TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

Đại Sư Thông Tuệ chùa Thiên Thọ ở Tả Nhai Tứ Tử Sa-môn Tán Ninh v.v… vâng sắc soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 19

 

CHƯƠNG VI: CẢM THÔNG

TRONG PHẦN 2 CỦA CHƯƠNG VI

(chánh truyện có hai mươi mốt vị, phụ có tám vị)

1. Truyện ngài Phá Táo Đọa ở Tung Nhạc, thời Tiền Đường:

Thích Phá Táo Đọa, không rõ Sư là người xứ nào. Trong thời Thiên Hậu (Võ Tắc Thiên) Sư đến tham sự với Thiền Sư An ở Tung Nhạc, hiệu là Lão An. Sư thấu suốt thiền pháp, tiêu diêu chẳng buộc ràng. Thường cầu lý mà chẳng thấy ở trước, riêng đường mà chẳng thấy rảo bước ở sau.

Sư từng gặp thầy đồng bóng cùng với người cúng tế ông Táo để cầu nguyện, như Lý thiếu Quân ở đời Hán Võ vì thờ ông Táo mà đặt để vật đồng. Hễ lúc thầy đồng giải tấu thì thường thấy hình quỷ vật hiện điềm, dân chúng ở trong làng nhiều người lo sợ, lan truyền trong nhiều người, thường hay giết hại dê để cúng tế giao Ngọ. Trọng chủ Táo ấy bèn dùng phướn lọng để che, bí mật mà ít thấy. Khi Sư đến đó, ban đầu thì khuyên dụ thầy đồng, sau cùng thì nói Pháp cho thần nghe. Xong rồi thần nói rằng: “Tôi nghe sư chỉ dạy, chắc chắn sẽ sanh lên cõi trời”. Thần bèn hiện hình để đảnh lễ từ tạ Sư. Lại nói rằng: “Mong sư được lợi ích càng sâu xa, được sanh lên cõi trời tốt đẹp!” Thần nói xong liền ẩn hình. Táo đó chính là thần từ, theo đó mà hiểu thị tự nhiên rỗng suốt, chẳng do sức người, xa gần đều kinh hãi. Sư vốn chẳng xưng danh, do đó hoàn toàn lấy danh hiệu cuả người khác, nên gọi là Phá Táo Đọa.

2. Truyện ngài Nguyên Khuê trụ chùa Nhàn Cư ở Tung Nhạc thời Tiền Đường:

Thích Nguyên Khuê, họ Lý, người xứ Y Quyết. Sư bẩm khí anh kỳ, rộng rãi nhàn nhã, đã có duyên tu tập từ trước bèn phát chí xuất gia.

Vào niên hiệu Vĩnh Thuần thứ hai (683) Sư đăng đàn thọ giới cụ túc, bèn thuộc danh ở chùa Nhàn Cư, tập học tỳ-ni. Sư siêng năng không biếng lười, sau đó, ngộ Thiền Tông ở chùa Thiếu Lâm, thông suốt tâm yếu, vào sâu huyền vi, Sư bèn từ bốc lô đến Lũng Ổ ở Tung Nhạc, Sư bảo với Nhân Tố là đệ tử của Sư rằng: “Ta mới ở tại ngọn núi phía Đông chùa này, sau khi ta thị tịch ông nên xây tháp an táng hài cốt ở đây!” Sư trụ tại Nham A, bấy giờ có Nga Quan khố tập, Bộ Khúc đông nhiều, bước nhẹ khoan thai, tham yết Đại Sư. Sư thấy Nga Quan diện mạo kỳ vĩ, tinh sáng khác thường, bèn nói rằng: “Lành thay nhân giả! Ai cho biết mà đến vậy?” Nga Quan hỏi: “Sao Sư biết tôi ư?” Ngài bảo: “Tôi quán thấy Phật và chúng sanh đều bình đẳng. Tôi chỉ nhìn như một, đâu phải do phân biệt biết!” Nga Quan nói rằng: “Tôi thần ở núi nầy, tôi có khả năng làm cho người được lợi hại và sống chết, sao Sư có thể nhìn tôi như một ư?” Sư bảo: “Ông có thể gây ra sự sanh tử đối với mọi người. Tôi đây vốn chẳng sanh, làm sao ông có thể khiến cho tử. Ta xem thân ta cùng với hư không là bình đẳng. Tôi xem tôi cùng với ông là bình đẳng. Ông có thể phá hoại hư không và phá hoại ông chăng? Nếu như có thể phá hoại hư không và phá hoại ông, thì tôi đây cũng chẳng sanh chẳng diệt. Ông còn chưa thể như thế thì làm sao có thể gây ra sự sanh tử đối với tôi?” Thần núi bèn cúi đầu bái lạy đôi phen, nói rằng: “Tôi cũng thông minh chánh trực hơn các thần khác, đâu thể biết được sư có trí biện rộng lớn như thế?! Xin nguyện trao cho tôi chánh giới, khiến tôi độ đời để giúp thêm oai phước!” Sư bảo: “Thần đã cầu xin giới tức là đã có giới. Vì sao? Vì ngoài giới không có giới, còn gì là giới ư?” Thần thưa: “Với lý ấy tôi nghe mà mịt mờ, chỉ cầu xin sư trao giới. Thân tôi đây nguyện xin làm đệ tử trong pháp môn!” Sư khước từ không được, bèn lập tòa đốt hương, bưng lò hương bảo: “nay Tôi trao cho ông năm giới, giới nào ông có thể vâng giữ được thì đáp là được, giới nào không được thì im lặng. Thần thưa: “Tẩy rửa tai để lắng nghe, dùng tâm rỗng không mà nhận lãnh!”

Sư bảo: “Ông có thể không tà dâm chăng?” Thần đáp: “Cũng lấy vợ”. Sư bảo: “Không phải như thế, mà là không có lưới dục “. Thần đáp: “Được”. Sư bảo: “Ông có thể không trộm cắp chăng?” Thần nói: “Sao khi dễ vậy! Làm gì có trộm lấy?” Sư bảo: “Chẳng phải vậy, mà có nghĩa là cúng mà phước dâm, chẳng cúng mà họa thiện!” Thần đáp: “Được”. Sư bảo: “Ông có thể chẳng sát hại chăng?” Thần nói: “Chính giữ quyền bính tại thân, sao bảo là chẳng giết hại. Sư bảo: “Không phải như thế, mà nghĩa là có lạm ngộ hỗn nghi vậy”. Thần đáp: “Được”. Sư bảo: “Ông có thể chẳng nói dối chăng?” Thần đáp: “Tôi vốn là ngay thẳng, đâu có luống dối!” Sư bảo: “Không phải vậy, mà nghĩa là trước sau chẳng hợp tâm trời”. Thần đáp: “Được”. Sư bảo: “Ông có thể chẳng bị rượu làm bại hoại chăng?” Thần đáp: “Được”. Sư bảo: “Như trên là giới của Phật!” Sư lại nói: “Dùng hữu tâm để vâng giữ mà không tâm câu chấp, dùng hữu tâm vì mọi vật mà không tâm tưởng thân. Nếu được như thế thì trước lúc trời đất sanh chẳng là tinh, sau khi trời đất diệt chẳng là lão. Suốt ngày biến hóa mà chẳng bị động. Tất cả đều vắng lặng mà chẳng phải là dừng ngộ. Được như vậy thì tuy có gia đình mà chẳng phải vậy, tuy có hưởng mà chẳng phải lấy, tuy có bính mà chẳng phải quyền, tuy là làm mà chẳng phải cố, tuy say mà chẳng phải mê. Nếu vô tâm đối với muôn vật thì dẫu có lưới dục chẳng là dâm, họa dâm họa thiện chẳng là trộm cướp, lạm ngộ hỗn nghi chẳng là giết hại. Trước sau trái với trời chẳng là luống dối, dẫu có mê man điên đảo cũng chẳng là say. Đó gọi là vô tâm. Vô tâm thì không giới. Không giới thì không tâm, không Phật không chúng sanh, không ông không tôi. Không tôi không ông thì ai có thể răn giới ư?”

Thần nói: “Thần thông của tôi chỉ kém thua Phật”. Sư bảo: “Thần thông của ông trong mười cú (câu), năm cú được còn năm cú chẳng thể được. Thần thông của Phật thì trong mười cú thì bảy cú được, còn ba cú chẳng được”. Thần khiếp sợ lánh khỏi chiếu đứng dậy lạy quỳ rất cung kính thưa rằng: “Tôi có thể được nghe điều đó chăng?” Sư bảo: “Ông hãy hầu Thượng Đế từ trời Đông đến trời Tây thất diệu chăng?” Thần đáp: “Không thể được”. Sư lại hỏi: “Ông có thể đoạt lấy địa kỳ, bao dung ngũ nhạc mà kết bốn biển chăng?” Thần đáp: “Chẳng thể được”. Sư bảo: “Đó là năm thứ ông không có khả năng thực hành”. Sư lại bảo: “Phật có khả năng thấy tất cả tướng là không mà thành tựu trí muôn Pháp, nhưng không thể diệt trừ định nghiệp. Phật có khả năng biết được tánh của chúng sanh, biết việc trong ức kiếp, mà không thể hóa đạo chúng sanh vô duyên, Phật có khả năng độ vô lượng hữu tình mà không thể độ hết thế giới chúng sanh. Đó là ba thứ không thể được của Phật. Định nghiệp chẳng phải bền chặt lâu dài, vô duyên cũng chỉ là nhất thời, thế giới chúng sanh vốn không thêm bớt. Quanh quẩn không một người có thể làm chủ hữu pháp, Hữu pháp đã không chủ, ấy gọi là vô pháp. Không pháp không chủ đó gọi là vô tâm. Như chỗ tôi hiểu về Phật thì cũng không có thần thông. Chỉ dùng vô tâm mà thông đạt tất cả pháp, tác dụng thầm hiện trước chúng sanh. Nếu có tâm có tạo tác thì tác dụng sẽ chẳng cùng khắp”.

Thần núi thưa rằng: “Tôi thật hiểu biết cạn cợt mê muội, chưa được nghe về nghĩa Không. Xin Sư trao cho tôi giới để tôi vâng giữ. Lại do nghiệp nhân gì có thể ràng buộc cõi trần. Tôi nguyện báo đáp từ đức, xem xét lại điều tôi có thể làm được!” Sư bảo: “Ta quán thân không vật, quán Pháp vô thường, như thế đâu còn gì ham muốn?” Thần thưa: “Sư hẳn bảo tôi làm việc thế gian, xoay vần chút ít thần công của tôi. Khiến cho năm hạng người: đã phát tâm, mới phát tâm, chưa phát tâm và không có tín tâm sanh khởi tín tâm, v.v… nhìn dấu vết thần của tôi, biết có Phật, có thần, có khả năng được, có không khả năng được, có tự nhiên, có chẳng phải tự nhiên”. Sư bảo: “Không làm thế! Không làm thế!” Thần thưa:”Phật cũng sai thần hộ trì pháp, sao sư lại hủy báng Phật? Tùy ý mà chỉ bảo!” Sư bất đắc dĩ mà bảo rằng: “Ở chùa Đông Nham bị chướng, trống rỗng không có cậy cối, ở Bắc tụ có cây mà chẳng che lấp, ông có thể dời cây ở phía Bắc đến Đông lãnh chăng?” Thần thưa: “Tôi đã nghe lời Sư dạy bảo”, lại trình bày rằng: “Trong đêm tối, tôi sẽ sử dụng gió sấm làm cho rung chuyển. Xin Sư chớ kinh hãi” Và thần liền trịnh trọng lễ bái từ giã mà đi. Sư đưa ra tới cửa, Sư nhìn thần, thấy rõ nghi vệ đi lượn như hành trượng của Vương giả, lại có khí đỏ ráng hồng nham tía, hạo khí dãi bày tụ tán, phướn lọng hoàn bội, giáo mác um tùm, lên cao lẫn giữa khoảng không, mịt mờ ẩn hiện. Đêm đó quả nhiên có gió bảo sấm sét tung tóe vang động nối nhau, rường cột mái hiên cao vợi như sắp đổ. Định tăng trông nhìn xao động, có tiếng chim kêu hoảng cuồng, đánh vật với nhau chẳng yên chỗ. Sư bèn bảo chúng tăng rằng: “Chớ khiếp sợ! Chớ khiếp sợ! Thần và ta đã đính ước”. Đến sáng sớm, trời tạnh thì các cây thông ở Bắc Nham đều đã dời về Đông Lãnh, rậm rạp trồng thành hàng, và Sư bảo với đồ chúng rằng: “Sau khi ta tịch chớ để cho người ngoài biết. Nếu là khẩu thật thì người sẽ lấy làm quái lạ về ta”.

Đến năm Bính Thìn (716) tức niên hiệu Khai Nguyên thứ , Sư dặn dò môn nhân rồi thị tịch như bỏ xác, Sư thọ bảy mươi ba tuổi. Bèn xây tháp thờ tại Đông Lãnh ở Tung Nhạc. Ảnh đường ở phía sau bổn viện, mãi tới niên hiệu Khai Nguyên thứ 12 (72) mới hoàn thành. Huyên Úy Hứa Trù ghi lại đức hạnh của Sư.

3. Truyện ngài Huệ Phù trụ chùa Thiên Trụ ở Tiềm Sơn, thuộc Lô Giang, thời Tiền Đường:

Thích Tuệ Phù, họ Thích, người ở xứ Gia Kỵ, thuộc Việt Châu.

Đến tuổi hai mươi, Sư có dõng khí hơn người, sức lực nhanh nhẹn, không ai sánh bằng. Nhưng Sư nhậm hiệp, nhàm chán ở nhà, bèn đến chùa Hương Nghiêm, tâm tánh mềm mỏng, thuần thục mau biến đổi. Sau khi thọ lãnh giới pháp, Sư luyện hạnh cô tiêu. Hằng đêm thường men theo núi trải cỏ an tọa thiền định bất động. Sư lại nghiên tầm kinh luận. Thấy ở Tiềm Huyện có Hoắc Sơn, là nơi mà ngày xưa Hán Võ từng cúng tế Nam Nhạc ở đó, thật là cảnh đẹp. Trong đó có chùa Thiên Trụ, nơi có thể để lắng thần. Sư bèn đến đó cất am mà ở. Sau đó không lâu, có con rắn lớn đến há miệng phun lửa độc dữ dội. Sư từ từ nói với nó rằng: “Ngươi tìm túc trái, ta có thể ăn nuốt ngươi”. Con rắn bất chợt tẩy thân định ý, như vận nghiệp thông đến. Sư vì nó mà cho thọ giới, trong chốc lát nó mà bò đi, và quả nhiên hóa thành thân người, trở lại cầu xuất gia. Sư lại vì đó mà xuống tóc đắp pháp y cho. Nhận lời dự ký rồi lễ bái từ tạ mà đi. Sau bị cáo Sư riêng độ, phải đầy đủ để thật đối biện. Sư bảo: “Nếu riêng độ mà có tội lỗi, thì xin nhận nghe tội ấy”. Quan lại thấy Sư khác thường nên bèn tha cho. Hễ Sư thấy ai mắc phải các bịnh nạn ung nhọt rôm sẩy máu mủ chảy tràn mà chú nguyện thì liền lành.

Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 18 (730), Sư tự nhiên không bịnh mà thị tịch. Nhìn theo ngọn lửa trà-tỳ thì thấy bộ xương liền nhau.

4. Truyện ngài Tuệ An tại chùa Tây Minh ở Trường An, thời Tiền Đường:

Thích Tuệ An, không rõ Sư là người xứ nào. Vào niên hiệu Thần Long (70 – 707) Sư đến xứ Kinh Triệu, thường có nhiều việc thấy biết trước.

Bấy giờ, Đường Hưu Cảnh đã lập Biên Công, sang trọng hưng thịnh không ai bằng. Sư đến nhà ông ta bảo rằng: “Tướng Công rất tốt đẹp, ắt có điều rất xấu ác, sắp có họa lớn, và chỉ trong vài tháng nữa nhưng cũng có thể chóng trừ. Hưu Cảnh vốn biết Sư có khả năng hơn người, bèn vâng nghe và bái lạy. Sư bảo: “Ta không có thuật gì khác, chỉ hiến cho một kế. Há chẳng phải chú nghĩ quan phẩm có ra từ sự hun đúc, xin chọn một người tài giỏi dùng làm Tào Châu”. Nhân đó chọn được Trương Quân vốn là quan trong kinh. Ngay ngày đó liền lên, cung tán theo thứ lớp giữ gìn Định Đào, sai tìm kiếm hai con chó cao chừng vài thước rất khôn lanh. Trương Quân đến nhậm nhuệ ý tinh cầu, tìm được hai con chó như điều ước muốn đem hiến tặng Hưu Cảnh. Hưu Cảnh rất vui mừng mời Sư đến xem xét. Sư bảo: “Rất tốt!”. Sau đó hơn tuần lễ, Sư trở lại bảo rằng: “Sự cố xảy ra trong đêm nay, xin tướng quân cẩn thận phòng cảnh đầy đủ”. Hưu Cảnh bèn giữ Sư ở lại trong đêm. Đêm đó, Hưu Cảnh ngồi trước hiên nhà, bảo ở chung quanh có đến mấy mươi người, cầm nắm cung tên đứng ở góc cạnh giường. Hưu Cảnh cùng Sư ngồi ở một giường. Đến nửa đêm, Sư mỉm cười bảo rằng: “Họa của Tướng quân đã khỏi, chúng ta có thể yên ngủ”. Hưu Cảnh mừng và cảm tạ Sư, bèn cho mọi người chung quanh cùng đi ngủ. Đến sáng sớm, Sư gọi Hưu Cảnh thức dậy. Hưu Cảnh hỏi Sư: “Vì sao dùng hai con chó ấy?” Bèn tìm theo vết chân nó đi đến trong vườn, thấy môt người nằm chết dưới đất, xem ở cổ thấy có vết máu bởi một vật cắn. Lại thấy hai con chó đang nằm dưới gốc cây lớn, ngửa nhìn lên cây thấy vai một người đang núp, Hưu Cảnh kinh hãi, vặn hỏi, người đó vừa khóc vừa chỉ vào người chết mà nói rằng: “Tôi và người ấy đều là giặc, đêm qua cùng đến muốn hại tướng quốc. Bởi gặp hai con chó này vây quanh sủa rân, người ấy bị nó cắn đã chết. Tôi núp mình dưới đất, lưới trời vây bủa, bị chó ngồi trông giữ. Nay đành chịu muôn tội chết!”. Hưu Cảnh bảo người trói lại và bảo với tên giặc rằng: “Tội này đáng chết, nhưng vì nhà ngươi chẳng có chủ tâm, mà là do ngươi sai”. Rồi bèn phóng thả. Kẻ giặc bái lạy khóc mà đi. Hưu Cảnh bái lạy cảm tạ, thưa Sư rằng: “Nếu không có Sư thì tôi chẳng thể thoát chết bởi tay hai kẻ đó”. Sư bảo: “Đó là phước của Tướng quốc, đâu phải tôi có được thay!”

Lại nữa, biểu đệ của Hưu Cảnh là Lô Chẩn ở tại kinh môn, có vệ sĩ đến báo rằng: Ông sắp có tai họa, phải cầu điềm lành để dứt trừ, may ra mới khỏi được”. Lô Chẩn biết Sư có thuật lạ, đạo hạnh thanh bạch, được mọi người đương thời kính trọng, bèn đưa thư đến nhờ Hữu Cảnh mời thỉnh, Sư liền trao cho một lá thư và bảo: “Mọi sự như trong thư vậy”. Và lúc thư được mang đến Giang Lăng thì Lô Chẩn đã qua đời. Hữu Cảnh càng thêm kính trọng. Sau vài năm qua lại, không biết Sư đi đâu!

5. Truyện ngài An Tỉnh ở Tây Vực, thời Tiền Đường:

Thích An Tĩnh, vốn người Tây Vực. Vào niên hiệu Khai Nguyên thứ 1 (727), Sư chống tích đi về phía Đông đến Định Đào, hỏi thẳng Cư sĩ Định ở đâu? Người trong làng báo với Sư là: “Cư sĩ Định đã qua đời ba năm và an táng tại ngoại ô!” Lại nói với Sư rằng: “Cư sĩ ấy là Bồ-tát tại gia, siêng giữ phạm hạnh, thường đến lễ bái phụng sự thiền sư Phổ Tịch ở Tung Sơn, đã đắc pháp thậm thâm, lúc sắp qua đời, chắp tay ngồi kiết già, an nhiên mà hóa. Chuông khánh trong các chùa viện ở Tạo Thành chẳng đánh mà tự kêu”. Sư đi đến chỗ phần mộ cư sĩ Đinh, đích thân khai quật. Khi đó có khí mây năm mầu phun thẳng lên, Sư bèn thâu nhặt lấy hài cốt đều mầu vàng ròng, nối liền nhau như dây xích, dài chừng năm trượng, có tiếng kêu leng keng rõ ràng. Sư treo ở đầu trượng mà đi, xây riêng một ngôi tháp mà an táng lại. Mọi ngưới đều kinh sợ khen ngợi, trong chốc lát, Sư liếc nhìn rồi diệt độ.

Liên hệ thử bàn:

Di cốt của hữu tình, dẫn nhân cho tới quả, trong thân phàm phu tiết chẳng cùng đến, Bồ-tát Thập Địa cốt tiết giải bàn long tướng kết. Các Đức Phật thì toàn thân xá-lợi. Nay cốt của cư sĩ Đinh có hình móc xích liền nhau, thì vượt phàm phu, chưa là giai vị thứ10, mà đó là thân Bát Tý Na-La-Diên, đầu cốt tiết móc liền nhau. Chứng nghiệm sức lượng của cư sĩ đã đến nước. Thí như cát từ trong vàng ra thì gọi đó là hồn chứ không thể gọi là cát. Đá ngậm ngọc thì gọi đó là phác chứ không thể gọi là đá.

Lại nữa chùa Đại Vân thuộc phủ Thành Đô, có Ngài Từ Quả Sư, sống chung với mọi người, giấu bặt vết tích, người ít lường biết, hoặc nhập Tam-muội chẳng mất luật nghi, hoặc hiện tướng cuồng si, nói đúng lắm việc. Trước làm Vệ Nguyên Tung, là kẻ sĩ khó suy lường, khắp trong đất trời thường luôn có người gọi đó là Từ Quả Sư. Từ là họ, Quả là tên, Sư là gọi chung. Đây cũng là cương luyện luân loại của Ngài Chí Công. Không biết về sau Sư tịch ở đâu.

6. Truyện ngài Như Nhất trụ tại Chung Sơn ở Phước Châu, thời Tiền Đường:

Thích Như Nhất, không rõ Sư người ở xứ nào. Vào cuối niên hiệu Khai Nguyên (72), Sư làm vị Tăng coi về giường tòa. Bỗng nhiên có vị tăng khắp thân mình lở lói, áo quần dơ dáy đi quanh trong chùa, tăng chúng trông thấy ai cũng chán ghét, chỉ mình Sư gài thấy mà xót thương, mời vào trong nhà riêng của thường trụ, chăm sóc qua mùa Hạ. Đến cuối Hạ, vị tăng đó từ tạ ra đi. Sư hỏi vị tăng đó đi về đâu. Đáp rằng: “Trở về trong am”. Sư lại hỏi: “Am ở xứ nào?” Đáp: “Ở phía Đông chùa Đại Thừa”. Sư bảo: “Tôi thường ngày đi ngang đó đâu thấy có am nào”. Vị tăng ấy bảo: “Không tin thì hãy đến đó hỏi xem, hai ngày sau tôi sẽ đến”. Sư bèn đến đó, quả nhiên thấy vị tăng đó đứng ở miệng hang núi có vẻ trông đợi. Nhân đó nắm tay Sư dẫn vào một Tinh xá, lầu gác nguy nga, điện đường xen nhau, chẳng giống như cảnh vật ở nhân gian. Ba ngày sau, vị tăng đó lại đưa Sư xuống núi. Sư quay đầu nhìn lại, thấy đều là núi đá mới biết là chùa Thánh. Do đó Sư càng gắng sức tinh tấn tu trì, nguyện dự vào dòng Thánh.

7. Truyện vị tăng mất tên người Tây Vực, thời Tiền Đường:

Vị tăng mất tên, không rõ Sư người xứ nào ở Ấn Độ. Ngài diện mạo xấu xí, quấn y man điều, mầu sắc càn-đà, chân mang giầy da kéo lê miếng thiếc, hành hóa ở chốn kinh đô.

Bấy giờ, Vi Nam Khương Cao vừa sanh mới chỉ 3 ngày, trong nhà thỉnh chư tăng đến thiết trai cúng dường, Sư là vị tăng không mời mà tự đến. Ngày đó chư tăng đều là những vị trải qua nhiều chùa liền tên được thỉnh mời đến. Đứa gia đồng trong nhà họ Vi rất tức giận Sư, đem chiếc chiếu rách trải giữa sân cho Sư ngồi. Thế rồi cúng dường trai diên xong, trong nhà họ Vi bảo người mẹ ẳm đứa bé ra, trong ý muốn thỉnh chư tăng chú nguyện cho nó. Sư từ chỗ ngồi đứng dậy trước, vén y bước lên thềm cấp nhìn đứa bé và bảo: “Sao cách biệt đã lâu không thấy tăm dạng đâu vậy?” Đứa bé tỏ vẻ vui mừng như có ý nhận biết, chư tăng đều lấy làm lạ. Vi Quân nói rằng: “Đứa con này vừa mới sanh ba ngày, sao thầy ta lại nói cách biệt từ lâu?” Sư bảo: “Đàn việt chẳng thể biết việc nầy!” Vi Quân cố hỏi, Sư bảo: “Đứa bé này là thân sau của Gia Cát Lượng. Ở thời Võ Hầu Đảnh Quốc làm Thục Thừa Tướng Quân là chỗ quen biết với tôi. Duyên người xứ Thục được sự ban tặng đã lâu, nay giáng sanh ở đời, sẽ làm Thục Soái, hẳn là Phước của người xứ Khôn Duy. Tôi sang ở Kiếm Môn là bạn lành với đứa bé này, đã biết nó sanh ở nhà ông, tôi chẳng ngại xa xôi mà đến. Đứa bé này sẽ làm Kiếm Nam Tiết Độ Sứ hai mươi năm, quan vị cực tôn quý là Trung Thư Lịnh Thái Úy. Ngoài ra chẳng phải là điều tôi biết”. Cha đứa bé (Vi Nam Khương Cao) im lặng. Nhân đó, lấy chữ Võ Tử làm tên tự, lại gọi tắt là Võ. Trương Dật ra làm Tiết Độ Lũng Châu ở Phụng Tường, tấu trình Vi Nam Khương Cao quyền coi về Lũng Châu. Đến lúc Trương Dật bị Lý Sở Lâm giết chết, Ngưu Vân Quang mời Vi Cao làm soái. Chu Thử bất đắc dĩ dùng Vi Cao làm Phụng Tường Soái vua Đức Tông đặt Phụng Nghĩa Quân Tiết để biểu dương. Lại tiếp tục thêm chức Lễ Bộ Thượng Thư. Vào niên hiệu Hưng Nguyên (78 – 78) bèn xa giá trở về kinh đô, bày làm Tả Kim Ngô Vệ Tướng Quân. Đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ nhứt (78) là Thành Đô Duẫn đại Trương Diên Thường, đến nhậm Hòa Nam Man đều thành đạt chiến công, phong làm Nam Khương Quận Vương. Đến lúc vua Thuận Tông lên ngôi (80) lại tiến lên làm Thái Úy. Vi Cao nhậm chức tại Nam Khương suốt hai mươi mốt năm. Cuối cùng rất kính sùng Phật giáo, thường lần chuỗi niệm danh hiệu Phật. Vi Cao có nuôi một con chim oanh võ dạy nó tụng kinh, đến khi nó chết, thiêu có xá-lợi. Vi Cao lại rất hướng tâm đến Thiền Đạo Nam Tông, học tâm pháp với Thiền sư Thần Hội ở chùa Tịnh Chúng. Tại xứ Thục, Phú quý ngầm sai Trọng phú liễm. Bấy giờ bàn luận cho rằng chẳng đúng, nhưng hợp với sự huyền ký của Sư.

8. Truyện ngài Bão Ngọc ở Kinh Triệu thời Tiền Đường:

Thích Bảo Ngọc, có hạnh nghiệp cao lạ, ít tiếp việc người, thường lúc nói việc tương lai như chính mắt thấy. Thấy Ngài Thích Đại Quang bèn răn dạy rằng: “Ông tụng kinh nên xướng cao pháp âm, thấu đến các vị trời lắng nghe, sẽ được các thần ủng hộ”. Sau đều phù hợp với những điều Sư đã nói. Khắp Kinh ấp quy hướng kính tin có đến ngàn vị.

Hằng đêm, Sư ở một mình trong thất, đóng của tắt đèn. Từng có vị tăng ở ngoài lổ hổng nhìn vào xem Sư làm gì, thấy trong miệng Sư tuôn ra áng mây lành, hoa nhiều mầu dễ thương. Sau, năm Sư khoảng chín mươi tuổi thì thị tịch. Lúc Sư thị tịch, trời rất nắng nóng mà nhục thân Sư chẳng hề bị hư hoại. Tể Thần đệ ngũ Kỳ và Sư là bạn thân. Khi Sư tịch, kỳ đến dự lễ tang rất buồn thương. Kỳ đem hương nhũ rót vào miệng Sư, theo đó có ánh sáng tốt lành phát ra soi chiếu khắp bốn phía. Kỳ càng lấy làm lạ. Tháng 10 niên hiệu Càn Nguyên thứ 2 (79) Kỳ bị giáng chức làm Thứ Sử Trung Châu. Đến đầu niên hiệu Bảo Ứng (762) vào làm tân khách cho Thái Tử. Đến Kinh Duẫn, Sư đều đã nói trước, mọi sự vinh quý và không yên ổn đều như Sư nói, nên Kỳ khắc ý quy tín.

9. Truyện ngài A Túc Sư ở Văn Hương thuộc Quắc Châu, thời Tiền Đường:

Thích A Túc Sư, chẳng rõ Sư xuất xứ từ đâu, hình chất si độn, dơ bẩn, tinh thần mịt mờ. Nhưng lúc Sư có nói gì thảy đều như đã biết trước. Tuy Sư ở không nơi nhất định nhưng thường ngụ ở Vân Hương. Vì Sư quanh quẩn ngài Pháp Vân Công, tới lui qua lại, tranh đường lễ yết. Đàn thí cúng dường các vật chất như núi mà Sư chẳng đoái hoài. Người nào mắc phải nổi buồn lo ẩn uất, thân bị các điều đau khổ mà được Sư chỉ bảo thì ứng nghiệm nhanh chóng như thần.

Bấy giờ, tại Thiểm Châu có gia đình giàu có tên là Trương Trăn. Sản nghiệp rất nhiều, của cải tràn đầy. Có được đứa con lại chết mất từ tuổi thiếu niên. Trương Trăn luôn lo sợ tất cả tiền của sau khi qua đời không người trông coi! Sau đó, lại sanh được một đứa con trai, đã ngu lại đần độn, tay chân co quắp, nói năng ngọng ngịu. Chỉ ham thích ăn uống. So với người thường thì có khác, miệng như hang khe suốt ngày ăn chẳng chán. Năm mười bảy tuổi, cha mẹ tiếp nối mến thương cung cấp mọi thứ đòi cần, tìm cầu thầy thuốc xa cả ngàn dặm, mấy mươi năm sau, gia sản sắp khốn cùng. Có người thấy vậy bảo với Trương Trăn rằng: “A Túc Sư là di lưu của Ngài Bảo Chí, sao chẳng bày trải tâm can cầu Sư cứu giúp bệnh tật ấy?” Khi đó cả hai vợ chồng đi đến Vân Hương, cúi đầu rơi lệ tỏ bày cầu Sư cứu giúp. Sư nhắm mắt giây lâu rồi bảo với Trương Trăn rằng: “Oan trái nhà ngươi chưa tan, còn phải trải qua vài năm nữa. Ta thương xót nhà ngươi tha thiết nên trừ diệt cho!” Sư gài liền bảo chọn ngày, đến bên bờ sông thiết trai, thỉnh mời đông chúng tăng. Mọi người đồng đến xem Sư độ thoát, bèn dẫn đứa con trai ấy đến chỗ đạo tràng. Bấy giờ, cả chúng đều biết Sư có lắm điều kỳ dị nên đến xem rất đông. Trong chốc lát, Sư kêu gọi vài người rất khỏe mạnh, quát mắng kéo đứa con trai ấy ném xuống sông cho dòng nước cuốn trôi mà chết. Trương Trăn vừa buồn thương, vừa kinh sợ, chẳng lường biết nguyên do thế nào. Sư bèn nói với Trương Trăn rằng: “Ta đã trừ tai họa cho ngươi xong”. Giây lâu, đứa con trai đó nổi mình trên mặt nước cách bờ sông vài mươi bộ, quơ tay xỉ mắng cha mẹ nó (vợ chồng Trương Trăn) rằng: “Ta và nhà ngươi có oán cừu, duyên nghiệp đời trước. May nhờ gặp được Thánh giả giải phân. Nếu chẳng như thế thì kỳ hạn chưa đến ngày dứt”. Nó trồi thân hô cao, từ lý rõ ràng, không có tướng trạng si trược. Bỗng chốc chìm trong nước, chẳng biết gì khác nữa. Từ đó, rao truyền về Sư, mọi người quy hướng kính tín đông như đến chợ. Sư hành hóa dẫn đạo phần nhiều đều như thế. Lúc đó là khoảng thời gian từ niên hiệu Đại Lịch (766 – 780) đến niên hiệu Kiến Trung (780 – 78). Đến năm Bính Tý (796) tức niên hiệu Trinh Nguyên thứ 12, vua Đức Tông sắc phong tặng Sư thụy hiệu là Đại Viên Thiền Sư. Đến nay, tại xứ Thiểm Châu, Quắc Châu vẫn còn sùng kính Sư.

10. Truyện ngài Can ở núi Thiên Thai thời Tiền Đường:

Thích Phong Can, vốn trụ chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai. Cắt tóc ngang mày, mặc áo vải lông cừu che thân, Sư cao hơn bảy thước. Nếu có ai muốn hỏi điều gì, Sư chỉ trả lời bằng hai chữ “tùy thời” mà thôi, chứ không nói gì khác. Sư riêng thích việc giã gạo, làm việc nặng nhọc đồng với Thành Đán, ứng phó việc nấu nướng. Sư từng cưỡi hổ đi thẳng vào cửa thông, chúng tăng thấy mà kinh sợ. Miệng Sư luôn nghêu ngao đạo ca, bấy giờ chúng mới đều tôn sùng kính trọng. Sau khi Sư thị tịch, vào niên hiệu Tiên Thiên (712 – 713) thì Sư hành hóa tại kinh Triệu, chẳng thường điều như người thường. Các hàng sĩ thứ trông thấy Sư không ai chẳng nghiêng mình kính lễ, Ngài nối tiếp sau gót chân của Đại Sư Vạn Hồi, những điều nhiệm mầu cũng tương tự nhưng tướng phong cuồng thì quá hơn. Sư nói năng có nhiều điều đúng.

Vốn ở trong tăng trù chùa Quốc Thanh có hai vị tu khổ hạnh đó là Hàn Sơn Tử và Thập Đắc. Phần nhiều hai vị đó ở tại nhà trù chăm lo việc nấu nướng. Nấu nướng xong, hai vị gặp nhau nói chuyện. Có người lắng nghe nhưng thường chẳng hiểu họ nói chuyện gì. Và cũng rất điên cuồng, trác hợp tương thân, bởi đồng loại tương cầu. Bấy giờ, có Lư Khâu Dận ra trông coi Đan Khâu, sắp bàn luận khăn xe, khổ nỗi đầu rất đau nhức, các thầy thuốc chữa trị đều không hiệu nghiệm. Bỗng nhiên gặp Sư đến bèn nói rằng: “Tôi từ núi Thiên Thai đến yết kiến sứ quân”. Lư Khâu Dận đem chứng bịnh thưa với Sư, Sư bảo: “Sứ quân sao lo vậy”. Ngài bèn tìm cái bình sạch rót nước vào mà phun vào đầu, chỉ trong khoảnh khắc, cảm thấy trong thân thể khỏe mạnh. Lư Khâu Dận lấy làm lạ, bèn xin Sư nói cho một lời để định sự tốt xấu của hạnh ấy. Sư bảo: “Đến nhậm chức nhớ tới lễ yết ngài Văn-thù”. Lư Khâu Dận thưa rằng: “Bồ-tát Văn-thù hiện ở đâu?” Sư bảo: “Đó là người đang lo việc nấu nướng chùi rửa các vật ở nhà trù chùa Quốc Thanh!”. Đến lúc vào chùa ở núi, Lư Khâu Dận hỏi chư tăng ở đó: “Ở chùa này có Thiền Sư Phong Can chăng?” Đáp: “Có!”. Lư Khâu Dận lại hỏi: “Vậy phòng viện của Ngài ở đâu? Và Hàn Sơn và Thập Đắc là người thế nào?” Khi đó, Sa-môn Đạo Kiều đáp rằng: “Phòng viện cũ của Ngài Phong Can ở phía sau kinh tạng, nay để trống không người, chỉ có loài hổ báo thường hay lui tới sản sanh bú mớm. Còn Hàn Sơn và Thập Đắc, hai người đó hiện phục dịch trong nhà trù. Lư Khâu Dận vào phòng Sư, chỉ thấy dấu vết tung hoành của hổ báo. Lại hỏi rằng: “Ngài Phong Can ở đây chuyên làm việc gì?” Đáp: “Ngài chỉ chuyên việc giã gạo, cúng dường cháo cho chư tăng. Đêm đến thì xướng ca phúng tụng chẳng thôi”. Lư Khâu Dận đôi ba phen khen ngợi rồi mới vào nhà trù, thấy có hai người đang chụm củi, có dáng vẻ như đang vây quanh lò. Lư Khâu Dận bèn vái chào, hai người luôn miệng quát tháo. Sau đó, nắm lấy tay Khâu Dận mà đùa giỡn như trẻ thơ, cười ha hả không thôi. Vừa đi vừa nói: “Phong Can lắm lời”. Từ đó, hai người cùng dẫn tay nhau đi ra cửa thông, không trở lại chùa nữa.

Sư lại thường đến Ngũ Đài lễ bái, gặp một Ông lão, Sư hỏi: “Có phải là Văn-thù chăng?” Ông lão bảo: “Chẳng lẽ có hai Văn-thù!” Sư liền đảnh lễ Ông lão, chưa ngẩng đầu lên thì ông lão đã biến mất dạng.

Kế nữa, có Ngài Mộc Cống, thường hay vào trong xóm làng chợ búa, cũng giống như Ngài Phong Can. Mọi người chẳng dám xem thường, hai chữ Phong Phong vào ra khác nhau: Vi Thuật sử quan là Phong của Phong cương, Lư Khâu Dận tự Tam Hiền làm Phong của Phong Nẫm, chưa biết là ai đúng.

Kế nữa, có Ngài Hàn Sơn Tử, người đời gọi Sư là Bần tử, là kẻ sĩ phong cuồng, chẳng thể suy lường. Sư ẩn cư cách bảy mươi dặm về phía Tây Huyện Thỉ Phong núi Thiên Thai, gọi đó là Hàn Ám Nhị Nham (Hai ngọn núi lạnh tối), Sư thường ở trong hang núi tối lạnh chuyên thực hành định chỉ. Bấy giờ, tại chùa Quốc Thanh có ngài Thập Đắc, chư tăng trong chùa cắt cử coi về công việc ở trai đường. Ngài Thập Đắc thường thâu nhặt các vật ăn thừa của chúng tăng cất dấu trong ống tre lớn, khi nào Ngài (Hàn Sơn) đến, thì lấy mang đi. Hoặc có lúc Ngài đi chậm rãi dưới hành lang, có lúc kêu réo làm ồn mọi người, có lúc ngửa mặt giữa trời mà mắng chửi. Chư tăng trong chùa có người không chịu nổi thì dùng gậy xua đuổi, Ngài bèn xoay mình vỗ tay cười ha hả rồi chạy đi. Ngài thường mặc áo cánh vải bố xục xịch, dáng mặt khô gầy, lấy vỏ cây hoa làm mũ, chân kéo lê đôi guốc gỗ lớn. Hoặc có lúc Ngài phát ngôn hiền hòa mềm mỏng, có chỗ kết quy, đó là quy về Phật lý.

Ban đầu, có Lư Khâu Dận vào chùa hỏi về Ngài (Hàn Sơn), khi đó, Sa-môn Đạo Kiều trả lời rằng: “Ông ấy là người mắc bịnh điên, vốn ở Hàn Nham, ưa thích ngâm ca từ kệ, nói năng bất thường, hoặc che giấu, rốt cuộc chẳng thể biết. Ông ấy cùng hành giả Thập Đắc ở chùa này là bạn rất thân, thường luôn dụm đầu trò chuyện, chẳng biết nói gì”. Chư tăng thấy Thái Thú (Khâu Dận) bái lạy hai ngài, liền kinh hãi hỏi rằng: “Đại quan sao lại lễ bái gã điên cuồng ấy ư?” Hai Ngài (Hàn Sơn và Thập Đắc) nắm tay nhau cười ngạo nghễ đi ra khỏi chùa. Lư Khâu Dận lại sang Hàn Nham lễ yết, thưa hỏi và dâng y phục, thuốc thang mọi vật, mà Ngài lại lớn tiếng hô rằng: “Giặc đến ta, giặc lui đi!”. Bèn lùi thân vào hang đá bít lại ở trong. Ngài lại bảo: “Bảo cùng các ông mỗi người hãy tự cố gắng”. Hang đá bít lại liền khớp không dấu vết gì. Lư Khâu Dận mới nói Sa-môn Đạo Kiều tìm lại di vật của Ngài, chỉ thấy ở rừng khâu lá viết thơ tụng và trên vách tường nhà người ở trong xóm sao lục được hơn hai trăm bài, nay biên thành một tập, có nhiều người phúng tụng. Sau, Thiền sư Tào Sơn Bản Tịch có chú giải, gọi đó là Hàn Sơn Tử Thơ. Vì Ngài vốn không có họ, dân chúng xứ Việt chỉ gọi là Hàn Sơn Tử, cho đến có câu “mé sân làm sao có. Mây trắng ôm u thạch”. Mềm mại rõ ràng. Nay ở dưới núi có Đình Đá. Đình mà Đứng, gọi đó là U Thạch.

Kế nữa, có Ngài Thập Đắc. Vốn trước kia Thiền sư Phong Can ngụ ở núi, đi đến Xích Thành, đang trên đường bỗng nghe có tiếng trẻ nhỏ khóc, bèn tìm thấy đứa bé mới vài tuổi. Ban đầu, Ngài Phong Can cho đó là đứa trẻ chăn trâu, Sư an ủi vỗ về hỏi, đứa bé mới đứng gục đầu nói:”Không nhà cửa, mồ côi bị vất bỏ ở đây!” Ngài Phong Can mới dẫn đến chùa Quốc Thanh giao cho vị tăng Điển tọa, nếu có ai đến nhận thì trả lại. Sau, Sa-môn Linh Tập nhận nuôi (tức Ngài Thập Đắc), bảo trông coi việc hương đèn ở trai đường.

Bỗng một hôm, thấy Ngài leo lên tòa, ngồi đối mặt với tôn tượng mà ăn, lại gọi Tôn giả Kiều-trần-như là Tiểu quả Thanh văn, bên cạnh như không người, cầm đũa cười lớn. Chúng tăng bèn ới quở trách xua đuổi Ngài. Ngài Linh Tập đem việc ấy hỏi các vị tôn túc v.v… đều bảo cho Ngài thôi giữ việc trai đường mà bảo vào nhà trù lo chùi rửa các vật. Khi tẩy rửa xong, Ngài lắng gạn thức ăn thừa để đầy trong ống tre, khi nào Ngài Hàn Sơn đến sẽ mang đi. Lại nữa, tại miếu thần hộ vệ già-lam, chư tăng trong nhà trù thường ngày đưa các vật thực ra cúng, bị chim quạ mổ ăn rơi vãi, Ngài dùng gậy đánh vào tượng đất mấy cái mà mắng rằng: “Thức ăn của ông còn chẳng giữ gìn được vậy làm sao che chở, giữ gìn già-lam ư?” Đêm đó, thần gá mộng nói với chư tăng trong chùa là: “Thập Đắc đánh tôi”. Sáng hôm sau, chư tăng kể lại chuyện trong mộng đều như nhau, cả chùa lộn xộn mới biết Ngài chẳng phải là người thường. Bấy giờ, ở dưới phù hiệu châu, huyện, quận ghi là: “Hiền sĩ ẩn lánh, Bồ-tát ứng thân”. Nên dùng đó mà biểu dương, gọi Thập Đặc là Hiền sĩ.

Lại nữa, lúc Ngài chăn giữ trâu ở trang trại của chùa, ca vịnh gọi trời, đang lúc chúng tăng trong chùa bố-tát, Ngài vì trâu đến trước giảng đường nơi chúng tăng nhóm họp, rồi đứng tựa cửa vỗ tay cười lớn bảo rằng: “Dằng dặc kẻ dụm đầu”. Khi dó, vị Thủ tọa trì luật quát mắng Ngài rằng: “Gã phong cuồng sao ồn ào làm chướng ngại sự thuyết giới vậy?” Ngài nói: “Tôi đâu có phóng thả trâu. Đàn trâu nầy phần nhiều là người đã từng làm tri sự tăng trong chùa”. Ngài bèn lần lượt xưng gọi pháp hiệu của chư tăng đã tịch, trong đàn trâu mỗi con tự ứng theo gọi tên mà đi qua. Cả chúng đều trố mắt kinh ngạc, đều suy nghĩ sửa đổi tu trì, cảm đức Bồ-tát rũ vết độ thoát. Lúc Sa-môn Đạo Kiều ghi chép văn cú của Ngài Hàn Sơn, ở trên vách tường miếu thần Thổ Địa của chùa thấy có kệ từ của Ngài, bèn ghi phụ trong tập của Ngài Hàn Sơn.

Liên hệ thử bàn:

Căn cứ vào việc Ngài Phong Can vân du chốn kinh thất vào niên hiệu Tiên Thiên (712 – 713) thì biết các vị Lư Khâu Dận, Hàn Sơn Tử và Thập Đắc là người sống trong triều đại vua Duệ Tông (710 – 712). Vậy cớ sao trong Cao Tăng Truyện, ngài Đạo Tuyên có Lư Khâu Dận là Võ Thần, là người sống vào đầu đời Đường (618 -?). Trong lời tựa, Lư Khâu ghi ba người không nói về niên đại, khiến mọi người mờ mịt. Lại Tứ Phi là văn tư. Như vậy là có hai người cùng trùng tên họ là Lư Khâu. Lại nữa, Đại Sư Linh Hựu ở núi Đại Quy sống vào thời vua Hiến Tông, gặp được Hàn Sơn Tử chỉ cho Lặc Đầm, bèn gặp được Ngài Thập Đắc ở chùa Quốc Thanh. Như vậy, rõ biết ba người đến cuối đời Đường vẫn còn. Phàm, Ngài Phong Can trầm ẩn nơi Thiên Thai mà xuất hiện ở Kinh Triệu. Ngài Thập Đắc sống vào niên hiệu Tiên Thiên (712 – 713) mà đến niên hiệu Nguyên Hòa (806 – 821) còn gặp là tuổi thọ lâu dài ư, hay là ẩn hiện bất thường ư? Trong dịch tượng có việc ấy. Tiểu Hồ Ngật Tế, nghĩa là như thế.

11. Truyện ngài Vô Tướng trụ chùa Tịnh Chúng ở Thành Đô, thời Tiền Đường:

Thích Vô Tướng, vốn người nước Tân-la, là con thứ ba của vua nước đó. Sư sanh vào tháng chánh sóc niên, xuống tóc xuất gia đăng đàn thọ giới tại chùa Quần Nam.

Vào niên hiệu Khai Nguyên thứ 16 (728), Sư theo đường biển đến Trung Hoa, vào chốn kinh đô. Vua Huyền Tông mời Sư vào diện kiến rồi phối thuộc danh ở chùa Thiền Định. Sau, Sư đến Thục Tư, bái yết Luật Sư Trí Tiên, ở đó có ngài Xử Tịch là bậc dị nhân. Vũ Hậu (Tắc Thiên) đã từng mời Sư vào cung ban tặng Pháp y ma nạp chín điều. Sư dự biết mọi việc không gì chẳng đúng. Trước lúc Sư chưa đến, ngài Xử Tịch nói rằng: “Có khách ở ngoài, ngày mai sẽ đến, các ông hãy lo quét tước để đón rước”. Cách một ngày sau quả nhiên Sư đến. Ngài Xử Tịch gọi ban cho Sư hiệu là Vô Tướng. Vào nửa đêm trao truyền cho Sư pháp y ma nạp.

Thế rồi, Ngài vào trong khe hang dưới núi sâu ngồi thiền. Có con trâu nghé mầu đen, hai sừng giao nhau lẫn lộn dưới tòa, gần thân rất gấp, lông tay rơi vào trong tay áo. Nó lạnh như băng, sờ mó đến bụng, Sư rất bình thản chẳng lay động. Mỗi lần Sư nhập định, kỳ hạn là năm ngày. Bỗng nhiên trong tuyết sâu có hai con thú dữ đi đến, Sư tự tẩy rửa đến khỏa mình trước nó, nguyện đem thân thí cho nó ăn. Hai con thú dữ chỉ ngửi quanh từ đầu đến chân thân Sư rồi bỏ đi. Thường vào ban đêm dưới sàng tòa quắp lấy râu của hổ. Thế rồi, Sư sống ở núi rừng hơi lâu, y phục rách rưới, râu tóc dài ra. Có người thợ săn thấy, nghi là thú lạ, định bắn lại thôi. Sau, Sư lại vào trong thành chợ, ban ngày thì ở nhà người, đêm đến ngồi dưới gốc cây thực hành hạnh Đầu-đà, mọi người thấy đều quý trọng, cất tinh xá ở trước loạn mộ để Sư trụ. Trưởng Sứ Chương Cừu Kiêm Quỳnh đến lễ yết. Gặp lúc Minh Hoàng lánh nạn đến đất Thục, đón rước Sư vào Nội Điện cúng dường kính lễ.

Bấy giờ, Thành Đô Huyện Lệnh Dương Dực nghi Sư là yêu hoặc mới trình thiếp đuổi đi, sai bảo đồ lính hơn hai mươi người đến lôi kéo Sư. Đồ lính đến gần thân Sư, ai ai cũng run sợ, tâm thần đều mất. Trong chốc lát, gió đến nỗi cát đá bay tán loạn vào thẳng nơi quan sảnh tung rèm quấn màn Dương Dực cúi đầu bái phục, thở gằn chẳng nói gì. Sám hối xong thì gió ngừng thổi, rồi đón rước Sư về chỗ cũ. Do đó, bèn khuyên đàn việt xây dựng các chùa: Tịnh Chúng, Đại Từ, Bồ-đề, Ninh Quốc và các lan-nhã chuông tháp ngoài đô ấp nhiều vô số kể. Ban đầu, Sư trú tại viện ở chùa Tịnh Chúng, sau gọi là Tùng Khê.

Khi Sư đến thành đô, bỗng có một lực sĩ đến xin xả bỏ công sức chặt củi cúng dường chư tăng nấu nướng trong nhà trù. Sư có người em vừa mới lên ngôi ở tại bổn quốc, lo sợ Sư trở về đoạt ngôi vị, bèn sai thích khách đến giết hại Sư, Sư đã thầm biết như thế. Bỗng một hôm, vị hiền giả cúng dường củi đến nói với Sư rằng: “Đêm nay có khách, nên bảo đốt sáng”. Sư lại bảo: “Chớ làm thương tổn Phật tử”. Đêm đến, người cúng củi nắm dao xốc chiếu ngồi bên cạnh thiền tòa của Sư. Bỗng nhiên nhìn lên trên vách tường dường như có vật gì đang xuống, liền nhảy bổ dậy dùng dao phang một nhát, con hổ lớn thân đầu đứt lìa nơi dưới đất. Phía sau cửa vốn có một hố lớn, liền kéo tới đó vùi chôn, lại lấy đất bụi bôi thoa hết dấu vết mà đi. Sáng hôm sau, Sư bảo người tìm mời người chặt củi đến tạ ơn nhưng không thấy.

Sư từng chỉ ngồi bảo tháp và cây bách phía trước mà bảo rằng: “Cây ấy và tháp ngang chùa sẽ bị phá hủy!” Đến lúc pháp nạn Hội Xương thì cây ấy và tháp đều bị phá hủy. Sư lại bảo: “Ở trước chùa có hai cái ao nhỏ, ao bên trái là canh, ao bên phải là cơm, lúc ít trai chủ cúng thí thì bảo đãi gạo qua đó”. Quả nhiên có người đến thiết cúng. Sư có lắm điều thần dị đại loại như thế.

Đến ngày 19 tháng Năm niên hiệu Chí Đức thứ nhất (76), Sư không bịnh mà thị tịch, thọ bảy mươi bảy tuổi. Lúc sắp tịch, có người hỏi Sư: “Ai là người có thể tiếp nối trú trì ở chùa đó?” Sư bảo đưa giấy bút và viết chữ trăm số, đều ẩn chẳng thể biết. Hài mà hiệp vận. Sư dự ghi mọi việc trong thời gian tám, chín mươi năm. Xem xét lại không gì sai lạc.

Trước kia, lúc vua Võ Tông phế bỏ Phật giáo, khắp thành đô chỉ giữ lại chùa Đại Từ. Còn chùa Tịnh Chúng cũng cùng chung số phận bị phá hủy. Ở chùa Tịnh Chúng có Đại Hồng Chung rất lớn bèn dời đến chùa Đại Từ.

Đến lúc vua Tuyên Tông trùng hưng Phật giáo thì Đại Hồng Chung đó trở về chùa Tịnh Chúng. Chuông đó đã lớn lại cách sông, nên tính ra công sức phải mất hai ngày mới đi đến. Lúc sớm mai vừa muốn thiết trai để đi đón rước, lúc ấy là giờ Thìn mà sang giờ Tỵ là đã đến. Thế lực đưa đẩy thẳng như bay, đều lấy làm quái lạ sự nhanh chóng ấy chẳng phải sức người mà có được. Vốn Xá-lợi của Sư phân đắp họa chân tượng. Ngày đó ở mặt đều rịn đổ mồ hôi. Đệ tử tài giỏi của Sư là Lý Tăng dùng khăn lau, có dính vào tay, mồ hôi ấy rất mặn, mới biết thần lực của Sư tự kéo chuông. Biến dị như thế, thật kỳ vĩ thay! Sau, tháp Sư đề hiệu là “Đông Hải Đại Sư Tháp”. Đến niên hiệu Càn Nguyên thứ 3 (760) Thứ Sử Tư Châu Hàn Hoành soạn văn bia. Vào niên hiệu Khai Thành (836 – 81), Lý Thương Ẩn làm nhà bia”Tử Châu Tứ Chứng” tôn phong Sư là Đệ Nhất Chứng.

12. Truyện ngài Hoài Tín trụ chùa Tháp Tây Linh ở Dương Châu thời Tiền Đường:

Thích Hoài Tín, ở tại Quảng Lăng, không có kỳ tích riêng, năm Quý Hợi (83) tức niên hiệu Hội Xương thứ 3, vua Võ Tông vì Triệu Quy Chấn phá hủy Phật giáo, lúc sắp phá hủy giáo pháp, thì có Hoài Nam Từ Khách Lưu Ẩn Chi đến Tứ Minh, giữa đêm nằm mộng thấy như đang trôi nổi giữa biển, ngoảnh đầu nhìn thấy một ngôi tháp đang tiến về hướng Đông. Nhìn kỹ đó là tháp chùa Tây Minh ở Hoài Nam. Tháp đó chế độ cao vót, so với tháp của Hồ Thái Hậu Vĩnh Ninh thì nhỏ hơn. Tại tầng thứ ba của Tháp thấy Sư tựa lan can cùng Ẩn Chi giao đàm. Sư bảo: “Tạm đưa tháp qua Đông Hải, trong chừng tuần lễ thì hoàn trả lại”. Vài ngày sau Lư Ẩn Chi trở về Dương Châu liền đến tham yết Sư, Sư hỏi rằng: “Có nhớ được lúc cùng gặp trên biển chăng?” Lưu Ẩn Chi bỗng nhiên tỉnh ngộ. Sau đó vài ngày, lửa trời thiêu đốt tháp cháy hết, có mưa mầu trắng tưới mát, bên cạnh có thảo đường không hề tổn hại gì. Do đó mà xem xét người ở Đông Hải thấy được tháp Vĩnh Ninh, chẳng phải xai lầm.

Liên hệ thử bàn:

Tháp bị thiêu đốt, đều nói là dời sang Đông Hải, biển há bị đốt cháy ư? Thông đáp: Ngũ hành là vật, cũng là tánh của bảy đại, có thể chẳng cùng khắp pháp giới ư? Thuận thì cùng sanh, nghịch thì cùng hại. Tuy nghịch thuận mỗi thứ khác nhau, nhưng cùng đồng với pháp giới, ngằn mé chứng biết đó chỉ có thức. Vả lại, trời tiên quỷ vật cùng với người có sự khác nhau. Các trời tốt đẹp thì định quả cung điện. Thần tiên thì gá vật biến hóa, quỷ thần thì hưởng dòng thực khí chất ngại, lửa hóa thì được thọ dụng. Phàm tháp chùa trang nghiêm rực rỡ phần nhiều bị quỷ thần lấy, biển như sông hầu cũng là phi nhân. Như lửa trời thiêu đốt điện của Trần Trọng Vân, khi ấy người ở Đông Hải thấy ảnh điện. Lại ở gần Mã thị Phách ở Hồ Nam, cuối niên hiệu Thiên Sách thì gác bị lửa trời thiêu đốt, đêm đó ở Lãng Châu nghe giữa hư không có tiếng la quát rằng: “Lánh hồi Thiên Sách Các đến”. Từ trong mây vọt thẳng như ngàn muôn người khiêng vát vật nặng, nhưng nhiều ngày lửa mới đến Đàm Châu. Nếu Ngài Hoài Tín thấy Lưu Ẩn Chi nằm mộng, thì Sư cũng là vị tăng chẳng thể lường.

13. Truyện ngài Tân Thất Sư ở Thiễm Phủ, thời Tiền Đường:

Thích Tân Thất Sư, không rõ hiệu xuất gia của Sư. Bấy giờ, dòng họ theo hàng lớp mà xưng gọi, người ở Ký Thục, lại không có vời thể riêng. Thật ra Sư là người Thiễm Quận.

Ban đầu, thuở Sư còn nhỏ chăm chú lắng nghe rất nghiêm túc cẩn trọng, không hề khinh thường. Tuy bé thơ mà đã có tướng lão thành. Cha ca Sư làm Thiễm Quận thú, thấy hành vi của Sư mà nói với mẹ Sư rằng: “Đứa con này chẳng như trẻ nhỏ bình thường, hãy khéo nuôi dưỡng nó”. Năm lên mười tuổi, Sư đã biết Phật pháp rất đáng kính chuộng. Đối với Kinh quyển tự nhiên Sư phân rành đó là Hoa ngữ, đó là Phạn văn, đều chẳng nhờ Thầy chỉ dạy. Và Sư pha trà rất đậm, tuy thân thuộc khuyên cố gắng, Sư càng xài hủy. Trước kia ở phía Nam Quận Thành có bảy lò nung ngói gạch. Một hôm, sau khoảnh khắc khóc gào, Sư phát cuồng bỏ trốn đi. Bọn trẻ nhỏ trong nhà men theo vết chân mà tìm đến, thấy Sư vào trong một cái lò mà ngồi thẳng, thân có ánh sáng lạ phát ra như sắc vàng, các trẻ nhỏ kinh hãi đến hỏi mà Sư chẳng nói gì. Chúng lại càng sợ mà chạy ra chỗ khác, đến một lò khác, lại thấy Sư trong tướng trạng như trước. Cứ như thế trải qua bảy lò, mỗi mỗi đều thấy Sư ngồi thẳng thân phát ánh sáng. Do đó, những người ở đất thiểm càng phục Sư như thần, hễ gặp thì liền lễ bái.

14. Truyện ngài Hòa Hòa trụ chùa Đại An Quốc ở Kinh đô thời Tiền Đường:

Thích Hòa Hòa, không rõ Sư họ gì và quê quán ỏ đâu. Ngài là vị tăng cuồng mà chẳng loạn, ngu mà có biết. Chẳng lường được nguyên do Sư. Sư mở lời thì có nhiều việc đúng. Người thời bấy giờ gọi Sư là Thánh. Sư trụ tại chùa An Quốc, vào ra chẳng buộc ràng, thấy trong chùa đang sửa chữa điện các chưa hoàn thành. Có Việt Quốc Công Chúa và Giáng Vinh Dương Trịnh Vạn Quân tuy cầm sắt hài hòa đã vài năm mà không có con. Nhân đó Sư đến chỗ công chúa, Vạn Quân đang đốt hương quét tước mà đón đợi Sư. Công chúa quỳ lạy quy hướng. Vạn Quân cầu nguyện khẩn báo với Sư rằng: “Tôi tự tham chọn muốn sanh được một đứa con để nối dõi, chỉ Sư có thể làm việc đó?” Sư bảo: “Dễ thôi! Chỉ đưa cho ta ba ngàn xấp lụa, Công chúa sẽ sanh hai người con trai!” Vạn Quân ân cần kính trọng như nghe lời Phật nói, bèn cúng thí số lụa như chỗ Sư cần. Sư lấy đó đem giao lo việc tu sửa điện các ở chùa, và hồi hướng công đức cho thí chủ. Sư mới bảo rằng: “Công chúa có mang, ta khiến hai người trời xuống làm con của Công chúa, chỉ có điều lo là Công chúa không thể cùng mang thai hai đứa con trong một. Ta giúp cho chúng nó đồng năm mà sanh có trước sau”. Quả nhiên như lời Sư nói. Đầu năm sanh một đứa và cuối năm sanh một đứa. Đứa lớn tên Tiềm Diệu, đứa nhỏ tên Hối Minh đều xinh đẹp có tướng trượng phu, sau thành việc rộng khắp. Khắp trong kinh ấp truyền dương phất vị, lường về địa vị của Sư chẳng thể khinh bàn.

15. Truyện ngài Lăng Đại Sư Thích Quảng trụ chùa Hiếu Cảm ở Dương Châu thời Tiền Đường:

Thích Quảng Lăng Đại Sư, người xứ Duy Dương, không biết rõ Pháp danh. Vào thời Ngài Hoài Hải, người ta đua nhau xưng gọi Sư là Quảng Lăng Đại Sư.

Thân tướng Sư lùn xấu, tánh rất thông minh, tướng trạng chân xuất, tương tự như hạng người giết thịt bán rượu, chỉ khác là hình dáng Sa-môn mà thôi. Sư ưa thích uống rượu ăn thịt, thường mặc áo vải lông cừu, dày nặng có thể biết. Lúc trời nắng nóng cũng chẳng tạm cởi, thấy rận nhóm tụ ở trên. Sư ngụ tại chùa Hiếu Cảm riêng trong một phòng. Ban đêm đóng cửa ngủ, việc ấy là thường. Hoặc có lúc tánh bộc phát cuồng, giết chết chó lợn. Ban ngày thì nhóm tụ bọn xấu ác đánh đấu, có khi nằm bên vệ đường, dân chúng ở Dương Châu vì thế mà chán ghét Sư.

Vào niên hiệu Trinh Nguyên (78 – 80), có một gã Thiếu niên cường tráng, vốn có tiếng là người mạnh mẽ. Một ngày nọ, gã thiếu niên ấy đánh cờ với người, Sư rất tức giận, đưa tay đánh nát con cờ. Gã thiếu niên ấy cười bảo: “Trẻ con lẩn thẩn sao dám nghịch với tráng sĩ ư?” Sư lại mắng chửi, nhổ nước dãi vào mặt nó, khi đó đòi đánh nhau với nó, mọi người trông coi vây quanh có đến cả ngàn. Gã thiếu niên ấy bị Sư đánh khốn đốn, sợ hãi tìm đường chạy trốn. Từ đó, mọi người mới biết Sư có sức thần.

Lại nữa, cũng ở giữa chúng đông người, Sư tự phụ sức lực của mình, luôn vào nơi quán chợ, cướp đoạt tiền vật của người. Người trong chợ dều sợ sức mạnh của Sư nên không dám chống cự. Sau có một vị tăng trưởng thượng gọi Sư đến mà răn dạy, bảo rằng: “Ông sao bất cẩn chẳng giữ giới pháp. Cớ sao ăn thịt uống rượu, giết hại chó lợn, cướp đoạt tiền vật của người ở chợ, lại đánh đấu với hạng người vô lại, rất không có luật nghi. Đâu là bổn phận của người xuất gia ư? Một ngày nào đó, mọi người chẳng dung thứ, bắt đến quan lại, căn cứ luật pháp mà trị phạt. Khi đó biết lẫn trốn nơi nào! Vả lại, rất ảnh hưởng đến Phật pháp”. Sư tức giận đổi sắc mặt đáp lại vị tăng ấy rằng: “Loài ruồi ve bu theo thứ máu thịt tanh hôi, ông sao biết được chí khí của chim Hồng, chim Hộc ư? Nhưng mà Đạo của ta, ông chẳng thể biết được. Hơn nữa, ta bên trong thanh tịnh ngoài dơ bẩn, đâu giống như các ông hẹp hòi không rộng lượng ư?” Vị tăng trưởng thượng ấy không thể làm Sư khuất phục. Sau, một ngày nọ, từ ngoài trở về, Sư vào thất đóng cửa. Có người nhìn qua lỗ hổng ở cửa, thấy Sư ngồi trên chiếu phát ra ánh sáng thần từ giữa hai đầu chân mày, soi suốt mọi vật, người nhìn thấy kinh hãi trở về báo lại. Trong chốc lát chư tăng trong chùa đua nhau kéo đến chiêm lễ xưng tán, hoặc có người tự sám hối tội lỗi đã từng phỉ báng Sư, hoặc có người búng ngón tay khen ngợi ca vịnh. Đến sáng ngày, chư tăng đến hầu Sư đi ra, đốt hương đến lễ. Đến lúc mở cửa thì Sư nhắm mắt như nhập thiền định, mà sự thật là Sư đã thị tịch.

16. Truyện ngài Minh Toản ở núi Nam Nhạc thời Tiền Đường:

Thích Minh Toản, không rõ Sư thuộc họ gì và quê quán ở đâu. Ban đầu Sư du phương đến núi Tung, nơi Thiền Sư Phổ Tịch đang mở mang thiền pháp hưng thạnh, Sư bèn theo đó, và thầm chứng được tâm khế của Ngài Phổ Tịch. Ít người tôn trọng. Sau đó, Sư đến Hành Nham nhàn cư. Chúng tăng có làm việc gì, Sư vẫn yên nhiên. Giả sử như có người mắng chửi, Sư vẫn không xấu hổ. Bấy giờ, mọi người gọi Sư là “Toản biếng lười”, có thuyết nói vị tăng ấy là mọi rợ sai vượt. Hoặc có lúc Sư theo chúng thọ trai, có lúc Sư dùng nồi đất nấu đất mà ăn, bảo là ứng thân Phật Di-đà. Chẳng biết Sư chứng nghiệm gì. Có thuyết nói là Sư ưa thích ăn đồ thừa của chúng tăng. Hoặc theo đó thì lúc Sư mở lời nói năng đều khế hợp với Phật lý. Sự tích về Sư thật khó biết rõ.

Đầu niên hiệu Thiên Bảo (72), Sư đến chùa Nam Nhạc làm lụng mọi việc, hết chuyện trên chùa, đêm đến dừng nghỉ dưới đàn bò, suốt hai mươi năm như thế mà chẳng hề mỏi mệt. Tướng quốc Nghiệp Công Lý Bí lánh nạn Thôi Lý nên ẩn cư tại Nam Nhạc mà lầm xem xét việc làm của Sư, bảo rằng: “Sư là người khác thường”. Lắng nghe Sư trong đêm đọc tụng kinh điển, âm hưởng vang vọng tận hang núi. Lý Công tai nghe âm thanh phân biệt được tốt xấu, nên nói với Sư rằng: “Tiếng đọc tụng kinh nghe buồn thương mà sau lại vui thích, ắt là lúc người giáng chức đày đi!” Vào nửa đêm, Lý Công Ngầm vào tham yết Sư, trông vào tịch môn mà tự khen ngợi và bái lạy. Sư quát mắng lớn và ngửa mặt giữa hư không mà mắng chửi rằng: “Đó là sắp hại ta!”. Lý Công càng thêm trịnh trọng chỉ bái lạy mà thôi. Ngài lấy củ khoai lùi trong lửa phẩn bò ra ăn, giây lâu mới bảo là “Hãy dùng chiếu đất”, và lấy nửa củ khoai Sư ăn trao cho Lý Công. Lý Công quỳ mà nhận lấy, ăn hết rồi tạ ơn. Sư bảo Lý Công rằng: “Cẩn thận chớ lắm lời, làm tể tướng trong mười năm!” Lý Công bái lạy mà lui.

Vào một tháng, Thứ sử Tế Nhạc sửa chữa đường đi rất bằng phẳng. Nửa đêm gió thổi sét đánh, một ngọn núi đổ ngã, đường men theo núi bị đá lớn cản ngăn, bèn dùng vài con trâu buộc vào đá mà kéo đi, lại dùng vài trăm người cổ xúy hô hào để đẩy đi. Sức vật đã hết mà đá lại bền chắc, không còn phương cách gì hết. Sư bảo: “Vì sao phải cần dùng nhiều người như thế? Ta mới trừ đi!”. Mọi người đều cười lớn. Sư dùi vào đá mà lay động. Bỗng nhiên đá chuyển thế mà xuống, âm thanh va chạm như sấm sét rung chuyển, đường núi được mở thông, chúng tăng kính lễ Sư mà mừng vui hớn hở. Cả Quận đều gọi Sư là bậc chí thánh. Thái Thú kính thờ Sư như thần minh. Sư vẫn lặng yên có ý muốn đi. Phía ngoài chùa, hổ báo tự nhiên nhóm họp thành đàn, hằng ngày gây thương tổn không biết làm sao để cấm ngăn. Sư bảo: “Đưa cho ta một cây roi nhỏ, ta sẽ trừ diệt nạn đó cho các ông”. Mọi người nói với nhau rằng: “Đá lớn còn đẩy đi được, hổ báo sẽ dễ cưỡng chế!” Bèn đưa cho Sư một cây roi gai và đều nép mình phía sau để xem. Sư bước ra cửa, một con hổ ngậm vào đó mà đi, Sư đã đi, hổ báo cũng mất dấu vết.

Đến những năm cuối niên hiệu Thiên Bảo, vua Túc Tông đí tuần về phía Bắc đến Linh Võ thì dừng. Sai sứ tìm mời, gặp được Lý Bí từ Tung Dĩnh vội chạy đến hành sở tại, vua vui mừng dùng đó giúp cho Chưởng Xu Vụ Quyền Du Tể Tướng phán xét việc Quảng Bình Vương Phủ Tư Mã. Vua Tuệ Tông bảo: “Khanh là thầy bạn của trẫm, nay cha con ba người giúp Khanh đạo nghĩa”. Liền bị Thôi Viên Lý Phụ Quốc làm hại khả năng, Lý Bí lo sợ xin đi đến Hành Nhạc, vua ban chiếu chấp thuận. Tuyệt thực vài năm, bỗng thấy Sư. Sau qua đời đang ở tướng vị. Đó là huyền ký về Sư. Vua Túc Tông hạ sắc tặng Sư thụy hiệu là “Đại Minh Thiền Sư”, tháp thờ Sư hiện còn ở Nhạc Trung, v.v…

17. Truyện ngài Đãi Giá trụ chùa Từ Vân ở Giản Châu thời Tiền Đường:

Thích Đãi Giá, họ Vương, người ở huyện Kim Thủy, xuất gia từ thuở bé, làm những điều lạ lùng. Cha của Sư đặt tên là Đãi Giá. Lúc ấy là cuối niên hiệu Thiên Bảo (76). Sư luyện hạnh tinh tấn, bấy giờ được gọi là Đầu-đà. Đến lúc vua Huyền Tông đi dạo, Sư tự đến phủ cạo tóc làm tăng, đến đây, Sư được độ. Lời ấy đáng tin.

Sư đi cách xa huyện ấp hai mươi dặm, cắt cỏ dựng am riêng trên đảnh núi, sau, trở thành một ngôi chùa. Núi nầy có nhiều binh tích. Ban đầu tên là Thạch Thành, đến lúc Minh Hoàng đến núi Kiếm môn, thần thấy hình nghinh giá, xứng với họ Lý, bèn ban sắc cho tên gọi Huyền tôn. Sau, Trắc Võ gánh vác Đông Đài, xa trông thấy mây lành khí tía cuộn kết giữa hư không, bèn hỏi mọi người chung quanh rằng: “Đó là xứ nào?” Đáp rằng: “Đó tên là Thành Sơn”, mới tỏ ngộ ý của thần núi hỗ vệ, bèn đổi tên là Vân Đảnh và làm chùa Từ Vân. Sau, Sư thị tịch tại chùa đó.

Kế nữa, có Ngài Thích Hoài Nhất trụ chùa Lăng-già ở Phước Châu. Vào niên hiệu Cảnh Long (707 – 710), Sư có ý xây tinh xá ở phía Đông chùa Ái Đồng, nhưng dò xét địa hình không có nước để cấp dùng mới bỏ đi. Bỗng nhiên có loài chim đầu đà trên đất, Sư lấy làm lạ, bèn bảo thợ đào xem, mới sâu hơn một thước thì có dòng suối tuôn chảy, về sau, dùng quanh năm mà chẳng hao hụt, mỗi lúc trong chùa có chuyện buồn vui, thì nước mới tạm giảm hao.

Đến niên hiệu Vinh Thái thứ 2 (766), Sư thị tịch, đệ tử Sư là Siêu Ngộ tấu xin vua Đại Tông đề cho biển ngạch chùa. Đệ tử tài giỏi thủ của Sư là Trí Hằng và kế tiếp là Hạnh Bật. Thứ sử Việt Châu là Hoàng Phủ Chính soạn văn bia ghi lại đức hạnh của Sư và do Tiết Độ Sứ Dương Châu là Vu Giáp viết chữ.

18. Truyện ngài Hoài Đạo trụ chùa Ái Đồng ở Phước Châu thời Tiền Đường:

Thích Hoài Đạo, là người đức xa tình cao, từ nhẫn tế vật, suy nghĩ dạt pháp, thường hằng mà du phương. Hễ gặp được người thông hiểu, thì lễ bái cầu ích lợi. Đến ngày trở về quê cũ, Sư lễ Phật siêng năng, lúc vén thâu tọa cụ nhặt được viên ngọc, sau tôn trí ở tim tượng họa của Bồ-tát Văn-thù. Viên ngọc đó tròn sáng mà khác hẳn ngọc trai. Lại lặng lễ giáng xuống cốt xá-lợi, Sư bèn phân đặt trong tháp Nam Giản. Đến niên hiệu Chí Đức năm thứ 2 (77), Sư bảo đệ tử là Tăng Thường trì tụng Kinh Pháp Hoa, suốt ngày đêm chẳng phế bỏ. Bỗng nhiên có một bộ pháp phục ca-sa bằng lụa trắng giáng xuống trong tháp, chẳng biết từ đâu đến. Đó là do tâm Sư tu luyện mà cảm đến Minh Lý. Về sau, cốt đài thú Lý Ung soạn văn bia đều có ghi rõ.

Kế nữa, có ngài Thích Trí Hằng kế tiếp ở Viện Pháp Hoa. Ngài Trí Hằng là đệ tử Ngài Hoài Nhất. Đạo hạnh cũng sánh ngang với Ngài. Sau khi tịch, Lễ Bộ Thị Lang Lưu Thú Chân soạn văn bia kệ tụng, tường tựa ghi rõ trong văn thơ. Kế đến lại có các ngài Siêu Ngộ, Hạnh Bật đều là những bậc có tiếng tăm như nhau, và hành hóa ở đất Mân, người thế tục ai cũng kính trọng.

19. Truyện ngài Tuệ Trung trụ chùa Trang Nghiêm ở Thăng Châu, thời Tiền Đường:

Thích Tuệ Trung, họ Vương, người ở xứ Thượng Nguyên, thuộc Nhuận Châu. Lúc đầu, mẹ của Sư mới mang thai, bỗng gặp một vị tăng lạ bảo rằng: “Sẽ sanh quý tử, làm thầy trời, người”. Sau khi sanh, Sư chẳng ăn các thứ máu thịt tanh nồng. Có tướng khác thường, bẩm tánh thuần hậu.

Năm hai mươi ba tuổi, Sư nhờ hiểu Kinh nên được độ, lúc đó là niên hiệu Thần Long thứ nhứt (70), Sư được phối thuộc ở chùa Trang Nghiêm, chí tiết cao giản, đồng bạn đương thời đều tôn kính. Nghe Thiền sư Oai ở núi Ngưu Đầu, tiếp nối vết chân của Tổ Sư Đạt-ma, đắc Phật tâm ấn, Sư bèn đến núi lễ bái tham yết, Thiền sư Oai thấy Sư liền bảo rằng: “Chủ núi đã đến!”. Nhân đó mà giảng pháp đốn ngộ thượng thừa. Thiền sư Oai có được Sư như Lão Tử gặp được Y Hỉ, mới bảo Sư nhận thất trao pháp truyền đăng và giao phó mọi việc trong sơn môn, bèn ra khỏi ly tụ. Sư nối gót ở núi đó, sớm tối tinh tấn, thường hành hạnh Đầu-đà nơi núi đầm, uống nước suối nằm chiếu cỏ, ăn một bữa đúng thời. Sư thường dùng một cái chỏ nấu chung các thứ. Dùng xong treo móc ở cành cây, mới lên giường dây an tọa suốt ngày như chiếc ghế nhỏ, y phục chẳng đổi thay, nóng lạnh cũng chỉ một áo nạp. Như thế suốt bốn mươi năm, bèn hiển bày linh ứng chẳng phải một. Châu Mục Minh Hiền từng đến núi lễ yết, lại thỉnh Sư đến Quận giáo hóa đạo tục.

Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ nhứt (72), Ngài mới ra trụ chùa Trang Nghiêm. Sư bảo rằng: “Xưa kia, đưới thời nhà Lương, chùa Trang Nghiêm rất hưng thạnh, nay đã lâu năm tàn tạ”. Sư có tâm muốn sửa chữa, bèn ở phía Đông Chánh điện, định xây pháp đường, trước đó có cây cổ thụ, có chim thước làm ổ trên đảnh, khi người thợ sắp muốn chặt nó, Sư bảo: “Đợi chim thước dời đi hãy chặt”. Và nhân đó Sư đến bên gốc cây, chú nguyện rằng: “Chỗ đất này xây Pháp đường, nên chóng dời đi nơi khác”. Sư nói vừa xong, chim thước ấy đua nhau ngậm cành dời sang cây khác. Tăng tục khắp thành quách đều nhìn, không ai chẳng khen lạ. Lại nữa, lúc đặt nền móng chưa quyết định, có hai vị thần đến chỉ nơi chốn, nhân đó mà quyết định. Cấp dẫn không bỏ phế. Thần khoáng chẳng quấy nhiễu, đồng bạn bốn phương đồng nương tựa ngày một kéo đến rất đông.

Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 3 (768), trước hang đá ở cửa chùa, có treo chiếc y của Ngài trên lùm cây. Năm đó, giữa mùa Hạ, tự nhiên héo khô, nấm tiên Linh Chi cũng chẳng sống lại. Tới tháng Chín, Sư đang giảng Pháp nơi tòa cao, tự nhiên nước tuôn chảy quanh tòa. Đến ngày rằm tháng 6 năm sau (769), nhóm chúng tăng Bố-tát tới chiều tối, Sư bảo thị giả cao tóc và tắm gội. Đêm đó có mây lành giăng phủ khắp chùa, nhạc trời nghe vang vọng giữa hư không. Qua sáng sớm ngày 16, Ngài an nhiên ngồi thẳng mà thị tịch. Khi đó, mưa gió chấn động, cây cối đổ ngã. Tăng chúng chùa Diên Tộ ở Hòa Châu đêm đó đều thấy có vầng cầu vồng từ Đông sang Tây xuyên suốt vào trong núi. Chim thú kêu buồn tận hang hóc núi chầm, tiếng khóc suốt mười ngày mới ngưng nghỉ! Nhạc mục Vi Công Tổn nghe mà buồn thương, sai sứ mang tặng lễ vật phúng điếu và sai bảo Thượng Nguyên Lịnh Lưu Quân đầy đủ oai nghi, đón rước về núi. Lúc đó trời đang nắng nóng như thiêu đốt. Đến ngày mùng 7 tháng 7, trơi mưa tưới mát, qua ngày mùng 8, thần quan đưa ra, mảy bụi chẳng bay. Lại có bầy chim hạc bồi hồi bay che ở trên, đưa đến sơn môn. Sau khi đã an táng vài ngày, trong phần mộ phát ra ánh sáng chiếu suốt núi rừng. Đến mùa Xuân niên hiệu Đại Lịch thứ (770), y theo pháp ngoại quốc trà-tỳ, thâu nhặt được vô số xá-lợi tròn nhỏ như hạt ngọc, màu sắc sáng chói. Tăng tục xa gần có người buồn không khắc nhặt được, bèn đến nơi chỗ tro bụi củi tàn thiêu đốt tìm cầu đến trăm ngàn người đều có được xá-lợi. Cho nên biết pháp thân viên ứng, cảm vật vô cùng, thánh lực ngầm thông, sáng vượt ngàn xưa. Môn nhân dựng tháp gỗ để thờ. Sư thọ tám mươi bảy tuổi, thân cao hơn bảy thước, lông mày điểm sương dài hơn cả tấc, nghi dung lớn khác y hàm long, tai thần khí cô bạt, sắc da như đấng vàng, đều sáng ngọc nhuận như Phạm tăng. Tại chỗ Sư ở màn trướng chẳng giăng, muỗi mòng không xúc phạm.

Sư từng ở chốn lan-nhã vắng lặng, thông trúc mọc dầy, từng có loài hổ và nai đến sản sanh, thuần quen vào ra nơi thất không tỏ vẻ kinh sợ. Trong niên hiệu Khai Nguyên thứ 27 (739), Thượng Nguyên Lịnh Trương Tôn Toại ban đầu được nghe sơ sơ những điều khác lạ về Sư, bèn đích thân đến núi dò xét kiểm nghiệm. Khi vừa đến nửa núi, có con hổ dữ đón đường gầm thét, bèn kinh sợ chẳng biết làm sao. Sư nghe nên xuống núi dẫn dụ, hổ nhân đó mà lặng tiếng ẩn mình vào rừng. Trương Tôn Toại khiếp sợ liền chắp tay lễ tạ mà lui. Lại nữa, khi Sư đến trong viện Cụ Giới ở Quận Ngô có bụi cây lăng vân đang giữa mùa Hạ mà khô héo, mọi người nghĩ chặt bỏ nó đi, Thiền sư Oai bảo rằng: “Chớ nên chặt bỏ nó. Ngày Tuệ Trung trở về, bụi cây ấy sẽ sống lại”. Mọi người không tin. Đến mùa Thu, Sư trở về, bụi cây ấy liền tươi tốt trở lại. Lại nữa, xưa kia, có người cúng gạo thóc cho chư tăng ở trang trại, ban đêm có Trương Đạo đến trộm lấy, hổ bèn gầm thét đuổi đi, Đạo bèn vất bỏ mọi vật mà chạy trốn, đại loại như thế rất nhiều, khó ghi lại hết. Sư có soạn “Kiến tánh tự” và “Hành lộ nan”, tinh chỉ diệu mật, lưu hành ở đời.

Kế nữa, có Ngài Thích Viên Tịch ở đất Nghiệp, họ và nơi sanh của Sư không tìm được. Ban đầu, Sư từ Tung Sơn gặp được Thiền sư Lão An. Đạo khế hợp nhau chẳng lường được ngằn mé. Đến niên hiệu Hàm Hanh thứ 2 (671) thời vua Cao Tông, Sư thị tịch, thọ trên trăm tuổi. Tương Châu Tiết Độ Sứ Nghiêm Thụ khuynh tâm cúng dường cũng tôn xưng Sư là”Vô Sanh Hòa-thượng”.

20. Truyện ngài Tuệ Tú chùa Thiên Cung ở kinh đô Lạc Dương thời Tiền Đường:

Thích Tuệ Tú, họ Lý, người ở xứ Trần Lưu, nay là Đông Minh. Ngài xa lìa trần cấu, mến chuộng tiêu dao. Ban đầu dùng giới luật để tự tiết chế tự thân, sau dùng thiền định để chuyên tu. Sư đến đất Kinh Dĩnh tham vấn Tổ sư, tỏ rõ an nhiên, Sư bèn trở về chùa Thiên Cung ở Lạc Ấp. Gặp lúc Võ Hậu (Tắc Thiên) thường đến thần đô, mà tiếng tăm của Sư vang vọng tơi tai, Võ Hậu thường mời Sư vào kính lễ tôn trọng. Sư dự ghi mọi việc chưa xảy ra, sau đều khế hợp.

Vào niên hiệu Trường An (701 – 70) Sư đến chùa Từ Thành, nói đạo dạy người, tự nhiên đều quy hướng. Bỗng nhiên Sư bảo đệ tử trong thiền viện tắt hết đèn đuốc. Có người thưa Sư rằng: “Đèn lớn chiếu sáng nên để lại”. Sư bảo cũng tắt luôn. Nhân đó, Sư nói: “Hỏa tai khó lường, không thể không chuẩn bị. Đã từng có nhà chùa không coi sóc đèn lửa nên điện Phật bị thiêu cháy. Lại có chùa mà lầu chuông bị lửa cháy, lại có chùa mà kinh tàng cháy thành tro bụi, rất đáng đau tiếc”. Khi đó, chúng tăng không hiểu ý chỉ của Sư, đến đêm tối để lửa lại; nên điện Phật, lầu chuông, kinh tàng ba nơi đều biến thành tro than; mới tỏ rõ Sư dự biết trước nên cảnh báo.

Lại nữa, lúc vua Huyền Tông đang trên đường cùng các vương giả đồng đến chỗ Sư để hỏi Pháp, thì ung dung tặng Sư một ống sáo. Khi vua Huyền Tông đi ra rồi, Sư gọi đệ tử đến bảo: “Hãy cẩn thận gìn giữ ống sáo ấy, sau có lúc cần hãy dâng”. Sau, nhận vua Duệ Tông để truyền Thiền Pháp, đệ tử của Sư là Đạ-ma v.v… mới hiểu lời Sư nói, nên đem ống sáo đó kính dâng. Vua Duệ Tông mừng vui, biết trước nên trở lại ban tặng rất nồng hậu. Tự nhiên Sư thị hiện bị bịnh nhẹ, dặn dò cùng môn nhân rồi an nhiên thị tịch, thọ một trăm tuổi.

Yên Quốc Công Trương Thuyết vốn quy tâm, bèn đón rước về an táng ở núi Long Môn, tăng tục có đến mấy ngàn người đến dự lễ tang buồn thương ai điếu.

21. Truyện ngài Thích Duy Trung trụ chùa Pháp Định ở Huyện Bỉ, thuộc Thành Đô, thời Tiền Đường:

Thích Duy Trung, tăng từ thuở bé, trong đồng bạn không ai chẳng tôn kính. Sư xuất gia tại chùa Pháp Định.

Vào niên hiệu Vĩnh Bình (8 – 76) thời Hậu Hán, khi Phật pháp mới lưu truyền đến Trung Hoa, có lập “Tịnh Đức già-lam”, ánh sáng thần luôn hiển hiện. Đến đời Tống, Ngài Thích Tuệ Trì, từ Lô phụ, giã từ Pháp huynh Tuệ Viễn, phát thệ nguyện đến hoằng hóa xứ Mân Thục. Gặp lúc tao loạn vô đạo, có vài bọn cầm mũi nhọn muốn đến giết hại ngài Tuệ Trì. Ngài Tuệ Trì bèn búng ngón tay bọn chúng kinh sợ vấp ngã. Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ (8) đời Tùy, mới đổi tên là chùa Pháp Định. Trong chùa có thánh tượng Đức Di-lặc. Vào niên hiệu Võ Đức (618 – 627) thời Tiền Đường, bỗng nhiên có cây gỗ khô theo mé sông trôi đến, ban đêm phát ra ánh sáng, nhân đó chạm trổ làm đầu tượng. Vào nên hiệu Trinh Quán (627 – 60), Đậu Quỹ làm Trưởng Lại Kiếm Môn. Đầu tượng Phật phát sáng soi suốt đến cung phủ, Đậu Quỹ mới bảo người đến rước lấy. Cả mấy trăm người cũng không khiêng nổi, mới bảo nên chú nguyện tùy muốn đem đến phương nào, và nói: “Có thể đến chùa Pháp Định chăng?” Liền đó. chỉ một người đã bưng lên nổi. Đậu Quỹ bèn tạo thân tượng Phật. Trưởng sử Cao Sĩ Liêm làm lọng điện để che. Sau, có Sa-môn Phiếm Ái dựng xây tháp, bắt được một con cua lớn, thân và chân dài hơn hai thước. Tháp đó rất nhiều đời linh dị, nếu có người nào đem rượu thịt say sưa đến trước Thánh tượng, thì liền bị tai họa.

Vào niên hiệu Thiên Bảo (72 – 76), Sư đang ở tại chùa đó, càng thêm tinh tấn, tự nhiên tháp bị sét đánh nhổ bứt trụ tim tháp văng ra ngoài. Bỗng co ý muốn thay lại bằng cây gỗ nhỏ, chúng tăng đều lấy làm lạ, không ai lường dược nguyên nhân. Sư bèn cúi cầm thánh tượng đức Di-lặc, khấn cáo với trời rồng gia tâm úy trọng, cớ sao sét đánh đoạt mất trụ tim của tháp vậy? Cho nên biết Thử Nữ kêu mà sét đánh Đài Cảnh Công. Thật có sự chiêu cảm.. Một hôm, sét lại đánh có gió dữ cùng chấn động như trước, lại thấy đó là Long thần đưa trụ cũ an trí như xưa. Đang Lúc thay đổi trụ, mây phủ bốn bề, có bốn thần dùng sức mang vác, đứng ngang với tháp. Sư có sức cảm kích tới vật như thế! Trước Pháp nạn Hội Xương, chùa bị nứt rạn, có bảy viên xá-lợi vọt ra trên tướng luân, ánh sáng mầu trắng đầy khắp giữa hư không hướng về phía Tây bay đến đất Thục, đều là chỗ tự trông thấy. Khi sắp đảo lộn, có ánh sáng mầu đỏ thấy thấy nửa ngày. Thêm nữa, tại chùa đó có một cây táo rất lớn, trong năm sắp phá hủy chùa, cây táo ấy khô héo. Mãi đến niên hiệu Đại Trung (87 – 860) sắp đặt trở lại, cây táo đó lại tốt tươi. Sau, Sư thị tịch tại chùa đó.

Liên hệ thử bàn:

Giáo Pháp hưng suy há chẳng phải là số phận ư? Số toán đã định, thời khắc chẳng dời. Như trước Pháp nạn Hội Xương (81 – 87), xá-lợi dự bay, cây táo khô héo. Ấy là biết số suy đang cường mạnh mà số hưng là suy yếu. Hưng chẳng hơn suy. Đến niên hiệu Đại Trung (87 – 860) trở lại hưng thịnh, thì ấy là số suy chẳng hơn được hưng. Như chẳng là sự đổi dời của bốn tướng, chẳng hệ lụy số phận hưng suy. Giáo Pháp là Pháp hữu vi, làm sao khỏi sự đổi dời biến chuyển? Than ôi!

TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

(Quyển 19 hết)