không, làm sao trí khởi, chẳng phải ngủ yên một chỗ trong căn nhà nguy hiểm mà có được trí chiêm bao duyên cảnh tượng thật của núi sông v.v…Lại nữa chưa từng trải qua cảnh mình bị chặt đầu làm sao chiêm bao thấy, chẳng phải không nhớ được việc đời trước? Lại ở trong gương v.v…, trong Tam-ma-địa, sở hành hai ảnh tượng chẳng phải chân thật có, làm sao hiểu rõ là tâm hiển hiện. Cho nên biết ành tượng của cái tâm tự duyên mà cảnh tướng thành tựu. Đó là tổng kết các cảnh quá khứ vị lai v.v… tuy chẳng phải thật có mà cảnh tướng thành tựu nơi tự tâm. Nếu nghĩa thành nghĩa tính, không trí vô phân biệt, nghĩa là nếu nghĩa tính của nghĩa các cảnh là thành thật thì trí vô phân biệt phải không thành vì có phân biệt. Còn nếu đây không có thì việc chứng đắc Phật quả là vô lý, nghĩa là nếu cái thể của trí vô phân biệt là không có thì chứng đắc Phật quả là không đúng đạo lý. Thế thì có lỗi. Vì vậy phải biết rằng nghĩa của sở phân biệt chắc chắn chẳng phải thành thật. Lại nữa nghĩa của cảnh này chắc chắn chẳng phải thật có. Bởi vì sao? Bồ-tát được tự tại, nghĩa là các Bồ-tát được đại tự tại. Do sức thắng giải, nghĩa là do sức ý giải. Như muốn được thứ gì, nghĩa là như biến đất thành vàng v.v…Người được định cũng vậy, nghĩa là trừ Bồ-tát, các Thanh Văn v.v…là người được tĩnh lự. Người thành tựu giản trạch, nghĩa là người có tuệ thành mãn. Nói người có trí, nghĩa là tương ưng với thành mãn chính trí. Cho nên gọi Bồ-tát là người có trí. Người được định, nghĩa là được Tam-ma-địa. Tư duy tất cả pháp, nghĩa là chính tư duy các pháp trong tất cả khế kinh. Như nghĩa đều hiển hiện, nghĩa là các hạnh vô ngã v.v…như như tư duy các pháp trong khế kinh. Nghĩa như thị như thị hiển hiện.

Cho nên phải biết rằng đây là tâm tác ý đúng lý. Tương tự tướng sở thủ năng thủ hiện, tất cả ngoại nghĩa đều không có. Trí vô phân biệt hành các nghĩa đều không hiện, tức trong đây tiếp tục chấp nhận các nghĩa trước nói là chẳng phải chân thật. Bởi khi trí vô phân biệt của các Bồ-tác khởi hiện hành, nghĩa của tất cả cảnh đều không hiển hiện. Cho nên phải biết rằng có bao nhiêu nghĩa của cảnh đều chẳng phải thật có. Nên biết không có nghĩa, do đây không, nên thức cũng không, tức kết lại khuyên phải biết không có nghĩa của cảnh. Do đây năng thức cũng là vô sở hữu. Chẳng phải không sở thức mới có năng thức là đúng đạo lý. Trước trong phần giải thích rộng tướng sở tri đã biện chiết lý lẽ như vậy.

Luận nói: Bát-nhã Ba-la-mật-đa với trí vô phân biệt không sai khác gì nhau. Như nói: Bồ-tát an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nơi phi xứ tương ưng, có thể tu tập viên mãn các Ba-la-mật-đa khác. Thế nào là phi xứ tương ưng mà tu tập viên mãn?

Nghĩa là do xa lìa 5 chỗ: Một là xa lìa chỗ chấp ngã của ngoại đạo. Hai là xa lìa chỗ phân biệt của Bồ-tát chưa thấy chân như. Ba là xa lìa 2 cực đoan của sinh tử Niết-bàn. Bốn là xa lìa chỗ sinh tâm vui mừng cho rằng chỉ đoạn trừ chướng phiền não là đủ. Năm là xa lìa chỗ cảnh giới vô dư y Niết-bàn, an trụ ở đó mà không đoái tưởng lợi ích chúng sinh.

Giải thích: Bát-nhã Ba-la-mật-đa với trí vô phân biệt không có sai khác, nghĩa là vì tính tướng bình đẳng. Nghĩa là các sở hữu trí vô phân biệt tức là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Trong kinh ấy nói như vậy. Bồ-tát an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phi xứ tương ưng thì có thể ở trong các Ba-la-mật-đa khác tu tập viên mãn. Nghĩa này là thế nào? Nghĩa là do xa lìa 5 xứ, tức là xa lìa 5 chỗ sai biệt như ngoại đạo ngã chấp v.v…Trong đây có thể ở nên gọi là xứ. Xa lìa chỗ ngoại đạo, ngã chấp, nghĩa là các ngoại đạo an trụ ngã chấp, nghĩ rằng ta có thể hiểu rõ, đây là trí tuệ của ta. Bồ-tát xa lìa các xứ sở như vậy, không chấp ngã và ngã sở mà khởi Ba-nhã. Bồ-tát xa lìa những xứ sở như vậy, cho nên gọi là phi xứ tương ưng. Xa lìa chỗ phân biệt của Bồ-tát chưa thấy chân như, nghĩa là các chúng Bồ-tát chưa kiến chân, trí vô phân biệt khởi các phân biệt đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa rằng đây là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Bồ-tát xa lìa các xứ sở như vậy, cho nên gọi là phi xứ tương ưng. Như có bài tụng rằng:

Nếu có sở kiến,

Ông bị nó trói.

Nếu không sở kiến,

Liền được giải thoát.

Xa lìa chỗ sinh tử Niết-bàn nhị biên, nghĩa là như thế gian trụ bên sinh tử vì có ngã chấp. Như đệ tử Phật trụ bên Niết-bàn vì đoạn phiền não. Bồ-tát không như vậy, cho nên nói là xa lìa 2 bên phi xứ tương ưng. Xa lìa chỉ đoạn phiền não chướng sinh chỗ mừng đủ, nghĩa là Thanh Văn v.v… chấp sức tu tập đoạn phiền não chướng cho như vậy là đã làm xong tất cả những gì phải làm. Bồ-tát xa lìa chỗ như vậy vì nó có thể làm chướng ngại sự lợi ích an lạc hữu tình. Cho nên có bài tụng nói rằng:

Chẳng qua nơi ác thú,

Chướng ngạo Đại Bồ-đề.

Như trụ ở Thanh Văn,

Và trụ Độc Giác địa.

Bồ-tát xa lìa chỗ như vậy cho nên gọi là phi xứ tương ưng. Xa lìa không đoái tưởng lợi ích an lạc hữu tình, trụ trong cảnh giới vô dư y Niết-bàn, nghĩa là như Thanh Văn v.v…chẳng đoái tưởng lợi ích an lạc hữu tình, trụ trong cảnh giới vô dư y Niết-bàn như lửa đốt cháy củi, rốt ráo tịch diệt. Bồ-tát xa lìa chỗ như vậy vì đều đầy đủ Bát-nhã và đại bi, có thể chính an trụ vô trụ Niết-bàn. Do xả bỏ chỗ như vậy cho nên gọi là phi xứ tương ưng.

Luận nói: Trí Thanh Văn v.v… với trí Bồ-tát có gì khác nhau?

Do tương ưng 5 thứ mà biết có khác nhau. Một là khác vì không phân biệt. Nghĩa là vì không phân biệt các pháp 5 uẩn. Hai là không phải sai khác một phần nhỏ. Nghĩa là thông đạt chân như, nhập vào tất cả cảnh giới sở tri, khắp vì độ thoát hữu tình, đó chẳng phải là chuyện nhỏ. Ba là khác nhau vì vô trụ. Nghĩa là lấy vô trụ xứ Niếtbàn làm trụ xứ. Bốn là khác nhau về tính rốt ráo. Nghĩa là trong Niếtbàn vô dư y không đoạn diệt tận. Năm là khác nhau về vô thượng. Nghĩa là cái trí vô phân biệt của Đại thừa này không còn thừa giáo nào hơn. Ở đây có bài tụng như sau:

Các đại bi làm thể,

Do 5 tướng thắng trí,

Đầy thế, xuất thế gian,

Đây là cao xa nhất.

Giải thích: Trong đây hiển thị 5 tướng sai biệt giữa trí Thanh Văn v.v… và trí Bồ-tát. Vô phân biệt sai biệt, nghĩa là trí Thanh Văn v.v… đối 4 điên đảo gọi là vô phân biệt. Trí các Bồ-tát thì đối tất cả pháp cho đến Bồ-đề đều vô phân biệt. Về phi thiểu phần sai biệt lại có 3 thứ . Một là thông đạt chân như phi thiểu phần sai biệt, nghĩa là Thanh Văn v.v… khi nhập chân quán chỉ có thể thông đạt lý không vô ngã của Bổ-đặc-già-la. Các Bồ-tát khi nhập chân quán thì đầy đủ thông đạt lý không, vô ngã của Bổ-đặc-già-la và tất cả pháp. Hai là sở tri cảnh giới phi thiểu phần sai biệt, nghĩa là Thanh Văn v.v… chỉ sinh trí trong khổ đế v.v…liền gọi là đã làm xong việc tu tập. Còn các Bồ-tát thì sinh trí không điên đảo đối với khắp tất cả cảnh giới sở tri mới gọi là làm xong việc tu tập. Ba là sở độ hữu tình phi thiểu phần sai biệt, nghĩa là Thanh Văn v.v…chỉ cầu tận trí vô sinh tự lợi mà siêng năng tu hành. Còn các Bồ-tát thì cầu Đại Bồ-đề là khắp vì tế độ tất cả hữu tình. Đối với 3 thứ này chẳng phải là sai biệt một phần nhỏ. Trí của Thanh Văn và Bồ-tát có sai biệt. Vô tfrụ sai biệt, nghĩa là Thanh Văn v.v…chỉ trụ Niết-bàn. Còn các Bồ-tát đầy đủ sức tăng thượng của từ bi trí tuệ nên lấy vô trụ Niết-bàn làm trụ xứ. Tất cảnh sai biệt, nghĩa là cho thấy rõ Thanh Văn v.v… với các Bồ-tát ở trong Niết-bàn có sự sai biệt lớn. Nghĩa là Thanh Văn v.v…trụ trong cảnh giới vô dư y Niết-bàn, thân trí vĩnh tận như ngọn đèn đã tắt. Còn các Bồ-tát khi được thành Phật, pháp thân đã chứng đến tận cùng sinh tử cũng không dứt hết, như cói vô sắc liên tục không hoại. Do đó trí sai biệt có khác nhau. Vô thượng sai biệt, nghĩa là trên Thanh Văn thừa có Độc Giác, trên Độc Giác thừa lại có Đại thừa. Còn Bồ-tát thừa tức là Phật thừa, không còn gì trên nữa. Do 5 tướng này, phải biết rằng trí của Thanh Văn và Bồ-tát có sai biệt. Lại dùng Già-đà gồm thâu nghĩa như vậy. Nói 5 tướng, tức như trước đã nói 5 tướng sai biệt. Đầy thế, xuất thế gian, nghĩa là tĩnh lự Vô sắc gọi là đầy khắp thế gian. Thanh Văn thừa v.v…sở đắc Niết-bàn gọi là đầy khắp xuất thế gian. Đây đều hơn kia nên nói là cao tột.

Luận nói: Nếu các Bồ-tát thành tựu Thi-la tăng thượng, Chí-đa tăng thượng, Bát-nhã tăng thượng thì công đức viên mãn, tiền của địa vị được đại tự tại, vì sao hiện thấy có những người thiếu thốn tiền của địa vị?

Vì thấy người ấy có nghiệp chướng nặng đối với tiền của địa vị. Vì thấy nếu cho người ấy tiền của địa vị, sẽ trở ngại cho sự phát sinh thiện pháp. Vì thấy người ấy nếu thiếu thốn của cải địa vị, sẽ chán bỏ hiện hữu. Vì thấy nếu cho người ấy tiền của địa vị, tức sẽ góp phần tạo nhân các pháp bất thiện. Vì thấy nếu cho người ấy tiền của địa vị, tức sẽ tạo nhân cho vô lượng chúng sinh bị tổn hại. Vì thế mà hiện thấy có người thiếu thốn tiền của địa vị. Ở đây có bài tụng như sau:

Thấy nghiệp chướng hiện tiền,

Vì tích tập tổn hại,

Nên thấy có hữu tình,

Không cảm Bồ-tát thí.

Giải thích: Nay sẽ nói rõ do nhân duyên ấy Bồ-tát tuy có của cải địa vị tự tại mà không thí cho người. Vì thấy chúng hữu tình kia đối với của cải địa vị có nghiệp chướng nặng, nghĩa là các Bồ-tát thấy chúng hữu tình kia đối với của cải địa vị ấy có nghiệp chướng nặng nên không thí cho. Không để cho sự huệ thí thành không có quả. Dẫu có thí cho, chúng cũng không thể nhận thì thí làm gì. Như có tụng nói:

Như mẹ cho con bú,

Một tháng không mệt mỏi.

Họng đứa con nếu nghẹt,

Cho cũng không bú được.

Thấy chúng hữu tình kia nếu cho của cải địa vị sẽ phát sinh chướng ngại thiện pháp, nghĩa là các Bồ-tát thấy các hữu tình kia tuy đối với của cải địa vị không có nghiệp chướng nặng nhưng nếu chúng được của cải địa vị đầy đủ thì sẽ nhiều phóng túng không khởi thiện pháp. Suy nghĩ như vậy nên thà để chúng ở trong hiện pháp tạm thời nghèo thiếu, chớ để chúng đời sau chịu nhiều nghèo thiếu, cho nên không thí cho chúng có của cải địa vị. Vì thấy chúng hữu tình kia nếu thiếu của cải địa vị hiện tại, nghĩa là các Bồ-tát thấy chúng hữu tình kia nếu thiếu của cải địa vị sẽ sinh tâm chán bỏ sinh tử hiện tại mong muốn xuất ly, nếu được giàu sang ắt sinh kiêu căng phóng túng, cho nên không thí cho chúng của cải địa vị, nghĩ rằng thà chúng nghèo khổ mà sinh tâm chán sinh tử hiện tại, chớ để chúng giàu sang thụ hưởng khoái lạc phóng túng mà không chán sinh tử, không sinh thiện pháp. Vì thấy chúng hữu tình kia nếu thí cho chúng của cải địa vị ắt sẽ làm nhân cho chúng tích chứa pháp bất thiện, nghĩa là các Bồ-tát thấy chúng hữu tình kia nếu thí cho chúng của cải địa vị đầy đủ ắt sinh phóng túng tích chứa các ác và nghiệp bất thiện, nên không thí cho chúng có của cải địa vị, nên có tụng nói:

Thà nghèo thiếu của cải địa vị,

Xa lìa ác thú các ác hạnh.

Chớ để giàu sang loạn các căn,

Khiến cảm mai sau nhiều khổ quả.

Vì thấy chúng hữu tình kia nếu thí cho của cải địa vị ắt sẽ làm nhân tổn hại vô lượng hữu tình khác, nghĩa là các Bồ-tát thấy chúng hữu tình kia nếu được giàu sang ắt làm tổn hại vô số hữu tình nên không thí cho chúng của cải địa vị, suy nghĩ rằng thà chúng một thân chịu nghèo khổ, chớ khiến chúng làm tổn hại nhiều hữu tình khác. Lại dùng Già-tha tóm thâu nghĩa ấy nên ói thấy nghiệp chướng hiện tiền v.v… văn dễ hiểu không phải giải thích nữa.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10