THẾ NÀO LÀ XÁ LỢI?
Niệm Phật Tăng
Sa môn Thích Hải Quang biên soạn

 

CHƯƠNG BA
TIẾT I
CÁC LOẠI THIỀN-ĐỊNH

(Chương nầyLUẬN”GIẢNG ” về  các loại “PHÀM-PHU THIỀN-ĐỊNHở trong ĐẠO-PHẬT”

*

HỎI:

Trước vừa mới nói rằng: 

– Có “GIỚI” mới đắc được “ĐỊNH”…

Cớ sao nơi đây(trong thời-kỳ “THIỀN-ĐỊNH” thứ 2 nầy)đa phần người tu đều bị ít nhiều “phạm giới”, hoặc có giữ được giới-luật, nhưng đều bị “lỏng-lẻo” mà lại đắc được “THIỀN-ĐỊNH” là thế nào?

ĐÁP:

Như trong phần trước (nơi ghi-chú) đã nói rằng:

Có 2 loại “THIỀN-ĐỊNH” là:

a/-Phàm-phu THIỀN-ĐỊNH(tức là Thiền-định” của chúng-sanh trong ba cõi sanh-tử  tu-chứng được).

b/-Thánh-nhơn THIỀN-ĐỊNH(tức là “THIỀN-ĐỊNH” của các bậc Thánh Nhị-thừa (Thanh-Văn, Duyên Giác).

Vì thế cho nên “THIỀN-ĐỊNH” được “nói đến”tu chứng-đắc” ở đây – (trong thời-kỳ PHÁP-VẬN thứ 2 nầy) – thảy đều là:

 PHÀM-PHU THIỀN-ĐỊNH.

Chớ không phải:

THÁNH “NHỊ-THỪA THIỀN-ĐỊNH”.

Vậy thì, sao mà gọi là:

A/- Phàm-phu Thiền-định :

Nói “Phàm-phu Thiền-định” vì đây là các thứ THIỀN-ĐỊNH” của “chúng-sanh” trong cõi “Dục” và (chư Thiên ở) nơi hai cõi “SẮC GIỚI”, “VÔ-SẮC GIỚI” tu-chứng vậy.

Bởi vì trong thời-kỳ “TƯỢNG-PHÁP” thứ hai nầy, đa-số người tu-tập không còn có đủ “khả-năng”(tức là kém, thiếu Trí-huệ) – để “thâm-nhập vào” và tu-tập đúng theo TỨ THÁNH ĐẾ” nữa – (hoặc cũng có nhưng rất ít) – mà phần nhiều các “hành-giả” chỉ đủ sức để chú-trọng về phương-diện Tu “Thiền-Định” mà thôi.

Đó là các loại “THIỀN-ĐỊNH” của:

I/- Cõi SẮC-GIỚI (Thiên) gồm có 4 loại sau đây:

1a/- SƠ-THIỀN, “LY SANH HỶ-LẠC”:

Hành-giả” tu-tập theo “ĐỊNH” nầy, thì ban sơ khởi tâm:

1/- Nhàm-chán, ghê-sợ…. những sự ô-trược của cõi DỤC-GIỚI (như là các sự “ái-nhiễm” (nhất là sự “dục nhiễm giao-hợp” giữa hai giống Nam, Nữ) cùng với các sự tham-đắm khác ở nơi Ngũ dục, Lục trần).

“Hành-giả” ấy tha-thiết:

2/- Phát-tâm mong-muốn làm sao cho mau-chóng xa-lìa (được những “sự ô-trược” – (như sự giao-hợp giữa NamNữ) – nầy).

Bằng cách:

Tịnh-tâm lại để “nhập” vào trong “Thiền-định”.

Nhờ kiên-tâm và trì-chí tu-luyện đó mà (lâu ngày, chầy tháng)….“hành-giả” ấy dần-dần:

– Xa-lìa và đoạn dứt được hết những ý-niệm, mong-muốn có tánh-cách cấu-nhiễm, ô-trược về “ÁI-DỤC” (giữa Nam, Nữ)… ở trong tâm.

3/- Vì chứng-đạt được như thế, cho nên bậc “Hành-giả” ấy:

Phát khởi tâm vui-mừng – (tức là phát-sanh ra được Tâm “HỶ-LẠC”).

Đây là mức-độ “THIỀN-ĐỊNH” đầu tiên, gọi là:

SƠ THIỀN “LY SANH HỶ LẠC”.

Nghĩa là:

(Vì “DỨT lìa” được các “DỤC-NHIỄM” mà phát-sanh ra một sự “VUI-SƯỚNG” ở trong TÂM).

(Phụ-chú:

– Ly : là trong Tâm của mình xa-lìa (tức là đoạn dứt) được những sự “ô-trược” của các cảnh Ngũ dục, Lục trần nơi cõi DỤC (giới).

– SANH HỶ-LẠC : (là phát-sanh ra sự “vui-mừng”.)

Người tu đắc được ĐỊNH” nầy – (nếu chết) – thì “Thần-thức” liền được thác-sanh ngay về cõi Trời SƠ-THIỀN nơi Sắc-giới Thiên – sống lâu 2 trung kiếp).

2B/- NHỊ THIỀN, “ĐỊNH SANH HỶ-LẠC”:

– Kế đây, trong giai-đoạn tu-tập thứ hai nầy, bậc “Sơ-thiền hành-giả” ấy vì cảm thấy được thêm điều mới rằng :

1/- Cái “HỶ-LẠC” (vui-mừng) vừa mới được chứng-đắc đó tuy là có DIỆU, nhưng vẫn còn  thô phù”, bởi vì “NÓ” cũng vẫn còn làm cho… TÂM của mình bị chao-động” (vì quá vui-mừng), rất cần phải nên dứt trừ, để cho TÂM được TỊNH” lại, nên bậc “hành-giả” nầy:

PHẢI (nhiếp TÂM) VÀO ĐỊNH THÊM MỘT LẦN NỮA

Khi “ĐỊNH” mới nầy có kết-quả rồi, thì :

– Sự “vui-mừng (Hỷ-lạc) thô phù” cũ của “SƠ-THIỀN ĐỊNH” được chấm dứt.

Và rồi cũng lại có thêm :

– Một sự “vui-mừng (Hỷ-lạc) vi-tế” khác ở trong “ĐỊNH” mới nầy lại được phát-sanh ra.

Đây là cảnh-giới chứng-đắc được mức “THIỀN-ĐỊNH” thứ hai, gọi là “NHỊ-THIỀN ĐỊNH SANH HỶ-LẠC”.

(Ghi-chú:

– ĐỊNH :  là Thiền-định, định Tâm…

– SANH HỶ-LẠC : nhờ vào ĐỊNH” nầy mà sự Hỷ-lạc thanh-tịnh” TẾ-DIỆU khác được phát-sanh.

Người đắc được ĐỊNH” nầy – (nếu chết) – thì “Thần-thức” liền được thác-sanh ngay về cõi Trời NHỊ-THIỀN nơi Sắc-giới Thiên. – sống lâu 4 Trung-kiếp).

*

3C/- TAM THIỀN, “LY HỶ DIỆU-LẠC”:

Trong “ĐỊNH” (thứ hai) vừa mới được CHỨNG ĐẮC nầy, bậc Nhị-Thiền hành-giả” ấy lại thấy thêm được một điều “mới lạ” khác nữa rằng:

1/- Cái “HỶ-LẠC” (vui-mừng) vừa mới đắc được nầy, mặc dù là thanh-tịnh” và rất là vi-tế”, nhưng “NÓ” cũng vẫn còn làm cho Tâm bị ít nhiều “chao-động”, cho nên “hành-giả” ấy thấy cần phải:

NHIẾP TÂM VÀO “ĐỊNH” THÊM MỘT LẦN NỮA

Để:

Loại bỏ cái “Hỷ-lạc vi-tế” ấy đi.

2/- Khi “ĐỊNH” mới nầy thành-tựu và sự “Hỷ-lạc vi-tế” (của NHỊ-THIỀN) trước đó đã được xả-bỏ rồi, thì “hành-giả” ấy lại thấy có:

– Một nỗi vui “DIỆU-MẦU” khác nữa lại phát-sinh ra.

Đây là mức độ Thiền-định thứ ba, gọi là:

“TAM THIỀN LY HỶ DIỆU-LẠC”.

(Ghi-chú:

– LY-HỶ: là xa lìa được sự HỶ-LẠC vi-tế”.

– DIỆU-LẠC : là sự vui mầu-diệu, vi-tế, cực thanh-tịnh…

Người đắc được ĐỊNH” nầy – (nếu chết) – thì “Thần-thức” liền được thác-sanh ngay về cõi Trời TAM-THIỀN nơi Sắc-giới Thiên. – Sống lâu 8 Trung-kiếp).

(Phụ-chú:

b/- Đến đây thì “hành-giả” ấy lại có “2 con đường tẻ” để đi (tức “HÀNH” các phần “SỰ” tu-tập tiếp theo):

Đó là (nếu như bậc HÀNH-GIẢ ấy biết):

1/- Tu-tập đúng theo “chánh-pháp” của Phật dạy (thì sẽ chứng đượcTHỨC TÁNH KHÔNG”(1) và đắc A-NA-HÀM” quả của bậc Thánh Nhị-Thừa thứ ba) để thác-sanh vào cõi trời “Ngũ Bất Hoàn” – (cũng ở cõi Trời SẮC-GIỚI) – và tu-tập tiếp (cho đến lúc thành-tựu được Thánh-quả Vô-sanh “A-La-Hán” thứ tư).

Hoặc là:

2/- Đi vào trong VÒNG (TU-TẬP THEO) Định “TỨ KHÔNG” của ngoại đạo mà thác sanh vào cõi Trời VÔ-SẮC”.

*

4D/- TỨ THIỀN, XẢ NIỆM THANH-TỊNH:

– Ở nơi “ĐỊNH” (Đệ Tam-Thiền) mới được chứng-đắc nầy, “hành-giả” ấy lại thấy có thêm một điều “mới lạ” khác nữa rằng:

1/- Cái “vui” mới vừa chứng-đắc được nầy tuy là “cực vi” và “MẦU-DIỆU” thiệt (đó).

Nhưng mà:

– Hễ còn thấy có NIỆM VUI” (dù là mầu-diệu, vi-tế) thì:

TÂM CŨNG VẪN CHƯA ĐƯỢC
HOÀN-TOÀN THANH-TỊNH

Cho nên:

– Bậc Hành-giả” ấy thấy mình cần phải tu-tiến lên thêm một “nấc thang” khác nữa, đó là làm sao để:

Xả bỏ luôn cái
Niệm vui
“mầu-diệu”, “VI-TẾ” kia đi.

Cho:

Tâm được “hoàn-toàn thanh-tịnh”.

Đây là mức độ Thiền-Định thứ tư, gọi là “TỨ THIỀN XẢ NIỆM THANH-TỊNH”.

(Ghi-chú :

XẢ NIỆM : là xả bỏ cái “niệm” vui “cực vi-tế mầu diệu” của Định Tam-thiền đi.

– THANH-TỊNH : Tâm đạt được sự “thanh-tịnh hoàn-toàn”  (tức  là  không  còn  cảm thấy “VUI” – (dù là Cực vi-tế) – đi chăng nữa).

Người đắc được ĐỊNH” nầy – (nếu chết) – (thì “Thần-thức” liền được thác-sanh ngay vào cõi Trời TỨ-THIỀN nơi SẮC-GIỚI Thiên. – Sống lâu 16 Trung-kiếp).

*

Tóm lại:

– Bốn thứ ĐỊNH” nầy (Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền) dù là có cao, nhưng PHẬT vẫn xem là ĐỊNH của phàm-phu”, (Kinh gọi là “phàm-phu thiền-định”), vì các loại “ĐỊNH” ấy chỉ có mục-đích xả bỏ những sự ô-trược, cấu-nhiễm của cõi Dục-giới.

Mà:

– Đi vào trong các sự HỶ-LẠC” (vui-mừng) từ “Thô” đến “Tế”, từ “Tế” đến “Vui” (vì Tâm được) Thanh-tịnh mà thôi, chớ cũng vẫn chưa được giải-thoát ra khỏi luân-hồi, sanh-tử – (vì THÂN NGŨ-ẤM CỰC-VI của các chư THIÊN nầy vẫn còn “Trụ” trong cõi SẮC – (là MỘT trong Tam-giới sanh-tử).

Đắc 4 thứ “ĐỊNH”  nầy  rồi  thì  hành-giả”

được thác-sanh vào cõi Trời Sắc-giới, trụ-số và thọ-mệnh tuy có lâu dài – (từ 2 Trung-kiếp cho đến 16 Trung-kiếp (1 Trung-kiếp có 320 triệu năm)nhưng rồi “ĐỊNH” ấy cũng vẫn có lúc mãn. Khi tướng ngũ suy” hiện ra, thì Thần-thức liền bị đọa xuống luân hồi (như Tỳ-kheo VÔ-VĂN vậy).

(Ghi-chú:

– “VÔ-VĂN” có nghĩa là Ngu-si, dốt-nát, vô trí, không hiểu Đạo-pháp, không có Chánh-kiến).

Nguyên-lai là vị Tỳ-kheo VÔ-VĂN nầy chỉ biết được có chút ít Phật-pháp, mà lại thiếu mất đi phần TRÍ-HUỆ.

Tuy-nhiên (vào thời quá-khứ lâu xa về trước, khi Phật THÍCH-CA chưa ra đời, Ông tu-chứng được ĐỊNH TỨ-THIỀN” (XẢ NIỆM THANH-TỊNH) và thác sanh lên cõi Trời Tứ-Thiền, sống lâu được 16 Trung-kiếp.

Nhưng:

Bởi dốt-nát Phật-pháp và thiếu Trí-huệ, nên VÔ-VĂN Tỳ-kheo ấy (vì lầm tưởng) tự xưng rằng:

– “Mình đã chứng được thánh-quả vô-sanh A-la-hán” (vì sống quá lâu) –

(Nhưng thật sự ra thì Ông ấy đâu phải thiệt A-la-hán, mà chỉ là do nơi “lầm-tưởng” rồi dối-xưng mình chứng THÁNH QUẢ VÔ-SANH thôi).

Đến khi “Định Tứ-Thiền” của Ông ấy mãn, phước-báu ở cõi Trời hết, tướng Ngũ suy” hiện ra.

– (là vòng hoa trên đầu héo-úa, mình dính bụi, nách ra mồ-hôi, không thích Tòa ngồi cũ của mình, Tâm xao-động không yên).

Thì:

Ông bèn nổi giận, thốt ra lời phỉ-báng rằng:

PHẬT nói gạt Ta là nếu người nào chứng-đắc được đạo-quả Vô-sanh A-la-hán rồi thì dứt được sự sanh-tử, luân-hồi, cớ sao nay TaA-la-hán mà cũng vẫn còn phải chịu sanh-tử như thế nầy ?

Vậy thì:

– Phật chỉ là một kẻ lừa-dối !..

Do vì thốt lời “hủy-báng bậc giải-thoát đại thánh-nhơn” như PHẬT (là còn sanh-tử và lừa-dối như vậy), nên Ông liền bị mất hết phước Trời và rớt ngay vào trong địa-ngục A-Tỳ !!!…..

Vì thế cho nên mới nói :

– “TỨ-THIỀN” của cõi SẮC, Tứ ĐỊNH” của cõi VÔ-SẮC thảy đều là:        

“PHÀM-PHU THIỀN-ĐỊNH” chớ chẳng phải
“GIẢI-THOÁT THIỀN-ĐỊNH”

là như vậy.

(Ghi chú:

Các bậc THIỀN-GIẢ đắc được 4 thứ Phàm-phu ĐỊNH” của SẮC-GIỚI Thiên nầy, tuy là HỌ:

– Không có đủ GIỚI” HUỆ” để tu-tập theo TỨ THÁNH-ĐẾ”, chưa dứt được các phần SẮC, TÂM v.v… cùng chưa được Nhập vào trong Dòng THÁNH-SỐ”. Nhưng:

Sau khi chết và thiêu-hóa “sắc thân” xong, cũng vẫn có xá-lợi (vì là đã được đắc ĐỊNH), tuy nhiên XÁ-LỢI nầy:

– Không được cứng chắc mầu-nhiệm như xá-lợi” của các bậc thánh-giả chứng đắc được 4 thánh quả của Thanh-Văn Thừa (là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán) hoặc Duyên giác thừa (Bích-Chi Phật).

*

II/- Ngoài 4 thứ “PHÀM-PHU THIỀN-ĐỊNH” của cõi SẮC GIỚI ra, thì:

– Cõi VÔ-SẮC (giới) cũng có 4 thứ “PHÀM-PHU ĐỊNH” khác nữa gọi là “TỨ KHÔNG ĐỊNH”.

Đó là:

IIA/- KHÔNG VÔ-BIÊN XỨ-ĐỊNH:

Bậc Thiền-giả sau khi đã tu chứng xong “ĐỊNH TỨ-THIỀN”, Tâm được hoàn-toàn thanh-tịnh rồi – (tức là trong TÂM không còn có NIỆM VUI-MỪNG nào nữa) – nhưng HỌ cũng:

Vẫn còn thấy có “sắc giới, sắc chất” (vi tế).

– Vẫn còn thấy có “SẮC Thân (vi-tế)

– Vẫn còn bị “hình-sắc” vi-tế, thắng-diệu (của cõi SẮC) trói-buộc.

Nghĩa là:

– Chư Thiên nơi cõi SẮC-GIỚI vì cũng vẫn còn (thấy)“THÂN”“CẢNH” (dù Thân cùng Cảnh ấy là cực-vi) nên Thiền-giả” ấy lại thêm một lần nữa:

PHÁT TÂM NHÀM CHÁN

Và:

Muốn rời bỏ hẳn các thứ “thân”, cùng với “cảnh” nầy(dù là nhiệm-mầu, vi-diệu hơn ThânCảnh của cõi “DỤC GIỚI” gấp muôn, triệu lần).

a/- Do đó cho nên Thiền-giả” ấy lại nhập vào trong:

“ĐỊNH” THỨ NHẤT CỦA “TỨ-KHÔNG”

Gọi là:

“KHÔNG VÔ-BIÊN XỨ”ĐỊNH.

b/- Với sự chứng-đắc của “ĐỊNH nầy, Thiền-giả ấy được:

THỂ-NHẬP VÀO TRONG
CẢNH-GIỚI
(của) HƯ-KHÔNG VÔ-BIÊN

(Hư-không bao-la không có biên-giới)

Và không còn thấy có:

CÁC SỰ NGĂN-CÁCH, BIÊN-GIỚI,
CỦA “THÂN” CÙNG “CẢNH” nữa.

(Tức là các vị chư THIÊN nầy không còn có “THÂN” và “cảnh” bằng “SẮC CHẤT” như ở cõi “SẮC-GIỚI THIÊN” nữa).

Đắc được ĐỊNH nầy, bậc Thiền-giả ấy – (nếu chết) – thần-thức tức thì được thác-sanh ngay về trời KHÔNG VÔ-BIÊN XỨ” (thứ nhất) của cõi VÔ-SẮC GIỚI Thiên, sống lâu 20.000 Đại-kiếp (một Đại-kiếp có 1 Tỷ 280 triệu năm).

*

IIB/- THỨC VÔ-BIÊN XỨ ĐỊNH:

Dù đắc được KHÔNG VÔ-BIÊN XỨ ĐỊNH” và đã:

– Rời lìa được sự trói-buộc của “THÂN” cùng “CẢNH” rồi.

– Thấy được cảnh-giới “VÔ-BIÊN” của “HƯ-KHÔNG” rồi.

a/- Nhưng vị “CHƯ-THIÊN” ấy cũng vẫn còn :

– Giữ cái “bản ngã” (Ta) hẹp-hòi, ích-kỷ.

– Thấy có biên-giới của “TÂM” và “THỨC”.

Nên Bậc Thiền-giả” ấy lại thấy là cần phải nhập vào trong mức ĐỊNH” (thứ hai) kế-tiếp để:

Xóa bỏ biên-giới của “THỨC” và “TÂM” đi

(Dù vậy nhưng cũng vẫn còn có phần TÂM-THỨC vi-tế chớ chưa được dứt hẳn).

b/- Khi “ĐỊNH” mới nầy đắc thành rồi thì “Thiền-giả” ấy liền được nhập vào trong cảnh-giới THỨC VÔ-BIÊN XỨ ĐỊNH”.

(Đắc được ĐỊNH” nầy, bậc Thiền-giả” ấy – (nếu chết) – Thần-thức” tức thì được thác-sanh ngay vào trời THỨC VÔ-BIÊN XỨ” (thứ hai) của cõi VÔ-SẮC GIỚI-THIÊN, sống 40 ngàn Đại-kiếp).

IIC/- “VÔ SỞ HỮU XỨ” ĐỊNH:

Dù đã đắc THỨC VÔ-BIÊN XỨ ĐỊNH”, xóa bỏ được biên-giới của TÂM-THỨC” rồi,

a/- Nhưng Thiền-giả ấy cũng :

–  Vẫn còn thấy có “BẢN-NGÔ. (vi-tế)

– Vẫn còn thấy có “TÂM-THỨC PHÂN- BIỆT”. (Vi-tế)

–  Vẫn còn thấy có “NĂNG”, “SỞ” (tức là còn thấy có Đây, Kia, Nhơn, Ngã vi-tế).

“Đây” có nghĩa là:

CÒN THẤY CÓ SỞ HỮU

(vật loại của riêng mình)

“KIA” có nghĩa là:

CÒN THẤY CÓ “NGƯỜI” KHÁC

Vì thế cho nên trong:

Tâm THỨC” vẫn còn có một sự “chao-động vi-tế”.

b/- Cho nên bậc Thiền-giả” ấy thấy cần phải tiến thêm lên một tầng “ĐỊNH” khác cao hơn nữa để:

XA-LÌA ĐƯỢC CÁC SỰ “CHAO-ĐỘNG” VÀ “NĂNG SỞ” (vi-tế) ấy đi.

(tức là nhập vào trong cảnh-giới “VÔ SỞ-HỮU XỨ” – (cõi mà không còn thấy các phần sự” nào là thuộc về “sở-hữu” (của ta) nữa).

c/- Khi  ĐỊNH” mới  nầy  thành-tựu  rồi,  thì Thiền-giả” ấy liền được nhập vào trong cảnh-giới của ĐỊNH “VÔ SỞ-HỮU”. (Còn có thêm tên gọi khác nữa là “BẤT-DỤNG XỨ HỮU” ĐỊNH).

(Đắc được ĐỊNH” nầy rồi,  Thiền-giả ấy – (nếu chết) – thời Thần-thức” liền được thác-sanh ngay vào trời “VÔ SỞ-HỮU XỨ” thứ ba của cõi VÔ SẮC-GIỚI THIÊN”, sống 60 ngàn Đại kiếp).

*

IVD/- PHI-TƯỞNG, PHI-PHI TƯỞNG XỨ ĐỊNH :

Dù đã đắc được “Vô Sở-hữu Xứ Định” và không còn thấy có “Nhơn”, “Ngã” (Ta, Người) cùng “Năng”, “Sở” (phân-biệt ĐÂY, KIA) nữa, nhưng “TÂM-THỨC” cũng:

VẪN CÒN (CẢM) THẤY CÓ (Ý) “TƯỞNG” CỰC VI-TẾ

Mà hễ:

CÒN CÓ “TƯỞNG” THÌ “TÂM” CÒN BỊ “VỌNG-ĐỘNG”

a/- Cho nên bậc Thiền-giả” ấy lại thấy là cần phải tu-tiến thêm lên một tầng-bậc khác nữa, để vào trong cảnh-giới “KHÔNG TƯỞNG” (tức là Phi-Tưởng).

Nhưng:

b/- Cái “KHÔNG TƯỞNG” (tức là phi tưởng) (2) mới vừa được “chứng” ở đây, không có nghĩa là giống như sự “vô-tri” của đất đá, cỏ cây, tường gạch v.v… đâu, mà (ngược lại) trong:

“TÂM-THỨC” VẪN SÁNG-SUỐT NHƯ MỘT TẤM GƯƠNG

vậy (chớ chẳng phải giống như các loài “vô tình chúng-sanh” đâu.)

Đây gọi là cảnh-giới của “PHI-PHI TƯỞNG”

Nghĩa-là :

CŨNG “CHẲNG PHẢI” LÀ HOÀN-TOÀN “KHÔNG CÓ TƯỞNG

(Vì vẫn còn có phần NIỆM-TƯỞNG vi-tế”(tức là “PHI-TƯỞNG, PHI-PHI (3) TƯỞNG”).

(Phụ-chú:

Vì còn có TƯỞNG” (vi-tế) như thế, cho nên TÂM  đương-nhiên là cũng còn có ĐỘNG” (nhưng cái “ĐỘNG” ấy cực-kỳ vi-tế, nhỏ-nhiệm) –   vì vậy mà:

– “Khi Ngài XÁ-LỢI-PHẤT thị tịch rồi,

Thì:

Chư THIÊN nơi cõi Trời VÔ-SẮC thương khóc, nước mắt nhỏ xuống thành mưa”)

c/- Đắc được ĐỊNH” nầy rồi, thì “Thiền-giả” ấy – (nếu chết) – “thần-thức” liền được thác-sanh về cõi Trời PHI-TƯỞNG PHI-PHI TƯỞNG” thứ tư của cõi VÔ-SẮC” THIÊN – sống lâu 84.000 đại kiếp).  

“Hành-Giả” nào đắc được 4 thứ ĐỊNH VÔ-SẮC” nầy và sanh về cõi trời “Vô-Sắc” rồi, thì tuy là:

c/– KHÔNG CÒN CÓ “THÂN NGŨ-UẨN THÔ PHÙ” như ở cõi SẮC” nữa, nhưng cũng vẫn còn có “THÂN NGŨ-UẨN CỰC VI-TẾ” của cõi VÔ-SẮC”, đây có nghĩa là:

– VẪN CÒN CÓ THÂN “NGŨ-UẨN” Sắc, Thọ, tưởng, Hành, Thức (cực vi-tế).

Chớ :

– CHƯA ĐƯỢC HOÀN-TOÀN LÀ “NGŨ-UẨN GIAI KHÔNG”.

Vì thế mà:

– Chưa độ được “NHỨT-THIẾT KHỔ-ÁCH”.

(Tức là vẫn không bằng một vị THÁNH sơ-quả TU-ĐÀ-HOÀN của Nhị-Thừa (Tiểu thừa).

Đây có nghĩa là:

– Các chư “THIÊN” nơi cõi Trời “PHI TƯỞNG PHI-PHI TƯỞNG” nầy cũng vẫn còn nằm trong vòng “TAM GIỚI SANH-TỬ”.

Cho nên:

2/- Khi ĐỊNH-LỰC” (tức là sức “Định”) mãn rồi, vị chư Thiên ấy cũng vẫn phải theo “NGHIỆP TIỀN-KHIÊN” trước kia còn sót lại mà bị đọa xuống sáu nẻo luân-hồi. (Giống như mũi tên bắn lên hư-không, hễ bay cao đến tột mức rồi, thì phải lộn đầu rơi xuống đất).

Vì thế nên “4 ĐỊNH VÔ-SẮC” (tức là “TỨ KHÔNG ĐỊNH”) nầy cũng vẫn được PHẬT xem là:

PHÀM-PHU ĐỊNH

Chớ:

CHƯA PHẢI (là Thánh Nhị-Thừa) GIẢI-THOÁT ĐỊNH 

(Phụ-chú:

Hồi PHẬT còn tại thế có một vị đạo-sĩ tu Tiên tên là UẤT-ĐẦU LAM-PHẤT (Udraka – Ramaputra) tu đắc được định PHI-TƯỞNG PHI-PHI TƯỞNG” nầy. ông liền nhập vào trong  ĐỊNH”, hiện phép thần-thông, bay đến đền Vua TẦN-BÀ SA-LA (Bimbasara) của nước MA-KIỆT-ĐÀ (Magadha).

Vua thấy được “Đại Tiên Ông” như vậy, nên rất vui-mừng, đem lòng kính-trọng, quỳ đảnh-lễ dưới chân tiên-nhơn và cúng-dường rất hậu.

Vua có dặn Phu-nhân – (Hoàng-hậu VI-ĐỀ-HY(4) (Vaidêhi) – rằng:

– “Nếu khi Ta bận việc nước đi vắng mà Đại Tiên-nhơn có đến thì Ái-khanh cũng nên lễ-kính Ngài và cúng-dường như Ta đã làm vậy”. Hoàng-hậu vâng mạng.

*

Lần khác…

Khi Tiên-nhơn lại đến nữa, cung-kính đem đầu mặt lễ-bái dưới chân và dâng cúng-dường lên trăm vị ngon-ngọt.

Tiên-nhơn trông thấy được dung-nhan thanh-kỳ, đoan-chánh và diễm-lệ của Hoàng-hậu, cầm lòng (phàm tục) không được (vì Tiên-nhơn nầy vẫn còn đang mang thân “Tứ-đại thô-phù” của phàm-phu nên), trong TÂM khởi-sanh ra tà-niệm – (tức là “cầm lòng không được” trước sắc đẹp của phụ-nữ, nên sanh ra ý-nghĩ vẫn-vơ và mơ-tưởng bậy-bạ) – vì thế cho nên ngay tại chỗ đứng liền bị mất hết các phép Thần-thông, phải (mượn xe ngựa của Vua mà) đi đường bộ trở về núi lại.!!

(Chớ không “đằng-vân” – (cởi trên mây mà bay đi) – được như hồi mới đến).

Sau đó ông tự hối, ăn-năn…và lập tâm Tịnh tu trở lại, nhưng  mà:

Lúc ngồi “Nhập-Định” trên non-núi thì ông nghe tiếng chim, thú… kêu la.

– Xuống gần bờ suối “Tọa-Thiền” thì bị cá, tôm nhảy lên mặt nước (và rớt xuống lại) phát ra tiếng động “lỏm-bỏm” làm cho  TÂM bị rối-loạn không vào “ĐỊNH” được.

– Ông bèn nổi giận, lỡ phát ra lời thệ sái-quấy rằng:

“Ta nguyện sau nầy, sẽ làm một con chồn bay (Phi-ly), hễ bay lên không thì giết chim thú, còn lặn xuống nước thì giết cá tôm”.

…Sau đó… Ông tu đắc lại được Định PHI-PHI TƯỞNG” và thác-sanh về cõi PHI-TƯỞNG PHI-PHI TƯỞNG” Thiên của trời VÔ-SẮC giới” – (trước khi Phật thành-đạo một ngày, vì thế mà PHẬT đến – (để thuyết-pháp) – cứu Ông không kịp) – Tuy vậy, nhưng bằng vào Phật-nhãn, Phật thấy phần số của ông trong thuở tương-lai rằng:

– Sau 84.000 đại kiếp hưởng-thọ phước Trời, lúc mà ĐỊNH “PHI-TƯỞNG PHI-PHI TƯỞNG” của Ông tan rồi, thì Ông sẽ bị đọa xuống dương-trần, thuận theo lời “Nguyện” đã “lỡ phát” ra trước kia mà:

Thành ra một loại “Phi-ly”

(Tức là loại Chồn mà hai chân trước của có một màng lưới bằng thịt liền-lạc nhau với thân mình tựa như hai cánh chim vậy, vì thế mà nó bay lên không như chim hoặc lặn xuống nước lội như cá cũng được).

Đây gọi là:

“THỀ THÌ MẮC, THẮT THÌ RỐI”.

*

Cho nên (trên) mới nói rằng:

– Dù cho đắc được ĐỊNH “PHI-PHI TƯỞNG” sanh về cõi Trời cao nhất của “Vô-sắc giới” Thiên, nhưng khi “sức định” mãn rồi cũng phải bị đọa xuống luân-hồi… là như vậy.

Lại nữa, sở-dĩ gọi Định “PHI-TƯỞNG PHI-PHI TƯỞNG” nầy là “Phàm-phu Định”, bởi vì:

a/- Về “quả chứng” thì không bằng được bậc Sơ-quả TU-ĐÀ-HOÀN của THÁNH Nhị-Thừa(vì chưa được vào dòng THÁNH, và chưa trừ được phần SẮC-TƯỚNG”, cho nên Tiên Ông Uất-Đầu Lam-Phất” vẫn còn bị SẮC” (đẹp) của Hoàng-Hậu VI-ĐỀ-HY làm hại)(huống chi là so với các Thánh-quả chứng-đắc khác cao hơn của đạo PHẬT như là TƯ-ĐÀ HÀM… BÍCH CHI PHẬT… ư ?).

(Ghi-chú :

(Bậc Tu-đà-hoàn thánh-giả – (vì đã “nhập” vào trong vòng THÁNH-SỐ – (Phá trừ được phần “SẮC Tướng”, chứng SẮC KHÔNG” và dứt được 88 phẩm kiến-hoặc) – rồi) – cho nên :

– Dù cho có còn bị 7 lần sanh lên cõi Trời, 7 lần đáo xuống chốn Nhơn-gian – (mới đắc được quả Vô-sanh A-la-hán) – nhưng Ngài vẫn tự-tại lên, xuống, tới, lui, chớ không còn bị bất cứ nghiệp-nhơn nào kéo lôi hay trói-buộc trong vấn-đề “Thọ sanh” vào nơi ba ác-đạo… nữa cả.

[Chẳng những thế mà:

– Sau 80.000 đại-kiếp, NGÀI sẽ được chứng thành PHẬT QUẢ].

Còn chư THIÊN” ở nơi ba cõi DỤC, SẮC, VÔ SẮC, hễ một khi Phước Trời” và sức “ĐỊNH” tan hết rồi, thì không được Tự-tại thọ sanh”, mà phải theo nghiệp “còn sót lại”, – (tức là “túc nghiệp tiền khiên” – (dẫn-dắt) mà lưu-chuyển vào trong vòng luân-hồi, sanh-tử).

b/- Về “LẬU” thì (chư Thiên nơi 2 cõi “SẮC”“VÔ-SẮC” cũng) vẫn còn có “hữu-lậu nghiệp”,ĐỊNH PHI-PHI TƯỞNG” nầy tuy là dứt được phần “THÔ-TƯỞNG” nhưng phần “TẾ-TƯỞNG” (“Tưởng” vi-tế) vẫn chưa trừ được.

Vì vậy mà không thể nào nhập vào dòng THÁNH”, hay là thành THÁNH (của Đạo Phật)  để giải-thoát ra ngoài vòng sanh-tử.

Xin được trích-dẫn một đoạn kinh để chứng-tín cho phần luận-giảng nầy, như sau :

………………………….

1/- TU-BẠT  ĐÀ-LA  (Subhadra) (5) thưa cùng với Phật rằng:

– Bạch đức thế-Tôn, tôi trước đã điều-phục được “Tâm” rồi.

2/- PHẬT hỏi:

– Nầy Thiện-nam tử,

Nay ÔNG làm thế nào mà (nói là) trước đó đã điều-phục được “Tâm”?

3/- TU-BẠT ĐÀ-LA thưa:

Bạch  Thế-Tôn, Tôi  trước suy-nghĩ rằng:

a/- “DỤC ÁI” (6) là vô-thường (không còn tồn-tại  hoài),  vô  lạc  (không  vui), vô tịnh (không sạch).

b/- Tôi quán “SẮC” là “THƯỜNG, LẠC, NGÃ, TỊNH”.

Suy-nghĩ  như  vậy rồi,  Tôi  vào  trong

“ĐỊNH”, dứt hết mọi kiết-sử (sự trói-buộc) của cõi DỤC, mà chứng được các “ĐỊNH” của cõi SẮC-GIỚI (tức là tu đắc được TỨ-THIỀN ĐỊNH” – (xem lại trước cho nhớ) của cõi SẮC).

4/- Kế đó, Tôi lại “Quán” (tiếp nữa) rằng:

“SẮC” CŨNG LÀ VÔ-THƯỜNG như mụt nhọt, mụt ghẻ, như thuốc độc, như mũi tên…

Mà thấy:

“VÔ-SẮC” LÀ THƯỜNG-TỊCH, TRONG SẠCH.

Quán thấy như vậy rồi, Tôi vào trong “ĐỊNH”, dứt hết mọi “kiết-sử” (tức là trừ được các sự trói buộc về Thân và Cảnh) của cõi “SẮC”, mà chứng được:

“VÔ SẮC XỨ ĐỊNH”

5/- Sau nữa, Tôi lại “Quán” (thêm) rằng :

– “TƯỞNG” CŨNG LÀ VÔ-THƯỜNG như mụt nhọt, mụt ghẻ, như thuốc độc, như mũi tên…

“Quán-sát” như vậy rồi, Tôi liền vào được ĐỊNH “PHI-TƯỞNG PHI-PHI TƯỞNG XỨ”.

“PHI-TƯỞNG PHI-PHI TƯỞNG XỨ ĐỊNH” nầy là:

– Nhứt thiết trí, vắng-lặng, thanh-tịnh.

– Thường hằng, bất biến, không còn bị sa-đọa nữa.

Do đây cho nên Tôi có thể điều-phục được lấy “TÂM” của mình.

(Tức ý nói là: – Đắc được ĐỊNH “PHI-PHI TƯỞNG” nầy thì đã chứng Niết-bàn rồi).    

6/- PHẬT phán:

– Nầy Thiện-nam tử,

Như thế thời ÔNG đâu có điều-phục được “TÂM”.

Bởi vì:

– “PHI-TƯỞNG PHI-PHI TƯỞNG XỨ ĐỊNH” của ÔNG chứng được vẫn:

CÒN GỌI LÀ “TƯỞNG” (vi-tế Tưởng)

– “Niết-Bàn” là “vô-tưởng”, sao Ông nói rằng Ông chứng được Niết-Bàn?

7/- Nầy Thiện-nam Tử,

Trước (đó) Ông đã có thể nhàm-chán, trách-cứ “THÔ TƯỞNG” – (của 4 thứ Định VÔ-SẮC) , nay sao Ông lại:

  – Tham trước nơi (vi) tế-tưởng”

 Mà:

– Chẳng biết nhàm-chán, trách cứ “PHI-PHI TƯỞNG XỨ ĐỊNH”.

Bởi vì:

– “ĐỊNH” nầy cũng vẫn còn gọi là (Vi-Tế)

“TƯỞNG”, Nó vô-thường như mụt ghẻ, mụt nhọt, như thuốc độc, như mũi tên…

8/- Nầy Thiện nam tử,

Thầy của ÔNG là UẤT-ĐẦU LAM-PHẤT thông-minh, lanh-lợi – (xem lại ở trước) – còn không thể nào dứt được “ĐỊNH PHI-TƯỞNG PHI-PHI TƯỞNG XỨ” nầy, mà phải thọ lấy thân ác-đạo về sau (làm loài Phi-ly), hà-huống chi là những kẻ khác ư?

(Ghi-chú:

Vì thế cho nên (trên) mới nói rằng:

“TỨ KHÔNG ĐỊNH” của cõi VÔ-SẮC cũng vẫn còn PHÀM-PHU ĐỊNH – (là như vậy).    

*

Tóm lại,

Trong giai-đoạn THIỀN-ĐỊNH KIÊN-CỐ” nầy, vì (đa phần) người tu-hành chỉ:

– Chú-trọng về phương-diện tu “THIỀN ĐỊNH”.

(4 Thiền, 4 Định của cõi Sắc-giớiVô-sắc giới vừa nói ở trên).

Chớ không mấy gì đặt nặng vấn-đề đến hai phần : – “GIỚI-LUẬT” cùng “TRÍ-HUỆ”, cả .

Vì thế mà việc :

a/- Đắc quả giải-thoát (thì) gần như không có (hoặc có nhưng rất ít – (khoảng 5 hoặc 7 phần trăm là cùng).

Mà:

b/- Đa-số đều chỉ chứng được các thứ, loại PHÀM-PHU THIỀN-ĐỊNH” (đã nói trên) mà thôi.

*

3/- ĐA VĂN KIÊN-CỐ:

Thời-kỳ nầy là vào 500 năm thứ ba (tức là 1500 năm) sau khi PHẬT nhập Niết-Bàn (thuộc về giai-đoạn đầu tiên của THỜI MẠT-PHÁP).

Bấy giờ thì:

– “Căn-cơ”của chúng-sanh kém-cỏi. (hơn hai thời-kỳ “GIẢI-THOÁT”“THIỀN-ĐỊNH” khi xưa).

– “Phật-Pháp”cùng “Giới-luật” không còn được giới xuất-gia (lẫn tại-gia) tuân-hành đúng theo như hai thời-kỳ kiên-cố trước.

Cho nên:

Số người “giải-thoát” cùng “đắc thiền-định” chẳng còn được như xưa.

Đa số người tu-tập chỉ thích học rộng, nghe nhiều… để – được tiếng Ta đây là người đa-văn, quảng-bác, (hầu cao-đàm, huyền-luận về Phật-pháp trên đầu môi, chót lưỡi… cầu lấy chút hư-danh” thôi).

Mà:

– Quên mất đi mục-đích giải-thoát cao-cả của việc tu-hành.

– Trong ức-ức (100.000 x 100.000) người tu, chỉ có được chừng vài ba  người  chứng- đắc !

HỎI:

Việc ấy NHƯ THẾ NÀO?

ĐÁP:

Trong giai-đoạn “ĐA-VĂN KIÊN-CỐ” nầy thì:

– Đa phần các hàng xuất-gia (lẫn tại-gia) đều (không nhiều thì ít) huỷ-phá “GIỚI-LUẬT” của PHẬT chế.

Còn như ở:

Trong việc tu-hành thì HỌ chỉ chuyên lo về phần “ĐA-VĂN” (tức là “học nhiều hiểu rộng” để luận-biện trên đầu môi, chót lưỡi) hầu để tìm cầu được chút “hư-danh hào nháng” bên ngoài mà thôi.

Chớ:

Chẳng biết và chẳng lo nghĩ gì đến việc cầu giải-thoát hết cả.

Xin được trích vài đoạn trong Kinh “MA-HA MA-GIA” để làm “tín-chứng” dưới đây:

“Từ đó (tức là cuối thời-kỳ “THIỀN-ĐỊNH KIÊN-CỐ” và bắt đầu bước qua thời-kỳ ĐA-VĂN trở riết về sau) thì:

1/- “Lần-lần hàng xuất-gia hủy phá giới-luật, hoặc uống rượu, hoặc sát-sanh, hoặc đem bán đồ-vật của ngôi Tam-bảo, hoặc làm hạnh bất-tịnh.

2/- Nếu họ có con trai thì cho làm Tăng, con gái thì cho làm Ni – (Để ăn cắp cùng xài-phí của Tam-Bảo hay phá hủy “LUẬT-NGHI” của PHẬT chế, chẳng còn tuân hành đúng theo những lời dạy của các bậc TỔ-SƯ nữa !

Mà hầu hết chỉ đều là :

– Dối mượn danh-nghĩa của Tam-bảoPHẬT-PHÁP để:

CẦU DANH, THỦ LỢI cho “Cá-nhân” thôi).

3/- Chỉ còn có một số ít người biết giữ giới-hạnh, gắng lo duy-trì và hoằng-dương chánh-giáo.   

4/- Khi áo cà-sa của chư Tăng, Ni biến ra thành màu trắng – (hiện nay từ màu nâu đang đổi dần ra màu lam trắng) – Đó là triệu-chứng (báo trước):

PHẬT PHÁP SẮP DIỆT.

*

Lại nữa, trong kinh “PHÁP DIỆT TẬN”, Phật cũng có huyền-ký rằng:

1/“Về sau, khi pháp của ta sắp diệt, nơi cõi “ngũ trược” nầy, tà-đạo nổi lên rất thạnh.

2/- Lúc ấy có những “quyến-thuộc của ma” trá-hình vào làm “sa-môn” (người xuất-gia) để phá rối đạo pháp của ta. Họ mặc y-phục như thế-gian, ưa-thích áo “Cà-sa ngũ-sắc” (năm màu), ăn thịt, uống rượu, sát-sanh, tham trước mùi-vị, không có từ-tâm tương-trợ, lại còn ganh-ghét lẫn nhau.

3/- Bấy giờ có các vị Bồ-Tát, Bích-Chi, La-Hán vì bản-nguyện hộ-trì Phật-pháp nên mới hiện thân ra làm sa-môn, tu-hành tinh-tấn, đạo-hạnh trang-nghiêm, được mọi người kính-trọng.

4/- Các bậc ấy có đức thuần-hậu, từ ái, nhẫn-nhục, ôn-hòa, giúp-đở kẻ già-yếu, cô cùng, hằng đem kinh-tượng khuyên người thọ-trì, đọc tụng, giáo-hóa chúng-sanh một cách bình-đẳng, tu nhiều công-đức, không nệ chi đến việc “tổn mình, lợi người”.

5/- Khi có những vị sa-môn đạo-đức như thế, thì các “Tỳ-kheo ma” kia ganh-ghét, phỉ-báng, vu khống cho các điều xấu ác, dùng đủ cách lấn áp, xua đuổi, hạ-nhục… khiến cho các Tỳ-kheo chân tu đó không được ở yên.

6/- Từ đó các “Ác Tỳ-kheo” kia càng ngày càng thêm lộng hành, không tu đạo-hạnh, bỏ chùa-chiền điêu-tàn, hư-phế. Họ chỉ lo tích-tụ tài-sản, làm các nghề không hợp-pháp để sanh sống, đốt phá rừng núi, làm tổn-hại chúng-sanh không có chút từ-tâm.”

*

(Phụ-chú:

Vì thế cho nên đa phần các người tu-hành – (tại-gia lẫn xuất-gia) – trong thời buổi nầy thì:

Chẳng thể nào đắc được thánh-quả. (tức là đắc-đạo)

– Chẳng thể nào có ĐƯỢC XÁ-LỢI (để mà lưu lại được hết).

(Phụ-chú:

Trong Kinh Đại-Bổn A-DI-ĐÀ (VÔ-LƯỢNG THỌ KINH), PHẬT có nói rằng:

Những người thế-gian thì:

– Phần nhiều phước mỏng.

Lại còn thêm:

– Tranh-giành lẫn nhau ở những sự việc không cần-kíp. Nơi chỗ kịch-ác, tột khổ – (tức là ở cõi đời nầy) – mà nhọc-nhằn, Kinh-doanh chật-vật để tự cung-cấp cho đời sống.

HỌ không luận đến việc:

a/- Tôn-ti, người nghèo, kẻ giàu….

Hoặc:

Trẻ, già, nam,nữ….mà HỌ thảy đều:

b/- Lo nghĩ về vấn-đề tiền của.

c/- Sầu-khổ, tìm-cầu, lo-lắng và suy-nghĩ mãi về tiền-tài, vật-chất…. không lúc nào được yên-tâm.

HỌ:

– Có ruộng lo ruộng,

– Có nhà lo nhà,

– Có trâu-ngựa, lục-súc, nô-tỳ, tiền-của, y-thực vv….

– Trăm ngàn thứ có thì lại trăm ngàn thứ lo.

Toan-tính cầu lợi, lo nghĩ, buồn sợ của-cải bỗng chốc bị trộm-cướp, nước cuốn trôi, lửa cháy, sung-công, tài-sản tiêu-tan, thân mang tai-họa, bệnh-hoạn vv….

Rồi:

– HỌ lại sầu-khổ, phẩn-uất.

Giả-sử như:

– Nếu Tài-sản không bị tiêu-tan, thân không tai-ương, họa-hoạn….đi nữa.

Nhưng rồi:

– Cuối cùng vô-thường bỗng đến,

– Thân chết, mạng-chung.

Tay không mà đi theo nghiệp, chẳng mang theo được món gì !!!

Khi ấy Đức NHƯ-LAI bảo cùng với Ngài DI-LẶC Đại Bồ-tát, và chư Thiên, Nhơn đại-chúng rằng:

– Nay ta nói với các Người :

“THẾ-NHƠN CHÚNG-SANH DO NƠI NHỮNG SỰ VIỆC ẤY, NÊN CHẲNG THỂ NÀO TU-HÀNH CHO ĐẮC-ĐẠO ĐƯỢC”.

Ấy thế mà ngày nay ta thấy – (qua quyển sách “NIỆM-PHẬT LƯU XÁ-LỢI” nầy:

– Nhiều người rõ-ràng là bị nằm vào trong “LỜI HUYỀN-KÝ” trên hết cả, ấy thế mà :

Các hàng môn-đồ, pháp-quyến, bè-bạn thân-nhân….(của những nhân-vật có phương-danh ghi trong quyển-sách ấy) đều toàn là các bậc (!) :

– Tu chứng-đạo.

– Có XÁ-LỢI (!!!)

hết cả!

VẬY LÀ SAO?

(Đương-nhiên là phải trừ ra ba Vị “THƯỢNG-NHƠN” là:

– HƯ-VÂN Hòa-Thượng,

– THÍCH TUYÊN-HÓA Hòa-thượng,

– THÍCH THIỀN-TÂM Hòa-Thượng).

Y theo lời PHẬT, ý TỔ đã dạy trong Kinh-sách (dẫn-chứng) thì Ta có thể nói rằng :

– Những kẻ “Tu chứng-đạo, lưu lại XÁ-LỢI....có ghi danh trong quyển sách kia (xuyên qua “Công-hạnh tu-hành” và các việc “Phước-thiện”HO đã thực-hành trong cuộc sống) quyết-nhiên là:

– Việc Tu chứng-đạo và lưu lại XÁ-LỢI của “HỌ”:

Ắt chỉ là có ở:

– TRÊN ĐẦU MÔI CHÓT LƯỠI.

– Và trong quyển ấy mà thôi.

Chớ “HỌ”:

NÀO PHẢI LÀ CÁC BẬC:

CÓ THỰC TU, THỰC HẠNH, THỰC ĐỨC, THỰC TÀI…. CHÚT NÀO ĐÂU.

(Nhiều lắm là “HỌ” chỉ được :

– Tái sanh lại về cõi Người.

Hoặc là được:

– Sanh lên cõi Trời (là quá lắm rồi).

*

4/- THÁP-TỰ KIÊN-CỐ:

Thời-kỳ nầy thuộc về 500 năm thứ tư (tức là 2000 năm) kế-tiếp sau khi PHẬT nhập Niết-Bàn, – (từ thế-kỹ thứ 15 đến thế-kỷ 20 vừa qua).

Giai-đoạn nầy thì:

Căn-tánh của người Tu (nói riêng) và chúng-sanh (nói chung) ngày càng thêm lụn-bại, tựa như nước sông mỗi ngày dần bị cạn thấp thế nào, thì căn-tánh của người Tu” trong thời-kỳ nầy cũng lại giống y như vậy.

Người xuất-gia (trong thời-buổi nầy) chỉ còn lo nghĩ và ham-thích các việc:

– Tích-trữ, cất chứa tiền của cho nhiều, (để lén hưởng thọ 5 dục, 6 trần).

– Lo cất chùa to, miễu rộng,  (để  lôi-cuốn (sự háo-kỳ) của các hàng Thiện-Tín nào có TÂM ưa-thích chùa, miễu đẹp).

– Chạy theo hình-tướng bên ngoài (như là ham-ưa  kết  thân  với  hàng  các  Quan-quyền, Trưởng-giả.

Tổ-chức Hội nầy, Họp kia).

Hoặc là HỌ:

– Nay thì tổ-chức Hội đoàn nầy,….

– Mai mốt lại (tổ-chức):

– Đi tham-quan, hành-hương….chỗ nọ).

– Bố-thí, tụng-kinh, để cầu được Phước-báo… (cho kiếp hiện-tại và vị-lai) mà thôi.

………………………….

Chớ chẳng còn:

– Lo nghĩ và cần biết chi đến việc “giải-thoát”… nữa cả!

Vì thế cho nên (y theo lời PHẬT đã huyền-ký) thì trong thời buổi MẠT-PHÁP / ĐẤU-TRANH KIÊN-CỐ hiện nay thì:

“Trong ức-ức người tu, họa-hoằn lắm là chỉ được một hoặc hai người chứng-đắc”.

*

HỎI:

VIỆC ĐÓ NHƯ THẾ NÀO?

ĐÁP:

Trong giai-đoạn “THÁP-TỰ Kiên-cố” nầy thì (như trước đã nói) trong đường ĐẠO có rất ít (hoặc chẳng còn có) “bậc CHƠN-TU” nữa, mà gần như chỉ có toàn là các hạng loại tà-quấy, giả tu, “mượn đạo tạo đời” không thôi.

Xin được trích-dẫn ra một đoạn Kinh để làm chứng-tín, như sau:

1/“Lúc ấy, (tức là ở trong thời-kỳ “THÁP-TỰ KIÊN-CỐ” nầy) có nhiều kẻ nô-tỳ hạ-tiện xuất-gia làm Tăng, Ni, họ thiếu đạo-đức, dâm-dật, tham-nhiễm, nam-nữ sống chung lẫn-lộn.

Phật-pháp suy-vi chính là do bọn nầy!

 2/- Lại có những kẻ trốn phép Vua, Quan, lẫn vào trong cửa đạo, rồi sanh tâm biếng-nhác, không học, không tu.

3/- Đến kỳ “bố-tác” (tức là tụng giới trong mỗi nửa tháng) họ chỉ lơ-là, gắng-gượng, không chịu chuyên-chú lắng nghe. Nếu có giảng-thuyết giới-luật, họ lược trước, bỏ sau, không chịu nói ra cho hết !

4/- Nếu có đọc tụng kinh-văn, họ không rành câu chữ, không chịu tìm hỏi nơi bậc cao-minh, tự-mãn cầu-danh, cho mình là phải.

5/- Tuy thế, bề ngoài họ cũng làm ra vẻ đạo-đức, thường hay nói phô, để hy-vọng được mọi người cúng-dường.

6/- Các “Tỳ-kheo ma” nầy, sau khi chết sẽ bị đọa vào trong địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh trải qua nhiều kiếp. Khi đền tội xong, họ sẽ thác-sanh lại làm người (sinh sống) ở vùng đất biên-địa, chỗ không có ngôi Tam-Bảo…”

(Phụ-chú:

Vì thế cho nên đương-nhiên là phần lớn các “người tu-hành” (xuất-gia lẫn tại-gia) trong thời buổi nầy (vì có “TÂM-HẠNH” giả-dối như thế) cho nên :

Chẳng thể nào thành tựu 3 phần “GIỚI, ĐỊNH, HUỆ” để chứng-đắc thánh-quả và giải-thoát được.

Do đó mà:

Cũng không thể nào có “XÁ-LỢI” để lưu lại (như một số nhân-vật mà tác-giả quyển sách “NPLXL” kia đã ghi nhận ra đâu).

*

5/- ĐẤU-TRANH KIÊN-CỐ:

Giai-đoạn nầy thuộc về 500 năm thứ 5 (tức là 2500 năm) kế tiếp sau khi PHẬT nhập Niết-Bàn (và trở riết về sau)… (tức là bắt đầu vào thế-kỷ thứ 21 hiện nay).

HỎI:

Do nơi “triệu-chứng” nào mà biết rằng đã đến thời-kỳ MẠT-PHÁP?

ĐÁP:

Trong nhiều Bo Kinh, PHẬT đã có “huyền-ký” về thời “MẠT-PHÁP” (xem lại các Kinh vừa được dẫn-chiếu ở trước).

Nay xin được trích-dẫn ra một đoạn “KINH” khác nữa để làm tín-chứng như sau:

1/- “Ngài A-NAN bạch cùng Đức PHẬT rằng:

Bạch Đức THẾ-TÔN,

Do nơi “triệu-chứng” gì (báo-trước) mà biết là đã đến thời-kỳ “Mạt-pháp”?

2/- PHẬT đáp:

Nầy A-NAN, khi nào thấy có các “điềm bất tường (không tốt) sau đây xảy ra, như là:

– Các nước thiếu bậc vua hiền (tức là chẳng có bậc Hiền-vương).

– Đất đai, thời tiết…. có nhiều thiên-tai, biến-động.

(Như Bảo, lụt, động-đất, cuồng-phong, lửa Trời đốt cháy (lửa rừng tự-nhiên phát cháy bùng)….

– Con người tham sống, sợ chết, tranh-đoạt, cướp giết lẫn nhau.

– Chà-đạp, Tàn hại nhau mà sống, bất kể đạo-đức, nhân-NGHĨA (tức là sanh sống và đối-xử nhau trái ngược lại với đạo-lý luân-thường).

– Chỉ thuần lo ham-mê, hưởng-thọ vật chất.

– “Nữ-nhân” chưa tới tuổi trưởng-thành đã nghĩ đến việc “ham thích ái-dục”.

– “Nam nhân” thích làm “Nữ nhân”.

– “Nữ nhân” thích làm “Nam-nhân”.

– Nam, nữ sống chung, lẫn-lộn, hổn-tạp không phân-biệt.

– Nam-nữ “đồng-tình luyến-ái” với nhau (homo-sexual)

(Trên đây là nói về người “ngoài thế tục”).

*

Còn như ở trong “đường đạo” thì:

1. Chư TĂNG (hoặc NI) ham thích xa-hoa, ngũ-dục (như người tại-gia không khác).

2. Thích “tích-trữ tiền của” riêng (cất chứa  trong nhà bank,  nhiều người có  đến  bạc  “TRIỆU”).

3. Thích ăn-mặc màu-mè loè-loẹt. (Áo cà-sa “GẤM” có nhiều màu).

4. Sửa sang  hình-tướng  bên  ngoài  (như ham-ưa ăn-mặc đồ gấm, nhiễu, sang trọng…)

5. Xây cất chùa to đẹp, thành lập nơi ăn, chốn  ở –  (của riêng mình) –  như  cung-điện của Vua, Quan thế-gian.

6. Thích phẩm-trật cao (như  ham  ưa  làm chức Thượng-Tọa, Hoà-Thượng) – (dù là chưa hội đủ tài, đức) – ưa danh-vị to-lớn, thế-lực đông mạnh (tức là kết-lập ra bè-phái, phe-đảng của riêng mình).

7. Lợi dụng hàng Thiện-tín kém trí-huệ (và ít hiểu biết về Phật-pháp) để làm người cung-phụng, hầu-hạ, vâng lời mình sai-khiến.

8. Thích ăn món ngon, vật lạ. (Như phải đi ăn ở nhà hàng (Restaurant).

9. Tìm đủ mọi cách (để) hưởng-thụ (cho vinh thân, phì da).

10. Xây-cất chỗ ăn ngủ sang-trọng (giường cao rộng, nệm dầy ấm), lên xe (luxury) xuống ngựa…

11. (Hạng loại Tăng (hoặc Ni) nầy tự cho HỌ là):

12. Đức cao, vọng trọng.

13. Tự-ý thay đổi Kinh, Luật của Phật chế.

(Chẳng hạn như HO nói là:

–  Giới nầy, giới nọ lỗi thời, cần phải sửa đổi cho “thích-hợp lại với thời-đại bây giờ” hơn…

– Đả kích “BÁT KỈNH PHÁP”.

(Như là HỌ nói  PHẬT  “không  bình-đẳng”  (trọng Nam, khinh Nữ qua việc chế “BÁT KỈNH PHÁP” cho chư “NI” và đề-nghị thay-đổi lại “KỈNH PHÁP” nầy).

14. Buôn thần bán thánh,  không  từ  một thủ-đoạn nào để gây-tạo được lợi-lộc cho bổn-thân.

15. Các hành-động hoặc những ngôn-từ (về Thân, Khẩu, Ý) của HỌ giống y như ngôn-từ của các thứ “lục-sư ngoại- đạo”, “tà-giáo”… không khác.

Còn bên “NI chúng” thì:

– Thích to son, trét phấn, sửa sang sắc- vóc (như là sửa mắt, môi, ngực v.v…).

– Mong cầu dục-lạc.

– Thích lên pháp-toà  giảng  Kinh  (tầm- ruồng, tầm-rắn sai trật điển, chương…).

– Chê-trách và đả-kích chư Tăng.
(Trái bỏ với Giới-luật
“BÁT KỈNH PHÁP” PHẬT đã chế ra).

*

Còn hàng “cư-sĩ tại-gia” thì:

– Buông-lung phàm-tình, chẳng giữ-gìn tánh-hạnh.

– Chẳng tuân theo lời minh-sư chỉ-giáo.

– Bất tùng “sư-pháp” (tức là chẳng tuân theo PHÁP-TẮC của THẦY dạy, hoặc là theo học nơi thầy vì sẵn có “âm-mưu bất-chánh”).

Cho nên hầu-hết đều:

– Trong (thì lợi dụng) “thầy”, ngoài (thì lợi dụng) “chúng”, lập phe kết đảng.

– Bỏ phế công-phu tu-niệm, chỉ ham-ưa pháp dễ, nhỏ (Tiểu-thừa), chẳng chịu thích (hoặc tu theo) PHÁP lớn (Đại-thừa).

– Thích đọc Kinh Đại-Thừa (chỉ thuần vì để “luận huyền, nói diệu”, mục-đích chỉ thuần muốn “cầu danh”, “hưởng lợi” mà thôi, chớ không cần thông hiểu nghĩa-lý thâm-sâu chi hết).

Còn:

– “Nữ cư-sĩ” thì thích muốn đăng-đàn làm chủ lễ, chẳng cần tuân theo luật nghi trong đạo…

Dầu vậy, nhưng mà:

– Trong thời “mạt-pháp” thì hầu hết hàng NAM, NỮ cư-sĩ “tại-gia được sanh Thiên, Giải-thoát,… nhiều hơn hàng “xuất-gia”.

– Các hàng “cư-sĩ tại-gia” nầy, phần lớn thảy đều là những bậc “Thiện tri-thức” của “đại chúng” qua các việc “hoằng-truyền chánh-pháp” của NHƯ-LAI…cả.

(Chẳng hạn như PHẬT-TỬ cư-sĩ :

– Ưu-Bà-Di Bồ-Tát Giới BẢO-ĐĂNG, Trưởng-ban HOẰNG-PHÁP của bổn-tự PHÁP-HOA nầy, thì :

– Cũng có thể (tạm) gọi là MỘT vậy).

(Phụ-chú:

(Cũng có đôi ba Cư-sĩ PHẬT-TỬ từ vài nơi khác ghé ngang qua Bổn-Tự để thăm Tôi, trong khi “MẠN-ĐÀM” về PHẬT-PHÁP, thì HỌ có nói rằng:

……………..

– Con cũng có thưa hỏi lên vài vị Đại-Đức, Thượng-Tọa, Hòa-Thượng…..tương-đối cũng có DANH-VỌNGChùa TỰ lớn, rằng:

– “Bạch Thầy, Thầy “DANH-TIẾNG” lẫy-lừng như vậy ắt-nhiên là phải “THÂM-NHẬP KINH-TẠNG” và có “TRÍ-HUỆ NHƯ HẢI”, vậy sao THẦY không biên-soạn ra vài ba quyển-sách hoặc viết lên vài bộ “PHÁP-LUẬN” nào, để lại cho giới PHẬT-TỬ hiện-tại cũng như về sau như chúng con đây biết rõ đường-lối Tu-tập được đúng theo CHÁNH-PHÁP” ?

Thì Vị Thượng-Tọa ấy nói rằng:

Thôi thì việc “VIẾT SÁCH LUẬN”….ấy nên để lại cho hàng PHẬT-TỬ TẠI-GIA như quý-vị làm, chớ còn như Chúng-tôi đây thì mắc bận lo việc “HÀNH-PHÁP” tối ngày. Đâu có được thời giờ rỗi-rảnh để mà biên-khảo Sách, Luận về PHẬT-PHÁP !!!”

Phật-tử ấy mới hỏi:

– Bạch THẦY, thế nào là việc “HÀNH-PHÁP”Thầy vừa dạy cho con nghe đó?

Vị Thượng-Tọa ấy đáp:

– Như Tụng-kinh, Niệm-Phật nè!

– Cúng-kiến, ma chay nè!

– Cầu-an, Cầu-siêu nè !

– Bận-rộn sửa Chùa nè, và Thầy cũng đang bận lo việc Tổ-chức đi hành-hương ở Ấn-Độ (và vài nơi khác) nữa !!.

Chỉ từng ấy thôi mà cũng còn không đủ thời giờ, thì có rảnh-rỗi đâu mà lo việc biên SÁCH, viết LUẬN !!!

Tôi hỏi:

– Vậy thì đạo-hữu nghĩ sao về phần trả lời đó?

Đáp:

– Dạ, Con chỉ làm thinh. Bởi vì con nghĩ:

– Thôi thì quý Thầy “HÀNH-PHÁP”, còn Phật-tử tại-gia  như  mình  thì  “HOẰNG-PHÁP” cũng được !

(PHẬT-TỬ nầy đã từng có biên-khảo được vài ba quyển sách giảng nói về PHẬT-PHÁP, đã được xuất-bản và phổ-biến khắp nơi).

Tôi nói:

– Việc “HÀNH-PHÁP” đúng theo nghĩa thì không phải như Vị Thượng-Tọa đó nói đâu!

Mà:

“HÀNH-PHÁP” đây có nghĩa là:

– Dành hết thời giờ “TU-HÀNH PHẦN-SỰ” – (tức là Hành-TrìTu-tập mỗi ngày).

– Viết, dịch, sách, Kinh.

– Hoằng-dương Phật-Pháp.

Như vậy thì mới đúng với “NGHĨA” của hai chữ “HÀNH-PHÁP” vậy.

Chớ chẳng phải là chỉ có các việc cầu-an, cầu-siêu, làm ma-chay, cúng-đám, hoặc (khuyến-khích Phật-tử) đi hành-hương nơi nầy, nơi nọ.. vv…. không thôi đâu)….                 

*

Nói tóm lại:

Trong thời-kỳ “MẠT-PHÁP/ĐẤU-TRANH KIÊN -CỐ” nầy thì:

– Chúng-sanh có căn-lành (gần như) chẳng còn được mấy người !

Song:

– Kẻ ác-tâm (nhơn) thì nhiều như cát bụi!

Trong giai-đoạn nầy, chẳng những:

– Ngoài đời xảy ra lắm cảnh tranh-dành, giết hại, lẫn nhau.

Mà trong “đường đạo”, cũng có:

– Lắm kẻ ganh-đua trên con đường SẮC, TÀI, DANH, LỢI cùng phóng-TÂM nhiễm-say trong sa-đọa của các cảnh “Ngũ-dục”, “Lục-trần”.

Mà:

– Quên hẳn đi mục-đích tu-hành và sự giải-thoát cao-cả (mà chính “HỌ” đã “lập nguyện” ra trước tôn-tượng của đức Bổn-sư THÍCH-CA MÂU-NI THẾ-TÔN lúc mới khởi đầu tu-tập (tức là sự lập tâm ban đầu”)trong đường tu-niệm.

Rốt lại thì:

– Khi còn sống đều bị lọt hết vào trong lưới-rọ của Ma.

– Trong ức-ức người tu-hành không có được nhất đến một người nào chứng-đắc, (như) trong kinh Phật đã có lời “huyền-ký” rằng:

– “Mạt-pháp ức-ức nhơn tu-hành hãn nhứt đắc-đạo”…

(Thời mạt-pháp ức-ức người tu-hành, song không có được nhứt một ai đắc-đạo) !!! chính là như vậy.

– Và như thế rồi khi chết đi, thảy đều bị:

Đọa hết vào trong tam-đồ, ác-đạo.

HỎI:

Việc ấy NHƯ THẾ NÀO?

ĐÁP:

Trong giai-đoạn nầy thì “ức-ức” người tu-hành  (xuất-gia lẫn tại-gia) tuy:

CŨNG Vẫn có và (rất là) đông nhiều

Song hầu hết HỌ đều là những kẻ:

Dối mang hình-tướng “sa-môn” (tức là loại : – hình đồng sa-môn) cho có chừng (qua ngày đoạn tháng) vậy thôi (chỉ để cầu được tài lợi, cơm áo), chớ:

KHÔNG CÒN CÓ ĐƯỢC NHỨT MỘT KẺ NÀO CHỨNG QUẢ, GIẢI-THOÁT CẢ.

Xin được trích-dẫn ra một đoạn Kinh” để làm chứng-tín, dưới đây:

Trong Kinh ĐẠI-BI, Phật đã có lời “huyền-ký” rằng:

1/- “Nầy A-NAN,

Khi TA nhập Niết-Bàn rồi, trong thời gian 500 rốt sau (tức là hiện nay) nhóm người giữ-giới, y theo chánh-pháp, lần-lần tiêu-giảm.

2/- Các bè-đảng phá giới, làm điều phi-pháp, ngày càng tăng thêm nhiều…. Bấy giờ có nhiều Tỳ-kheo đắm-mê danh-lợi, không chịu tu thân, tâm, trí-huệ, họ tham trước những y, bát, thức-ăn, sàng-tòa, phòng-xá, thuốc- men, rồi ganh-ghét, tranh-dành, phỉ-báng lẫn nhau.

Thậm-chí,

3/- Đưa nhau (ra kiện thưa) trước Quan-ty, lời nói bén như đao, như kiếm ! ?…

(Phụ-chú:

Bởi vì “TU” chỉ để cầu danh tiếng”lợi dưỡng” như vậy, cho nên HỌ” chẳng bao giờ biết đến GIỚI-LUẬT” là gì cả !.

Thì:

Còn nói chi đến các việc cao-xa khác, như là việc “ĐẮC THIỀN”, ĐẮC ĐỊNH”, ĐẮC HUỆ” ư?

Đa phần các người tu đời MẠT-PHÁPĐẤU-TRANH KIÊN-CỐ hiện nay (tại gia lẫn xuất-gia) “HỌ” chỉ biết làm y theo những “sự chỉ-dẫn” (sai lầm) của các Thầy “lớn hạ, trên trước”, dạy bảo lại mà thôi.

Nghĩa là:

– Ham thích ngũ-dục, lo cầu danh-lợi…

– Tu-hành tạp-nhạp, giả-dối.

– Tụng-Kinh, Niệm-Phật (duy chỉ để) cầu phước-lộc qua ngày.

– Lợi dụng oai-đức của Tam-bảo để được “vinh thân” phì-da mà thôi.

Xin được trích ra dưới đây một vài đoạn Kinh để làm tín-chứng cho phần (vừa mới được luận nầy):

1/- PHẬT bảo cùng với NGÀI “PHÚ-LÂU NA DI ĐA-LA NI TƯ” rằng:

Nầy PHÚ-LÂU NA,

Quá-khứ lâu xa, vô-lượng vô-biên kiếp về trước, có đức PHẬT DI-LÂU KIỆN-ĐÀ Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh biến-tri, Minh-hạnh túc, Thiện-Thệ, Thế-gian giải, Vô Thượng-sĩ,  Điều-ngự trượng phu,  Thiên nhơn-sư, PHẬT, THẾ-TÔN.

Phật thọ 6.000 tuổi.

Một hội thuyết-pháp của NGÀI có đến 80 ức Tỳ-kheo đắc quả A-La-Hán.

2/- Sau khi PHẬT nhập diệt, PHÁP trụ đời được 500 năm.

PHẬT DI-LÂU KIỆN-ĐÀ nhập Niết-Bàn rồi, trong 7 ngày sau, các Đại Đệ-tử cũng đều nhập Niết-Bàn theo Phật hết cả.

3/- Nầy PHÚ-LÂU NA,

Lúc Đức PHẬT DI-LÂU KIỆN ĐÀ xuất hiện thì cõi thế-gian lúc đó cũng đầy-đủ “ngũ trược”  như  cõi  Ta-Bà  của  TA  ngày nay không khác.

4/- Sau khi chư Đại Đệ-tử A-LA-HÁN của PHẬT diệt độ rồi, bấy giờ có nhiều người đức bạc, phước mỏng,… nghĩ rằng:

– Sống trong pháp sa-môn (tức là làm thầy tu) có nhiều an-ổn, khoái-lạc, vậy tại-sao Ta chẳng chịu xuất-gia (còn đợi chừng nào ?)

(Phụ-chú:

“HỌ” muốn “xuất-gia” đây là chỉ chuyên vì muốn:

– Cầu cho an-ổn (để khỏi phải chịu nằm trong luật pháp quốc-gia).

– Cầu cho được có nhiều danh-lợi, tiền của.

– Hưởng-thụ sự khoái-lạc như những người xuất-gia đời nay không khác).

5/- Họ nghĩ (sái quấy) như vậy rồi, đoạn:

– Cạo bỏ râu tóc, mặc đồ pháp-phục (áo nhà tu), (giả làm) người xuất-gia (tức là giả làm người Sa-môn Phật-giáo).

6/- Sau khi xuất-gia xong, HO chỉ thuần làm có 3 việc, đó là :

a/- Thường qua lại, giao-thiệp với các giới cư-sĩ, trưởng-giả (để cầu được danh-tiếng,  lợi-dưỡng…)!

b/- Chỉ tham cầu lợi-dưỡng, tích-tụ tài-sản để sinh-sống.

c/- Chỉ chuyên lo ăn, ngủ cho mập béo chớ chẳng chịu chăm tu “phước-huệ”.

HỌ chỉ làm 3 việc đó mà thôi.

Ngoài ra không chịu tu thêm “HẠNH” nào khác nữa.

7/- Sau đó 100 năm…

Các Đại Đệ-Tử còn sót lại của PHẬT DI-LÂU KIỆN-ĐÀ đều lần-lượt nhập-diệt hết cả.

8/- Bấy giờ,

Phần đông các (giả) Tỳ-kheo ấy cùng hoà-hiệp với hàng cư-sĩ tại-gia (tức là sống lẫn-lộn với đời, y như người thế-tục), đa số “HO” đều phế bỏ hết các Kinh “Đại-Thừa thâm-diệu”, bỏ hạnh “trì-giới Đầu-Đà” cao-thượng, không trì các “giới-LUẬT”, chẳng có được chút tế-hạnh nào cả !!

HỌ lại chẳng còn đọc tụng Kinh-điển nữa.

Mà chỉ thích thọ-hưởng ngũ-dục, tham-ưa ăn-uống.

*

9/- Quốc-vương thuở ấy chỉ có một Thái-tử tên là ĐÀ-MA THI-LỢI, đầy-đủ tướng-hảo, rất được vua cha quý-trọng.

10/- Khi ở chỗ thanh-vắng, Thái-tử nghĩ rằng:

a/- Đức DI-LÂU KIỆN-ĐÀ Như-Lai đắc được PHÁP gì mà thành PHẬT?

b/- Ngài mới nhập NIẾT-BÀN, cớ sao các Đệ-tử lại bỏ hạnh tu-hành cao-quý mà làm giống như kẻ “tục-gia bạch y”?

11/- Lúc suy-nghĩ như vậy, thì có Thiên-thần ẩn-thân đến bên mình mà bảo Thái-tử rằng :

 – Đức PHẬT DI-LÂU KIỆN-ĐÀ nhờ đắc “PHÁP thâm-diệu thanh-tịnh quyết-định” mà được thành PHẬT.

12/- Nghe Thiên-thần nói như vậy, Thái-tử liền hỏi rằng :

Đức PHẬT DI-LÂU KIỆN-ĐÀ đắc được PHÁP “Thanh Tịnh Thâm-Diệu” ấy như thế nào?

13/- Thiên-thần đáp:

PHÁP ấy vốn:

– Không có SẮC, (7)

– Không có THỌ,

– Không có TƯỞNG,

– Không có HÀNH,

Không có THỨC,

– Không có ẤM, GIỚI, NHẬP,(8)

– Không có NGŨ DỤC, (9)

Và cũng:

– Không có DỤC TÂM. (10)

PHẬT DI-LÂU KIỆN-ĐÀ “đắc” được GIẢI-THOÁT ở nơi “PHÁP” ấy.

Và NGÀI cũng:

DẠY chúng-sanh TU-THEO “PHÁP” ấy.

14/- Thái-tử hỏi:

Tôi có thể nào nghe được “PHÁP” ấy để “HỌC HIỂU” và “THỰC-HÀNH” theo chăng?

(Phụ-chú:

Đây gọi là:

– SỰ “LẬP TÂM BAN ĐẦU” của Thái-tử ĐÀ-MA THI-LỢI trên bước đường tu-tập, đó là muốn:

HỌC, HIỂU và THỰC-HÀNH

theo PHÁP “THANH-TỊNH THÂM-DIỆU” để:

ĐƯỢC THÀNH ĐẠO, GIẢI-THOÁT Y NHƯ PHẬT.

Chớ:

KHÔNG vì ÁO CƠM, DANH-TIẾNG và LỢI-DƯỠNG.

Người Tu-hành chơn-chánh” ngày xưa khi bước chân vào con đường tu-tập thì quý Ngài phát-tâm BAN ĐẦU như vậy.)

15/- Thiên-thần đáp rằng:

– Nếu như NGÀI siêng-năng tinh-tấn tu-hành thì sẽ đắc được “PHÁP” ấy không khó.

Đức NHƯ-LAI lại nói tiếp thêm rằng :

16/- Nầy PHÚ-LÂU NA,

Khi đó Thái-tử nghĩ rằng:

– “Nay Thiên-thần đã “khai ngộ” cho Ta rồi, vậy thì Ta nên xuất-gia để cầu tu học theo và chứng-đắc được PHÁP “thâm-diệu, thanh tịnh” đó.”

Liền đến trước cha mẹ, cúi lạy, thưa xin được phép xuất-gia, tu-hành trong PHÁP của PHẬT DI-LÂU KIỆN-ĐÀ.

17/- Vua cha bảo rằng:

Nay con cần gì phải bỏ cha-mẹ mà xuất-gia.

Tại sao?

Bởi vì các người xuất-gia hiện-tại đây họ đều sống y như hàng bạch-y cư-sĩ (tức là người tại-gia) cả.

Đoạn Vua cha nói “KỆ” bảo Thái-tử rằng:

Nay các chúng Tỳ-kheo,
Phóng-dật theo ngũ-dục.
Cánh-tác và buôn-bán,
Chẳng khác hàng bạch-y.
Hạng nghèo cùng, khổ não,
Chẳng biết gì để sống.
*
Nên “HỌ” vì cầu sống,
Mà làm kẻ xuất-gia.
Nay con sanh cung vua,
Giàu-sang đủ ngũ-dục.
Châu-báu có rất nhiều,
Đầy cung-phi mỹ-nữ.
Cần gì phải xuất-gia?

(Phụ-chú:

Qua đoạn KỆ nầy, Vua cha của Thái-tử ĐÀ-MA THI-LỢI có ý nói rằng :

– Các hàng xuất-gia đời nay – (HỌ chẳng phải vì cầu giải-thoát, mà là) – vì nghèo cùng, khốn khổ, vì cầu ngũ-dục lạc, vì cầu lợi-dưỡng v.v… mà xuất-gia để được sống (cho vinh thân, phì da) thôi.

Chớ còn như Thái-tử là con Vua có đầy-đủ ngũ-dục lạc, sung-sướng tuyệt-đỉnh thì (còn cầu gì nữa mà) xuất-gia ?)

*

18/- Thái-tử ĐÀ-MA THI-LỢI nói “KỆ” thưa cùng Cha-mẹ rằng:

Con chẳng cầu ngôi sang,
Nếu được cũng lìa bỏ.
Nay con chỉ muốn cầu,
PHẬT Pháp-giới thanh-tịnh.
Có Thiên-thần khai ngộ,
Khuyên con nên xuất-gia,
Thâm pháp của PHẬT dạy.
Con mong được nghe biết.
Con nghe Thiên-thần dạy,
Lòng con rất vui mừng.
Phật-pháp nay muốn diệt,
Con muốn giúp hộ-trì.

19/- Cha mẹ nói “Ke” bảo Thái-tử rằng:

“Thâm Kinh” đã diệt hết,
Không có người tụng trì.
Nay con sẽ từ đâu,
Được nghe “Kinh thâm-diệu”.
Nếu ở trong Tứ-chúng,
Có người tụng “thâm Kinh”.
Con trước theo họ học,
Rồi sau sẽ xuất-gia.

20/- Thái-tử nói “Ke” trình cha-mẹ rằng:

Nay con siêng tinh-tấn,
Trì giới hành đầu đà.
Ở xa trong núi rừng,
Cầu Phật-pháp thanh-tịnh.

(Phụ-chú:

Ý của bài Kệ” nầy dạy:

– Muốn cầu đạt được Phật-pháp (tức là muốn tu hành được chứng-đắc) thì phải giữ GIỚI” – (hành hạnh Đầu-Đà tức là giữ Giới).

– Phải Tu ở nơi núi rừng thanh-tịnh, xa-lánh các sự ồn-ào nơi phố thị.

– Phải tinh-tấn tu-hành, siêng năng đọc tụng, suy-cầu “thâm-nghĩa” của Thâm Kinh” (Kinh Đại-Thừa).

Chớ:

– Không phải là ham đi Ta-Bà”, nay (du-lịch) chỗ nầy, mai (du-lịch) chỗ nọ (dưới chiêu-bài hành-hương thánh-tích) đâu!

21/- PHẬT bảo (tiếp):

– Nầy PHÚ-LÂU NA,

 Nói “ke” ấy xong, Thái-tử ĐÀ-MA THI-LỢI cúi lạy cha mẹ rồi từ biệt xuất-gia.

Che-mẹ lặng yên, ngăn cản chẳng được.

22/- Thái-tử đi đến chỗ chư Tỳ-kheo, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, rồi:

Hết lòng cung-kính, bạch lên chư Tỳ-kheo cầu được nghe “PHÁP thâm-diệu” của Phật DI-LÂU KIỆN-ĐÀ đã từng truyền- dạy để tu-hành theo.

23/- Chư Tỳ-kheo bảo rằng:

– Chúng-tôi chẳng hề nghe được “PHÁP THÂM-DIỆU” của PHẬT dạy là gì hết, duy chỉ cứ việc làm y theo những gì mà các Hoà-Thượng và chư “sư” lớn đã làm thôi.

Nay ông cũng nên hành theo như vậy.

24/- Tỳ-kheo ĐÀ-MA THI-LỢI bảo cùng với chư Tỳ-kheo ấy rằng:

– Các Thầy tất (nhiên là) từ hàng nghèo-hèn mà xuất-gia nên chỉ biết quý-trọng cơm áo, những việc làm của các Thầy hiện nay, xem lại thì chẳng khác gì hàng “bạch-y” ngoài thế-tục.

Các Thầy phải nên cùng tôi cầu tìm “Pháp thâm-diệu” của PHẬT.

25/- Chư Tỳ-kheo ấy nói “Kệ” đáp rằng:

Việc làm của chúng-tôi,
Đều đã được lợi tốt.
Cơm áo rất đầy-đủ,
Khỏi phải việc Vua Quan,
An-ổn rất khoái-lạc.
Không ai dám khinh-mạn,

*

Nay chúng-tôi chẳng còn,
Khổ não như người đời.
Chính đây là Niết-Bàn,
Khoái lạc an-vui nhất (!)
Ngoài công việc nầy ra,
Chúng ta chẳng còn cần.
Tìm cầu “thâm-diệu PHÁP”,

*

Chúng ta nhiều y bát.
Cùng thuốc men vật dụng,
Thí chủ thường cung-cấp.
Nhà đàn việt(11) cũng đông.

(Phụ-chú:

Ý của lời đáp Kệ nầy nói:

– Chúng-ta (các giả Tỳ-kheo ấy), nay đã được Tài lợiTứ-sự đầy-đủ, đã được khoái-lạc, an-vui rồi, thì đâu cần phải tìm cầu “Phật-pháp thâm-diệu” để tu-tập theo làm chi cho cực-khổ.

Việc làm hiện-tại và những tài-vật của chúng ta hiện đang có đây cũng đủ làm cho chúng-ta hưởng được nhiều sự khoái-lạc, sung-sướng đâu khác gì “Niết-Bàn” !!!

(Đây cũng chính là việc làm của hầu hết chư “Phàm-Tăng Tỳ-kheo” trong thời buổi Mạt-pháp đời nay của chúng-ta vậy).

Vì thế nên trong các phần “LUẬN” trước, bút-giả đã có nói rằng:

– (Gần như đa số Hàng xuất-gia đời “Mạt-pháp” nay chỉ biết (một chiều) y theo các Vị thầy lớn chỉ dạy sai-lầm, rồi làm theo như “con khỉ hay bắt chước” mà thôi, chớ chẳng có TRÍ PHÁN-ĐOÁNNHẬN-XÉT để phân-biệt được đâu là:

Đúng, Sai, Tà, Chánh. chi cả.

Đó chính là những việc:

Cầu tìm áo cơm và lợi-dưỡng mà thôi !

Thật là rất đáng buồn cho thân-phận “XUẤT-GIA” của HỌ” lắm)

26/- Nghe lời đáp của chư Tỳ-kheo ấy xong, ĐÀ-MA THI-LỢI buồn rầu, rơi lệ than-khóc.

Sau đó Tỳ-kheo ĐÀ-MA THI-LỢI đi đến các chùa TỰ cùng những Tịnh-xá khác bạch thưa, thì:

Cũng đều được các chư Tăng
đáp LỜi y như trên vậy.

Bấy giờ,

27/- Thái-tử liền bỏ đoàn-thể chư Tỳ-kheo thô-hạnh ấy, một mình đi vào trong núi sâu, chỗ rừng rậm xa-vắng, nhứt-tâm chí-thành, cầu pháp “thâm-diệu, thanh-tịnh” của PHẬT.

28/- Trước đó,

Trong hàng Đệ-tử của PHẬT DI-LÂU KIỆN-ĐÀ có một vị Đại A-La-Hán tên là KIÊN-LAO, đầy-đủ “lục-thông”, “tam minh” và “bát giải-thoát” giống y như MA-HA CA-DIẾP của TA hiện nay.

KIÊN-LAO A-La-Hán ấy ở chốn thâm-sơn (núi sâu) khắc lời “THÁNH KỆ” ở trên vách đá rằng:         

1/- “Sanh tử” chẳng dứt được,
Là do nơi “Tham-Dục”.
Nuôi thù vào gò mã,(12)
Luống phải chịu đau khổ.

(Ý của đoạn KỆ” nầy dạy rằng:

– Chúng-sanh sở-dĩ chẳng thoát được ra khỏi vòng sanh-tử, luân-hồi là do vì:

– Không bỏ được tánh THAM-LAM” (ngũ dục, lục trần).

– Không bỏ được sự ham-mê ÁI-DỤC” (giữa 2 giống, Nam Nữ).

– Vì THÂN nầy mà gây-tạo nên các thứ NGHIỆP TỘI (tức là “nuôi thù”).

– Ham mê ở miết trong nhà cao, cửa rộng, nào có khác gì cái “Xác chết” kia luôn nằm mãi ở trong gò mã” đâu !

Vì thế cho nên:

Phải bị khổ về sanh-tử.

*

2/- Thân thúi như thây chết,
Chín lỗ chảy “bất tịnh”.(13)
Ngu-si tham luyến “thân”,
Chẳng khác giòi ham phẫn !

(Ý của đoạn KỆ” nầy dạy rằng :

– Thân-thể nầy của Ta đây nó rất là thúi-tha dơ-bẩn.

Tại sao ?

– Vì 9 lỗ (2 mắt, 2 mũi, 2 tai, miệng, lỗ đại, lỗ tiểu) hằng luôn chảy ra các chất nước “thúi-tha, dơ bẩn” như miệng hang của ống cống.

– Chỉ có người ngu-si, mê-muội, không biết, không học hiểu đạo-lý của PHẬT dạy mới tham-ưa, lưu-luyến XÁC-thân NHƠ-BẨN nầy – (như con “vòi” ham mê ngụp lặn trong đống phân nhơ” vậy) – mà thôi.

*

3/- Nhớ tưởng vọng phân-biệt,
Là gốc sanh “ngũ-dục”.
Người trí dứt “phân-biệt”,
Thì “ngũ-dục” đoạn-diệt.

(Ý của đoạn KỆ nầy nói:

– Vì người đời quanh năm suốt tháng cứ luôn-luôn nhớ tưởng các thứ dục-lạc, trần lao, phiền-não và những loại ÁI-DỤC” khác….hoài, cho nên:

“Tâm” sanh ra những ý nghĩ phân-biệt sái-quấy, bậy bạ, còn “THÂN” thì THỰC-hành toàn là những điều tội-lỗi (như mê sắc, mê tiền, mê nhục-dục …)

Đó là Tại sao ?

 – Vì chúng-sanh chúng-ta (nói chung) (bị ngu-si” cầm-nắm THÂN, TÂM cho nên – không có Trí-huệ, lại chẳng thường thân-cận, gần-gũi hàng minh-sư, thiện-hữu… vì) – mãi-miết “ham-mê ngũ-dục lạc” mà thành ra như vậy.)

Chớ còn như:

– Các bậc TRÍ-HUỆ” thì HỌ không còn có chút ham-mê, nhớ tưởng gì ở nơi “NGŨ DỤC” hết cả.

Tại sao ?

NGŨ DỤC” vô-thường, chẳng hạn như:

– Về “SẮC” thì :

Sắc đẹp mau chóng  tàn-phai  trước  sự già nua, bịnh-hoạn.

– Về “TÀI” thì :

Tiền bạc “CÓ” đó rồi “KHÔNG” đó (chuyển  qua tay của người khác).

 – Về “DANH” thì:

Có khi mới vừa được “khen-tặng” đó.

Thì:

Liền bị “chê bai, trù rủa” tiếp theo sau ngay.

Cho đến 2 “ấm” còn lại là “THỰC” (ăn uống), “THUỲ” (ngủ-nghỉ) cũng đều vô-thường” như các “ẤM” kia vậy.

Mà nếu đã vô-thường” rồi, thì “NÓ”chính là nguyên-nhân gây ra mọi thứ đau- khổ, sầu-than

Cho nên:

Người có “TRÍ” không một ai ưa-thích NGŨ-DỤC

Do vì “không ưa-thích” cho nên họ đoạn-diệt được NGŨ-DỤC một cách dễ-dàng, chớ chẳng có “ba phải” như chúng ta đâu.

*

4/- “Tà-niệm” sanh “tham trước”,
 “Tham-trước” sanh “phiền-não”
 “Chánh-niệm” không “tham-trước”,
Thì phiền-não đoạn-diệt.

(Phụ-chú:

Đoạn KỆ chót nầy ý nói:

– Tất-cả các thứ loại phiền-não” sở-dĩ được là do từ nơi NIỆM “tham-LAM chấp trước” (của mình) mà sanh ra cả (dù chấp đó là chấp thiện” cũng thế).

Nếu như dứt được Niệm “THAM CHẤP TRƯỚC” (dù đó là NIỆM “tham chấp Thiện” – [ý nói là phải giữ cho Tâm luôn được trống vắng như hư-không vậy] – thì phiền-não sẽ không sao hiện-hành và làm khổ Ta được.

Nếu “hành-trì” đúng y  như thế, quyết-định sẽ chứng được đạo-quả  giải-thoát  của  thánh-nhơn ngay.

Đây là 1 bài KỆ” quý dạy về phương-cách tu-tập đúng theo CHÁNH-PHÁP để phá trừ phiền- não, mà các bậc Thánh-nhơn giải-thoát trong khắp 10 phương đã HÀNH-TRÌ” y theo đó để được thành-đạo vậy.

29/- Tỳ-kheo ĐÀ-MA THI-LỢI vào trong hang núi, thấy được bốn bài “KE” khắc trên vách đá ấy, liền:

ĐỌC TỤNG, “SUY-CẦU” Ý-NGHĨA

(và THỰC-HÀNH Y THEO LỜI DẠY)

………………….

(Cho nên)

Không bao lâu đắc-đạo, chứng được ngũ thần-thông.

30/- Sau đó, Tỳ-kheo ĐÀ-MA THI-LỢI đi đến chỗ trà-tỳ khi xưa của PHẬT DI-LÂU KIỆN-ĐÀ, nhất-tâm đảnh-lễ, cung-kính hữu nhiễu ba vòng, rồi ngồi kiết-già tại chỗ ấy, phát nguyện rằng :

– Nếu Tôi không được thấy PHẬT.

– Chẳng được nghe các “PHÁP thâm- diệu”.

Thì:

– Quyết-ĐỊNH chẳng rời khỏi chỗ nầy.

31/- PHẬT nói tiếp:

– Nầy PHÚ-LÂU-NA,

Thiên-đế THÍCH ĐỀ-HOÀN-NHƠN (Cakra Dêvas) trước đó đã có theo PHẬT DI-LÂU KIỆN-ĐÀ, tụng-trì Kinh “BÁ BÁT THIÊN-MÔN”, biết Tỳ-kheo ĐÀ-MA THI-LỢI rất mến thích chánh-pháp, liền từ cung Trời Đạo-Lợi hiện xuống trước ĐÀ-MA THI-LỢI tuyên đọc lại Kinh “BÁ BÁT THIÊN-MÔN”, và truyền cho các “Kinh” khác như là :

– “TỨ ĐA VĂN BỔN CÚ”

“THẤT CHỦNG TRỌNG CÚ”

– “THẬP TỨ MÔN CÚ”

32/- Nghe xong Tỳ-kheo ĐÀ-MA THI-LỢI liền trì-tụng và theo “Văn KINH” mà suy-cầu nghĩa-lý…

Liền :

Ở trong các “PHÁP” được trí-huệ sáng suốt, tự-nhiên thông-thuộc các Kinh thâm-diệu, nghĩa không”, nghĩa “ly”(14) của PHẬT DI-LÂU KIỆN-ĐÀ.

33/- Đức PHẬT ấy cũng hiện thân ra cho Tỳ-kheo ĐÀ-MA THI-LỢI thấy và hiện “chúng” Tỳ-kheo thánh tăng, cả Tịnh-xá, phòng, giường, đại hội, tứ chúng, thiên long bát bộ… cũng đều khiến cho được “thấy” hết cả…..

(Lời bàn:

Trong giai-đoạn Mạt-pháp của thời buổi nầy, thì khắp cả mọi nơi Ta thấy dẫy đầy các hạng tu-hành thuần chỉ vì cầu áo-cơm, tài-lợi…, tìm được bậc “chân thật tu-hành, giữ-gìn đạo-hạnh, giới-luật”, thật khó như tìm sừng thỏ, lông rùa !

Mấy ai là kẻ chân-tu cũng như Tỳ-kheo ĐÀ-MA THI-LỢI trong chuyện trên đây.

Ấy thế mà – (theo như tác-giả của quyển sách “NIỆM PHẬT LƯU XÁ-LỢI” nầy và các người khác TÂM luôn nghĩ, miệng nói rằng):

BẤT CỨ Ai TU-HÀNH cũng ĐỀU có XÁ-LỢI lưu lại hết (!!!) là tại sao ?

Xin được đề-nghị:

Tác-giả  của quyển sách  NIỆM PHẬT  LƯU XÁ-LỢI” kia và các môn-đồ pháp-quyến cùng thân-thuộc của những nhân-vật có phương-danh lưu lại Xá-Lợi” (theo sự ghi-nhận của Tác-giả quyển sách) hãy bình-tâm và thành-thật SUY NGHĨ CHO KỸ LẠI PHẦN HÀNH-TRÌ tu-tập trước kia của các nhân-vật đó đi.

Ở đây nêu ra câu hỏi.

Tức là:

Đã trả lời rồi vậy.)

*

Tóm yếu lại mà nói thì:

Trong 2 Giai-đoạn “THÁP-TỰ” “ĐẤU-TRANH KIÊN-CỐ” nầy, nếu như bình-tâm mà nhận-xét, ắt sẽ thấy rằng:

– Tam-Bảo không còn đúng theo thiệt nghĩa nữa.

– Suy-tàn, tồi-tệ(đến mức không nở thốt lời).

Các bậc “Thượng-trí” và những “hữu-tâm nhơn” trông thấy thảy đều bùi-ngùi thương cảm.

(Xem lại phần chú-giải về tình-trạng của người TU (xuất-gia) vào thời buổi Mạt-pháp nầy – trong quyển “Liên-Tông Thập-Tam Tổ”, nơi các trang từ 466 đến 470 và các trang từ 471 đến 473 sẽ rõ hơn).

Và nếu “đã thế rồi” thì gần như hầu hết (có thể lên đến 95%) các bậc xuất-gia Tăng, Ni (trong thời buổi MẠT-PHÁP nay) chắc-chắn là :

Mất hẳn “giới-thể” (vì phạm nhằm vào các tội “KHÍ” (15) (tức là “Ba-la-di” tội – Phạm Tội nầy thì trong luật không cho Sám-hối, phải bị “Tẩn-xuất” (đuổi hẳn) ra khỏi đạo).

*

Ấn-Quang Đại-Sư (vị Tổ thứ 13 trong Tông Tịnh-Độ) có nói lời rằng:

1/-Người xưa” (ý nói là các bậc xuất-gia thuở trước (trong 2 thời-kỳ giải-thoát”Thiền-định kiên-cố”) thọ-giới là vì phát-tâm muốn dứt trừ được sự sanh-tử, luân-hồi.

Trái lại:

2/- Người “xuất-gia thọ-giới” đời nay, phần nhiều đều chỉ muốn làm ra vẻ là “một vị đại Tăng” (16)  mà thôi, còn việc có “đắc giới” hay không, thì “chẳng cần nghĩ tới” !

(Tức là phần lớn các vị xuất-gia thọ-giới (đời nay) chỉ thuần theo cách “MUỐN LÀM RA VẺ LÀ MỘT VỊ ĐẠI TĂNG”, do đó mà HỌ chỉ “thọ giới” cho có vị thôi – (để lừa-dối đức tin của người Phật-tử và phỉnh-gạt ngay cả chính mình nữa) – “thọ” xong rồi HỌ liền “phạm giới” – (đương-nhiên là HỌ bị mất hết các “giới-thể” đã thọ, mà trở thành ra một người cư-sĩ trọc đầu (Thốc cư-sĩ).

3/- Vì thế cho nên mấy ông Tăng (hoặc Ni) thiếu học, thiếu tu, bên ngoài thảy đều là những người đã có thọ qua “Ba giới đàn” (17) hết cả.

Sở-dĩ có việc tệ-hại nầy là do ở  nơi  Vua Thế-Tổ nhà Thanh bỏ “Độ-điệp” (18), bãi lệ “Thí Tăng” mà ra.

4/- Cho đến những kẻ (tự) xưng là Thầy người, song thật ra là (họ) chỉ lo cầu danh-lợi, tham trước quyến-thuộc (tức là tham-lam, thâu-nhận đệ-tử một cách bừa-bãi, bất kể kẻ (muốn xuất-gia đó là tốt hay xấu, hay chánh) cho đông nhiều (để được tiếng Ta đây) là một bậc cao tăng có nhiều đệ-tử… cũng phát-xuất ra từ nơi nguyên-nhân nầy”…

(Phụ-chú:

Sự việc nầy ngày nay có rất nhiều và cùng khắp cả mọi nơi. Người Phật-tử tại-gia có kiến-thức về Phật-học đều chê cười việc thu-nhận kẻ xuất-gia một cách bừa-bãi nầy là :

“Đè đầu xuống cạo”).

Người học Phật-pháp và những bậc xuất-gia có được ít nhiều học-hiểu, tu-hành chơn-chánh – (như là các bậc Chơn-tu, Chơn-Tăng, Hiền-Tăng, Đạo-đức Tăng)ai cũng đều biết rõ điều rằng:

a/- GIỚI-LUẬT tức là phần “chân cẳng” của người tu-học (nhứt là đối với hàng ngũ xuất-gia).

b/- (Bắt buộc phải) dùng loại “chân cẳng GIỚI-LUẬT” nầy mới ĐI được đến phần ĐỊNH-LỰC” (nghĩa là chứng Tam-muội, đắc thần-thông).

c/- (Bắt buộc phải) Dùng “ĐỊNH-LỰC” nầy mới đi đến được phần “HUỆ-TRÍ”, “HUỆ-LỰC”.

Để:

– Được đắc-quả, giải-thoát và “lưu lại Xá-lợi” cho người đời sau (ngõ-hầu dùng “đó” mà làm “tín-chứng” cho phần “tu-hành chơn-chánh” cùng sự “thành-đạo” của mình).

Còn:

Nếu như ngược lại, ngay từ bây giờ, ở nơi bước đường tu-học đầu tiên mà:

– “GIỚI THỂ” ĐÃ BỊ MẤT RỒI – (vì đã vi-phạm nghiêm-trọng vào trong các đại giới mà mình đã “thọ”).

Thì:

Làm sao mà đắc được hai phần ĐỊNHHUỆ” còn lại?

Đây có nghĩa là (kẻ tu-hành ấy):

Chẳng thể nào và chẳng bao giờ
đắc-đạo, giải-thoát được cả.

Và nếu đã như thế rồi thì:

LÀM SAO THÀNH-TỰU ĐƯỢC XÁ-LỢI?

mà nói là LƯU XÁ-LỢI” (vì có đâu để mà “LƯU”) !!

Vả lại, y theo những lời mà PHẬT đã huyền-ký” (tức là tiên-đoán trước) ở trong một số Kinh-điển, thì đại đa-số những người xuất-gia trong thời buổi Mạt-pháp nầy đều chỉ vì muốn nương vào “OAI-ĐỨC” của TAM-BẢO để cầu được danh-tiếng”lợi-dưỡng” mà đi tu thôi, (xem lại chuyện Tỳ-kheo ĐÀ-MA THI-LỢI… đã có nói ở trước), chớ gần như chẳng có một ai thật vì lòng mộ-đạo” hay cần cầu giải-thoát” chi hết !

Cho nên hiện nay, ở vào trong giai-đoạn Đấu-tranh kiên-cố” nầy, thì:

Số lượng người xuất-gia xem có vẻ đông, đầy khắp cả mọi nơi, nhưng Ta có thể “quả-quyết một cách chắc-chắn” rằng:

– Các người xuất-gia (thời nay) đó, gần như không có được nhứt  một  ai  phát-tâm  cầncầu giải-thoát hết cả !

Họ:

– Chỉ vì một mục-đích duy-nhất là lợi-dụng Phật-pháp cùng lòng tịnh-tín của hàng Phật-tử để tìm-cầu lợi-dưỡng, hầu dễ-dàng chen chân vào trong vòng Sắc, Tài, Danh, Lợi mà thôi.

(Tức là “mượn đạo tạo đời”, buôn Thần bán Thánh).

Vì thế nên Tổ-sư có lời than-thở rằng: 

– “Xuất-gia như ngưu mao,

Nhưng mà:

–  Đắc-đạo như thố giác”.

Tức là:

– Kẻ xuất-gia (thời nay) thì đông nhiều như lông trâu.

Nhưng mà:

– Người (xuất-gia thời nay) được đắc-đạo cũng giống như sừng thỏ !

Vậy là sao?

Nghĩa là ý nói trong thời buổi Mạt-pháp nầy thì:

– Người xuất-gia tuy đông nhiều (thật đó), nhưng gần như chỉ toàn là những hạng giả tu để mưu-cầu danh-lợi mà thôi, chớ còn kẻ chân-thật tu-hành, hay được đắc-đạo (như Tỳ-kheo ĐÀ-MA THI-LỢI) thì hoàn-toàn không có.

Tại sao?

Bởi vì Thỏ chẳng bao giờ có sừng.

Do vì như thế mà:

Trong hàng ngũ tu-hành (Vào thời Mạt-Pháp / Đấu-tranh kiên-cố hiện nay), chẳng có được nhứt một người nào đắc-đạo cả.

(Phụ-chú:

Nếu như thì các vị đó chính là bậc BỒ-TÁT, LA-HÁN… thị-hiện lại và tu đắc đạo, lưu Xá-Lợi, v.v…

Để:

Làm tín-chứng cho Phật-pháp.

Và:

 – Làm gương (mô phạm) cho hàng “tứ-chúng” trong thời Mạt-pháp nầy noi theo để tu-tập mà thôi.

Chớ còn:

Kẻ thường nhơn tu-hành chỉ vì cầu cơm áo, lợi dưỡng… đời nay thì :

Không có được nhất một ai thành toàn 3 phần “GIỚI, ĐỊNH, HUỆ” để được đắc đạo hết.

Và:

Như thế thì có “XÁ-LỢI” đâu ĐỂ mà LƯU.

(Chỉ giỏi có việc tu trên chót lưỡi” và có XÁ-LỢI trên môi miệng” mà thôi – (tức là : Đắc Tam-muội nơi cửa miệng”) – như lời dạy của Liên-Trì Đại-sư, Liên-tông Lục-tổ vậy).

Vì thế nên trong kinh “ĐẠI-TẬP NGUYỆT TẠNG”, PHẬT mới có lời huyền-ký rằng:

–  “Mạt-pháp  ức-ức (19)   nhơn  tu-hành, hãn nhứt đắc đạo”…  là đúng như vậy, chớ không có chút nào sai-ngoa hết.

Và như thế thì Ta có thể nào nói (ngược lại với lời PHẬT dạy) rằng:

Hầu hết người xuất-gia ngày nay đều được đắc-đạo cả không ?

Nghĩa là có thể nào mà tất-cả các :

Người xuất-gia đời nay sau khi chết đều có lưu lại “xá-lợi” đúng theo nghĩa :

Thành tựu được ba phần
GIỚI, ĐỊNH, HUỆ.

(như đã nói trong các Tiết, Mục trước) hay không?

Hỏi tức là đã trả lời rồi vậy.

Đến đây, Bút-giả xin được trích-dẫn ra một đoạn KINH để làm chứng-tín (về việc vừa mới luận trên) như sau:

(ÂM) :

…“PHẬT phục duy-viết :

Mạt-pháp chi hậu, kim ngã pháp trung, hữu chư Tỳ-kheo, ngôn-hạnh bất đồng, tâm khẩu tương-vi, hoặc :

–  Vị lợi-dưỡng, tiền-tài, ẩm-thực,

–  Hoặc vị danh-dự, yếu-tập quyến-thuộc.

–  Hoặc hữu yểm-ố, vương-pháp sử-dịch, xuất-gia tu đạo,

–  Đô vô hữu-tâm, hướng tam thoát-môn, độ tam hữu khổ, (20)

–  Dĩ bất tịnh-tâm, tham thọ tín-thí,

–  Bất tri hậu-thế, di kiếp thọ ương, thường kỳ túc-trái.

– Dĩ thị đẳng cố, khởi đắc bất thuyết”…

(NGHĨA):

“Khi ấy đức THẾ-TÔN mới nghĩ rằng:

 … Vào thời buổi mạt-pháp về sau, trong chánh-giáo của TA, có các thầy Tỳ-kheo mà lời nói, việc làm không giống nhau, ý-nghĩ miệng nói, thảy đều sai khác.

Song HỌ cũng xuất-gia, học đạo, là chỉ vì hoặc :

 – Cầu cho có nhiều “lợi-dưỡng” để nuôi thân, vì ham tiền-tài và các thứ ăn-uống,

– Hoặc vì ham được tiếng khen, muốn thâu-nhập đệ-tử cho đông nhiều,

– Hoặc có người vì nhàm-chán pháp-luật của Vua sai-khiến mà đi tu.

Chớ:

– Không có một người nào phát tâm vì cầu (chứng-đắc) ba môn giải-thoát(21) để ra khỏi được các sự khổ độc trong ba cõi (mà đi tu) cả.

HỌ:

– Đem tâm bất-tịnh để thọ của tín-thí cúng-dường,

Mà:

– Chẳng biết rằng đời sau sẽ thọ-lãnh các quả-báo khổ độc trong nhiều kiếp để đền bù nợ trước.

 “VÌ NHỮNG LẼ ẤY MÀ NAY TA KHÔNG NÓI RA SAO ĐƯỢC ?”

*

Vậy thì:

ĐỨC THẾ-TÔN “NÓI RA” NHƯ THẾ NÀO?

Về:

1/- Tình-trạng của chư (TĂNG, NI) TỲ-KHEO TRONG thời Mạt-pháp?  

(Qua 2 phương-diện “Giới-luật”“Hành-trì tu-tập” ?)

Cùng với :

2/- Tình-trạng của chư NAM-NỮ Phật-tử tại gia?

Sau khi:

– Đức THẾ-TÔN NHẬP ĐẠI NIẾT-BÀN

Trải qua:

– Các thời-kỳ kiên-cố về sau, nhất là trong buổi Mạt-Pháp” (tức là vào giai-đoạn Đấu-tranh Kiên-cố” hiện nay) của “Kiếp giảm” nầy?

*

Tịnh-độ THI
KHUYÊN NIỆM PHẬT

 

Gởi ý Ta về khách nẻo xa,
Khuyên nên hôm sớm NIỆM DI-ĐÀ.
TÍN Tâm như nếu chuyên trì mãi,
HẠNH NGUYỆN ngày kia sẽ nở hoa.
Cố chí xóa-tan niềm tục-lụy,
Vững công lần bước đến Liên-Tòa.
Ai ơi ! khuyên gắng gìn TÂM NIỆM,
CỰC-LẠC đâu ngoài bản tánh Ta.
 
THÍCH HẢI-QUANG
(Hải-Quang thi-tập)

***

Chú thích:

(1)- Xem lại phần:

-“A-NA-HÀM” Thánh-nhơn Tâm-pháp-An truyền” nơi quyển I / Đại Thừa Phật-Pháp Liễu-Nghĩa Truyền Tâm-Ấn Luận  của Bút-giả (các trang từ 262 cho đến 392), sẽ hiểu rõ hơn về pháp-thức tu-tập nầy.

(2)-  PHI: tức là KHÔNG.

(3)- PHI-PHI : tức là “cũng chẳng phải là (hoàn-toàn) KHÔNG” – (nghĩa là vẫn còn “CÓ”, nhưng là cái “CÓ” cực-kỳ vi-tế, nhỏ-nhiệm, nhỏ cho đến nổi đạo-nhãn các bậc Thánh-nhơn trong các quả-vị Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm cũng chẳng thể nào thấy biết được – (ngoại trừ “Huệ-nhãn” của bậc Vô-lậu “A-la-hán” mới thấy biết được mà thôi).

(4)- Vi đề Hy (Vaidêhi) : Là mẹ của Vua A-XÀ-THẾ (Ajatasatrou). là người khải-thỉnh Phật thuyết-dạy ra Pháp-môn Tịnh-Độ. Do nhờ ở nơi Kinh “QUÁN VÔ-LƯỢNG THỌ” (tức là Kinh “THẬP LỤC QUÁN”) một trong “TỊNH-ĐỘ TAM KINH” mới được PHẬT thuyết ra.

(và 500 tỳ-nữ tuỳ thuộc) được PHẬT thọ-ký cho sanh về cõi nước CỰC-LẠC của đức PHẬT A-DI-ĐÀ.

(5)- Tu Bạt Đà-La : là vị đệ-tử cuối cùng của Phật, nhơn nghe PHẬT thuyết-dạy về “PHÁP KHÔNG” mà đắc được đạo-quả A-la-hán(ông xin phép PHẬT được) nhập Niết-Bàn ngay tại chỗ ngồi (trước khi Phật nhập Niết-bàn 1 đêm, để khỏi bị cảnh buồn rầu vì thấy PHẬT NIẾT-BÀN (thị-tịch).

(6)- Dục-ái : Các sự “Ái-nhiễm” của cõi Dục (như việc giao-hợp giữa hai giống Nam, Nữ, vợ-chồng v.v…)

(7)- Đây tức là “PHÁP” ấy làm cho NGƯỜI TU được “NGŨ UẨN GIAI KHÔNG, ĐỘ NHẤT-THIẾT KHỔ-ÁCH”.

(8)- Đây tức là “PHÁP” ấy làm cho NGƯỜI TU dứt lìa được :

– NGŨ ẤM (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức)

– Xa lìa và giải-thoát được “18 GIỚI TRÓI BUỘC” là:

LỤC CĂN, LỤC TRẦN, và LỤC THỨC.

– “NHẬP” là 12 “NHẬP”, đó là:

– NHÃN nhập SẮC (Tướng) (2 nhập).

– NHĨ nhập THANH (Âm) (2 nhập).

– TỶ nhập HƯƠNG (2 nhập).

– LƯỠI nhập VỊ (2 nhập).

– THÂN nhập XÚC (2 nhâp).

– Ý nhập PHÁP (2 nhập)

(9)- NGŨ DỤC: là TÀI, SẮC, DANH, THỰC, THÙY.

(10)- Là dứt trừ được tất-cả loại “TÂM MONG CẦU” ở nơi các thứ DỤC-LẠC phàm-tục trói-buộc của chúng-sanh trong ba cõi.

(11)- Đàn việt : Là hàng Phật-tử thí-chủ tại gia (bạch-y cư-sĩ).

(12)- Ý nói : – Người đời mê tham-dục, cũng như những kẻ ngu-si, nuôi-dưỡng kẻ thù !

Ở “nhà” cũng giống như ở trong “gò mã” (vậy mà vẫn không thức tỉnh, hay biết).

(13)- Chín lỗ: – 2 lỗ mắt, 2 lỗ tai, 2 lỗ mũi  (6).

1 lỗ miệng, 1 lỗ hậu-môn, 1 lỗ tiểu-tiện (3).

hằng tuôn chảy chất tanh dơ, hôi thúi.

(14)- NGHĨA “KHÔNG” : Tức là ý của câu KINH “THỊ CHƯ PHÁP KHÔNG TƯỚNG” trong BÁT-NHÃ TÂM-KINH.

NGHĨA “LY” : Tức là (CHƠN) TÂM lúc nào cũng LY (xa-lìa) tất-cả các loại “TƯỚNG-DẠNG”.

(15)- KHÍ: là loại bỏ.

a/- Tăng có 4 tội “KHÍ” (Tứ khí).

b/- Ni có 8 tội “KHÍ” (Bát khí).

(16)- Làm ra vẻ là một đại Tăng : Tức là tự mình phô-trương, khoe-khoang Tài đức (rỗng-tuếch) ra, cho mọi người biết rằng:

– “Ta đây là một vị Tỳ-kheo, là Đại-Đức, Thượng-Tọa hay Hòa-Thượng (dởm)… (để cầu lấy hư-danh và nhận sự cung-kính, cúng-dường, lễ-bái… của hàng Thiện-tín một cách “bất hợp pháp”).

(17)- Ba giới đàn: là ba loại “đàn truyền-giới” cho người xuất-gia, đó là:

– Giới-đàn Sa-di,

– Giới-đàn Tỳ-kheo,

– Giới-đàn Bồ-tát.

(18)- Bỏ “Độ-Điệp” : Tức là bỏ tục-lệ cấp giấy “Chứng-nhận xuất-gia” cho chư Tăng.

– Bãi lệ Thí-Tăng : Tức là bỏ tục-lệ “bắt chư Tăng, Ni phải thi về đạo-pháp”. Bởi vì từ trước đời nhà THANH, nếu như người nào muốn xuất-gia làm Tăng, Ni thì (kẻ ấy) bắt-buộc phải trải qua một kỳ thi  khảo-hạchviết bài luận về giáo-lý Phật-pháp – Nếu được chấm đậu thì mới được phép xuất-gia. Đến đời Thế Tổ (vua đầu tiên) nhà THANH thì Vua xuống chiếu-chỉ hủy-bỏ “pháp-luật” nầy đi. (Thật là một điều sái-quấy và đáng tiếc).

(19)- Số ức là số 100.000 (một trăm ngàn)

Ức-ức là 100.000×100.000 = 10.000.000.000 (tức là 10 tỷ).

(20)- Tam hữu khổ: Các sự khổ về luân-hồi, sanh-tử trong 3 cõi Dục, Sắc, Vô-sắc. (Hữu : Tức là hữu sanh, hữu tử, hữu luân-hồi)

(21)- Ba môn giải-thoát : là ba môn học, cùng với ba cửa ngõ, để cho người tu bước vào trong “cảnh-giới giải-thoát” – gồm có:

a/- Ba môn “vô-lậu học” (Tam vô-lậu học), tức là “GIỚI”, “ĐỊNH”, và “HUỆ”.

Gọi “Vô-lậu học” là vì do ở nơi “ba môn học” nầy mà chứng được quả-vị “VÔ-LẬU” (tức là đắc thánh-quả từ A-La-Hán)… trở lên.

b/- Ba cửa ngõ giải-thoát là : “KHÔNG”, “VÔ-TƯỚNG”, “VÔ-NGUYỆN”.

– KHÔNG : Thấy tất-cả các PHÁP đều không (có thật tướng) mà chỉ là “NƯƠNG GÁ” vào nơi “NHÂN-DUYÊN”TÊN GỌI để sanh-khởi ra mà thôi, chớ còn :

Tự một mình “NÓ” thì “NÓ” chẳng có chi hết cả.

– vì thế cho nên bậc tu-hành cần phải “không CHẤP TRỤ” vào (các giả Pháp), do đó cho nên không bị các PHÁP trói buộc.

– VÔ-TƯỚNG : Tức là lìa hết tất-cả các thứ “Tướng, Dạng” của nội, ngoại, sắc-tướng – vì thế mà không bị mê lụy về SẮC-TƯỚNG.

– VÔ-NGUYỆN : Là “không muốn”, và  không “nguyện cầu được thọ sanh vào trong ba cõi Dục, Sắc, Vô Sắc.