TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

Đại Sư Thông Tuệ chùa Thiên Thọ ở Tả Nhai Tứ Tử Sa-môn Tán Ninh v.v… vâng sắc soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 18

 

CHƯƠNG VI: CẢM THÔNG

TRONG PHẦN 1 CỦA CHƯƠNG VI

(chánh truyện có mười lăm vị, phụ có ba vị).

1. Truyện ngài Đàn Đặc ở phủ Tây Lương, thời Hậu Ngụy:

Thích Đàn Đặc, còn có tên gọi khác là Tuệ Phong, không rõ Sư là người xứ nào, thân tuy xuất gia mà Sư thường thô tháo không kìm chế được, uống rượu ăn thịt, nói nín chẳng thường. Bàn luận toàn điều trái ngược, nhưng sau khi sự việc xảy ra thì đều đúng như điều Sư đã nói. Sư ở tại Võ Uy, phóng ý buông lung.

Bấy giờ, Vũ Văn Trọng Hòa làm Thứ sử, mời Sư vào Châu. Ngài rảo xem qua giasản của Trọng Hòa rồi mới bảo rằng: “Ý nghĩ thế nào mà chứa để tài vật của quan vậy ư?” Trọng Hòa không hiểu được ý chỉ, tức giận nên không cho Sư ở trong thành. Sau đó không lâu, Trọng Hòa chống cự chẳng chịu thay, triều đình sai Độc Cô Tín bắt lấy. Trọng Hòa thân chết, tất cả của cải đếu sung vào của quan. Chu Văn nghe vậy ban thư thỉnh Sư, Sư đến Ký Châu, gặp Tề Thần Võ đến đánh cướp ngọc bích. Sư bảo: “Loài chó đâu thể đến cửa rồng ư?” Thần Võ quả nhiên không đến cửa long mà tự trở về. Hầu Cảnh lúc chưa làm phản, trước cửa Đông Ngụy bỗng cầm một chiếc gậy, trên đầu gậy có chạm hình con khỉ luôn khiến mặt nó xoay về phía Tây, ngày đêm đùa giỡn, lại tìm một góc cung để buộc kéo nó. Bỗng nhiên Hầu Cảnh khải giáng, tầm xoay lưng quay về đất Lương. Đều có chứng nghiệm.

Đến đầu mùa xuân niên hiệu Đại Thống năm thứ 17 (2), thời Tây Ngụy, tự nhiên Sư đội chiếc mũ vải. Chu Văn và mọi người chung quanh đều kinh sợ hỏi lý do. Sư bảo: “Ông cũng đội và vua cũng phải đội vậy”. Đến tháng 3 thì Ngụy Văn Đế (Nguyên Bảo Cự) băng. Sau Sư lại lấy lụa trắng làm mũ đội, mọi người chung quanh hỏi về lý do thì Sư bảo:

“Các ông cũng phảo đội và nhà vua cũng phải đội vậy”. Sau đó không lâu thì phu nhân của Thừa Tướng qua đời. Sau, lại thêm một lần Sư đội mũ và hỏi đáp đều giống như trước. Bỗng nhiên Võ Ấp Công là người con thứ hai của Thừa Tướng qua đời. Sư có nhiều việc ứng nghiệm đều đại loại như thế. Không bao lâu thì Sư thị hiện bị bịnh mà thị tịch, Chu Văn lo việc an táng.

2. Truyện ngài Hà Thốc Sư ở Tấn Dương thời Hậu Ngụy:

Hà Thốc Sư, không rõ Sư là người xứ nào. Vào niên hiệu Hiếu Xương (26 – 28) thời Bắc Ngụy, Sư thường qua lại chợ Tấn Dương, với hình tướng Sa-môn mà vừa ngu vừa trí. Người thời bấy giờ chẳng ai lường biết được về Sư, mà chỉ gọi là Hà Thốc Sư.

Đến lúc Tề Hoàn Võ sanh người con thứ hai, tức Cao Dương, là Vua Văn Tuyên Đế. Võ Minh Thái Hậu thấy nhà Sư rất nghèo khổ, cùng thân thích bàn về gia kế, chỉ lo đói lạnh mà chết. Cao Dương mới sanh chỉ được vài tháng chưa biết nói, chợt nói “sống được”, hai chữ rõ ràng. Mọi người chung quanh Thái Hậu đều kinh hãi mà chẳng dám nói, chỉ cho là yêu quái. Bấy giờ, có sự rao truyền Hà Thốc Sư là bậc thần dị soi xét mọi việc thươờng rất đúng, khéo dẫn dụ Sư đến. Ý của Thái Hậu muốn đoán biết đứa bé nói sớm có quái lạ chăng, mới tìm kiếm khắp chư tử. Văn Tương Ngụy Vĩnh Hy Hậu bên cạnh dùng lục vị trải qua dò h ỏi. Đến Cao Dương vài ba phen đưa tay chỉ trời mà thôi, miệng không nói lời nào. Như chư tử đều không có cử chỉ riêng. Sau không Sư tịch ở đâu.

3. Truyện ngài Huyền Quang người Nước Tân-la, đời Trần:

Thích Huyền Quang, người ở xứ Hùng Châu, thuộc Hải Đông. Thuở thiếu thời mà Sư đã dĩnh ngộ thông minh, sớm nhàm chán tục trần, quyết tìm cầu danh sư, chuyên tu phạm hạnh. Đến lúc lớn khôn, Sư phát nguyện vượt biển đến Trung Hoa cầu học Thiền Pháp. Lúc đó, Sư từ Quốc lợi đến núi Hành Sơn. Gặp được Hòa-thượng Tuệ Tư đang khai vật thành hóa. Thần giải cùng tham. Ngài Tuệ Tư xem xét nguyên do, bèn thầm trao cho pháp môn An Lạc Hạnh trong tinh thần Kinh Pháp Hoa. Sư bén nhạy như thần chùy chẳng cứng thì không phạm, mới như kiếp bối có nhuộm đều đẹp. Sư bẩm thọ vâng hành, siêng năng không đổi thay. Không bao lâu Sư chứng đắc “Pháp Hoa Tam-muội”, bèn thỉnh cầu ấn chứng. Ngài Tuệ Tư chứng minh cho, dạy rằng: “Sở chứng của ông là chân thật bất hư, hãy khéo hộ niệm, khiến Pháp trường tồn tăng trưởng. Ông về lại bổn độ, thiết lập thiện quyền, khéo gánh vác, loài sâu hại đều biến thành tò vò!” Sư lễ tạ mà rơi lệ buồn khóc!

Từ đó, Sư trở về Tích Giang Nam, thuộc bổn quốc, thuyền bè chuyên chở rời bến. Khi đó, mây nhiều mầu giăng bủa làm tán loạn cả mắt, tiếng nhạc thanh nhã vang vọng giữa hư không, giáng tiết cầu vồng, truyền gọi mà đến. Giữa hư không nghe có tiếng bảo rằng: “Thiên Đế thỉnh mời Thiền Sư Huyền Quang ở Hải Đông”. Sư khoanh tay lánh nhường. Chỉ thấy vị đồng tử mặc áo xanh dẫn đường phía trước, trong khoảnh khắc đã tới kinh thành, vả lại, nếu chẳng phải quan phủ ở nhân gian thì thiết vũ vệ đó chẳng khác gì lân giới, tham tạp quỷ thần, hoặc có người nói: “Ngày nay Thiên Đế xuống cung vua rồng, thỉnh cầu Sư nói Pháp môn Thân chứng. Chúng tôi thuộc loài Thủy phủ mong đợi lợi ích từ Sư”. Ngài đã lên Bảo Điện, kế đến vượt bước lên Đài Cao, như điều thưa hỏi mà lược bàn, qua bảy ngày, sau đó Long Vương đích thân đưa tiễn và từ biệt. Chiếc thuyền kia vẫn lênh đênh giữa biển khơi chẳng tiến tới, Sư lại lên thuyền. Mọi người trên thuyền nói mới trải qua nửa ngày mà thôi. Sư trở về Ông Sơn, thuộc Hùng Châu, chống tích kết am mới dựng thành phạm sát. Hạng người Đồng thanh tương ứng, đắc Pháp như cửa trập vừa mở. Hạng ưa thích Tiểu thừa hồi tâm như loài kiến trùng ham mê máu thịt, tiếp nối nhau chật đến. Trong đó như thăng đường thọ có riêng một vị, vào Hỏa Quang Tam-muội có một vị, vào Thủy Quang Tam-muội có hai vị, cùng nhau chứng được hai thứ Pháp môn. Hàng vâng theo mà phát khởi làm rõ được tên gọi Tam-muội. Môn sanh của Sư thí như đàn chim nương tựa vào núi Tu-di, đều đồng một mầu.

Sau, Sư thị tịch hay về đâu, không được rõ! Tổ Nam Nhạc dựng lập ảnh đường. Phía trong đắp họa tôn tượng hai mươi tám vị, Sư ở hàng đầu. Và ở Tổ đường chùa Quốc Thanh ở Thiên Thai cũng giống như vậy.

Liên hệ thử bàn:

Sau khi Phật diệt độ, xét về người nhập Đạo, dùng bốn pháp: Giáo, Lý, Hạnh, Quả để minh xác thì không thể ẩn tránh. Cách Thánh càng gần thì người tu hành thành quả vị chứng. Cách Thánh hơi gần thì người tu hành học Giáo dễ thấy Lý. Cách Thánh càng xa thì người học Giáo chẳng siêng năng và thấy Lý cũng chẳng chân thật. Hễ một niệm không sanh thì khoảng thời gian trước sau đều dứt bặt, ấy là đốn tâm thành Phật. Lý Phật cụ túc, thực hành hạnh Bố thí, chưa từng nói về hạnh Phật, cụ thể mà vi diệu. Tại Đông Hạ (Trung Hoa) từ thời Lục Tổ về sau, phần nhiều bàn nói về lý thiền, ít nói về hạnh Thiền. Vả lại, khiến người thấy Đạo như cứu lửa cháy đầu cho nên như thế. Thiền sư Tuệ Tư ở Nam Nhạc, thiết tha kiêm tu thừa giới đều gấp. Vì thế người học ứng nghiệm về các hạnh quả. Trong đó như người nhập Hỏa Quang Tam-muội mà trong Kinh Xử Thai cho là dùng thiền định nhiếp ý nhập Hỏa Giới Tam-muội thì cảnh giới rỗng suốt mà kẻ ngu cho đó là bị thiêu đốt. Như nhập vào Thủy giới Tam-muội thì kẻ ngu thấy mà cho đó là nước mà ném vật vào. Tâm Bồ-tát như h ư không, bất giác xúc nhiễu. Đó chẳng phải chỗ mà hàng Nhị thừa thành tựu mỹ mãn. Đó mới là sự cấp thiết ở hạnh quả. Nếu miệng nói mà thân ý chẳng tu thì do đâu mà trợ Đạo ư?

4. Truyện ngài Pháp Hỷ ở cung Giang Đô đời Tùy:

Thích Pháp Hỷ, người xứ Nam Hải, hình dạng thấp xấu, yếu ớt, tuổi chừng bốn mươi. Các bậc lão túc ở Lãnh Biểu đều nói: “Từ thuở còn bé mới thấy biết thì dáng mạo của Sư cũng như nay không khác. Ở xứ mọi rợ man diên có tương truyền là Sư đã ba trăm tuổi. Và Sư cũng tự nói: “Xưa kia cũng từng gặp biết Đại Sư Tuệ Viễn ở Lô Sơn”. Sư nói lại mọi việc ở đời Tống, Nhà Tấn rành rẽ như tin tức mới xảy ra ở đêm trước. Lúc bình thường thì Sư lặng lẽ, gặp người thì nói, mà nói thì có mang thâm ý, mọi việc lành dữ sự tốt xấu đếu như có ảnh hưởng. Nên mọi người cũng chẳng muốn thấy mặt Sư, vì sợ Sư nói thẳng ý tai ác ngỗ nghịch.

Dưới đời Trần, Mã Tĩnh làm Thứ Sử Quảng Châu vừa mới lên nhận nhiệm, Sư đi thẳng vào Châu, lên trên sảnh sự có vẽ hình đầu ngựa dưới đất, chỉ cho con ông ta thấy rồi bỏ đi. Mã Tĩnh vốn là dòng họ có tiếng ở Phù Phong, hùng dũng có lắm võ lược, biết rõ sự thể. Đến lúc vào Châu, mỗi lần xuất hành cả mấy muôn bộ tùng binh sĩ, cờ xí kiếm kích như cầu vồng, sáng ngơi tợ sương tuyết, nói lấy đó có thể dùng để tuần xét. Ông ta xa xỉ quá độ đến nỗi các hàng vương giả củng chẳng bằng, bị dân chúng vu cáo là có mưu ý phản loạn. Mã Tĩnh lo sợ liền sai người dẫn vợ con hơn cả trăm người vào triều trình bày không có âm mưu biến đổi. Trần chúa vẫn còn lầm hoặc, sai Lâm Nhữ qua thời gian xem xét thân thế, bảo rằng: “Nếu có hành động phản loạn thì sẽ bị hành xử. Còn thật không mưu nghịch thì đi thẳng mà thay thế”. Lâm Nhữ ham lợi tài sản của Mã Tĩnh, khi đến Châu chẳng xem xét đúng sai. Mã Tĩnh ỷ cậy tâm mình không đổi khác bèn thốc tay đến chỗ Lâm Nhữ. Lâm Nhữ bèn quát bảo mọi người chung quanh bắt lấy chém đầu Mã Tĩnh. Đến đó mới thấu suốt việc họa vẽ dưới đất của Sư có hiệu nghiệm. Những điều thấy trước của sư đều giống đồng như thế.

Vua Dương Đế (Dương Quảng 60 – 617) nghe thế, truy tìm lại Dương Châu. Sau đó không lâu, trong cung xây cất một ngôi nhà mới hoàn thành. Sư vội vàng bước lên nhà ấy xem xét rồi bỗng nhiên kinh hãi chạy xuống tầng cấp bảo rằng: “Không bao lâu sẽ đè chết”. Đêm đó mưa lớn, ngôi nhà đó sụp đổ đè chết mấy người. Sau đó, Sư lại đi rảo quanh trong cung bảo là cần tìm kiếm đầu đê. Vua Dương Đế nghe rất ghét và trách Sư cho đó là lời nói cuồng, ra lệnh trói lại giam trong một căn phòng suốt mấy ngày. Tam vệ ra chợ thấy Sư đang thong dong đi lại, bèn trở về trình tấu. Vua sai sở ty xét xem lại chỗ giam giữ cửa khóa vẫn như cũ, người đang coi giữ nói là Sư đang ở trong phòng. Khi đó, mở cửa xem thì thấy áo cà sa phủ che trên một đống xương cốt mầu trắng. Sợi xích trói ngang cổ vẫn không mở. Vua Dương Đế rất kinh hãi, lấy làm quái lạ, liền sai Trưởng sử Vương Hằng mau xem xét thì thực sự thấy áo cà sa che phủ trên đống xương trắng, xương cốt đều móc nối liền nhau, xích sắt quấn ở cổ bộ xương. Vua nghe thế kinh ngạc mà khen ngợi, càng thêm kính tin tôn trọng. Ra lệnh không được xem thường dời động và bảo rằng: “Các bậc Thánh có thần biến vô phương. Đến chiều Sư trở lại phòng đó, hoặc nói, hoặc cười v.v… người coi giữ lại trình tấu vua Dương Đế bảo hãy mở xích thả ra, Sư đi đâu tùy ý.

Có lúc, trong một ngày Sư đến thọ trai thực ở mấy nhà. Hoặc có lúc Sư uống rượu ăn thịt đều không kiêng cữ. Không bao lâu Sư thị hiện bị bịnh, thường nằm trên giường, vứt bỏ chiếu cỏ v.v… mà nằm dài, bảo ng ười đốt than đỏ cháy ở phía dưới, vài ngày sau thì Sư thị tịch, nửa thân bị cháy bỏng, an táng ở cạnh chùa Hương Sơn. Sau đó bốn năm, tại quận Nam Hải trình tấu thấy Sư hiện vẫn còn ở tại quận. Nhà vua ban sắc khai quật mở nắp quan tài thì chỉ thấy trống rỗng, chẳng có gì cả.

5. Truyện ngài Khâm Sư ở Lạc Châu đời Tùy:

Thích Khâm Sư, không rõ Sư là người xứ nào. Vào niên hiệu Đại Nghiệp (60 – 617), Sư đến xứ Quảng Bình, hình thần trái lầm, vội vàng khó dò biết, nói năng bất thường. Sư vào trong viện thấy ở chùa Linh Thông xây dựng ngôi tháp năm tầng bằng gạch, định mở mang cao lớn, công việc đang lộn xộn. Sư trông thấy mỉm cười, bảo với chúng tăng trong chùa rằng: “Xây cất cái ấy làm gì vậy?” Chư tăng bảo: “Công đức Phật sự phải dùng cảnh hùng vĩ, sao Pháp sư hỏi kỳ vậy?” Sư cười bảo:

“Xây dựng lầu phong hỏa (đồn lửa canh phòng) vậy!” Chư tăng lúc đó cùng nhau chê trách Sư rằng: “Hạng người điên khùng ấy nói đâu đáng để ý”. Đến niên hiệu Đại nghiệp thứ 9 (613), tháp vẫn chưa xây xong, giặc cướp bốn phương nổi dậy, ở Châu Quan cảnh phòng nghiêm mật, trên tháp có đặt Hầu Vọng Hỏa Phong. Khi đó mới tin lời Sư nói không luống dối. Các vị kỳ cựu cũng không biết Sư từ đâu đến, ngay chỗ nghỉ ở cũng không dấu vết gì nhưng mà luôn luôn biến thân ở chuồng heo, tức đồng tử theo đàn heo. Mấy người như Mã Thế Đạt, v.v… thấy Sư lúc mới biến, bèn dừng lại có ý dò xét xem thử Sư hiện lại hình người như thế nào. Sau đó, quả thật bỗng nhiên hiện lại hình người đứng ở phía sau nhìn mọi người và gọi lớn rằng: “Bọn các ông muốn nhìn cái gì?” Mọi người kinh hãi chắp tay bái lạy Sư, Sư biến hiện chẳng thường đều như thế. Đến lúc mọi người tán loạn, tiếng tăm vết tích về Sư cũng mất hẳn.

Liên hệ thử bàn:

Chư tăng ở đời Ngụy, đời Tùy sao có lắm sự ứng hiện như vậy? Thông đáp: Các vị Bồ-tát vận dụng tùy loại hóa thân. Dùng thần thông để du hí. Ngay sự du hí mà làm lợi ích cho thế chủ. Có người nói rằng: Trong thời Ngụy, Tề, Trần, Tùy cùng với Luật sư Đạo Tuyên có sự tương tiếp tai mắt, cớ sao không đưa vào tục truyện? Thông đáp: Có chỗ không biết nên thiếu sót như vậy, và cũng do đến thời nhà Tống văn quỹ đã đồng, đất đai bờ cõi rộng rãi, thường hay có những chuyện kỳ lạ khó biết hết được. Nếu có vị tăng nào vậy mà sử thị chưa biên, thì các nhà viết truyện không có bằng cứ, nên cũng thiếu sót, nên chẳng kịp ghi chép. Để đợi các bậc hiền giả đời sau.

6. Truyện ngài Tăng Già trụ chùa Phổ Quang Vương ở Tứ Châu, thời Tiền Đương:

Thích Tăng Già, Sư người nước Hà ở phía Bắc Thông Lãnh. Sư tự nói là dòng họ Hà, cũng như Ngài Tăng Hội vốn người nước Khương Cư, nên gọi là Khương Tăng Hội.

Nhưng hợp có tên Hồ Phạm. Tên đã là tiếng Phạn, họ có thêm tiếng Hoa, rõ biết nước Hà ở phía Đông Bắc nước Toái Diệp, là Phụ Dong Toái Diệp.

Sư ở tại quê nhà, xuất gia từ thuở nhỏ. Sau khi đã là tăng sĩ, Sư phát chí du phương, Ban đầu Sư đến phủ Tây Lương, kế đến là trải qua Giang Hoài. Lúc đó, khoảng đầu niên hiệu Long Sóc (661). Khi đã ghi danh phối thuộc chùa Long Hưng ở Sơn Dương, từ đó Sư mới phát bày thần dị. Ban đầu, Sư dẫn đệ tử là Tuệ Nghiễm đồng đến Lâm Hoài, tới cư dân ở phường Tín Nghĩa xin đất hạ nêu, lời ký quyết định tại xứ đó có xây chùa. Trong hang đất có được bia đá cổ mới biết đó là chùa Hương Tích thuộc nước Tề. Được một tôn tượng vàng lá y khắc chữ “Phổ chiếu” Vương Phật “. Cư dân ở đó khen ngợi điều kỳ lạ, bảo rằng: “Thiên nhãn thấy trước, chúng ta sao chẳng xả thí ư?”. Bia đá và tôn tượng đó đến niên hiệu Trinh Nguyên cho đến niên hiệu Trường Khánh (78 – 80) – (821 – 82), qua hai lần gặp phải hỏa tai nên mất hẳn dấu vết.

Sư thường nằm ở nhà của Hạ Bạt, thân hình bỗng nhiên dài ra mà giường chõng cũng tự dài ra ba thước, mọi người không ai chẳng kinh hãi lấy làm quái lạ. Kế đến, Sư hiện hình tượng Bồ-tát Quán Thế Âm mười một mặt. Cả gia đình cho đến dòng họ vui mừng gấp bội, càng thêm kính tin tôn trọng, bèn xả thí ruộng vườn làm nền chùa Hương Tích, tức là nền chùa hiện nay vẫn còn. Do đó mà vết tích kỳ dị vụt chốc nẩy nở không ngừng.

Đến niên hiệu Cảnh Long thứ 2 (708) vua Trung Tông sai sứ mang chiếu thỉnh Sư vào Nội Đạo tràng. Nhà Vua đến tại Pháp Diên bàn luận về tháo tất, hỏi đáp tốt xấu thảy đều phù hợp. Vua ngợi khen ban sắc sửa sang ngôi chùa đó và đề hiệu là”Phổ Quang Vương”. Đến năm Canh Tuất (710) tức niên hiệu Cảnh Long thứ , Sư thị hiện bị bịnh. Vua Trung Tông ban sắc đón rước Sư từ Nội Đạo tràng sang tĩnh dưỡng tại chùa Tiến Phước. Tối ngày mùng 2 tháng 3, Sư nghiễm nhiên an tọa thị tịch, thần sắc vẫn như còn sống, chỉ nhắm mắt lại thôi. Sư thọ tám mươi ba tuổi, không biết bao nhiêu hạ lạp. Sư ở tại bổn quốc (nước Hà) ba mươi năm, mở mang tại Đường Độ (Trung Hoa) 3 năm. Vua Trung Tông buồn thương đến viếng điếu. Khi đó uế khí xong nghẹt mà hình thể Sư vẫn tươi tắn, hiện nhiều linh tích. Nhà vua ban sắc Ty thuộc cung cấp ba trăm xấp lụa, giúp đỡ đón rước về an táng tại Hoài Thượng, lệnh cho các quan đồng tiễn đưa, dân chúng sĩ thứ đông nghẹt đường. Tối ngày 1 tháng là đến chỗ huyện nầy.

Vua Trung Tông vì kính mến không quên, nhân đó hỏi Ngài Vạn Hồi rằng: “Ngài Tăng Già là người thế nào?”Ngài Vạn Hồi đáp: “Sư là hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm! Trong Kinh há không nói đó sao? Đối với người đáng dùng thân hình Tỳ-kheo để được độ, thì hiện tướng Sa-môn để độ!”

Ban đầu, Sư hóa hành tại Giang Biểu, dừng nghỉ tại chùa Linh Quang ở Gia Hòa. Đó là nước Trạch. Dân chúng phần nhiều đắp bờ bắt cá, bắn tên săn thú giao ngọ. Sư tha thiết đôn đốc dẫn dụ, chỉ cho các nghiệp sát ấy làm cho con người bị đọa, nên gấp tìm kế sinh nhai khác. Bấy giờ, rất nhiều người nghe theo mà phá lưới bẻ câu. Những lúc nhàn rỗi Sư yên nghỉ, thấy vị thần đến mách bảo rằng: “Ở phương trên nắng hạn, lúa mạ của trăm họ khô chết, đó là do rồng biếng nhác?” Sư bảo:”Như thế biết làm sao?” Thần nói rằng: “Như đêm nay, chỉ đưa ngón tay nhỏ ra ngoài ngạch cửa sổ, xem người như thế nào”. Sư bèn y theo. Đêm ấy sấm sét khác thường. Đến sáng sớm mai xem ở ngón tay nhỏ thấy có gân mạch như chỉ hồng. Sư tự bảo: “Ta không có duyên với xứ nầy”. Ngài bèn đến Tấn Lăng, thấy chùa Quốc Tường bị hoang phế, bèn để lại chiếc y trên đòn dông trên chánh điện mà đi. Sau đó, mọi người nghe có mùi hương thơm lạ phảng phất. Sư có ghi ở đó rằng: “Chùa ấy sẽ có vua cõi người xây dựng lại”. Ba mươi năm sau quả nhiên có vị tăng dòng họ Toàn làm đàn-na. Vào khoảng niên hiệu Thông Thiên Vạn Tuế (696 – 697), đang lúc ở trong chúng tại Sơn Dương, dự biết ganh ghét đối với Sư, (vị tăng đó) bèn nói rằng: “Tôi có năm mươi muôn đồng tiền, kính dâng hỗ trợ công đức, chớ sanh bàn tán rộng rãi”. Sư bèn ở trên bờ sông Hoài, gọi một chiếc thuyền mà bảo rằng: “Ông có của cải cúng thí, tôi có thể khoan thứ hình ngục. Những gì ông chuyên chở sẽ bị cướp đoạt hết! “ Bọn trộm nghe theo lời nói đó bèn xả bỏ hết và điện Phật do đó mà được xây thành. Sau đó không lâu, bọn trộm cướp bị lộ, bị bắt giam tại ngục ở Huyện Dương Tử. Sư cưỡi mây xuống an ủi rằng: Đừng lo. Chưa qua ngày đó đều được phóng thả, khỏi phải chết.

Xưa kia, tại Trường An, phụ mã Đô Úy Võ Du Kỵ bị bịnh, Sư lấy nước ở bồn tắm giặt phun vào mà lành. Hoặc cầm lấy bình nước, hoặc bảo sám tạ lỗi lầm, ứng nghiệm chẳng dối bày, thành công không tổn mất. Trừ thân tai họa kia rồi thì cầu xin ngựa, thí như trời nóng nực thì kiếm tìm quạt. Hoặc nhận tiền của kẻ trộm, hoặc trói cổ bằng dây đen, hoặc tìm giếng của La-hán, hoặc tỏ ngộ đắm chìm của họ Bùi, hoặc dự biết có tuyết lớn, hoặc cứu hạn bằng mưa bay. Thần biến vô phương, đo lường chẳng có độ thường.

Vua Trung Tông ban ân sắc, Sư độ ba vị đệ tử Tuệ Ngạn, Tuệ Nghiễm và Mộc-Xoa, mỗi vị đều được ban tặng y bát và được bảo tiếp nối hương hỏa, mãi đến lúc Sư đã thị tịch, trải qua nhiều năm và nơi chốn. Sư từng hiện hình ra chợ Hán Nam mua đồ vật, đến lúc thương nhân Lý Thiện Tín đưa thuyền đến chùa kiếm tìm người mua đồ vật cúng trai. Chư tăng thấy trong tháp hình tượng Sư nghiễm nhiên mà đưa tay chỉ: “Chính là vị tăng này đến xin mua!” Xa gần mọi người đều khen ngợi. Sư từng tới Hồng Tỉnh đổi cây gỗ, kết bè mà đến.

Vào niên hiệu Đại Lịch (766 – 780), chùa Tướng-lặc ở Trung Châu trông coi mười dịch, khiến xuất tiền của cung cấp người thừa truyền. Đến lúc sẩm tối vào tháng 7 niên hiệu Đại Lịch thứ 1, Sư hiện hình vào Nội Điện, xin miễn dịch bưu đình. Vua Đại Tông ban sắc Trung Quan Mã Phụng Thành tuyên cáo phóng thả. Nhà vua bèn mang xả thí ba trăm xấp lụa và hơn ngàn đoạn lụa mầu, bồn tắm bằng vàng, một bộ y phục của Hoàng Thái tử. Bảo đắp vẽ tôn dung của Sư đưa vào trong cung để cúng dường. Thêm nữa, vào niên hiệu Càn Nguyên (78 – 760), Châu mục Lý có suy bộ, nói là thổ tú thêm tai họa sẽ phải yếu kém. Sư bỗng hiện hình vỗ vào lưng Lý, bảo rằng: “Ta đem nước đến, ra mồ hôi thì tai họa tiêu “. Sau quả nhiên không có lỗi. Sư từng đến Yên Sư cầu chiên kế, ít lâu sau, Sa-môn Yên sai người mang vật cần cầu đến, nhận ra hình trong tháp nên rất kính tin, bèn họa vẽ tôn dung Sư mà mang về. Từ Yên kế xoay vần truyền tả có mặt ở khắp nơi.

Đến niên hiệu Trường Khánh thứ nhứt (821), bỗng dưng vào nửa đêm nọ, ở trước nhà ngủ của Châu mục Tô Công có tiếng khen ngợi rằng: “Hoài Nam, Hoài Bắc phươc vốn ở đây. Từ Đông sang Tây đều thành đất Thục “. Năm đó chỉ trong địa vực Hoài được mùa. Đến năm sau (822), chùa tháp đều bị thiêu cháy, chỉ di thể Sư nghiễm nhiên không tổn hoại gì. Vào niên hiệu Hàm Thông (860 – 87), có Bàng Huân vốn là binh lính ở Từ Châu, chuyên lìa Quế Quan, men đường cướp bóc mà tiến đánh Tứ Châu vây hãm lấy thành. Sư hiện hình trên đảnh tháp, giặc cướp bên ngoài đều ngủ, trong thành chợt phát ra tiếng nói, giặc kinh hãi chạy trốn mà thối lui. Tô Châu đem việc ấy tấu trình, Vua Tuyên Tông bèn ban tặng sư hiệu là “Chứng Thánh Đại Sư”. Đến niên hiệu Văn Đức thứ nhứt (888), bên ngoài giặc cướp xung đột, Châu tướng là Anh Thành chống địch. Sư hiện hình ở góc Tây Bắc thành. Giặc thấy biết là thành lũy vững chắc khó hạ, kinh hãi mà trốn mất. Đến niên hiệu Đại Thuận (890 – 892), Bành Môn Soái Thời Đoàn sai Trương Gián đánh phía Bắc thành. Ngoài tru lục, có hơn năm trăm người, giam hãm tại các đạo tràng. Trương Gián, trong lúc đang hoảng hốt, thấy một vị tăng mặc y sắc tía dạy rằng: “Hạng người bình dân như thế sao lại giết họ, chẳng bằng hãy thả họ đi!” Nói xong liền biến mất. Trương Gián bèn thả mọi người mà trốn. Đến niên hiệu Càn Ninh thứ nhất (89) Thái Úy Đài Mông mộng thấy Sư bảo rằng: “Hàn rét ở Đông Nam hãy chuẩn bị”. Đài Mông không hiểu được ý chỉ, bèn đem chăn bông pháp phục cúng thí Sư. Đến hôm 30 tháng 12, có một binh sĩ nhảy thành lũy mà vào, lúc đầu Đài Mông không biết. Lại mộng thấy một vị tăng dùng tích trượng ấn lên trên tim, lạnh buốt cả tim gan, kinh hãi mà vùng dậy. Đài Mông ra lệnh đánh động trống sừng. Bọn giặc kinh hãi bỏ chạy. Bắt được tên thủ lãnh vốn họ Hàn. Đến lúc đó Đài Mông mới hiểu. Do đó, trên đảnh tháp, thường hay hiện hình tướng tiểu tăng, khắp cả Châu Quận đều chiêm ngưỡng, hễ có điềm lành dữ thì báo điềm. Bấy giờ, nếu cầu xin gió thì thổi gió, cầu xin con thì được con. Nay nghe có người đích thân đến lễ bái, thường chẳng thấy hình tướng Sư, hoặc thấy dáng vẻ mỉm cười tức là tốt lành, nếu không như thế tức là hung dữ. Còn nếu không thể độ thì như thế.

Đến thời vua Thế Tông (96 – 960) thuộc thời Hậu Chu, Sư có việc đi đến Giang Nam, trước tiên đến Tứ Thượng, Sư gá mộng vào dân chúng trong Châu mà bảo rằng: “Không nên khinh địch”. Như thế cả Châu Mục đều chưa tin. Từ đó nhà nhà đều nằm mộng thấy mách bảo như thế, nên thông báo cho toàn cả Quận. Đó đều là nhờ Sư giúp đỡ. Trong nước hễ nơi nơi nào tạo lập tinh xá, đều lập chân tướng của Sư và dề bản là Đại Thánh Tăng Già Hòa-thượng. Có điều gì mong cầu nguyện ước thường toại lòng người. Lý Bắc, Hải Ung Hồ đều soạn bia ca tụng đức hạnh Sư. Nay Thượng Ngự Vũ lưu tâm đối với điều đó. Tháng Ba năm đó, có vị Ni đi đến núi Ngũ Đài trở về, nhân thấy Sư hiện tướng hài nhi trên đảnh tháp, bèn lên sát trụ (cột chùa) xả bỏ thân mạng mà cúng dường.

Vào niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 7 (982) thời Bắc Tống, vua Thái Tông, tức Triệu Quýnh hoặc là Quang Nghĩa, ban sắc cho Cao Phẩm Bạch Thừa Duệ sửa sang lại tháp thờ Sư, mở mang rộng rãi, xây thêm nhiều tầng cấp. Qua năm sau (983), vua lại sai sứ đón rước Xá-lợi bảo hóa đồng an táng dưới nền tháp. Ngày đó, có Sa-môn Hoài Đức xây dựng lầu củi tự ôm đuốc thiêu thân cúng dường, trong lúc lửa cháy dữ dội có tiếng tụng kinh không dứt. Thêm nữa, lúc sắp xây dựng tháp, có cây gỗ lớn ba rễ cong theo sông Hoài mà xuống, đến gần Phù Kiều thì dừng, bèn nhặt lấy làm trụ tim tháp. Vua Thái Tông ban sắc cho Điện Đầu Cao Phẩm Lý Đình Huấn làm chủ ở đó. Trước kia chùa đó có pho tượng bằng vàng khắc đề hiệu là Phổ Chiếu Vương, mới lấy làm biển ngạch chùa. Sau, để tránh ngự danh của Thiên Hậu (tức Võ Hậu, Võ Chiếu, Võ Tắc Thiên) mới dùng chữ Quang để thay. Gần đây Tuyên Sách Tăng Già Thực Lục tấu trình nhà vua xem xét xong, ban sắc để trả lại biển ngạch là Phổ Chiếu Vương.

Ngài Mộc-Xoa, là đệ tử Sư lấy tiếng Tây Vực làm tên, Hán dịch

là Giải thoát. Từ thuở nhỏ, Ngài Mộc-Xoa theo Sư làm đệ tử, nhưng thường hiển bày lắm việc linh dị. Niên hiệu Trung Hòa năm thứ (89, thời Tiền Đường, vua Hi Tông), Thứ sử Lưu Nhượng Quyết Phụ Trung Thừa, một đêm nọ bỗng thấy có vị tăng mặc y phục sắc tía bảo rằng: “Ta có đệ tử tên là Mộc-Xoa an táng tại phía Tây chùa, vì ngày tháng đã qua lâu, ông hãy đào lên”. Và bèn chỉ cho chỗ an táng. Mới nằm mộng đều không để ý, sau lại mộng như trước, Trung Thừa được chỉ chỗ trong mộng, muốn thi hành đoán đó, thấy có hai họ chiếm cứ. Bấy giờ là họ Nhiêu Tiền, khai quật đến ba thước mới có được hòm ngồi, bèn mở ra trên cốt đảnh có xá-lợi phát ra ánh sáng, sai đem thiêu và thâu nhặt hơn tám trăm viên xá-lợi, bèn dâng biểu tấu trình vua Hy Tông, vua bèn ban sắc đem tro thiêu đốt đó đắp thành tôn tượng và vua phong tặng thụy hiệu là “Chân Tướng Đại Sư”. Đến nay đang đứng hầu ở bên trái như phối hưởng. Thứ nữa, có Ngài Tuệ Nghiễm cũng là đệ tử của Ngài Tăng Già, không rõ dòng họ và quê quán, Ngài thường theo thầy ôm bát cầm gậy. Phát xuất từ Sở Châu đến Hoài Âm. Đồng khuyên vợ của Bùi Tư Mã ở Đông Hải là khúc bạch Kim Sa La mở giếng La-hán, sớm mừng Bạt huyền giúp nhà. Ngài Tuệ Nghiễm đứng hầu bên cạnh tôn tượng Bồ-tát Quán thế Âm mười một mặt. Từ đó, vua ban chiếu mời Ngài Tăng Già đến chốn kinh đô. Vua Trung Tông riêng sắc độ ba vị: Tuệ Nghiễm, cùng Tuệ Ngạn và Mộc-Xoa. Mỗi vị đều được ban tặng y bát.

7. Truyện ngài Tuệ An trụ chùa Thiếu Lâm ở Tung Nhạc, thời Tiền Đường:

Thích Tuệ An, họ Vệ, người ở xứ Chi Giang, thuộc Kinh Châu. Dáng mạo Sư đoan nhã, tóc biếc mắt xanh. Ngài ra đời vào niên hiệu Thiên Hoàng thứ nhứt (81) đời Tùy. Sư bản tánh khoan dung rộng rãi, chẳng nhiễm tục trần, tu học các Pháp môn thảy đều thông suốt.

Niên hiệu Khai Hoàng thứ 17 (9), vua Văn Đế (Dương Kiên, đời Tùy) ban sắc khắp trong nước riêng độ tăng ni. Khám Vân nói: “Vốn không tên họ, mất vào hang núi”. Vào niên hiệu Đại Nghiệp (60 – 617) đời Tùy, khai thông tế cừ, truy tập phu đinh, đói chết nhìn nhau. Sư đi quanh xin nhiều bát thức ăn cứu giúp người bịnh, còn lại mới ban cấp chúng. Vua Dương Đế (Dương Quảng) nghe thế bèn ban chiếu thỉnh Sư, Sư bèn lẫn trốn vào núi Thái Hòa. Đến lúc nhà vua tới Giang Đô, trong nước nhiễu nhương, Sư bèn chống tích lên chùa Hành Nhạc, thực hành Pháp Đầu-đà.

Vào niên hiệu Trinh Quán (627 – 60) thời Tiền Đường, Ngài đến Kỳ Châu lễ yết Đại Sư Hoằng Nhẫn. Niên hiệu Lân Đức thứ nhứt (66), Sư đến Thạch Bích ở núi Chung Nam và dừng ở. Bấy giờ, quanh vùng Nguyên Cốc chỗ ở bị sương sớm làm hư hại lúa mạ, riêng chỗ Sư ở thì không. Ngoài bốn mươi dặm đều bị tai họa của Thanh nữ làm khổ. Thiên Hoàng Đại Đế (tức Thái Tông, Lý Thế Dân) nghe thế nên thỉnh Sư, Sư chẳng vâng theo thánh chiếu. Tới niên hiệu Vĩnh Thường thứ hai (683), Sư đến cất đài dựng am tranh mà ở. Bên trong, Sư ngồi trên giường dây, bốn phía để tường trống bày. Vua Cao Tông ban sắc lập chùa để Sư ở, đề hiệu là Chùa Chiêu Đề. Như vậy, Sư lại bỏ, trở về chùa Ngọc Tuyền ở quê cũ.

Đến tháng niên hiệu Thánh Lịch thứ 2 (699), dưới thời Võ Hậu, Sư bảo với môn nhân học chúng rằng: “Các ông ai đâu về đấy đóng cửa”. Đến canh 3, có vị thần tới hỗ vệ đông đúc hòa cùng tiếng linh long bong, gió mưa đều đến. Vị Thần đó đi nhiễu quanh viện mấy vòng. Sư nói chuyện với vị thần, vị thần tha thiết chỉ dạy. Thần lại bái lạy mà đi. Có người hỏi Sư về lý do. Sư bảo: “Tôi vì thần của Tung Sơn mà truyền trao giới Bồ-tát “. Thiên Hậu (Võ Hậu – Võ Tắc Thiên) có lần hỏi Sư về năm sanh. Sư bảo: “Không nhớ”. Thiên Hậu lại hỏi: “Tại sao không nhớ?” Ngài bảo: “Thân sanh tử như vòng tuần hoàn, vòng đã không điểm khởi và điểm cùng tận, lấy đâu mà nhớ. Hơn nữa, tâm này lưu trú trong không gian không xen hở, thấy bọt khởi diệt cũng là vọng tưởng, từ sơ thức đến lúc tướng động bị diệt cũng chỉ như thế, làm gì có năm tháng để ghi nhớ?” Thiên Hậu sụp đầu cúi lạy. Nghe Sư bị thiếu giếng nước, bèn ban sắc sai người đến đào. Sư bảo: “Dưới đây có điềm lành, phải cẩn trọng, đừng để thương tổn loại vật “. Khi sắp đến nước, thấy có loài tôm mầu vàng ròng, khuấy động dưới bùn, hợp với lời huyền ký của Sư, Thiên hậu càng tín phục kính trọng gấp bội.

Đến tháng 9 niên hiệu Thần Long thứ hai (706) vua Trung Tông ban sắc sai Trung Quan mang đến dâng tặng Sư áo ca sa sắc tía và lụa, độ hai mươi bảy vị đệ tử. Nhà vua lại ban chiếu thỉnh Sư cùng Thiền sư Tĩnh vào nội cung chứng thọ cúng thí. Năm sau (707) nhà vua ban tặng một bức ma-nạp. Sư bèn từ tạ trở về chùa Thiếu Lâm. Đến ngày 13 tháng 9 niên hiệu Cảnh Long thứ ba (709), Sư dặn dò môn nhân rằng: “Sau khi tôi chết, đem thi thể bỏ trong rừng, đợi lửa giữa rừng đồng hoang tự thiêu đốt nó. Chớ trái ý nguyện của tôi”. Không bao lâu, Hòathượng Vạn Hồi đến, thấy Sư càn rỡ, bèn nắm tay nói bàn trong di khắc. Người hầu đứng bên cạnh chú ý lắng nghe, nhưng không biết hai Ngài nói gì. Đến ngày mùng 8, Sư đóng cửa phòng nằm nghiêng mình mà thị tịch, thọ một trăm ba mươi tuổi, tính bắt đầu từ niên hiệu Thiên Hoàng thứ 2, đời Tùy đến niên hiệu Cảnh Long thứ 3 (709), thời Tiền Đường.

Sau khi lửa cháy thiêu đốt nhục thể xong, thâu nhặt được tám mươi viên xá-lợi. Đem năm viên có mầu hồng tía dâng vào nội cung. Ngoài ra đem ban tán cúng thí cho mọi nơi, tùy sức mà xây dựng tháp thờ. Đến niên hiệu Tiên Thiên thứ 2 (713), môn nhân mới xây tháp cúng dường.

8. Truyện ngài Vạn Hồi ở Văn Hương Tại Quắc Châu, Thời Tiền Đường:

Thích Vạn Hồi, họ Trương, người ở xứ Văn Hương, thuộc Quắc Châu. Lúc tuổi còn thơ, Sư đần độn, ít nói năng. Cha mẹ buồn thương khí trược đó. Bị những trẻ thơ quanh xóm khinh lờn, nhưng Sư không hề có thái độ đua tranh, nhưng miệng Sư tự nói hai chữ Vạn Hồi. Nhân đó mà đặt tên. Hơn nữa, Sư chẳng nói nóng lạnh, thấy người nghèo khổ hèn mọn Sư chẳng sanh khinh mạn, với kẻ giàu sang phú quý cũng không đáng để Sư Phải cung kính. Đông Tây rảo khắp suốt ngày chẳng nghỉ. Hoặc cười hoặc khóc, thái độ chẳng thường. Ở nơi khóe miệng thường chảy nước dãi, mọi người đều kinh dị. Ngài chẳng ưa thích xa hoa, rất ít nói năng, hễ nói tức như sấm ký, việc qua rồi mọi người mới biết.

Năm Sư mười tuổi, anh Sư đi lính ở Liêu Dương, có thuyết nói là An Tây, đã lâu không có tin tức. Mẹ Sư rất mến thương trông nhớ, bèn thiết trai cúng dường cầu phước. Sư chợt thưa với mẹ rằng: “Anh An rất dễ biết, đâu có gì mẹ phải lo âu”. Sư liền đem các thực phẩm cúng dường còn thừa mang đi, đến lúc chiều tối thì trở về mang theo thư của người anh viết là “bình thường tốt lành”. Hỏi về nguyên do, Sư chỉ im lặng không nói. Sư đi lại cả muôn dặm. Lúc sau người anh trở về nói:”Ngày đó gặp em nói từ nhà đến thăm, nhân đó mà trao cho Sư bánh bột để ăn mà trở về”. Cả nhà đều kinh hãi mà mừng vui. Từ đó, mọi người đổi cách nhìn đối với Sư.

Vua Trang Tông ban chiếu sùng trọng. Niên hiệu Thần Long thứ hai (706) ban sắc riêng độ một mình Sư mà thôi. Từ cuối thời vua Cao Tông (68) đến suốt thời Võ Hậu (68 – 70), vua thường ban chiếu mời Sư vào nội Đạo tràng, ban tặng y phục lụa là, người trong cung lo cung cấp mọi việc.

Trước kia, khi còn bé, Sư thường đến chùa Hưng Quốc ở Văn Hương chất ngói đá làm tháp Phật, sau khi Sư đã vào Nội Đạo tràng, thì tháp đó phát ra ánh sáng. nhân đó làm các lọng lớn che ở trên và mọi sự cúng thí để xây dựng đều không thể suy lường được, hễ Sư mở lòi thì có liền. Triều đình sắc tặng Sư hiệu là Pháp Vân Công. Người ngoài không thể thấy được. Trước kia vào thời Vũ Hậu, Nhậm Khốc Lại làm điều thêu dệt, các quan hơi cao thì ngày một cách biệt vợ con. Bác Lăng Thôi Huyền Vĩ, địa vị và danh vọng đều cao cực, mẹ ông ta là bà họ Lô, hiền mà rất âu lo, bảo ông ta rằng: “Con có thể một ngày nào đó đón Ngài Vạn Hồi, vị tăng đó thuộc dòng Ngài Bảo Chí, nên có thể nhìn cử chỉ mà biết được họa phước “. Khốc Vĩ bèn thỉnh Sư đến nhà, mẹ ông sụp khóc đảnh lễ, cúng thí một đôi muỗng đủa bằng vàng. Sư bỗng nhiên bước xuống bực thềm ném muỗng đủa ấy lên trên nhà rồi phủi tay bỏ đi. Cả nhà đều cho đó là điều không tốt lành. Qua vài ngày sau, bảo người lên nhà lấy muỗng đũa đó xuống thì có kèm thêm một quyển sách, xem kỹ thì đó là sách sấm vĩ, bèn vội bảo đốt đi. Vài ngày sau, bỗng nhiên có Ty sở đến nhà lục soát tìm kiếm đồ sấm, chẳng tìm được tuyết. Bấy giờ, Khốc Lại thường hay khiến trộm cướp ném vật cổ đạo và ngụy tạo bí sấm để lừa dối người. Trở lại khiến vu cáo được Thực Đồ Lục, làm mất nhiều nhà. Họ Thôi (Thôi Huyền Vĩ) chẳng phải là bậc Thánh ném đủa muỗng thì đâu thể biết được đó là ngụy đồ sấm. Cuối cùng vua Trung Tông thường mắng trách Vi Hậu thường làm phản bội nghịch, chẻ đầu nó đi, tìm mà giết chết. Công Chúa Thái Bình vì tạo vườn nhà ở trong phường Hoài Viễn nên có trước sau với chủ nhà vườn. Hơn nữa, Vua Trung Tông đích thân đưa Công Chúa Kim Thành ra hàng Thổ Phiên, đến lúc thái bình trở lại đón rước.

Bấy giờ, Thôi Nhật Dụng, Võ Bình Nhất, Tống Chi hỏi Trầm Thuyên Ky Sầm Nghĩa, Tiết Tắc đều nhóm họp trịnh trọng. Sư dò hỏi các công rằng: “Các ông muốn cầu một lời của bậc Thánh để định được điều tốt xấu ư?” Và Sư vỗ vào lưng Trầm thuyên, bảo:”Ông thật là người tài”. Trầm Thuyên vui mừng không gì hơn, nói rằng: “Bậc Thánh đã thọ ký cho ta, các ông chớ nên cạnh tranh nữa”. Sư lại nói với Võ Bình Nhất: “Cùng làm với ông gọi là Phật đồng, chớ nên lo lắng”. Sư đưa mắt nhìn Sầm Nghĩa và Tiết Tắc với vẻ mặt không tốt lành, Sầm Nghĩa bèn dùng ngựa chạy lánh. Sư nhìn Tiết Tắc, bảo: “Ông này thường là chồn hoang”. Lời nới đó đâu đáng sợ. Sư ngoảnh lại bảo: “Ông cũng không tránh khỏi bị giết như Sầm Nghĩa và Tiết Tắc”. Mọi người càng thêm quý trọng.

Bấy giờ, có Ngài Tăng Già hóa tích bất thường. Vua Trung Tông hỏi Sư rằng: “Ngài Tăng Già là người thế nào?”. Sư đáp: “Ngài Tăng Già là hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm”.

Vào niên hiệu Trinh Quán (627 – 60), Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang từ Tây Vực trở về kể rằng:”Ở Thiên Trúc có chùa Thạch Tạng, khi Ngài Huyền Trang đến đó thấy có một căn nhà trống, chỉ có giường chõng, tích trượng của người Hồ mà thôi. Nhân đó, Ngài hỏi phòng đó của Đại Đức nào, chư tăng đều trả lời là:”Vị tăng ở phòng đó do thiếu pháp sự, nên bị phạt ở phương Đông, nước hiệu là Chấn Đán, địa phương hiệu là Thọ Hương, chính là Vạn Hồi “. Ngài Huyền Trang trở về tìm kiếm Ngài Vạn Hồi. Bèn thiết lễ hỏi Tây Vực, rõ ràng như mắt trông thấy tiếp xúc. Ngài Huyền Trang sắp hỏi tìm đến nhà. Ngài Vạn Hồi nói với mẹ rằng: “Có khách đến xin chuẩn bị thức ăn để tiếp đãi”.

Lác sau thì Ngài Huyền Trang đến nhà. Vết tích thần dị Của Ngài (Vạn Hồi) có lắm việc như thế. Chánh Gián Đại Phu Minh Sùng Nghiễm là kẻ sĩ Đạo thuật, nói với mọi người rằng: “Ngài Vạn Hồi là bậc thần tăng “.

Vua Huyền Tông lúc chưa lên ngôi cùng vói môn nhân Trương Vĩ, v.v… đồng đến bái yết Sư, Sư thấy vua rất phiền nhiễu nên lấy tất trượng kêu gọi đuổi đi. Các người cùng đi đều bị đuổi ra, Sư kéo riêng mình vua vào bên trái phía sau cánh cửa, đều như người thường, lại không có gì kính trọng lắm, Sư vỗ vào lưng vua bảo: “Ông năm mươi năm ngồi trên ngai vàng hãy tự vui mừng”, sau đó thì không biết. Trương Đỗ Vĩ đứng ở ngoài cửa nghe lời nói đó rõ ràng nên hết lòng kính trọng. Sau năm mươi năm chỉ cho ương họa Lộc Sơn.

Vua Duệ Tông lúc còn ở ngôi, có lúc du hành trong nhân gian, Sư đứng nơi đường cái ở trong xóm, lớn tiếng gọi rằng: “Thiên tử đến!”. Hoặc gọi: “Bậc Thánh đến!”. Xứ đó tín túc nhàn, vua hẳn trải qua bồi hồi. Thái Tử Tuệ Trang là con thứ hai của vua Duệ Tông, Thiên hậu từng ẳm đến cho Sư xem và nói: “Đứa bé này là do Đại Thọ ở Tây Vực nuôi dưỡng, nên đáng anh em”. Công Chúa An Lạc là em gái út của vua Huyền Tông, gán ghép Vi Hậu, lửa nóng có thể cháy tay, mọi người ngoài đường xá đều kinh sợ. Ngài thấy xa liền nhổ nước bọt bảo rằng: “Loài Tinh tinh không thể gần nó, không trở lại dẫm đạp mà họa diệt”. Vua càng biết rõ Sư chẳng phải người thường, bèn ban xuất hai người trong cung suốt ngày đêm lo việc hầu hạ Sư.

Nhà vua lại đặc biệt ban sắc tại viện Tập Hiền, vẽ hình Sư. Đến lúc sắp viên tịch, Sư gọi lớn sai người tìm cầu nước sông của bổn hương. Môn nhân đồng bạn tìm kiếm không đâu ra, Sư bảo phía trước nhà chính là nước sông vì sao không lấy?” Mọi người bèn xuống thềm đào giếng, nước sông tuôn trào, Sư uống xong, bèn thị tịch. Giếng trong phường Sư ở nước đều mặn đắng, chỉ có nước giếng đó là ngọt ngon. Sau có người lừa dối, tự xưng là Tiểu Vạn Hồi để mê hoặc trong xóm chợ, phần nhiều bị giết chết. Đến sau khi Sư thị tịch, Hữu Thường Thị Từ Ngạn Bá soạn văn bia dựng tại Đường phía Tây Ngọc Giản ở Văn Hương.

Liên hệ thử bàn:

Một ngày đi muôn dặm, thì chẳng phải là người. Là quỷ thần ư? Hay là tiên thuật? Thông đáp: Quán xét hạnh biết là người, Ngài Vạn Hồi không có tà hạnh nên không phải là quỷ thần, không ý cố làm nên chẳng phải là tiên thuật. Đó chính là đắc thần thông. Trong Luận Đại Trí Độ, nói thần thông có bốn năng lực: Một là thân bay đi như chim, không ngăn ngại gì, hai là dời xa khiến gần, chẳng đi mà đến; ba là vào đây ra kia và bốn là một niệm thì đến được.

Có người lại hỏi: Trong bốn năng lực đó, Ngài Vạn Hồi có được loại nào? Thông đáp: Đều có đủ cả, nên xưng gọi là Như ý thông. Trong luận Du-già nói Thần Cảnh tức đồng với ở đây. Hoặc nói La-hán có đại kham năng hiện ba thứ thần biến.

9. Truyện ngài Đạo Giám trụ chùa Linh Nham, ở Tề Châu, thời Tiền Đường:

Thích Đạo Giám, họ Phùng, người ở Quận Ngô, không rõ từ đâu đến, mà Sư trụ chùa Linh Nham ở Lịch Hạ. Là vị tăng có tung tích thần dị chẳng thể suy lường.

Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806 – 821), có Phùng Sanh cũng người ở Quận Ngô, vì minh kinh điều tuyển chưa lanh lợi, nhân đó đến ngụ ở Trường An. Một hôm, có vị lão tăng đến chỗ Phùng Sanh ở, bảo rằng: “Ông và tôi cùng một dòng họ”, do đó cùng nhau lui tới. Chỉ hơn một năm bèn được mời làm Úy ở Đông Việt, mới làm nhiệm vụ chỉnh trang sửa trị. Sư mang tích trượng đến cáo từ để đi. Phúng Sanh hỏi: “Sư đi sẽ ở chỗ nào?” Sư đáp: “Chòi tôi ở là mái hiên phía Tây Linh Nham thuộc Tề Châu, lãng du nơi chốn thần kinh đến nay đã mười năm. May được đi với ông, nay trở về chỗ cũ, nên đến giã biệt ông. Nhưng con tôi là Úy Vu Việt Hương, Đạo xuất dưới chùa Linh Nham, phải nên một lần hỏi tôi “. Phùng Sanh vâng theo, nói rằng: “Kính cẩn xin nghe lời chỉ dạy”. Vài ngày sau khi Phùng Sanh ra nhậm chức ở Quan Đông, đến cửa chùa Linh Nham, dừng ngựa, nhìn lên bảo rằng: “Há chẳng phải là chùa Ngài Đạo Giám ở ư?” bèn liền đi vào dò hỏi. Khi đó có một vị tăng đứng ở sân chùa, Phùng Sanh đến hỏi: “Phòng nhà của Đạo Giám Thượng Nhân ở đâu?” Vị tăng ấy đáp: “Chùa này không có ai là Đạo Giám”. Phúng Sanh nghi lạ, im lặng mà nghĩ rằng: “Đạo Giám là người ngay thẳng chẳng lẽ lừa dối ta ư?” Khi đó, một mình Phùng Sanh đi vào trong chùa, bước đến dưới mái hiên ở phía Tây, bỗng thấy ở vách tường có vẽ hình của một vị tăng dung mạo giống như ngài Đạo Giám, Phùng Sanh kinh ngạc khen ngợi: “Sư Đạo Giám quả thật là dị nhân, hãy giáng thần kết giao với tôi”. Giây lâu, nhìn bên cạnh chân tướng có đề rằng: “Sư con nhà họ Phùng, người ở Quận Ngô. Năm mười tuổi, theo học Pháp Phật, có danh tiếng đạo hạnh, thị tịch năm 78 tuổi”. Phùng Sanh đọc lời đề đó mới tỏ ngộ lời nói trước kia là”Ông và tôi cùng một họ”. Lời nói thật chẳng sai lầm.

Có thuyết nói ở phía Tây Tô Châu, cách thành hai mươi dặm, có chùa Linh Nham. Dưới hàng hiên phía Tây Bắc chùa đó có đắp vẽ hình tượng vị Sa-môn và đề rằng: “Đó là hình tượng của một cư sĩ du phương, nhằm niên hiệu Thiên Giảm thứ 1 (16), thời Nam Lương. Nhân đi qua chùa núi, ở ngủ qua đêm mà vào tăng trù mượn bút nghiên, chúng tăng đều không để ý. Tới sáng sớm tìm kiếm khắp nơi thấy có người khách qua đời và thấy ở góc điện họa vẽ hình tượng vị Phạm Tăng, xương mặt lạ kỳ, sắc da nứt nẻ đen nám, mày dài rũ xuống, tròng mắt như điện chớp, vành mắt xanh nhạt, mũi ngang miệng vuông, môi trề, bày răng, nắm tay gác trên vai phải, thân cong, dài chừng một trượng năm tấc, mặc ca-sa áo nạp vải bố, tay chống viên châu lớn từ dưới gót chân, mọi người trông thấy đều kinh sợ, chẳng lường biết từ đâu đến, xa gần đều cảm kích, đốt hương lễ bái ngợi khen, hoặc có người đến cầu phước trừ họa, hoặc trong điện sáng tối chợt nghe có tiếng hành đạo, do đó mà chim muông chẳng dám giẫm xéo dơ bẩn trên mái nhà hay đầu cột, và người trong làng quê gọi đó là “Hòa-thượng Linh Nham” hoặc là “Linh Nham Thánh Tăng”. Tượng đó từng hiện hình nói với một bà lão rằng: “Bần đạo ưa thích ăn rau giao, bánh nếp”. Bà lão nghi đó là Thánh Tăng, sáng hôm sau mang giỏ vào điện cúng dường. Cầu xin năm nay, ngày mùng 3 tháng 3, dân chúng đua nhau đưa đến, dùng rau nấm cô tương xóc nấu với gạo. Người ở Ngô Quận gọi đó là bánh nếp rau giao.

Niên hiệu Tiên Thiên thứ 2 (713) thời Tiền Đường, Công tử Lục Lỗ bị bịnh, các thầy thuốc đều bó tay, Công tử càng âu lo dữ dội. Ngoài cửa bỗng nhiên có vị tăng vạch đường đi vào, bèn tìm lấy bình nước ngậm phun vào mình, tức thời bịnh khỏi. Lỗ Công tử vui mừng dâng tặng các vật rất nồng hậu, vị tăng ấy chẳng hề đoái hoài. Lỗ Công Tử bèn hỏi:”Hòa-thượng ở chùa nào?” Vị tăng ấy đáp: “Bần đạo trụ chùa Linh Nham, ở phía Tây Quận Ngô thuộc Tô Châu. Lang quân làm quan ở Giang Biểu, hy vọng vào chùa sẽ gặp nhau”. Trong chốc lát, vị tăng ấy bỏ đi. Sau đó không lâu, Lỗ Công tử được điều bổ làm Thượng thư Từ bộ Lang, rồi tiếp tục dời làm Quế Châu liêm sứ, thường luôn nhớ nghĩ tới vị tăng đã cứu bịnh mình trong năm qua, nên đường xa vẫn tìm đến Tô Châu, vào chùa Linh Nham tìm kiếm, bèn tả về hình dáng vị tăng ấy. Chư tăng trong chùa đều nói ở đó không có vị tăng nào hình dáng như thế. Lục Lỗ cả ngày bồi hồi chẳng nở bỏ đi. Bỗng vào trong điện thấy hình bóng Thánh giả, liền nói: “Người năm trước trị bịnh cho tôi chính là vị tăng này”. Chư tăng trong chùa bảo: “Đó là do sự cảm thông khó thể lường biết được”. Công tử Lục Lỗ xả thí mấy muôn đồng tiền để làm hương hỏa, lưu ở lại cả mười ngày cúng dường xong mới đi. Thêm nữa, trong chùa có người tịnh nhân, mỗi lúc đối trước tôn tượng đốt hương đèn, châm thêm dầu, có ý trộm lấy dầu thoa vào tóc, tự nhiên tóc bị cháy quắn mà rơi rụng, có người làm chung ở bên cạnh khuyên nên lễ bái sám hối, riêng mua dầu mè rót thêm để được đầy lại như ban đầu.

Lại nữa, lúc vua Võ Tông sắp phá hủy Phật giáo. Bên cạnh chùa có Lục Tuyên thấy Thánh tăng dạy bảo rằng: “Ta thọ nhận sự cúng thí của đệ tử đã nhiều năm, nay đến cùng từ biệt để trở về Tây Thiên”. Lục Tuyên vội bảo thợ họa vẽ tôn dung của Thánh tăng. Đến niên hiệu Hội Xương thứ năm (8), chùa bị phá hủy, mới biết được ý của Thánh tăng đến từ biệt. Khoảng niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), có tai họa bởi nạn châu chấu, không chỉ ăn phá lúa mạ của dân chúng ngoài đồng ruộng mà còn gặm nhắm mọi vật lụa là gấm vóc trong nhà. Trăm họ đều bàng hoàng lo lắng, chưa biết tính phương kế gì. Bấy giờ, dân chúng Quận Ngô như Diên Nhượng, v.v… dẫn mấy ngàn người ở Kỳ Ngãi đến trước tôn tượng đốt hương khóc cáo. Ngay ngày đó, loài sâu trùng phá hoại bay đi nơi khác.

Niên hiệu Càn Phù thứ (878), chư tăng trong chùa đang đến quan ải xin thỉnh chuông về chùa, sai một vị tăng là Tuyển Nhật đăng đồ, Thánh Giả trước nhập và sách quân bổn cục, của Hữu Thần, dự bày chúc thác. Đến lúc thỉnh chuông chúng tăng đến thấy. Tư lại lấy làm lạ hỏi: Mấy ngày trước có vị tăng đến nói trụ chùa Linh Nham ở Tô Châu. Vị tăng ấy bảo tôi đi không có bạn”. Sau đó, Hữu quân nhân Tư có việc đến Quận Ngô vào chùa Linh Nham thấy trên vách có bức họa, bèn nói: “Đây là vị tăng đã dự hội thỉnh chuông tại Ty nội trong tháng 7 vừa qua”. Và ở trong Quận Ngô có lắm điều linh dị, chẳng thể lường biết được nguyên do. Từng có vị tăng đến lễ bái tôn tượng đắp họa đó mà xưng gọi rằng:”Bồ-tát Trí Tích có duyên sự gì mà trụ ở đây?” Khen ngợi càng lâu, và từ đó gọi tôn tượng là ứng thân của Bồ-tát Trí Tích.

Liên hệ thử bàn:

Các thuyết đồng dị là có nhiều ở các sử gia. Nay rõ chùa đề hiệu là Linh Nham, có tôn tượng đắp họa Thánh tăng đó là đồng. Châu đề là Lịch Hạ Thỉ Tô, người gặp là Phùng Sanh và Công Tử Lục Lỗ, đó là dị. Đây là vì thấy nghe khác nhau nên sự ghi chép do đó nên có khác nhau. Phàm bậc thánh ứng thân, hoặc Nam, hoặc Bắc, hoặc Hán, hay Hồ, hoặc hình dáng bình thường, hoặc tướng trạng quái lạ sai khác, nên khiến người thấy nghe hẳn có khác lạ. Thêm nữa, khiến sự truyền bá tự nhiên có nhiều thuyết. Thí như ngoài ngàn dặm trông nhìn mặt trời, mặt trăng đều đồng một lúc, nhưng bên cạnh có mây mờ thì hình dạng có khác. Đã là ứng hiện không thể nghĩ bàn thì tùy duyên mà phó cảm, tứ là khó đồng, có thể phát lệ, chỗ truyền nghe có khác.

10. Truyện ngài Tuệ Chiêu tại chùa Khai Nguyên ở Võ Lăng, thới Tiền Đường:

Thích Tuệ Chiêu, không biết Sư là người xứ nào. Tánh rộng mà cao, thường tu thiền định, dáng mạo rất suy tư, ưa nói việc vui buồn của mọi người mà đều đúng cả. Sư giao tiếp với người nói năng chẳng thuần hợp, nên đóng cửa tự sống, chung quanh không trẻ nhỏ hầu hạ. Thường ngày đi khất thực. Dân chúng trong xóm có hơn tám mươi người bảo rằng: “Sư ở đó đã hơn sáu mươi năm. Dung mạo Sư không đổi khác so với thuở trẻ ngày trước, chỉ không biết Sư sanh năm nào.

Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806 – 821) có Trần Quảng do Hiếu Liêm điều đến làm quan ở Võ Lăng, nhưng rất kính mến Phật pháp. Một hôm, nhân đến chùa, hỏi Đạo khắp cùng chư tăng. Sư thấy Trần Quảng vừa buồn vừa mừng, bảo: “Trần Quân sao đến muộn vậy?” Trần Quảng kinh ngạc tự nghĩ “Ta thuở bình sanh chưa hề biết vị tăng này, cớ sao bảo là ta đến muộn”, bèn nói rằng: “Tôi chưa hề gặp sư sao trách tôi đến muộn?” Sư bảo: “Đây là chuyện chẳng như binh lính có thể nói. Phải cùng ông với một đêm tĩnh lặng bàn nói mới hết ý này”. Trần Quảng rất lấy làm kinh lạ.

Sau đó, Trần Quảng mới đến ở lại trong đêm tại chỗ Sư, nhân thưa hỏi điều đó. Sư bảo: “Tôi là con nhà họ Lưu, là huyền tôn của vua Hiếu Văn Đế (2 – ) đời Tống, Tằng tổ là bà Vương Dương Hưu Nghiệp Tổ Sĩ Hoằng, đều ghi rõ trong sách sử. Người trước văn học tự phụ, là chỗ quen biết với Tề Cảnh Lăng Vương Tử Lương. Tử Lương mời nhóm họp các bậc sĩ hiền tài văn học, mà người trước có dự đó. Sau ra làm quan, trong thời nhà Tề, nhà Lương từng làm Cối Kê lệnh. Tôi sanh vào tháng năm niên hiệu Phổ Thông thứ 7 (26) thời Nam Lương. Năm ba mươi tuổi, mới ra làm quan chức ở xứ Trần. Đến thời vua Tuyên Đế (tức Tiêu Sát 7 – 62) thời Hâu Lương làm chức quan nhỏ, chẳng được mọi người biết. Vốn cùng Thẩm Ngạn Văn kết bạn làm thơ uống rượu. Sau, Trường Sa Vương Thúc Kiên và Thỉ Hưng Vương Thúc Lăng đều nhóm họp khách bạn đông nhiều, làm lớn thanh thế, mỗi người tự cậy quyền được sủng ái nên có chỗ tâm bất bình. Tôi và Thẩm Ngạn Văn đều ở dưới Trường Sa, đến lúc Vương Thúc Lăng bị giết, tôi lo sợ không tránh khỏi, nhân đó đều xóa tên ẩn tích chốn hang núi, lượm nhặt hạt dẻ để ăn, vốc nước khe suối mà uống, chỉ mặc áo vải thô, tuy có nóng lạnh cũng chẳng đổi thay, vì đợi chỗ định thay chỗ lo, tự nhiên có một vị Sa-môn già đến chỗ tôi ở, bảo rằng: “Ông có cốt pháp rất kỳ đặc, sẽ không bịnh tật gì”. Ngạn Văn đôi phen bái thỉnh cầu xin thuốc đó. Vị Sa-môn ấy bảo Ngạn Văn: “Ông không có được tuổi thọ như Lưu Quân, phải làm sao? Tuy có uống thuốc của ta cũng không bổ ích, toại ý gì!” Khi cáo biệt sắp đi, lại nói với tôi rằng: “Trong trần tục vì danh lợi mà cùng tranh hơn, rốt cùng đâu có gì? Chỉ có dòng họ Thích mới xả bỏ điều ấy!”. Tôi kính cẩn nghe nhận lời nói ấy.

Từ đó, chẳng hay biết đến việc người đời suốt mười lăm năm. Tôi lại cùng Ngạn Văn đến đất Kiến Nghiệp. Bấy giờ, triều đại nhà Trần (7 – 89) đã mất, cung khuyết đều bị phá hủy, đài thành lao lạc, gai bụi loáng đường, Cảnh Dương đều tắt nghẽn, Kết Kỳ nền đổ, Văn Vật Y Quan rộng lớn tự nhiên mất hết. Nên già gặp nhau cùng dẫn nhau mà khóc. Lại bảo: “Một người vô lương đã đến như thế, dòng họ nhà Tùy diệt hết người tốt lành thật đáng buồn thương thay!” Lại nghe Hậu chủ cùng các Vương đều vào Trường An, tôi mới dẫn Thẩm Ngạn Văn mang chiếc đãy cùng khất thực ở đường để đến Quan Trung. Tôi hẳn là khách cũ của Trường Sa Vương, nên ân tình gặp gỡ rất nồng hậu, nghe ông ta dời đến ở Quan Châu thì liền sang yết kiến. Trường Sa Vương lớn ở Kỳ Hoàn, mà sớm quý thạnh, tuy thời gian lưu phóng còn chẳng phải kviệc nuôi sống, bấy giờ mới cùng Thẩm Phi đối ẩm, tôi cùng Thẩm Ngạn Văn lại bái nhau như trước. Trường Sa Vương buồn thương giây lâu, rơi lệ mà nói với tôi rằng: “Một ngày mà nước nhà đắm mất, cốt nhục phân tán, há chẳng phải do trời ư?” Từ đó tôi lưu lại đồn canh của Để Khương ở Tấn Xương, vài năm thì Trường Sa Vương qua đời. Lại qua vài năm nữa thì Thẩm Ngạn Văn cũng qua đòi, tôi nhân đó xuống tóc làm tăng, theo vết trụ ở chùa Sơn Phật ở Cối Kê suốt hai mươi năm. Lúc đó tôi đã trăm tuổi.

Tôi tuy dung mạo dáng thể khô gầy mà sức lực chảng suy, mỗi ngày đi cả muôn dặm. Nhân đó, tôi cùng với một vị tăng đồng đến Trường An. Bấy giờ, vua Cao Tổ (Lý Uyên 618 – 627) thời Tiền Đường đã có được đất nước, lấy niên hiệu là Võ Đức. Đến niên hiệu Võ Đức thứ 6 (623), từ đó, tôi có lúc ở kinh đô Lạc Dương, hoặc đến Giang Tả, đến Tam Thục, Ngũ Lãnh, không nơi nào chẳng dừng ở, mãi đến nay đã hai trăm chín mươi năm rồi. Tuy trải qua rét cóng hay nóng cháy mà không hề bị chút tật bịnh. Khoảng cuối niên hiệu Trinh Quán (60), khi đó tôi đang ở tại chùa này, mộng thấy một bậc trượng phu, áo mão rất lớn tốt, nhìn kỹ thì ra là Trường Sa. Tôi mới vào cùng ngồi bàn luận chuyện cũ, thương cảm như lúc còn sống. Và Trường Sa nói với tôi rằng: “Mười năm sau, Tôn Quản là cháu đời thứ 16 của tôi (Trường Sa) sẽ làm quan tại quận này. Sư hãy nhớ lấy đó!” Tôi bèn hỏi Trường Sa: “Vua hiện nay như thế nào?” Trường Sa đáp: “Minh quan cực tôn!” Rồi lại khóc mà nói rằng: “nay Sư vẫn còn, mà tôi đã đến đời thứ sáu, thật buồn thay!”. Tôi thức giấc, nhân đó ghi tên của Quân (Trần Quảng) vào trong hòm kinh. Đến nay đã mười năm, mới đem tên họ của Ông dò hỏi dân chúng trong Quận, thật là quái lạ sao Ông chưa đến. Hôm qua nhân đi khất thực trong làng, gặp được Ấp Lại mà dò hỏi, quả nhiên biết được, đến lúc Ông đến, lại giống hệt diện mạo của Trường Sa. Nhưng từ lúc gặp trong mộng cho đến nay đã mười một năm rối, nên tôi ngờ lạ bảo Ông sao đến muộn vậy!”

Thế rồi buồn cảm, khóc rơi hai hàng lệ, nhân đó Sư đem hòm kinh ra chỉ cho Trần Quảng xem. Trần Quảng đôi phen bái lạy xin mang cầm giầy tích, nguyện làm đệ tử. Sư bảo: “Ông hãy trở về, ngày mai hãy đến!” Trần Quảng vâng lời chỉ bảo mà trở về. Ngày hôm sau tìm đến chỗ Sư ở, thì Sư đã bỏ đi chẳng biết từ bao giờ! Lúc đó là niên hiệu Nguyên Hòa thứ 10 (81). Đến đầu niên hiệu Thái Hòa (827), Trần Quảng làm nhân viên ở Ba Châu, gặp Sư tại đường đi ở phía chân núi. Trần Quảng vừa kinh hãi vừa vui mừng, lại bái lạy thưa rằng: “Nguyện bỏ quan chức theo Sư kết giao du vật ngoại”. Sư cũng chấp thuận. Đêm đó, Sư xả bỏ nhà cửa nghịch lữ, đến lúc trời sắp sáng, Trần Quảng dậy sớm thì Sư đã đi mất rồi. Trần Quảng thẩn thờ như có tang người thân!

Như thế Sư sanh vào niên hiệu Phổ Thông thứ 7 thời Nam Lương, tức là năm Bính Ngọ (62), mãi đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ mười thời Tiền Đường, tức năm Ất Mùi (81), suốt quảng thời gian đó là hai trăm chín mươi năm, hợp với lời Sư.

Liên hệ thử bàn:

Ngài Tuệ Chiêu trụ thế đã ba trăm năm, trước không ngằn, sau chẳng mé, cũng như Ngài Tân-Đầu và Tôn giả La-Hầu đông nhất quán cơ, sao chẳng nghĩ nhớ ân đất đến cháu con ư? Thông đáp: ‘Thần tiên chỉ cách một mảy trần còn không thể cùng đi. Vã lại, Trần Quảng là kẻ phàm phu còn đủ thứ ràng buộc, Ngài Tuệ Chiêu là bậc thượng sĩ độ đời. Như diều hâu bay và cá lặn vực sâu, dấu vết khác xa, ấy có gì phải quái lạ ư!”

11. Truyện ngài thiền sư Ngạn thời Tiền Đường:

Thích Ngạn Thiền Sư, người ở xứ Tinh Châu, ước cùng Tịnh Độ làm nơi chân quy, thực hành Sám pháp Phương Đẳng, siêng cần không thiếu sót thời khóa. Vừa bị bịnh nhẹ, Sư hành thiền quán không thiếu, thấy hai vị Bồ-tát Quán thế Âm và Đại Thế Chí hiện giữa hư không hiển hiện thời gian lâu chẳng biến mất. Sư mời các thợ vẽ khắp nơi mà không ai vẽ được. Bỗng nhiên có hai người đến nói với Sư rằng: “Từ Tây Kinh đến, muốn tới ngũ Đài, tự ưa thích chuyên dốc việc đắp họa hình tướng Bồ-tát!” Sau khi họa vẽ xong, bèn tặng hai đôi giầy, bỗng nhiên biến mất không thấy vết tích đâu cả. Sư biết duyên Tây phương đã thuần thục, nên bảo các đệ tử: “nay tôi vãng sanh, có ai cùng đi không?” Có một đồng tử nhỏ cúi đầu sụp lạy thưa rằng: “Xin nguyện được theo thầy”. Đồng tử bèn trở về từ giã cha mẹ, cha mẹ cho đó là lời nói đùa nên bảo tắm gội đắp mặc y phục thanh tịnh vào đạo tràng niệm Phật. Chỉ trong khoảnh khắc thì thị tịch. Sư bèn trách rằng: “Cớ sao lại đi trước”. Khi đó, Sư cầm bút viết kệ khen ngợi hai vị Bồ-tát rằng:

Quán Âm giúp xa tiếp
Thế Chí đón từ xa
Bình báu trên mũ hiện
Hóa Phật trước đảnh sáng
Đi khắp mười phương cõi
Cầm hoa đợi chúng sanh
Nguyện dùng tay từ bi
Dẫn cùng về Tây Phương!”

Ngài nói kệ xong, bèn từ biệt đệ tử, vào đạo tràng, bảo môn đồ giúp niệm Phật. Sư an tọa mà thị tịch, thọ tám mươi tuổi. Lúc đó là ngày 17 tháng Giêng niên hiệu Thùy Củng thứ nhứt (68) vậy.

12. Truyện ngài Hậu Tăng Hội trụ chùa Vĩnh Hưng ở Cối Kê thời Tiền Đường:

Thích Hậu Tăng Hội, vốn người nước Khương Cư. Vào niên hiệu Xích Ô (23 – 21) thời Đông Ngô, Sư đến yết kiến Đại đế (tức vua Tôn Quyền 222 – 22). Ban đầu, người xứ Đông Ngô không biết hình tướng chư tăng, chỉ gọi là người Hồ nhập cảnh, Ngài bèn cầu xá-lợi, khiến Đại Đế khai ngộ. Đến niên hiệu Thiên Kỷ thứ (280) thời mạc Chúa (tức Tôn Hạo), Sư bèn bày mở chân thân ẩn. Vào niên hiệu Vĩnh Huy (60 – 66), Sư hiện thân ở đất Việt, xưng là Du Phương Tăng, mà thần khí khác lạ, mày cao sáng sủa, má gồ mắt đỏ mà khô héo, lộ vế kỳ cốt, thật là dung mạo Phạm Tăng. Mọi người trông thấy, mịt mờ không biết Sư thuộc giai vị nào. Bấy giờ, vị Cương Duy trong chùa hỏi vặn về nguyên do, bèn mắng chửi đuổi đi. Sư bước ra tới cửa, mới nói với vị Cương Duy rằng: “Ta là Khương Tăng Hội. Nếu biết lưu giữ chân thể của ta thì đó là phước của chùa các ông “. Sư bước tới rồi đứng yên mà thị tịch. Thế rồi mắt xanh nhắm lại, tinh sáng chẳng tiêu, đưa tay như đón rước, chân gác tựa muốn đi. Tăng chúng cùng bàn nhau, xếp linh cốt ấy an táng nơi huyệt mả, dùng hết sức người mà chẳng khiêng đổi, tuy sắc thân bền chặt mà cưởng sự như keo sơn. Bèn đón rước đến nơi thắng địa, lập riêng nhà phụng thờ. Bấy giờ, dân chúng đất Việt đua nhau dùng hương hoa đến đuốc, lụa là phướn lọng, quả thực y khí, đến cúng dường cầu mong tỏ bày tâm nguyện, thường vừa ý người.

Ban đầu, quân lính của xứ Việt thường đóng tại chùa Vĩnh Hưng, trong đó có phụ nữ sinh sản, binh lính ăn uống các thứ máu thịt tanh hôi làm ô uế chốn chùa chiền. Mọi người không kham nhẫn nỗi sự dơ bẩn đó lâu dài. Ngài mới hiện hình đến yết báo cùng Mân Liêm Sứ Lý Nhược Sơ, và nói: “Quân hầu tức Phiên Điều của Lãnh Việt, xin hãy dời quân lính di!” Nói xong Sư bèn vén áo mà đi, bỗng mất tông tích. Lý Nhược Sơ vừa mừng, vừa kinh sợ, ghi nhớ lời nói đó. Sau, quả nhiên đến quận đó. Và khi nhận việc xong bèn đến lễ yết linh tích, nhận ra người nói lúc đó chính là vị tăng này, bèn ra lệnh cho quân lính đến doanh mạc khác.

Lại có sản phụ, ban đêm sắp sanh mà không có đèn đuốc, gần đó cũng không có lỗ hổng có ánh sáng, bỗng nhiên có vị tăng tự khoét vách cằm đuốc đi vào. Sáng sớm hôm sau, người chồng vào chùa Vĩnh Hân, nhận ra dung mạo Sư là vị tăng đã trao lửa cứu giúp lúc sanh nở hiểm nguy. Từ đó trong dân gian có nhiều ngưòi đến cầu sanh con trai, con gái. Gặp lúc Pháp nạn Hội Xương phá hủy chùa Vĩnh Hân, nay chỉ ở chùa Đại Thiện riêng lưu lại tên gọi Khai Nguyên. Bèn dời thân Sư vào chùa đó. Sau, vào niên hiệu Đại Trung (87 – 806), có Luật sư Đàm Hưu vì tôn kính Sư nên dựng lập riêng Đường Vũ, mở rộng các vật cúng. Sư lại thường đến trong nhà người dân làng quê xin giầy cỏ. Đến nay người dân đất Việt thường hay đem giầy cỏ, dầu, phướn dâng cúng. Sư có lắm việc cảm ứng, thường đến nhà người, không thể thuật hết. Nay tôn xưng Sư hiệu là “Siêu Hóa Đại Sư”. Từ niên hiệu Vĩnh Huy (60 – 66) đến nay không hề thiếu thốn sự cúng thí. Sa-môn Hư Thọ lập văn bia ghi lại sự tích Sư.

Liên hệ thử bàn:

Thái Ung là thân sau của Trương Hành, Trí Uy vốn là việc trước của Từ Lăng. Nghiệm xét đều rõ ràng, lý chẳng luống dối. Còn như bậc Thánh có lắm công dụng tự tại, mất đây hiện kia, lợi ích không ngừng. Ngài Tăng Hội thị tịch đã lâu, đến thời Tiền Đường lại hiện hóa tại đất Việt, đứng mà thị tịch sừng sững thật là khác lạ trong mọi sự khác lạ. Giả như chẳng phải ứng vật hiện hình như trăng trong nước thì ai có thể dự biết ấy vậy ư?

13. Truyện ngài Đạo Anh trụ chùa Pháp Hải ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:

Thích Đạo Anh, không rõ Sư là người xứ nào. Giới đức vẹn toàn, tiếng tăm vang khắp Thiên ấp. Sư trụ chùa ở phường Bố Chánh.

Vào niên hiệu Hàm Hanh (670 – 67), Sư thấy quỷ vật, Sa-môn Tuệ Giản là tự chủ có nói: “Lúc sáng sớm thấy hai người đi chân chẳng đụng đất đi vào phòng viện của Sư”. Ngài Tuệ Giản lấy làm quái lạ nên đem hỏi Sư, Sư bảo rằng: “Sứ thần của Trang Tương Vương (Doanh Sở 29 – 26 trước Tây Lịch) thời nhà Tần đến nói là “chịu đói khát đã lâu, vì thấy tôi có lòng đại từ nên muốn xin cho thức ăn. Xin chớ từ khổ nhọc “. Tôi bảo với họ là sáng ngày hôm sau sẽ thiết bày đầy đủ nên hãy đến cùng thọ hưởng”. Ngài Tuệ Giản nghe nói như thế, đem rượu phụ giúp, và quả thật họ có đến, người hầu theo rất trang nghiêm, đang ngồi ăn, Thương Hoàng nói với Sư rằng: “Đệ tử không được ăn đã tám mươi năm”. Sư hỏi về nguyên do, đáp rằng: “Tôi từ lúc mới sanh về sau không gì chẳng có sai lầm, như diệt Đông Chu, dứt bặt cơ tự, hoặc trách móc công đức. Tôi thường ngày chưa được có Phật pháp để dùng sám độ, chỉ do xá hựu giúp đỡ, trơ trọi riêng một mình bị lấp bít, không hề được bù đắp, bởi vì phước ít mà tội nhiều, thọ nghiệp chưa hết. Nay được ăn một bữa ngon lành nầy, phải bốn mươi năm sau mới được ăn lại!” Nhân đó nhìn quanh rồi chỉ lên Thượng tọa mà nói rằng: “Đó là Bạch Khởi Vương Tiễn vì giết hại lắm tội, quả báo chưa hết”. Lại nói: “Đây là Trần Chẩn, do tội luống dối…” Sư bảo: “Sao Vương không theo người để xin thức ăn mà cam để bụng đói, như thế làm sao chịu nổi?” Vương đáp: “Người có tâm từ rất ít. Người khác không thấy được. Tôi duyên với quý nhân chẳng thể vọng làm việc họa phước, vì thế nên đành chịu”. Sư chỉ vào bình rượu bảo rằng: “Đó là do Ngài Tuệ Giản tự chủ ở đây biếu tặng”. Vương rất có sự hổ thẹn, lúc sắp đi nói với Sư rằng: “Rất cảm ơn phí tổn hành thương này, no nê như thế nào có thể biết, đệ tử có ít vật, xin đưa để tưởng thưởng, ngoài cửa Thông Hóa ở phía Đông thành có mả cao nhọn, trên chóp nhọn cao lớn, đó là chỗ lầu thần của tôi, người đời không biết lầm cho đó là phần mộ của Lã Bất Vi. Sư bảo: “Xưa từng được Xích My khai phát, đâu thấy có vật gì?” Đáp rằng: “Giặc lấy không thể được”. Sư bảo: “Bần đạo chẳng phải là Phát Khâu Trung Lang, mà chính là người xuất gia không dùng vật ấy, hãy chớ đem đến!” Nói xong đưa tay vái chào mà đi. Sư có các sự cảm thông với hạ thú như thế. Không biết về sau Sư mất ở đâu.

14. Truyện ngài Pháp Tú ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:

Thích Pháp Tú, không rõ Sư là người xứ nào. Sư trụ tại chùa Kinh, thường lui tới vùng Hàm Hạo để khuyên dẫn các duyên, thành tựu nhiều việc lành, mãi đến lúc già, Sư chưa từng nghỉ ngơi.

Cuối niên hiệu Khai Nguyên (72), Sư mộng thấy có người bảo rằng: “Đem khăn tay, pháp phục ca-sa mỗi thứ năm trăm cái vào cúng thí ở chùa Hồi Hướng”. Khi tỉnh giấc, Sư hỏi mọi người chung quanh, đều nói là không có chùa nào tên là Hồi Hướng. Sư lại tìm rộng ra hỏi những người may khăn tay, áo ca sa, và cả những người xuất gia, tại gia lão túc khắp nơi có ai biết chùa ấy không. Khi đó, có một vị tăng hình dáng khôi ngô, mọi người đều chẳng biết, bảo rằng: “Tôi biết chùa Hồi Hướng”. Sư hỏi: “Cần mang theo những vật gì và bao nhiêu người cùng đi?” Vị tăng ấy bảo: “Chỉ mang theo một cân Danh Hương là được, và khăn tay áo cà-sa”. Sư bèn y theo lời nói đó mà trao các vật cúng thí, và vị tăng đó cùng Sư đồng đi. Lộ trình vượt qua núi Chung Nam, đi chừng hai ngày đường, đến chỗ núi rất cao. Ban đầu không thấy vật gì, lại tiến bước đi nữa, thấy một trục lăng bằng đá. Sư kinh hãi hỏi: “Ở đây không vết chân người bước, sao lại có vật này?”, bèn đem danh hươn mang theo ra đốt, đôi ba phen đặt lễ, tha thiết nguyện cầu từ buổi trưa giờ Ngọ cho đến chiều tối, trong hang khí sương tỏa ra, chỉ chừng một thước không thấy được gì. Xun xoe trong chốc lát bỗng sáng tạnh, ngay giữa lưng chừng núi có khung cửa đỏ phân vách lục khoét toàn đề, cột phướn bay yêu kiều, lầu thẳng góc ảnh cao. Chốc lát thấy một ngôi chùa rõ ràng giữa bóng mây, Tam môn treo bản lớn đề là “Chùa Hồi Hướng”. Sư cùng vị tăng ấy rất vui mừng, men theo thềm cấp bước lên. Khi đó đã hoàng hôn, nghe có tiếng chuông khánh xướng tụng. Người giữ cửa hỏi từ đâu đến, rồi từ từ dẫn vào bái kiến một vị lão tăng đôi ba phen an ủi thăm hỏi, Lão tăng nói rằng: “Đường Hoàng Đế vạn phước chăng?” Rồi bảo một vị tăng khác dẫn đường đi qua các phòng chia cúng khăn tay và pháp phục ca-sa. Chỉ còn dư một phần, trong đó có một phòng trống không có người mà có giường chõng, y phục, tòa tịch v.v… dường như có sự thích hợp. Thế rồi bỏ qua, trở lại chỗ vị lão tăng, như người đứng đầu cương nhậm bảo với Sư rằng: “Vị tăng ở phòng trống đó ra ngoài sẽ trở lại”. Sư cùng vị tăng ấy lại muốn đến vị tăng đó để trao khăn tay v.v… Một phòng chỉ giường chõng để trống, cũng không có người. Lại nói đầy đủ về việc đó. Vị lão tăng cười bảo Sư ngồi, rồi đi đến trong phòng ấy lấy xích bát đến, cho đến xích bát bằng ngọc. Lão tăng bảo rằng: “Ông có thấy vị tăng người Hồ kia chăng?” Sư đáp: “Thấy!”. Lão tăng bảo: “Đó là người trong tương lai sẽ quyền thay cho chúa của ông. Ở Kinh đô, sẽ loạn lạc, người chết rất nhiều. Vị tăng người Hồ đó tên là Ma Diệt Vương. Còn ngôi thất kia là phòng của chúa của ông. Chúa của ông lúc ở tại chùa này ưa thích thổi xích bát nên bị phạt xuống nhân gian. Đây là xích bát mà chúa của ông thường thổi. Nay thời hạn sắp mãn nên bỏ lại “. Sáng sớm hôm sau, bảo Sư đến trai đường thọ thực. Thọ trai xong, lão tăng bảo Sư: “Ông phải trở về, hãy đem xích bát này và Pháp phục ca-sa, khăn tay trao cho chúa của ông, thì liền tự nhận!” Sư bèn lễ bái và trở về. Vị đồng tử lại đưa ra, chỉ mới vài mươi bước thì mây phủ khắp bốn bề, và bỗng nhiên không còn thấy ngôi chùa đâu nữa.

Sư bèn đem khăn tay pháp phục ca sa và xích bát bằng ngọc đó dâng lên vua Huyền Tông. Nhà vua bèn mời Sư đến kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vua Huyền Tông rất cảm động mừng vui, lắng thần giây lâu rồi lấy ống sáo thổi, tiếng uyển nhã như trước ngự. Sau đó vài năm, bỗng nhiên có tai họa Lộc Sơn. Vị Hồ tăng mà Sư thấy trước kia chính là Lộc Sơn. Sư cảm kích sự gặp gỡ đó nên càng tinh tấn gấp bội. Không biết về sau Sư thị tịch ở đâu. Người đời truyền rằng chùa Thánh ở Chung Nam lại có chùa Hồi Hướng.

Liên hệ thử bàn:

Xưa kia, thời vua Võ Đế nhà Lương, bảo đưa Pháp phục ca-sa vào núi Thượng Hải. Ngài Pháp Tú lại đến chùa Hồi Hướng. Yên sư sai sứ tìm chùa Trúc Lâm Đại Thánh. Ba duyên đó tên gọi tuy khác mà sự việc chỉ là một. Chẳng là lẫn nhau đổi thành cắt tiệt chim hạc nối tiếp chim le chăng? Thông đáp: “Việc làm của bậc Thánh dường như trong làm tạo xe mà ngoài cửa hợp vết, tuy việc xa đến ngàn muôn dặm cũng phù hợp. Bởi chẳng khác đường, nên như Tiêu Tử trông xem Tiên Kỳ đốt cháy cây, chẳng phải chỉ Vương Chất, có nhiều người gặp Tiên Kỳ, vả lại tên họ khác nhau, bởi thiêu đốt búa chặt cây chẳng phải một. Nay đây, đưa y phục vào chùa Thánh, phần nhiều cũng như thế.

15. Truyện ngài Phổ Minh trụ chùa Long Hưng ở Hoạt Châu thời Tiền Đường:

Thích Phổ Minh, không biết Sư là người xứ nào. Có thuyết nói Ngài là tăng sĩ người Tây Vực. Sư thường bàn luận thiền pháp, nêu rõ huyền vi, chẳng thể lường biết sự cao xa trầm lắng của Sư.

Vào niên hiệu Đại Lịch thứ nhứt (766) Sư nhận lời người ở Tạc Huyện thỉnh đến trụ A-lan-nhã. Các học giả kéo đến đông đúc, thường luôn qua lại, các cư sĩ lễ bái mà cúng thí. Thường ngày dùng đến ngàn kế, hoặc hễ vừa thấy tướng tự nhiên tức giận quở trách bít lấp sự ham muốn, đâu nhớ tiếng, làm lành quên ác. Chỉ một năm mà chẳng lường biết số là bao nhiêu. Hữu Bộc Xạ Nghĩa Thành Quân, Tiết Độ Sứ Giả Đam vốn là tiên bị giáng trần, ưu du đạo học dẫn lược Không môn, vừa mới trông thấy Sư mà như biết Cựu Hoàn của Dương Hựu, thấy mẹ hiền của Thái Thuận, hạ tâm mời thỉnh Ngài đến trụ chùa trong Châu Quận, đón rước đến nỗi nghiêng thành quách, nơi ngõ tắt không người ở. Do đó, Sư nói Pháp cho người nghe. Tuy thân già mà chẳng mỏi mệt, Sư đi nhanh như gió, hình dáng nhẹ nhàng mạnh khỏe. Đến ngày mùng 10 tháng 12 năm Nhâm Thân (792) tức niên hiệu Trinh Nguyên thứ 8, Sư dặn dò môn nhân rồi an nhiên ngồi thẳng thị tịch.

Có thuyết nói Sư thọ ba trăm tuổi. Bởi vì năm đó có người trăm tuổi thấy Sư dung nhan vẫn như xưa chẳng đổi khác. Bèn y theo pháp Tây Vực trà-tỳ, thâu nhặt được hai mươi bảy viên xá-lợi, cứng chắc tròn sáng. Các thiện tín xây một ngôi tháp nơi thiền đình chỗ Sư ở, sau dời tòa xuống dưới tháp.

Sau khi Sư tịch khoảng mười năm, Vương Sư Tây Chinh an tĩnh

biên tái, người dân Hoạt Châu có Sài Thanh rất tài dũng, nhân đánh chiếm loài mọi rợ đi thẳng sâu vào Lỗ đình. Binh lính tuần canh phần nhiều ban ngày núp phục, ban đêm hoạt động, bèn lạc lối quên mất đường đi, thẳng xa chẳng phân biệt. Sài Thanh thấy Sư đi trước dẫn đường như ngựa già làm tiên khu, khi đã tới Hán Thành bỗng nhiên không thấy nũa, bèn trở về Châu Quận đến chỗ tháp lễ bái. Xa gần đều truyền tụng.

TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

(Quyển 18 hết)