NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Vô Tính Bồ-tát tạo luận
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 1

1 – Tổng nêu cương yếu

Kính lạy Đại giác chư Như Lai,

Vô thượng chính pháp các Thánh chúng.

Vì lợi mình người pháp trụ lâu,

Nên tôi giải thích Nhiếp Đại Thừa.

Luận nói: Trong Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma có nói các Bồ-tát khéo ngộ nhập Đại thừa, vì muốn làm rõ cái thể to lớn của Đại thừa, đối trước đức Bạc-già-phạm đã nói.

Giải thích: Muốn dùng 10 nghĩa bao gồm yếu nghĩa của Đại thừa, có thể hiển thị thể tính của luận này là Thánh giáo, nên lấy đây làm cửa ngõ để mở đầu. Các kinh Đại thừa A-tì-đạt-ma v.v…là nhân trạch pháp, là cùng liễu nghĩa, cho nên A-tì-đạt-ma tưởng có thể làm tiêu biểu. Kinh Đại thừa nói, loại trừ những chỗ khác, nếu giải thích sơ lược thì cũng là thừa, cũng là đại, nên gọi Đại thừa. Hoặc thừa tính đại, nên gọi là Đại thừa, vì nhân quả lớn, vì vận dụng đủ các nghiệp. Quả là 10 địa. Nếu giải thích rộng có 7 thứ tính đại cùng tương ưng. Nghĩa là Bồ-đề phần, Ba-la-mật-đa. Học trì tương đẳng, quán xuyến phùng nhiếp nên gọi là kinh. Trong đây tức là Tùy Đọa 8 thời, nghe là trực tiếp thẳng vào thức, không phải trực tiếp tiếng nói. Tụ tập hiển hiện lấy làm thể tính. Nếu vậy vì sao Bồ-tát có thể nói, không phải nghe là thức? Vì Bồ-tát có thể nói. Vì Bồ-tát là tăng thượng sinh, nên nói như vậy. Ví như trời v.v… là tăng thượng lực, nên khiến trong chiêm bao được luận chú v.v… Nếu tách rời thức làm sao Phật nói các khế kinh? Ngôn ngữ là tự tính hẳn không đúng. Bởi một chữ một chữ có thể làm rõ nghĩa nên không đúng. Lần lượt phát sinh chứ không trụ đồng thời. Không tụ tập cho nên như vậy không được là tự tính. Ngôn ngữ không có chuyển, nên không đúng lý. Lại chẳng phải không chữ chuyển, có ít tên năng thuyên, nên các khế kinh gọi là tự tính, cũng không đúng lý. Cho nên nhất định như đã nói kinh tự tính đúng lý. Ở đây có nói trong Kinh Đại Thừa A-tìđạt-ma, Bạc-già-phạm phá các ma. Có thể phá 4 thứ ma oán lớn nên gọi là Bạc-già-phạm. Bốn thứ ma là: một phiền não ma, hai uẩn ma, ba Thiên ma, bốn tử ma. Y vào không Tam-ma-địa có thể phá phiền não ma tất cả thô nặng, chuyển y tướng trụ vô lượng thiện căn tùy thuận chứng đắc. Hoặc lại y chỉ tuệ lực tinh tiến, có thể phá uẩn ma. Y vào từ đẳng trì, có thể phá Thiên ma. Y vào tu thần túc, có thể phá tử ma. Có thể phá 4 ma lớn như vậy nên gọi là Bạc-già-phạm. Lại tương ưng các công đức tự tại v.v… nên gọi Phật là Bạc-già-phạm. Sở dĩ vì sao? Vì phải nói rõ là Phật Thế Tôn, cho nên nói ở trước Phật là để nói rõ Phật chấp nhận cho phép được lưu thông rộng rãi. Đích thân đối trước vị Đại sư không nói lời gì khác như Kinh Thập Địa. Đã có thể khéo ngộ nhập Đại thừa, là hoặc y đức tích, hoặc cùng biết rõ. Nghĩa là chúng Bồ-tát kia đã có thể khéo ngộ nhập Đại thừa, hoặc ngay khi ấy đã ngộ nhập. Cho nên gọi là đã khéo ngộ nhập Đại thừa tức nói các vị đã được các công đức biện tài Đà-la-ni, đối với nghĩa Đại thừa có khả năng hành trì và mở rộng. Vì vậy dựa vào nghĩa này mà nói tên như thế. Nói Bồ-tát, tức Bồ-đề-tát-đỏa, là cảnh sở duyên nên gọi Bồ-tát. Y lời thệ nguyện rộng lớn mà lập tiếng Bồ-tát. Cũng thấy các nơi khác dùng cảnh sở duyên mà gọi tên ấy. Như bất tịnh v.v… là cảnh sở duyên. Hai Tam-ma-địa gọi là bất tịnh, gọi là không, hoặc tức nơi tâm kia, vì cầu Bồ-đề mà có ý chí có năng lực nên gọi Bồ-tát. Để làm rõ cái thể to lớn của Đại thừa, nghĩa là rất sâu, cao rộng vô thượng nên đại. Thể thanh, tức nói tác dụng của tự tính. Như Thế Tôn nói lửa ấm là thể, độc hại là thể. Cái thể này to lớn nên nói thể đại. Hiển, là khai thị người chưa rõ. Văn dùng chữ “vi”, nghĩa như chữ “dục”.

Luận nói: Căn cứ vào Đại thừa, chư Phật Thế Tôn có 10 tướng ngôn ngữ thù thắng. Một là sở tri y thù thắng. Hai là tướng sở tri thù thắng. Ba là nhập tướng sở tri thù thắng. Bốn là nhập nhân quả thù thắng. Năm là tu tập sai biệt các nhân quả thù thắng. Sáu là giới tăng thượng thù thắng trong sự tu tập sai biệt. Bảy là tâm tăng thượng thù thắng. Tám là tuệ tăng thượng thù thắng. Chín là quả đoạn thù thắng. Mười là quả trí thù thắng. Do các câu được chư Phật Thế Tôn nói trong các khế kinh, rõ ràng Đại thừa chính là do Phật nói.

Giải thích: Nói âm thanh, tức lược nêu 10 nghĩa của thắng xứ đã nói. Căn cứ vào Đại thừa, nghĩa là những điều nói ra đây không phải Thanh Văn thừa, cũng không phải thế gian. Lại nêu Đại thừa làm nghĩa quyết định. Làm rõ chỗ sở y, tức là đây chứ không nơi nào khác. Bởi y vào thế gian thì vì do các tướng nên khác lời Phật nói. Như có tụng nói rằng:

Lời thật mà không giận.

Thí ít không mong cầu.

Như vậy, nếu y vào Thanh Văn thì vì do các tướng nên khác Đại thừa. Như có tụng nói rằng:

Các hành vô thường,

Là pháp sinh diệt.

Như vậy cho nên lại nêu sự đúng lý của Đại thừa. Có 10 v.v…, là dùng số hiển thị số Phật ngữ thù thắng an lập luận thể. Tướng là chủng loại. Tức đây lần lượt sai khác mà không xen lộn nên gọi thù thắng. Hoặc lại trông mong âm thanh kia mà nghe được các pháp huyền viễn nên tăng thượng, gọi là thù thắng vì có thể dẫn phát Đại Bồ-đề. Cho nên 10 tướng này là thù thắng. Ngôn ngữ kia là thù thắng, cho nên nói có 10 tướng thù thắng của ngôn ngữ thù thắng. Phật Thế Tôn là, nhiễm ô không nhiễm ô si mê thụy miên cả hai đều hết nên trí khai phát tất cả nghĩa sở tri, gọi là Phật. Như sĩ phu thức, như hoa sen nở. Những gì nói ra đều khai phát nghĩa tỉnh thức v.v…

Luận nói: Lại nữa, thế nào là rõ ràng? Là vì 10 tướng thù thắng nói trên không hề thấy nói trong Thanh Văn thừa, chỉ trong Đại thừa mới có nhiều chỗ nói đến. Nghĩa là thức A-lại-da là nói cái thể của sở tri căn cứ. Ba thứ tự tính: một y tha khởi tự tính, hai biến kế sở chấp tự tính, ba viên thành thật tự tính là nói cái thể của tướng sở tri. Tính duy thức là nói về sự ngộ nhập cái thể của tướng sở tri. Sáu Ba-lamật-đa là nói cái thể của sự ngộ nhập nhân quả. Mười địa của Bồ-tát là nói cái thể của sự tu tập các nhân quả sai biệt. Luật nghi Bồ-tát là nói cái thể của giới tăng thượng. Thủ-lăng-già-ma, Hư không tạng v.v…các Tam-ma-địa là nói cái thể của tâm tăng thượng. Trí vô phân biệt là nói cái thể của tuệ tăng thượng. Vô trụ Niết-bàn là nói cái thể của quả đoạn. Ba thứ Phật thân: một tự tính thân, hai thụ dụng thân, ba biến hóa thân, là nói cái thể của quả trí. Do 10 sự thù thắng nói trên, rõ ràng Đại thừa khác với Thanh Văn thừa. Lại còn rõ ràng rằng sự thù thắng đó Thế Tôn chỉ nói rõ cho Bồ-tát. Cho nên phải biết rằng chỉ y cứ vào Đại thừa chư Phật Thế Tôn mới có ngôn ngữ thù thắng của 10 tướng thù thắng.

Giải thích: Có thể biết, nên gọi sở tri. Y nghĩa là sở y. Âm thanh sở y này, lược lấy năng y. Các pháp hữu vi tạp nhiễm thanh tịnh, không lấy vô vi, vì nó không có nghĩa sở y. Cho nên sở y tức là thức A-lại-da. Vì là nhân nên có tính năng dẫn tùy chỗ thích ứng. Nếu vậy sở tri tức sở tri y. Bởi thức dị thục là tính sở tri nên không mâu thuẫn. Sở tri y này tức là thù thắng. Cái này thù thắng nên ngôn ngữ cũng thù thắng. Tức trước có nói chư Phật Thế Tôn nói tùy chuyển tất cả mọi nơi. Tướng sở tri là tự tính sở tri, là sở tướng cho nên y nghiệp vận nói phần nhiều đặt nơi Lỗ-đồ sở tri, sở đoạn, sở chứng v.v… hoặc y cụ vận bằng biến kế sở chấp. Tướng vô sở tướng biểu hiệu vô tính. Tính viên thành thật là tướng chung. Tính y tha khởi là tự tướng. Ngã hữu tình nghĩa thức lần lượt thành khác nên địa giới v.v… lấy sự cứng chắc v.v… làm tướng năng biểu. Tuy không có tính khác mà nói là tướng. Cũng như nói tướng Đại sĩ phu, các sư thuộc Kinh bộ v.v… Sinh v.v… các tướng, do nhân duyên này, hoặc sở tri tức tướng, hoặc tướng của sở tri nên gọi là tướng sở tri. Nói vô dị tính, dị vô dị tính, nên tùy chỗ thích ứng đây cũng vậy. Ngộ nhập tướng sở tri, nghĩa là đây có thể ngộ nhập tướng cần phải biết, hoặc là khả năng ngộ nhập tướng sở tri. Nhập nghĩa là hiện quán nhập tướng sở tri, tức tính duy thức. Đây tức là thù thắng. Vì cái này thù thắng nên ngôn ngữ cũng thù thắng. Ngộ nhập nhân quả, nghĩa là tính duy thức. Nói kia nhập thắng giải hành địa khi tu gia hành, thế gian chưa thanh tịnh Ba-la-mật-đa gọi là nhập nhân. Khi đã chứng nhập tức xuất thế gian Ba-la-mật-đa. Vì gồm thâu ý lạc tăng thượng thanh tịnh nên gọi là nhập quả. Ngộ nhập nhân quả tức là thù thắng. Cái này thù thắng nên ngôn ngữ cũng thù thắng. Nhân quả tu sai biệt, nghĩa là nhân quả của tính duy thức. Tập nhiều lần cái này nên gọin là tu. Từng phần từng phần không đồng nên gọi là sai biệt. Nhập nhân quả tu sai biệt tính, tức là 10 địa. Đây tức là thù thắng. Vì cái này thù thắng nên ngôn ngữ cũng thù thắng. Tức trong tu sai biệt Bala-mật-đa ở các địa, để giữ lấy sau lại tu học nên đây là y chỉ. An lập 3 học: Một, tăng thượng giới học, nghĩa là y chỉ giới siêng năng tu học, gọi là tăng thượng giới học. Tức luật nghi Bồ-tát trong các địa xa lìa các ác, lợi ích hữu tình, gồm thâu tất cả thiện, 3 thứ tịnh giới.

Thi-la đã thụ phòng hộ các nghiệp quá khứ thân sinh, trụ v.v… Như điều ngự là điều nhiếp cực thiện nên gọi là luật nghi. Như vậy tức y vào tăng thượng Thi-la tu học chính hạnh nên gọi là học. Giới tăng thượng này tức là thù thắng. Cái này thù thắng nên ngôn ngữ cũng thù thắng. Hai, tăng thượng tâm học, nghĩa là y chỉ tâm chính cần tu học, nên gọi là tăng thượng tâm học. Tính này là Hư không tạng v.v.. các Tam-ma-địa. Chữ “đẳng” là gồm các hiền hộ Tam-ma-địa vương. Lại trong tăng thượng tâm học nói:

Tức các Tam-ma-địa,

Đại sư nói là tâm.

Do tâm thể hiện nên,

Như sở tạo sự nghiệp.

Ba, tăng thượng tuệ học, nghĩa là y chỉ tuệ chính cần tu học nên gọi tăng thương tuệ học. Tính này tức là trí vô phân biệt đối trị tất cả hý luận phân biệt. Trong đây trí gia hành vô phân biệt căn bản y chỉ. Tức trí căn bản vô phân biệt hậu đắc y chỉ. Y chỉ như vậy không phải như sau nói. Như vậy 3 thứ học giới, định, tuệ là đạo thể tính. Quả kia có 2 thứ: một là đoạn, hai là trí. Cái này thù thắng nên ngôn ngữ cũng thù thắng. Quả đoạn kia, tức quả của các học kia gọi là quả kia. Quả kia tức là đoạn, gọi là quả đoạn kia. Tính này tức tức là khách chướng ly hệ, chân như giải thoát, vô trụ Niết-bàn. Thấy kia vắng lặng nên sinh tử tức Niết-bàn. Tức kia làm duyên mà không nhiễm trước. Chẳng phải vô dư y Bát-niết-bàn giới. Cho nên vô trụ đây tức thù thắng. Cái này thù thắng nên ngôn ngữ cũng thù thắng. Quả trí kia, tức quả của các học kia gọi là quả kia. Quả kia tức trí nên gọi quả trí kia. Tính này tức là 3 thứ Phật thân. Một là tự tính thân, tức trí vô cấu vô quái ngại, đó là nghĩa của pháp thân. Nay đây và kia trí vô phân biệt có gì sai khác? Như vậy 2 thứ có phân biệt gì đều không hiện hành. Cho nên kia có đối trị thì phải có sở tác. Đây là quả của kia, sở tác đã làm xong. Sai biệt là như vậy. Hai, thụ dụng thân, tức trí hậu đắc. Tức do sức thù thắng của trí này cùng các thù thắng của chúng Đại Bồ-tát cộng thụ pháp lạc vi diệu bất cộng. Hoàn thành sự thụ dụng như vậy nên gọi thụ dụng thân. Nếu không như vậy thì ngoài cái trí thanh tịnh Bồ-tát làm các tư lương khác đều không viên mãn. Ba, biến hóa thân, tức sai biệt của trí hậu đắc. Tức có thể biến hóa gọi là biến hóa thân. Hiển hiện của sức tăng thượng này tức trí sai biệt. Tức là do đây xô dẹp các luận khác. Cùng các Bồ-tát đồng thụ pháp lạc không tuyệt dứt. Các việc phải làm của chúng Bồ-tát mới hoàn thành sơ nghiệp, các Thanh Văn v.v… ví như nhãn thức nhận thức rõ các sắc, nếu kia không thì đây cũng phải không. Đây tức thù thắng. Cái này thù thắng nên ngôn ngữ cũng thù thắng. Do đây nói 10 xứ, nghĩa là đây và các nghĩa chung của Đại thừa. Xứ là sự nghĩa. Khác Thanh Văn thừa, là ở Thanh Văn thừa không nói. Lại nữa hiển thị tối thắng, là cứu cánh tuyên thuyết Phật quả đạo. Thế Tôn chỉ vì Bồ-tát tuyên thuyết, là trong đây nên nói Bồ-tát, chỉ tuyên thuyết vì Bồ-tát. Do Phật hiện thấy được Phật cho phép mà tuyên thuyết, nên nói là Thế Tôn nói, như Thập Địa v.v… Cho nên trước nói là trước đức Bạc-già-phạm.

Luận nói: Lại nữa vì sao từ 10 tướng thù thắng này Như Lai nói ngôn ngữ thù thắng, hiển thị nơi Đại thừa? Chính thật lời Phật nói là vì để ngăn chận ý tưởng cho rằng Thanh Văn thừa là tính của Đại thừa. Do 10 xứ này chưa hề thấy trong Thanh Văn thừa nói đến, mà chỉ thấy nói nhiều trong Đại thừa. Có nghĩa là 10 xứ này rất có năng lực dẫn khởi tính Đại Bồ-đề, thành lập sự tùy thuận rất tốt, không mâu thuẫn và có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Ở đây có hai bài tụng như sau:

Sở tri y và sở tri tướng,

Nhập nhân quả và tu nhân quả,

Tam học quả đoạn và quả trí,

Là tối thượng thừa nên thù thắng.

Thuyết này các nơi không thấy nói,

Đây là tối thắng nhân Bồ-đề,

Cho nên Đại thừa là Phật nói,

Tức nói về mười nghĩa thù thắng.

Giải thích: Lại nữa do những thứ này, nghĩa là do còn chưa tin hiểu nên lập câu hỏi này. Bởi vì sao? Chẳng phải trong Thanh Văn thừa, 6 cú nghĩa chưa từng thấy nói. Trong luận của các Phệ-thế-sư nhiều chỗ thấy nói. Tức khiến luận của Phệ-thế-sư v.v…đúng là Phật nói. Trước cho đáp câu vấn nạn nên sau nói chung. Nghĩa là 10 xứ này là có khả năng cao tột dẫn đến tính Đại Bồ-đề. Cái thù thắng của trí đoạn Đại Bồ-đề này lấy làm tự tướng. Như nói phiền não sở tri chướng đoạn. Do kia đoạn nên được trí vô cấu vô ngại. Bốn thứ như vậy gọi chung là Bồ-đề. Là khả năng cao tột dẫn đến, nghĩa là 10 xứ này là tính năng đắc, chẳng phải 6 cú nghĩa. Hoặc tối thắng v.v… cho nên luận kia không phải chính lời Phật nói. Là khéo thành lập, nghĩa là 10 xứ như vậy là chỗ Chính lượng tùy thuận cho nên phải quyết trạch rộng. Nói tùy thuận, là có thể đối hướng, là có thể thuận nghĩa. Nói không mâu thuẫn, là không có lỗi kia. Chẳng phải tà trí như 6 cú nghĩa v.v… Hoặc Thanh Văn thừa có lỗi nên mâu thuẫn Phật quả. Trong 2 tụng này, nghĩa là tụng đã nói và sẽ nói nghĩa. Đây nói các chỗ thấy khác không thấy, nghĩa là nói 10 xứ thù thắng ngữ này trong Đại thừa thấy nói nhiều chỗ, còn các Tiểu thừa khác không thấy nói.

Luận nói: Lại nữa vì sao 10 xứ được nói theo thứ tự như vậy? Nghĩa là các Bồ-tát trước phải rõ nhân duyên của các pháp mới rõ được lý duyên khởi. Tiếp đến đối với các pháp do duyên sinh phải nhận rõ tướng trạng của chúng, phải khéo xa lìa hai lỗi của sự thêm bớt. Tiếp đến, Bồ-tát khéo tu tập như vậy, phải thông suốt đúng đắn các tướng sở thủ, khiến tâm được giải thoát các chướng. Tiếp đến, thông suốt các tướng sở tri rồi, trước do chứng đắc 6 Ba-la-mật-đa ở gia hành vị, phải thành tựu đầy đủ tăng thượng ý lạc cho được thanh tịnh. Tiếp đến sau khi thanh tịnh ý lạc trong 6 Ba-la-mật-đa, cần phải từng phần từng phần tu tập sai biệt trong 10 địa. Nghĩa là phải trải qua ba vô số đại kiếp. Tiếp đến phải viên mãn ba sở học của Bồ-tát. Đã viên mãn rồi phải hiện chứng quả Niết-bàn và vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Cho nên 10 xứ đã được nói theo thứ tự như vậy. Lại trong đây nói tất cả Đại thừa đều được cứu cánh.

Giải thích: Để hướng đến Đại Bồ-đề nên lại khai thị lần lượt phương tiện và chỗ tu nhân. Nghĩa là các Bồ-tát trước hết phải khéo léo trong việc tu nhân rồi mới được khéo léo nơi duyên khởi, biết từ nhân này mà có quả kia. Lại biết quả kia phải từ nhân này. Cho nên chẳng phải lìa nhân này mà ngôn giáo có thể biết được nhân kia, tức là thức A-lại-da do nói thế nên bỏ vô nhân, bất bình đẳng nhân. Tiếp sau đối với các pháp duyên sinh phải hiểu rõ tướng, xa lìa bên tăng ích tổn giảm. Ở nơi không có vô nhân, cưỡng lập là có, nên gọi là tăng ích. Ở nơi có vô nhân cưỡng bác cho là không, nên gọi là tổn giảm. Như vậy tăng ích hay tổn giảm đều nói là một bên, là nghĩa sa đọa. Khi hai cái này chuyển thì mất hỏng trung đạo. Do khéo thường tập quán chân thật nên xa lìa thiện xảo nhị biên này, nơi biến kế sở chấp chỉ có tăng ích mà không tổn giảm, vì đều không có. Bởi phải ở nơi hữu mới khởi tổn giảm. Ở nơi y tha khởi không có tăng ích. Bởi là hữu thể. Phải ở nơi phi hữu mới có tăng ích. Cũng không tổn giảm vì chỉ vọng hữu. Ở nơi viên thành thật không có tăng ích. Vì là thật hữu cho nên chỉ có tổn giảm. Tức do đây hoặc lại ở đây khéo có thể xa lìa lỗi tăng ích tổn giảm hai bên, nghĩa là ở nơi tính y tha khởi, tính biến kế sở chấp thì tăng ích thật không, tính viên thành thật thì tổn giảm thật hữu. Lại như trong Kinh Đại Bát-nhã Ba-lamật-đa nói:

-Từ Thị ! Ý ông nghĩ sao, trong các biến kế sở chấp, cái tính chẳng phải thật hữu đó là sắc hay phi sắc? Thưa không Thế Tôn ! Trong các y tha khởi chỉ có tính của ngôn thuyết hữu tưởng thi thiết là sắc hay phi sắc? Thưa không Thế Tôn ! Trong các viên thành thật, cái tính không vô ngã kia là sắc hay phi sắc? Thưa không Thế Tôn !

-Từ Thị ! Do pháp môn này cho nên phải biết như vậy. Tính của các biến kế sở chấp quyết định phi hữu. Tính của các y tha khởi chỉ có danh tưởng thi thiết ngôn thuyết. Tính không vô ngã của các viên thành thật là chân thật hữu. Ta y nơi đây nên mật ý nói kia không có số hai. Nghĩa là sắc v.v… như vậy giải thoát lỗi nhị biên. Đối với 3 tự tính được thiện xảo rồi, do tính duy thức nên khéo thông đạt nhập tướng sở tri, tức là thông đạt tác chứng. Hoặc do đây nên có thể thuận thông đạt. Tiếp sau tức thuận tính duy thức thông đạt thể nhập chỗ tu 6 thứ Ba-la-mật-đa. Do thắng nghĩa nên lại phải chứng đắc thanh tịnh ý lạc, lại phải tiếp thụ dục và thắng giải gọi là ý lạc. Hai cái này bấy giờ tuy không tăng số nhưng vì gồm có chứng tịnh nên nói thanh tịnh. Tiếp sau tức kia ở trong 10 địa, do siêng tu ba học nên 3 vô số kiếp thường tu tập cho nên phải khiến viên mãn. Tiếp sau quả kia vĩnh viễn đoạn phiền não sở tri 2 chướng cùng vô cấu không có quái ngại, trí nhất thiết trí lại phải chứng đắc. Như vậy là đã làm phương tiện thứ lớp và sở tu nhân hiển là có thể thuận tính Đại Bồ-đề. Tức do hư vậy mà nói thứ lớp. Chỉ có 10 xứ là không tăng không giảm. Như vậy là đã giải thích chủ tùy 2 luận. Vì vậy cho nên phải biết Thanh Văn thừa đạo tức Phật thừa đạo là không đúng đạo lý. Nếu vậy thì quả ấy phải không sai biệt. Cho nên nói đậy bao gồm hết Đại thừa. Vậy không nói đến Đại thừa cương yếu nữa.

2 – 1. Sở tri y

Luận nói: Trong đây, trước tiên nói đến sở tri y, tức thức A-lại-da. Ở đâu Thế Tôn đã nói thức A-lại-da tên là thức A-lại-da?

Trong một bài Già-tha trong Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma, đức Bạc-già-phạm đã nói:

Nơi từ vô thủy nay,

Các pháp đồng y cứ.

Do đây có các nẻo

Và Niết-bàn chứng đắc.

Giải thích: Đây dẫn A-cấp-ma chứng minh thức A-lại-da là sở tri y. Nói thời vô thủy, là không có lúc bắt đầu. Chữ “giới” trong nguyên Hán văn, kệ dịch là nơi, thì giới đó tức là nhân, tức là chủng tử. Là nhân chủng tử gì? Nghĩa là tất cả pháp đây chỉ có tạp nhiễm, chẳng phải thanh tịnh, nên sau sẽ nói là chỗ sở y của đa văn huân tập, chẳng phải A-lại-da thâu giữ. Như thức A-lại-da thành chủng tử, như lý tác ý thâu giữ tự pháp tự nghĩa mà khởi v.v… Nói kia là chỗ sở y của tất cả pháp, nghĩa là có thể tự nhiên gìn giữ nên không phải là tính của nhân. Nghĩa của năng nhiệm trì là nghĩa của sở y không phải nghĩa tính của nhân. Tính của sở y năng y đều khác nhau nên nếu không như vậy thì giới thanh cũng đã rõ không phải nhở ngôn thuyết. Nói do đó có các nẻo và Niết-bàn chứng đắc, nghĩa là như quyết trạch xứ phải rộng phân biệt. Nghĩa là sinh tạp nhiễm, sinh Nalạc-ca v.v… nếu tách rời thức A-lại-da thì đều không có các thứ sinh ấy. Tạp nhiễm hoàn toàn chấm dứt gọi là Niết-bàn. Nếu tách rời thức A-lại-da thì không có chứng đắc.

Luận nói: Như trong đây lại có bài kệ rằng:

Do gồm chứa các pháp,

Làm thức của chủng tử,

Nên gọi A-lại-da,

Ta dạy kẻ hơn người.

Giải thích: Lại dẫn lời Phật nói chứng minh thức A-lại-da gọi là A-lại-da. Có khả năng nhiếp tàng các pháp, nghĩa là sở huân là nghĩa của tập khí, không phải như đại v.v… hiển rõ tính của pháp tàng chứa trong tối thắng. Thức A-lại-da thâu chứa các pháp cũng như vậy. Vì giản lược nghĩa ấy cho nên lại nói Nhất thiết chủng tử thức, vì thức ấy cùng sinh cùng diệt với tất cả chủng tử. Thức A-lại-da cùng các chuyển thức làm duyên cho nhau, cho nên lần lượt thâu chứa. Vì vậy mà gọi là thức A-lại-da. Chẳng phải như tối thắng là tính hiển rõ, vì hiển rõ mình giản lược sự yếu kém. Lại nói ta dạy kẻ hơn người, tức nguyên Hán văn là ta khai thị thắng giả. Tức chỉ cho Đại Bồ-tát là hạng người có khả năng kham nhiệm nên gọi là thắng giả. Phật chỉ vì họ mà khai thị , không phải cho hạng thấp kém.

Luận nói: Như vậy là đã dẫn chứng trong A-cấp-ma.

Nhưng vì nhân duyên gì thức này gọi tên là thức A-lại-da?

Vì tất cả các pháp có sinh tạp nhiễm đều gồm chứa ở đây như tính chất của quả, rồi cũng thức này gồm chứa các pháp làm nhân, cho nên gọi là thức A-lại-da. Hoặc các hữu tình thâu giữ thức này làm tự ngã của mình nên gọi là thức A-lại-da.

Giải thích: Nói tất cả pháp có sinh, nghĩa là pháp hữu vi. Pháp tạp nhiễm phẩm là pháp lược bỏ thanh tịnh, không phải pháp thanh tịnh tức là tính tạp nhiễm. Tất cả kho tàng tạp nhiễm là sở trị, là chỗ thâu giữ của thể tính chủng tử có thể đối trị chúng cho nên không phải mâu thuẫn nhau, mà là tính nhân quả, đúng đạo lý nhiên hậu mới được làm sở y. Nếu xứ, chữ xứ cựu dịch là nhập, có sở trị mà cũng có năng trị, nên thâu giữ nơi đây là hiển rõ cái công năng gìn giữ tập khí, do không phải chỉ có tập khí mà gọi là thức A-lại-da.:Phải có khả năng duy trì tập khí như kia gọi là ý thức. Hoặc các hữu tình thâu giữ thức này làm tự ngã, đó là nghĩa chấp thủ.

Luận nói: Lại nữa thức này cũng gọi là thức A-đà-na. Như trong A-cấp-ma, Kinh Giải Thâm Mật nói:

Thức A-đà-na rất vi tế,

Chủng tử như dòng nước chảy xiết.

Ta chẳng giảng nói cho phàm phu,

Sợ chúng phân biệt chấp là ngã.

Giải thích: Lại dẫn các kinh giáo khác nói bằng các tên khác khai thị thiết lập thức A-lại-da khiến thêm rõ ràng. Nguyên Hán văn dùng chữ “thậm thâm” nghĩa là rất sâu, tức người thông duệ ở đời có giác tuệ cũng khó có thể thấu đáo. Nói sâu xa vi tế, nghĩa là các Thanh Văn v.v… khó hiểu biết được vì họ không cầu cái vi tế của trí Nhất thiết trí. Tất cả chủng tử như dòng nước chảy xiết, nghĩa là mỗi sát-na lqần lượt liên tục không đứt đoạn như dòng nước chảy. Ta chẳng giải nói cho phàm ngu, nghĩa là không khai thị cho kẻ ôm ngã kiến. Sợ chúng phân biệt chấp là ngã, nghĩa là sao có thể để cho chúng phân biệt chấp trước cho đến tận cùng sinh tử, một loại hành tướng không cải đổi.

Luận nói: Vì nhân duyên gì lại gọi thức này là thức A-đà-na?

Vì nó nắm giữ tất cả sắc căn, lấy tất cả tự thể làm sở y. Bởi vì sao? Bởi vì các sắc căn do nó nắm giữ sẽ tùy chuyển suốt đời mà không hỏng mất. Và nó duy trì liên tục cho đến khi kết sinh thì chấp nhận làm tự thể. Vì vậy thức này còn gọi là thức A-đà-na.

Giải thích: Vì chấp thụ tất cả hữu sắc căn. Chữ “đẳng” là v.v… nghĩa là hiển thanh chuyển nhân để có thể chấp thụ. Tất cả nhãn v.v…là hữu sắc căn. Chúng cùng nhau đồng an nguy cho đến suốt cuộc đời. Cho nên gọi là thức A-đà-na. Nếu không thế thì thân chết tức hỏng mất hết. Cho nên tất cả tự thể lấy đó làm chỗ sở y. Chữ “đẳng” nghĩa là v.v…, tức chỉ cho tất cả, hoặc một hoặc nhiều, có tự thể đều thủ lấy tính sở y. Nếu là sắc v.v…các căn chưa sinh khởi hoặc đã sinh khởi, nếu là tự thể của Vô sắc giới sinh khởi gọi là liên tục tiếp thụ chúng. Cho nên nói là kết sinh vì nhận lấy sự sinh của chúng, vì tinh huyết kết hợp. Nếu không có thức A-lại-da thì không có chấp thụ một thời kỳ tự thể. Ví như một tòa nhà tiếp nhận ánh sáng đó là một thời kỳ tự thể huân tập tập khí.

Luận nói: Thức này cũng gọi là tâm. Như Thế Tôn nói tâm, ý, thức. Trong đây, ý có 2 thứ. Thứ nhất là cùng làm đẳng vô gián duyên, tính sở y chỉ, tức cái thức vô gián diệt có thể cùng với ý thức tạo ra sự y chỉ. Thứ hai là ý ô nhiễm, thường tương ưng cùng bốn phiền não. Đó là một Tát-ca-da kiến, hai ngã mạn, ba ngã ái và bốn vô minh. Chính đây là thức làm sở y cho các tạp nhiễm. Thức cũng do kia y chỉ mà sinh khởi, theo nghĩa thứ nhất, và nhận thức các cảnh tạp nhiễm, theo nghĩa thứ hai. Cho nên có nghĩa là đẳng vô gián và nghĩa tư lường mà thành ra ý có 2 thứ là như vậy.

Giải thích: Đây cũng gọi là tâm, là dẫn dụng các kinh giáo mà thành lập tên khác để làm cho kiên cố . Thứ hai nhiễm ô ý nghĩa là do 4 phiền não, Tát-ca-da kiến v.v… làm nhiễm ô. Trong đây Tát-cada kiến là tính chấp chặt ngã và ngã sở. Do sức mạnh này mà khởi ngã mạn, ỷ mình và những gì thuộc về mình mà sinh cao ngạo. Do có 2 cái này mà sinh ngã tham, gọi là ngã ái. Ba cái này đều lấy vô minh làm nhân. Nói vô minh tức là vô trí, là sở trị của minh. Đây là chỗ sở y của thức tạp nhiễm. Ở trong vị trí định, bất định, thiện v.v… đều thường hiện hành mà không mâu thuẫn. Trạng thái nó như thế nào? Nghĩa là khi có thiện tâm cũng chấp ngã. Nói do đệ nhất y sinh, nghĩa là do đẳng vô gián diệt ý. Nói do đệ nhị tạp nhiễm, nghĩa là do 4 phiền não tương ưng ý. Bởi chấp ngã v.v… có thể gây tạp nhiễm. Nghĩa của liễu biệt cảnh là có thể thủ cảnh nghĩa của cảnh tương tự hiện, đây là giải thích tên thức v.v… Vì nghĩa của vô gián, nghĩa của tư lường nên ý thành ra có 2 thứ, đây là giải thích tên ý. Nếu lìa cách huấn thích huấn thích thì đạo lý về nghĩa của thanh hoàn toàn không thể khiến người hiểu được.

Luận nói: Lại nữa làm sao biết có cái ý nhiễm ô?

Nghĩa là nếu ý nhiễm ô này không có thì không có cái bất cộng vô minh, thế là có lỗi. Và 5 đồng pháp cũng không có, thế là có lỗi. Sở dĩ vì sao? Vì 5 thức thân, tất phải có nhãn v.v… làm câu hữu y. Lại các huấn thích từ cũng không có, thế là có lỗi. Lại nữa sự khác nhau giữa Vô tưởng định với Diệt tận định cũng không có, thế là có lỗi. Nghĩa là Vô tưởng định thì nhiễm ý rõ ràng còn Diệt tận định thì chẳng phải như vậy. Nếu không thế, 2 thứ định sẽ không có gì khác nhau. Và như vậy thì trong suốt thời gian sinh ở trời Vô tưởng phải không có nhiễm ô, thế là có lỗi. Trong khi đó nếu không có ngã chấp ngã mạn, hoặc trong tất cả mọi lúc, ngã chấp có thể hiện hành được, nghĩa là ở trong các tâm thiện, bất thiện, vô ký. Nếu không như vậy thì chỉ tâm bất thiện tương ưng mà thôi, vì có ngã, ngã sở và phiền não hiện hành thì chẳng phải thiện chẳng phải vô ký. Cho nên nếu lập câu hữu hiện hành, không phải tương ưng hiện hành thì không có lỗi này. Ở đây có bài tụng như sau:

Nếu vô minh bất cộng,

Cùng với 5 đồng pháp,

Huấn từ, hai định khác,

Không, thì đều có lỗi.

Sinh Vô tưởng nói không

Ngã chấp, là có lỗi.

Ngã chấp thường theo đuổi

Tất cả chủng, nếu không,

Ý lìa nhiễm không có,

Hai, ba thành trái nhau.

Không đây, tất cả chỗ,

Ngã chấp cũng sẽ không.

Chân nghĩa tâm thường sinh,

Thường hay làm chướng ngại.

Có trong tất cả thức,

Là bất cộng vô minh.

Ý là nhiễm ô nên tính của nó thuộc hữu phú vô ký và thường cùng tương ưng với 4 phiền não. Như phiền não ở cõi Sắc và Vô sắc thuộc tính hữu phú vô ký. Phiền não của Sắc và Vô sắc bị Xa-ma-tha thâu tàng, nên ý này luôn luôn hiện hữu một cách vi tế.

Giải thích: Vì dẫn chính lý thành ý nhiễm ô nên lại lược nêu trực thuyết Già-tha. Nghĩa là nếu đây không có bất cộng vô minh thì không có hiện hữu v.v… Nếu không nói có nhiễm ô ý thì không có bất cộng vô minh. Phải nói bất cộng vô minh là tướng của nó. Nghĩa là nó có công năng chướng ngại chân trí, sinh ngu. Bất cộng vô minh này trong 5 thức không thể nói là hiện hữu vì ở đó không có công năng đối trị. Nếu ở đó có năng trị thì ở đó có sở trị. Trong 5 thức không có năng trị kia, vì ở đây không sinh khởi kiến đạo. Không phải như có trong bất nhiễm ý thức. Do kia và đây nên thành tính nhiễm. Vì vậy cũng không phải có trong nhiễm ô ý thức và khi tương ưng cùng các phiền não khác. Tên bất cộng vô minh không thành nên nếu lập ý thức do phiền não kia thành nhiễm ô tức rốt ráo phải thành tính nhiễm ô. Các tâm sở thí v.v… phải không thành thiện do tướng phiền não kia hằng tương ưng. Nếu lại nói cùng chuyển với thiện tâm có phiền não kia, tức như vậy là hoàn toàn cùng phiền não kia tương ưng, những gì khác không được có. Cái nhiễm ý thức này dẫn sinh đối trị là không hợp lý. Nếu nói có một thứ thiện tâm sở khác câu hữu với nhiễm ô ý có công năng dẫn đối trị, có khả năng trị sinh cho nên sở trị liền diệt là hợp lý. Nếu vậy cái bất cộng vô minh được lập ra cũng không thành, vì nó hằng tương ưng với thân kiến v.v…các phiền não khác. Ông khó bất bình vì không phải tôi nói. Không tương ưng với các phiền não nên gọi là bất cộng. Nhưng nói kia hoặc những nơi khác không có nên gọi là bất cộng, ví như 18 bất cộng Phật pháp. Trước nói cùng các phiền não tương ưng gọi là bất thành, nghĩa là quán sát chỗ thành lập làm rõ cái lỗi kia. Lại nữa 5 đồng pháp cũng không có, tức thành lỗi, nghĩa là đây phá cái chỉ lập từ 6 duyên 2 chuyển nghĩa 6 thức. Nhãn v.v… 5 thức cùng với ý thức kia có tính đồng pháp. Nghĩa là từ 2 duyên mà được sinh khởi. Nếu không có nhiễm ô ý kia thì mâu thuẫn với đây là vị bảo câu sinh tăng thượng duyên dựa vào không mà riêng có. Lại nữa nhãn thức v.v… mỗi mỗi đủ 2 duyên, đều là tính của thức. Như vậy tính của thức đều có nhãn v.v… chỗ dựa riêng mà cùng chuyển. Duy chỉ tăng thượng duyên là chẳng phải nhân duyên v.v… Đây là năng dụ, ý thức cũng vậy, phải có chỗ sở y sai biệt như vậy. Thức A-lại-da tuy là sở y của ý thức câu sinh, nhưng không nên lập là chỗ dựa riêng của đây mà là chỗ dựa chung, vì tính nhân duyên. Kinh bộ chủ trương sắc là chỗ dựa riêng biệt của ý thức câu sinh. Điều này không thành vì không hợp lý. Bởi đứng về tư trạch tùy niệm phân biệt thì phải tất cả mọi thời vô phân biệt. Chính vì lý lẽ này mà các bộ khác lập ra là sắc vật ở trong tâm là chỗ dựa riêng biệt của ý thức, cũng không thành, vì các chủ trương nói như thế đều có lỗi. Ví như nói các thức y chỉ sắc căn, như vậy khó thông phải rộng quyết trạch. Lại như huấn thích từ cũng thành lỗi, như trước nói huấn thích ý nói là dựa vào tính tư lường. Nếu không lập có nhiễm ô ý thì đây dựa vào đâu, 6 thức đã tạ diệt thì không thành ý, vì thể diệt không có. Lại nữa Vô tưởng định và Diệt tận định không sai khác là có lỗi. Nếu có định lập có nhiễm ô ý, đây có đây không, ở phàm liên tục, ở thánh liên tục. Như lần lượt 2 định sai khác là đúng lý. Nếu không như vậy, tưởng thụ diệt v.v… đều có thức hiện hành không sai khác, không thể nói ở đệ tứ tĩnh lự. Ở đệ nhất hữu địa sai biệt, xuất ly tĩnh trụ dục sai biệt, 2 định sai biệt do 2 tự tướng vô sai biệt cho nên tâm và tâm pháp đều diệt nào có khác. Nay sự quyết trạch lựa chọn này tương đối gần với các sư Kinh bộ cho nên bộ ấy lập bất tương ưng hành chẳng phải có thật vật, làm sao 2 định thật có sai biệt được? Lại nữa trong một thời kỳ sinh ở trời Vô tưởng, vô ngã chấp chuyển sẽ thành lỗi. Nói vô tưởng nghĩa là nếu sinh trong trời Vô tưởng, tâm tâm pháp diệt, khi mới tiếp tục sinh có nó tạm khởi lên, từ đó về sau liên tục tùy chuyển. Nếu không chấp nhận nó có nhiễm ô ý thì trong một thời kỳ sinh phải không ngã chấp. Không từng thấy có đủ phiền não, nghĩa là trong một thời kỳ sinh hoàn toàn không ngã chấp. Lại nữa chư thánh hiền đều đồng chán trách, nên chẳng phải sinh sát-na hiện khởi ý thức. Vì sở y ngã chấp làm thế lực dẫn khởi cho nên nói là có ngã chấp chưa vĩnh viễn đoạn diệt. Như nếu có gián là đúng đạo lý. Sở y của ngã chấp đều diệt hết cho nên sức dẫn khởi cũng không có sở y nào khác, vì vậy không hợp lý. Tập khí của ngã chấp liên tục ở trong thân cũng không hợp lý. Sắc pháp thụ huân là không hợp lý, không kham năng. Lại nữa các sư Kinh bộ không nói chỉ có sắc gọi là tâm pháp, không có đẳng vô gián duyên, tâm và tâm pháp 4 duyên định. Nếu nói thường riêng có tâm câu khởi, sở y ngã chấp đây không có lỗi. Lại nữa tất cả mọi thời ngã chấp theo đuổi là không hợp lý. Nghĩa là nếu không nói có nhiễm ô ý thì trong tất cả mọi thời nghĩa không thuận hợp. Thí v.v… các địa vị thiện cũng có ngã chấp thường theo đuổi tự bảo ta có thể tu hành thí v.v… Không lìa vô minh thì ngã chấp đeo đuổi. Không lìa y chỉ nên có vô minh. Vì đó là tâm pháp nên chỗ y chỉ này lìa nhiễm ô ý chắc chắn không có. Không phải thiện tâm là chỗ vô minh y chỉ. Sẽ đúng đạo lý nếu như nói:

Như thế nhiễm ô ý,

Là sở y của thức.

Đây chưa diệt trói thức,

Thì không thể giải thoát.

Nói không có 2, tức là bất cộng vô minh cùng với 5 đồng pháp. Ba thành mâu thuẫn, tức là huấn thích từ, 2 định sai biệt, và sinh trời Vô tưởng ngã chấp đeo đuổi. Như vậy 3 thứ đều thành mâu thuẫn. Trước đã lược nêu bất cộng vô minh. Nay để giải thích rộng nên nói chân nghĩa. Tâm sẽ sinh v.v…, nghĩa là có thể làm chướng ngại cái thấy nghĩa chân thật. Kia nếu hiện hữu cái bất sinh này thì đồng hành tất cả phần là trong thiện, bất thiện, vô ký thường theo chuyển nghĩa.

Luận nói: Cái thứ ba là tâm thể, nếu lìa thức A-lại-da thì không thể có được. Vì vậy thành lập thức A-lại-da làm tâm thể và do tâm này làm chủng tử ý và thức chuyển.

Giải thích: Cái thứ ba là tâm thể nếu lìa thức A-lại-da không thể có cái gì khác. Nghĩa là như tiếng ý là nói nhiễm ô ý, tiếng ý thức vô gián diệt, tức là nói 6 thứ chuyển thức. Như vậy tiếng tâm, lìa 2 thứ kia thì không được một cái thể nào cả. Không phải không có cái thể mà có năng thuyên. Cũng không phải 2 tiếng dị môn ý thức, vì khác sở thuyên. Trong đây tiếng thể là lấy ý sở thuyên. Vì vậy thành tựu thức A-lại-da v.v… là làm rõ thức A-lại-da quyết định là lý sở thuyên của tâm.

Luận nói: Vì nhân duyên gì thức A-lại-da cũng gọi là tâm?

Vì là nơi tích chứa các chủng tử huân tập.

Giải thích: Do chủng chủng pháp, nghĩa là do các phẩm loại của chuyển thức. Thâu giữ chủng tử huân tập của các pháp, nghĩa là huân thành các công năng sai khác. Chỗ tích chứa, nghĩa là các chủng loại tạp nhạp tích chứa trong đó. Chữ “vì”, nguyên Hán văn là “cố”, đây là dựa vào nghĩa của môn nghĩa. Tức hiển thị chuyển nhân của tiếng tâm.

Luận nói: Lại nữa vì sao trong Thanh Văn thừa không nói cái tâm này là thức A-lại-da, thức A-đà-na?

Vì đây là lĩnh vực cực kỳ vi tế. Bởi vì sao? Vì trí giác của các Thanh Văn không chuyển đổi trong tất cả đối cảnh. Cho nên đối với họ tuy tách rời thức A-lại-da không nói, mà vẫn được trí giác, thành tựu giải thoát, nên Phật không nói. Còn trí giác của các Bồ-tát thì quyết định chuyển đổi trong tất cả đối cảnh , vì vậy Phật nói cho Bồ-tát. Nếu lìa trí giác này không dễ gì chứng được trí Nhất thiết trí.

Giải thích: Do đây thâu giữ cảnh vi tế rất sâu, nghĩa là đây hiển thị thức A-lại-da cũng là vi tế rất sâu, cũng là cảnh sở tri. Do vi tế rất sâu nên không nói cho Thanh Văn là hạng chỉ thâu nhiếp cảnh sở tri thô thiển. Cần phải hóa độ cho nên cảnh trí vi tế sâu xa đối với họ là không đem lại lợi ích. Nói bởi các Thanh Văn không chuyển nơi tất cả cảnh trí, nghĩa là đây cho thấy họ không có công năng mong cầu xứ tướng. Nói vì vậy đối với họ tuy không nói v.v…, nghĩa là đối với Thanh Văn tuy không nói thức A-lại-da chỉ vì do sắc v.v… các cảnh giới thô thiển, chính khi quán sát tính khổ tập v.v…, các hành vô thường v.v… có thể vĩnh viễn đoạn tất cả phiền não. Họ dựa vào nghĩa này, nơi Thế Tôn siêng tu phạm hạnh. Nói thô thiển nghĩa là thể tướng các sắc pháp thô cho nên thụ v.v… hành tướng sở duyên của các pháp dễ phân biệt được. Hành tướng thô cho nên mâu thuẫn với đây. Vì vậy mà nói thức A-lại-da là sâu xa vi tế. Như nói: Ta không nói một pháp chưa thấu đáo, chưa biết khắp, đó là mật ý mà nói không đoạn phiền não là dùng tiếng biệt tướng mà nói chỗ tổng tướng, chẳng phải phiền não có chỗ đoạn dứt riêng biệt. Hoặc lấy các hành của cộng tướng vô thường cho nên không nói thức A-lại-da cũng không có lỗi. Nếu các định của Bồ-tát chuyển trong tất cả cảnh trí thì rõ ràng Bồ-tát có sức mạnh của chủng tính do tương ưng đầy đủ với công năng mong cầu xứ tướng. Nhất thiết trí tính vì thời xứ khác, không thể làm việc nghĩa lợi cho người. Sở dĩ vì sao? Chẳng phải nhất thiết trí không có khả năng tùy thuận biết ý lạc của người khác. Tùy miên giới, căn hơn kém, có khả năng không khả năng, thời gian sai khác đều có thể làm đầy đủ nghĩa lợi cho người khác. Đó là điều mong cầu của Bồ-tát. Vì vậy mà nói thức A-lại-da. Nếu lìa các trí này, nghĩa là nếu lìa cái trí của thức A-lại-da thì không thể vĩnh viễn đoạn trừ, vì đối với nghĩa biến kế kia không đoạn dứt. Trí vô phân biệt thì không được có chấp. Vì nghĩa có biến kế sở chấp nên do đó không dễ chứng được trí nhất thiết trí. Sở dĩ vì sao? Có thể chứng tất cả cộng tướng sở tri là trí phân biệt biết nghĩa biến kế phân biệt tự tướng, lần lượt trải qua những bất đồng vì vô giới hạn cho nên chắc chắn không thể chứng đầy đủ tất cả. Nếu biết đây chỉ có thức A-lại-da có thể sinh sức chuyển biến tập khí nên nghĩa hữu tình, ngã, hiển hiện mà chuyển. Bấy giờ biết được không có nghĩa sở thủ. Như vậy cũng có thể biết được không có năng thủ. Do đó chứng được trí vô phân biệt. Tiếp đến là trí hậu đắc như chỗ quán tập thông đạt pháp tính, do cộng tướng của tất cả pháp hiển hiện nhất vị chân như, biết tất cả pháp, trong một sát-na cũng dễ chứng đắc vì tất cả cảnh trí chẳng phải là vô biên. Nhưng lại nói cần phải trải qua 3 vô số kiếp là đây hiển thị sự tích chứa tư lương rất to lớn mới có thể chứng đắc quả trí vi diệu của tất cả chủng tướng to lớn thù thắng. Như vậy nên nói diệu trí tư lương không lìa pháp năng chứng và cảnh vô ngã. Vì vậy có tụng nói:

Chẳng nơi tất cả cảnh sở tri,

Không đoạn các chấp pháp phân biệt,

Mà lại chứng đượcnhất thiết trí,

Cho nên nói rõ pháp vô ngã.

Vì không giỏi thông đạt lý giáo như vậy nên có tụng như sau:

Do kia có liên tục kham năng,

Phải biết như lửa nuốt tất cả,

Cho nên chấp nhận nhất thiết trí

Làm được tất cả biết tất cả.

Cho nên đối với thức A-lại-da này, biết hay không biết, dễ chứng hay khó chứng, trí nhất thiết trí chắc chắn theo tông này là nói như vậy. Chẳng phải biết tất cả pháp vô ngã là nhất thiết trí. Kia tuy là nhất thiết trí nhưng chẳng phải nhất thiết chủng trí.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10