NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Vô Tính Bồ-tát tạo luận
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 7

5 – Ngộ nhập nhân quả

Luận nói: Như vậy là đã nói về sự ngộ nhập tướng sở tri, vậy làm sao có thể thấy sự ngộ nhập nhân quả ấy?

Do 6 thứ Ba-la-mật-đa là thí, giới, nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát-nhã.

Vì sao do 6 Ba-la-mật-đa được ngộ nhập duy thức? Và vì sao 6 Ba-la-mật-đa thành tựu kết quả của sự ngộ nhập ấy?

Nghĩa là Bồ-tát này không tham đắm tiền của địa vị, không phạm tịnh giới, cái khổ không làm dao động, tu hành không biếng trễ, trong các nhân tán động như vậy, khi không hiện hành thì tâm chuyên vào một cảnh là có thể quyết trạch các pháp đúng như lý được ngộ nhập duy thức. Bồ-tát dựa vào 6 Ba-la-mật-đa, ngộ nhập duy thức rồi, chứng được 6 thứ ý lạc thanh tịnh tăng thượng trong Ba-la-mật-đa, cho nên dẫu rời 6 thứ Ba-la-mật-đa hiện khởi gia hành, nhưng do hiểu rõ giáo pháp của Phật và do tâm quý trọng, tùy hỷ, ưa thích, thường xuyên tu tập không gián đoạn các phương tiện tương ưng, mà 6 thứ Ba-la-mật-đa mau chóng được viên mãn.

Giải thích: Nhập duy thức nhân, nghĩa là khi gia hành thì 6 thứ Ba-la-mật-đa thế gian sẽ hiển thị. Nghĩa là Bồ-tát không đắm trước tiền của địa vị. Không tham cầu, nên gọi không tham trước, tức xả bỏ sở đối trị. Đây tức là cái chướng ngại sự đối trị của thí Bala-mật-đa. Năm cái sau cũng vậy. Không phạm Thi-la, nghĩa là hủy phạm, là chướng ngại cái đối trị của giới Ba-la-mật-đa. Đối với khổ không động, nghĩa là như giận mà động là chướng ngại cái đối trị của nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với sự tu hành không biếng trễ. Biếng trễ là chướng ngại sự đối trị của tinh tiến Ba-la-mật-đa. Tâm chuyên vào một cảnh, nghĩa là đối trị cái chướng ngại của tĩnh lự Ba-la-mậtđa. Trong nhân tán động, xa lìa cái tâm không chuyên trì, khiến định mới có thể như lý giản trạch các pháp, tức là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Do 6 thứ Ba-la-mật-đa được ngộ nhập duy thức. Được ngộ nhập rồi, chứng đắc ý lạc thanh tịnh tăng thượng gồm thâu quả phần 6 thứ Ba-la-mật-đa. Vì vậy cho nên dẫu rời Ba-la-mật-đa vẫn hằng thường khởi gia hành tu tập 6 thứ Ba-la-mật không gián đoạn. Mau được viên mãn là không phải sao? Nếu đối với Thi-la Ba-la-mật-đa mà không khởi gia hành thì phải là phạm giới. Nghĩa này không phải vậy, vì không khởi sự cố gắng gia hành. Nếu đối với Thi-la mà không khởi gia hành thì phải có lỗi này, chứ không phải không phát khởi cố gắng gia hành mà có lỗi này. Do đối với Thánh giáo được thắng giải v.v… tự nhiên gia hành, cho nên không lỗi. Trong đây, đối với Thánh giáo, được thắng giải, nghĩa là đối với Thánh giáo tương ưng với Ba-la-mật-đa, tuy rất sâu xa nhưng có thể tin hiểu. Ái trọng tác ý, nghĩa là đã được thụ mùi vị công đức của Ba-la-mật-đa. Tùy hỷ tác ý, nghĩa là đối với 10 phương thế giới, trong liên tục khác, hoặc đối với sự tự tương tục riêng biệt trong Ba-la-mật-đa, thâm tâm vui mừng. Hân lạc tác ý, nghĩa là đối với đời vị lai nguyện ta cùng pháp này hằng không rời nhau và chuyển thành thù thắng.

Luận nói: Ở đây có 3 bài tụng như sau:

Đã viên mãn bạch pháp,

Và được nhẫn sắc bén.

Bồ-tát nơi Đại thừa,

Giáo pháp sâu rộng lớn.

Đẳng giác chỉ phân biệt,

Được vô phân biệt trí,

Mong cầu thắng giải tịnh,

Nên ý lạc thanh tịnh.

Trước và dòng pháp này,

Đều được thấy chư Phật.

Đã biết gần Bồ-đề,

Chứng đắc thật không khó.

Do 3 bài tụng này tổng quát làm rõ cái ý lạc thanh tịnh tăng thượng. Có 8 thứ tướng: Đó là tư lương, kham nhẫn, sở duyên, tác ý, đối trị, tự thể, thụy tướng, thắng lợi, đúng như thứ tự các câu kệ tụng biểu thị.

Giải thích: Trong đây nói rõ ý lạc tăng thượng thanh tịnh gồm có tư lương, kham nhẫn, sở duyên, tác ý, đối trị, tự thể, thụy tướng, thắng lợi. “Đã viên mãn bạch pháp”, nghĩa là trước ở thắng giải hành địa đã khéo chuẩn bị tư lương. Bạch pháp viên mãn, gọi là tư lương. “Và được nhẫn sắc bén”, nghĩa là trong nhuyến chỉ lựa chọn lấy thượng phẩm. Quán sát kỹ pháp nhẫn, khi nhẫn này chuyển tức là kham nhẫn. “Bồ-tát nơi tự thừa, kham đại giáo sâu rộng“, nghĩa là đuyên Thánh giáo Đại thừa sâu rộng. Nghĩa vi tế, gọi là rất sâu, tức pháp vô ngã thù thắng. Oai đức tương ưng, gọi là rộng lớn, tức là Hư không tạng v.v… Các Tam-ma-địa gọi là sở duyên. “Đẳng giác chỉ phân biệt”, nghĩa là biết tất cả pháp chỉ có phân biệt, gọi là tác ý. “Được vô phân biệt trí”, tức là đối trị. “Mong cầu thắng giải tịnh, nên ý lạc thanh tịnh”, tức là tự thể. Vì ý lạc này lấy tín và dục làm tự thể. “Trước và dòng pháp này, đều được thấy chư Phật”, tức là thụy tướng. Trước, tức là ý lạc thanh tịnh vị. Trước đây, nghĩa là trong Tam-ma-địa này. Dòng pháp, nghĩa là thấy chư Phật trong định nơi Tam-ma-địa. Cho nên “Biết đã gần Bồ-đề” thì “Chứng đắc là không khó”, nghĩa là nhân thấy Phật biết đã gần Bồ-đề. Giải thích nghĩa này nói là không khó chứng đắc, tức là thắng lợi. Ở trong địa vị này thấy gần được Bồ-đề. Đây có thể được phương tiện tốt nên chứng đắc là không khó. Tu tập tư lương, thế lực thành thục có thể kham năng. Như vậy 3 tụng giải thích chung 8 tướng sai biệt của ý lạc tăng thượng thanh tịnh.

Luận nói: Vì nhân duyên gì mà Ba-la-mật-đa chỉ có 6 thứ?

Vì thành lập các đối trị để đối trị các hoặc chướng, vì làm chỗ dựa để chứng đắc pháp của chư Phật, vì tùy thuận thành thục các hữu tình, vì muốn đối trị cái nguyên nhân không phát tâm nên lập thí Ba-la-mật-đa và giới Ba-la-mật-đa, nguyên nhân không phát tâm là do tham đắm tiền của địa vị và nhà cửa vợ con, vì muốn đối trị cái nguyên nhân đã phát tâm mà lại thoái lui, nên lập nhẫn Ba-la-mật-đa và tiến Ba-la-mật-đa, nguyên nhân của thoái lui là vì chúng sinh ở trong sinh tử vi phạm mà sinh các khổ và mệt mỏi vì thời gian dài gia hành tu tập thiện pháp, vì muốn đối trị cái nguyên nhân tuy đã phát tâm và không thoái lui nhưng thất bại hỏng mất, nên lập định Ba-lamật-đa và tuệ Ba-la-mật-đa, nguyên nhân của thất bại hỏng mất là do các tán động và tà trí. Như vậy là thành lập các pháp đối trị để đối trị các hoặc chướng cho nên chỉ lập 6 pháp. Lại nữa 4 Ba-la-mật-đa trước là nhân không tán động. Một Ba-la-mật-đa kế tiếp là thành tựu sự không tán động. Sự không tán động này làm chỗ dựa nên hiểu biết bình đẳng như thật chân nghĩa của các pháp mới có thể chứng đắc tất cả Phật pháp. Như vậy vì là chỗ dựa để chứng đắc pháp của chư Phật nên chỉ lập 6 pháp. Do thí Ba-la-mật-đa mà có thể tiếp nhận chúng sinh, do giới Ba-la-mật-đa mà không làm hại chúng sinh, do nhẫn Ba-la-mật-đa mà khi bị hại có thể chịu đựng được, do tinh tiến Ba-la-mật-đa mà có thể trợ giúp những việc đáng làm. Do đó bao gồm các nhân duyên lợi ích khiến chúng sinh thành thục những gì có thể kham nhiệm. Từ đó về sau người tâm chưa định thì làm cho tâm định, người tâm đã định thì khiến được giải thoát. Khi khai ngộ thì họ được thành thục. Cứ như vậy mà tùy thuận thành thục tất cả chúng sinh, nên chỉ lập 6 pháp.

Giải thích: Tiếp đến khai thị trong bài tụng sau cùng. Các nghĩa về số tướng v.v… trước là dựa vào sự lập số mà nói thành lập đối trị các chướng sở trị v.v… Nghĩa là 3 nhân duyên Ba-lamật-đa, con số chỉ có 6 không nhiều không ít. Trước phải khai thị sự thành lập đối trị các chướng phải đối trị nên để đối trị cái nhân không phát thú, nên lập thí, giới Ba-la-mật-đa. Cho đến để đối trị mà không làm hỏng mất nhân, nên lập định, tuệ Ba-la-mật-đa. Hỏng mất nhân, nghĩa là các tán động và tà ác tuệ điên đảo. Cái trí chấp lấy các xấu ác gọi tà tà ác tuệ. Như các ngoại đạo là nhân hỏng mất. Các câu khác văn rõ ràng dễ hiểu. Chứng chỗ sở y các Phật pháp, nghĩa là thứ hai nhân duyên thiết lập 6 số. Vì đó là nhân c ủa tất cả Phật pháp, nên Ba-la-mật-đa chỉ só 6 số không tăng không giảm. Nghĩa ấy như thế nào? Nghĩa là 4 Ba-la-mật-đa trước là nhân không tán động. Có thể khiến sở trị tán động không, nên tĩnh lự Bala-mật-đa không tán động thành tựu. Khiến không tán động được viên mãn, nên dựa vào tĩnh lự Ba-la-mật-đa này như thật đẳng giác các pháp chân nghĩa có thể được chính biến tri nơi sở duyên. Các Phật pháp, là 10 lực v.v… Chứng, nghĩa là làm xong. Tùy thuận thành thục các hữu tình, nghĩa là thứ ba nhân duyên thành lập 6 số, do thí Ba-la-mật-đa đối các hữu tình có thể chính nhiếp thụ. Do giới Ba-la-mật-đa đối các hữu tình không hủy hoại,không gây não loạn. Do nhẫn Ba-la-mật-đa, tuy gặp sự hủy hoại có thể chịu đựng, vì nhịn chịu được nên có thể lợi ích cho người, không trả báo. Do tinh tiến Ba-la-mật-đa trợ giúp người làm. Do tĩnh lự Ba-la-mật-đa khiến người tâm chưa định được định. Do tuệ Ba-la-mật-đa khiến người tâm đã định được giải thoát. Khi khai ngộ, nghĩa là khi dạy dỗ người khiến được ngộ nhập cảnh giới. Người được thành thục, nghĩa là người đã được thành thục đối với cảnh. Nói thành thục, tức là các chướng sở trị đã bị phá vở tiêu tan như ung nhọt đã bị phá. Hoặc năng đối trịđầy đủ có thể ứng dụng được, như thức ăn đã chín.

Luận nói: Làm sao thấy tướng của 6 pháp này?

Vì có 6 thứ vượt trội hơn hết. Một là do chỗ dựa vượt trội, vì tâm Bồ-đề là chỗ dựa. Hai là do sự vượt trội, vì hiện hành đầy đủ. Ba là do xứ vượt trội, vì dựa vào sự an vui lợi ích cho tất cả chúng sinh. Bốn là do phương tiện khéo léo vượt trội, vì do trí vô phân biệt nhiếp thụ. Năm là do hồi hướng vượt trội, vì hồi hướng vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Sáu là do thanh tịnh vượt trội, vì phiền não chướng và sở tri chướng không còn khởi lên.

Thí là Ba-la-mật-đa hay Ba-la-mật-đa là thí?

Có cái thí chẳng phải Ba-la-mật-đa, nên lập 4 câu. Nếu như thí là như vậy, thì các Ba-la-mật-đa khác cũng làm 4 câu như vậy.

Giải thích: Lập tướng của sở y mà nói như vậy. Nghĩa là do 6 thứ vượt trội hơn cả. Sáu thứ tối thắng này dễ hiểu không phải giải thích nữa. Vì hiện hành đầy đủ, tức là đối với tất cả chủng loại các việc trong ngoài đều có thể xả ly. Vì do trí vô phân biệt nhiếp thụ, nghĩa là tam luân thanh tịnh vì xa lìa sự phân biệt người bố thí, người nhận bố thí và của bố thí. Ngoài ra văn dễ hiểu. Có cái thí chẳng phải Ba-la-mật-đa, nghĩa là lìa 6 thứ tối thắng mà tu bố thí. Có Ba-la-mậtđa mà chẳng phải thí, nghĩa là 6 thứ tối thắng tập trung vào giới v.v… Có cũng thí cũng Ba-la-mật-đa, nghĩa là 6 thứ tối thắng tập trung vào bố thí. Có chẳng phải thí chẳng phải Ba-la-mật-đa, nghĩa là lìa 6 thứ tối thắng mà tu giới v.v… Lập ra 4 câu như vậy đối với thí và cũng lập như vậy trong 5 cái khác như giới v.v… Tùy thích ứng đều có thể an lập, nên có tụng như sau:

Lân giác dụ vô hữu,

Sáu Ba-la-mật-đa.

Duy ngã tối thắng tôn,

Thượng phẩm đáo bỉ ngạn.

Luận nói: Vì lý do gì 6 thứ Ba-la-mật-đa được lập theo thứ tự như vậy?

Vì Ba-la-mật-đa trước tùy thuận sinh Ba-la-mật-đa sau.

Giải thích: Tùy thuận sinh Ba-la-mật-đa sau, nghĩa là đối với tiền tài địa vị không tham đắm rồi mới có thể giữ giới, đủ giới rồi mới có thể nhẫn chịu, có thể nhẫn chịu rồi mới kham nổi những trái ngang mà phát tinh tiến, phát tinh tiến rồi tâm mới định, tâm định rồi mời biết được như thật. Cho nên 6 thứ này theo tuần tự như vậy.

Luận nói: Lại nữa làm sao thấy sự giải thích danh nghĩa các Ba-la-mật-đa?

Đối với Thanh Văn Độc Giác trên thế gian thì thiện căn bố thí v.v…là vượt trội hơn hết có thể đến bờ kia. Cho nên gọi chung là Ba-la-mật-đa. Lại có thể phá vỡ sự keo kiệt bần cùng và có thể dẫn phát tài lộc địa vị và các phúc đức rộng lớn, nên gọi là thí. Lại có thể đoạn diệt giới ác cõi ác và có thể hướng đến đẳng trì cõi thiện, nên gọi là giới. Lại có thể diệt hết giận dữ oán thù, và có thể mình và người sống trong an ổn, nên gọi là nhẫn. Lại có thể xa lìa mọi sự biếng nhác, các pháp ác và bất thiện, có thể sinh xuất vô lượng thiện pháp và khiến tăng trưởng, nên gọi là tinh tiến. Lại có thể tiêu trừ các tán động, và dẫn đến an trụ nội tâm, nên gọi là tĩnh lự. Lại có thể trừ bỏ mọi kiến chấp, tà trí ác tuệ và có thể phân biệt phẩm loại các pháp biết được như thật, nên gọi là tuệ.

Giải thích: Giải thích tên chung là đối với thế gian và Thanh Văn Độc Giác thì thí v.v… là các thiên căn thù thắng hơn cả, có thể đến bờ kia, cho nên gọi tên chung là Ba-la-mật-đa. Tên Ba-la-mật-đa là nghĩa tối thắng. Giải thích tên riêng thì khi tu nhân có thể phá trừ xan lẫn, cũng có thể đưa đến phúc đức tư lương rộng lớn., và đối với quả thì có thể phá trừ sự nghèo cùng được tài vị lớn , nên gọi là thí. Ngoài ra giải thích các tên riêng khác văn nghĩa dễ hiểu.

Luận nói: Nên biết phải tu tập các pháp Ba-la-mật-đa như thế nào?

Nên biết đại khái 5 việc: Một là hiện khởi tu gia hành. Hai là tu thắng giải. Ba là tu tác ý. Bốn là tu phương tiện khéo léo. Năm là tu hoàn thành công việc. Trong đây 4 pháp tu như trước đã nói. Còn tu hoàn thành công việc nghĩa là chư Như Lai vận dụng Phật sự một cách tự nhiên tự tại không ngừng nghỉ, viên mãn các Ba-la-mật-đa rồi lại tu tập 6 pháp đến bờ kia. Lại nữa tu tác ý, nghĩa là tu 6 thứ ý lạc bao gồm các tác ý mến trọng, tùy hỷ, vui vẻ như một là ý lạc rộng lớn, hai là ý lạc dài lâu, ba là ý lạc hoan hỷ, bốn là ý lạc chịu ơn, năm là ý lạc chí lớn, sáu là ý lạc thuần thiện.

Nếu các Bồ-tát trải qua vô số đại kiếp cho đến hiện chứng vô thượng chính đẳng Bồ-đề, trong thời gian ấy mỗi một sát-na giả sử xả bỏ thân mạng, cho đến 7 báu chứa đầy trong thế giới như cát sông Hằng đem phụng sự cúng dường Như Lai cho đến khi an tọa trên tòa Bồ-đề, mà ý lạc về sự bố thí của Bồ-tát ấy còn chưa chán đủ; lại cũng trong thời gian ấy, mỗi mỗi sát-na giả sử lửa đốt cháy 3 ngàn đại thiên thế giới, trong 4 oai nghi thường thiếu tất cả mọi phương tiện sống mà tâm vẫn thường giữ giới, nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát-nhã, cho đến khi an tọa trên tòa Bồ-đề, vậy mà ý lạc của Bồ-tát ấy về giới, nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát-nhã vẫn không chán đủ. Đó gọi là ý lạc rộng lớn của Bồ-tát. Lại nữa các Bồ-tát ở trong cái ý lạc không chán đủ, cho đến khi an tọa tòa Bồ-đề, thường không gián đoạn hay ngừng nghỉ, gọi là ý lạc dài lâu của Bồ-tát. Lại các Bồ-tát dùng 6 Ba-la-mậtđa làm lợi ích chúng sinh, do làm việc lợi ích mà tâm sinh hoan hỷ còn hơn nỗi vui mừng của chúng sinh được lợi ích, gọi là ý lạc hoan hỷ của Bồ-tát. Lại các Bồ-tát dùng 6 Ba-la-mật-đa làm lợi ích chúng sinh, thấy họ có ơn đức lớn đối với mình chứ không thấy mình có ơn đối với họ, đó là ý lạc chịu ơn của Bồ-tát. Lại nữa các Bồ-tát dùng 6 pháp đến bờ kia, nhóm họp các thiện căn, thâm tâm đem hiến cho tất cả chúng sinh khiến được quả báo khả ái thù thắng, gọi là ý lạc chí lớn của Bồ-tát. Lại các Bồ-tát lại dùng 6 pháp Ba-la-mật-đa nhóm họp các thiện căn cùng các chúng sinh trở về cầu vô thượng chính đẳng Bồ-đề, gọi là ý lạc thuần thiện của Bồ-tát. Như vậy Bồ-tát tu 6

thứ ý lạc này bao gồm tác ý ái trọng. Lại các Bồ-tát đối với 6 thứ ý lạc của các Bồ-tát khác tu tập tương ưng vô lượng thiện căn, thâm tâm tùy hỷ, như vậy là Bồ-tát tu 6 thứ ý lạc này bao gồm ý tác tùy hỷ. Lại các Bồ-tát thâm tâm hân hoan vui thích 6 thứ ý lạc của tất cả chúng sinh bao gồm tu 6 thứ đến bờ kia, cũng nguyện tự mình cùng tu tập 6 thứ đến bờ kia thường xuyên không rời bỏ, cho đến khi an tọa tòa Bồ-đề, như vậy là Bồ-tát tu 6 thứ ý lạc bao gồm tác ý hân lạc. Nếu có người nghe Bồ-tát tu 6 thứ ý lạc này bao gồm tác ý, chỉ cần khởi một niệm tín tâm sẽ được phát sinh vô lượng phúc, nghiệp chướng ác cũng sẽ tiêu diệt, huống chi là Bồ-tát.

Giải thích: Tập nhiều lần gọi là tu. Hiện khởi tu có 5 sự sai biệt. Hiện khởi tu gia hành, nghĩa là đối với thí v.v… không điên đảo chuyển, như tụng nói:

Thí là thù thắng,

Đầy đủ lòng tin,

Cung kính đúng thời,

Tự tay hành thí.

Lại như tụng nói:

Lợi tha gia hạnh đối hữu tình,

Chẳng kể có sức hay không sức.

Tất cả mọi thời thí tất cả,

Tùy sức mà làm rộng lợi ích.

Thắng giải tu, nghĩa là do tín, dục mà sinh thắng giải đối với kinh giáo của Phật tin sâu tùy thuận sinh lòng yêu thích, như có tụng nói:

Tuy nơi lợi nghiệp không dụng công,

Mà nơi Phật dạy sinh thắng giải.

Do tin và yêu cùng tương ưng,

Ý lạc thường tu không phế bỏ.

Tác ý tu, nghĩa là sự tu tập gồm có sự tác ý vui vẻ thích thú tùy hỷ ái trọng, như trước đã nói.

Phương tiện thiện xảo tu, nghĩa là sự tu tập gồm có sự hiếp thụ của trí vô phân biệt như trước đã nói.

Thành sở tác sự tu, nghĩa là pháp đáo bỉ ngạn của chư Như Lai tuy rất viên mãn, vì sức bản nguyện làm lợi tha nên không nghĩ đến sự dụng công, làm việc tùy theo khả năng hành thí. Đây là tu trong nghĩa vì người mà tu cũng gọi là tu. Lại nữa như trước muốn nói có nghĩa sai biệt của tác ý tu, tức là gồm có 6 thứ ý lạc, cho đến ý lạc còn không nhàm chán. Văn dễ hiểu, chỗ ít nói ít. Không nhàm chán, nghĩa là không mỏi mệt. Mỗi một sát-na trong thời gian ấy, hoặc có thuyết nói trải qua thời gian ấy làm một sát-na, nghĩa là trải qua 3 vô số kiếp đem làm một sát-na. Số sát-na tích tập như vậy cho đến được Đại Bồ-đề. Mỗi một sát-na trong thời gian ấy, nghĩa này dễ hiểu. Đầy cả lửa cháy dữ dội, nghĩa là hiển thị sự thiếu thốn thắng xứ. Thường thiếu thốn các phương tiện cho đời sống, nghĩa là hiển thị sự không có phương tiện cho đời sống đối trị cái khổ mà phải chịu nhận lấy các khổ. Trong 4 oai nghi, là hiển thị chí rộng lớn. Tuy thiếu chỗ thuận lợi và các phương tiện cho đời sống mà trong tất cả 4 oai nghi tâm tu hành giới v.v… đáo bỉ ngạn thường hiện tiền. Ý lạc dài lâu, nghĩa là trong thời gian dài không nghỉ không gián đoạn. Ý lạc mang ơn, nghĩa là tin hiểu sâu sắc những người đến cầu đó là những thiện hữu. Đây tức là tin họ những người đến cầu, bố thí diệu quả dị thục khả ái của mình, cho nên chịu ơn. Ý lạc chí lớn, nghĩa là ý lạc này tương ưng với chí lớn vì muốn lợi ích hữu tình cho nên đem những thiện căn củ mình thí cho tất cả. Ý lạc như vậy rất là thù thắng, cho nên nói là ý lạc chí lớn. Ý lạc thuần thiện, ý nghĩa cũng là một mà lập tên khác, nghĩa là nếu đem sự bố thí v.v… mà cầu tài vị đầy đủ trong 3 cõi, ý lạc như vậy là mong cầu các khổ, tươngbtự có tội nên không gọi là thuần thiện. Nếu đem sự bố thí v.v… cùng các chúng sinh hướng cầu Phật quả thì ý lạc như vậy là ý lạc không cầu các khổ, tất cả đều không có tội nên gọi là thuần thiện. Tu 6 thư ý lạc này bao gồm 3 thứ tác ý, văn dễ hiểu khỏi phiền giải thích nữa. Các ác nghiệp chướng cũng sẽ tiêu diệt, nghĩa là khiến không có quả hoặc trị các ác thú.

Luận nói: Làm sao thấy được sự sai biệt của các Ba-la-mậtđa này?

Nên biết mỗi Ba-la-mật-đa đều có 3 phẩm. Ba phẩm của thí là: 1.pháp thí, 2.tài thí, 3.vô úy thí. Ba phẩm của giới là: 1.giới về luật và oai nghi, 2.giới gồm thâu các thiện pháp, 3.giới làm lợi ích hữu tình. Ba phẩm của nhẫn là: 1.nhẫn chịu oán hại, 2.nhẫn an tâm thụ khổ, 3.nhẫn nại quan sát các pháp. Ba phẩm của tinh tiến là: 1.tinh tiến như người mặc áo giáp ra trận, 2.tinh tiến gia công tu hành, 3.tinh tiến không run sợ, không chao đảo thoái lui, không vui mừng thỏa mãn. Ba phẩm của tĩnh lự là: 1.tĩnh lự an trụ, 2.tĩnh lự dẫn phát, 3.tĩnh lự hoàn thành công việc. Ba phẩm của tuệ là: 1.tuệ gia hành vô phân biệt, 2.tuệ vô phân biệt, 3.tuệ vô phân biệt hậu đắc.

Giải thích: Do mỗi một Ba-la-mật-đa này đều có 3 phẩm hiển thị sai biệt. Nói pháp thí, nghĩa là tâm không nhiễm, như thật tuyên thuyết kinh pháp. Nói tài thí, nghĩa là tâm không nhiễm, xả bỏ vật dụng tư sinh. Vô úy thí, nghĩa là ngăn chận sự tổn hại, cứu giúp nỗi sợ hãi. Lại nữa pháp thí là vì muốn làm tăng thêm thiện căn cho người. Tài thí là vì muốn tăng thêm lợi ích cho người. Vô úy thí là vì muốn trợ giúp tâm người. Luật nghi giới, nghĩa là pháp có thể xa lìa bất thiện, phòng hộ thụ trì. Do có thể phòng hộ các ác bất thiện thân ngữ nghiệp v.v… nên gọi là luật nghi. Đây tức là giới có thể kiến lập 2 Thi-la sau. Do tự phòng hộ có thể tu các thiện căn cúng dường Phật và có thể lợi ích hữu tình, cho nên nhiếp thiện pháp giới có thể khiến chứng đắc lực vô úy v.v… tất cả Phật pháp. Nhiêu ích hữu tình giới có thể trợ giúp hữu tình làm việc đúng như pháp, bình đẳng phân bố vô tội tác nghiệp. Thành thục hữu tình nhẫn chịu oán hại, là các hữu tình thành thục chuyển nhân, an thụ khổ nhẫn là nhân thành Phật. Lạnh nóng đói khát các việc khổ đều có thể nhẫn chịu không thoái chuyển. Quán sát pháp nhẫn là chỗ y chỉ của 2 nhẫn trước vì là pháp kham nhẫn sâu xa rộng lớn. Tinh tiến mặc áo giáp, nghĩa là lúc ban đầu tự cố gắng. Ta sẽ làm việc như vậy, tức là giải thích câu nói sơ hữu thế trong khế kinh. Tinh tiến gia hành, nghĩa là khi gia hành có ý lạc siêng tu gia hành. Tức là giải thích câu nói thứ hữu cần trong khế kinh. Tinh tiến không khiếp nhược, không thoái chuyển không mừng đủ, nghĩa là tùy ý lạc ra làm các việc thiện, cho đến an tọa nơi tòa Bồ-đề mà không buông bỏ. Đối với sự mệt nhọc lao khổ, tâm không thoái khuất là không khiếp nhược. Đối với sự bị bức não, tâm không lay chuyển là không thoái chuyển cho đến khi được Bồ-đề. Tiến tu các thiện phẩm, thường không lười biếng phế bỏ là không mừng đủ. Như vậy là 3 câu theo như số giải thích câu nói trong khế kinh là có dũng mãnh kiên cố, đối với các thiện pháp không bỏ gánh nặng. Tĩnh lự an trụ là được hiện trụ pháp lạc vì lìa mạn, kiến, ái được thanh tịnh. Tĩnh lự dẫn phát là có thể dẫn phát 6 thần thông v.v…các công đức thù thắng. Tĩnh lự hoàn thành công việc là vì muốn làm lợi ích hữu tình, bởi có thể ngăn chận dứt các sự khổ đau như đói khát tật dịch sợ hãi v.v… Tuệ gia hành vô phân biệt, là chân quán tiền thắng phương tiện trí. Tuệ vô phân biệt, là chân quán trí. Tuệ vô phân biệt hậu đắc, là hiện quán biên các thế tục trí, có thể khởi các việc thuyết pháp v.v…

Luận nói: Làm sao thấy được sự nhiếp thuộc lẫn nhau?

Do 6 pháp này có thể gồm thâu tất cả thiện pháp vì tướng của chúng, vì sự tùy thuận của chúng, vì tính đẳng lưu của chúng.

Giải thích: Do đây có thể thâu nhiếp tất cả thiện pháp, là câu đáp này phi lý không như câu hỏi, cho nên trước hỏi chung rằng làm sao thấy được sự nhiếp thuộc lẫn nhau. Không có lỗi này thì nói có thể nhiếp thuộc tất cả thiện pháp. Nghĩa này đã nói rồi. Kia cũng thâu nhiếp tất cả thiện pháp đây, nghĩa là thí v.v…, tín v.v…, các niệm trụ v.v…, lực v.v… là sau. Là tướng của nó, nghĩa là thâu nhiếp thể tướng. Nghĩa là thí v.v… này với thí v.v… kia thâu nhiếp lẫn nhau. Là tùy thuận, nghĩa là thâu nhiếp tùy thuận tín v.v…thiện pháp, thí v.v… thiện tâm kia tu tập nên trong thí v.v… kia tùy chuyển. Tín v.v… tức các thiện. Đại thí và niệm trụ v.v… là các pháp Bồ-đề phần. Là đẳng lưu, nghĩa là thâu nhiếp đẳng lưu, có nghĩa là vô tránh v.v… và 10 lực v.v… là quả đẳng lưu đáo bỉ ngạn. Như có tụng nói:

Địa và đáo bỉ ngạn,

Chỗ y các Phật pháp.

Chuyển y pháp thân v.v…

Các công đức là quả.

Luận nói: Làm sao thấy được các tạp nhiễm là những thứ bị 6 pháp này đối trị?

Đó là tướng, là nhân, là quả của chúng.

Giải thích: Như vậy những thứ sở trị như xan lẫn, phạm giới, giận tức, biếng nhác, tán động ác tuệ, làm sao có thể thâu nhiếp tất cả tạp nhiễm? Là tướng này, nghĩa là thâu nhiếp xan v.v.. sai biệt tự tính lìa tha tính. Là nhân này, nghĩa là bất tín v.v… tà kiến là nhân sau của xan v.v…

Luận nói: Làm sao thấy được lợi ích thù thắng của 6 Ba-la-mậtđa đạt được?

Nghĩa là các Bồ-tát khi đang lưu chuyển trong sinh tử thì sinh trong nhà giàu sang, tộc họ lớn, nhiều bà con bạn bè, thành tựu sự nghiệp lớn, không bị tai hại quấy nhiễu, nhẹ đường trần tục, biết nhiều kiến thức giỏi kỹ năng, sống tốt không tội lỗi, cho đến khi an tọa tòa Bồ-đề thường có thể hiện làm các việc lợi ích chúng sinh, đó là lợi ích thù thắng.

Giải thích: Nay sẽ nói rõ công đức thù thắng của Ba-la-mậtđa. Sinh vào nhà phú quý, là được thù thắng do thí Ba-la-mật-đa, cho đến thắng sinh vô tội nên gọi là thù thắng. Sinh nhà tộc họ lớn, là được sự thù thắng do giới Ba-la-mật-đa, nhiếp thuộc thắng thiện thú nên gọi là đại sinh. Nhiều bà con bạn bè thuộc hạ, là được sự thù thắng do nhẫn Ba-la-mật-đa. Nguyên văn dùng chữ bằng có nghĩa là thân tộc. Nguyên văn dùng chữ thuộc có nghĩa là thuộc hạ nô tì. Thành tựu sự nghiệp lớn, là được sự thù thắng do tinh tiến Ba-la-mật-đa. Sự nghiệp to lớn nghĩa là như Luân vương v.v… Trong đó sự cố gắng gọi là gia hành, Các việc làm đều hoàn thành gọi là thành tựu. Không bị tai hại quấy nhiễu, nhẹ đường trần tục, là được sự thù thắng do tĩnh lự Ba-la-mật-đa, nhờ tính lự Ba-la-mật-đa nên cảm được uy lực này. Biết nhiều kiến thức giỏi kỹ năng, là được sự thù thắng do tuệ Ba-la-mật-đa. Sống tốt không tội lỗi, nghĩa là tuy đồng là thế gian nhưng có cuộc sống tốt không như cuộc sống tội lỗi của thế gian. Đã không có tội lỗi và thời gian liên tục không gián đoạn cho đến khi được Bồ-đề thường có thể hiện làm tất cả các việc lợi ích chúng sinh, không như thế gian chỉ biết tự lợi.

Luận nói: Làm sao thấy được sự quyết định lựa chọn đối với 6 thứ Ba-la-mật-đa?

Thế Tôn đối với tất cả 6 thứ Ba-la-mật-đa này, có nơi lấy thí mà nói, có nơi lấy giới mà nói, có nơi lấy nhẫn nói, có nơi lấy cần nói, có nơi lấy định nói, có nơi lấy tuệ nói.

Nói như vậy là có ý gì?

Vì ý nghĩa, là trong khi gia hành tu tất cả Ba-la-mật-đa, thì đều được tất cả Ba-la-mật-đa hỗ trợ cho thành tựu.

Giải thích: Nghĩa là đối với tất cả Ba-la-mật-đa trong khi tu gia hành đều có tất cả Ba-la-mật-đa hỗ trợ nhau thành tựu. Ý thú như vậy, nghĩa là trong khi tu mỗi một gia hành thì tất cả đều tương trợ cho nhau. Nghĩa là khi tu thí, thì cấm ngăn ngừa, nhẫn chịu, cố gắng, chuyên tâm, có thể biết rõ nghiệp quả tùy thuộc. Như vậy trong thí có những cái khác chuyển. Nếu khi tu giới, xa lìa xan lẫn, giận tức, biếng nhác, tán động, tà kiến. Như vậy trong giới có những cái khác chuyển. Và tu tập các Ba-la-mật-đa khác cũng như vậy. Như có tụng nói:

Khi thí không tham không phạm giới,

Không ghét không giận khởi từ tâm.

Ai đến cầu xin liền bố thí,

Không chán không loạn không dị kiến.

Lại có bài tụng như sau:

Trong tính thí hiện có,

Sáu Ba-la-mật-đa.

Tài thí vô úy thí,

Pháp thí cũng gồm thâu.

Luận nói: Ở đây có bài tụng như sau:

Số, tướng và thứ lớp,

Tên, tu tập, sai biệt.

Nhiếp, trị và công đức,

Hỗ trợ nhau thành tựu.

Giải thích: Gồm các văn trước giải thích như trên.

6 – Tu tập sai biệt

Luận nói: Như vậy là đã nói về ngộ nhập nhân quả, vậy làm sao thấy sự tu tập sai biệt?

Thấy được qua 10 địa của Bồ-tát. Những gì là 10? Một là cực hỷ địa, hai là ly cấu địa, ba là phát quang địa, bốn là diệm tuệ địa, năm là cực nan thắng địa, sáu là hiện tiền địa, bảy là viễn hành địa, tám là bất động địa, chín là thiện tuệ địa, mười là pháp vân địa.

Làm sao có thể thấy 10 thứ bậc được an lập như vậy?

Vì muốn đối trị 10 thứ vô minh là những chướng ngại bị đối trị. Bởi vì sao? Bởi vì nơi 10 tướng của pháp giới sở tri có 10 vô minh chướng ngại bị đối trị.

Những gì là 10 tướng của pháp giới sở tri?

Trong địa thứ nhất là biến hành, trong địa thứ hai là tối thắng, trong địa thứ ba là thắng lưu, trong địa thứ tư là không nhiếp thụ, trong địa thứ năm là liên tục không sai biệt, trong địa thứ sáu là thanh tịnh không tạp nhiễm, trong địa thứ bảy là các pháp không sai biệt, trong địa thứ tám là không thêm không bớt, tướng tự tại y chỉ, cõi tự tại y chỉ, trong địa thứ chín là trí tự tại y chỉ, trong địa thứ mười là nghiệp tự tại y chỉ, Đà-la-ni môn, Tam-ma-địa môn tự tại y chỉ. Ở đây có 3 bài tụng như sau:

Biến hành và tối thắng,

Cùng với nghĩa thắng lưu,

Như vậy không nhiếp thụ,

Liên tục không sai biệt,

Thanh tịnh không tạpnhiễm,

Các pháp không sai biệt,

Không tăng cũng không giảm,

Bốn tự tại y chỉ,

Trong pháp giới có mười,

Không nhiễm ô vô minh,

Đối trị các chướng ngại,

Nên an lập mười địa.

Lại nữa phải biết rằng 10 vô minh như vậy, đối với Thanh Văn v.v…thì không phải nhiễm ô, nhưng đối với Bồ-tát là nhiễm ô.

Giải thích: Vì muốn hiển thị nhân quả của sự ngộ nhập tướng sở tri bao gồm trong Ba-la-mật-đa. Tùy sự thích hợp khéo tu tập có thể trừ kiến đoạn chướng. Cho nên nói rõ các tu vị sai biệt của nhân quả. Nói do 10 địa Bồ-tát, nghĩa là các Bồ-tát tu tập hiện quán trong địa này, lìa lỗi, lìa tham, tu Bồ-đề phần, quán sát các đế, quán sát duyên khởi, trong vô tướng hoặc có dụng công hoặc không dụng công được biện tài thù thắng đạt đến chân quán đỉnh, trừ diệt sở tri chướng phiền não chướng v.v… Cho nên tu vị này có 10 địa khác nhau. Bởi vì trong 10 tướng, tức là biến hành v.v… Pháp giới sở tri, nghĩa là do 10 tướng mà hiển thị pháp giới. Có 10 vô minh chướng ngại bị đối trị, nghĩa là trong 10 tướng có 10 vô minh là 10 chướng phải đối trị. Tu 10tướng trí để đoạn chướng này. Do 10 tướng trí được trí vô ngã ngộ nhập pháp 10 địa. Phần vị gọi là địa.

Trong địa thứ nhất do biến hành, nghĩa là trong sơ địa tất cả pháp không, không một pháp nhỏ mọn nào chẳng phải không, nên gọi là biến hành. Hiểu rõ nghĩa này được ngộ nhập địa thứ nhất.

Trong địa thứ hai là tối thắng, nghĩa là lý không này là thù thắng bậc nhất trong tất cả pháp. Như nói lìa dục là thù thắng bậc nhất. Hiểu rõ nghĩa này được ngộ nhập địa thứ hai.

Trong địa thứ ba là thắng lưu, nghĩa là đây là giáo pháp lưu hành thù thắng nhất. Xả bỏ thân mạng để cầu nói pháp này chẳng láy làm khó. Hiểu rõ nghĩa này được ngộ nhập địa thứ ba.

Trong địa thứ tư là không nhiếp thụ, nghĩa là khế kinh v.v… các pháp đoạn ái, không chấp ngã sở, quán đây không phải tự không phải tha. Hiểu rõ nghĩa này được ngộ nhập địa thứ tư.

Trong địa thứ năm là liên tục không sai biệt, nghĩa là hiểu rõ đây không phải như sắc v.v… liên tục sai biệt. Hiểu rõ nghĩa này được ngộ nhập địa thứ năm.

Trong địa thứ sáu là thanh tịnh không tạp nhiễm, nghĩa là biết tự tính vốn không tạp nhiễm cũng không thanh tịnh, vì tạp nhiễm là trước sau có thể tịnh. Hiểu rõ nghĩa này được ngộ nhập địa thứ sáu.

Trong địa thứ bảy là các pháp không sai biệt, như các pháp sai biệt trong khế kinh, đây không phải nghĩa như vậy. Hiểu rõ nghĩa này được ngộ nhập địa thứ bảy.

Trong địa thứ tám là không thêm không bớt, nghĩa là không dùng ngoài pháp vì vậy mà không tăng, các pháp không hư hoại vì vậy mà không giảm. Hoặc khi nhiễm pháp giảm đay không giảm. Hoặc khi tịnh pháp tăng đây không tăng.

Tướng tự tại y chỉ, cõi tự tại y chỉ, nghĩa là trong địa thứ tám này chứng pháp giới có 2 tự tại. Chỗ sở y chỉ, tùy tướng sở cầu sẽ được hiển hiện. Nếu thắng giải tức có thể hiện tiền tên và tướng tự tại. Tùy chỗ mong cầu cõi nước bằng vàng ròng v.v… Nếu thắng giải thì có thể hiện tiền tên và cõi nước tự tại. Ở các địa trước tuy cũng được trụ vô sai biệt này, nhưng phải dụng công sau mới thành được. Còn ở địa này có thể không dụng công, chỉ tùy ý muốn liền được thành tựu nên gọi là tự tại. Hiểu rõ nghĩa này được ngộ nhập địa thứ tám.

Trong địa thứ chín là trí tự tại y chỉ, nghĩa là trong địa này được vô ngại biện sở y chỉ, nên một phần chứng được trí Ba-la-mật-đa. Đối với tất cả pháp không tùy ngôn thuyết, có thể hiểu biết các ý nghĩa, như thật thành thục tất cả hữu tình, thụ thắng pháp lạc. Hiểu rõ nghĩa này được ngộ nhập địa thứ chín.

Trong địa thứ mười là nghiệp tự tại y chỉ, nghĩa là tùy theo ý muốn được nghiệp dụng tự tại của thân ngữ ý, dựa vào 5 thần thông tùy theo tác nghiệp đều có thể làm thành, vì được sức tự tại văn nghĩa, trì các Đà-la-ni, có thể gìn giữ không quên tất cả văn nghĩa Phật đã nói. Vì được sức tự tại của Tam-ma-địa nên đối với các định có thể trì có thể đoạn, tùy theo ý muốn như Hư không tạng v.v… các Tam-ma-địa Tam-ma-bát-để có thể hiện tiền. Pháp giới chứng được trong địa thứ mười có các sở y tự tại như vậy. Hiểu rõ nghĩa này được ngộ nhập địa thứ mười. Như vậy vô minh đối với Thanh Văn v.v… không phải nhiễm ô, là vì không phải chỗ đoạn trừ của Thanh Văn, không phải chỗ đoạn trừ nên không ngộ nhập được vào địa vị năng trị kia. Vì vậy đối với Niết-bàn của họ không bị chướng ngại. Còn đối với Bồ-tát đó là nhiễm ô, vì đó là chỗ phải đoạn trừ, vì là chỗ đoạn trừ nên chính phải ngộ nhập địa vị năng trị. Bồ-tát cầu nhất thiết chủng trí. Như vậy vô minh có thể làm chướng ngại. Khi nhập sơ địa đã thông đạt tất cả pháp giới. Vì sao còn lập các sai biệt sau này? Vì muốn hiển thị các trụ hiện hành nên lập các địa sai biệt sau này. Nghĩa là để an trụ chỗ sở đắc pháp giới thắng trụ phẩm hiện riêng biệt, chứ chẳng phải chỉ chứng đắc là sinh thỏa mãn an trụ một cách thản nhiên.

Luận nói: Lại nữa, vì sao địa thứ nhất gọi là cực hỷ?

Vì ở địa này lần đầu tiên được cái năng lực thù thắng có thể làm thành mọi sự nghĩa lợi cho mình và người.

Vì sao địa thứ hai gọi là ly cấu?

Vì ở địa này hết sức xa lìa cáu bẩn của sự phạm giới.

Vì sao địa thứ ba gọi là phát quang?

Vì địa này là chỗ dựa của đẳng trì và đẳng chí không thoái chuyển, là chỗ dựa của chính pháp đại quang minh.

Vì sao địa thứ tư gọi là diệm tuệ?

Vì ở đây các pháp Bồ-đề phần đốt cháy tiêu tất cả chướng ngại.

Vì sao địa thứ năm gọi là cực nan thắng?

Vì trí chân đế với trí thế gian mâu thuẫn nhau mà hợp hai thứ khó hợp làm cho tương ưng là rất khó.

Vì sao địa thứ sáu gọi là hiện tiền?

Vì ở đây cái trí duyên khởi làm chỗ dựa, có thể khiến Bát-nhã Ba-la-mật-đa hiện ra trước mắt.

Vì sao địa thứ bảy gọi là viễn hành?

Vì ở đây là đã đến giới hạn cuối cùng của công dụng hành.

Vì sao địa thứ tám gọi là bất động?

Vì ở đây tất cả các tướng có dụng công đều không còn hoạt động.

Vì sao địa thứ chín gọi là thiện tuệ?

Vì ở đây được trí vô ngại thù thắng nhất.

Vì sao địa thứ mười gọi là pháp vân?

Vì ở đây được cái trí tổng duyên tất cả pháp, hàm chứa tất cả Đà-la-ni môn, Tam-ma-địa môn, ví như đám mây lớn che được chướng ngại rộng lớn như hư không, lại có thể viên mãn pháp thân.

Giải thích: Y thanh chuyển nhân, nên nói như vậy. Do đây ban đầu có thể làm xong tự tha nghĩa lợi. Thắng công năng, nghĩa là như Bồ-tát khi nhập hiện quán được công năng làm xong tự tha nghĩa lợi. Công năng tối thắng làm phát sinh cực kỳ hoan hỷ. Không phải như Thanh Văn v.v… khi nhập hiện quán chỉ làm được công năng tự lợi. Sinh niềm hoan hỷ như vạy nên không nói đó là cực hỷ địa. Nếu trong sơ địa không tương ưng thì các địa sau cũng không tương ưng. Đây là điểm trước tiên nên do xa lìa cấu uế của sự phạm giới, tức trong địa này thành tựu tính giới, nên xa lìa tất cả cấu uế của sự phá giới. Do chỗ y chỉ của không thoái chuyển, đẳng trì, đẳng chí, nghĩa là trong địa này chứng hy hữu định, có thể phát trí chiếu sáng hiểu rõ các pháp nên gọi là phát quang. Được rồi không mất gọi là không thoái chuyển. Các định tĩnh lự gọi là đẳng trì. Các định vô sắc gọi là đẳng chí. Hoặc đẳng trì nghĩa là tâm một cảnh tướng, nói đẳng chí là chính thụ hiện tiền. Nói chỗ y chỉ của đại pháp quang minh, nghĩa là tương ưng với định trong địa này không thoái chuyển, nên được trí sáng suốt đối với các pháp khế kinh Đại thừa. Địa này là nhân sở y của kia nên gọi là phát quang. Nói diệm tuệ, nghĩa là trong địa này có ngọn lửa tuệ nên gọi là diệm tuệ. Đây tức là tất cả pháp Bồ-đề phần đều gọi là diệm. Đốt cháy các chướng nên khi Bồ-đề phần này an trú khiến các phiền não đều cháy thành tro. Cực nan thắng, nghĩa là rất khó thắng. Nghĩa là chân đế trí là vô phân biệt, cái trí thế gian như sách vở công luận v.v… là hữu phân biệt. Trí chân đế và trí tục đế có mâu thuẫn nhau khó có thể dẫn phát khiến tương ưng. Đây có thể làm cho hòa hợp không mâu thuẫn cho nên là cực nan thắng. Nói hiện tiền, là tối thắng Bát-nhã đáo bỉ ngạn trụ tại hiện tiền. Nghĩa là trong địa này chứng duyên khởi trụ. Sức của trí duyên khởi khiến vô phân biệt, tối thắng Bát-nhã đáo bỉ ngạn trụ tự tại hiện tiền biết tất cả pháp không nhiễm không tịnh. Nói viễn hành, là đến biên giới cuối cùng của công dụng hạnh. Cho nên gọi các công dụng hạnh trong địa này là tột cùng cứu cánh. Tất cả pháp tướng tuy không thể động mà nơi vô tướng cũng có công dụng. Nói không động, nghĩa là tất cả tướng và tất cả hành đều không thể làm động tâm kia. Trong địa thứ bảy tuy tất cả tướng không thể làm động vì không hiện hành. Nhưng không tự do tự tại chuyển vì không có công dụng làm gia hành. Đó là chỗ sai biệt giữa địa thứ bày và thứ tám. Nói thiện tuệ, là được tối thắng 4 vô ngại giải. Trí vô ngại giải lànthù thắng nhất trong các trí. Trí tức là tuệ, nên gọi là thiện tuệ. Bốn vô ngại là pháp nghĩa từ biện. Do pháp vô ngại, nên hiểu biết một cách tự tại tất cả pháp. Do nghĩa vô ngại, nên thông đạt một cách tự tại tất cả nghĩa lý. Do từ vô ngại, nên phân biệt một cách tự tại tất cả ngôn từ. Do biện tài vô ngại, nên khắp 10 phương tùy chỗ thích nghi mà biện thuyết tự tại. Ở trong địa này lúc mới chứng đắc ban đầu, trước chưa từng được trí vô ngại giải, nên gọi là thiện tuệ. Nói pháp vân, là do được cái trí duyên chung tất cả pháp, duyên chung tất cả pháp khế kinh, không lìa chân như. Cảnh trí cộng tướng của tất cả pháp này ví như đám mây lớn Đà-la-ni môn Tam-ma-địa môn. Trí như nước trong sạch có thể tàng chứa, như mây ngậm nước có thể sinh công năng thù thắng kia. Lại như đám mây lớn kéo che hư không. Như vậy cái trí duyên chung tất cả pháp che lấp 2 chướng hoặc chướng rộng lớn như hư không. Nói che lấp, là nghĩa cách ly gián đoạn. Lại như đám mây lớn mưa nước trong mát đầy khắp hư không. Như vậy cái trí duyên chung tất cả pháp, xuất sinh vô lượng công đức thù thắng làm sung mãn pháp thân sở chứng sở y.

Luận nói: Làm sao thấy được sự chứng đắc các địa này?

Thấy được do 4 thứ tướng. Một là được thắng giải. Nghĩa là được tin hiểu sâu sắc đối với các địa. Hai là được chính hạnh. Nghĩa là được 10 thứ chính pháp hạnh tương ưng với các địa. Ba là được thông suốt. Nghĩa là khi ở địa thứ nhất thông suốt pháp giới là có thể thông suốt cùng khắp các địa. Bốn là được thành tựu viên mãn. Nghĩa là tu các địa đến chỗ rốt ráo.

Giải thích: Y được các địa nên nói như vậy. Do 4 thứ tướng. Một là được thắng giải, nghĩa là được các địa, tin hiểu sâu đối với giáo pháp trong địa, quyết định ấn khả chân thật như vậy. Hai là được chính hạnh, nghĩa là được các địa tương ưng 10 thứ chính pháp hạnh, được 10 thứ pháp hành trong giáo pháp. Tức là sao chép các giáo pháp tương ưng trong các địa cúng dường và chuyển thí cho người nghe đọc thụ trì, khai thị tư duy tu tập. ba là được thông đạt, nghĩa là ở sơ địa khi đạt pháp giới có thể thông đạt khắp tất cả địa. Nếu ở sơ địa chính khi thông đạt có thể thông đạt nhanh chóng tất cả địa sau.

Cho nên có bài tụng như sau:

Như chẻ tre một đốt,

Các đốt khác bị chẻ.

Được chân trí sơ địa,

Các địa khác chóng thành.

Bốn là được thành tựu viên mãn, nghĩa là tu các địa đến cứu cánh, tức trong mỗi địa mỗi địa, quả đầy đủ từng phần hoặc sau cùng viên mãn.

Luận nói: Làm sao thấy được sự tu tập các địa này?

Nghĩa là các Bồ-tát trong mỗi địa tu Xa-ma-tha, Tì-bát-xá-na do 5 tướng tu tập.

Những gì là năm?

Là tu tổng tập, tu vô tướng, tu không dụng công, tu mạnh mẽ, tu không vui mừng cho là đủ. Năm sự tu tập này làm cho các Bồ-tát thành tựu 5 quả. Đó là trong mỗi niệm tiêu tan chỗ dựa của tất cả pháp thô nặng, lìa các thứ tưởng, được cái vui như ở trong vườn chính pháp, có thể hiểu biết đúng đắn ánh sáng của chính pháp lớn lao, biến khắp vô lượng không giới hạn, hiện hành vô tướng, thuận thanh tịnh phần không còn phân biệt, vì để viên mãn thành tựu pháp thân có thể nhiếp thụ đúng đắn các nhân thù thắng sau này.

Giải thích: Nói trong mỗi địa mỗi địa, tức là trong các địa chứ không phải một. Xa-ma-tha, là định có thể đối trị các tán động. Tìbát-xá-na, là tuệ có thể đối trị các điên đảo. Trong mỗi địa mỗi địa tu 2 thứ này đều do tu tập 5 tướng nhiều lần. Năm tướng tức là gồm chung mà tu. Gồm chung mà tu, nghĩa là gom tất cả chung làm một lựa chọn chỗ cốt yếu mà tu tập. ngoài ra các cảnh giới quán như cốt tỏa v.v… cũng gom chung làm một tu tập lượt qua. Để lựa chọn nên nói tu vô tướng. Lìa các tướng trong chân pháp giới, khiển trừ sự sai biệt mà tu tập. Tuy tu vô tướng mà hoặc có dụng công là để hiển thị sự tu tập này không nhờ công sức mà chuyển tự nhiên. Lại nữa nói tu không dụng công, lìa các dụng công tự nhiên mà chuyển, tuy không dụng công mà tu một cách tự nhiên. Hoặc hơn hoặc kém 2 thứ không nhất định. Lại nữa thứ tư nói tu mạnh mẽ, nói mạnh mẽ tức là tăng thắng. Tuy tu mạnh mẽ mà hoặc sở đắc chút ít liền sinh vui mừng cho là đủ. Nghĩa là tu như thế thì dùng được gì khác. Cho nên sau cùng nói tu không vui mừng cho là đủ, chẳng phải chỉ vô tướng và vô công dụng mạnh mẽ mà tu. Những gì làm chứng là phải siêng năng tu tập để chứng Phật quả cao tột? Tiêu tan chỗ dựa của tất cả pháp thô nặng, là thức A-lại-da là chỗ dựa của các pháp thô nặng. Làm tổn hoại nó gọi là tiêu tan. Như phương thuốc hay làm lành các bệnh. Lìa các thứ tưởng, được cái vui như ở trong vườn chính pháp, nghĩa là lìa các tướng tưởng ngã, pháp, Phật v.v… Vườn, là nói trong đó có thể du ngoạn. Pháp là pháp giới, pháp là vườn, nên gọi vườn chính pháp. Ở đây vui mừng gọi là vui như ở trong vườn chính pháp. Chứng được pháp này nên gọi là được vui như ở trong vườn chính pháp. Như bên ngoài vương cung có vườn thượng uyển, dạo chơi trong đó được vui thù thắng. Pháp giới cũng vậy. Hiểu đúng được như vậy thì chung quanh có vô lượng tướng không giới hạn. Đại pháp quang minh, nghĩa là chính thông đạt tướng 10 phương vô biên không giới hạn, hiển thị chiếu sáng nên gọi là pháp quang minh, như khéo tụng tập văn tự gọi là quang minh. Thuận thanh tịnh phần, không phân biệtkhông tướng hiện hành, nghĩa là Phật quả đương lai gọi là thanh tịnh phần. Cái này có thể dắt dẫn cái kia, gọi là thuận. Không phân biệt, không tướng hiện hành, như chiếc lọng trắng của Phật của Luân vương v.v…là khiến pháp thân viên mãn thành tựu. Có thể chính nhiếp thụ các thắng nhân về sau, nghĩa là địa thứ mười gọi là viên mãn. Nếu ở Phật địa thì gọi là thành tựu. Cảm cái nhân này là cực kỳ thù thắng nên gọi là thắng nhân. Chiêu tập các nhân về trước , nên gọi là về sau. Như vậy 5 pháp tu, tùy theo số lượng mà được 5 thứ quả.

Luận nói: Để tăng thêm sức vượt trội nên nói trong 10 địa tu riêng 10 thứ Ba-la-mật-đa. Ở 6 địa trước tu 6 thứ Ba-la-mật-đa như trước đã nói. Trong 4 địa sau tu 4 thứ là: Một là phương tiện thiện xảo Ba-la-mật-đa, nghĩa là lấy các thiện căn tập họp được của 6 Bala-mật-đa trước, hồi hướng cầu vô thượng Bồ-đề cùng tất cả chúng sinh. Hai là nguyện Ba-la-mật-đa, nghĩa là phát các thứ đại nguyện vi diệu dẫn đến các duyên thù thắng cho các Ba-la-mật-đa về sau. Ba là lực Ba-la-mật-đa, nghĩa là do 2 sức là sức tư duy chọn lựa và sức tu tập, khiến cho 6 thứ Ba-la-mật-đa trước hiện hành không gián đoạn. Bốn là trí Ba-la-mật-đa, nghĩa là do 6 Ba-la-mật-đa trước thành lập diệu trí, thụ dụng pháp lạc thành thục chúng sinh.

Lại nữa phải biết 4 thứ Ba-la-mật-đa này gồm vô phân biệt trí và hậu đắc trí. Lại trong tất cả các địa không địa nào là không tu tập tất cả Ba-la-mật-đa. Pháp môn như vậy được thâu nhiếp trong kho tàng Ba-la-mật-đa.

Giải thích: Do tăng thắng nên nói trong 10 địa tu riêng 10 thứ Ba-la-mật-đa, tức quyết định nói tu nghĩa sai biệt là không phải sao? Trong mỗi một địa tu đủ 10 thứ Ba-la-mật-đa. Cho nên không nên chỉ quyết định nói địa này là tu Ba-la-mật-đa này. Do tăng thắng nên nói không có lỗi này. Trong đây chỉ nói nghĩa tăng thắng tu không cản trở tu những cái khác. Như Khế kinh nói sơ địa tu bố thí Ba-la-mậtđa là tăng thắng hơn hết. Ngoài ra tất cả Ba-la-mật-đa khác không phải không tu tập. Tùy sức tùy phần cho đến nói rộng. Ở 6 địa trước tu 6 Ba-la-mật-đa như trước đã nói. Nghĩa là như cực hỷ v.v…trong 6 địa trước tu bố thí v.v… 6 đáo bỉ ngạn. Trong 4 địa sau tu tập 4 thứ là viễn hành v.v… trong 4 địa sau tu phương tiện v.v… 4 đáo bỉ ngạn. Phương tiện thiện xảo là không bỏ sinh tử mà cầu Niết-bàn. Đó tức gọi là phương tiện thiện xảo. Nếu từ 6 Ba-la-mật-đa trước tập họp nhiều thiện căn là vì muốn làm lợi ích các hữu tình nên không bỏ hữu tình. Phải biết đó tức là không bỏ sinh tử. Nếu đem các thiện căn này cầu vô thượng chính đẳng Bồ-đề vì muốn chứng vô thượng Phật Bồ-đề nên phải biết đó tức là mong cầu Niết-bàn. Nghĩa là phát rất nhiều vi diệu đại nguyện dẫn nhiếp các duyên đương lai Ba-lamật-đa thù thắng, tức là cầu cái duyên đáo bỉ ngạn đời vị lai, cũng là để lợi ích hữu tình cho nên muốn mau chứng Phật quả Niết-bàn phát nguyện nói: Nếu nơi đó có duyên đến bờ kia tôi nguyện đời sau sinh về nơi đó. Những nguyện như vậy vô lượng vô biên nên nói là nhiều thứ. Nói do 2 sức tư duy lựa chọn tu tập, là nơi sức này chỉ nói 2 thứ, ngoài ra các sức khác cũng bao gồm trong đó. Nói do 6 Ba-la-mậtđa trước thành lập diệu trí thụ dụng pháp lạc thành thục hữu tình, là do thí v.v… 6 pháp thành lập trí này. Lại do trí này thành lập 6 thứ, nghĩa là số, tướng v.v…các thứ phẩm loại tức gọi là thụ dụng pháp lạc. Do diệu trí này có thể hiểu rõ đúng đắn thí này, giới này, nhẫn, tiến này v.v… như đã nghe pháp các loại lợi ích hữu tình, đó gọi là lợi ích hữu tình. Lại nữa 4 thứ ba-la-mật-đa này cho đến thau nhiếp trong trí hậu đắc, nghĩa là 4 thứ phương tiện v.v… nói đây là thâu nhiếp trong trí vô phân biệt hậu đắc. Nếu lập 10 thứ Ba-la-mật-đa thì cái thứ 6 Bát-nhã chỉ lả trí căn bản vô phân biệt. Nếu lập 6 thứ Bala-mật-đa thì cái thứ 6 Bát-nhã gồm cả 2 trí là vô phân biệt trí và hậu đắc trí. Trong trí hậu đắc 4 đáo bỉ ngạn cũng thâu nhiếp trong cái thứ 6 là Bát-nhã. Pháp môn như vậy là thâu nhiếp trong kho tàng Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức tất cả giáo pháp Đại thừa đều gọi là Ba-la-mật-đa tạng. Như vậy pháp môn 10 địa thâu nhiếp trong tạng ấy. Do mỗi mỗi địa đều tất cả thâu nhiếp trong Đáo bỉ ngạn tạng cho nên dây chứng minh rằng trong tất cả địa đều tu đủ tất cả Ba-la-mật-đa.

Luận nói: Lại nữa, trải qua bao nhiêu thời gian tu hành mới có thể viên mãn các địa?

Có 5 loại Bổ-đặc-già-la tu trải qua 3 vô số Đại kiếp. Đó là Thắng giải hành Bổ-đặc-già-la trải vô số Đại kiếp đầu tiên tu hành viên mãn. Thanh tịnh tăng thượng ý lạc hành Bổ-đặc-già-la và Hữu tướng hành, Vô tướng hành Bổ-đặc-già-la ở 6 địa trước và địa thứ 7 trải vô số Đại kiếp thứ hai tu hành viên mãn. Tức Vô công dụng hành Bổ-đặc-già-la. Từ đây trở lên đến địa thứ 10, trải vô số Đại kiếp thứ ba tu hành viên mãn. Ở đây có bài tụng như sau:

Sức thanh tịnh, tăng thượng,

Tâm kiên cố, thăng tiến,

Là Bồ-tát sơ tu,

Vô số 3 đại kiếp.

Giải thích: Có 5 loại Bổ-đặc-già-la tu trải qua 3 vô số Đại kiếp, nên biết rằng chỉ có một Bổ-đặc-già-la, vị sai biệt nên thiết lập 5 thứ. Sau sẽ nói thắng giải hạnh v.v… Thắng giải hạnh, nghĩa là chưa chứng chân như chỉ dựa vào thắng giải siêng tu các hạnh. Đây trải qua vô số Đại kiếp thứ nhất tu hành viên mãn. Thanh tịnh tăng thượng ý lạc hạnh, nghĩa là được ý lạc thanh tịnh tăng thượng, siêng tu các hạnh. Trong 6 địa đây gọi là hữu tướng hạnh. Trong địa thứ 7 gọi là vô tướng hạnh. Như vậy 2 thứ Bổ-đặc-già-la trải vô số Đại kiếp thứ 2 tu hành viên mãn. Trở lên cho tới địa thứ 10 sự chuyển hóa này gọi là vô công dụng hạnh trải vô số Đại kiếp thứ 3 tu hành viên mãn. Trong địa thứ 8, vô công dụng hạnh còn chưa thành tựu viên mãn. Trong địa thứ 9 thứ 10 hạnh này mới được viên mãn. Đây chỉ là một Bổ-đặc-già-la do khác vị tương ưng sai biệt thành ra năm. Như dự lưu v.v…từ vô thủy sinh tử lưu chuyển đến đâu nói là bắt đầu tu hành 3 vô số kiếp? Để đáp câu hỏi này nên nói Già-tha. Sức thanh tịnh tă g thượng, nghĩa là sức thiện căn gọi là sức thanh tịnh. Đây tức nói người có sức thiện căn. Có sức thiện căn nên có thể hàng phục các sở trị. Có nguyện lực lớn nên thường gặp thiện tri thức. Tâm kiên cố thăng tiến thì dù gặp bạn xấu phương tiện phá hoại cũng không lìa bỏ tâm Bồ-đề. Đời này đời sau tu tập thiện pháp liên tục tăng trưởng không thoái giảm. Như vậy khi đủ sức thiện căn và sức Đại nguyện, tâm Đại Bồ-đề kiên cố không thoái lui, các thiện pháp tu tập luôn tăng tiến không sinh mừng đủ thuận như trước mà tu hành gọi là bắt đầu tu hành 3 vô số kiếp.

7 – Tăng thượng giới học

Luận nói: Như vậy là đã nói về tu nhân quả sai biệt. Vậy làm sao thấy được sự thù thắng của giới tăng thượng?

Có thể thấy như trong Bồ-tát Địa Chính Thụ Bồ-tát Luật Nghi có nói.

Lại nữa có thể biết đại lược 4 thứ thù thắng sau đây nên gọi là thù thắng: một là thù thắng về chỗ khác nhau, hai là thù thắng về chỗ học có chung và không chung, ba là thù thắng về tính rộng lớn, bốn là thù thắng về tính sâu xa.

Giải thích: Y vào giới tăng thượng mà học gọi là tăng thượng giới học, như nói trong Bồ-tát Địa Chính Thụ Bồ-tát Luật Nghi. Nghĩa là như trong phẩm Thi Ba-la-mật-đa của luật nghi ấy nói rõ. Lại nữa nên biết rằng vì đại lược có 4 thứ thù thắng. Các thù thắng này sau sẽ giải thích rõ.

Luận nói: Thù thắng về chỗ khác nhau nghĩa là giới Bồ-tát có 3 phẩm khác nhau: 1.giới luật nghi, 2.giới gồm thâu thiện pháp, 3.giới làm lợi ích hữu tình.

Trong đây nên biết giới luật nghi có nghĩa là 2 giới, giới gồm thâu thiện pháp có nghĩa là tu tập tất cả Phật pháp, giới làm lợi ích hữu tình có nghĩa là làm thành thục tất cả hữu tình.

Giải thích: Thù thắng về chỗ khác nhau, nghĩa là các Bồ-tát đủ 3 thứ giới. Tức luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới. Thanh Văn thừa v.v… chỉ có một thứ luật nghi Thi-la. Cho nên Bồ-tát thù thắng hơn kia. Luật nghi giới, là chính thụ xa lìa tất cả phẩm ác và pháp bất thiện. Nhiếp thiện pháp giới, là chính tu tập tất cả Phật pháp như lực, vô úy v.v… Nhiêu ích hữu tình giới, là không kể cái vui riêng mình, tùy sức kham năng khiến nhập 3 thừa, bỏ khổ sinh tử chứng vui Niết-bàn. Về luật nghi giới nên biết rằng thiết lập nghĩa của 2 giới. Đó là nhân của 2 giới, nghĩa là nếu giữ gìn thân miệng ý thì có thể không điên đảo trong việc tu tập tất cả pháp Phật thanh tịnh, cũng có thể thành thục tất cả hữu tình khiến nhập 3 thừa. Ngoài cái gì khác thì không như vậy.

Luận nói: Thù thắng về chỗ học có chung và không chung nghĩa là các Bồ-tát tất cả tính tội đều không hiện hành nên chung với Thanh Văn, còn tương tự giá tội thì có trường hợp hiện hành nên không chung với Thanh Văn. Vì vậy đối với học xứ giá tội này, có trường hợp là Thanh Văn thì phạm nhưng Bồ-tát thì không phạm, có trường hợp là Bồ-tát thì phạm mà Thanh Văn thì không phạm. Giới của Bồ-tát là gồm cả thân miệng ý, còn Thanh Văn chỉ có 2 giới thân và miệng. Vì vậy với Bồ-tát thì có ý nghĩ xấu cũng đã phạm rồi, đó là điểm khác với Thanh Văn. Nói tóm lại, vì tất cả lợi ích hữu tình, nghiệp thân miệng ý đều vô tội, Bồ-tát đều phải học, tu và thực hành tất cả. Đó là thù thắng về chỗ học có chung và không chung.

Giải thích: Giết chóc, trộm cắp, dâm dục v.v… do tham v.v… sinh ra gọi là tính tội. Chặt cây cỏ v.v…không phải do tham sinh ra gọi là giá tội. Bồ-tát trong các thứ đó quán thấy có lợi ích mà không tội thì nên làm. Thanh Văn thì không thế. Lại đối với Bồ-tát, tâm cũng phạm tội, không như Thanh Văn. Nghĩa là chỉ khởi suy nghĩ xấu ác trong tâm như tham dục, sân nhuế hay não hại v.v… chứ không phải đợi phát khởi 2 nghiệp thân, miệng. Nói tất cả lợi ích hữu tình thì thân ngữ ý nghiệp đều không tội, nghĩa là nếu có thể đem an lạc lợi ích hữu tình mà không phát sinh phiền não cho mình và người như tham v.v… như vậy tất cả Bồ-tát nên làm.

Luận nói: Thù thắng về tính rộng lớn do có 4 thứ gọi là rộng lớn: Một là rộng lớn do chỗ học có đủ loại và vô lượng. Hai là rộng lớn do tiếp nhận vô lượng phúc đức. Ba là rộng lớn do tiếp nhận ý lạc làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh. Bốn là rộng lớn do kiến lập vô thượng chính đẳng Bồ-đề.

Giải thích: Chỗ học rộng lớn nhiều loại và vô lượng, nghĩa là Bồ-tát học Thi-la có nhiều phẩm loại sai biệt nên là rộng lớn. Rộng lớn do tiếp nhận vô lượng phúc đức, nghĩa là Thi-la này có thể thu nhận vô lượng tư lương phúc đức nên là rộng lớn. Rộng lớn do tiếp nhận ý lạc làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh, nghĩa là Thi-la này thâu nhiếp các hữu tình đời này đời khác bỏ các ác thâu các thiện thế gian và xuất thế gian ý lạc lợi ích nhân cũng như quả nên là rộng lớn. Rộng lớn do kiến lập vô thượng chính đẳng Bồ-đề, nghĩa là Thi-la này kiến lập Đại Bồ-đề nên là rộng lớn. Các Thanh Văn v.v… không có được như vậy cho nên thù thắng.

Luận nói: Thù thắng về tính sâu xa nghĩa là các Bồ-tát do phương tiện khéo léo, làm việc sát sinh v.v… 10 thứ tác nghiệp mà không có tội lại sinh vô lượng phúc, mau chứng vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Các Bồ-tát lại còn hiện hành biến hóa thân miệng 2 nghiệp, nên biết đó cũng là Thi-la sâu xa. Do nhân duyên này mà có khi Bồ-tát hoặc làm quốc vương hiện làm các việc bức hại hữu tình để đặt chúng vào trong pháp Tì-nại-da, hoặc hiện làm các việc bản sinh, hiện làm các việc bức bách các hữu tình mà thực sự là để hóa độ các hữu tình khác, trước hết khiến thâm tâm chúng được tín tâm thanh tịnh sau rồi thành thục. Đó gọi là thù thắng về tính sâu xa của Bồ-tát tu học giới luật.

Giải thích: Do các phẩm loại phương tiện khéo léo này, nghĩa là bi nguyện các Bồ-tát tương ưng với diệu trí hậu đắc. Hành sát sinh v.v… 10 thứ tác nghiệp mà không có tội v.v…, nghĩa là yêu thích pháp thiện, ghét bỏ pháp bất thiện, thấy các tính tà gọi là 3 cái sau, y chỉ đây nên hành sát v.v… 7 mà không có tội, sinh vô lượng phúc, mau chứng Bồ-đề. Hoặc hành 7 cái trước không khởi 3 cái sau. Nói số lớn là 10 hoặc đã dẹp trừ, vì thử sức ấy nên tâm tạm khởi, không thể chiêu khổ báo nên không có tội, có thể trợ đạo nên sinh vô lượng phúc. Hiện hành biến hóa thân ngữ 2 nghiệp, nghĩa là y hóa thân phát khởi 2 nghiệp. Hoặc y thật thân, do hóa tâm phát thân ngữ 2 nghiệp. Ý nghiệp vô hình không thể biến hóa. Hoặc tuy hiện có các việc tham sân v.v…nhưng đối với việc hóa độ hữu tình không có nghĩa lợi lớn nên khôg nói. An lập hữu tình trong Tì-nại-da, nghĩa là làm vua trong nước chế các pháp luật, trong đó có làm các việc bức não. Hoặc tất cả thiện có thể diệt các ác. Hoặc Đại Niết-bàn diệt trừ sinh tử gọi là Tì-nại-da. Hoặc hiện các việc bản sinh, nghĩa là các việc bản sinh của các Bồ-tát do hóa tâm thị hiện. Hoặc thành Phật đã lâu lại thị hiện các việc bản sinh, lợi ích hữu tình khiến học Bồ-tát, cho nên sau nói là Bồ-tát học Thi-la.

Luận nói: Do sơ lược nói 4 thứ thù thắng này nên biết Thi-la luật nghi của Bồ-tát là thù thắng bậc nhất.

Như vậy nên biết rằng học xứ Bồ-tát còn rất nhiều sai khác, như được nói trong Kinh Phương Quảng Tì-nại-da Cù-sa.

Giải thích: Trong đây lược nói 4 thứ tướng thù thắng. Trong Kinh Tì-nại-da Cù-sa có nói rõ lại có vô lượng thù thắng. Kinh này tức bao gồm Bồ-tát tạng nên gọi là Phương quảng.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10