NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Vô Tính Bồ-tát tạo luận
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 5

3 – 2. Sở tri tướng

Luận nói: Lại nữa làm sao biết được, như tự tính y tha khởi, tự tính biến kế sở chấp hiển hiện nhưng không xứng thể?

Vì trước khi có cái tên thì cái biết không có, nói xứng thể là mâu thuẫn. Do tên có nhiều, nhiều mâu thuẫn với thể. Cho nên do tên không quyết định mà mâu thuẫn với tạp thể. Ở đây có 2 bài tụng như sau:

Trước tên , không tri giác,

Tên nhiều không nhất định.

Thành xứng thể, nhiều thể,

Tạp thể mâu thuẫn nhau.

Pháp không mà như có,

Không nhiễm mà có tịnh.

Nên biết như ảo thuật,

Cũng tựa như hư không.

Giải thích: Như y tha khởi, biến kế sở chấp tuy có thể hiển hiện được mà không xứng với thể của nó. Để hiển thị nghĩa này nên nói do trước khi có tên thì không có cái biết v.v… Nếu y tha khởi cùng biến kế sở chấp đồng một tướng thì rời bỏ cái tên, nơi biến kế sở chấp phải không có cái biết. Như không thể nói tự lãnh thụ, hiện lượng sở đắc trong y tha khởi không đợi có tên mới sinh cái biết. Điều này không thể có. Cho nên nói y tha khởi, biến kế sở chấp xứng thể với nhau là không đúng lý. Nói do tên có nhiều thể nhiều mâu thuẫn nhau, nghĩa là do sức ý giải, kế chấp nơi nghĩa trong y tha khởi. Trong một nghĩa lập ra nhiều tên. Như sách Ni-kiền-đồ một vật lập nhiều tên. Như một con bò có nhiều tên. Chẳng phải nơi một vật có nhiều tự tính mà không mâu thuẫn nhau. Cho nên y tha khởi biến kế sở chấp không đồng một tướng. Do tên không nhất định nên tạp thể mâu thuẫn, nghĩa là nơi nhiều vật loại tùy theo ý muốn đặt ra một tên. Rồi lại một tên đó tùy nơi tùy lúc có nghĩa riêng, nếu tên và nghĩa đồng một tướng thì nghĩa phải lộn xộn. Đã không có chuyện này nên không không có nghã như tên. Trong Già-tha, một Già-tha đầu tiên sơ lược gồm nghĩa nói ở trên dễ tiếp nhận, nên một Già-tha sau giải thích câu hỏi thông thường về biến kế sở chấp và viên thành thật.

Luận nói: Lại nữa vì sao như chỗ hiển hiện là không thật có, mà tự tính y tha khởi không phải tất cả , tất cả đều không có. Nếu tự tính y tha khởi là không, thì tự tính viên thành thật cũng không. Nếu tự tính y tha khởi là không , thì tất cả đều không. Nếu tự tính y tha khởi và viên thành thật là không, thì sẽ thành cái lỗi là không có nhiễm tịnh. Nhưng tạp nhiễm và thanh tịnh đã là hiện có, cho nên không nên nói tất cả đều không. Ở đây có bài tụng như sau:

Nếu không y tha khởi,

Viên thành thật cũng không.

Nhất thiết chủng nếu không,

Mãi mãi không nhiễm tịnh.

Giải thích: Không phải tất cả đều vô sở hữu, nghĩa là không phải tất cả chủng tử hiển hiện, sở y, sở duyên, căn bản đều là vô sở hữu. Lại nữa nói tất cả, là tất cả mọi thời mọi lúc. Nói tự tính viên thành thật cũng vô sở hữu, nghĩa là nếu không tạp nhiễm thì thanh tịnh cũng không. Hỏi: Nếu không có hai tính, thì tính viên thành thật phải thành tựu chứ sao lại nói không? Đáp: Tự tính thanh tịnh là tính viên thành thật. Ly cấu thanh tịnh không phải là tính viên thành thật. Văn tụng dễ hiểu không phải giải thích nữa.

Luận nói: Chư Phật Thế Tôn nói giáo nghĩa Phương Quảng trong Đại thừa. Giáo nghĩa ấy nói như sau:

Nên biết tự tính của biến kế sở chấp như thế nào?

Nên biết vì tự tướng sai biệt nên nói là không thật có.

Nên biết tự tính của y tha khởi như thế nào?

Nên biết nó như ảo thuật, như sóng nắng, như chiêm bao, như ảnh tượng, như bóng sáng, như tiếng vang trong hang, như trăng dưới nước, như biến hóa.

Nên biết tự tính của viên thành thật như thế nào?

Nên biết nói rõ 4 pháp thanh tịnh. Những gì là 4 pháp thanh tịnh? Một là tự tính thanh tịnh, tức thắng nghĩa của pháp giới chân như, chân không, và thật tế không có tướng. Hai là lìa cấu uế thanh tịnh, tức lìa tất cả các chướng nhơ bẩn. Ba là được thanh tịnh đạo, tức các pháp Bồđề phần, Ba-la-mật-đa v.v…Bốn là sinh cảnh thanh tịnh, tức các giáo pháp Đại thừa vi diệu, duyên từ giáo pháp thanh tịnh này nên chẳng phải là tự tính biến kế sở chấp, là tính đẳng lưu của pháp giới rất thanh tịnh nên chẳng phải là tự tính y tha khởi. Như vậy 4 pháp này gồm thâu tất cả các pháp thanh tịnh. Ở đây có 2 bài tụng như sau:

Như huyễn, là nói sinh,

Nói không, là biến kế,

Nói 4 thứ thanh tịnh,

Là nói viên thành thật.

Tự tính và ly cấu,

Thanh tịnh đạo sở duyên,

Tất cả pháp thanh tịnh,

Đều gồm trong 4 tướng.

Giải thích: Trong giáo lý Đại thừa , muốn dùng phương tiện nói có 3 thứ tự tính. Cho nên trước khi hỏi phải biết dị môn, nghĩa là tự tướng sai biệt của nó. Nói vô sở hữu, nghĩa là nói biến kế sở chấp tức là dị môn. Nói vô sở hữu là rốt ráo không, cho nên tính y tha khởi có các nghĩa sai biệt như ảo hóa, như sóng nắng v.v… sau sẽ nói đến. Tự tính thanh tịnh, nghĩa là tự tính này ở trong địa vị dị sinh cũng là thanh tịnh. Nghĩa là chân như thì tính không thay đổi, cho nên đó là tướng chung bình đẳng của các pháp. Do đó trong Thánh giáo nói tất cả hữu tình có Như Lai tạng. Không, nghĩa là ở trên y tha khởi biến kế sở chấp vĩnh viễn không hiển thị lý tính chân thật. Nói thật tế là chân, nên gọi là thật, cứu cánh gọi là tế. Tiếng tế tức là nói biên tế, như cung biên tế. Nói vô tướng, nghĩa là vĩnh viễn lìa bỏ tướng của tất cả sắc v.v… Nói thắng nghĩa, tức là thắng trí chứng nghĩa. Nói pháp giới, nghĩa là nhân của tất cả tịnh pháp, cho nên tiếng pháp giới này là nhân của pháp giới. Nói như thế giới bằng vàng v.v…lìa cấu thanh tịnh, văn dễ hiểu không phải giải thích nữa. Được đạo này thanh tịnh, nghĩa là có thể chứng được đạo thanh tịnh chân như lìa cấu. Nói Bồ-đề, nghĩa là vĩnh viễn đoạn trừ phiền não chướng và sở tri chướng. Trí vô cấu vô ngại là tự tính, tùy thuận kia cho nên gọi là phần, tức niệm, trụ v.v… 37 phẩm và 10 Ba-la-mật-đa. Ba-la-mật-đa sau sẽ giải thích rộng. Chữ đẳng là v.v… nghĩa là đồng đẳng lấy hết tất cả thánh đạo. Sinh cảnh thanh tịnh này, chữ này tức các Thánh đạo đã nói trước Bồ-đề phần này v.v… Ngoài ra nghĩa văn 2 tụng dễ hiểu không phải giải thích nữa.

Luận nói: Lại nữa vì lý do gì kinh nói tự tính y tha khởi ví như ảo hóa v.v…?

Vì để trừ mối nghi ngờ hư vọng đối với tự tính y tha khởi.

Những mối nghi ngờ ấy như thế nào?

Là những nghi ngờ hư vọng đối với tự tính y tha khởi, do đó nghi ngờ như sau:

Vì sao không thật có, mà thành cảnh giới của hiện hành được?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như ảo hóa.

Vì sao không thật có, mà có tâm tâm sở pháp chuyển biến?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như sóng nắng.

Vì sao không thật có, mà có các thụ dụng sai biệt đáng ưa , không đáng ưa?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như chiêm bao.

Vì sao không thật có, mà lại sinh các quả báo đáng ưa không đáng ưa của các nghiệp tịnh và bất tịnh khác nhau?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như ảnh tượng.

Vì sao không thật có, mà có các thức chuyển biến?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như bóng sáng.

Vì sao không thật có, mà có những phát ngôn vô nghĩa?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như tiếng vang trong hang.

Vì sao không thật có, mà thật có các cảnh Tam-ma-địa chuyển hiện?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như trăng trong nước.

Vì sao không thật có, mà các Bồ-tát dùng tâm không điên đảo, thụ sinh để làm việc lợi lạc hữu tình?

Để trừ nghi ngờ đó nên nói ví dụ như biến hóa.

Giải thích: Hư vọng nghi, nghĩa là khởi các nghi hoặc đối với nghĩa hư vọng. Vì sao vô nghĩa mà khi kế chấp lại hiển hiện rõ ràng tựa như cảnh thật? Để ngăn ngừa mối nghi này nên với ví dụ như chuyện ảo hóa. Như thật không có ảnh tượng mà có ảnh tượng ảo của cảnh sở duyên, tính y tha khởi cũng như vậy. Tuy không có 6 xứ sở duyên như sắc v.v… khi kế chấp tựa như có 6 xứ sở duyên hiển hiện. Lại như sóng nắng khi có gió động, thật không có nước mà thấy như nước. Khí thế gian bên ngoài cũng như vậy. Lại như ngủ chiêm bao, tâm tâm pháp họp tụ, tạo thành cảnh rất muội lược, tuy không có các cảnh giới như người nữ v.v…các thứ, thế mà tâm sinh cảm thụ ái phi ái v.v…Khi thức cũng vậy. Lại như ảnh tượng trong gương, thấy bản chất mà bảo ta thấy ảnh tượng khác, mà đó lại là ảnh tượng hoàn toàn không thật có. Nếu không phải ở đẳng dẫn địa thì các thiện ác tư nghiệp bản chất là duyên ảnh tượng sinh quả cũng như vậy. Lại người chơi đùa với bóng, ánh sáng che chắn sinh các hình ảnh. Các thức ở trong định, chuyển theo các nghĩa sai biệt không thật. Lại như tiếng vang trong hang, thật sự là không có tiếng mà nghe tựa như nghe tiếng thật. Các thứ ngôn thuyết ngữ nghiệp cũng vậy. Lại như mặt trăng dưới nước là do nước trong đứng lặng. Tuy không có mặt trăng mà có thể thấy mặt trăng. Duyên cảnh thật nghĩa huân tập làm tính, ý tương ưng các Tam-ma-địa cũng như vậy. Tuy không có cảnh giới thật nghĩa sở duyên mà như có chuyển. Đây và ảnh tượng có khác biệt gì? Có khác biệt trong định và không định. Có thuyết nói gương mặt v.v…là các duyên hòa hợp, ảnh sinh trong mặt nước và mặt gương có thể thấy rõ ràng, như các sắc thái của ngọc phả-chi-ca sinh ra không phải vậy sao? Đó là do sở thủ sai biệt. Như rời nước và gương, mặt trăng và gương mặt có thể thấy rõ ràng. Các sắc thái do phả-chi-ca hiện ra không phải như vậy, cho nên không ví dụ giống nhau. Lại chẳng phải chúng ta chấp nhận có nước v.v…các thật nghĩa hữu pháp không thành nên không phải tỷ lượng. Lại như biến hóa, dựa vào biến hóa này gọi là biến hóa. Tuy không có thật mà có thể hóa ra là không có điên đảo. Đối với những gì hóa ra cần phải dụng công. Bồ-tát cũng vậy. Tuy không biến kế sở chấp hữu tình đối với y tha khởi, do ai mẫn các loại hữu tình nên qua đó tiếp thụ tự thể sinh nơi đó. Phải biết rằng trong đây chỉ có cái nghi ngờ hư vọng của ông mà thôi. Nói nội ngoại thụ dụng là sai biệt thân nghiệp, ngữ nghiệp ba thứ ý nghiệp không phải đẳng dẫn địa. Nếu đẳng dẫn địa, nếu không điên đảo, trong 8 việc này chư Phật Thế Tôn nói 8 thí dụ. Những người có trí nghe nói thế, trong nghĩa 2 địa định và bất định có thể hiểu đúng.

Luận nói: Thế Tôn dựa vào mật ý gì, trong Kinh Phạm Vấn nói: Như Lai không sinh tử, không Niết-bàn?

Mật ý của Như Lai là nói trong tự tính của y tha khởi, biến kế sở chấp và viên thành thật, sinh tử và Niết-bàn không sai biệt. Bởi vì sao? Vì chính nơi tự tính y tha khởi, do biến kế sở chấp phân thành sinh tử, do viên thành thật phân thành Niết-bàn.

Giải thích: Nói Thế Tôn dựa vào mật ý gì, cho đến vô sai biệt mật ý, hoặc hỏi hoặc đáp cả hai đoạn bản văn, nghĩa đều dễ hiểu không phải giải thích. Bởi vì sao? Dưới giải thích trên, mật ý sinh tử Niết-bàn không sai biệt. Nếu khiển trừ biến kế hằng không, những cái khác không được sinh tử, không được lúc này lại được quán thấy tịch diệt Niết-bàn. Nhưng trong này nói thiên một không thành tính vô sai biệt. Để khiển trừ chấp trước điên đảo của hạng ngu phu định tính sai biệt, cũng tức là hiển thị nghĩa y tha khởi. Y 2 tự tính là không quyết định.

Luận nói: Trong Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma, Bạc-già-phạm nói có 3 thứ pháp: một là tạp nhiễm, hai là thanh tịnh và ba là hai phần ấy.

Thế Tôn dựa vào mật ý gì đã nói như vậy?

Tức là trong tự tính của y tha khởi thì tự tính của biến kế sở chấp là phần tạp nhiễm, tự tính của viên thành thật là phần thanh tịnh. Tức y tha khởi là 2 phần ấy. Dựa vào mật ý ấy Thế Tôn đã nói như vậy.

Lấy thí dụ gì để làm rõ nghĩa này?

Làm rõ nghĩa này bằng thí dụ đất có chứa vàng. Ví như trong thế gian có 3 thứ có thể được trong đất có vàng: một là cõi địa giới, hai là đất, ba là vàng. Trong cõi địa giới, đất không phải thật có mà có thể có được, vàng là thật có mà không thể có được, khi dùng lửa nung luyện, tướng đất không hiện mà tướng vàng hiện ra. Vì vậy cõi địa giới là 2 phần kia. Thức cũng như vậy, khi lửa trí vô phân biệt chưa nung luyện thì trong thức này hiển hiện những hư vọng của tự tính biến kế sở chấp, còn cái chân thật của tự tính viên thành thật không hiện ra. Nếu thức này khi được lửa trí vô phân biệt nung luyện thì cái chân thật của tự tính viên thành trong thức này hiển hiện, còn những hư vọng của tự tính biến kế sở chấp không hiện ra. Vì vậy cái thức hư vọng phân biệt này, tự tính y tha khởi có 2 phần ấy, như vàng và đất ở trong cõi địa giới.

Giải thích: Vàng chứa trong đất có 3 pháp dụ 3 tự tính. Địa giới là dùng sự cứng chắc làm tính. Tàng chứa, là chủng tử đất vàng. Đất vàng là hiển sắc hình sắc. Như lần lượt 3 đại chủng tạo làm 3 pháp thể. Khi đất hiển hiện là hiển hiện hư vọng, nghĩa là vì không phải tự tính của nó. Khi vàng hiển hiện là chân thật hiển hiện vì là tính của nó. Vì vậy địa giới là 2 phần của nó, là 2 thứ phần đất và vàng của nó. Địa giới thì dụ cho tính y tha khởi. Đất dụ cho tính biến kế sở chấp. Vàng dụ cho tính viên thành thật. Thức cũng như vậy, nghĩa là đem pháp hợp với dụ. Bởi duy thức tính là y tha khởi. Biến kế sở chấp và viên thành thật là tính phần của nó. Khi lửa trí vô phân biệt thiêu đốt thì 2 thứ tính phần là chân thật và hư vọng, lần lượt một hiển hiện một không hiển hiện.

Luận nói: Thế Tôn có chỗ nói các pháp là thường, có chỗ nói các pháp là vô thường, có chỗ nói tất cả pháp là chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Dựa vào mật ý gì mà Thế Tôn nói như vậy?

Nghĩa là nơi tự tính y tha khởi, do tính viên thành thật phân ra thành thường, do tính biến kế sở chấp phân ra vô thường, và do 2 phần ấy mà thành phi thường phi vô thường. Dựa vào mật ý này, Thế Tôn đã nói như vậy. Như thường vô thường và không hai thì như vậy khổ, vui và không hai, tịnh bất tịnh và không hai, không bất không và không hai, ngã vô ngã và không hai, tịch tĩnh không tịch tĩnh và không hai, có tự tính không tự tính và không hai, sinh không sinh và không hai, diệt bất diệt và không hai, bản lai tịch tĩnh chẳng phải bản lại tịch tĩnh và không hai, tự tính Niết-bàn chẳng phải tự tính Niết-bàn và không hai, sinh tử Niết-bàn và không hai cũng vậy. Những sai biệt như vậy toàn là mật ngữ của chư Phật, phải do 3 tự tính mà quyết định mới hợp lý, như trên nói thường vô thường v.v…Ở đây có một số bài tụng như sau:

Các pháp không thật có,

Nhưng có nhiều biểu hiện.

Phi pháp phi phi pháp,

Nên nói nghĩa không hai.

Y một phần khai hiển,

Thì hữu hoặc phi hữu.

Y hai phần mà nói,

Phi hữu, phi phi hữu.

Như hiển hiện phi hữu,

Cho nên nói là không.

Do hiển hiện như vậy,

Cho nên nói là có.

Tự nhiên tự thể không,

Tự tính không kiên trụ.

Như chấp thủ không có,

Cho là không tự tính.

Do không tự tính nên

Là y chỉ sau đây.

Vốn lặng không sinh diệt,

Tự tính Bát-niết-bàn.

Giải thích: Có nơi Thế Tôn nói tất cả pháp là thường v.v…, nghĩa là pháp tính y tha khởi, thể chân như là thường trú, phần một bên của tự tính biến kế sở chấp là vô thường. Cái này thường không, cho nên tính này thường không, vì vậy gọi là vô thường. Chẳng phải có sinh diệt nên gọi vô thường. Hai phần sở y gọi là phi thường cũng phi vô thường, là không có 2 tính. Lạc tức phần của viên thành thật. Khổ tức là phần của biến kế sở chấp. Không hai, là phần y tha khởi. Như vậy tịnh bất tịnh, không bất không, ngã vô ngã, tịch diệt bất tịch diệt, hữu tự tính vô tự tính, sinh bất sinh, diệt bất diệt, bản lai tịch tĩnh phi bản lai tịch tĩnh, tự tính Niết-bàn phi tự tính Niết-bàn, sinh tử Niết-bàn không hai v.v… tùy chỗ thích hợp đều dựa vào 3 tính để giải thích sự sai biệt. Để cho hữu tình dễ thụ trì nên lại nói như pháp thật không có v.v… vì câu kết văn trường hàng dễ biết. Như chỗ hiển hiện, phi hữu tính nên là phi pháp. Mà hiển hiện nên là phi phi pháp. Do phi pháp phi phi pháp này nên nói nghĩa không hai. Như vậy nên giải thích dựa vào một phần khai hiển hoặc hữu hoặc phi hữu. Nếu chỗ hiển hiện không phải có như vậy mà có hiển hiện, cho nên dựa vào 2 phần mà nói là phi hữu mà cũng là phi phi hữu, vì là tính không hai. Như trước nên biết rằng nếu hiển hiện là phi hữu, thì ngã tính, pháp tính, sở thủ năng thủ v.v…, các thể như vậy đều không có tính, phi lượng sở chứng nên nói là không. Do hiển hiện như vậy, là như Tát-ca-da kiến, thật không có ngã ngã sở. Chỉ là do sức chuyển biến các hý luận huân tập từ vô thủy đến nay nên tựa như có hiển hiện. Đây cũng vậy nên nói là có. Bởi tĩnh lự môn không có 2 thanh chuyển, không như các dị loại khác. Nếu vậy là không đồng ly hệ luận. Lẽ nào có như kia dựa vào tà kiến, đây dựa vào chính kiến, kia chấp phi nhất cùng nhau mâu thuẫn, có điều không muốn trái nghịch tất cả sở kiến nên nói không hai? Đây trong Phật pháp, tính y tha khởi trong 2 tính không nhất định thuộc về một, cho nên nói không hai. Cho nên lý của kia và đây rất cách xa. Tự nhiên tự thể không, nghĩa là dựa vào các duyên nên nói tự nhiên không. Sát-na sinh trước cũ rồi nên chẳng phải mới, gọi là tự thể không tự tính. Không kiên trụ, là sau một sát-na thì tính diệt hoại. Cái lý không tự tính này chung với Thanh Văn. Như chấp thủ cái bất hữu nên cho là không tự tính, nghĩa là đây là không chung với lý không tự tính. Như có điên đảo chấp có ngã v.v…Như vậy ngu phu chấp các pháp đều vô sở hữu nên trong Đại thừa cho rằng tất cả pháp đều không tự tính. Do vô tính mà thành, nghĩa là do các đạo lý vô tự tính vô sinh diệt v.v.. mà thành lập. hậu hậu sở y chỉ, nghĩa là do vô tự tính nên không có sinh. Do không sinh nên không có diệt. Vì không sinh diệt nên bản lai tịch tĩnh. Vốn tịch tĩnh nên tự tính Niết-bàn. Nên biết các câu sau là dựa vào các câu trước mà được giải thích. Như vậy tùy thuận 4 thứ phương tiện thắng hạnh có thể ngộ nhập Bồ-tát hiện quán, ví như Thanh Văn vô thường các hạnh v.v…

Luận nói: Lại có 4 thứ ý thú và 4 thứ bí mật, tất cả lời Phật nói phải quyết định tùy trường hợp.

Bốn ý thú là: Một là ý thú bình đẳng. Nghĩa là như nói ta xưa kia khi ấy từng ở nơi ấy là bậc chính đẳng giác tên là Thắng Quán. Hai là ý thú khác thời. Nghĩa là như nói: Ai niệm danh hiệu đức Đa Bảo Như Lai tức đã được quyết định vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Lại như nói: Do chỉ cần phát nguyện, liền được vãng sinh thế giới Cực Lạc. Ba là ý thú khác nghĩa. Nghĩa là như nói: Nếu đã được gặp và phụng sự chư Phật nhiều như số cát sông Hằng thì mới có thể hiểu nghĩa pháp Đại thừa. Bốn là ý thú tùy ý lạc của chúng sinh. Nghĩa là vì một chúng sinh mà trước khen ngợi sự bố thí sau lại chê. Đối với bố thí như vậy thì đối với việc trì giới và một phần tu pháp cũng như vậy. Đó gọi là 4 thứ ý thú.

Bốn bí mật là: Một là bí mật về sự khiến dẫn nhập. Nghĩa là trong Thanh Văn thừa hoặc trong Đại thừa, dựa vào lý thế tục đế nói có tự tính sai biệt của chúng sinh và các pháp. Hai là bí mật về tướng. Nghĩa là ở nơi đó nói tướng của các pháp làm rõ 3 tự tính. Ba là bí mật đối trị. Nghĩa là ở nơi đó nói 8 vạn 4 ngàn hành tướng đối trị. Bốn là bí mật chuyển biến. Nghĩa là ở nơi đó dùng lời, dùng chữ có nghĩa đặc biệt để hiển thị ý nghĩa đặc biệt. Như có bài tụng như sau:

Biết không vững là vững,

Trụ giữa nơi điên đảo.

Phiến não quấy cùng cực,

Được Bồ-đề cao tột.

Giải thích: Quán xa nơi người và muốn nhiếp thụ gọi là ý thú.

Quán gần ở nơi người muốn khiến ngộ nhập, gọi là bí mật. Ý thú bình đẳng, nghĩa là một luận Phật tư lương v.v…tương tự nhau nên nói ta xưa khi từng ở nơi kia v.v…Như có ý duyên tính tương tự nhau nói rằng kia tức là ta, nhưng không phải Phật Tì-bà-thi thuở xưa tức là Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn ngày nay. Biệt thời ý thú, nghĩa là quán giải đãi, không thể đối với pháp siêng năng tu học cho nên nói nếu tụng niêm danh hiệu Đa Bảo Như Lai liền được quyết định. Do chỉ phát nguyện liền được vãng sinh thế giới cực lạc, ý này trưởng dưỡng thiện căn trước. Như thế gian nói do một đồng mà được một ngàn đồng. Biệt nghĩa ý thú, nghĩa là chứng tướng Đại thừa pháp nghĩa với giáo tướng Đại thừa pháp nghĩa rất sai khác. Do ý thú này nói như thế. Nếu đã gặp và phụng sự chư Phật nhiều như số cát sông Hằng thì đối với pháp Đại thừa mới có thể hiểu nghĩa, vì cực kỳ sâu xa. Trong pháp Đại thừa chọn lấy thánh giả, nghĩa là lựa bỏ chỗ sở chứng của tự mình mà tùy theo lời nói mà hiểu nghĩa. Bổ-đặc-già-la ý lạc ý thú, nghĩa là trước vì tham lam keo kiệt nên ca ngợi bố thí, sau vì vui thích bố thí mà chê bố thí, trước vì phạm giới nên ca ngợi Thi-la, sau vì giữ giới mà chê Thi-la. Đó là vì muốn sự tu hành được thiện phẩm cao hơn. Một phần tu, nghĩa là tu tập thế gian. Khiến ngộ nhập bí mật, nghĩa là có chỗ nói Bổ-đặc-già-la và tất cả pháp tự tính sai biệt là để khiến ngộ nhập lý thế tục đế. Như trong Thanh Văn thừa nói có các hữu tình hóa sinh v.v… Như trong Đại thừa để hóa độ nỗi sợ hãi đoạn các hữu tình, nên nói tâm thường v.v…Tướng bí mật, nghĩa là khiến ngộ nhập tướng sở tri. Đối trị bí mật, nghĩa là để đối trị các sở trị như tham v.v…các hành sai biệt 8 vạn 4 ngàn. Chuyển biến bí mật, nghĩa là chuyển biến sai biệt nơi nghĩa chữ. Biết không kiên là kiên, nghĩa là cương cường lưu tán gọi là kiên, chẳng phải kiên cố này gọi là không kiên. Tức là định điều nhu không tán loạn, tức là ở trong khởi lên tuệ giác kiên cố. Kia vì kiên thiện, trụ nơi điên đảo, nghĩa là khéo an trụ ở nơi 4 điên đảo, biết là điên đảo nên quyết định không động. Bị nhiều phiền não làm não loạn, nghĩa là vì để hóa độ hữu tình nên chịu cực nhọc mà tinh tiến. Như có tụng nói ở trong sinh tử chịu khổ não đã lâu chỉ vì do tâm Đại bi v.v… Được Bồ-đề cao tột, nghĩa là được nghĩa Tam-bồ-đề của chư Phật.

Luận nói: Nếu có người muốn giải thích pháp Đại thừa thì đại khái nên giải thích theo 3 tướng: Một là theo thuyết duyên khởi. Hai là nói về tướng của các pháp do từ duyên sinh. Ba là nói theo ngữ nghĩa.

Giải thích: Vì muốn khai hiểu các nhà tạo thích giải thích đạo lý, nên lược nói có 3 tướng.

Luận nói: Trong đây, nói duyên khởi là như nói:

Các pháp huân tập sinh,

Cái này từ cái kia.

Dị thục và chuyển thức,

Cùng nhau làm duyên sinh.

Giải thích: Như vậy là đã nói xong sở tri y của pháp duyên khởi và duyên sinh. Tướng của nó đã giải thích là có 3 tướng duyên khởi. Cho nên nay ở đây lại sơ lược hiển thị thức A-lại-da cùng chuyển thức làm nhân quả cho nhau. Vì vậy trong Già-tha nói huân tập sinh v.v…

Luận nói: Lại nữa pháp tướng của chuyển thức kia có tướng có kiến thức làm tự tính. Chuyển thức kia lấy chỗ sở y làm tướng, lấy biến kế sở chấp làm tướng, lấy pháp tính làm tướng. Do đó hiển thị tướng của 3 tự tính, như nói:

Từ có tướng có kiến,

Nên biết 3 tướng kia.

Lại nữa nên giải thích 3 tướng kia như thế nào?

Nghĩa là trong tướng y tha khởi, tướng biến kế sở chấp thì không, tướng viên thành thật thì có. Do 2 thứ không có với có này mà không được và được, chưa thấy và thấy, với chân như là đồng thời. Nghĩa là nơi y tha khởi, trong tự tính không có biến kế sở chấp mà có viên thành thật nên khi chuyển theo nhiễm tịnh thì nếu được kia thì không được đây, nếu được đây thì không được kia. Như nói:

Y tha: không biến kế,

Mà thành thật thì có.

Nên được và không được,

Trong đó hai bình đẳng.

Giải thích: Thức có tướng có kiến làm tự tính, như trước đã nói. Tự tính của tướng thức, tức là sắc thức v.v… và nhãn thức v.v… Tự tính của kiến thức, tức là căn thức thức v.v… lại nữa kia lấy y xứ làm tướng, nghĩa là vì tướng y tha khởi là chỗ sở y của 2 tự tính. Biến kế sở chấp làm tướng, tức là tự tính biến kế sở chấp. Pháp tính làm tướng, tức là an lập nơi tịnh phần này. Để hiển thị nghĩa này nên nói nửa kệ tụng. Từ hữu tướng hữu kiến nên biết 3 tướng kia. Chưa thấy chân và đã thấy chân là đồng thời, nghĩa là nếu khi ấy chưa thấy chân thì ở trong tự tính y tha khởi thấy viên thành thật là không, biến kế sở chấp là có. Nếu khi ấy đã thấy chân thì thấy biến kế sở chấp là không, viên thành thật là có. Ở đâu? Ai? Không y tha chấp không, nghĩa là ở trong y tha khởi vì không biến kế sở chấp nên trong đó làm sao có thành thật? Ở trong đó có, là vì trong y tha khởi có viên thành thật. Trong đây hạng ngu phu vọng kiến, thấy điên đảo, phi hữu thấy hữu, hữu thấy phi hữu. Chân thật thấy Thánh giả, là do thấy không điên đảo. Hữu thấy là hữu, vô thấy là vô là hiển thị nghĩa nửa bài tụng dưới:

Nên được và không được,

Trong đó hai bình đẳng.

Luận nói: Nói về ngữ nghĩa, tức là trước nói câu đầu, sau dùng những câu khác phân biệt làm rõ. Hoặc do đức, hoặc do nghĩa.

Giải thích: Như vậy là đã giải thích ý thú các nghĩa không theo người nói. Nay sẽ tùy thuận người nói giải thích ý thú của ngữ nghĩa. Hoặc do đức, hoặc do nghĩa, nghĩa là dó ý thú của đức, do ý thú của nghĩa. Đã được, đã làm lợi ích viên mãn nên gọi là đức. Chưa được, thùy thuận tìm kiếm nên gọi là nghĩa.

Luận nói: Do đức, tức là nói công đức của Phật là tuệ giác cực kỳ thanh tịnh, hiện hành bất nhị, hướng đến pháp vô tướng, trụ vào địa vị Phật, đạt tới tính bình đẳng của tất cả chư Phật, đến chỗ không còn chướng ngại, giáo pháp thi hành không trở ngại, không thể lay chuyển, chỗ an lập không thể nghĩ bàn, dạo khắp 3 đời pháp tính bình đẳng, thân lưu bố khắp tất cả thế giới, trí thông suốt tất cả pháp, thành tựu đại giác trong tất cả hạnh, trí không nghi hoặc đối với các pháp, không thể phân biệt các hiện thân, trí tuệ mà tất cả Bồ-tát mong cầu, được trụ bờ kia tối thắng của chư Phật không hai, được giải thoát của Như Lai không xen tạp, diệu trí cứu cánh chứng địa vị không trung tâm không ngoại biên, Phật địa bình đẳng pháp giới cao tột, tính như hư không cùng tột đời vị lai. Phải biết câu tuệ giác cực kỳ thanh tịnh này được các câu khác tiếp theo phân biệt làm rõ. Nói như vậy mới gọi là khéo nói pháp.

Tuệ giác cực kỳ thanh tịnh là tuệ giác cực kỳ thanh tịnh của Phật Thế Tôn. Phải biết đó là gồm thâu 21 công đức của Phật. Tức là công đức hoàn toàn không chướng ngại đối với các pháp sở tri. Công đức nhập vào chân như có không không hai tối thắng thanh tịnh. Công đức trụ nơi Phật sự vô công dụng không ngừng nghỉ. Công đức trụ trong pháp thân, ý lạc tác nghiệp không sai biệt. Công đức đối trị, tu tất cả chướng. Công đức hàng phục tất cả ngoại đạo. Công đức an lập chính pháp. Công đức thụ ký. Công đức thị hiện thụ dụng thân và biến hóa thân trong tất cả thế giới. Công đức dứt trừ nghi. Công đức khiến nhập vào các hạnh. Công đức sinh diệu trí đối với các pháp đương lai. Công đức thị hiện đúng như sự thắng giải. Công đức gia hành làm sở y cho sự điều phục vô số chúng sinh. Công đức trọn vẹn đầy đủ pháp thân bình đẳng Ba-la-mật-đa. Công đức tùy theo sự thắng giải thị hiện cõi Phật sai biệt. Công đức về phương xứ không phân chia giới hạn của 3 thứ Phật thân. Công đức thường hiện an lạc lợi ích cho tất cả hữu tình đến tận cùng biên giới của sinh tử. Công đức vô tận.

Giải thích: Tuệ giác cực kỳ thanh tịnh, đây là câu đầu tiên do các câu khác khai hiển nghĩa ấy. Như vậy mới gọi là khéo thuyết pháp, nghĩa là lấy nhiều đức biện nói một đức. Nói ở nơi sở tri hoàn toàn chuyển công đức mà không chướng ngại, đây tức là khai thị hiện hành không hai. Nói trí Phật hoàn toàn không chướng ngại, là vì đối với tất cả sự việc phẩm loại sai biệt không chấp trước không trở ngại, không phải như trí Thanh Văn v.v… có 2 thứ có nơi có chướng ngại có nơi không chướng ngại. Hoặc hiện hành 2 nơi, trong đây không nói có 2 thứ hiện hành, cho nên nói hiện hành không hai. Do đó nói tuệ giác cực kỳ thanh tịnh vì có đầy đủ công năng trí đoạn lớn. Trong các câu sau đều nên cùng phối thuộc như vậy. Trong hữu vô không có 2 tướng, chân như cực kỳ thanh tịnh có thể nhập công đức, đây tức khai thị hướng đến pháp vô tướng.Nghĩa là chân như này có tướng viên thành thật, không có tướng biến kế sở chấp. Do đạo lý này gọi là không có 2 tướng. Không có tướng không, nên là thật có. Không có tướng có, nên sở chấp là không. Cực kỳ thanh tịnh có thể nhập công đức nghiã là chân như cực kỳ thanh tịnh, vì là đứng đầu trong tất cả các pháp, vì xa lìa tất cả khách trần cấu uế, cho nên đối với chân như này tự đã có thể ngộ nhập còn khiến người khác ngộ nhập. Cho nên nói là cực kỳ thanh tịnhcó thể nhập công đức. Do đây phải phối thuộc như trước. Tự đã thanh tịnh còn khiến người thanh tịnh nên vô công dụng Phật sự trụ công đức không ngừng nghỉ, đây là khai thị trụ nơi Phật trụ. Nghĩa là không làm dụng công trong các Phật sự, trong các hữu tình có thể không gián đoạn tùy chỗ thích hợp hằng chính an trụ Thánh thiên Phạm trụ. Không như Thanh Văn cần phải dụng công mới có thể làm được việc lợi lạc hữu tình. Không như ngoại đạo tuy có chỗ trụ nhưng không phải chỗ thiên trụ thù thắng. Tức là 4 thứ tĩnh lự, Phạm trụ tức là Bi v.v… vô lượng. Thánh trụ tức là không vô tướng v.v…Ở trong pháp thân công đức dựa vào ý lạc tác sự vô sai biệt, tức là khai thị để đến được tính bình đẳng tất cả chư Phật. Sở y vô sai biệt, nghĩa là vì tất cả đều dựa vào trí thanh tịnh. Ý lạc vô sai biệt, nghĩa là tất cả đều có lợi ích an lạc, vì tất cả hữu tình có niềm vui thắng ý. Tác nghiệp vô sai biệt, nghĩa là tất cả đều làm việc thụ dụng biến hóa lợi tha. Không như Thanh Văn v.v… chỉ có sở y. Tu công đức đối trị tất cả chướng, tức là khai thị đến chỗ không chướng ngại. Nghĩa là đã quán tập suốt thánh đạo đối trị tất cả phiền não chướng và sở tri chướng. Nhất thiết chủng trí định tự tại tính đã đến vĩnh viễn xa lìa tất cả chỗ dựa của chướng khí. Công đức hàng phục tất cả ngoại đạo, tức là khai thị pháp không thể lay chuyển. Nghĩa là giáo và chứng 2 pháp đều không bị ngoại đạo kia có thể lay chuyển được, vì không có pháp nào thắng hơn pháp này. Nói công đức sinh tại thế gian không bị pháp thế gian làm trở ngại, tức là khai thị sở hành vô ngại. Nghĩa là như ở trong đó thường dạo khắp gọi là sở hành. Tuy sở hành trong thế gian mà không bị các pháp thế gian như lợi suy v.v… yêu ghét trói buộc làm chướng ngại. Như có tụng nói:

Chư Phật thường dạo khắp thế gian,

Không đắm tất cả loài hữu tình.

Tám pháp gió nóng tà phân biệt,

Không làm khuynh động không trở ngại.

Công đức an lập chính pháp, tức là khai thị sự an lạp không thể nghĩ bàn. Nghĩa là khế kinh v.v… 12 phần giáo là sở an lập. An lập chúng, tự tướng và cộng tướng của chúng. Như vậy an lập này không phải tri giác của ngu phu có thể thực hành được, mà là tuệ giác xuất thế gian cho nên không thể nghĩ bàn. Cái an lập không thể nghĩ bàn này, tức là công đức như trước phối thuộc. Công đức thụ ký, tức là khai thị pháp tính bình đẳng dạo khắp ba đời. Nghĩa là có thể dạo khắp pháp tính bình đẳng trong ba đời, ở trong tính bình đẳng ba đời có thể tùy hiểu rõ quá khứ vị lai chuyển sự đều như hiện tại mà thụ ký. Công đức thị hiện biến hóa thân thụ dụng trong tất cả thế giới, đây tức khai thị thân ấy lưu bố tất cả thế giới. Nghĩa là tùy chỗ hóa hiện khắp thế giới, thị hiện hai thân lợi lạc chúng. Công đức đoạn nghi, tức khai thị trí không nghi ngại trong tất cả pháp, khéo quyết định trong tất cả cảnh. Không phải đối với các pháp tự mình không quyết định mà có thể giải quyết nghi cho người khác. Không phải lìa bỏ sự quyết định mà có thể đoạn nghi. Công đức khiến ngộ nhập các hạnh, tức là khai thị thành tựu đại giác đối với tất cả các hạnh. Công đức sinh diệu trí đối với các pháp đương lai, tức khai thị đối với các pháp, trí không nghi hoặc. Nói Thánh Thanh Văn cho đây hoàn toàn không có chút phần thiện căn mà vất bỏ, là Phật Bạc-già-phạm biết chúng sau sẽ sinh thiện pháp, hiện chứng biết chúng các kiếp khác các chủng tử thiện căn nhỏ nhặt sẽ đeo theo. Công đức thị hiện đúng như sự thắng giải, tức là khai thị. Tất cả hiện thân không thể phân biệt, nghĩa là tùy các thứ thắng giải của hữu tình mà hiện thân sắc vàng ròng v.v… Tuy hiện thân ấy mà không phân biệt. Như ngọc Ma-ni và ống tiêu ống sáo v.v… rộng nói như Như Lai mật kinh vô lượng sở y. Công đức gia hành làm sở y cho sự điều phục vô số chúng sinh, tức là khai thị tất cả Bồ-tát cầu trí tuệ. Nghĩa là vô lượng Bồ-tát sở y vì muốn điều phục hữu tình cho nên phát khởi sức tăng thượng của Phật. Nghe pháp để trước được diệu trí, dị loại Bồ-tát nhiếp thụ phú chúc, lần lượt liên tục chuyển không gián đoạn. Do đó chứng được cái trí tất cả Bồ-tát mong cầu. Công đức trọn vẹn đầy đủ pháp thân bình đẳng Ba-la-mật-đa, tức khai thị được Phật trụ thắng bỉ ngạn không hai. Nghĩa là không hai cho nên nói là bình đẳng. Y pháp thân bình đẳng Ba-la-mật-đa quả vị đầy đủ. Hoặc bình đẳng là không giảm không tăng. Trong pháp thân đầy đủ tất cả Ba-la-mật-đa, trong đó không có hoặc tăng hoặc giảm. Không phải như Ba-la-mật-đa trong Bồ-tát địa có tăng có giảm. Công đức tùy theo sự thắng giải thị hiện cõi Phật sai biệt, tức là khai thị sự không xen tạp, rốt ráo diệu trí giải thoát của Như Lai. Nghĩa là quán sát chỗ thắng giải sai biệt của chúng sinh hiện các cõi Phật như vàng bạc v.v… không xen tạp nhau. Khi thắng giải của Thế Tôn hiện tiền thì tùy chỗ yêu thích của chúng sinh mà đều hiển hiện, không gì không rõ biết, cho nên nói là rốt ráo diệu trí giải thoát của Như Lai trong thắng giải. Nói công đức về phương xứ không phân chia giới hạn của 3 thứ Phật thân, tức là khai thị chứng Phật địa bình đẳng không chính giữa không hai bên. Nghĩa là như thế giới không có chính giữa không ngoại biên, Phật địa cũng vậy công đức phương xứ không có phần hạn. Hoặc lại thế giới phương xứ vô biên, ba thân chư Phật trong đó gọi là thế giới lượng bình đẳng biến khắp lấy pháp thân tức trụ trong các thế giới như vậy chứ không nơi nào khác. Hoặc pháp thân ở trong Phật địa bình đẳng biến khắp không chính giữa không ngoại biên không có phần hạn. Pháp thân này bình đẳng biến khắp mọi nơi vì các chúng sinh hiện làm lợi ích nhưng không phải tự tính vô trung vô biên. Công đức thường hiện an lạc lợi ích cho tất cả hữu tình đến tận cùng biên giới của sinh tử, tức là khai thị cùng cực nơi pháp giới. Nghĩa là pháp giới này cực kỳ thanh tịnh, nên có thể khởi đẳng lưu khế kinh các pháp. Cùng cực pháp giới này trong đời vị lai tất cả hữu tình tùy theo cảm ứng thường có thể hiện làm lợi ích an lạc. Công đức vô tận, tức là khai thị tình cùng tận hư không. Nghĩa là hư không kia tính nó là không chướng ngại, nó không gây chướng ngại cho đối vật. Tính là giới, vì duy trì tự tướng, không phải như khe hở sáng tối là tính cùng tận. Như vậy tự tính của hư không là như hư không kia không biên giới, không cùng tận, không giảm, không sinh, không diệt, không thay đổi, trong tất cả mọi thời hiện tiền dụng nạp tất cả chất ngại. Pháp thân cũng vậy, thường hiện tiền làm tất cả lợi lạc hữu tình là tướng. Tận cùng tất cả cõi khắp làm việc lợi ích chúng sinh không ngừng nghỉ. Chữ đẳng là v.v…, là lấy hết tất cả công đức cứu cánh, tức khai thị tận cùng biên giới của vị lai. Nghĩa là công đức này cho đến tận cùng vị lai thường không gián đoạn. Tận cùng biên giới vị lai không biên giới là hiển thị công đức của Phật vĩnh viễn không cùng tận. Vì việc hóa độ hữu tình là vĩnh viễn không cùng tận.

Do công đức trang nghiêm này, cái tuệ giác thanh tịnh cao tột cho thấy rõ Bạc-già-phạm có tuệ giác tối thắng khác hơn các Thanh Văn Độc Giác Bồ-tát. Làm thế nào được cái tuệ giác tối thắng này, cho nên nói tiếp là hiện hành không hai. Các Thanh Văn v.v… đối với cảnh sở tri thì hiện hành có hai. Như nói chính trí không nhiễm vô trí. Phật thì không thế nên trí đức viên mãn. Để hiển thị Như Lai đoạn đức viên mãn, nên nói tiếp hướng đến pháp vô tướng, không trụ tướng sinh tử Niết-bàn. Dùng phương tiện gì được Niết-bàn này, nên nói tiếp là trụ nơi Phật trụ. Bởi Bạc-già-phạm khéo an trụ nơi không Đại bi, nên không trụ sinh tử không trụ Niết-bàn. Như vậy Phật trụ với những cái khác là chung hay không chung, nên tiêp nói là kịp đến khi được tính bình đẳng của tất cả chư Phật. Chư Phật tát cả hành tướng lần lượt hòa nhau trụ. Như vậy là đã nói tự lợi viên mãn. Tiếp đến sẽ nói rộng về lợi tha viên mãn. Để hiển thị đã được hóa giải đối trị tất cả chướng ngại, cho nên tiếp nói đến chỗ không chướng ngại. Có các ma v.v… có thể làm cho pháp thoái chuyển, có thể chuyển các việc nghĩa lợi của hữu tình. Nay trong đây không có việc ấy, cho nên tiếp nói pháp không thể chuyển. Trong các việc làm lợi ích an lạc hữu tình không có cao thấp có thể làm trở ngại, cho nên tiếp nói chỗ làm không ngại. Y theo phương tiện này có thể làm các lợi ích hữu tình, cho nên tiếp nói việc an lập ấy không thể nghĩ bàn. Gia hành như vậy, chư Phật Thế Tôn là tính bình đẳng hay sai biệt? Nếu không như vậy thì làm sao dạo trong 3 đời pháp tính bình đẳng, việc lợi hữu tình của 3 đời chư Phật đều như nhau? Việc làm lợi hữu tình như vậy là tuần tự trong mỗi mỗi thế giới chăng? Nếu không như vậy thì làm sao thân Phật lưu bố tất cả thế giới mà hiện thành Phật ngay trong tất cả thế giới? Để làm rõ có thể đoạn các chỗ sinh nghi ngờ kia, cho nên tiếp nói trong tất cả pháp trí không nghi ngại. Các hữu tình được hóa độ chủng tính khác biệt cho nên tùy sự thích ứng mà phương tiện hóa độ. Vì muốn hiển thị trí phương tiện khéo léo này, nên tiếp nói trong tất cả các hành thành tựu đại giác. Tức y theo sự hóa độ hữu tình có năng lực hay không năng lực mà có sự khéo léo sai biệt, nên tiếp nói đối với các pháp trí không nghi hoặc. Tức đối với các việc cùng hành nào tà nào chính để hóa độ hữu tình, nếu cần phải hiện tướng đều không thể phân biệt. Để làm việc này nên tiếp nói tất cả mọi hiện thân đều không thể phân biệt. Dẫn phát chủng tính tự nhiên bất định của Thanh Văn Bồ-tát nên ca ngợi Đại thừa. Để hiển thị việc này nên tiếp nói cái trí mà tất cả Bồ-tát mong cầu. Để ngăn chận Đại sư giáo hóa các hữu tình mà nghi ngờ nhất thiết trí chẳng phải nhất thiết trí, nên tiếp nói Phật được trụ thắng bỉ ngạn không hai. Nghe nói tất cả Phật được bình đẳng, tức là tất cả phải đồng một tính. Để ngăn chận sự nghi ngờ này nên tiếp nói rốt ráo diệu trí giải thoát của Như Lai là không xen tạp nhau. Cái tướng chẳng phải một chẳng phải khác là thế nào? Để đáp câu hỏi này nên tiếp nói chứng không có chính giữa không có ngoại biên, Phật địa bình đẳng. Thường, vô thường v.v… tất cả đều thuộc nhị biên. Vì sao vô tướng tránh được cái nạn này, nên tiếp nói cùng tột pháp giới, nghĩa là thanh tịnh cu gf tột lìa các hý luận. Đó là tướng của pháp giới. Các chủng loại như vậy làm việc lợi ích chúng sinh trải qua bao nhiêu thời gian, cho nên tiếp nói cùng tận như tính hư không, cùng tột biên giới của vị lai.

Luận nói: Lại nữa do nghĩa xứ, như nói: Nếu các Bồ-tát thành tựu 32 pháp mới gọi là Bồ-tát. Tức là đối với tất cả hữu tình khởi ý lạc tăng thượng làm lợi ích yên vui cho tất cả chúng sinh như: Khiến nhập trí nhất thiết trí. Tự biết mình nay không cần cái giả trí. Xô dẹp tâm ngã mạn. Ý lạc vững vàng. Không phải giả thương xót. Bình đẳng không thân sơ. Hằng làm người bạn tốt cho đến cuối cùng được Niết-bàn. Nói cân nhắc đúng mức. Tươi cười trước khi nói. Đại bi vô hạn. Việc phải chịu, không khiếp nhược thoái lui. Không có ý chán nản mỏi mệt. Nghe nghĩa lý không chán. Cảm thấy sâu sắc tội mình đã làm. Người khác tạo tội thì dạy bảo mà không giận. Hằng tu trị tâm Bồ-đề trong tất cả mọi oai nghi. Làm việc bố thí không mong cầu quả báo. Thụ trì giới luật không hướng về các nẻo sinh tử. Thực hành nhẫn nhục đối với chúng sinh không giận không ngại. Siêng năng tinh tiến vì muốn gồm thâu tất cả thiện pháp. Tu tĩnh lự xả bỏ cõi Vô sắc. Phương tiện tương ưng tu tập Bát-nhã. Lấy 4 nhiếp pháp gồm thâu các phương tiện. Đối với người giữ giới phá giới đều là bạn lành không đem tâm phân biệt. Đem tâm ân cần quý trọng mà nghe chính pháp. Với tâm trân trọng, ở nơi tịch tĩnh. Không thích các việc tạp nhạp ở đời. Không bao giờ ưa chuộng các thừa giáo thấp kém. Thấy công đức sâu xa trong Đại thừa. Xa lìa bạn ác. Gần gũi bạn lành. Hằng tu tập 4 phạm trụ. Thường vận dụng tự tại 5 thần thông. Hướng đến nương tựa trí tuệ. Không bỏ các chúng sinh dù ở trong chính hạnh hay không ở trong chính hạnh. Nói lời quyết định. Trọng chân lý sự thật. Thường lấy tâm Đại Bồ-đề làm đầu. Như vậy phải biết các câu này đều là các chi tiết của câu đầu tiên. Tức là câu ý lạc tăng thượng làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, câu này có 16 nghiệp khác nhau. Đó là: 1.nghiệp tuần tự gia hành, 2.nghiệp không điên đảo, 3.nghiệp gia hành tự nhiên, không đợi người mời thỉnh, 4.nghiệp không động, không hư hoại, 5. nghiệp không cầu không nhiễm, nên biết nghiệp này có 3 câu khác nhau, tức là vì không bị nhiễm ràng buộc nên đối với có ơn không có ơn không ưa không ghét, vì đời đời thường tùy chuyển, 6.tương xứng nghiệp thân nghiệp miệng, nên biết câu này có 2 câu khác nhau, 7.nghiệp bình đẳng đối với vui và khổ, 8.nghiệp không thấp kém, 9.nghiệp không thoái chuyển, 10.nghiệp thâu giữ phương tiện, 11.nghiệp chán ghét bị đối trị, nên biết đây có 2 câu khác nhau, 12.nghiệp tác ý không gián đoạn, 13.nghiệp tu hành thắng tiến, nên biết đây có 7 câu khác nhau, tức chính gia hành của 6 Ba-la-mật-đa và chính gia hành của 4 nhiếp sự, 14.nghiệp gia hành trọn vẹn đầy đủ, nên biết đây có 6 câu khác nhau, tức gần gũi thiện sĩ, nghe chính pháp, ở nơi thanh vắng, xa lìa các suy nghĩ xấu ác, công đức tác ý, nên biết câu này lại có 2 câu khác nhau, tức công đức trợ bạn, nên biết đây lại có 2 câu khác nhau, 15.nghiệp đầy đủ trọn vẹn, nên biết đây có 3 câu khác nhau, tức là thanh tịnh vô lượng, được uy lực lớn, công đức chứng đắc, 16.nghiệp an lập cho người, nên biết đây có 4 câu khác nhau, tức công đức điều khiển chúng, dạy dỗ răn dạy quyết định không nghi ngờ, hợp nhất tài và pháp, không tâm tạp nhiễm. Phải biết các câu ấy đều là chi tiết của câu đầu tiên.

Giải thích: Ba mươi hai pháp do 16 nghiệp phân biệt hiển thị nghiệp của chúng. Ý lạc tăng thượng làm lợi ích yên vui, tức là hoặc có lợi ích mà chẳng an vui, như người có lòng tham quá mạnh mà miễn cưỡng tu phạm hạnh. Hoặc có an vui mà chẳng lợi ích, như người lạc dục thụ dụng các cảnh giới tội lỗi. Hoặc có lợi ích và cũng an vui, như bạc trần tính Bổ-đặc-già-la vui tu phạm hạnh. Trong Bồtát khởi tâm niệm như thế này: Làm sao có thể khiến tất cả hữu tình sẽ được lợi ích an lạc cao tột. Nói ý lạc, tức là lấy dục và thắng giải làm tự tính. Ý lạc này vượt trội nên gọi là tăng thượng ý lạc. Khiến ngộ nhập trí nhất thiết trí, nghĩa là giải thích như lần lượt nghiệp gia hành. Ví như một ngọn đèn chuyển thắp ngàn ngọn đèn. Do nghiệp này nên ý lạc tăng thượng lợi ích an lạc được hiển hiện. Như vậy trong tất cả các câu sau, ý lạc tăng thượng lợi ích an lạc đều được phối hợp giải thích. Tự biết ta ngày nay nào có giả trí, tức là giải thích nghiệp không điên đảo. Hoặc có ý lạc tăng thượng lợi lạc mà điên đảo cho nên phải tự biết ta nay nào có giả. Do trí này nên nói là nghiệp không điên đảo. Nghĩa là ta chỉ có cái văn tuệ như thế, biết rõ tự có đủ năng lực chứng nhập thánh giáo, tùy thích ứng mà khởi gia hành không điên đảo. Như có tụng nói:

Các hữu tự xứng lượng,

Siêng cầu chỗ tìm cầu,

Kia chẳng nài cực nhọc,

Đến được nơi sẽ đến.

Những bài tụng như vậy cần phải nói rộng. Xô dẹp tâm ngã mạn, nên không đợi người mời thỉnh, đó là giải thích nghiệp gia hành tự nhiên. Tuy người không mời thỉnh mà tự nhiên đến nói chính pháp cho người. Ý lạc vượt trội kiên cố, là giải thích nghiệp không bị lay động, hư hoại. Dù các khổ sinh tử cũng không làm dao động hư hoại chỗ pháp tâm. Chẳng phải giả tâm thương xót nên tâm bình đẳng đối với thân hay không thân. Hằng làm người bạn tốt cho đến cuối cùng được Niết-bàn, là giải thích 3 thứ sai biệt của vô cầu nhiễm nghiệp. Nếu có nhiễm trói buộc là do nhân ái nhiễm giả làm thương xót nhiếp thụ tạm thời. Nếu không nhiễm ràng buộc thì chẳng phải giả thương xót. Trong tất cả mọi thời thường không rời bỏ. Nếu dựa vào ái nhiễm mà thương xót thì đối với thân và không thân có tâm yêu ghét không bình đẳng. Nếu không nhiễm tâm thì nơi 2 phẩm chuyển một cách bình đẳng. Nếu có ái nhiễm mà thương xót thì chỉ tùy chuyển cho đến mạng chung. Nếu không ái nhiễm mà sinh xót thương thì đời đời tâm thương xót thường tùy chuyển. Vì vậy mà Bồ-tát hằng làm người bạn lành cho đến Niết-bàn. Ứng lượng mà nói, tươi cười nói trước, đây là tướng của ý lạc tăng thượng 2 thứ lợi ích an lạc, giải thích cái gọi là ngữ thân nghiệp. Vô hạn Đại bi, là giải thích nghiệp bình đẳng. Nếu chỉ ở nơi khổ mà khởi Đại bi thì chẳng phải lạc chẳng phải xả chẳng phải nghiệp bình đẳng vì chỉ chuyển có một phần. Đại bi của Bồ-tát đối với lạc, đối với khổ, đối với phi khổ lạc nhiếp hóa hữu tình đang bị các khổ sinh tử đuổi theo đều bình đẳng thương yêu không sai biệt. Cho nên gọi đây là nghiệp bình đẳng. Đối với việc gì đã nhận thì không khiếp nhược thoái lui, là giải thích không hạ liệt nghiệp. Chuyên làm việc cứu vớt tất cả hữu tình như gánh một trọng trách. Thấy gánh nặng này tâm không sợ sệt, khổ nhọc không bỏ gánh vác mà làm. Cho nên gọi là vô hạ liệt nghiệp. Ý không chán nản mệt mỏi, là giải thích nghiệp không thoái chuyển. Hóa độ hữu tình gặp các tà hạnh ác hạnh cũng không thoái chuyển, vì là nghiệp tương ưng với ý lạc tăng thượng lợi ích an lạc. Nghe nghĩa lý không chán, là giải thích nhiếp phương tiện nghiệp. Nghe nghĩa là nghe kinh pháp, không phải nghe chuyện vu vơ. Nghĩa tức là nghĩa sở thuyên của kinh pháp. Đối với việc nghe kinh pháp này thường không chán đủ. Đây là gồm thâu tính phương tiện khéo léo thành thục hữu tình, cho nên gọi là nhiếp phương tiện nghiệp. Nghe nghĩa lý không đủ như chỗ kham năng, vì ứng chính đạo lý mà hóa đạo. Đối với tội do mình tạo thì thấy tội lỗi sâu nặng, đối với tội người tạo thì không giận mà dạy dỗ, là giải thích yếm ác sở trị nghiệp. Trong đây sở trị là tham sân v.v…, muốn khiến xa lìa nên gọi yếm ác. Nếu đốu với tội của mình thì thấy tội lỗi, mau chóng lìa bỏ thì mới có thể ngăn khiến người khác không nên làm. Nói uy nghi nghiêm túc nên chẳng có gì ngăn cản. Như khế kinh nói:

Nếu mình trụ tà hạnh,

Liền bị người chê trách.

Người như thế không thể,

Ngăn cản lỗi người khác.

Thế tục cũng nói:

Nếu mình phạm tội lỗi,

Bỏ qua không xem xét,

Chẳng bằng nên xa lìa.

Kiêu mạn ắt tổn đức.

Nếu ôm lòng sân hận dạy dỗ người phạm lỗi chẳng lợi ích chẳng phương tiện nên lời nói chẳng uy nghi nghiêm túc khiến kia thành trái lại khởi các tà hạnh. Như có tụng nói:

Thương yêu như con mình,

Dạy dỗ tội đã phạm.

Quyết định khiến giữ gìn,

Sau sẽ không tái phạm.

Trong tất cả các oai nghi hằng tu trị tâm Bồ-đề, tức là giải thích nghiệp vô gián tác ý. Khắp tất cả việc làm liên tục không gián đoạn tu trị tâm Bồ-đề, như trong kinh nói việc làm thanh tịnh.

Như thấy khi ngồi,

Phát tâm như vậy.

Nguyện các chúng sinh,

Ngồi tòa Bồ-đề.

Các bài tụng như vậy không mong cầu dị thục mà hành thí, cho đến do tứ nhiếp sự nhiếp phương tiện, là giải thích 7 câu sai biệt của thắng tiến hành nghiệp. Tức 6 Ba-la-mật-đa và 4 nhiếp sự, lìa các lỗi sở trị như đã nói v.v…ở địa vị cực hỷ v.v…trong các địa sau chuyển được tăng thắng hướng đến đầy đủ. Nhân gọi là nghiệp, là sở tác. Trong đây 4 thứ Ba-la-mật-đa dễ nên không giải thích. Về có sai biệt thì nay sẽ giải thích sơ lược. Bỏ cõi Vô sắc tu tĩnh lự, là Bồ-tát không sinh trong cõi Vô sắc, vì nơi đó không thấy có việc có thể làm lợi lạc hữu tình. Cũng không thường nhập định Vô sắc, vì không thấy nơi ấy có nhiều công đức sở y. Xả nghĩa là lìa bỏ. Phương tiện tương ưng tu Bát-nhã, là Đại bi tương ưng tu tập diệu tuệ có thể làm các việc lợi lạc hữu tình. Nếu không có đây thì sẽ không có việc an lạc lợi ích hữu tình. Chuyên vì việc này mà cầu Phật quả nên như có tụng nói:

Tu tập tuệ và bi,

Làm được việc lợi tha.

Lợi tha là chính đạo,

Thẳng đến quả Bồ-đề.

Bốn nhiếp sự là bố thí, ái ngữ, lợi hànhvà đồng sự. Do bố thí có thể nhiếp thụ người khác. Do ái ngữ có thể phương tiện khai giải thuyết pháp. Do lợi hành có thể tùy theo kia thích ứng khuyên kia tu thiện. Do đồng sự có thể cuối cùng khiến kia đều được công đức không chung. Hoặc do bố thí nên khiến thành pháp khí. Do ái ngữ nên được pháp thắng giải. Do lợi hành nên y pháp thắng giải pháp khởi chính hạnh. Do đồng sự nên khiến các khởi hành chuyển thành thanh tịnh rồi lại chuyển thành vi diệu. Do đó thâu nhiếp đầy đủ phương tiện tự tính. Đối với trì giới phá giới thiện hữu không hai, cho nên cho đến thân cận thiện hữu, là giải thích 6 câu sai biệt của thành mãn gia hành nghiệp. Do gia hành này có thể khiến thành tựu viên mãn. Cho nên gọi là than hf mãn gia hành. Đây tức là nghiệp. Do thân cnj thiện sĩ v.v… 6 câu, là giải thích 8 câu nói trong kinh.

Công đức tác ý, công đức trợ bạn, đều giải thích 2 nên có thiện Thila gọi là trì giới, có ác Thi-la gọi là phá giới. Hai chủng loại này có thể thuyết pháp là vì nghe pháp cung kính pháp nên khởi tưởng thiện hữu không sai biệt. Cho nên nói thiện hữu không hai. Do nhân duyên đó đối với người phá giới không nên cứ một mực gọi là chẳng phải thiện hữu. Như có tụng nói:

Nếu có đủ giới dù yếu kém,

Mà khéo biện thuyết lợi nhiều người.

Phải cúng dường như Phật, Đại sư,

Kính kia khéo nói, nên tương tự.

Đem tâm ân cần trân trọng nghe chính pháp, nghĩa là như đã nói trong nghĩa rộng. Do 16 hạnh nên nghe pháp. Đem tâm ân cần trân trọng ở A-luyện-nhã, nghĩa là xa lìa làng xóm. Quá sự ly một câu-lô-xá gọi là A-luyện-nhã. Ở trong đó gọi là trụ. Như thích hợp mà ở không kiêu mạn không lơi lỏng gọi là tâm ân cần trân trọng. Không yêu thích các việc tạp nhạp thế gian, nghĩa là không ưa thích các việc ca vũ hài hước của thế gian. Tức xa lìa dục tương đương với các tầm tư bất chính. Công đức tác ý, nghĩa là bỏ tâm yêu thích Thanh Văn Độc Giác thừa, tương ưng với tâm yêu mến công đức Đại thừa. Công đức trợ bạn, là xa lìa ác hữu gần gũi thiện hữu, hằng tu trị 4 phạm trụ, thường du hý 5 thần thông. Y thú trí, là giải thích nghiệp thành tựu viên mãn. Nghĩa là tướng thành mãn gọi là nghiệp thành mãn. Trong đây tiếng nghiệp là biệt danh của tướng. Ba câu vô lượng thanh tịnh v.v…là giải thích hằng tu trị 4 phạm trụ v.v…3 câu ở trước. Từ bi hỷ xả 4 thứ vô lượng gọi là 4 phạm trụ. Do đó cho biết có nội đức thành mãn thanh tịnh nên được tiếng tướng. Du hý ngũ thông gọi là oai lực. Lậu tận trí thông là giải thoát trí, gọi là đại oai lực. Hoặc lấy thần thông tăng thượng của Bồ-tát gọi là đại oai lực. Như vậy cũng gọi là tướng thành mãn. Công đức chứng đắc, nghĩa là đã chứng đắc hiện tiền tự tại. Đây tức là giải thích y thú trí. Nội chứng riêng biệt gọi là y thú trí. Không chỉ ở nơi nghĩa, y thú ở nơi thức vì không phải tịch tĩnh. Đối với trụ chính hạnh không trụ chính hạnh v.v…là an lập nghiệp ấy, được giải thích 4 câu riêng biệt. Do đây an lập ý lạc tăng thượng lợi ích an lạc. Đây tức là nghiệp. Cho nên nói là an lập nghiệp ấy. Công đức điều khiển chúng, nghĩa là trục xuất hay tiếp nhận hữu tình trì giới phạm giới, đều muốn khiến chúng ra khỏi chỗ bất thiện mà an lập chỗ thiện, gọi là bất khí xả, nghĩa là không vất bỏ. Nói quyết định, nghĩa là quyết định dạy dỗ không nghi ngờ. Nói uy túc, nếu bất định tức là không uy túc. Hai đế lý chân thật, nghĩa là pháp tài cả hai hợp làm một. chứa nhóm tài pháp không phân biệt, bình đẳng ban bố như trước đã nói. Như vậy thí cho trừ khi hiện tại không có. Như có tụng nói:

Tài cúng dường khiến cho

Chúng sinh tận thọ mạng.

Pháp cúng dường khiến cho

Rốt ráo trời vắng lặng.

Đại Bồ-đề tâm hằng làm đầu, là giải thích tâm không tạp nhiễm. Do nhiếp thụ tâm Bồ-đề nên tất cả làm việc gì đều không tham cầu người khác cúng dường, chỉ cầu chứng đắc vô thượng Bồ-đề.

Luận nói: Như nói:

Do câu nói đầu tiên,

Có các câu về đức.

Do câu nói đầu tiên,

Có các câu về nghĩa.

Giải thích: Nghĩa trong Già-tha này dễ hiểu không phải giải thích nữa.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10