NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Vô Tính Bồ-tát tạo luận
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 6

4 – Ngộ nhập tướng sở tri

Luận nói: Như vậy là đã nói về tướng sở tri, còn ngộ nhập tướng sở tri thì như thế nào?

Phải thấy rằng sở y của đa văn huân tập không thuộc về thức A-lại-da mà như là thức A-lại-da huân tập thành chủng tử. Cái đa văn huân tập đó thuộc về tác ý đúng lý, từ pháp tương tự, nghĩa tương tự mà sinh ra có sở thủ tương tự hữu kiến ý ngôn.

Giải thích: Bồ-tát tu tập nghiệp như vậy rồi, nếu nhập hiện quán phải biết tướng. nay sẽ nói rõ. Sở y của đa văn huân tập, nghĩa là nơi Đại thừa mà khởi đa văn, nghe pháp nghĩa rồi huân tâm tâm pháp liên tục sở y. Người ít nghe không được nhập hiện quán này. Như Kinh Bạc-già-phạm Giáo Thụ Tôn Giả La-hỗ-la nói như vầy: Nguyện xin Thế Tôn dạy cho con phàp hiện quán. Thế Tôn bảo rằng: Ông đã thụ trì chính pháp tạng chưa? La-hỗ-la nói: Thưa Thế Tôn chưa. Thế Tôn bảo: Ông nay hãy thụ trì pháp tạng. Những pháp tạng này chẳng phải thau nhiếp trong thức A-lại-da. Nghĩa là chỗ sở y này là từ nơi pháp giới rất thanh tịnh lưu xuất, đối trị chúng nên chẳng phải gồm trong tính của chúng vì mâu thuẫn với chúng. Như thức A-lại-da thành chủng tử, nghĩa là như thức A-lại-da có thể làm nhân cho tất cả pháp tạp nhiễm. Tính sở y này có thể làm nhân cho tất cả pháp thanh tịnh. Chỉ có tính nhân giống nhau cho nên được làm dụ, chẳng phải nhất thiết chủng, như có tụng rẳng:

Vì muốn lợi ích thường phóng dật,

Mù bẩm sinh chẳng quán tự lạc,

Chư Phật giáng linh hiện thế gian,

Vì chúng tuyên thuyết vi diệu pháp.

Ví như vô giá ngọc Ma-ni,

Trừ được các độc, không nghĩ bàn.

Nói pháp tương tự, nghĩa là khế kinh v.v…như 10 địa v.v… Nói nghĩa tương tự, nghĩa là tính vô ngã sở thuyên v.v… của chúng, tương tự hành tướng của chúng mà sinh khởi, cho nên nói là tương tự pháp tương tự nghĩa mà sinh. Tương tự sở thủ, nghĩa là như sở thủ của chúng mà hiển hiện. Nói hữu kiến, nghĩa là chung cả nhĩ thức. Nói ý ngôn, tức là ý thức. Hoặc cùng với tính sở thủ năng thủ của kiến phần. Đây tức an lập tự tính sở y của sở thủ năng thủ, như trước đã nói.

Luận nói: Ở đây ai là người có thể ngộ nhập tướng sở tri?

Là Bồ-tát có sự huân tập đa văn liên tục pháp nghĩa Đại thừa, đã được gặp và phụng sự vô lượng chư Phật xuất hiện ở thế gian, đã được hoàn toàn quyết định thắng giải, đã khéo tích chứa các thiện căn, khéo cụ bị hành trang phúc đức và trí tuệ.

Giải thích: Dụng và dụng cụ đều đợi người làm, cho nên hỏi ai là người có thể ngộ nhập. Đáp câu hỏi này nói là Đại thừa đa văn huân tập liên tục. Nghĩa là y theo pháp Đại thừa mà khởi đa văn huân tập liên tục. Đã được gặp và phụng sự vô lượng chư Phật xuất thế, nghĩa là do sự liên tục này nên được hiện tiền gặp và phụng sự chư Phật xuất thế. Đã được hoàn toàn quyết định thắng giải, nghĩa là do gặp và phụng sự Phật nên sinh tin hiểu sâu sắc Đại thừa, không bị ác hữu dẫn dắt khiến sinh do dự. Do 3 nhân duyên đa văn Đại thừa này nên khéo tích chứa vô lượng thiện căn. Đó là Bồ-tát khéo cụ bị hành trang phúc đức.

Luận nói: Từ đâu có thể ngộ nhập?

Tức là từ nơi cái thấy tương tự pháp, tương tự nghĩa của pháp tướng Đại thừa sinh khởi thắng giải hành, trải qua trong các giai đoạn kiến đạo, tu đạo, cứu cánh đạo, tất cả các pháp chỉ có tính duy thức, tùy theo chỗ nghe mà hiểu rõ vượt trội, thông thấu đúng như lý, đối trị tất cả chướng và lìa tất cả chướng.

Giải thích: Từ đâu có thể ngộ nhập, đó là hỏi cảnh sở nhập và vị năng nhập. Nghĩa là nơi hữu kiến kia v.v…nghĩa là nơi Đại thừa pháp tướng sở sinh, quyết định hành tướng ý thức tương tự pháp tương tự nghĩa có thể nhập cảnh giới này. Năng nhập là dụng. Cảnh giới sở nhập là nghiệp, là trì. Nơi ý thức này hoặc có thể ngộ nhập tại thắng giải hành địa. Trong tính duy thức nơi tất cả các pháp, chỉ tùy theo nghe mà sinh thắng giải, nên hoặc có thể ngộ nhập trong kiến đạo vì ý thức thông đạt như lý. Trong đây thông đạt như lý, nghĩa là thông đạt chúng là phi pháp phi nghĩa phi sở thủ phi năng thủ. Hoặc có thể ngộ nhập trong lúc tu đạo, do tu tập này đối trị các chướng phiền não sở tri. Hoặc có thể ngộ nhập trong cứu cánh đạo, vì cực kỳ thanh tịnh lìa các chướng. Như vậy 4 thứ là năng nhập vị.

Luận nói: Do cái gì có thể ngộ nhập?

Do sức thiện căn trụ vững duy trì, nghĩa là 3 thứ tướng mài luyện tâm, đoạn dứt 4 xứ, duyên cảnh của pháp và nghĩa, thường xuyên gia hành tu chỉ quán một cách cẩn trọng không buông lung phóng túng.

Giải thích: Do cái gì có thể ngộ nhập, đây là hỏi nguyên nhân ngộ nhập. Nghĩa là do nguyên nhân gì có thể ngộ nhập. Do sức thiện căn duy trì v.v…, nghĩa là tuy có sức thiện căn mà tâm hoặc thoái khuất, cho nên nói 3 thứ tướng luyện mài cái tâm v.v…

Luận nói: Trong vô lượng thế giới có vô lượng vô số nhân loại hữu tình mỗi sát-na mỗi sát-na chứng giác ngộ vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Đó là sự mài luyện tâm thứ nhất. Do niềm vui này mà có thể hành thí v.v…các Ba-la-mật-đa. Ta đã được niềm vui này ta sẽ dụng công tu tập bố thí v.v…thêm chút nữa sẽ được viên mãn các Ba-lamật-đa. Đó là sự mài luyện tâm thứ hai. Nếu có người thành tựu các thiện còn chướng ngại, khi mạng chung được viên mãn thụ sinh vào tất cả các tự thể nào yêu thích, vậy ta có cái thiện vi diệu, cái thiện không chướng ngại, bấy giờ sao lại không thể được viên mãn tất cả ! Đó là sự mài luyện tâm thứ ba.

Giải thích: Vô lượng các thế giới v.v…, câu này hiển thị sự luyện mài cái tâm đầu tiên. Dẫn các thí dụ khác để khiến tâm tăng sức mạnh. Do ý lạc này không có thoái khuất, là hiển thị sự luyện mài cái tâm thứ hai. Ta đã đạt được ý lạc này, là hiển thị cái ý lạc lìa các ngăn che trói buộc. Nghĩa là ý lạc này xa lìa xan lẫn, xa lìa dục tầm, xa lìa nhuế tầm, xa lìa giải đãi, xa lìa hôn trầm và thụy miên, xa lìa vô minh. Ta do đây mà sử dụng ít công lực tu tập thí v.v… các Ba-la-mật-đa sẽ được viên mãn, nghĩa là đã đạt được ý lạc thù thắng, lại có thể tự do tự tại tu hành thí v.v…khiến mau viên mãn. Nếu có thành tựu v.v…, là hiển thị sự luyện mài cái tâm thứ ba. Có các chướng thiện, nghĩa là có thành tựu các thiện thế gian, chưa thể vĩnh viễn đoạn trừ sở trị chướng, cho nên nóu có chướng. Ta có diệu thiện v.v… nghĩa là ta có thể vĩnh đoạn sở đối trị chướng, do không chướng ngại thiện mà thành tựu thiện ấy, làm sao tương lai không chứng được Phật quả viên mãn? Luyện mài tâm, nghĩa là xúc tiến cái tâm khiến nó mạnh mẽ nhạy bén đối trị sự thoái khuất.

Luận nói: Ở đây có bài tụng như sau:

Hữu tình trong loài người,

Xứ sở nhiều vô lượng.

Mỗi niệm chứng đẳng giác,

Vậy không nên thoái lui.

Ai tâm tinh, ý lạc,

Có thể tu lục độ.

Thù thắng này đã được,

Cũng tu lục độ được.

Người thiện khi lâm chung,

Mãn nguyện theo ý mình.

Vĩnh đoạn, được thắng thiện

Viên mãn, sao lại không?

Giải thích: Lại dùng Già-tha thâu nhiếp nghĩa như vậy. Hữu tình trong loài người v.v…, nghĩa là nếu tâm khiếp nhược gọi là thoái khuất. Khuyên chúng tâm không nên thoái khuất, nghĩa là tự cho mình không thể chứng giác vô thượng chính đẳng Bồ-đề gọi là tâm khiếp nhược. Khuyên chúng không nên cho mình là không có công năng, nên gọi là không thoái khuất. Như có tụng nói:

Vô lượng mười phương các hữu tình,

Niệm niệm đã chứng quả Thiện thệ.

Kia đã Trượng phu ta cũng vậy,

Không nên tự khinh mà thoái khuất.

Các ý lạc tịnh tâm có thể tu hành thí v.v…, nghĩa là chẳng phải tâm bất thiện và vô ký mà hành thí v.v… Chỉ là thiện tâm nên gọi là tịnh tâm. Như có tâm thế gian bất thiện, vô ký, tán loạn cũng hành thí v.v…mong cầu các hữu và tài vị, nên Bồ-tát không như vậy chỉ cầu vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Nói ý lạc, nghĩa là có thề vô ngại tu các nhân bố thí v.v… như trước đã nói. Đây các bậc thắng giả đã được, cho nên có thể tu thí v.v…, nghĩa là các Bồ-tát gọi là thắng giả, trước đã được ý lạc thù thắng này, do đó thí v.v… Ba-la-mật-đa tự nhiên vận chuyển. Tu tập đúng như nói, nên gọi là đã được. Do đây quyết định xả sở đối trị. Xả sở trị nên do không dụng công đối với thí v.v… tự nhiên vận chuyển. Nói v.v…, là lấy hết cả giới cho đến tuệ Ba-la-mật-đa. Người thiện khi chết, nghiã là do cái thiện thế gian mà thành người thiện, khi mạng chung được tùy thích tự mãn, tức là được quả viên mãn tùy theo chỗ ưa thích của thế gian, cho đến được sinh trời Hữu đỉnh. Thắng thiện do vĩnh đoạn, tức là do vĩnh đoạn chướng thiện mà thành nghĩa thiện. Viên mãn sao lại không, tức là tùy sở thích viên mãn Phật quả sao lại không có nghĩa?

Luận nói: Do dứt trừ tác ý, lìa các tác ý của Thanh Văn Độc Giác, do lìa bỏ cái nghi của các nghi ngờ đối với Đại thừa, do vĩnh viễn đoạn trừ cái nghi của tà trí, do được nghe và tư duy trong chính pháp lìa chấp ngã và ngã sở mà đoạn trừ pháp chấp, do hiện tiền trụ trong sự an lập tất cả tướng nên đoan trừ phân biệt, không còn tác ý không còn phân biệt. Ở đây có bài tụng như sau:

Hiện tiền trụ tự nhiên,

An lập tất cả tướng.

Người trí không phân biệt,

Được tối thượng Bồ-đề.

Giải thích: Nay sẽ hiển thị đoạn trừ 4 chỗ. Đoạn tác ý, là đoạn trừ phân dẫn tác ý của Nhị thừa. Bởi có thể vĩnh đoạn dị tuệ nghi, nghĩa là đối với Đại thừa sâu xa rộng lớn không khởi nghi và các dị tuệ điên đảo. Đoạn pháp chấp, nghĩa là đối với các pháp được nghe và tư duy có thể vĩnh viễn đoạn trừ chấp ngã và ngã sở. Nghĩa là ta có thể nghe, ta có thể tư duy giác ngộ. Ta nghe văn, ta tư duy nghĩa lý, như vậy mọi chấp trước đều không, trong thắng nghĩa chứng được hiện quán. Đoạn phân biệt, nghĩa là nơi hiện tiền tự nhiên mà chuyển, sắc v.v.. hiện trụ và làm công dụng. Các cốt tỏa v.v…tịnh định an lập tất cả các tướng cảnh giới sở duyên, phân biệt tác ý đều có thể vĩnh đoạn, cho đến đều có thể vĩnh viễn lìa bỏ phân biệt chấp trước. Nghĩa của bài tụng đã rõ không phải giải thích nữa.

Luận nói: Do cái gì và làm thế nào được ngộ nhập?

Giải thích: Trong đây có 2 câu hỏi là tác tức là làm và cụ sở tác là công cụ phương tiện để làm. Do có người làm nhập sở tác nghiệp, nên biết chắc chắn có phương tiện năng nhập. Tự hiện quán tướng là sở tác sự. Chắc chắn phải có phương tiện sở tác như vậy như vậy. Cho nên nay sẽ giải thích cả hai.

Luận nói: Do chủng loại được đa văn huân tập, nhiếp thuộc trong tác ý như lý mà hiển hiện hữu kiến ý ngôn tương tự pháp, tương tự nghĩa.

Giải thích: Trong đây trước biện minh về các phương tiện năng nhập như âm thanh v.v… Tức nhân nơi ngôn thuyết, là nghĩa của nhân.

Luận nói: Do 4 tầm tư, tức là do danh, nghĩa, tự tính, sai biệt mà giả lập ra tầm tư. Và do 4 như thật biến trí, tức là do danh, nghĩa, tự tính, sai biệt mà giả lập ra như thật biến trí. Như vậy cả 4 tầm tư và 4 như thật biến trí đều không thể được. Bởi chư Bồ-tát vì muốn ngộ nhập duy thức nên siêng tu gia hành như thật như vậy, tức với cái ý thức tương tự văn tương tự nghĩa mà suy tìm văn, cái tên chỉ là ý thức, dựa vào đó mà suy tìm cái nghĩa của văn, danh cũng chỉ là ý thức, suy tìm danh, nghĩa, tự tính, sai biệt chỉ là sự giả lập. Khi nào sự chứng đắc chỉ có ý thức thì khi ấy sự chứng biết như danh, nghĩa, tự tính, sai biệt đều là giả lập. Vì thật tướng không có tự tính sai biệt, nên đều không thể được. Do 4 tầm tư và do 4 thứ như thật biến trí, đối với ý thức tương tự văn, tương tự nghĩa này mà có thể ngộ nhập lý duy thức.

Giải thích: Do 4 tầm tư và do 4 thứ như thật biến trí, nghĩa là y như trước nói có thể ngộ nhập phát khởi đầy đủ phương tiện như thật. Trong khi gia hành suy cầu thấy có giả không có thật. Cái tướng nhân phương tiện , gọi là tầm tư, biết rõ là giả có, thật không có gì sở đắc. Quyết định hành trí, phương tiện quả tướng là trí như thật. Trong đây danh, tức là sắc, thụ v.v…cũng bao gồm gọi là nhân. Câu gọi là quả v.v…, tầm tư tên này chỉ có tính ý thức, chỉ giả chẳng phải thật. Cái tên gọi không lìa ý thức, gọi là tầm tư. Tầm tư, nghĩa là như danh thân v.v.. các sở thuyên biểu thị uẩn, giới, xứ v.v…Suy tìm tính này chỉ có giả chẳng phải thật. Nếu như có được sự sai biệt giữa chủng loại và chủng loại tương ưng, như vậy sở thuyên năng thuyên tương ưng là không hợp lý. Suy tìm dựa vào nghĩa của văn danh này cũng chỉ là ý thức, nghĩa là tầm tư dựa vào tên gọi được biểu thị bên ngoài. Chỉ có tính của ý thức tư duy nghĩa này, tựa như tướng chuyển bên ngoài, thật sự chỉ ở bên trong. Tìm kiếm cái tự tính sai biệt của danh nghĩa chỉ là giả lập, nghĩa là 2 thứ tự tính của danh nghĩa tầm tư chỉ là tướng giả lập. Nghĩa là sắc, thụ v.v… tự tính của danh nghĩa thật sự là không có. Tự tính giả lập ví như giả lập Bổ-đặc-già-la. Hai thứ danh nghĩa sai biệt của tầm tư cũng là tướng giả lập. Nghĩa là danh nghĩa sai biệt của vô thường v.v… chỉ là giả lập. Hoặc là danh, hoặc là nghĩa, tự tính sai biệt đều là giả lập, nghĩa là chứng biết 4 thứ hư vọng hiển hiện y tha khởi nhiếp nghĩa tướng tự tính sai biệt là không. Đều bất khả đắc, nghĩa là hiểu rõ 4 thứ nghĩa của biến kế chấp đều không thể được. Nên biết rằng trong đây 4 thứ phương tiện là tầm tư, 4 thứ quả trí là 4 thứ như thật biến trí. Nghĩa là tìm kiếm danh, chỉ là giả lập, thất không thể được, gọi là tàm tư. Nếu khi quả trí này sinh, quyết định hiểu rõ là giả hữu thật vô, gọi là như thật trí. Như vậy đối với sự, tự tính sai biệt là giả hữu thật vô, suy tìm quyết định cũng phải như vậy.

Luận nói: Trong sự ngộ nhập lý duy thức này là ngộ nhập cái gì, ngộ nhập như thế nào?

Ngộ nhập duy thức là ngộ nhập 2 tính tướng và kiến và nhiều thứ tính như danh, nghĩa, tự tính của danh, sai biệt của danh, tự tính của nghĩa, sai biệt của nghĩa, 6 thứ nghĩa như vậy đều không, cho nên cái tính của sở thủ năng thủ chỉ có hiện tiền. Một khi hiện lên thì như các nghĩa tướng tương tự mà sinh khởi. Như trong tối sợi dây hiển hiện tựa con rắn. Ví như trên sợi dây, con rắn là chẳng thật có. Vì nó là không, cho nên nếu đã biết rõ nó là không rồi, thì tuy cái biết nó là con rắn diệt mất, nhưng cái biết là sợi dây vẫn còn. Nếu phân tích một cách vi tế cái hư vọng này, thì cái tướng của sợi dây kia cũng chỉ là giả hợp của sắc hương vị xúc, do đó cái biết là sợi dây cũng diệt mất. Như vậy cái ý thức về 6 nghĩa tướng như tương tự văn, tương tự nghĩa, khi dẹp trừ 6 nghĩa tướng phi thật, thì cái tính biết duy thức cũng sẽ loại bỏ như cái biết về con rắn. Cái biết này do từ tính biết của tự tính viên thành thật.

Giải thích: Ở đây trong sự ngộ nhập tính duy thức, muốn hiển thị sở nhập và thí dụ về nhập, nên lập câu hỏi này. Nếu không có nghĩa thì ngộ nhập tính duy thức này là cái gì nhập? Ý này khó nói. Tính duy thức này tức là nghĩa đó. Vì sao nghĩa không có là để ngăn câu hỏi này nên nói trước? Nhập tính duy thức nghĩa là nghĩa của thức này cũng có tính vô nghĩa chứ không phải chỉ nghĩa bên ngoài là không có.. Nếu tính vô nghĩa, làm sao nói có 12 xứ? Làm sao thế gian có nghĩa ngôn thuyết? Để ngăn câu hỏi này nên tiếp nói 2 tính tướng và kiến tuy không thật nghĩa, mà thức tựa như hiển hiện 2 nghĩa trong và ngoài. Vì sức huân tập ngôn thuyết từ vô thủy nên nghĩa tương tự của thức chuyển tương tự hiểu biết, gọi đó là kiến. Cho nên không mâu thuẫn là chỉ ngộ nhập tương tự tướng, tương tự kiến. Chủng loại khác của thức không như vậy sao? Để đáp câu hỏi này nên nói ngộ nhập và chủng chủng tính. Nghĩa là duy chỉ một thức, vì tính sở thủ năng thủ khác nhau nên trong một thời gian chia làm 2 thứ. Lại trong một thức tựa như có 3 tướng hiện. Sở thủ năng thủ và tự chứng phần gọi là 3 tướng. Một nghĩa phần của thức chẳng phải một chẳng phải khác, như những chỗ khác đã nói. Trên một thức có nhiều tướng hiện, nên gọi chủng chủng. Danh v.v… 6 tướng không có nghĩa v.v…giải thích 3 thứ trước. Để đáp câu hỏi trước ngộ nhập như thế nào, nên lại nói như trong tối sợi dây hiển hiện tựa con rắn. Do thí dụ này thành lập thông đạt 3 thứ tự tính. Ví như trên sợi dây không thật có con rắn. Vì không có nên tương tự danh tương tự nghĩa là như vậy. Trên y tha khởi, danh v.v… 6 thứ. Biến kế sở chấp cũng chẳng phải chân thật, vì không có nên nơi đây như dựa vào sự biết cái dây mà bỏ cái biết con rắn. Như vậy dựa vào duy thức hiển hiện, cái biết y tha khởi xả bỏ 6 nghĩa cái biết biến kế sở chấp như dựa vào sắc v.v…Cái biết phần vi tế từ bỏ cái biết về sợi dây. Như vậy dựa vào cái biết viên thành thật khiển trừ cái biết mê loạn của y tha khởi. Như có tụng nói:

Trí thấy dây là rắn,

Biết dây, rõ nghĩa không.

Khi chứng kiến lúc ấy,

Biết rắn là trí loạn.

Khi dẹp trừ nghĩa của 6 tướng phi thật, tức là nghĩa phi hữu, vì phi hữu là tướng của 6 thứ nghĩa phi thật.

Luận nói: Như vậy Bồ-tát ngộ nhập cái ý thức nghĩa tướng tương tự nên ngộ nhập tính biến kế sở chấp, ngộ nhập duy thức nên ngộ nhập tính y tha khởi. Còn tính viên thành thật thì ngộ nhập như thế nào?

Nếu đã diệt trừ cái ý thức chỉ còn cái ý tưởng duy thức do các chủng loại nghe pháp huân tập, bấy giờ Bồ-tát đã loại trừ nghĩa tướng, các nghĩa tương tự không sinh được, cho nên cái tương tự duy thức cũng không sinh được. Do nhân duyên này Bồ-tát trụ nơi vô phân biệt danh của tất cả nghĩa, được trụ nơi hiện thấy tương ưng trong pháp giới. Bấy giờ Bồ-tát được bình đẳng, bình đẳng sở duyên với năng duyên, trí vô phân biệt đã sinh khởi, do đó gọi là Bồ-tát đã ngộ nhập tính viên thành thật.

Giải thích: Ngộ nhập cái ý thức nghĩa tướng tương tự nên ngộ nhập tính biến kế sở chấp, nghĩa là hiểu biết cái ý thức nghĩa tướng tương tự hiện, không có thật nghĩa biến kế sở chấp. Do đó nên gọi là ngộ nhập tự tính biến kế sở chấp. Ngộ nhập duy thức nên ngộ nhập tính y tha khởi, nghĩa là hiểu biết duy thức không rõ ràng, nên trong vô nghĩa, nghĩa tướng tương tự hiện. Do đó ngộ nhập tính y tha khởi là hiển thị ngộ nhập tính viên thành thật. Cho nên lại nói đã khiển trừ nghĩa tướng. tức là đã có thể trừ nghĩa của nghĩa tưởng. Tất cả nghĩa tương tự không được sinh, tức là đều không có khả năng nghĩa tương tự mà sinh khởi nghĩa. Cho nên tương tự duy thức cũng không được sinh, nghĩa là không có sở thủ nên năng thủ cũng không, tức là thành nghĩa duy thức. Cũng không chuyển nghĩa, trụ tất cả nghĩa không phan biệt tên, nghĩa là tất cả pháp là khế kinh v.v… Danh sở y hành xứ gọi là nhất thiết nghĩa. Tên có 10 thứ. Chín thứ tên trước có phân biệt. Tên thứ mười thì đối với tất cả nghĩa không có phân biệt. An trụ như vậynơi tất cả nghĩa không phân biệt tên. Như nói tất cả chỉ có cái tên, tức là như vậy tên có thể khởi tất cả, nghĩa là trong đây cái tên tương tự hiển hiện thức v.v… giả gọi là tên. Trong pháp giới liền được hiện thấy tương ưng mà trụ, nghĩa là trong pháp giới chứng tương ưng mà khởi thắng giải. Bình đẳng bình đẳng, nghĩa là nếu sở duyên đều không có thì như vậy năng duyên cũng không có. Cho nên hai thứ sở duyên năng duyên đều bình đẳng bình đẳng. Do đó nói Bồ-tát đã ngộ nhập tính viên thành thật, tức là ngộ nhập tự tính biến kế sở chấp. Tính y tha khởi là hữu dư nên còn có tác giả. Tác dụng chưa dứt chỉ gọi là ngộ nhập. Nay trong đây tác giả, tác dụng đều dứt rốt ráo nên gọi là đã ngộ nhập.

Luận nói: Ở đây có bài tụng như sau:

Pháp, Bổ-đặc-già-la,

Pháp, nghĩa, lược, rộng, tính,

Bất tịnh, tịnh, cứu cánh,

Tên, hành tướng, sai khác.

Giải thích: Như trước đã nói trụ tất cả nghĩa không phân biệt tên, nay dùng Già-tha hiển thị đây gọi là tự cảnh sai biệt. Trước tiên tên pháp, nghĩa là sắc, thụ v.v… Tên Bổ-đặc-già-la, nghĩa là Thiên thụ v.v… tùy tín hành v.v…tên trong Phật giáo. Tên pháp sau, nghĩa là khế kinh, tụng v.v… Tên nghĩa, nghĩa là đây sở thuyên sát hại cha mẹ, tru diệt quốc gia và tùy hành v.v… Tên lược, nghĩa là tất cả pháp đều vô ngã v.v… Tên rộng, nghĩa là sắc vô ngã v.v… Tên tính, nghĩa là A v.v… các chữ là nhân của câu. Tên bất tịnh, nghĩa là các dị sinh, bị nhiễm các bẩn phiền não. Tên tịnh, nghĩa là các hiền thánh đã vĩnh đoạn cấu uế. Tên cứu cánh, nghĩa là nói chung các sở duyên, tức Bát-nhã Ba-la-mật-đa và 10 địa v.v…để tổng lược nghĩa làm sở duyên.

Luận nói: Như vậy là Bồ-tát ngộ nhập duy thức, tức ngộ nhập tướng sở tri, ngộ nhập tướng sở tri là nhập vào Cực hỷ địa, thông đạt pháp giới, sinh vào nhà Như Lai, được tâm bình đẳng với tất cả chúng sinh, được tâm bình đẳng với tất cả Bồ-tát, được tâm bình đẳng với tất cả chư Phật. Đó gọi là Bồ-tát kiến đạo

Giải thích: Thông đạt pháp giới, nghĩa là chứng pháp giới này một cách sâu sắc. Sinh nhà Như Lai, nghĩa là pháp giới của Phật gọi là nhà Như Lai. Chứng hội đây nên gọi là sinh, vì đây duyên thắng trí sinh, chuyển các sở y trước sinh các sở y khác, nối tiếp giống Phật khiến không đoạn tuyệt, như các nối sinh các chúng đồng phần, sở sinh năng sinh tiếp nối nhau không dứt, thác vào nhà sở sinh như vậy Bát-nhã Ba-la-mật-đa chứng pháp giới của Phật gọi là sinh, là chân Phật tử. Do Bát-nhã Ba-la-mật-đa này có thể chính tác chứng nơi pháp giới của Phật. Thụ tự tương tục tự tại hiện tiền nên gọi là sinh. Như nói:

Tất cả hùng mạnh,

Lợi lạc người khác.

Mẹ sinh mẹ nuôi,

Được sinh được dưỡng.

Được tâm tính bình đẳng tất cả hữu tình, nghĩa là khắp thấy tất cả bình đẳng vô ngã, cho nên như nói tất cả các pháp đều Như Lai tạng. Như vậy được tâm tính bình đẳng của tất cả Bồ-tát, nghĩa là được tính bình đẳng ý lạc của Bồ-tát. Được tâm tính bình đẳng của tất cả Phật, nghĩa là được tính pháp thân bình đẳng của chư Phật. Đây tức gọi là Bồ-tát kiến đạo, nghĩa là thấy thắng pháp giới trước chưa thấy. Ví như Thanh Văn Độc Giác kiến đạo.

Luận nói: Lại nữa vì nghĩa gì mà ngộ nhập duy thức?

Do cái trí chỉ quán xuất thế duyên tổng pháp, do đó sau được cái trí của các tướng thức để đoạn trừ và đem chủng tử các tướng của thức A-lại-da làm tăng trưởng các chủng tử có khả năng chạm đến pháp thân, để chuyển đổi sở y, vì muốn chứng đắc tất cả Phật pháp, vì muốn chứng đắc trí nhất thiết trí, nhập vào duy thức tính. Lại nữa, cái trí hậu đắc đối với tất cả các tướng hiểu biết phân biệt phát sinh trong thức A-lại-da đều thấy như ảo hóa mà không bị chuyển đảo. Cho nên Bồ-tát ví như nhà ảo thuật, không bao giờ điên đảo đối với các tướng ảo hóa cũng như khi nói về nhân quả.

Giải thích: Lại nữa vì nghĩa gì v.v…, nghĩa là hỏi nhập duy thức cần phải thế nào. Tiếp nên trà lời rằng vì muốn chứng đắc trí nhất thiết trí mà như trước nói là phương tiện, là vì muốn khai thị lần lượt nói, vì muốn làm lợi ích mà kham nhận các loại như vậy để hóa độ. Do duyên tổng pháp, nghĩa là duyên tổng tướng tất cả pháp. Sở hiển chân như làm cảnh, nghĩa là tất cả các pháp được nói trong Đại thừa giáo đều chân như làm tính. Cho nên duyên chân như tức là hiểu rõ tính của tất cả pháp. Nếu không như vậy thì dù trải nhiều thời gian trí vô phân biệt cũng không thể sinh. Nói xuất thế, nghĩa là vô lậu, vô phân biệt. Trí chỉ quán, nghĩa là do Tam-ma-hứ-đa trí không điên đảo. Chủng chủng thức tướng, nghĩa là an lập các pháp nhân tính, quả tính , hữu thượng vô thượng v.v…, tức là phân nghĩa cùa sở thủ năng thủ. Để đoạn trừ và đem chủng tử các tướng của thức A-lại-da, nghĩa là để đoạn trừ chủng tử các tướng của các pháp tương tự sắc v.v…trong thức A-lại-da và tướng năng huân. Đây tức là nói đoạn nhân quả của chủng tử. Để làm tăng trưởng các chủng tử có khả năng chạm đến pháp thân, nghĩa là muốn tăng trưởng tất cả Đại thừa đa văn huân tập, do đây trước được pháp thân. Để chuyển đổi sở y, nghĩa là thông đạt chân như, các tâm tâm pháp lìa cấu uế, hoặc lại được chân như thanh tịnh. Vì muốn chứng đắc tất cả Phật pháp, nghĩa là vì muốn sinh khởi các Phật pháp như lực, vô úy v.v… Vì muốn chứng đắc trí nhất thiết trí, nghĩa là muốn chứng đắc trí vô cấu vô ngại của chư Phật. Lại nữa trí hậu đắc, là hiển thị trí hậu đắc có chỗ tác dụng. Đối với tất cả được sinh nơi thức A-lại-da, nghĩa là đây nêu được sinh tức lấy nghĩa nhân của nó. Trong tất cả tướng liễu biệt, tức là đây hiển thị cái quả của nó là trong phần sở thủ năng thủ. Thấy như ảo hóa mà không bị chuyển đảo, nghĩa là như thật quán thấy tính y tha khởi như chuyện ảo hóa v.v… vì không mê loạn. Ví như nhà ảo thuật đối với các trò ảo thuật, nghĩa là đối với cỏ cây v.v…trong nhân huyển hoặc không điên đào, thấy như thật. Như vậy Bồ-tát thấy chân thật, nghĩa là hiện thấy như thật, không có tự tính sở thủ năng thủ. Viên thành thật đã khởi nơi hậu đắc, có thể phát ngôn ngữ thế tục tịnh trí. Khi biết nhân quả và khi thuyết pháp thường không điên đảo. Người nghe tuy có điên đảo nhưng cái văn huân tập liên tục nên dần dần được không điên đảo. Do làm xong những gì nên làm nên trí hậu đắc này cũng không sai biệt không nhiễm ô.

Luận nói: Khi ngộ nhập tính duy thức thì có 4 thứ Tam-ma-địa làm chỗ dựa cho 4 thứ thuận quyết trạch phần.

Làm sao biết?

Do 4 tầm tư trong hạ phẩm vô nghĩa nhẫn có minh đắc Tamma-địa là chỗ dựa của noãn thuận quyết trạch phần. Trong thượng phẩm vô nghĩa nhẫn có minh tăng Tam-ma-địa là chỗ dựa của đỉnh thuận quyết trạch phần. Lại do 4 thứ như thật biến trí đã nhập duy thức, trong vô nghĩa đã được quyết định, có nhập một phần chân nghĩa Tam-ma-địa là chỗ dựa của đế thuận nhẫn. Từ đó không gián đoạn dẹp bỏ ý tưởng duy thức, được Tam-ma-địa không gián đoạn là chỗ dựa của pháp Thế đệ nhất. Phải biết các Tam-ma-địa này đang ở bên cạnh hiện quán.

Giải thích: Khi nhập hiện quán trong nhất thiết xứ đều có 4 thứ thuận quyết trạch phần. Đó là tiền tướng, cho nên hiện quán đã rõ rồi không giải thích nữa. Do 4 tầm tư, nghĩa là như trước nói suy tìm danh nghĩa tự tính sai biệt, giải lập làm thể. Trong hạ phẩm vô nghiã nhẫn, nghĩa là ở giác tuệ hạ phẩm, ái lạc các nghĩa vô sở hữu. Minh nghĩa là cái trí có thể chiếu soi cái không có nghĩa. Đạt được cái quả mong cầu gọi là đắc. Định này được cái trí minh vô nghĩa, cho nên có tên là Minh đắc Tam-ma-địa. Ví như lần đầu tiên tìm được lửa v.v… Cái nóng tức là noãn phẩm thiện căn. Ví như dùi lửa nóng là tiền tướng. Đây cũng vậy, chân trí là tiền tướng. Nói y chỉ, nghĩa là nghĩa của nhân. Nói quyết trạch, tức là hiện quán. Phần này tức là pháp vô ngã nhẫn. Dẫn các thiện căn này gọi là thuận. Ở trên cao tột nên gọi là đỉnh. Lại do 4 thứ như thật biến trí, nghĩa là như trước đã nói trong cái danh, sự v.v…không thể được, đã được quyết định. Như vậy khi chuyển thì ngộ nhập duy thức. Những tên gọi tương tự v.v… hiện thì quyết định hiểu rõ đều không có nghĩa. Nhập một phần chân nghĩa Tam-ma-địa, nghĩa là chỉ có thể thông đạt sở thủ là không, nên nói nhập một phần. Do trong đó hiểu rõ nghĩa không, chưa thể khắc phục được hành tướng duy thức của năng thủ khiến thành không. Vì vậy cho nên đây gọi là đế thuận nhẫn. Sở y chỉ định thuận nghĩa là thân cận y sở thủ là không, khiến năng thủ là không. Phải biết như vậy các Tam-ma-địa là ở bên cạnh hiện quán, nghĩa là phải biết tức là gần cái nghĩa chuyển của nó.

Luận nói: Như vậy là Bồ-tát đã bước vào các địa, đã được kiến đạo, đã ngộ nhập duy thức. Vậy đối với tu đạo phải tu hành như thế nào?

Như giáo pháp 10 địa đã được Phật nói, an lập hiện diện trong tất cả các kinh, do duyên tổng pháp xuất thế, sau được cái trí chỉ quán, nên trải qua vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp số tu tập nên được chuyển y. Vì muốn chứng đắc 3 thứ Phật thân nên siêng năng tu hành.

Giải thích: Như đã nói an lập 10 địa, nghĩa là tùy các ngôn thuyết hý luận kia, trong tự tướng cộng tướng của 10 địa. Do duyên tổng pháp, nghĩa là duyên xen lẫn nhau không duyên pháp riêng biệt mà tu chính trí. Nếu không như vậy, trí vô phân biệt tập họp tư lương sẽ không có được. Xuất thế, tức là trí vô phan biệt hậu đắc. Tức là cái trí có thể an lập thế gian thanh tịnh. Cái trí này là được sau, cho nên có tướng cảnh thanh tịnh. Thế gian có thể chuyển y được, nghĩa là trải nhiều kiếp tu trí vô phân biệt hậu đắc, nên được chuyển y. Nghĩa là tâm tâm pháp liên tục thanh tịnh. Vì muốn chứng đắc 3 thứ Phật thân mà siêng năng tu hành, sau sẽ giải thích rộng.

Luận nói: Hiện quán của Thanh Văn với hiện quán của Bồ-tát có gì sai khác?

Phải biết do 11 thứ sai biệt mà hiện quán của Bồ-tát khác với hiện quán của Thanh Văn. Một là do sở duyên khác nhau, vì lấy pháp Đại thừa làm sở duyên. Hai là do nuôi dưỡng bảo trì khác nhau, vì lấy 2 thứ tư lương là đại phúc đức và đại trí tuệ mà nuôi dưỡng bảo trì. Ba là do sự thông suốt khác nhau, vì có thể thông suốt nhân vô ngã và pháp vô ngã. Bốn là do Niết-bàn khác nhau, vì nhiếp thụ vô trụ Đại Niết-bàn. Năm là do địa vị khác nhau, vì thoát ly bằng 10 địa. Sáu và bảy là do thanh tịnh khác nhau, vì đoạn phiền não tập khí làm cõi Phật thanh tịnh. Tám là do tâm tự tha bình đẳng khác nhau, vì không ngừng nghỉ gia hành để thành thục chúng sinh. Chín là do nơi sinh khác nhau, vì sinh vào nhà Như Lai. Mười là do thụ sinh khác nhau, vì thường sinh ở những nơi có đại tập hội của chư Phật. Mười một là do quả khác nhau, vì 10 lực, 4 không sợ hãi, 18 pháp không chung, vô lượng công đức đều được kết quả viên mãn.

Giải thích: Hiện quán của Thanh Văn và Bồ-tát có khác nhau. Sơ lược có 10 thứ hoặc 11 thứ. Trong sở duyên sai biệt, hiện quán của Bồ-tát lấy pháp Đại thừa là văn tuệ v.v… 3 thứ sở duyên, hiện quán của Thanh Văn là pháp Thanh Văn thừa làm sở duyên. Trong tư trì sai biệt, phúc tư lương là thí, giới, nhẫn 3 thứ gia hành, trí tư lương là tinh tiến, tĩnh lự và văn tuệ v.v… Nói tư lương, là vận tập trải vô lượng kiếp. Trong thông đạt sai biệt, hiện quán của Thanh Văn chỉ có thể thông đạt lý không vô ngã của Bổ-đặc-già-la. Hiện quán của Bồ-tát đều có thể thông đạt pháp không vô ngã của Bổđặc-già-la. Trong Niết-bàn sai biệt, hiện quán của Bồ-tát nhiếp thụ bi tuệ phương tiện tư lương, lấy sự không trụ trước sinh tử Niết-bàn làm Niết-bàn. Hiện quán của Thanh Văn chỉ trụ vô vi làm Niết-bàn. Trong địa sai biệt, hiện quán của Bồ-tát y vào 10 địa mà được xuất ly. Trong Thanh Văn thừa không có thiết lập các địa như vậy. Trong thanh tịnh sai biệt, hiện quán của Bồ-tát vĩnh đoạn phiền não và các tập khí và có thể làm thanh tịnh các cõi Phật. Hiện quán của Thanh Văn tuy đoạn phiền não, chưa trừ tập khí, hoàn toàn không thể thanh tịnh Phật độ. Nói tập khí, là tuy không phiền não, nhưng việc làm tựa như có phiền não. Trong tâm tự tha bình đẳng sai biệt, hiện quán Bồ-tát chứng đắc pháp tính tự tha bình đẳng, thành thục hữu tình, giâ hành không ngớt. Hiện quán Thanh Văn thì phân biệt tự tha, chỉ tu tự lợi không tu lợi tha. Trong sinh sai biệt, hiện quán Bồ-tát sinh trong pháp giới nhà của Như Lai, là con đích thực của Phật, như nhà Chuyển luân vương sinh đứa con có rướng Chuyển luân vương. Chẳng phải như Thanh Văn đồng với con nhà thấp kém. Trong thụ sinh sai biệt, hiện quán Bồ-tát thường ở trong Đại tập hội chư Phật ngồi kết già trên đài hoa sen, cho đến thành Phật hằng thụ hóa sinh. Nói Đại tập hội chư Phật, nghĩa là các cõi Phật trong thế giới vô lậu. Chẳng phải như Thanh Văn sinh ở trong thai mẹ. Quá sai biệt, nghĩa là hiện quán Bồ-tát được trang nghiêm bởi vô lượng công đức như lực, vô úy v.v… có thể từ chỗ không dụng công khởi làm tất cả việc lợi ích hữu tình, chứng đắc pháp thân làm thắng quả, các dụng vô lậu chuyển sinh làm quả.

Luận nói: Ở đây có 2 bài tụng như sau:

Danh, sự, khách của nhau,

Phải tầm tư tính ấy.

Phải suy xét cả hai,

Duy lượng và duy giả.

Thật trí quán vô nghĩa,

Chỉ có 3 phân biệt.

Kia không, nên đây không,

Tức ngộ nhập 3 tính.

Giải thích: Dùng 2 Già-tha tóm thâu chung cả tầm tư và quả của tầm tư khiến dễ hiểu rõ. “Danh, sự, khách của nhau, Phải tầm tư tính ấy”, nghĩa là danh là khách đối với sự, sự đối với danh cũng vậy. Chẳng phải như một loại, nghĩa là thanh và nghĩa tương xứng mà sinh, hệ thuộc lẫn nhau. “Phải suy xét cả hai, Duy lượng và duy giả.” Nghĩa là trong tự tính và sai biệt cũng phải suy tìm chỉ có phân biệt, chỉ có giả lập. Điều đó là như thế nào? Nghĩa là 2 thứ này chỉ có phân biệt, chỉ có giả lập sai biệt mà nói, đều không có chân thật tự tính sai biệt. Nói thật trí, nghĩa là từ tầm tư sinh ra 4 thứ như thật biến trí. “Quán vô nghĩa”, nghĩa là quán sát nghĩa của nó bản lại vô hữu. “Chỉ có 3 phân biệt”, nghĩa là quán thấy chỉ có 3 phân biệt, đó là danh phân biệt, tự tính giả lập phân biệt và sai biệt giả lập phân biệt. “Kia không, nên đây không”, nghĩa là nghĩa không, nên quán 3 thứ phân biệt cũng không. “Tức ngộ nhập 3 tính.”, nghĩa là như trên đã nói là ngộ nhập 3 thứ tự tính. Nghĩa là nửa trước của bài tụng đầu quán danh và sự làm khách của nhau, tức là ngộ nhập biến kế sở chấp tự tính. Nửa sau của bài tụng đầu quán 2 thứ tự tính sai biệt kia chỉ có phân biệt, chỉ có giả lập, tức là ngộ nhập y tha khởi tự tính. Trong bài tụng thứ hai tức là ngộ nhập viên thành thật tự tính. Trong đây chỉ khiển trừ tâm cảnh các biệt của biến kế sở chấp. Dẹp trừ phân biệt phải chăng không có việc đó? Nếu không như vậy thì trói buộc hay giải thoát đều không thành. Vì tịnh và bất tịnh đều không có.

Luận nói: Lại có 2 bài tụng như được nói trong Phân Biệt Dugià Luận như sau:

Bồ-tát ở trong định,

Quán ảnh chỉ là tâm.

Nghĩa tưởng đã diệt trừ,

Quán sát chỉ tự tưởng.

Như vậy trụ nội tâm,

Biết sở thủ phi hữu,

Tiếp năng thủ cũng không,

Sau xúc không sở đắc.

Giải thích: Ai có thể như vậy tầm tư đắc quà? Giáo thụ như vậy vì ai? Để đáp câu hỏi này nên nói trong 2 bài tụng. “Bồ-tát ở trong định, Quán ảnh chỉ là tâm.”, nghĩa là quán các pháp tương tự, nghĩa tương tự, định sở hành ảnh chỉ là nội tâm. Như kinh nói: Ta nói thức duyên, duy thức hiện. Nói “Bồ-tát”, tức nói năng quán. “Ở trong định vị”, nghĩa là tâm trụ vào một cảnh. “Nghĩa tưởng đã diệt trừ”, nghĩa là do ảnh kia khiển trừ nghĩa tưởng. “Quán sát chỉ tự tưởng “, nghĩa là quán sát kỹ tướng của pháp tương tự, nghĩa tương tự như vậy chỉ định tâm của ta biến hiện. “Biết sở thủ phi hữu, Tiếp năng thủ cũng không “, nghĩa là trước đã rõ sở thủ là không. Nếu tính sở thủ đã vô sở hữu thì trên tính sở thủ, tính năng thủ cũng không thành. “Sau xúc không sở đắc.”, nghĩa là từ sau đây chứng tính không hai, được chân như.

Luận nói: Lại nữa có 5 bài tụng về hiện quán như được nói trong Đại Thừa Kinh Trang Nghiêm Luận như sau:

Phúc đức trí tuệ hai tư lương,

Bồ-tát chuẩn bị vô biên tế.

Đối pháp tư duy khéo quyết định,

Hiểu rõ nghĩa thú chỉ ý ngôn.

Nếu biết các nghĩa là ý ngôn,

Tức trụ tựa nghĩa trong duy thức.

Liền hay hiện chứng chân pháp giới,

Cho nên hai tướng đều trừ diệt.

Biết thể lìa tâm là không có,

Do đây liền biết tâm phi hữu.

Người trí biết hai đều vô đẳng,

Trụ ở hai không: chân pháp giới.

Người tuệ không phân biệt trí lực,

Bình đẳng biến khắp thường thuận hành.

Diệt khối tội lỗi rất um tùm,

Như phương thuốc hay tiêu bệnh độc.

Phật nói diệu pháp khéo thành lập,

An lập tuệ, căn trong pháp giới.

Hiểu rõ ý thú là phân biệt,

Dũng mãnh mau về bờ biển đức.

Giải thích: “Phúc đức trí tuệ hai tư lương, Bồ-tát chuẩn bị vô biên tế.”, nghĩa là thí v.v… 3 Ba-la-mật-đa gọi là phúc tư lương. Thứ 6, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là trí tư lương. Tinh tiến tu đủ nên thông cả 2 thứ. Tĩnh lự cũng vậy. Nếu duyên vô lượng thì thuộc phúc tư lương, ngoài ra thuộc trí. Chứa nhóm phúc trí nên gọi tư lương. Nói “khéo chuẩn bị” là nghĩa viên mãn. Trải vô số thời sai biệt viên mãn là “vô biên tế”. “Đối pháp tư duy khéo quyết định“ , nghĩa là đối với các pháp trong tất cả khế kinh do định hậu trí rất khéo quyết định không do dự. “Hiểu rõ nghĩa thú chỉ ý ngôn”, nghĩa là vì vậy cho nên có thể hiểu rõ tất cả nghĩa thú chỉ dùng ý ngôn phân biệt làm nhân. “Nếu biết các nghĩa là ý ngôn, tức trụ tựa nghĩa trong duy thức”, nghĩa là nếu biết tất cả nghĩa tướng chỉ là ý ngôn, tức có thể an tâm trụ nghĩa tướng tương tự chủng chủng biến hiện chỉ trong tâm thức, được quyết định. Nửa đầu bài tụng thứ hai này hiển thị Bồ-tát tại thuận quyết trạch phần vị. Bài tụng đầu hiển thị vị này gia hành. “Liền hay hiện chứng chân pháp giới, Cho nên hai tướng đều trừ diệt”, nghĩa là do trước hiểu rõ nghĩa vô sở hữu, trụ duy tâm nên có thể trừ 2 tướng sở thủ năng thủ, hiện chứng pháp giới chân thật không hai, trí khéo quyết định dựa vào đây sinh. Nửa bài tụng trước này và sau thứ ba hiển thị kiến đạo vị. Như sở hiện chứng, tiếp theo sẽ hiển thị. “Biết thể lìa tâm là không có, Do đây liền biết tâm phi hữu”, nghĩa là biết lìa tâm không có tất cả cảnh giới sở duyên nào khác. Do kia là không, nên tâm tính năng duyên cũng không thành. “Người trí biết rõ hai đều không”, nghĩa là thắng tuệ tương ưng gọi là người trí. Đối với 2 vô tính có thể quyết định biết, nên gọi là liễu đạt biến kế sở chấp. Sở duyên năng duyên bản lai vô tính, gọi là hai đều vô đẳng. “Trụ ở hai không: chân pháp giới”, nghĩa là bình đẳng an trụ, nên gọi là đẳng trụ. Sở thủ năng tủ đều xa lìa, nên nói là 2 không. Như vậy pháp giới hiện chứng chẳng phải trống rỗng, nên gọi là chân pháp giới. “Người tuệ không phân biệt trí lực”, nghĩa là trí vô phân biệt của Bồ-tát có công năng. “Bình đẳng biến khắp thường thuận hành”, nghĩa là chung cả trong ngoài, nên gọi là biến khắp. Như sở thủ năng thủ cũng vậy, nên gọi là bình đẳng. Tùy thuận quan sát các pháp trong khế kinh, tính ấy bình đẳng. Ví như hư không, nên gọi là thuận hành. Thời gian luôn luôn là thường. Diệt là trừ. Y nghĩa là tất cả pháp nhân tạp nhiễm khó có thể ngộ nhập, dụ cho gai góc um tùm. Các pháp tạp nhiễm, gọi là tội lỗi.Tập khí chứa nhóm, gọi là tụ. “Như phương thuốc hay tiêu bệnh độc”, nghĩa này dễ rõ. Có thể trừ xa các tội lỗi cho nên nói như không có bệnh. Bài tụng thứ 6 này hiển thị tu đạo. “Phật nói diệu pháp khéo thành lập”, nghĩa là đức Mâu-ni nói chính pháp rất khéo thành lập. “An lập tuệ, căn trong pháp giới”, nghĩa là an tuệ nơi Phật thuyết khéo thành lập pháp và căn bản trong chân pháp giới. Căn, nghĩa là đây là giác nhân, cho nên tổng duyên pháp, gọi là căn bản. Nghĩa là tất cả kinh đều lấy 10 địa làm căn bản. Pháp dựa vào đó mà chuyển, nên gọi là pháp giới, tức các pháp không. “Hiểu rõ ý niệm là phân biệt”, nghĩa là trí hậu đắc dựa vào pháp giới mà chuyển. Hiểu rõ ý niệm là phân biệt, lìa phân biệt không có một niệm pháp. Nghĩa là chỗ sở niệm các pháp trong khế kinh kia và chỗ nên niệm Ba-la-mật-đa cùng với quả của chúng v.v… Tính biến kế sở chấp đều không, cho nên “Dũng mãnh mau về bờ biển đức”, nghĩa là các Bồ-tát do trước làn lượt tu tập hiện quán trí vô phân biệt, trí hậu đắc cho nên mau chóng có thể chứng được tất cả công đức viên mãn của Phật quả. Nghĩa là Như Lai địa siêu việt vô biên nhân vị công đức, gọi là bờ biển đức. Như có tụng nói:

Nằm mơ đã nhiều năm,

Tỉnh dậy trong phút chốc.

Thời gian tuy vô lượng,

Chỉ ở trong sát-na.

Lại tinh tiến của Phật cực kỳ mãnh liệt, nên tuy trải nhiều kiếp mà gọi là thiểu thời. Như có tụng nói:

Người ngu tuy tu ngắn

Tâm lười nghi đã lâu.

Phật trong vô lượng kiếp,

Dũng mãnh chỉ phút giây.

Nói dũng mãnh, tức sức trí tuệ thành trí vô phân biệt hậu đắc, cho nên không có gì khiếp sợ, gọi là dũng mãnh. Bài tụng này hiển thị đến cứu cánh đạo vị đệ nhất nghĩa rất cao tột.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10