TẠI GIA BỒ TÁT GIỚI KINH GIẢNG LỤC

Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm dịch Phạn Hán
Thái Hư Đại Sư giảng
Thích Tịnh Nghiêm dịch Hán Việt

 

Phẩm chín: Tâm kiên cố của Bồ tát thực nghĩa

E2. Khuyến khích làm Bồ tát thực nghĩa
F1. Chánh thức biện minh Bồ tát thực nghĩa
G1. Thiện Sinh hỏi

Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn, Bồ tát thực nghĩa làm sao biết mình là Bồ tát thực nghĩa?”

[Giải]    Đức Phật biết rõ ràng kẻ nào là Bồ tát giả danh, kẻ nào là Bồ tát thực nghĩa. Thế nhưng Bồ tát dùng phương tiện nào để có thể tự biết mình là giả danh hay thực nghĩa. Đây là điều mà kẻ tu hành Bồ tát đạo cần phải biết, cho nên có lời hỏi này.

G2. Như Lai trả lời
H1. Trình bày bổn sinh hạnh

[Giải]    Bổn sinh, là Đức Phật nói đến sự tu hành của chính mình. Trong mười hai phần giáo có phần Bổn sinh, còn phần Bổn sự là nói về sự tu hành của các đệ tử của Đức Phật.

– Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát lúc tu khổ hạnh, trước hết phải có tâm thành.

Thiện nam tử! Ta nhớ thuở xưa lúc còn tu hạnh Bồ tát, trước theo ngoại đạo học pháp khổ hạnh, hết lòng tu tập, tâm không thoái chuyển. Trong vô lượng đời, dùng tro bôi thân, mỗi ngày ăn một hạt mè, hạt đậu. Dùng chông gai, cây đá làm chỗ lót nằm. Lấy phân cùng nước tiểu làm thuốc trị bệnh. Trong mùa hè nóng bức, dùng năm thứ lửa đốt thân. Trong mùa đông buốt giá, dùng nước đá chà xát vào thân. Hoặc ăn cỏ, rễ, nhành, lá, quả; hoặc ăn đất, hoặc hớp gió. Lúc tu những sự khổ hạnh như vậy, thân mình thân người đều không lợi ích. Tuy thế, tâm vẫn không thoái sụt, mà còn vượt hơn tất cả khổ hạnh của ngoại đạo.

Thiện nam tử! Ta thuở xưa vì bốn việc mà bỏ thân mệnh: một là vì muốn phá phiền não của chúng sinh; hai là vì muốn làm chúng sinh được an vui; ba là vì muốn phá trừ sự tham đắm thân thể; bốn là vì muốn báo ơn sinh dưỡng của cha mẹ. Bồ tát nếu không tiếc thân mệnh, quyết định biết mình là Bồ tát thực nghĩa.

Thiện nam tử! Trong quá khứ, vì cầu Chính Pháp, ta đã khoét thân làm ba ngàn sáu trăm ngọn đèn. Lúc bấy giờ, ta tuy vẫn còn đầy phiền não, thân thể đau đớn, nhưng vì muốn chúng sinh được độ thoát sinh tử, ta tự an ủi khiến lòng kiên quyết, không sinh tâm thoái chuyển. Lúc đó được đầy đủ ba việc: một là rốt ráo không còn thoái chuyển; hai là trở thành Bồ tát thực nghĩa; ba là được chúng sinh gọi là bậc không thể nghĩ bàn. Lại nhớ khi xưa vì cầu chính Pháp, trong một đại kiếp, khắp thân chịu sự thống khổ của hàng ngàn mụt nhọt. Lúc đó, ta tuy vẫn còn đầy phiền não, thân thể đau đớn, nhưng vì muốn chúng sinh đều được độ thoát, ta tự an ủi, khiến lòng kiên quyết, không sinh tâm thoái chuyển. Đấy gọi là Bồ tát không thể nghĩ bàn. Khi xưa ta vì một con bồ câu mà bố thí thân mệnh của mình. Lúc bấy giờ ta còn đầy phiền não, thân thể đau đớn, nhưng vì muốn chúng sinh được độ thoát, ta tự an ủi, khiến lòng kiên quyết, không sinh tâm thoái chuyển. Đấy chính là Bồ tát không thể nghĩ bàn.

Thiện nam tử! Tất cả bạn ác, và các nghiệp phiền não, chính là người bạn làm trang nghiêm đạo nghiệp của Bồ tát. Vì sao? Vì tất cả phàm phu không có trí tuệ và chính niệm, nên đem phiền não làm kẻ oán địch; còn Bồ tát đầy đủ trí tuệ và chính niệm, nên đem phiền não làm người bạn đạo. Thiện nam tử! Kẻ đã đoạn phiền não, thì không còn phải thọ thân trong các cõi ác. Thế nên, Bồ tát tuy thị hiện làm nghiệp ác, thực sự không phải là do thân, khẩu, ý làm ra, mà là do sức mạnh của thệ nguyện. Như vì muốn điều phục loài bàng sinh, do thệ nguyện mà thọ thân thú dữ. Bồ tát tuy thị hiện thọ thân cầm thú, hiểu rõ tiếng người, lời pháp, lời chân thực, lời không thô ác, lời không vô nghĩa; tâm thường thương xót, tu tập từ bi, lòng không buông lung. Đấy gọi là Bồ tát không thể nghĩ bàn.

Thiện nam tử! Thuở xưa lúc ta thọ thân gấu, dù vẫn còn đủ phiền não, nhưng ta không còn bị phiền não lay chuyển. Vì sao? Vì ta đầy đủ chính niệm, thương xót chúng sinh, ủng hộ Chính Pháp, tu hành pháp hạnh. Thọ thân trâu, chim, thỏ, rắn, rồng, voi, kim xí điểu, bồ câu, nai, vượn, dê, gà, chim trĩ, khổng tước, anh vũ, các loài cóc nhái. Lúc ta thọ thân chim, thú như vậy, tuy vẫn còn đủ phiền não, nhưng phiền não đối với ta không còn sức tự tại. Vì sao? Vì ta đầy đủ chính niệm, thương xót chúng sinh, ủng hộ Chính Pháp, tu hành pháp hạnh.

Thiện nam tử! Trong đời đói khổ, ta lập đại nguyện, do đại nguyện mà thọ thân làm loài cá lớn, làm cho chúng sinh khỏi sự đói khát. Kẻ nào ăn thịt ta, đều tu hành, tư duy chính đạo, không phạm tội ác. Trong đời nhiều tật dịch, ta lập đại nguyện, do nguyện lực mà thọ thân làm cây thuốc. Những kẻ bệnh tật thấy, nghe hay chạm đến thân ta, hoặc ăn da, thớ, máu, thịt, xương, tủy của ta thì bệnh hoạn đều lành.

Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát thọ khổ như vậy, tâm không thoái chuyển, gọi là Bồ tát thực nghĩa.

[Giải]    “Tâm thành”, Bồ tát tu khổ hạnh vì muốn độ bọn ngoại đạo. Trước tiên phải thành tâm nhắc nhở mình như sau: “Khổ hạnh này là vì độ bọn ngoại đạo mà tu.”

“Khi xưa lúc còn tu hạnh Bồ tát”, tức là việc bổn sinh của chính Đức Phật.

Đại khái, khổ hạnh của ngoại đạo cũng có thể làm người thế gian khởi lòng cung kính, cho nên lúc bọn ngoại đạo đang thạnh hành, kẻ tu hạnh Bồ tát, nếu muốn người đời khởi tâm kính ngưỡng, cần phải tu khổ hạnh thắng quá ngoại đạo.

“Aên đất, hớp gió”, ngoại đạo đều có hạnh này.

Tuy đối với thân mình thân người đều không lợi ích, nhưng vì muốn hàng phục ngoại đạo, khởi lòng tín ngưỡng của người đời, cho nên phải tu tập tất cả các khổ hạnh.

Bồ tát có thể vì pháp, vì chúng sinh mà xả thân mệnh, tức là Bồ tát thực nghĩa.

“Sự thống khổ của ngàn mụt nhọt”, nghĩa là nói lên sự cực kỳ thống khổ.

“Lấy bạn ác, các nghiệp phiền não làm bạn đạo”, tức là có thể ở trong đời ác trược độ chúng sinh, dù là la sát, ngạ quỷ, cũng có thể độ bọn chúng.

Bồ tát chứng đạo càng cao, thì càng có thể độ các cõi thấp. Kẻ chứng đạo không cao, chỉ có thể độ chúng sinh ở cõi người, trời, không thể vào ba đường ác; chỉ có các bậc Đại Bồ tát như Quán Aâm, Địa Tạng mới có thể độ chúng sinh trong ba đường ác này.

“Thọ thân gấu”, trong các kinh khác, nói Đức Phật trong đời quá khứ thọ thân gấu, đã nuôi dưỡng đứa con thơ của người khác khôn lớn, tuy còn phiền não, nhưng không còn bị phiền não lay chuyển, cho nên nói “không bị phiền não lay chuyển”.

H2. Biện minh khái quát Bồ tát hạnh

Lúc Bồ tát tu hành sáu pháp Ba la mật, chung qui không mong cầu quả báo, chỉ lấy sự lợi ích chúng sinh làm sự nghiệp. Bồ tát thấy rõ lỗi lầm của sinh tử, bởi thế ưa ở trong sinh tử, vì muốn làm lợi ích, khiến cho chúng sinh được an vui. Bồ tát hiểu rõ niềm vui của giải thoát, sự lỗi lầm của sinh tử, mà vẫn có thể ở trong sinh tử, đây là hạnh không thể nghĩ bàn của họ. Bồ tát làm việc gì, không cần báo ơn; đối với kẻ làm ơn cho mình, thường nghĩ đến sự trả ơn.

Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh thường cầu tự lợi, Bồ tát làm việc thường mong lợi người. Đây là hạnh không thể nghĩ bàn của Bồ tát.

Thiện nam tử! Bọn ngoại đạo lúc giáo hóa chúng sinh, hoặc dùng lời hung ác, đánh đập, nhục mạ, xua đuổi, sau đó mới điều phục. Bồ tát không phải thế, lúc giáo hóa chúng sinh, không dùng lời thô tục, lời giận dữ, lời vô ích, mà chỉ dùng lời nhỏ nhẹ, lời chân thực mà giáo hóa họ. Chúng sinh nghe rồi, như hoa sen xanh dưới ánh trăng, như hoa sen đỏ dưới ánh mặt trời.

Thiện nam tử! Lúc Bồ tát bố thí, tuy ít tiền của, thấy nhiều người đến xin, không sinh tâm chán ghét. Đây là hạnh không thể nghĩ bàn của Bồ tát. Bồ tát dạy dỗ kẻ mù, điếc, câm, ngọng, ngu si, hoặc kẻ dã man, hung ác, tâm không chán ghét. Đây là hạnh không thể nghĩ bàn của Bồ tát.

Thiện nam tử! Bồ tát có bốn việc không thể nghĩ bàn: một là vật yêu quí có thể đem bố thí cho người khác; hai là tuy đầy đủ phiền não, mà nhẫn được việc ác; ba là thấy đại chúng chia rẽ, có thể khiến hòa hợp; bốn là dù lúc sắp chết, nếu thấy kẻ ác, liền nói pháp để chuyển đổi họ. Đây là bốn việc không thể nghĩ bàn của Bồ tát. Lại có ba việc không thể nghĩ bàn: một là thường quở trách tất cả phiền não; hai là ở trong phiền não, nhưng không xả bỏ phiền não; ba là dù đầy đủ phiền não và phiền não nghiệp mà không dám buông lung. Đây là ba việc không thể nghĩ bàn của Bồ tát. Lại có ba việc không thể nghĩ bàn: một là lúc muốn bố thí, tâm sinh vui mừng; hai là lúc bố thí, chỉ vì người mà không cầu quả báo; ba là bố thí xong, tâm an vui, không sinh nuối tiếc. Đây là ba việc không thể nghĩ bàn của Bồ tát.

[Giải]    “Hoa sen xanh dưới ánh trăng”, hoa sen xanh gặp ánh trăng thì nở; “hoa sen đỏ dưới ánh mặt trời”, hoa sen đỏ gặp ánh mặt trời thì nở.

“Dạy dỗ kẻ mù, điếc, v.v…”, người đời dùng tâm tham ái, gặp những gì xấu xí thì ghét; Bồ tát dùng tâm từ bi, gặp những gì càng xấu xí, lại càng khởi lòng thương xót.

“Nói pháp lúc sắp chết”, có kẻ lúc sắp chết, tự thấy lỗi lầm của họ, thì nên nói Phật pháp để chuyển hóa họ.

“Quở trách phiền não và không xả bỏ phiền não”, đối phiền não của chính mình thì quở trách, đối với phiền não của kẻ khác thì không xả bỏ.

Phiền não nghiệp, tức là nghiệp do phiền não phát sinh. Phiền não ở trong tâm, nhưng nghiệp thì thông cả thân, miệng và ý.

“Không thể nghĩ bàn”, trên phương diện lý, “dứt đường ngôn ngữ, diệt tận tâm hành” mới gọi là không thể nghĩ bàn, còn ở đây, không thể nghĩ bàn, chỉ có nghĩa là “điều mà người bình thường không làm nỗi”.

H3. Lúc tu hành tự quán xét

Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát lúc tu hạnh như vậy, tự quán sát tâm mình: “Tôi là Bồ tát giả đanh hay thực nghĩa”. Chúng sinh nếu làm những việc như vậy, nên biết đó là Bồ tát thực nghĩa.

[Giải]    Bồ tát nếu có thể thường tự quán xét tâm mình, phản tỉnh xem xét mình có phải là Bồ tát thực nghĩa mà không phải là Bồ tát giả danh hay không? Kẻ như vậy chính là Bồ tát thực nghĩa.

H4. So sánh nêu rõ Bồ tát tại gia thù thắng

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia làm những việc ấy không có gì khó. Bồ tát tại gia làm những việc ấy mới thực là khó. Vì sao? Vì kẻ tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.

[Giải] Ngưòi nghe kinh này, nếu có thể tu hành đúng như pháp, thì mới không phụ lòng của Đức Phật nói lời khuyến khích ở cuối mỗi phẩm.