TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

Đại Sư Thông Tuệ chùa Thiên Thọ ở Tả Nhai Tứ Tử Sa-môn Tán Ninh v.v… vâng sắc soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 17

 

CHƯƠNG NĂM: HỘ PHÁP

(Chánh truyện có mười tám vị, phụ có một vị)

1. Truyện ngài Uy Tú trụ chùa Đại Trang Nghiêm, ở Kinh đô thời Tiền Đường:

Thích Uy Tú, không rõ Sư là người xứ nào, Sư là người thông đạt nhiều tài, thường chuyên giảng dạy, chí mang vác mạnh mẽ mà có oai nghi. Sư giỏi về viết lách, đàm luận, đặc biệt thông minh. Thiên hoàng Vô Hà lên ngôi (Thiên hoàng tức vua Cao Tông Lý Trị, lên ngôi năm 60).

Ngày 1 tháng niên hiệu Long Sóc thứ 2 (622), vua Cao Tông ban sắc ép buộc tăng sĩ, Đạo sĩ đều phải thực thi bái lạy người thế tục. Bấy giờ, tăng chúng bàng hoàng không biết làm sao, Sư than thở giáo Đạo đang trong thời kỳ suy vi, quân vương xem thường Phật Pháp, mới dâng biểu xưng là Sa-môn chẳng nên bái lạy. Sư nêu dẫn các sách sử, trình bày nhiều triều đại bức ép, sáng vừa mới phát lệnh, tối liền đổi mưu đồ, đều chẳng xa xôi gì. Sư mới dẫn kinh luật luận để lường quả. Ngôn từ đều nhẹ nhàng, lý hẳn sâu sắc rõ ràng. Như nói: “Đã là xuất gia, chẳng còn lễ bái người trong nhà. Người xuất tục không thấm nghi ở tục. Đạo lý đó hiển nhiên, trăm đời không đổi thay”. Biểu văn đã dâng tấu. Vua lại ban sắc nhóm họp các quan đến trong đài cùng nhau bàn luận việc đó. Khi ấy, các hàng tể quan trong triều có năm trăm ba mươi chín vị xin không bái lạy, ba trăm năm mươi bốn vị xin bái lạy. Đến tháng 6, vua Cao Tông ban sắc “Chẳng bái lạy quân vương mà bái lạy cha mẹ”. Nhưng dần cũng phế bỏ. Sư vì đạo pháp, thật đáng gọi là quên mình. Sư dâng biểu chống đối, lúc đó là ngày 21 tháng . Bấy giờ, chư tăng từ kinh đô đến thôn ấp hơn hai trăm vị cùng nhau vào cung Bồng Lai trình bày biểu văn của Sư để cầu thỉnh. Khi đó, triều đình cùng nói với Sư, v.v… rằng: “Sắc lệnh đang cần bàn rõ, bái lạy hay không chưa quyết định, hãy đợi sau sẽ tụ tập”. Sư, v.v… bèn lui về. Khi đó, nhóm họp đông đảo tại chùa Tây Minh, cùng nhau bàn luận mưu tính, cùng đề đạt khải trạng đến các hàng đạt quan quý thích, như cứu lửa cháy đầu. Bấy giờ, Tuyên Luật sư dâng khải văn lên Ung Châu Mục Bái Vương, riêng dâng khải văn lên Vinh Quốc Thái Phu nhân, v.v… tất cả đều do Sư phê. Thật đáng tôn xưng Sư là gởi thân cho Đạo pháp.

2. Truyện ngài Phục Lễ trụ chùa Đại Hưng Thiện, ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:

Thích Phục Lễ, người ở xứ Kinh Triệu, họ Hoàng Phủ. Sư xuất gia từ thuở thiếu thời tại chùa Đại Hưng Thiện. Tánh tình Sư lặng lẽ ít ưa thích, luôn đặt tâm nơi nội điển, hiểu thông cả Huyền Nho, rất giỏi phú vịnh, khéo hay soạn thuật, các bậc danh sĩ tục lưu thảy đều kính mến. Các vị Tam Tạng Pháp sư Địa-Bà-Ha-La, Thật-Xoa-Nan-Đà v.v… phiên dịch các kinh Đại Trang Nghiêm, Hoa Nghiêm, v.v… đều mời Sư cùng phiên dịch. Trong đó những việc chuốt văn cắt nghĩa đều do Sư đảm nhiệm.

Năm Tân Tỵ (681), tức niên hiệu Vĩnh Long thứ 2, thuộc đời vua Cao Tông, nhân Thái tử Văn Học Quyền không hai thuật lại sách Phật, xét có mười điều nghi ngờ, bèn đem hỏi Sư, xin được giải thích nghi ngờ vướng mắc. Sư bèn vì đó mà giải đáp và soạn thành ba quyển đề tên là “Luận Thập môn biện hoặc “. Chủ khách đối đáp, phân biệt rạch ròi mối nghi, văn thoát khỏi trí phủ, nghĩa ở tại ngoài tâm. Đối đáp như thế, trận vững khó xô ngã. Cờ đỏ kéo mà chúng ma hàng, trống trời trỗi mà Tu-la thối lui. Chỗ nêu mối nghi của Quyền Văn Học chỉ là vài nghĩa, ngoài ra mọi bắt bẻ đối với Sư thật dễ làm sao? Bởi vì không biết Giáo có buông có giữ, văn còn nơi quyền thật, nghĩa là vì mâu thuẩn. Cho nên, Sư thực hành điếu phạt, như nhỏ riêng giúp phải thỉnh mang lệnh của quân môn. Không hai đã vạch trần, lại lập luận hoàn toàn giải thích các mối nghi xưa. Thái tử đáp thư rằng: “Tiếp nối chân thần, đục khoét hang hỗn độn, nghi trăm năm chỉ một sớm mai dứt sạch, mãi vâng theo đường giác, ngộ mãi nguồn mê, đốt cháy củi phiền não, thưởng thức cơm Niết-bàn, xin phụng sự lời nói ấy đến tận cùng những năm còn lại, v.v…”. Đây tuy là chỉ phân giải nhất thời mà thật là chuẩn mực gương soi của muôn đời!

Nghĩa học của Sư, thời bấy giờ ít người sánh bằng. Sư còn có tập văn lưu hành ở đời, lại rất sâu mầu bao gồm huyền cơ, đặc biệt sáng tỏ hợp tâm. Sư soạn “Chân vọng tụng” đem hỏi các bậc đạo sĩ trong nước.

Chỉ có vài vị đánh hòa. Bấy giờ, có ngài Tông Mật ở chùa Thảo Đường cân nhắc chọn lựa đến cùng, chỉ có ngài Trừng Quán ở chùa Thanh Lương đạt được chỉ thú đó, giống như gạo thóc của Lô Lang. Ngoài ra chưa thấu suốt được kiến giải của Sư, cho nên các tác phẩm dịch vào đời Đường đều cõi Sư là bậc Tông thượng, và như Ngài Tuệ Lạp gọi Sư là Dịch chủ. Danh từ Dịch chủ phát xuất từ Sư. Sư khéo thông cả năm xứ Thiên Trúc, dung hợp ba thừa, xưa nay các bậc được nêu lên trong đời ít ai sánh bằng. Hai bộ Luận (luận Thập môn biện hoặc và Chân vọng tụng) của Sư được biên tập đưa vào Tạng, đối đáp công kích của ngoại nạn, chỉ dùng qua thuẩn nầy.

3. Truyện ngài Tuệ Lập trụ chùa Ngụy Quốc ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:

Thích Tuệ Lập, Sư vốn tên là Tử Lập, do vua Cao Tông đổi Tuệ Lập. Sư họ Triệu, người ở xứ Thiên Thủy. Tổ tiên xa trước của Sư nhân làm quan mà dời đến ở Tân Bình, nên thành người xứ Bân (Thiểm Tây). Ông nội và cha của Sư đều rong ruổi theo danh dự cao sang. Sư là con thứ ba của Khởi Cư Xá Nhân Tư Lệ Tùng Sự Nghị đời Tùy. Vừa mới sanh mà Sư đã có dáng cao siêu, có chí muốn thoát tục.

Niên hiệu Trinh Quán thứ ba (629) Sư vừa mười lăm tuổi, đến xuất gia và trụ chùa Chiêu Nhân ở Bân Châu, chùa đó tức là chiến trường phá Tiết cử. Sư mẫn đạt tài giỏi, thần thanh cao xa, phong cách cao thượng. Sư có thức lượng như Ngài Tăng Triệu, Đạo Dung. Tiếng tăm vang vọng xa gần, vua Thái Tông (Lý thế Dân) ban sắc mời Sư sung vào Đại Đức phiên dịch kinh ở chùa Đại Từ Ân. Tiếp theo đó, bổ nhiệm Sư nhận lãnh chức Đô Duy Na ở chùa Tây Minh. Sau lại trao Sư làm Tự chủ chùa Thái Nguyên, đều có ban giáng luân chỉ, khiến đảm nhận việc chùa.

Đến thời vua Cao Tông cho rằng Sư là người thông hiểu Nho Thích, biên soạn thiên chương, khéo biệt biện như mây bay, ích nghĩ như suối tuôn. Lại thêm vì thẳng lời, sắc chánh, chẳng sợ oai nghiêm, Sư vào lửa nóng đạp nước sôi chẳng hề nao núng, nên từng mời Sư vào nội cung cùng đối luận với Hoàng quan, đều hợp ý vua, việc nầy có nói rõ ở biệt truyện.

Sư nghĩ rằng Pháp sư Huyền Trang đến Ấn Độ thỉnh kinh pháp, nếu không ghi lại sự việc đó thì đời sau sẽ ít được nghe, bèn soạn “Từ Ân Tam Tạng Hành Truyện”, chưa xong Sư đã thị tịch. Sau đó, Sa-môn Ngạn Tông ở chùa Quảng Phước tiếp tục biên soạn thành mười quyển, 16 nên ở đầu đề ghi rằng: “Sa-môn Tuệ Lập bổn, Thích Ngạn Tông tiên”. Sư sửa sắp bảo là xong, lo để lại những điều tốt đẹp, bèn cất giấu nơi các địa phủ, ở đời chẳng được nghe. Sau đó, lúc sắp tịch, Sư bảo môn nhân thị giả đào lấy để mở xem, sắp lấy ra thì Sư liền tịch.

Trước kia, Sư thấy Thượng Y Phụng Ngự Lã Tài vọng soạn “Thiên nhân minh đồ chú” ba quyển, chẳng bác bỏ chánh nghĩa của các Sư, Sư liền gởi thư quở trách. Trong thư có câu cảnh tỉnh viết rằng: “Phụng Ngự các tục sự ít nhàm bèn cho là Chân tông có thể liễu ngộ. Đâu khác gì chuột nhắt thấy nồi trên bếp có thể trèo lên được bèn nói là vượt gò chẳng khó. Như nhền nhện thấy gai rừng dễ kéo tơ giăng lưới cũng cho là phù tang có thể giăng lưới, chẳng lường được thân phận và bờ mé, đâu khác thế ư?” Lã Tài do đó mà thôi nghỉ. Thái Thường Bác sĩ Liễu Tuyên nghe việc đó chấm dứt, bèn quy tín, đưa thư đến tăng chúng phiên dịch kinh, viết rằng: ngoài chống lại kẻ lấn áp đó là con đường cuối trong cửa Phật.

4. Truyện ngài Huyền Nghi trụ chùa Phật Thọ Ký ở kinh đô Lạc Dương, thời Tiền Đường:

Thích Huyền Nghi, họ Đỗ, thuở nhỏ Sư đã vào Huyền môn, mới thông Kinh Pháp, học bạn trong Hoàng quan suy cử Sư là bậc minh triết, Ngài vượt trội ngoài đồng bạn, nên đặc biệt được gọi Ngài là”Đỗ Nghệ Luyện Sư”. Sư mới lên Cực Lục liền làm chủ Đại Hằng Quán ở Lạc Đô, Sư du tâm bảy lược, được lý Tam Huyền. Các hàng Đạo thuật suy cử Sư là cương lãnh.

Bấy giờ, Thiên Hậu (Võ tắc Thiên) đặc biệt có tâm sùng kính đại Pháp, mở mang Phật giáo. Lại ngộ rằng ăn rau đắng chẳng ngon, bước đi thì xa nhà nguyện, trở lại ban đầu phục hướng Phật mà trở về, bèn khẩn cầu xuống tóc. Thiên Hậu ban chiếu cho phép xuất gia. Sư bèn ở chùa Phật Thọ Ký, sau đó làm Tự đô. Cho nên biết rằng ở loài cỏ thì làm cỏ thơm, ở loài chim thì làm con trống, thật có việc đó. Sau đó, Sư tham dự việc phiên dịch, thảy đều trái ngược với tông kia, Sư biết rõ Chánh giáo đáng nương nhờ. Có người hỏi rằng: “Sao ông tin Phật?” Sư đáp: “Sanh tử vùn vụt nên sớm lo tính, không để đến ngã tư đường mới chỉnh thúc dây cương, tới giữa dòng mới mong đợi mái chèo. Có như hoàng sa trông đấu, hặc quỷ cầu tiên, dụng tâm như vậy chẳng phải rốt ráo. Sư soạn “Chân chánh luận” một bộ, bác bỏ lỗi lầm kia, khiến trở về với chánh chân, thiết lập chủ khách hỏi đáp, rất là tinh yếu. Không biết về sau Sư mất ở đâu.

Liên hệ thử bàn:

Biết tình địch, giúp dẫn dắt về quê cũ, hoặc vào thì sẽ tranh giành địa vức, khỏi bị cười chê bỏ đất. Lại như cầm đuốc đi trong đêm, chẳng phải như người vào chỗ tối. Nghe qua, Ngài Huyền Nghi từng gởi Hoàng Quan, thấu suốt được bổn giáo đó, kịp tới lúc quy hướng dòng họ Thích, bác bỏ nguồn vọng kia, chẳng cần bốn tháng mà thử đó, đã nạp khoản của một thành. Do đó mà xét, nếu có kẻ ngỗ nghịch thì nói: “Tôi sẽ nói ông chân chánh”. Nghĩa là như vậy.

5. Truyện ngài Pháp Minh ở phủ Giang Lăng, thời Tiền Đường:

Thích Pháp Minh, vốn là người Kinh Sở, Sư hiểu rành kinh luận Sư còn khéo suất các sách, biện cấp như dòng chảy, khuôn p phép giới luật kiên trì chân chánh.

Thời vua Trung Tông (70 – 710), Sư đến Trường An tìm hỏi phỏng các bậc cao đạt, mới gặp chiếu ban các hàng tăng sĩ đạo sĩ cùng quyết định “Hóa Hồ thành Phật Kinh” là chân hay ngụy. Bấy giờ, nhóm họp đông đúc tại nội điện, có bá quan hầu nghe. Các bậc long tượng ở địa vị cao kháng ngự, Hoàng quan tráo trở, chưa thể phân biệt, khó quyết định rõ ràng. Ban đầu, Sư chẳng tham dự chọn ra những điều tốt đẹp. Hỏi các Đạo sĩ rằng: “Lão Tử hóa Hồ thành Phật, vậy Lão tử vì làm Hán ngữ hóa hay làm Hồ ngữ hóa? Nếu là Hán ngữ hóa Hồ thì người Hồ không hiểu, còn nếu là Hồ ngữ hóa thì Kinh ấy truyền đến cõi này thì phải phiên dịch. Đấy là chưa xét kinh ấy thuộc vào ngày tháng năm nào, thuộc triều đại nào, ai tụng đọc Hồ ngữ và ai là người ghi chép lại”. Khi đó, các Đạo sĩ hết đường cứu chữa, vô phương đối đáp. Các hàng công khanh rất mực ngợi khen Sư. Lúc đó nhằm niên hiệu Thần Long thứ nhất (70).

Đến ngày 1 tháng 9 năm đó (70), vua Trung Tông ban sắc rằng: “Các quan sở tại phế bỏ kinh ấy”. Khắc vào bia đá dựng tại chùa Bạch Mã ở kinh đô Lạc Dương để chỉ bày cho đời sau. Trong sắc chiếu vua viết rằng: “Trẫm đội ân ở nơi ngôi báu, sửa mới, mở chánh, lại an tông xã, thiết lập đại lễ cung kính, ban ân lớn mưa sấm. Bèn cùng Tăng sĩ, Đạo sĩ đều bày điều đáng răn bảo. Như nghe trong nước, các Đạo quán đều họa biến tướng “hóa Hồ thành Phật”, nơi chùa chư tăng cũng họa hình Huyền Nguyên, tôn dung của hai giáo, cả hai đều không thể được. Chế định từ nay về sau trong hạn mười ngày, tất cả đều phải phá hủy. Nếu cố lưu giữ kính ngưỡng, thì sẽ giao các quan định liệu tội trái với sắc lệnh. Hóa Hồ Kinh đã qua nhiều triều đại đã bị sắc chiếu cấm đoán rõ ràng. Gần đây được biết ở ngoài vẫn còn lưu hành. Từ nay về sau, các bộ Hóa Hồ Kinh và các bản ký lục có việc Hóa Hồ đều phải dứt bỏ. Nếu có kẻ nào chứa để thì y cứ theo sắc lệnh mà định tội”. Trong tháng đó, Hoàn Đạo Ngạn là chủ ở Đại Hằng Đạo Quán dâng biểu cố chấp. Vua Trung Tông lại ban sắc phê rằng: “Trẫm vì phải vì tự thân làm, thêm kế thừa việc lớn. Tuy vỗ về thà có nhiều lỗi mà bình thứ thật chuyên, huống gì Tam Thánh sáng ngời, Huyền nguyên tỏ rạng, há quên Lão giáo mà chuyên ý ở Thích tông! Chí ý trẫm thật thuần lưu lại tình mà dứt bỏ ngụy hoặc. Lý trái sự sai, tuy là người thân cũng phải dứt bỏ. Nghĩa hợp danh đáng, tuy có kẻ oán cũng phải ghi chép. Thửa dùng muôn cơ thừa chút nhàn rỗi, lược tìm văn của Tam giáo. Còn như hai thiên Đạo Đức Kinh, cảnh diệu tuyệt ít có. Thiên Trúc có hai đế Hữu, Không, đàm lý bí chân như. Không lúc nào chẳng phu xướng Huyền môn, mở mang chí trách, sao lại mượn sự ngụy vọng của Hóa Hồ để làm hưng thạnh tông của Lão quân? Nghĩa có sai trái, văn không cổ điển, thành Phật thì bốn người khác nhau, luận về đệ tử thì lắm người nghe lầm lỗi. Y Hy đã xưng thành Phật, đã rất rỗng không. Lại nói hóa thành A-nan, bị thành ô hợp. Như bọn Quỷ Cốc Bắc Quách, chưa dẫn lên đất Trung thiên, các bậc Xá-lợi, Văn-thù vọng bày nơi Đông độ, Hồ Hán xen lẫn, niên đại cũng trái. Giẫm nước mà nói Niết-bàn, không hề có điển cứ, đạp lửa mà bàn pháp mầu, có loại phường chèo, giả dối tự bày, sao nói phiền lũ? Kinh chẳng phải do Lão quân chế ra, hủy bỏ thì chẳng phải thiếu lòng hiếu. Văn do bỉ nhân đàm luận, dứt trừ lại bày tiên đức. Lại nói tuy thiết tha mà lý thật chưa an, nên thảy đều là trẫm mong, liền dứt bỏ biểu dâng. Rõ ràng khẩn cấp đương thời vô luân, giúp cửa Hộ Pháp. Do đó mà chống lại lấn áp. Lời xấu ác chẳng để tồn tại.

Nghĩa là như thế.

Liên hệ thử bàn:

Hóa Hồ Kinh, hai tông giáo (Phật và Đạo giáo) bất bình, có lắm tranh cãi, không như một lời của ngài Pháp Minh xử quyết đó. Giả sử hoặc ngưng thần mở toang suy tư, lâu nhưng chẳng thể đối đáp. Huống gì lại trước cả muôn thừa ai có thể chọn lời đáp lại? Ngày xưa, Dương Tố thấy ở Tung Dương Quán đắp vẽ cảnh Hóa Hồ, bèn hỏi: “Sao chẳng Hóa Hồ thành Đạo mà thành Phật ư?” Đạo sĩ không trả lời. Xét đó, rõ được câu hỏi nghĩa gồm hai ý, chính vì Hóa Hồ thành Phật, cạnh đó, các vị trời, tiên, ngôn ngữ chẳng đồng với người. Lời tiếng của trời truyền thọ các kinh là do ai biên dịch, việc ấy giống một mũi tên mà bắn được hai con chim le. Lại như một phát mà bắn được hai con.

6. Truyện ngài Thần Ngộ ở núi Thạch Di, thuộc Nhuận Châu, thời Tiền Đường:

Thích Thần Ngộ, tự là Thông Tánh, họ Lý, ở Lũng Tây, tổ tiên Sư thuộc bản đãng, thời Tây Tấn, dời nhà đến Trường Thủy, thuộc đất Ngô. Nhiều đời nối tiếp Nho nghiệp. Thuở nhỏ sư là môn sanh. Năm hai mươi tuổi bị bịnh nặng, có hiện trạng như không thể cứu được. Sư khởi tâm giúp hạnh, năng lực sẽ thực hành thế nào?

Vào niên hiệu Khai Nguyên (713 – 72), sư đến chỗ Luật sư Khê Quang, cầu xin phương thuốc của Kỳ Vưc, giữ lễ của kẻ môn nhân. Thầy dùng giáo lý chỉ bày cho thấy để chuyển hóa nghiệp, bằng cách một là Lý sám, hai là Sự sám. Hai pháp sám đó do bậc Thánh truyền trao, thực hành sẽ có chứng nghiệm. Sư bèn đối trước tượng Bồ-tát, giữ tâm không lui sụt, đốt cánh tay khó bỏ. Khi ấy, có ánh sáng lạ như vầng trăng lờ mờ nơi cung biếc. Khổ đến cùng tột có thể cảm động đến thần minh, tinh thành chí thiết sẽ rung chuyển cả đất trời. Bởi vì đó là việc khó làm của con người.

Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ Tư (7), Sư thọ giới cụ túc, thân mới đắp Pháp y. Tới niên hiệu Thiên Bảo thứ 8 (79), Sư có những hành vi khác thường và danh phối thuộc ở chùa. Lúc về già, Sư tiết tháo càng thấy gắng tâm. Hễ mỗi lúc gặp đạo tràng Pháp Hoa, suốt chín tuần (ba tháng), Sư vào đạo trường thực hành lễ niệm, Quán Phật Tam-muội ở ngay trước mắt. Nhân đó, Sư bảo môn nhân rằng: Phàm âm bạc, mặt trời làm sao tổn thương, gió chuyển, hư không chẳng động. Nếu thấu đạt hư vọng, thì ai chẳng có tánh? Sư bèn dựng nhà ở phía Đông núi Lao Lao, bên trong dựa vào cách đá, đạt được phần tiên kinh. Các giống thú dữ dần quen đến bên giường Thiền, mây lành bủa giăng khắp Pháp đường. Nửa đêm có thần núi hiện hình nói với Sư: “Đệ tử tức là cố Tân Thành Hầu Từ Thế An ở đời Tùy. Sống thì làm Liệt Hầu, chết lại giữ lấy Nam Lãnh. Nay Sư đến dừng ở, nguyện xin đem chốn này dâng cúng hẳn cho Sư làm nơi kinh hành”. Nói xong liền biến mất, không còn thấy nữa. Nên Lại Bộ viên ngoại Lý Hoa, Điện Trung Thị Ngự Sử Thôi Ích cùng đến tham yết Sư, có hỏi về sự ưu liệt của đạo Khổng, đạo Lão, và Thánh giáo. Xin Sư phân bày bình phẩm. Sư đáp rằng:”Giáo điển Lộ-già-đa đều là Pháp ngoài tâm, cầu hướng vị ấy chỉ luống nhọc mà không chứng. Nó tợ như đầm khô mà nghĩ tới ánh nguyệt ở ao hoa cạn. Lấy đó mà so với giáo điển họ Thích, sao xa vời như thế?”. Như thế mà ứng đáp qua lại như dòng chảy. Lý Hoa và Thôi Ích chỉ khoanh tay không chống chọi, và họ giữ gìn bờ cõi Thích môn, có lũ nào dám 10 xâm lược. Lý Hoa là Văn tông của một đời, ngang danh cùng Tiêu Vĩnh Sĩ, mà bút ngữ trội vượt hơn đó. Như vậy trong làng Nho, ai dám chạm sừng. Phàm đồ chúng có những điều không sướng thích hay nghi kinh, vấn nạn Pháp, Sư thảy đều dùng cách gần thì lấy ở thân, xa thì lấy ở vật, đúng như lý mà giải đáp, không ai chẳng cúi đầu chắp cánh.

Đến năm Tân Mão (71), tức niên hiệu Thiên Bảo năm thứ 10, Sư bị bịnh, ngồi kiết già mà thị tịch, thọ sáu mươi ba tuổi, hai mươi sáu hạ lạp. Ngày trà-tỳ thâu nhặt hơn năm trăm viên xá-lợi, như hạt châu lớp lớp sáng ngời. Các môn nhân như Trạm Nhất, Viên Nhất chủ trương xây tháp phụng thờ.

7. Truyện ngài Nguyên Sùng ở Chung Sơn, thuộc Kim Lăng, thời Tiền Đường:

Thích Nguyên Sùng, họ Vương, người ở xứ Lâm Nghi, thuộc Lang Da.Từ Tần Phi Tướng hưng khởi mới khởi văn hiến, sau công tử Oát, từ khi Nam triều suy vọng, gia đình Sư nhiều đời ở tại Cú Dung, từ cha ông trở xuống nếu chẳng hiền thì triết. Từ bé thơ, Sư riêng một mình tuấn tú, cao vợi như núi đứng. Tâm dụ như hoa sen, hình đồng như ngọc sạch. Bụi trần chẳng thể làm tạp nhiễm, lập chí cao nhã.

Năm mười lăm tuổi, Sư từ bỏ gia đình, kính thờ Đạo giáo, mang tráp Động Thiên, hưởng ráng, nằm mây, khuôn phép hun đúc, tinh nghiên diệu cú, riêng chứng vi ẩn, bèn sợ chí lý chẳng dung giải thoát lại trở ngăn. Nhân đó, Sư hướng tâm về sách Phật, truyền xướng Phật thừa, Tam giáo phát triển ngang nhau, gặp Tâm Thế Biểu, từ đó, thanh danh vang vọng khắp xứ Ngô Việt, các hàng tăng tục đều lấy làm lạ. Thứ sử Nhuận Châu là Tề Bình Dương Công nghe hạnh nghiệp của Sư đã lâu. Vừa gặp ân ban chế độ người xuất gia, nhóm tụ đông đúc sung cử Sư đứng đầu.

Vào những năm cuối niên hiệu Khai Nguyên, nhân theo Thiền sư Quỳnh ở chùa Ngõa Quan, cầu hỏi tâm yếu, suốt ngày đêm Sư không biếng trễ, chẳng quên thưa hỏi điều lợi ích. Thiền sư Quỳnh bèn lường cốt ngàn dặm mới đủ biết được sức ngựa. Nhân đó trao cho Sư Pháp sâu xa. Sùng Linh Đài rỗng suốt, có thể xả trăm thần, gương tâm treo cao, bụi trần không riêng ẩn. Thế rồi, thanh giá sáng xa, vật trông chỗ biết, các bậc cao đức ở Kim Lăng thỉnh dời chỗ phối về chùa Thê Hà. Tuổi tác càng cao, Sư càng chuyên cần đạo nghiệp, Đạo thường có manh mối, chúng cùng chiêm ngưỡng.

Đến đầu niên hiệu Chí Đức, Sư đều từ tạ dứt tuyệt việc đời, chống tích bỏ quận tìm đến kinh đô, khắp kính thờ minh sư, gátâm nơi nhàn cảnh, ít giao tiếp với thế tục. Sư bèn vào Chung Nam, trải qua Vệ Tạng, đến Bạch Lộc, lên Lam Điền, ở tại Võng Xuyên được nghiệp riêng của Hữu Thừa Vương Công Duy. Thông mộc trên đá, nước chảy dưới thông. Vương công đốt hương nơi tĩnh thất cùng Sư đồng gặp, Thần giao trung đoạn. Khi đó trời đất chưa thanh thái, sói lang gây hoạn nạn. Hiền thần của triều đình, vật báu của nước nhà, hoặc ở nơi yên ổn. Tiêu Xá Nhân mừng cùng Hữu Thừa Các Công đều là thạc học hùng tài, tôn Nho trọng Đạo, tình cờ gặp ở một nơi, kháng luận trọn ngày, móc sâu dây ẩn, ôm mong hứa cho. Vương Tiêu khen ngợi rằng: “Phật Pháp, người không nên khinh bàn. Đến khi nói trở lại Hà lạc, leo vượt lên Trung Thất, ở Tung Sơn, ôm hoài chỉ yếu của Đạt-ma, được chỗ hội quy của Hoa Nghiêm, thanh giá dần cao, áo mão ham thích. Các bậc danh đức ở Kinh đô đều thỉnh Sự trụ trì. Chỉ ở tại vô vi, điềm nhiên chẳng đoái hoài, Sư mới quên đi người đời, truy tìm vết tích đạo lưu, khảo xét dấu mờ của Bàng Linh, bèn trở về phương Đông, đến xứ Ngô Việt, Thiên Thai, Tứ Minh lắng tâm dưỡng tố. Sau vài năm xa tưởng đến Chung Sơn, bèn chống tích về chỗ ở cũ, tìm lấy phòng mây, Đạo tục đều mừng, ngọc soi phản chiếu núi sáng.

Đến niên hiệu Đại Lịch thứ Năm (770), Thứ sử Nam Dương là Phàn Công Nhã Thích Thiền Tịch và Chúc Huyện Hạnh Xuân thuận phong cúi đầu thưa hỏi đạo yếu, càng thêm giữ lễ thờ thầy. Bấy giờ, các hàng đạo tục cho rằng ở chùa đó linh thiêng nên tìm đến ngơi nghỉ rất đông. Giám chủ hộ trì, phải chọn danh đức, đều bàn nhau không vì dời Thiền sư đó. Sư khẩn thiết hết lời cáo từ, song chúng đều đôi ba phen cầu thỉnh, sự chẳng đặng đừng, nên Sư thuận nhận Di Phùng suốt trong hai mươi năm, nhờ tài vật của bốn phương, nhân sức của đạo hóa, biến Lô Vân tạo dựng thành Đan Hộ ngày một thêm mới. Bởi ở chỗ vô vi nhưng không điều gì chẳng làm, công việc thành tựu, thân thối lui an nghỉ nơi đảnh cao của Thiền. Học đồ trước sau cầu học không thể kể xiết. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 12 (787), Sư thị hiện bị bịnh, nói sẽ quy tịch, không uống thuốc thang. Tới ngày mùng 2 tháng 8, Sư thị tịch tại sơn viện, thọ sáu mươi lăm tuổi.

Trước khi thị tịch, Sư bảo với môn nhân không nên xây tháp. Đệ tử Như Tuyền, Trừng Thiêm v.v… hoàn toàn vâng theo lời Sư chỉ dạy. Đến ngày mùng 8 tháng 8 an táng tại phía Nam Nhiếp Sơn, nương núi cao mà làm huyệt, chất đá chẳng mài chẳng xây, vì vâng theo di cảo. Sư thân cao sáu thước, nghi biểu đoan nghiêm, trông thấy nghiễm nhiên liền phát sợ, ý Sư sâu kín, tánh tình khoan dung, tâm hòa hạnh cao, dáng trời long tượng, sanh ra đã có khí độ. Sư thọ không lâu thật là đáng tiếc, các đệ tử cùng nhau dựng lập phong bia, ghi lại dấu tích hoằng hóa của Sư dựng ở trước cửa chùa.

8. Truyện ngài Lợi Thiệp trụ chùa Đại An Quốc ở kinh Triệu, thời Tiền Đường:

Thích Lợi Thiệp, vốn là người Tây Vực, thuộc chủng tộc Đại Phạm Bà-la-môn. Từ thuở bé, chí Sư đã mạnh mẽ, cơ cảnh vượt hơn người bình thường, trong bà con thân tộc đều suy tôn Sư là người đạt Pháp, Sư muốn đến Chấn Đán (Trung Hoa) kết bạn với phương Đông. Vừa đến đảnh núi Kim Thoa, Sư gặp được Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Sư đảnh lễ Ngài Huyền Trang cầu xin được độ. Thế rồi với các kinh luận, Sư nghiên tầm học hỏi đến chỗ sâu mầu. Đặc biệt lánh bỏ xa trần quy về Chánh Đạo. Nếu chẳng phải là Ngài Huyền Trang thì khó chuyển đổi được Sư.

Dưới môn tịch của Ngài Huyền Trang, các bậc hiền triết quy về rất đông. Sư chỉ là bé nhỏ, mạnh chừng khoản của Quang Bảo. Song, Sư vì người cũng giống như Bạch Cao Tọa. Vua Trung Tông rất khâm phục kính trọng. Các hàng khanh tướng trong triều đình cảm nghĩa cùng giao du.

Vào niên hiệu Khai Nguyên (713 – 72), Sư trụ chùa An Quốc, giảng kinh Hoa Nghiêm. Bốn chúng đến giảng đường, chậm chân không chỗ dung chân, đàn thí đông đúc, lợi lớn làm động tâm người. Có Vi Đinh người ở xứ Dĩnh Dương, nhân trước kia, vào niên hiệu Thùy Củng (68 – 689), Trung Đệ Điều chọn Hà Trung Phủ Văn Học, đổi Đại Lý Bình Sự Bí Hiệu, thấy chỗ giảng của Sư, của cải lụa là chất thành đống, bèn đến xin lựa chọn làm vốn liếng, với những gì có được mà chẳng hề biết thỏa mãn. Bèn dâng biểu xin hai giáo Thích, Đạo cùng định đoạt sự hơn kém, nói rằng trong Thích giáo, Đạo giáo có những kẻ làm hại Chánh chân, nên dứt bỏ đi. Vua Huyền Tông bèn ban chiếu cho Tam giáo (Thích, Nho, Đạo) mỗi giáo tự chọn ra trăm người, đều nhóm họp ở nội điện. Vi Đinh lên trước trên tòa cao, Tỏa Diệp Tĩnh Năng và Không Môn Tư Minh đều từ chối. Sư bèn tiếp rước lên tòa, mở giải nghi kết, đối địch có thừa, cùng với Vi Đinh đối đáp qua lại đến mấy trăm ngàn lời. Đầu mối giao loạn, theo thứ lớp chống lại, tơ rối tự sửa, ngay thẳng có chỗ quy về. Sư Ngài lại hỏi Vi Đinh rằng: “Ông trước khi lên tòa, có phải chẳng là chủ ư? Đó là chưa xét người chủ họ gì”. Vi Đinh nói: “họ Vi”. Sư liền lấy chữ Vi làm vần, cất điệu ngâm dài, lời kệ rằng:

“Phật pháp ta là vô vi
Vì sao triều này được hữu vi?
Vô vi mới được vài ba năm
Chẳng biết đây lại trái điều chi”.

Sư ngâm vịnh khiến cho các quan sửng sốt. Vua Huyền Tông quả thật ghi nhớ việc sai trái, lạnh lùng đổi sắc mặt bảo: “Vi Đinh là tông tộc thứ nhân, dám khinh miệt Huyền Nguyên tổ giáo của Trẫm, và lăng lận đến dòng họ Thích. Vi Đinh hãy xuống điện phủ, phục tùng đợi tội”. Vi Đinh liền dập đầu nói: “Thần chẳng thuộc thứ nhân”. Sư thương cho Vi Đinh nhanh nhẹn lợi khẩu, vì cởi mở sơ cuồng, nên tâu rằng: “Vi Đinh là người quan ngoại, chẳng phải tộc ngoại Huyền Nguyên”. Vua Huyền Tông bèn ban sắc biếm trăm họ ở Tượng Châu, ban thưởng Sư các thứ tiền lụa, trợ giúp ủng hộ xây dựng chùa Minh Giáo, thêm hiệu là Minh Giáo. Hai tông giáo (Phật, Đạo) trở lại ngời sáng là do công đức của Sư. Nhân đó, Sư soạn “Lập Pháp Tràng Luận” một quyển. Trong hàng công khanh có người nói: “Sư là bịnh độc dữ của Vi Duyện “. Sư bảo: “Đó là như mũi tên đã lắp vào dây cung, không thể không bắn”. Từ đó khắp kinh thành, đều thay đổi quán. Trong hàng đàm luận diễn giảng cho rằng Sư là tối ưu hơn cả.

Lúc tuổi về già, Sư bị đày đến Hán Đông, liền mở rộng khoan thứ, dời tới chùa Long Hưng ở Nam Dương. Bấy giờ, quốc sư Tuệ Trung biết quý trọng danh Sư, nhờ các quan cùng tham yết, thưa rằng: “Nạp y tiểu tăng hướng trước Sư gia bị cho môn đồ sớm cần liên tọa ở đây. Đến Quán sư đang có Quý Khí, có thể làm Cao Đạo Quốc Đức, chẳng đồng với tôi”. Sư mở tráp lấy y vật bảo Quốc sư Tuệ Trung kéo dây. Do đó mà dân chúng ở Tương Đặng đều kinh ngạc Sư huyền ký như thế, danh tiếng đạo hạnh Sư Tuệ Trung càng ngời sáng hơn, do Sư được trọng vọng. Niên hiệu Thượng Nguyên thứ Hai (761), vua Túc Tông ban chiếu mời Quốc sư Tuệ Trung vào cúng dường. Khi đó, vua vào cung, Thái Thượng Hoàng (vua Huyền Tông) dẫn Ngài Tuệ Trung yết kiến Thượng Hoàng (vua Túc Tông), bảo: “Người này đâu giống như Lợi Thiệp”. Vậy thì biết tài nghiệp của Sư vô cùng ưu trường, đế vương mến trọng, Sư lại có nhiều tác phẩm. Đến niên hiệu Đại Lịch (766 – 780), có Sa-môn phiên dịch kinh điển là Ngài Viên Chiếu ở chùa Tây Minh soạn truyện về Sư thành mười quyển, đủ biết Sư có lắm ngôn hạnh.

9. Truyện ngài Thần Ung trụ chùa Đại Lịch ở Tiêu Sơn, thuộc Việt Châu, thời Tiền Đường:

Thích Thần Ung, tự là Đạo Cung, họ Thái. Sư là cháu đời thứ 1 của Thái Úy Mô, tức Độ Giang Tổ thời Đông Tấn, nhân làm quan nên ở Ký Dương, Sư sanh ra tại ấp đó. Mẹ của Sư họ Tuyên, lúc mang thai Sư, có nhiều điềm lạ, đến lúc Sư đang được ẳm bế trong tã mà chợt nghe tiếng xướng niệm kinh, thì liền có tỏ vẻ như ngưng thần lắng nghe. Đến độ tuổi tết tóc, Sư thông minh vượt trội hơn người. Năm mười hai tuổi, Sư giã từ cha mẹ để đi học Đạo, đến thỉnh nghiệp với Đại sư Tuấn ở chùa Pháp Hoa. Sư thường xem đọc kinh điển Phật giáo, Khổng giáo. Chỉ một lần đọc qua thì có thể tụng thầm lại được, nên đồng bạn ai cũng mến mộ.

Niên hiệu Khai Nguyên năm thứ 16 (728), vua Huyền Tông sắc ban độ người xuất gia, Sư bèn phối thuộc danh tịch vào chùa Hương Nghiêm ở Gia Ky. Sư nương tựa Luật sư Huyền Nghiễm ở chùa Pháp Hoa mà học thông Tứ Phần Luật Sao, Ngài Huyền Nghiễm biết được chí khí của Sư, nên nói với mọi người rằng: “Ông (Thần Ung) này vài năm sau sẽ hoàn tất Tư Nam của người học”. Khi đó, Sư càng gắng sức hơn. Ngài Huyền Nghiễm vừa mới soạn ra “Phụ Thiên Luật Ký”, Sư quyết nghiên cứu, suốt cùng được mọi lối thông. Học giả cả một tông ít người có thể ngang hàng với Sư. Tánh Sư chẳng hạn cục, Sư lại theo Đại sư Huyền Lãng ở Tả Khê, học các Pháp Thiên Thai chỉ quán thiền môn, Pháp Hoa Huyền Sớ, Kinh Phạm Võng, v.v… Các nghĩa của Tứ Giáo, Tam Quán v.v… Bí kiện Tải Khải, Quán tánh biết Không. Vừa mới năm hạ quả nhiên Sư tinh thông diễn giảng, mọi người cầu học ở từ Cối Kê, Ngô Quận đều theo về.

Vào niên hiệu Thiên Bảo (72 – 76), Quách Mật ở trong bổn ấp đến thỉnh Sư trụ chùa Pháp Lạc ở phía Tây Phường, nâng cấp khôi phục Phật xá, tầng gác cao tận mây, nửa lắng giang ảnh, lang vũ hoàn bị. Sau Sư đến Trường An, dừng ở chùa An Quốc. Các hàng công khanh nhờ phong vũ đó, hạng người ở gần kính mến liền theo vết mà đến. Sư muốn mở mang Thiền Luật, bỗng nhiên gặp phải binh loạn Lộc Sơn nên trở về Giang Hồ ở phía Đông, trải qua Tương Dương. Ngự Sử Trung Thừa Dữu Quang trước ra trấn tại Kinh Nam, thong dong ở lại vài tháng. Bấy giờ, Cấp Sự Trung tiếp nối Trung Tư Xá Nhân Uyển Hàm xét ngưỡng càng cao nên đều thọ nhận tâm yếu. Sư soạn Lang Vi Tử Xuân, có ngoại thần của đời Đường. Khí phách cứng rắn mà ham học, cùng Sư huấn kháng. Tử Xuân gãy sừng, khắp tòa đều kính phục. Uyển Xá nhân khen ngợi rằng: “Xà-lê đáng gọi là ngọc Ma-ni ngoài trần, sư tử trong luận”. Bấy giờ, mọi người cho là năng ngôn. Sư trở lại trụ chùa Pháp Hoa ở quê cũ, Điện Trung Thị Ngự Sử Hoàng Phủ, Tăng Đại Lý Bình Sự Trương Hà Kim Ngô Vệ Trưởng Sứ Nghiêm Duy Binh Tào Lã Vị Gia Kỵ Trưởng Khâu Đan Hiệu Thư Trần Duẫn, ban đầu thơ phú qua lại. Lô Sĩ Thức vì đó soạn tựa để nối tiếp sự ngao du của chi hứa, làm cố sự ở trong ấp. Bấy giờ, ngoài việc tu niệm ra, Sư còn trau chuốt văn cú, có tập đến mười quyển. Hoàng Phủ Tăng soạn lời tựa.

Trong khoảng thời gian từ niên hiệu Chí Đức đến Đại Lịch (76 – 780), Sư từng nhận lời thỉnh đăng đàn độ giới. Phát xuất từ Đan Dương, dần thấm tới Kim Hoa, các hàng Thích tử đều tôn xưng Sư là Thân Giáo Thọ. Sư lại vì con đường thông suốt từ Huyện Nam đến Cù Vụ, khoảng giữa đó hơn trăm dặm không có một ngôi chùa nào để cho các hàng Thích tử qua lại ngơi nghỉ. Được Kỵ Đô Úy Trần Thiệu Khâm v.v… dân chúng trong ấp đốc suất, những người kính tin bèn xây dựng chùa, suốt một năm mới xong. Tiến Lại Bộ Thị Lang Từ Hoạt ra giúp Minh Châu, vì nước nhà xóm làng mới nói cùng Liêm sứ Hoàng Phủ Ôn trình tấu ban sắc biển ngạch đề “Đại Lịch”.

Trước kia, Trung Nhạc Đạo Sĩ Ngô Quân soạn “tà luận” mấy thiên, bác bỏ Thích giáo, những người mờ tối bị mê lầm. Bổn Đạo Quán Sát Sứ Trần Thiếu Du thỉnh Sư quyết trạch hai giáo Thích, Lão ai là chí Đạo. Sư bèn noi theo cách nhiếp phục tà kiến của Đức Thế Tôn mà phá ma ở Bảo Lâm dựa vào thành lũy ao hào, dùng chánh chế cuồng, cờ trống mới kéo đến mà Ngô quân xóa vết. Sư bèn soạn “Phá đảo phiên mê luận” ba quyển. Phật pháp ở phương Đông hưng thịnh trở lại, thật là do công đức của Sư. Cuối cùng Sư đến Thiên Thai, lại soạn Địa chí hai quyển, đều dựa vào tân luận. Sư quyết trách phong giác, phong vận lãng bạt, trước sau đều hỏi, đều mời an trí nơi giường riêng, thỉnh Sư làm Tăng Thống, lễ bái tôn sùng.

Đến ngày 1 tháng 11 năm Mậu Thìn, tức niên hiệu Trinh Nguyên thứ , Sư bị bịnh, dạy răn môn nhân rồi ngồi kiết già, thân tướng trang nghiêm mà thị tịch tại Pháp đường Đại Lịch. Sư thọ bảy mươi chín tuổi, năm mươi hạ lạp. Đến ngày 1 tháng 12 mới đón rước linh nghi an táng tại gò phía Bắc chùa, hoàn toàn vâng theo tăng chế. Tới tháng 11 năm sau (789) mới xây tháp. Bí Thư Tỉnh Hiệu Thư Lang Lục Hoài soạn bài minh trên tháp. Các đệ tử tài giỏi của Sư như Trí Ngang, Linh Triệt, Tấn Minh, Tuệ Chiếu v.v… đều lộ bày phong dĩnh, thay nhau mở mang truyền bá Thiền Luật. Đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ 11 (79), Hộ Bộ Viên Ngoại Viên Khâu Thượng Khanh soạn văn bia ghi lại đức hạnh của Sư.

10. Truyện ngài Duy Nghiễm, ở Dược Sơn, thuộc Lũng Châu, thời Tiền Đường:

Thích Duy Nghiễm, họ Hàn, người ở huyện Giáng, từ thuở bé, Sư đã lanh lợi thông minh hơn người.

Năm mười bảy tuổi, Sư từ Nam Khương đến phụng thờ Thiền sư Tuệ Chiếu ở Sơn Tây, thuộc Hồ Dương. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 8 (773), Sư thọ giới cụ túc với Luật sư Hy Tháo ở chùa Hành Nhạc. Sư mới tự bảo rằng: “Đại trượng phu phải lìa Pháp để được thanh tỉnh, sao lại vụn vặt vâng theo tế hạnh nơi khăn vải ư?” Sư liền đến tham yết Thiền sư Thạch Đầu và được mật chứng Tâm Pháp. Sư trụ tại Dược Sơn. Đêm đó trăng sáng, Sư vượt lên đỉnh núi cao ngất, cười lớn một tiếng, vang vọng tới Lễ Dương ở phía Đông chừng chín, mười dặm. Đêm đó ở Lễ Dương đều nghe tiếng Sư cười, và đều bảo là “Đông gia”. Sáng sớm hôm sau, họ lần lượt tìm hỏi, đắp đổi suy tìm thẳng tới Dược Sơn. Đồ chúng hỏi rằng: “Đêm qua Hòa-thượng đứng ở đỉnh núi cười lớn vậy ư?” Từ đó tiếng tăm Sư vang vọng, xa gần đều náo động.

Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806 – 821), Lý Cao làm Khảo Công Viên Ngoại Lang, cùng Lý Cảnh Kiệm kết bạn thân thiện, Lý Cảnh Kiệm hạ bị gián nghị, tiến cử Lý Cao tự thay, đến lúc Kiệm bị khiển trách, từ đó Cao mới bị ra làm Thứ Sử Lãng Châu. Những lúc nhàn rỗi, Lý Cao đến tham yết Sư mà trở thành tỉnh ngộ. Thêm nữa, lúc ban đầu, thấy Sư cầm quyển kinh chẳng ngó lại, vị thị giả mới thưa Sư rằng: “Thái Thú ở đây!” Lý Cao tánh tình nhỏ hẹp hấp tấp, mới nói rằng: “Thấy mặt chẳng giống như nghe danh”. Sư bèn gọi, “Cao đáp Dạ, nói: thưa Thái Thú, sao quý lỗ tai mà xem nhẹ con mắt?” Lý Cao khoanh tay cảm tạ, và hỏi Sư rằng: “Thế nào là Đạo?” Sư đưa tay chỉ trời, chỉ tịnh bình, bảo: “Mây ở giữa trời xanh, nước ở trong bình”. Lý Cao lúc đó như nhà tối đã được sáng, khối nghi vỡ tan, chốc lát nói kệ khen ngợi rằng:

“Luyện được thân hình tợ hình Hạc.
Dưới ngàn gốc thông hai hòm kinh.
Tôi đến hỏi không nói gì khác,
Mây ở trời xanh, nước trong bình”.

Ban đầu, Lý Cao, Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên và Lưu Vũ Tích kết bạn văn hội. Tự cùng nhau soạn “Cổ ngôn pháp lục tịch”. Làm văn truất bỏ phù hoa, chuộng lý trí. Nên nói làm văn tức là Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên và Lưu Vũ Tích. Lại Bộ Thường Luận Trọng Ni đã mất, các đệ tử tin theo khác mối. Nên Mạnh đáp lời. Dòng Hàn Dương mặc tẩy nhiên sót lạc. Mãi đến đời nhà Chu, nhà Tùy; Vương Đạo chẳng hưng thịnh, nên các người trong làng văn có soạn tác phẩm cũng chỉ thích ứng chung quanh chư tử. Đến đời Đường, Hưng Phòng Ngụy đã để mất đạo, chuộng lấy phù hoa, đến nỗi có các điều xấu tệ của Võ Hậu, tàn dư của An Sử. Tôi ước hai ba ông đồng với trí quân, khôi phục Đạo của Nghiêu, Thuấn, không thể bỏ lời, thánh mà phế Nho, túng Phạm thư mà loạn Hạ. Người có tà tâm dám quy hướng họ Thích, có vượt lời thề, chẳng hưởng tước người, chẳng trọn năm trời, tiên thánh minh thần là trói buộc là giết chóc, Lý Cao lại gặp gỡ được Sư mà chóng rõ bổn tâm. Cuối cùng do Hộ Bộ Thượng Thư Thứ Sử Tương Châu sung làm Sơn Nam Đông Đạo Tiết Độ Sứ, lại gặp được Tử Ngọc Thiền Ông, càng thêm sáng tỏ Đạo thú. Lý Cao bèn soạn “Phục tánh thư” hai thiên thượng, hạ. Đại khái nói rằng: Bổn tánh sáng sạch, chỉ bởi sáu căn nhiễm ô, mê mà chẳng trở lại, nay kéo dắt phục hồi. Như địa lôi lại thấy được tâm trời đất. Tức Nội giáo nói đó là trở về cội nguồn. Sách ấy vừa lộ bày lại vừa mờ ẩn, che mà lại tỏ. Lời văn thì có liền quan đến Trung Dung mà chẳng viện Thích giáo. Nghĩa lý thì theo chân bỏ vọng, sáng tỏ mới hiển bày tự tâm, chẳng sự gì bày tỏ nơi lời, chỉ manh nha ý tưởng.

Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên xem đọc rồi than rằng: “Đạo ta khô héo chậm chạp mà Lý Cao lại bỏ mặc đó”. Sư đào luyện những người khó giáo hóa, công sức hộ pháp rất nhiều. Xoay tâm của đứa con nầy, nhổ núi khiêng đảnh vẫn còn là dễ. Tướng Quốc Thôi Quần Thường Thị Ôn Tạo Kế hỏi đạo, Sư hay khai phát Đạo ý.

Đến niên hiệu Thái Hòa năm thứ 2 (828), lúc sắp thị tịch Sư bảo với đại chúng rằng: “Pháp đường sẽ đổ ngã”. Đại chúng đều chẳng hiểu ý chỉ, đốc suất người đem cây gỗ dài mà chống đỡ. Sư lại vỗ tay cười lớn, bảo rằng: “Đều chưa hiểu được ý ta”. Rồi chắp tay thị tịch, thọ bảy mươi tuổi.

Liên hệ thử bàn:

Đọc hai thiên “Phục tánh” của Lý văn Công (Lý Cao), thấu rõ Phật lý mà chẳng dẫn nơi sách Phật. Viện chứng mà bày lấy lễ nghi dễ dàng mà thôi. Có thể gọi đó là ngoài mềm thuận mà trong nghịch cứng. Nên nói được tượng thì quên lời. Trong kinh nói rằng: “Dùng lời lẽ mà trị thế đều thành Chánh Pháp”. Lý Cao có được điều đó, Ngài Duy Nghiễm cười một tiếng mà vang thấu làng xa. Tuy chưa nhọc mắt liền xa tìm mà dễ so sánh với trường hợp khác. Long Trì Vĩnh thường than thở, hang xa sẽ đầy. Đạo Sư cảm như vậy mà không biết như thế.

11. Truyện ngài Sùng Tuệ trụ chùa Chương Tín ở kinh đô, thời Tiền Đường:

Thích Sùng Tuệ, họ Chương, người ở xứ Hàn Châu. Thuở còn bé thấy Sư đã có khí phách, chim thứu khó giam lồng, tâm Sư tha thiết muốn xuất trần, sang đảnh lễ Thiền Sư Quốc Nhất ở Kính Sơn, cầu xin làm đệ tử. Tuy chuyên cần Thiền quán, nhưng Sư thường lấy Tam Mật Quán làm việc làm thường ngày.

Ban đầu, ở Xương Hóa, trên đảnh núi cao ngàn khoảnh, Sư kết cỏ làm am, chuyên trì tụng chú Phật Đảnh suốt mấy năm. Sư lại sang Diêm Quan Giáp Thạch Đông Sơn, đựng thất cỏ nhỏ đầu nhọn cao, ở đó nhiều năm. Sư lại phát chí nguyện muốn ngầm tìm theo vết đến chùa Lạc Vân, bỗng nhiên có vị thần thưa với Sư rằng: “Sư trì Phật Đảnh, ít kết Sa-Ha, khiến mật ngữ chẳng viên mãn. Sa-Ha nghĩa là thành tựu. Nay Kinh Thất Phật giáo bị ngoại giáo dày xéo. Khổ ách ấy như khấu liền cờ quân, đợi Sư giải cứu!” Sư rảo bước lên Trình Tây, tâm cũng nhọc nghỉ. Vì chọn cây cũ nên ở chùa Chương Tín mà treo tích trượng. Lúc đó là đầu niên hiệu Đại Lịch (766). Đến ngày 23 tháng 9 năm Mậu thân (768) tức niên hiệu Đại Lịch thứ 3, Đạo sĩ Sử Hoa ở Cung Thái Thanh trình tấu xin được cùng các bậc danh tăng đương thời trong Thích Tông so sánh Phật lực và Đạo pháp xem ai hơn ai kém. Bởi vì, lúc bấy giờ vua Đại Tông khâm trọng kính chuộng Không môn, nên hàng dị Đạo tức giận sự thiên trọng đó mà có lời tấu thỉnh ấy. Bèn ở trước đàn Đông Minh Quán gác dao thành bậc thang, Sử Hoa đạp lên như đi trên đường mặt đá phẳng lỳ. Khi đó, chư tăng ngó ngoái lẫn nhau suy bái mà không ai dám bước lên. Sư nghe như thế bèn đến tham yết Khai Phủ Ngư Triều Ân. Ngư Triều Ân tấu xin ở sân chùa Chương Tín dựng thang chung quanh giá mũi nhọn lấp lánh như sương tuyết, tăng cao trăm thước, còn thềm thang ở Đông Minh Quán rất thấp. Bấy giờ, triều đình công quý cho đến cư dân nơi phố chợ chen chân kề vai mà đến xem sự việc đó. Khi ấy, Sư đi chân trần lên cấp xuống thềm như đi trên đường bình thản, không tỏ vẻ khó khăn. Sư lại đi trên lửa nóng, đưa tay vốc lấy dầu bỏng, ăn lá sắt mà gọi là bánh bột, nhấm đinh dài tiếng như dòn dẻo. Sử Hoa khiếp sợ, xấu hổ bàng hoàng, ôm áo mà lui. Khi đó, chúng đông búng ngón tay ngợi khen tiếng vang như sấm. Vua Đại Tông sai Trung Quan Củng Đình Ngọc Tuyên yên ủy đôi ba phen và mang tặng một chiếc y tía, ban chiếu phong tước Hồng Lô Khanh, tặng hiệu là Hộ Quốc Tam Tạng, ban sắc mời dời về trụ chùa An Quốc. Từ đó thanh danh Sư phát vượt, đức vọng cao vời. Vua Đại Tông lại nghe Sư là đệ tử tài giỏi trong thân môn của Thiền sư Quốc Nhất thì càng thêm kính trọng. Người đời tôn xưng Sư là “Cân Tử Sơn Hàng Ma Thiền Sư”.

Liên hệ thử bàn:

Có người cho rằng Ngài Sùng Tuệ là huyễn tăng, việc ấy thế nào? Thông đáp: Hễ đối với năm trần mà biến hiện, gọi đó là thần thông. Nếu tà tâm biến việc năm trần thì là huyễn ảo. Ngài Sùng Tuệ hành trì pháp Tam Mật Du-già Hộ-ma, do đó giúp Sư có được Chánh Định, đạp lên mũi nhọn, đi trong lửa dữ, đó đâu đáng để kinh sợ? Vậy làm gì có huyễn thay! Luận Du-già có các Tam thần Biến vậy.

12. Truyện ngài Vô Danh trụ chùa Đồng Đức ở Lạc Dương, thời Tiền Đường:

Thích Vô Danh, họ Cao, người ở xứ Bột Hải, ông nội của Sư làm quan ở xứ mà nay gọi là Tây Kinh, nên trở thành người Lạc Dương. Ở tuổi bé thơ mà Sư có cuộc sống khác thường, miệng chẳng nếm ăn các chất cay n ồng máu huyết, tánh không quen rầm rĩ. Xa mong xuất trần, nên khó mà ngăn giữ.

Năm hai mươi tám tuổi, Sư như nhạn sầu sổ lồng, tìm thầy tập học, nương theo tùy thuộc ở chùa Đông Đức, đến lúc tinh thông Luật tạng, giải một chữ không nghi, nghe có Thiền tông, nghĩ phải ngàn dặm mà thỉnh quyết, Sư bèn nắm được cốt yếu, mở cửa thấy đường, từ bay bút khỏe, tư tưởng như suối tuôn. Nhân đó Sư theo thầy du phương phỏng dò di tích của Tổ Sư. Được Đại Sư Hội truyền trao Tâm An, Đại Sư Hội nói trước đồ chúng rằng: “Ta trao Pháp không có tên gọi”. Vì vậy mà gọi Sư là Vô Danh. Từ đó Sư phát chí muốn đi khắp bốn phương, chu du đến Ngũ Đài. Với các xứ La Phù, Lô Phụ, Song Phong, Hoàn Công, Lự Lãnh, Ngưu Đầu, Diệm Khê, Nhã Da, Thiên Thai, Tứ Minh không nơi nào Sư chẳng dò hỏi tìm đến.

Sư với phong cách cao xa, thần thác sáng suốt, người hiểu biết rộng thấy dáng mạo Sư liền kính phục, người thấy biết hẹp hòi thì mở lời hẳn là bị chiết phục. Bấy giờ, vua Đức Tông mời nạp Tiên Vu Thúc Minh Linh Cô Hoàn coi về việc chọn lựa tăng ni, khi đó Sư có dâng biểu can ngăn thẳng và đều đình chỉ. Sau đó, Tiên Vu Thúc Minh Linh Cô Hoàn v.v… xuôi xuống bá tánh ở Nam Hải.

Đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ Sáu (790), Sư đến núi Ngũ Đài, nơi ở không cố định, tới ngày 12 tháng 12 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 9 (793), đang ở tại chùa Phật Quang, thọ trai xong, Sư ngồi nghiễm nhiên mà thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, bốn mươi ba hạ lạp, đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ 13 (79), trà-tỳ nhục thân Sư, thâu nhặt được một thăng xá-lợi. Trạch Lộ Tiết Độ Sứ Lý Bảo Chân xây tháp thờ Sư tại chùa Phật Quang vào năm Canh Ngọ (790) tức niên hiệu Trinh Nguyên thứ 6. Có thuyết nói Sư có soạn sớ giải Kinh A-di-đà.

13. Truyện ngài Trí Thường trụ chùa Quy Tông ở Lô Sơn, thời Tiền Đường:

Thích Trí Thường, Ngài trội vượt khác thường, đi khắp các nơi, tham yết các Thiện tri thức, bóng nương Nam Tuyền, đồng đến môn tòa của ngài Đại Tịch, mới thấy Đạo của Giang Tây.

Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806 – 821), Sư chống gậy đến Tịnh viện Quy Tông ở Lô Sơn. Đồ chúng hưởng ứng, Pháp của Sư thịnh hành lan đi như gió, Bạch Lạc Thiên biếm truất Giang Châu Tư Mã, rất khâm Phục kính trọng Sư. Vào niên hiệu Nguyên Hòa thứ 6 (811), tiếp theo lại có Lý Bột Viên Ngoại ẩn cư tại Tung Thất để soạn trưng khởi. Đỗ Nguyên Dĩnh đuổi đi, ra làm thứ sử Kiền Châu, ở Nam Khang chưa đầy một năm, rồi lại làm Thứ Sử Giang Châu. Lý Bột nghe rộng biết nhiều, sách của trăm nhà hiền triết không thứ nào mà chẳng xem đọc, nên được mệnh danh là “Lý vạn quyển”. Vừa đến Quận liền mừng được cùng gặp Bạch Lạc Thiên. Nhân nói về những nhân vật hiền triết ẩn dật tại các nơi Tầm Dương, Lô Phụ, Sơn Thủy, luận về vết tích ngài Tuệ Viễ, bèn thuật lại Thiện Đàm Thiền Yếu của Thiền sư Quy Tông. Lý Bột nói: “Bảng vàng nơi triều đình sớm chiều có danh mục, ưa thích rau A-sư”. Bạch Lạc Thiên nói: “Như thế thì chưa biết ăn rau A-sư ư?” Bạch Lạc Thiên mạnh dạn khuyên đến Nhị Lâm, ý đồng với gặp Sư, lúc đến Tịnh Viện Quy Tông, Lý Bột hỏi rằng: “Trong giáo điển có nói: Núi Tu-di chứa hạt cải, hạt cải chứa núi Tu-di. Vậy làm sao hạt cải chứa được núi Tu-di ư?” Sư bảo: “Người ta nói ông là kẻ sĩ thông bác học, xem cả muôn quyển sách, mà lại thấp bé như thế ư?” Lý Bột nói: “Thật hổ thẹn cái hư danh ấy!” Sư bảo: “Sờ từ gót chân lên đến đỉnh đầu, chỉ như thân chừng thước, muôn quyển sách hướng nơi não mà ở?” Lý Bột cúi đầu không nói, lại suy nghĩ mà ngợi khen.

Lại có Sa-môn Thần Kiến ở chùa Đông Lâm, giảng các kinh luận, hỏi: chạm mắt là Giác ngộ, Sư lược nêu cử, Thần Kiến không hiểu, bèn phát lời tụng, Sư chỉ bày cảnh giơí xấu. Khi đó Sư phán khu phận nghe ý chỉ.

Sư có dị tướng, mắt sáng tròng đôi; bèn lấy thuốc thoa tay, xoa mãi, bất giác mà vành mắt đỏ hồng, nên mọi người xưng gọi Sư là “Xích Nhãn Quy Tông” vậy.

Liên hệ thử bàn:

Phật lý sâu mầu, một lời xử quyết. Lời của Huyền giải, hợp với mãnh lợi, ứng nghiệm tợ thuốc tốt mầu, bịnh liền hết.

14. Truyện ngài Sở Nam ở núi Thiên Khoảnh, thuộc Hàng Châu, thời Tiền Đường:

Thích Sở Nam, họ Trương, người ở đất Mân. Khi đang tuổi tết tóc, tự nhiên Sư quỳ trước cha mẹ tỏ bày chí nguyện muốn xuất gia. Sư đến chỗ Đại Sư Đàm Yết ở chùa Khai Nguyên và được dạy bảo. Lúc thầy trao kinh pháp, mắt Sư thấy qua miệng liền đọc tụng, Sư cầm khăn lau hầu quét tước, ứng đối, rất khéo léo cẩn trọng.

Đến năm hai mươi tuổi, Sư mới xuống tóc, đến núi Ngũ Đài thọ giới cụ túc, đến Thiệu Quận học Luật Tướng Bộ, rồi sang Thượng Đô học Kinh Tịnh Danh. Một kinh, một luật, lược thông Tông chỉ, thì biết Đốn cơ, chẳng cam chịu ràng buộc nơi Tiệm giáo, Sư bèn sang núi Phù Dung, căn tánh chưa phát, Sư tham yết Thiền Sư Hoàng Bá. Hỏi đáp nhiều nên cơ nghi chóng tỏ ngộ. Gặp nạn vua Võ Tông phế hủy Phật giáo, Sư trở về phương Nam trốn sâu nơi hang hóc núi rừng. Đến niên hiệu Đại Trung (87 – 860) phục hưng giáo pháp, ra gặp thăng bình. Tướng Bùi Công Hưu ra trấn tại Uyển Lăng, thỉnh Thiền sư Hoàng Bá ra núi, Sư theo hầu từ đó. Tiện dịp, Sư đến chùa Báo Ân ở Cô Tô, chuyên thực hành thiền định, suốt hơn hai mươi năm, chân Sư chẳng đến nhà thế tục

Đến niên hiệu Càn Phù năm thứ (877), Thái thú Cô Tô là Chu Thận Tự, do ảnh hưởng đạo phong nên thỉnh Sư đến trụ Viện Bảo Lâm. Lại thỉnh Sư đến trụ Núi Chi Hình. Tới niên hiệu Càn Phù năm thứ (879), Xương Hóa Huyện Lịnh Từ Chánh Nguyên và Tử Khê Nhung Tướng Nhiêu Kinh đồng thỉnh Sư đến trụ Viện Từ Vân ở núi Thiên Khoảnh. Ngoài việc dạy bảo thiền chúng ra, Sư nghiễm nhiên thiền định suốt tháng hoặc cả tuần. Đến niên hiệu Quang Khải năm thứ 3 (887), Tiền Lưỡng Chiết Võ Túc Vương Tiền thỉnh Sư xuống núi để cúng dường. Vua Chiêu Tông nghe Đạo hóa của Sư nên ban tặng Sư lộc Bào Y Ngũ Sự, riêng mang đến y phục sắc tía.

Đến tháng 2 niên hiệu Văn Đức thứ Sáu (888 – 899) bỗng nhiên có hai vầng cầu vồng soi suốt đường thất, sau đó có hai con nai chaỵ thẳng vào chùa, đòn dông trên pháp đường gãy lìa. Tới tháng , Sư từ biệt tăng chúng rồi vào giường Thiền, xuôi hai chân, duỗi hai cánh tay tới đầu gối, an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi tuổi, năm mươi sáu hạ lạp, xây tháp thờ ở góc phía Tây của viện.

Đến tháng 2 năm Nhâm Tý (892), tức niên hiệu Đại Thuận năm thứ 2, Tôn Nho Khấu ở Tuyên Châu bởi phong lược của Tiền Đường, binh sĩ phá tháp, thấy toàn thân Sư không tiêu rã, móng tay và tóc đều dài ra, bèn ăn năn hối tội mà bỏ đi. Lúc bình sanh, Sư có soạn “Bát-nhã Kinh Phẩm tụng kệ” một quyển, “Phá tà luận” một quyển. Vì Chi, Ngô khác tông nên ngoại địch xem là quý ở đương thời.

15. Truyện ngài Huyền Thái trụ chùa Thất Bảo Đài ở Nam Nhạc, thời Tiền Đường:

Thích Huyền Thái, không rõ Sư là người xứ nào, tánh Sư ngang thẳng, chẳng nói lời vô nghĩa, tâm tĩnh nơi tình nghĩa mà hậu động, Lannhã Sư ở phía Đông của Hành Sơn, đề hiệu là Thất Bảo Đài. Sư chẳng mặc y phục tơ tằm gấm lụa. Người bấy giờ gọi Sư là Thái Bố Nạp.

Từ khi gặp được Thiền Sư Đức Sơn, hoát nhiên như tự đến. Sư phát nguyện chẳng lập môn đồ, tiêu diêu cầu chí, mà đối với từ bút của Sư, bút như có thần. Bốn phương hậu tiến tuần lễ thấy nhau, đều dùng lễ của Bình Hoài. Sư từng vì phía Nam của Hành Sơn bị dân núi, bọn Mạc Diêu, chặt cây đốt núi tổn hại rất lắm, Sư bèn làm bài ca “Xa Sơn” truyền bá xa gần, vang thấu triều đình. Nhà vua ban sắc khiển trách Thái Thú Hành Châu cấm chỉ việc đó, Lan-nhã ở trong núi do đó mà được tồn tại, không bị cháy lan là do công đức của Sư.

Sư thị tịch lúc sáu mươi lăm tuổi, trước khi tịch Sư nói kệ rằng:

“Không cần cạo tóc
Chẳng cần tắm gội
Một đống lửa dữ
Ngàn đủ vạn đủ”.

Nói xong, Sư duỗi một chân mà thị tịch. Trà-tỳ thâu nhặt được Xá-lợi an táng chung ở phía trái, tháp của Đại sư kiên cố, xây một ngôi tháp nhỏ. Lại làm tượng cốt, bài minh ca tụng, v.v… nơi tháp các Tổ sư, người giỏi việc biên chép thành tập mà lưu hành ở đời.

16. Truyện ngài Huyền Sướng trụ chùa Phước Thọ ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:

Thích Huyền Sướng, tự là Thân Chi, Ngài dòng họ Trần, người xứ Tuyên Thành. Từ thuở bé, Sư đã giữ gìn tiết tháo khác thường, những lúc vui đùa thì nhóm cát làm tháp, nhóm lấy lá làm hương.

Năm chín tuổi, Sư đến chùa Thủy Tây ở Kinh Ấp, nương tựa Thanh Nhật Thượng Nhân mà được trao kinh pháp. Năm mười chín tuổi, Ngài xuống tóc, năm hai mươi tuổi Sư sang giới đàn Đâu-suất ở Phước Châu cầu thọ giới cụ túc, nghe nhận luật khoa, thâm đắc Tông chỉ, mới thêu một Pháp y bằng tơ mịn nhuận mầu sắc đẹp mà sang Việt Trung cầu nghe dị thuyết. Sư kính mến ở chùa Tây Minh ở kinh thất có viện cũ của Luật sư Đạo Tuyên, còn cất giấu nhiều vết tích Tỳ-ni Giáo, nhân nương gá ở Pháp tịch của Luật sư Tuệ Chánh, tự đến Kinh hoa, dần được sự thấy nghe rộng lớn từ các vị Đại đức Tam học ở kinh thành. Sư mới chuyên việc giảng đàm, vội đúc chung để lấp ách thì gặp pháp nạn Hội Xương phế hũy Chánh Pháp. Bấy giờ, các Pháp lữ ở kinh thành rất lo sợ bàng hoàng. Lưỡng Nhai tăng lục Linh Yên, Biện Chương đồng suy cử Sư làm đầu để dâng biểu luận bàn can ngăn. Sư bèn soạn “Lịch Đại Đế Vương Lục” tấu trình nhưng vua Võ Tông chẳng nghe. Do đó, Sư cùng chung số phận theo tục phục. Thà khéo Đạo tình như rồng rắn nép phục mà đợi thời, ngọc đá đều cháy mà chẳng cứu. Mãi đến lúc vua Võ Đế băng, vua Tuyên Tông lên ngôi (87). Cửa đóng lại mở, núi dữ dứt cháy. Vào niên hiệu Đại Trung (87 – 860), Sư gặp những ngày Đản thần, vào nội cung bàn luận, vua Tuyên Tông ban tặng Sư một bộ Pháp y ca sa sắc tía, sung vào Đại Đức Lâm Đàn trong ngoài. Vua Ý Tông rất khâm trọng túc đức của Sư, phiên tích thường đến, Sư mới tấn phải tu thêm “Kinh Sám Hối Nhất vạn ngũ Thiên Phật danh”. Lại tấu xin “kinh Bản sanh tâm địa quán “ một bộ tám quyển, đều nhập Tạng.

Bấy giờ thỉnh Sư sung làm thủ lãnh Viện Truy Phước, lại sung làm Đô Duy Na làm tổng trì, sau đó thỉnh đặt Thượng tọa. Ngài giảng Luật 60 tòa. Đệ tử được độ Pháp vài ngàn vị. Sư soạn “Hiển chánh ký” mười quyển, “Khoa lục điểm danh nghĩa đồ” ba quyển, “Tam Bảo ngũ vận” ba quyển. Tuy thuật lại những điều nghe xưa mà nêu đề mục mới, nghĩa vượt ngoài ý, văn giúp thời cần. Vào niên hiệu Càn Phù (87 – 880), vua Ý Tông chọn từ Thượng Tâm, ban tặng Sư hiệu là Pháp Bảo. Đến ngày 21 tháng 3 niên hiệu Càn Phù năm thứ 2 (87), Sư thị tịch, thọ bảy mươi chín tuổi, năm mươi chín hạ lạp.

Đệ tử Tứ Tử là Tuệ Nhu Đại Đức Sư Toại Tông Thiệu để đến ngày 2 tháng năm đó mới đón rước an táng tại thôn Tiểu Lương, làng Cao Dương, Ấp Trường An. Đến năm Đinh Dậu (877), tức niên hiệu Càn Phù thứ , Thượng Thư Lễ Bộ Thị Lang Thôi Hãng là người đã cùng Sư giao phân rất sâu sắc, soạn văn bia thuật lại di tích của Sư.

17. Truyện ngài Duy Kính trụ tại Đạo tràng Ban-Chu ở Nam Nhạc, thời Hậu Đường:

Thích Duy Kính, người xứ Trường Khê, thuộc Phước Châu. Sư có tiết tháo tinh ròng, nuôi dưỡng ý chí, phá nạp che thân, y phục không lụa là thêu thùa, gọi là Đầu-đà.

Ban đầu, Sư tham Tuyết Phong, sau thám thấu uyên phủ. Vào niên hiệu Càn Hóa (911 – 913), thời Hâu Lương, Sư vào núi trú tại Báo Từ Đông Tạng, đó cũng gọi là “Tam Sanh Tạng”. Ở trong thấy đèn gương của Thiền sư Pháp Tạng, chóng tỏ rõ được môn Pháp Giới Quảng Đại Trùng Trùng Đế Châu Như thị, nhân đó mới khen ngợi rằng: “Các bậc Thánh tiên đạt đầy đủ trí tuệ phương tiện chẳng thể nghĩ bàn như thế hàng tiểu trí chẳng thể biết được!” Lại nữa, trong Nhạc Đạo Quán cũng thiết bày đèn ấy, qua thời gian, nhân phế giáo nên thầm dời vào Tiên đàn, có Đạo sĩ Tài Nhân Du Nhạc giữ đề rất nhiều. Sư bèn than rằng: “Quýt mùa Hạ nóng nhiệt thà trồng ở thần đô, Thuấn Thiều đều nghe chẳng rõ biết liền quên mùi thịt. Ôi! Hạng người không biết chẳng nghiên tầm đầu mối cội gốc, trận thanh chiên của họ Vương cho là vật cũ, nhận Khổng Tước của Lãnh Nam để làm gia cầm, đời sau đâu biết! Nên ở đây phải phân biệt”. Sư bèn soạn “Ngũ tự tụng, Tụng ngũ chương”. Người đọc xem biết được Lý Sự dụng nhau, đèn có sở thuộc, thuộc ở hỗ tương, vượt vào quang ảnh, hàm dung hiển bày biển Tánh Hoa Nghiêm. Chủ bạn giao quang, chẳng phải khí dụng của Đạo gia. Sở Vương tấu trình ban tặng Sư hiệu là “Bảo Văn đại sư”.

Vào niên hiệu Khai Bình (907 – 911) thời Hậu Lương, Sư tiếp tục soạn “Bảo Lâm Truyện” tức là ghi lục nguyên phái Tổ Tổ kế thừa nhau trong Thiền môn từ niên hiệu Trinh Nguyên (78 – 80) thời Tiền Đường về sau. Sư còn soạn riêng “Nam Nhạc Cao Tăng Truyện” không rõ bao nhiêu quyển. Đó cũng là một đời Thiền tông đạt sĩ văn thể đáng xem. Sau, Sư thị tịch ở trong núi.

Vật vượt nghi dường như khó liền phân biệt. Ngài Duy Kính ghi chép đèn gương, như di vật được mang trở về nhà, người đời sau ắt chẳng dám trộm lấy về nhà họ. Nên nói: “Việc trước không quên là nguyên quy của đời sau “.

18. Truyện ngài Đạo Phi trụ chùa Phước Tiên ở kinh đô Lạc Dương, thời Hậu Chu:

Thích Đạo Phi, Sư người làng Quý Trụ ở Trường An, gia đình thuộc Tông Thất của nhà Đường. Cha của Sư theo Yến Tương tông đứng đầu Ngũ Viện ở Duyên Đường. Mẹ của Sư họ Hứa, vì cầu tin tức nên thường trì tụng Phẩm Phổ Môn Quán Thế Âm. Bỗng mộng thấy ánh sáng thần chiếu soi vào mình, nhân đó mang thai Sư. Đến lúc sanh thì Sư mặt mũi khôi ngô, hình chất trang nhã. Bà con thân thích lấy làm lạ và mến yêu như là đồng tử cõi trời. Năm mới tròn một tuổi, cha của Sư làm tướng lãnh tại Phấn Tấn dẫn quân đến Hoắc Sơn mà qua đời vì vương sự. Sư còn bé thơ, nên nhóm tụ nô đùa, hình dáng cười tươi.

Năm bảy tuổi, bỗng nhiên Sư bỏ không ăn chất máu thịt tanh nồng, mỗi lúc đến tinh xá thì vui vẻ quên trở về. Sư bèn xin mẹ sang chùa Bảo Thọ đảnh lễ Pháp Sư Kế Năng, tôn xưng làm thầy. Năm chín tuổi, Sư khéo thông lễ tán theo Phạn âm. Năm đó, Tương Tông đến Thạch Môn, Sư theo thầy đến nghinh giá. Năm mười chín tuổi, Sư học thông Kim Cương Kinh nghĩa, bèn hành trì và giảng suốt, lại giá trở lại kinh đô Lạc Dương ở Trường An bị đốt phá rã tan, Sư bèn vai cõng mẹ đi về hướng Đông, đến Hoa Âm. Lưu Khai Đạo làm loạn, Sư lại mang mẹ đến vào Hoa Sơn an nghỉ trong hang núi. Bấy giờ, gạo thóc hiếm quý, mỗi đấu đến muôn đồng tiền. Sư lần lượt đi khất thực trong thôn xóm, tự chuyên thai tức, chỉ cung cấp cho mẹ Sư dùng. Mẹ hỏi Sư đã ăn chưa, Sư đáp: “Vừa rồi ra ngoài đã thọ trai xong”. Sư sợ thương tổn ý của mẹ mà giữ tâm chí hiếu như thế!

Năm Sư hai mươi tuổi, mẹ của Sư bảo rằng: “Cha của con đến Hoắc Sơn bỏ mạng nơi chiến trường, hài cốt phơi dầm sương móc, con có thể đi thâu nhặt đem về an táng, làm thế chẳng là hiếu ư?” Ngài bèn từ giã mẹ già, đi sang ấp Hoắc, dựng am tranh, nhóm công tích tập cốt xương trắng lại một nơi, suốt ngày đêm tụng kinh, và chú nguyện rằng: “Người xưa tinh thành có sự cảm ứng giọt máu nhận xương. Nay ta chí làm con hiếu há không linh nghiệm gì ư? Nếu trong đống xương này có cái nào nhúc nhích, thì đó tức là di hài của cha ta “. Sư nhứt tâm chú tưởng như vậy, mắt chẳng tạm rời. Trong khoảng thời gian vài ngày, quả nhiên có các xương từ trong đống xương vọt ra tranh nhau phóng túa trước Sư, lay động giây lâu. Ngài liền khèo lấy hai chân nhảy vọt ôm chầm lấy như hiện đang sống, rồi mang trở về Hoa Âm. Đêm đó, thân mẫu Sư mơ thấy người chồng trở về nhà, tới sáng mai thì Sư mang xương về đến. Sư giữ hạnh hiếu vô cùng cảm kích, tiếng tăm ngày một vang xa.

Đến năm Sư hai mươi bảy tuổi, gặp Diệu Châu Mục Lâu Kế thỉnh Sư tới trụ viện Di Lặc, của chùa Phước Tiên ở Lạc Dương. Là chỗ tẩy rửa vết thương của Pháp Sư dịch Kinh Thích Đạo An đời nhà Tấn. Đến năm Bính Dần (906), tức niên hiệu Thiên Hựu năm thứ 3, thời Tiền Đường, Tế Âm Vương ban tặng Sư Pháp y sắc tía. Vua Trang Tông (923 – 926), thời Hậu Đường tặng Sư danh hiệu “Quảng Trí Đại Sư”. Dưới thời Hậu chủ đời Hậu Lương, thời vua Trung Tông, vua Minh Tông (923 – 93) đời Hậu Đường, hễ trong nội cung có kiến lập hương đàn, thì Sư đều ứng chế đàm luận, phần nhiều là đứng đầu. Đến thời Hậu Tấn dời đô, nay là xứ Đông Kinh, niên hiệu Thiên Phước thứ 3 (938), vua Cao Tổ (Thạnh Kính Đường) ban chiếu mời Sư vào Lương Uyển, làm chức Phó Lục Tả Nhai tăng sự, Sư cùng với Đại Sư Chiêu Tín, là bậc truyền Pháp A-xà-lê đều có dung mạo trẻ thơ, nên gọi là hai vị Bồ-tát. Và cũng vì vậy mà các triều quý, sĩ thứ phần nhiều thỉnh Sư để học phương pháp sống lâu. Sư luôn tinh cần không biếng trễ. Mỗi danh hiệu Phật Sư lạy một lạy, từ Kinh Phật Danh cho đến bốn bộ Kinh Pháp Hoa, Kim Cương, Nhân Vương, Thượng Sanh, Sư đều mỗi chữ mỗi lạy. Nhưng Sư giữ hạnh Đầu-đà, đến lúc phân vị có hai đệ tử theo hành.

Đến năm Giáp thìn (9) thuộc niên hiệu Khai Vận, thời Hậu Tấn, Sư giữ chức Tả Nhai Tăng Lục, tuy làm việc của chúng tăng mà Sư vẫn giữ thời khóa tu trì thường ngày. Tướng quốc Lý Công Đào, Tây Khu Mật Thái Phó Vương Công Phác, Hàn Lâm Thừa Chỉ Đào Công Cốc v.v… đều hết lòng kính trọng. Đến niên hiệu Càn Hựu (98 – 91) thời Hậu Hán, Sư cáo bịnh từ tạ xin trở về phương Tây. Trong lúc chưa được chấp thuận, gặp phải thời nhà Hán suy bại, binh lửa nổi dậy lan tràn, phóng túa cướp bóc. Sư ở dưới mái hiên tụng niệm suốt hai ngày, mọi lộn xộn không còn thấy gì. Khi đó, mọi người ở kinh thành thấy nghe như thế càng thêm khâm phục kính trọng. Sư lánh về Lạc Ấp, vua Thái Tổ (91 – 9) thời Hậu Chu vốn đã ngầm kính trọng Sư, nên trong niên hiệu Quảng năm Thuận thứ nhất (91), vua ban sắc mời Sư làm Tả Nhai Tăng Lục, chẳng cho từ chối. Sư lại trở về Đông Kinh đảm nhận việc chúng tăng. Thế Tông y sửa sang phủ chính, sợ Không môn phiền tạp, muốn tấu trình sa thải, mời Sư cùng bàn bạc. Khi đó Sư hỏi nạn giao phát mở dụ tâm vua Thế Tông. Sư bảo: Sự thanh tịnh cao quý của chư tăng hẳn không lộ bày ở trước người. Trong tăng hoặc có người hung ác, bướng bỉnh, riêng giao du trên đời, ắt sợ chánh thi, cỏ Bao cùng với Lan chỉ mà cắt bỏ, mới có việc đào thải vàng, trục bùn cát mà khuấy động. Đại vương anh minh muốn soi chiếu súc dưỡng trí đáng hành, là vì ích lợi cho hoàng đế hay tổn hại cho người thân của vua? Nếu vì ích lợi cho quân vương thì chẳng nên khiến một vật mất chỗ, nếu vì tổn hại thân thuộc tức là phá hoại ruộng phước lục hòa. Huống gì thiên hạ mới tạm bình yên, vết thương lở loét chưa kín miệng, xin đợi để lúc sau tìm bắt cũng không muộn! Nên Lão Tử nói: “Sửa trị nước lớn như nấu con cá tươi sống nhỏ, sợ nó quẩy động mà tan rã”. Vua Thế Tông rất lấy làm thấm thía lời nói đó, và bèn theo đó mà dừng. Đến lúc vua Thế Tông lên ngôi (9), Sư bảo với chư tăng rằng: “Tôi cùng với Hoàng Đế sớm đã có chí, các ông nên răn nhắc, giữ gìn lẫn nhau, kiên quyết cầu xin mở giải trở về Lạc Dương”. Ngài lại lập lễ bái Kinh Thủ-lăng-nghiêm, hai năm sau quả nhiên ban sắc đều hủy chùa tăng, đồng thời lập tăng trướng, bởi sự hạn chỉ ấy. Hũy phá chánh giáo không sâu là nhờ sức của Sư.

Đến Ngày mùng 8 tháng 6 năm Ất Mão (9) tức niên hiệu Hiển Đức thứ 2, Sư thị hiện bị bịnh, qua ngày mùng 10, Sư bảo đệ tử sớm lo cháo để dùng, và Sư bảo:”Có chúng Bồ-tát Thủ-lăng-nghiêm rất đông cùng đến đón rước”. Sư bảo đánh bảng, chốc lát thì thị tịch, thọ sáu mươi bảy tuổi, bốn mươi bảy hạ lạp. Tăng tục đều gào khóc, các chùa lo đầy đủ oai nghi, đón rước về an táng ở phía trái chùa Quảng Hóa ở Long Môn và xây tháp đá để thờ. Lúc Sư chưa tịch, hồng chung trong chùa tự nhiên tắt tiếng, đầu rồng ở ngoài chùa bỗng nhiên cũng gãy rơi, Sa-môn Trừng Thanh mộng thấy đòn dông ở chánh điện bị gãy rơi. Rất lắm điều quái lạ.

Liên hệ thử bàn:

Thời nhà Chu, vua Võ Đế phá Phật, đến năm Tân Hợi (91) thuộc niên hiệu Khai Hoàng đời Tùy, Thái Úy Thừa Triệu Văn Xương xuống minh phủ thấy Võ Văn Ung (vua Võ Đế 61 – 79 thời Bắc Chu) đang chịu hành xử, gởi lời xin vua Văn Đế), Dương Khiêm (81 – 602) đời Tùy tìm cách cứu giúp. Đến thời Hậu Chu, vua Thế Tông (Sài Vinh 9 – 960) đào thải hủy phá tư ấp, khắc lập tăng trướng nên nói rất có thể vời lấy quả báo xấu ác đó, hoặc có xuống minh phủ thấy điều đó. Đều tán thành kẻ quyết sự, đồng ở phụ xứ, lược đồng như vua Võ Đế thời Bắc Chu, chưa biết việc đó ư?

Thử luận bàn:

Cửu trùng sở dĩ thành thâm nghiêm, do nhờ bảy lễ giữ gìn ưu hoạn. Thành cao tường lớn thêm hiệu úy mà giữ gìn. Đãy tê da hủy giúp tướng quân mà chiến đấu. Vua đã an chỗ thì bề tôi cũng lập công. Giống như bên ngoài Thích môn kẻ xem thường bỗng đến đắc pháp, dắt đó ở trong quyền mà có sự đối địch nầy, khiến cho Đại Đạo tan mất mà trùng phục huyền cương, dứt bặt mà lại trưng bày. Ta có Trọng Do là người lời ác chẳng để vào tai. Ngoài chống lại sự khinh thường, không thể tạm mất. Than Ôi! Chân giáo (P. giáo) truyền đến phương Đông đã qua nhiều niên kỷ, hứng chịu lấy gian truân chẳng khuất chỉ để tìm. Pháp ràng buộc hữu vi, bốn tướng vì đó mà dời đổi, ánh sáng tuy không tổn, song vầng mặt trời mặt trăng, vì đó mà có sứt mẻ, Hoàn Sở không mối manh, bắt chước chạy theo, được thời mà biến Pháp, đức dư ấy bắt đầu từ đó, riêng thừa lực mà trách tăng. Nhờ Viễn Công gởi thư đến, nhân triều đạt kháng sớ, chỉ thành bạo chính, không nịnh hót nhân tình. Thời Nguyên Ngụy ôm lòng tà, Chu Ung chuộng biện. Ngài Đàm Thỉ mới vạch trần vết tích dối trá, Ngài Đạo An phấn phát ngôn từ bén nhọn, là đợi hố Tần có thể trốn lánh luật Hán, mới an định được hai đức, nghi đó trú thọ ứng chân, vào ra hình thái ấy giúp người ách nạn, cứu kẻ đắm chìm. Ngài Uy Tú suy lường ách vận đó, giận trái thường này. Trên nếu công kích thì cộng lũy lên trước. Vì Pháp tình cờ phạm mà Nhan bất tử. Sư phục lễ đáp từ khó của Quyền văn Học, nhóm thành giải phán, Ngài Tuệ Lập bác bỏ Lã Phụng, ngự đồ chú khỏi lan tràn Khuy du, cả hai mặt đều thông. Ngài Huyền Nghi soạn “Chân chánh luận”, một trường vọt giá. Ngài Pháp Minh phán định việc, Hóa Hồ, đáp về Khổng Lão với Lý Hoa, các danh Nho đều nhiếp phục. Nêu rõ đúng sai đối với họ Vi, biện thế tù cưỡng. Ngài Thần Ung lấp bít Từ độc ký ở Thiên Thai, Ngài Duy Nghiễm sai Lý Thành soạn ở “Luận Phục Tánh “. Trong đó, hoặc xúc chạm với thuật của Sử Hoa, nhân đạp lên thang dao, cản ngăn điều quấy của vua Đức Tông, mới đình chỉ sự sa thải, bày đáp cảnh tỉnh Lý Bột làm lời vè để chiếm Hành Sơn. Luận phá tà thật đáng lấy làm tông, bài tụng Giám Đăng quy về ta.

Trên đây là các đức hạnh vượt tục cao vợi, thử cản ngăn giặc thù, chống lại xem thường. Nói nó mỏng manh thì phát giận quên ăn, rất chẳng phòng trở lại vấy bẩn. Như cao nguyên phóng lửa, mùi hôi của lan ngãi cùng cháy, cây cối thiếu gió, thì ổ chim loan, chim si đều úp đổ. Đó chỉ dùng để gọi sự bạo ngược phá diệt đạo pháp ta trong niên hiệu Hội Xương. Từ đời Hán dến đời Đường, trải qua mấy phen nguy ách, nhưng nặng nhất là thời Võ Tông. Ban đầu có Đạo sĩ Triệu Quy Chân trao thuật lưu niên cho nhà vua, sủng ngộ không gì sánh được. Mỗi lần đối đáp tâng bốc, bài bác phá hủy Phật giáo nên dứt bỏ hết, bởi vì Triệu Quy Chân từng ở dưới thời vua Kính Tông vào ra nơi ngõ ngách cung cấm, thế lực như dò xét nước sôi. Đến lúc họa buộc, bạo giết tự nhiên sự thể như tương, chư tăng khắp kinh ấp đếu cùng nhau phát sanh nhạo báng chê cười. Triệu Quy Chân thống thiết tâm cốt, biết ngày nào quên được, trở lại gặp Võ Hoàng nhân duyên quen lớn gần gũi, vì là Lưỡng Nhai Giáo thọ tiên sanh. Khi can gián thần khán sớ, Tể thần Lý Đức Dụ thường nói Triệu Quy Chân sợ nó lay động, nên tấu đón rước La Phù Triệu Nguyên Khởi, Nam Lạc Lưu Huyền Tĩnh vào. Nhà vua cho rằng thần tiên đến như thế là do cùng làm kỳ, giác đồng hủy Thích môn, ý muốn báo thù cho việc chư tăng bị cười chê. Chúng khinh phủ xe, bầy thước táo sợ núp. Tu-di nghiêng đổ, khốn cùng thay phong hóa của kiếp tận, Hữu đảnh thấp tịt, cậy vào chày túc thông, há gọi là cuối cùng ư? Sẽ có lúc phục hội, vào niên hiệu Đại Trung thực hành tru diệt kẻ phế giáo, thời Hội Xương chẳng phải là Lão của ngày sau. Than ôi! Thuật kỳ bí của Triệu Quy Chân xưa nay không có. Sao ta có thể gởi mừng giận đối với tâm của Thiên tử, tuy Vương Tấn An, Kỳ đều phế như vậy. Bấy giờ, có các Đại sư Huyền Xướng, Pháp Bảo nhận mời làm chức Lưỡng Nhai, quơ một dao đồng loạt cắt đứt, biên tập xưa nay, sưu tầm kinh sử, soạn thành biệt lục dâng tấu phơi bày nêu mốc trái ngược, tay long lân đã duỗi, tâm tham dò hang hổ càng mạnh. Bịnh độc dữ tan, thì dao con huơ làm gì, sông vẩn đục, một ít keo dính mà man giải, như đều sợ chấn động, cái gọi là tọa khán. Ngài Huyền Sướng tay nâng chẳng khắp núi, chẳng khỏi sợ xúc chạm bẻ gẫy của công sức chung. Phàm chư tăng ngày nay không buông lung hủy mạn, hủy mạn là tiểu nhân, đến lúc vây bủa độc họa, quân tử chịu lấy, cũng như lửa tại cửa thành mà cá trong ao bị chết. Thảng bảo: Chu Võ chẳng rơi nơi địa ngục Atỳ, Triệu Quy Chân tự lên tiên cảnh, vua Tuyên Tông phá diệt đó đã lấp trách. Cho nên Tỳ-kheo chỉ nên quán xét lại thân hành, chớ dò xét huyền môn, việc chẳng liên can đến mình. Lại vì không môn nhiễm tập như thế, không đấu đánh ở tứ chi mà tổn thương thân thể. Mỗi vị đều là bậc Thánh lập giáo, vô tướng đoạt luân, khi thực hành như vậy gọi là chân chánh hộ Pháp. Lão Tử nói rằng: “Lục thân chẳng hòa thì có hiếu tử, nếu không có tên gọi hiếu tử, thì tin lục thân rất hòa “.

Các vị trên đây đều là trong nhà có tranh giành mà gào khóc. Nhân được tên gọi là cha mẹ tốt lành. Nay tôi, nhà lưu truyền chỉ khuyên ở tương lai, hai tôn giáo hòa đồng chớ trông đời sau, học trách móc thẳng, nguy hiểm ở trong đó. Làm quân vương chẳng lấy, cho nên gặp việc có thể dùng, cùng việc đáng làm, hẳn nhậm buông giữ, chớ nên giao trụ. Sau đó, biết thời gọi là Đại Pháp Sư. Truyền lại thế nào? Cùng thời mà động, chẳng lụy đến người sau. Nghĩa là như thế đó!

TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

(Quyển 17 hết)