TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

Đại Sư Thông Tuệ chùa Thiên Thọ ở Tả Nhai Tứ Tử Sa-môn Tán Ninh v.v… vâng sắc soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 12

 

CHƯƠNG III: TẬP THIỀN

TRONG PHẦN 5 CỦA CHƯƠNG III

(chánh truyện có hai mươi vị, phụ có bốn vị).

1. Truyện ngài Hoàn Trung ở núi Đại Từ thuộc Hàng Châu, thời Tiền Đường:

Thích Hoàn Trung, họ Lư, người ở xứ Bồ Phản, thuộc Hà Đông. Sư bẩm tánh đặc dị, hình vượt khác thường. Thân thể cao lớn. Đỉnh cốt tròn cao, âm thanh như chuông vang, hình sắc tợ phấn sáp. Sư học thông điển cổ, từ thật dồi dào. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư theo kế trúng tuyển khoa giáp mà chưa lấp kín nỗi đau buồn! Sư lại nghĩ phải nhanh hơn nữa, không gì buồn bằng chịu tang mẹ, bèn đến dựng chòi tranh ở bên cạnh mộ, cho đến lúc mãn tang, Sư tới cầu xin xuất gia tại chùa Đồng Tử. Chưa tròn hai năm, mà các kinh Sư đều đã xem đọc. Năm sau, Sư đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc, rồi tập học luật bộ, từ đó, Sư thông rành, bỗng nhiên kính mến thượng thừa, kế nữa, Ngài tìm đến núi Bách Trượng và chứng được huyền chỉ sâu mầu.

Sau, Sư đến ẩn cư tại chùa Thường Lạc ở Nam Nhạc, dựng lập am tranh ở Sơn Tiêu. Giản Nghị Đại Phu Nhai Công rất kính trọng tiết tháo của Sư, nhân đó mà lập riêng phương trượng. Sư vui sâu với cảnh mặt trời ló dạng chỉ ăn một bữa là trọn ngày. Nhưng ở đó thiếu nước đổ bình phải đi tìm ở xa. Bỗng nhiên, vào một đêm khuya có tiếng hổ gào thét bên cạnh am. Đến sáng ra xem thì thấy suối nước đầy tràn từ đất nức nẻ tuôn trào, đủ để cấp dùng. Sau, ở phía Bắc Chiết Giang; Hàng Châu, có một ngọn núi tên là Đại từ, Sư đến ở đó chưa bao lâu, Đàn tín bèn tìm đến và tạo thành viện lớn. Học tăng bốn phương đến tham lễ như mây nhóm. Gặp lúc vua Võ Tông phả hủy Phật giáo, Sư mặc áo ngắn, có người thỉnh Sư về ở tại biệt thự nhà họ Đới.

Đến năm Nhâm Thân (82) thuộc niên hiệu Đại Trung, Thái Thú Lưu Công Thủ mạng thế nhiễm, trùng hưng thành thiền lâm. Đến ngày 1 tháng 2 năm Nhâm ngọ (862), Sư di chúc vừa dứt lời thì thị tịch. Bấy giờ, trời dầu nắng nóng mà xem xét nhục thân Sư không hề biến đổi, và trên đỉnh đầu nóng ấm, tới mùa đông thì nhập tháp, Sư thọ tám mươi ba tuổi, năm mươi bốn hạ lạp.

Có thuyết nói: Tại chùa Thường Lạc có hổ quỳ ở bờ suối. Trong ngày Sư thị tịch, bỗng nhiên khô cạn. Thật kỳ lạ thay! Chỉ giúp Sư thọ dụng. Đến năm Đinh Dậu (877) thuộc niên hiệu Càn Phù, vua Hy Tông ban tặng Sư thụy hiệu là “Tánh không Đại Sư”, tháp hiệu là “Định Tuệ”. Tấn Vân Thái Thú Đoàn Thành Thức soạn bài tán.

2. Truyện ngài Hoàn Phổ ở Thiều Sơn, thuộc Lạc Dương, thời Tiền Đường:

Thích Hoàn Phổ, không biết Sư là người xứ nào. Sư vốn bẩm chất thuần túy, giữ tánh khiêm hòa. Sư ở dưới phong hóa xấu xa mọi rợ mà thỉnh nghiệp. Vời vọi thay sự nhận biết suy lường, thật khó suy nghĩ, phỏng bàn. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư ôn tầm kinh luận. Sau đó, Sư chống tích vân du đến Lễ Dương ở phương nam, gặp Giáp Sơn khế hợp tâm ý, có người tham học nên hỏi, Sư rũ tay đắt dẫn về, chẳng để một căn cơ nào mất thiếu sự chỉ dạy của Sư. Nếu người nào có sự không thăng tiến, thì Sư khuyên xem đọc kinh pháp, cũng gần như Di Phong của ngài Thần Tú, Đại Tịch.

3. Truyện ngài Nhật Chiếu ở núi Ngang Đầu, thuộc Hành Sơn, thời Tiền Đường:

Thích Nhật Chiếu, họ Lưu, người ở xứ Kỳ Hạ, thuộc gia đình giàu sang. Sư vâng lời chỉ dạy của cha mẹ, xem đọc khắp các kinh sách, lại đối với Trang Lão mà Túc Tuệ phát huy, nghĩ theo Thích Tử. Sư đến Pháp Sư Đàm Quang chùa Đại Hưng Thiện ở Trường An, xin xuất gia cầu học thọ giới. Truyền nhận kinh pháp, không gì Sư chẳng hiểu rành. Nhân đó, Sư đến Tung Nhạc hỏi về bí quyết Viên Thông, Sư vui mừng thú nhập. Sau, Sư đến Nam Nhạc, lên núi Ngang Đầu, thẳng tới non xanh, bèn có ý ở đó trọn đời. Sư cất am tranh ở được hai mươi năm, gặp phải pháp nạn Hội Xương; vua Võ Tông phá hủy Phật giáo, Sư vào hang núi sâu, ăn hạt dẻ uống nước suối mà kéo dài sự sống. Đến niên hiệu Đại Trung (87-860) vua Tuyên Tông phục hưng Phật giáo, Ngài dẫn đồ chúng chừng sáu mươi vị trở về lại nền cũ ở núi Ngang Đầu, bện

tranh cỏ, cất am viện, lại ở đây thêm mười lăm năm nữa, học chúng đua nhau tìm đến như sóng gợn. Sư thị tịch vào niên hiệu Hàm Thông (86087), thọ một trăm lẻ tám tuổi, ngày mồng 3 tháng 2 niên hiệu Hàm Thông thứ 3 (862) nhập tháp, tạo lập bia văn, hiện nay vẫn còn. Trong nước gọi Thiền học của Sư là “Ngang Đầu Chiếu”.

4. Truyện ngài Tuyên Giám ở viện Đức Sơn, thuộc Lăng Châu, thời Tiền Đường:

Thích Tuyên Giám, họ Chu, người xứ ở Kiếm Nam. Khi sanh ra Sư đã không thích các chất tanh nồng, đến thuở thiếu thời, Sư khôi ngô thông minh. Sớm mang tiết tháo khác thường, khẩn cầu xuất trần. Rồng lớn chẳng chịu ở sân nhỏ, Ngạc (chim thư cưu) xinh phải bay nơi khoảng trời rộng. Đã bỏ mọi trang sức xinh đẹp, sẽ dự vào hàng chúng tăng. Sư theo thọ giới cụ túc, nghiên cứu rõ luật tạng. Đối với các pháp tánh tướng, Sư tập học thông suốt.

Nghe ở Trọng Hồ, Thiền đạo hưng thạnh, Sư bèn dốc chí vân du tìm đến Thiền Sư Tín ở Long đàm, thì tông Thạch Đầu chia làm hai nhánh. Ban đầu chỉ cùng ở một thất, Sư mạnh dạn cung kính theo hầu. Một đêm, ngài Long Đàm (Tín), trao một ngọn lửa cho Sư, Sư nhận lấy mà đi. Chỉ bước vài bước, Sư lại nói: “Từ lâu nghe nói Long Đàm (Đầm Rồng), mà đến đây thì Long lẫn Đàm đều chẳng thấy!” Thiền Sư Tín bảo: “Ông lại gần đây!” Cơ giáo hợp nhau, hằng ngày gần gũi bên trượng thất hơn ba mươi năm. Sau Sư đến dừng ở tại Lễ Dương. Tự nhiên vua Võ Tông nổi loạn dấy khởi, đến niệu Đại Trung (87-860), phục hồi Nghi pháp. Đầu niên hiệu Hàm Thông, Võ Lăng Thái Thú Tiết Diên Vọng cố thỉnh Sư đến ở Đức Sơn, Đạo Sư lạn xa phỏng phất, thiền chúng bốn phương tụ về rất đông. Trong Phục Lạp Đường thường có năm trăm người. Sư trao dạy như trời biển sâu khó đo lường ngăn mé, Tuyết Phong tham kiến xét sâu đáng trọng.

Đến ngày mồng 3 tháng 12 năm Ất Dậu, tức niên hiệu Hàm Thông thứ 6 (86), bỗng nhiên, Sư bảo với đồ chúng rằng: “giữa hư không mà truy tìm âm hưởng, thật nhọc tinh thần các ông. Tỉnh mộng, rồi thì chẳng có vật gì!” Nói xong, Sư an tọa mà thị tịch, thọ tám mươi bốn tuổi, sáu mươi lăm hạ lạp. Nhục thân Sư để ngồi yên trên giường, bảy ngày sau vẫn ngồi thẳng bình thường như lúc còn sống. Trong thiên hạ nói người có Thiền đạo mạnh mẽ thì có môn Phong của Đức Sơn, hiện nay có pháp Tôn Đặng Hán Đông ở Tương Châu rất thạnh.

5. Truyện ngài Tạng Hoán chùa Thệ Tâm, ở Minh Châu, thời Tiền Đường:

Thích Tạng Hoán, họ Chu, người ở xứ Hoa Đình, thuộc Tô Châu. Từ khi mang thai đến lúc sanh, mẹ của Sư mẫu Ngài thường nghe có mùi thơm khác lạ. Tuổi còn bé, Sư từng bị rơi xuống giếng mà có vị thần hộ trì đưa lên. Sư xuất gia ở độ tuổi tết tóc, với Thiền Sư Đạo Khoáng. Lúc đủ hai mươi tuổi, Sư đến Tung Nhạc cầu thọ giới cụ túc. Mẹ của Sư thường nhớ thương Sư mà buồn khóc đến nỗi mờ hết một mắt. Đến ngày Sư trở về tỉnh thì mắt sáng lại. Mẹ mất rất buồn thương, Sư dựng chòi ở bên cạnh mộ, và có nhiều điềm tốt lành, tâm hiếu của Sư cảm kích đến thế, và cũng do đó mà Sư nổi tiếng.

Lúc Sư du phương hỏi Đạo, thì lại đến núi Ngũ Tiết gặp được Đại Sư Linh Mặc. Một lời phân biệt, phù hợp chỉ thú, đạo lý hiển mật như trời trăng sáng tỏ. Từ niên hiệu Hội Xương (81-87) đến niên hiệu Đại Trung (87-860), trở lại huông thạnh, chỗ Sư ở bị thiêu hủy, mà chẳng thể mê hoặc, đốt không thể nóng, nhận chìm chẳng thể ướt. Đến lúc Chu Lạc xây dựng lại chùa Trường Thọ, vua ban sắc Sư ở đó. Bấy giờ, nội điển đều đã bị thiêu hủy, kinh sách thảy thành tro bụi, Sư góp nhặt rơi rớt qua lại thành Đại Tạng. nhiên Nam Hải Dương Công thâu điển cô tô thỉnh Sư trở về Cố lâm để xây dựng tinh xá.

Niên hiệu Đại Trung thứ 12 (88) Ngân thủy Đàn Việt Nhậm Cảnh xin xả cúng nhà mình tạo lập viện và thỉnh Sư ở đó. Diệm khấu cầu phụ dẫn hai ngàn học trò cầm nắm binh khí giữa ban ngày đi vào, Sư nhắm mắt ngồi yên, sắc mặt không đổi khác. Bọn trộm cướp đều sợ hãi nép mình cúi đầu tạ lỗi. Khấu Bình Châu tấu trình xin đổi biển ngạch, đề là chùa “Thê Tâm”, để biểu dương đức hạnh của Sư. Phàm nỗi một tác cử chỉ, thiền giả phải huân tập, quanh nhà giường chõng đứng như mây nhóm, học thức của Sư như suối tuôn, chỉ tay soi thấy nhiều đường rẽ, bắt bẽ những người thao túng. Công Kiên Sách là kẻ sĩ ẩn cư đều đứng dưới sương lạnh, ngồi trên băng cứng. Một lời đã nhập thần thì phá trừ hẳn trầm hoặc.

Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), ngày mồng 3 tháng 8, Sư thị hiện bị bệnh mà qua đời, thọ bảy mươi bảy tuổi, năm mươi bảy hạ lạp. Sư bảo mang nước thơm đến, cạo tóc tắm gội xong, bảo với đệ tử rằng: “Ta còn trụ thế bảy ngày, đến ngày đó thì thị tịch”. Môn nhân khóc thương kính mến, bàn phương tiện an táng nhục thân Sư trên đỉnh núi Thiên Đồng. Đến khi tròn ba năm, một ngày nọ, có mùi thơm khác lạ ngưng tụ giữa hư không, xa gần đều phảng phất, các đệ tử Sư nói với nhau rằng: “Ngày xưa, thầy có chúc lụy sau ba năm phải thiêu đốt thân thầy. Nên nay có mùi hương thơm khác lạ như thế”. Bèn cùng nhau đào mở miệng tháp để xem thì nhục thân Sư vẫn nghiễm nhiên như lúc còn sống. Đến ngày mồng 3 tháng 8 năm đó, y theo pháp trà-tỳ của Tây Vức, thâu nhặt được mấy ngàn viên xá-lợi, sắc mầu hồng xanh. Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 13 (872), Đệ tử Sư là Giới Hưu mang xá-lợi Sư, thuật lại hành trạng, đến cung thỉnh ích, Vua Tuyên Tông ban sắc khen ngợi kính viếng đổi lại tên Sư là “Tâm Giám”, tháp hiệu là “Thọ Tưởng”.

Lúc Sư trụ tại chùa Trường Thọ, ở Lạc Hạ nói với chúng Tăng rằng: “Xưa kia, Sa-môn Đàm Túy ở núi Thiên Đồng thuộc Tứ Minh là thân trước của ta”. Nay phần tháp hiện còn nhưng vì cách quá lâu năm nên có người nghi ngờ không tín. Đến lúc truy tìm xét nghiệm sự thật đều như lời Sư nói. Kế nữa, lúc ban đầu nhậm sanh sắp đón rước Sư, thì có người hỏi khó, Sư đáp rằng: “Khi bắt đầu sửa nhà, có vị tăng lạ bảo làm lớn cửa ấy, hai mươi năm sau sẽ có bậc thánh đến ở đây”. So tính lại tới lúc Sư đến ở quả đúng hai mươi năm. Kế nữa, lúc Sư sắp rời Cô Tô, bị đồ chúng giữ lại, Sư bèn trao cây phất trần cho đó, bảo: “Ta ở đây, sao các ông nghi ngờ!” Đến lúc Sư trốn đi mọi người mới hiểu được ý chỉ sâu xa của Sư. Sư lại bảo “ở góc đông bắc của chùa nên đắp năm trăm ụ đất để trấn giữ”. Có người nói: “Sức đâu làm đến thế?” Sư bảo: “không vậy, thì đắp một ụ rồi trồng năm trăm gốc thông cũng được!” Tất cả những lời tinh yếu, ý chỉ sâu xa của Sư, đại loại đều như thế. Thứ Sử Thôi Kỳ soạn văn bia ở tháp thờ Sư, Uất Thiệu Lãng ở huyện Kim Hoa đề biển ngạch.

6. Truyện ngài Nghĩa Huyền trụ viện Lâm Tế, ở phủ Chân Định, thời Tiền Đường:

Thích Nghĩa Huyền, họ Hình, người ở xứ Nam Hoa, thuộc Tào Châu. Sư đến các nơi tham học chẳng sợ gian khổ. Nhân gặp được Thiền Sư Linh Vận ở núi Hoàng Nghiệt, mổ kêu đồng thời, rõ ràng thấu suốt. Sư bèn trở về quê cũ ở phương bắc, thuận theo Triệu Nhân đến thỉnh trụ viện Lâm Tế thuộc phía nam thành. Đồ chúng đề xướng kinh luận đều đến gần gũi đường thất, Sư chỉ bày tâm yếu cho người tương tự như ngài Đức Sơn (Tuyên Giám).

Sư thị tịch ngày 10 tháng năm Bính Tuất (866) tức niên hiệu Hàm Thông thứ 7. Vua Tuyên Tông ban tặng Sư thụy hiệu là “Tuệ

Chiếu Đại Sư”, tháp hiệu là “Trừng Hư”. Ngôn giáo của Sư lưu hành ở đời rất thạnh. Nên nay, Hằng Dương gọi là “Lâm Tế Thiền Tông”.

7. Truyện ngài Tung Gián trụ chùa Quảng Ái ở kinh đô Lạc Dương, thời Tiền Đường:

Thích Tung Gián, họ Trương, vốn người xứ Nam Dương, dời đến ở Quảng Lăng và sanh Sư tại Hoài Điện. Tánh Sư thẳng thắng, khí mạo cao vời, ở trong xóm Sư được người nể phục, kính sợ. Gặp Tướng Công bảo Sư rằng: “Ông thân cao tám thước, mặt mày sáng đẹp, ngày sau chắc chắn được Vinh hoa”. Sư nói: “Trong tâm không muốn làm quan, đối với vinh hoa sao có được?” Tướng Công bảo: “Sự vinh hoa chẳng thể lường được!”

Qua khỏi độ tuổi có gia đình, bỗng nhiên Sư tin sâu Lý Phật, bèn bỏ vợ con, xin cạo tóc làm tăng. Vừa mới lên giới địa mà rất giữ gìn tâm châu. Nhân tỏ ngộ thiền-na, sớm thấu đạt huyền lý, chỉ mới vài mươi năm mà những người đồng hảo từ xa tìm đến thưa hỏi. Ngài chỉ dạy từng điều khiến cho mở giác. Sau đó Sư đến ở chùa Quảng Ái ở Lạc Hạ, khi ấy thiền khách nhanh họp như con hiếu phụng thờ cha mẹ. Ở trong kinh đô có thiết trai thỉnh Sư thì bày vị trí đối diện với tôn giả Tân-Đầu-Lô, Sư được mọi người khâm phục kính trọng đều như thế. Gặp niên hiệu Hội Xương thứ (8) vua Võ Tông ban chiếu phá hủy tháp miếu Phật giáo, ra lệnh các Sa-môn phải trở về cuộc sống ruộng vườn, Sư cũng bị trong hang thanh lọc đào thải đó. Sư bèn chít khăn quạ, mặc áo gai, lẩn trốn vào nơi suối nước nóng của dòng họ Hoàng Phủ, lập nghiệp riêng ở, phía trên sau sườn núi. Tại đó, cây cao nương nhau sùm uất, có tảng đá lớn bằng phẳng. Giữa mùa hạ, Sư thường đến đó nhập định, hoặc bổ sung các việc nhỏ. Bỗng nhiên mây đổ mưa nhanh, sấm sét đánh vào đá, gió dữ kéo đến, mọi người ở đó kinh hãi bỏ chạy sợ nép. Sư vẫn vui vẻ ngồi kiết già an nhiên như người không nghe thấy gì. Có người hỏi Sư: “Sao ghét súc sanh, như thế?”

Đến đầu niên hiệu Đại Trung (87), vua Tuyên Tông ban chiếu phục hưng Phật giáo, Sư trở về chỗ cũ tại Lạc ấp. Một hôm, con của Sư từ Quảng Lăng đến hầu thăm. Vừa gặp Sư tại cửa viện, vì dáng mạo oai nghi trang nghiêm của Sư nên không nhận biết được, bèn hỏi rằng: “Xin hỏi chỗ ở của Đại Đức Tùng Giám?” Sư chỉ người đó đi về hướng Đông nam thì sẽ tìm thấy. Người con đó đã đi rồi, Sư bèn đóng cửa không ra ngoài, Sư cắt đứt dây lưới ân ái như thế đó!

Đến tháng năm Bính Tuất (866) tức niên hiệu Hàm Thông thứ 7, bỗng nhiên Sư ra và đến nhà đoàn việt từ biệt rằng: “Hãy khéo tạo phước nghiệp, bần đạo vào đầu mùa thu sẽ đi xa, nên nay đến thăm!” Đến ngày mồng 1 tháng 7, vào lúc sáng sớm, Sư rửa tay, đốt hương, xưng niệm danh hiệu Đức Từ Thị Như Lai rồi, rồi nghiêng hông bên phải, gọi đệ tử Huyền Chương đến răn dạy rằng: “Thân người khó được mà dễ mất, mau mau đối với mọi vật mà vô tâm vô vi lưu chuyển, pháp vô sanh diệt, tất cả hiện còn. Nay ta đời sống này đã có bến bờ, tạm từ biệt ông!” Ngày đó, Sư không bệnh, an nhiên thị tịch, thọ hơn tám mươi tuổi.

Các đệ tử như Huyền Chuơng v.v… vâng theo di chỉ của Sư, đón rước nhục thân ra ngoài cửa Kiến Xuân bỏ vào rừng Thi-Đà thí cho các loài chim thú. Ba hôm sau trở lại xem thì da thịt, sắc mặt Sư vẫn như lúc sống, không ai dám lại gần, bèn đem bánh bột rải phủ lên, qua một đêm thì thấy có vết chân của loài chồn sói, chỉ ăn chỗ phủ bột bánh, mà thân vẫn nghiễm nhiên. Mọi người mới bàn với nhau thể theo pháp nước ngoài mà trà-tỳ thân, nhặt hài cốt còn lại, xây tháp trắng bên cạnh đường đi, mọi người rất qui kính tin tưởng, dâng cúng hương đèn không ngớt.

Kế nữa, có ngài Thích Giám Tông, người ở xứ Trường Thành, thuộc Hồ Châu, Sư vốn họ Tiền, là cháu của Lễ Bộ Thị Lang Huy. Cha của Sư húy là Thịnh, bị bệnh, Sư cắt thịt ở bắp đùi đem dâng cho cha ăn, mà nói dối thịt của loài vật, sau đó không lâu bệnh được khỏi. Tiếng tốt hiếu hạnh của Sư nghe khắp bà con làng xóm. Sư bèn xin xuất gia.

Bấy giờ, tại Chùa Khai Nguyên, trong bổn châu có Ngài Cao Nhàn, làm chức Lâm Đàn Thập Vọng Đại Đức nội cung phụng, ở Thượng đô, rất giỏi chữ thảo chữ lệ, từng viết chữ trước chỗ vua Ỷ Tông ngự, hoa vọng rất cao. Sư bèn đến lễ làm thầy. Sau Sư xuất gia học thông các Kinh Tịnh Danh, Tư Ích, nên thường giảng tập. Ngài Cao Nhàn cũng chỉ dạy Sư về bút pháp, dần được tài giỏi. Bỗng nhiên, Sư đến tham yết Đại sư Ngộ Không ở Diêm Quan, theo chúng tham thỉnh mà thấu triệt được nguồn tâm. Rồi Sư từ giã trở về quê cũ khuyên mọi người tạo phước.

Đến niên hiệu Hàm Thông thứ ba (862) tức năm Tân Tỵ (? Phải là năm Nhâm Ngọ mới đúng), Ngài đến khắp các Danh sơn, bèn dừng ở Kính Sơn, là ngọn núi phía đông Thiên Mục, người xuất gia tại gia thảy đều quy tâm, khôi phục mở mang giáo pháp, xuất ra các đệ tử, nhất là các vị tài giỏi, đều khai mở khắp núi Thiên Đồng. Vua Ỷ Tông ban tặng y tía. Sau lưng núi Hành mãn đều phân cảnh hóa vật. Đến ngày mồng tháng 3 nhuần năm Bính Tuất (866), tức niên hiệu Hàm Thông thứ bảy, Sư thị tịch, nhập tháp tại dưới đỉnh núi Đại Tịch.

Đến thời Hậu Lương, niên hiệu Càn Hóa thứ năm, Ngô Việt Quốc Vương thượng phụ dòng họ Tiền, dâng biểu xin truy tặng Sư thụy hiệu là “Vô Thượng Đại sư”, Tổ môn truyền pháp hiệu là “Kính sơn đệ nhị Tổ”. Bấy, giờ Ngô Hưng trầm tu tự lấy hiệu là “Bạch Nha Tiên Sinh” thuật lại đức hạnh của Sư, làm bài ký khen ngợi.

8. Truyện ngài Lương Giới ở Động Sơn, thuộc Hồng Châu, thời Tiền Đường:

Thích Lương Giới, họ Du, người ở xứ Gia Kỵ, thuộc Cối Kê. Thuở nhỏ, Sư theo thầy ở chùa Ngũ Tiết. Năm 21 tuổi, Sư mới đến Tung Sơn thọ giới cụ túc. Vừa thọ giới xong, Sư liền du phương, gặp được thiền sư Nam Tuyền, lãnh hội Huyền khế sâu xa. Sư tiếp tục đi đến Linh Nham, mọi nghi ngờ vướng mắc chóng dứt.

Cuối niên hiệu Đại Trung (860), Sư trụ tại núi Tư Phong, mở mang truyền bá thiền pháp rất mạnh, sau lại thạnh hành giáo hóa ở Dự Chương, Cao An, Động Sơn. Nay đều thuộc Quân Châu. Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 10 (869) sáng sớm ngày mồng 1 tháng 3 năm Kỷ Sửu, Sư bảo cạo tóc tắm gội, khoác mặc y phục rồi bảo đánh chuông, chợt Sư thâu thần. Bấy giờ, các đệ tử buồn khóc. Bỗng dưng, Sư mở mắt ngồi dậy, bảo rằng: “Hễ là người xuất gia, thì tâm chớ nương vào vật, đó mới thật tu hành, nhọc sanh dứt tử, có gì phải buồn, đắm chìm bởi tình, quá thô trước vậy!” Rồi gọi vị Tăng chủ sự; bảo thiết trai diên: “Trai nghi xong ta sẽ tịch”. Nhưng nỗi lòng luyến mến của tăng chúng từ ngày đó kéo dài đến bảy ngày, trai diên mới hoàn bị. Sư cũng thuận theo, bảo chúng rằng: “Trai hội này đặt tên là “Ngu si”. Bởi trách mọi người thiếu trí tuệ Bát-nhã. Đến lúc, vị tăng Xướng “tùy ý”. Sư bảo: “Người xuất gia chớ vướng sự gì, ngay lúc cần kíp sắp đi như vầy mà huyên giáo như thế”. Qua ngày mồng 8, tắm gội xong, Sư an tọa thị tịch, thọ sáu mươi ba tuổi, bốn mươi hai hạ lạp. Vua Tuyên Tông ban tặng Sư thụy hiệu là “Ngộ Bổn Thiền Sư”, tháp hiệu là “Tuệ Giác”.

Liên quan thử bàn:

Đã đi rồi mà lưu lại nhiều ngày, thuở xưa cũng có việc như thế. Như ngài Lương Giới đây là bậc đến đi tự tại. Ở đời gần đây chỉ có một người là Sư mà thôi.

9. Truyện ngài Tạng Dị ở Tô Châu, thời Tiền Đường:

Thích Tạng Dị, họ Trình, người ở xứ Tín An, thuộc Cù Châu. Thuở bé, thần khí Sư xán lạn, dáng mạo khôi ngô. Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), Sư xin cha mẹ cho phép xuất gia, chí không thể bỏ. Sư thẳng đến nhạc Lộc ở Trường Sa, tới chỗ luật sư Linh Trí xin xuống tóc xuất gia. Ngài Linh Trí thấy Sư có chí nguyện mạnh mẽ khác thường bèn tiếp nhận Sư. Sau khi đã được đắp mặc pháp phục, Sư tìm đến Luật sư Trí Tổng chùa Khai Nguyên ở Võ Lăng cầu thọ giới cụ túc. Bấy giờ là niên hiệu Trường Khánh thứ 3 (823).

Nhân nghe khuôn phép Luật tạng, thấu rõ thiên tụ, Sư nói với bạn đồng học rằng: “Giáo môn nhiều rộng, nhưng có một cửa chung, điểm cần kíp của cửa chung là chưa qua chớ bỏ bè!” Sư bèn du tham học khắp thiền tông, gặp được đệ tử tài giỏi của ngài Mã Tố ở núi Long Nha, biết Sư là bậc pháp khí, một hôm ngài Long Nha hỏi Sư rằng: “Uẩn giới chẳng phải chân, Phật chúng sanh chẳng phải ta. Gốc chính của ông phải từ đâu mà có tên gọi, và do từ ai mà được?” Ngay lời nói đó Sư lãnh hội được ngàn vết đồng quy. Ngài Long Nha bảo: “Pháp nhãn, của ta chẳng bị mờ che”. Đã toại nguyện mong cầu, được đại an tĩnh, Sư bèn từ giã trở về Kha Sơn, để tránh pháp nạn Hội Xương.

Đến niên hiệu Đại Trung thứ 6 (82), quận Thâu Thôi Công Thọ rất kính trọng Sư, nên dựng lập một thiền thất riêng tại chùa Long Hưng thuộc trong bổn châu và thỉnh Sư ở đó. Được vài năm, Sư đi đến Gia Hòa ở phương Bắc. Các hàng tín sĩ quay về nương tựa thỉnh Sư lưu lại tại chùa Chí Đức. Sư lại đến Cô Tô. Bấy giờ, Thôi Công Quân làm Thái thú tại quận đó, nghe danh tiếng Sư đã từ lâu, bèn thỉnh Sư đến trụ tại viện Nam Thiền. Mùa thu năm đó, Sư từ giã về lại Gia Hòa. Có Tín Sĩ Lã Kinh xả thí biệt thự tạo lập viện Vĩnh An. Bấy giờ, khoảng niên hiệu Càn Phù (87-880), có bọn giặc cướp khuấy phá, thiền khách phân tán, Sư bảo: “Bọn trộm cướp không bao giờ đến đây”. Mãi đến lúc bọn giặc cướp đi theo đường khác, quả thật không tổn hại gì, Sư thấy biết trước đến như thế.

Đến ngày 12 tháng 10 niên hiệu Càn Phù thứ 3 (878), mây phủ khắp cả viện, có tiếng gà gáy chim kêu, Sư an tọa mà thị tịch. Chúng đệ tử gào khóc, Sư sống lại. Đến trước rằm tháng 3 năm sau (879), Sư từ biệt chúng mà thị tịch, thọ tám mươi hai tuổi, năm mươi sau hạ lạp. Bấy giờ, Đạm Giao vì Sư mà làm Chân Tán. Đến khoảng niên hiệu Càn Ninh (89-898), Sa-môn Thần Tán tấu dâng hành trạng của Sư, xin truy tặng thụy hiệu và tên tháp của Sư. Danh sĩ Ngô Trọng Du viết văn bia.

10. Truyện ngài Khánh Gia trụ núi Thạch Sương ở Trường Sa, thời Tiền Đường:

Thích Khánh Gia, họ Trần, người làng Ngọc Tứ, thuộc Tân Cam, ở Lư Lăng. Từ ông nội đến cha Sư đều chẳng làm quan, Sư là người có lời nói thanh bạch, phóng khoáng.

Năm mươi ba tuổi, Sư đến lễ bái Thiền Ông Thiệu Loan, thờ Ngài làm thầy, và được xuống tóc xuất gia tại phía Tây núi Hồng Tỉnh. Năm hai mươi ba tuổi, Sư sang Tung Sơn thọ giới cụ túc. Rồi tiếp đến học luật tại Đông Lạc. Đã biết thính chế, trọn gọi là Tiệm Tông. Sư trở về núi Nam Nhạc, đến núi Đại Quy, kế là đến Vân Nham, gặp được Đạo Ngô, hỏi rõ biết ý mới là vị tăng hai hạ. Sư đến được núi Thạch Sương, bèn có ý nghĩ trọn đời ở đó. Ngài Đạo Ngô đích thân đến núi Thạch Sương, thường ngày siêng năng hầu hạ qua lại hỏi đáp. Ngữ lục có chép trong Biệt Lục.

Sư có dung mạo cổ khí, thật ở đời không ai biết được. Bấy giờ, Ngài Động Sơn (Lương Giới) vừa mới viên tịch. Bỗng nhiên tại chỗ Ngài trở thành nơi mà Thiền khách phương xa đến vây quanh. Nhân đó, Sư vào núi sâu nơi cảnh không người, dựng am yên ở. Khi đó, chúng tăng truy tìm, bỗng có người thấy được, mọi người đều khóc gào, cùng nhau thỉnh Sư ra làm bạn với họ. Sư sắp an vãng nên sớm tối đều bị các vị du học thưa hỏi, nhưng Sư không lời khiếp sợ ứng đáp với họ. Và cứ thế, suốt hai mươi năm, ở trong Pháp đường, các bậc Lão Túc đều ngồi thẳng chẳng nằm, cao vợi như gốc cây khô. Trong thiên hạ gọi đó là “chúng cây khô ở Thạch Sương”. Ở phương Nam gọi đó là Tòng lâm, dịch Thiền-na là Tòng lâm công đức. Các bậc làm khuôn phép thanh tịnh cho bốn phương không ngoài đó.

Đến ngày Kỷ Hợi tháng 2 năm Mậu Thân (888) tức niên hiệu Quang Khải thứ , Sư thị hiện bị bệnh và thị tịch tại Sơn Viện, thọ tám mươi hai tuổi, năm mươi chín hạ lạp. Qua ngày rằm tháng 3, an táng ở góc phía Tây Bắc cách chùa vài trăm bước. Môn nhân đệ tử xây tháp thờ theo hình búi tóc. Đến ngày mồng 1 tháng có ngài Thích Xử Nột kính mến đức hạnh của Sư, lo để lại danh thơm tiếng tốt, nên bảo Samôn Huyền Thái ở Nam Nhạc, ghi lục ngôn hạnh của Sư. Đệ tử ở các phương phân nhau hành hóa đạo của Sư. Vua Hy Tông ban tặng Sư thụy hiệu là “Phổ Hội Đại Sư”, tháp hiệu là “Pháp tướng”.

Kế nữa, có ngài Thích Hồng Nhân ở viện Kính Sơn, thuộc Hàng Châu. Sư họ Ngô, người xứ Ngô Hưng. Năm mười chín tuổi, Sư đến đảnh lễ Đại sư Vô Thượng ở chùa Khai Nguyên, xin xuống tóc xuất gia, Sư tinh chuyên trong mọi Phật sự mà không trễ nãi việc hậu hạ khăn bình. Năm hai mươi hai tuổi Sư được đưa sang chùa Hội Thiện ở Tung Nhạc thọ giới cụ túc. Sư được bảo tụng giới bổn Tỳ-khưu, đến bảy ngày thì nhớ trọn bộ, bèn tập học Tỳ-ni, tầm truyền kinh giảng. Sư tự bảo: “Hễ làm tăng, thì phải có sự nghiệp trội vượt mọi người”. Ngài trở về lễ bái Bổn sư. Thầy Sư hỏi: “Ông, trong suốt một ngày đêm lấy cái gì để báo đáp bốn ân trong ba cõi?” Sư nghe lời hỏi vặn đó mà kinh sợ, mất hết bình tĩnh, ba ngày quên cả ăn uống. Thầy Sư gọi lại dẫn dụ chỉ dạy, Sư mới rõ được bổn sự. Như vậy, Sư gài trở về Vân Nhạc, rồi đến núi Đại Quy, mỗi mỗi đều là thiết tha, chứa thành tài giỏi. Thế rồi gặp phải pháp nạn Hội Xương, Sư cũng đồng bị trục xuất đuổi về, trong chúng tăng, có người thì buồn khóc, có người tức hận thán oán v.v…, Sư vẫn điềm nhiên bảo: “Là đại trượng phu cùng gặp phải ách nạn này, há chẳng do mạng hay sao? Vì sao lệ tình Nhi nữ như thế ư!” Lúc đó, Sư đến Trường Sa, gặp Tín nữ La Yến mời Sư về ở tại nhà mà cúng thí. Bởi Sư giữ pháp Bạch Y và Tỳ-kheo nên như lúc đầu không sai sót, nên trải qua hai năm mà như khách mới tới nhà.

Đến niên hiệu Đại Trung (87), mới bỏ luật phá hủy Phật pháp, Sư mới quyết định trở về viện Tây Phong ở quê nhà. Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 6 (86), Sư lên Kính Sơn thăm hầu Bổn sư. Qua năm sau, Đại sư Vô Thượng viên tịch, Tăng chúng thỉnh Sư tiếp nối ngôi pháp. Ban đầu chỉ có khoảng một trăm vị tăng, sau đông đến số ngàn. Bấy giờ, chúng tăng cùng chung sống nghiêm túc, không trái phạm gì. Vua Hy Tông ban tặng viện với biển ngạch đề là “Càn Phù Trấn Quốc”. Đến niên hiệu Trung Hòa thứ 3 (883), nhà vua ban tặng Sư y tía. Tới niên hiệu Cảnh Phước thứ 2 (893), Ngô Việt Quốc Vương Thượng Phụ họ Tiền đề cử tấu trình ban thưởng Pháp Tế Đại sư.

Đến ngày 28 tháng 9 niên hiệu Quang Hóa thứ (901), Sư từ biệt chúng tăng mà thị tịch v.v… Thích Trường Sử ở Tráp Khê đắp họa tôn tượng Sư. Võ Túc Vương soạn chân tán. Đệ tử được truyền pháp của Sư có các vị như Tịch Công ở chùa Thê Hiền, thuộc Lô Sơn, ngài Nghĩa Trực ở Lâm Xuyên, ngài Linh Đạt ở viện Công Cự, Ngài Linh Đạt hoằng hóa thạnh hành ở cả Lưỡng Chiết. Cuối cùng thụy hiệu Sư là “Quy Tịch Đại Sư”.

Lúc còn sống, Sư có sự biết trước rõ ràng. Võ Túc Vương nhà ở tại núi Thạch Giám, đến lúc ứng mộ vào lính làm quân. Sư vừa trông thấy, cầm tay, cùng nói với những người đứng chung quanh rằng: hãy tự thương mình, ngày sau rất giàu sang, cùng các Đức Phật làm chủ”. Sau nhiều lần lập chiến công, Võ Túc Vương làm Hàng Châu mục. Nên tấu đặt hiệu cho Sư, ai thấy phải quỳ lạy, đàn thí nồng hậu, khác với người thường. Lúc Sư thị tịch, giữ lấy lễ tang bởi nhớ lại lời Sư nói lúc còn bé.

11. Truyện ngài Đại An ở viện Di Sơn thuộc Phước Châu, thời Tiền Đường:

Thích Đại An, họ Trần, người ở xứ Mân Thành. Ngài vào đạo từ thuở nhỏ, sớm phải bỏ bụi.

Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 12 (818), vua Hiến Tông ban sắc thiết đàn Đâu-suất tại chùa Càn Nguyên ở huyện Bồ Thành, thuộc Kiến Châu, mới toàn bị giới phảp. Bấy giờ, trời mưa mùi quế và đất mọc cỏ son. Thứ Sử Nguyên Tích viết sớ tay về điềm đó tấu trình lên đến Miện lưu, bèn trở về ngự lễ, ban chiếu đổi chùa Phụng Thê hiệu là đàn Linh Cảm. Sư nhân đó mà sang Hồng tỉnh, trên đường ra thượng nguyên, bỗng gặp một ông Lão bảo rằng: “Ông đến Nam Xương, chắc chắn sẽ được việc”. Đến lúc Sư tham vấn luật học, ban đêm nghe hai vị tăng đàm luận, chợt tỏ ngộ ý chỉ của ba thừa, Sư bèn đem sự tu tập trao cho đồng bạn, rồi đi đến Lâm Xuyên, gặp được Thiền sư Tuệ Tạng ở núi Thạch Củng. Ngài Tuệ Tạng đề xướng, phải dùng cung nỏ mà dò xét người học. Trong lúc Sư đang lạy chưa ngẩng đầu lên, thì ngài Tuệ Tạng xướng: “Xem mũi tên bắn”. Sư với thần sắc chẳng đổi thay, đối đáp không sai lầm. Ngài Tuệ Tạng bèn ném nỏ, bảo rằng: “Đã mấy năm mới bắn trúng có nửa người!”

Sư đi đến Ngũ Đài, xuống tắm rửa dưới ao rồng, tuy ngâm lâu sóng lăn tăn, nhưng hoàn toàn không có sự quái lạ mưa đá. Người thấy Sư tắm rất kinh sợ. Sau, Sư dừng tại núi Đại Quy, tham lễ Thiền sư Đại Viên. Lại chứng được điều đã nghe trước kia mà làm lương quả. Bấy giờ, Dư Chương Liên Sứ khen tặng Thái Úy Thôi Trinh Hiếu Công là chú út của Ngụy Công, rất khế hội Huyền Cơ, dốc tin đạo của Sư, bèn viết sớ đưa đi nhanh để thỉnh Sư, lời khen ngợi càng xán lạn.

Niên hiệu Hàm Thông thứ 1 (87), vua Tuyên Tông ban chiếu tặng Sư danh hiệu là “Diên Thánh Đại Sư” và tặng một bo pháp ý ca sa tía. Đến niên hiệu Trung Hòa thứ 2 (882) Sư thị hiện bị bệnh, cây đèn dong lớn trong pháp đường nơi chỗ Sư thị hiện ở bị cong gãy. Đến ngày 22 tháng 10 năm Quý Mão, tức niên hiệu Trung Hòa thứ 3 (883), Sư an tọa mà thị tịch ở trượng thất Di Sơn, thọ chín mươi mốt tuổi, sáu mươi bảy hạ lạp. Tục ban chiếu tặng Sư thụy hiệu là “Viên Trí Đại Sư”. Tháp hiệu là “Chứng Chân”.

Lúc bình thường, Sư không hề khạt nhổ dưới đất, chẳng ở trong phòng ấm, tùy hóa mà mặc áo, trời mưa mới tắm. Sư có đệ tử hỏi pháp là Ngài Tuệ Trường, nhập quan tán dương đức hạnh của Sư, nên có truy tặng thụy hiệu cho Sư. Bát Lăng Tư Không Tướng Quốc kính mến những bậc đi trước, bèn soạn thuật văn khen ngợi công đức. Thi nhân Chu Phát dốc lòng kính trọng Sư, lúc bấy giờ vào núi thành kính đảnh lễ.

12. Thích Đạo Ưng ở núi Vân Cư, thuộc Hồng Châu, thời Tiền Đường:

Thích Đạo Ưng, dòng họ Vương, người ở xứ Ngọc Điền, thuộc Tô Môn. Sư lúc mới sanh tinh thần đã đặc dị, hình thể sáng ngời. Lúc còn bé, bẩm khí đã không đồng, túc tâm vượt tục, tránh lìa cửa nhà lửa, lau mắt tìm thầy, nên thuộc về con của người luyện vàng. Thầy trao cho kinh pháp, tụng thông hết lại xin nữa. Năm tháng dần qua đến hai mươi lăm tuổi, Sư mới tới chùa Diên Thọ ở Phạm Dương cầu thọ giới cụ túc, thầy bèn bảo Sư tập học luật nghi Thanh Văn. Sư than rằng: “Với Đại Trượng Phu có thể dùng gông cùm mà trói buộc được ư?” Từ đó, bèn ôm tuyến nạp, chống tích hoàn vào núi Thúy Vi hỏi đạo. Suốt ba năm an cư tại đó, bỗng thấy có hai sứ giả áo mão khác thường, khuyên Sư rằng: “sao không đến phương nam tham vấn thiện trí thức ư?”

Sau đó không lâu, có vị tăng từ Dự Chương đến, thạnh xưng ngôn yếu của Thiền sư Động Thượng, Sư cảm động thần cơ, bèn chuyên đến đó. Như vậy, Thiền Sư Động Thượng rũ lòng tiếp nhận, Sư lại lãnh hội. Có lần hỏi Sư rằng: “Ta nghe Thiền sư Tư Đại đến Oa Quốc làm vua, việc ấy có thật hay không?” Sư đáp: “Nếu thật là Thiền Sư Tư Đại thì Phật còn chẳng làm, huống gì là Quốc Vương!” Từ đó, Thiền sư Động

Thượng ấn chứng hứa khả. Ban đầu, Sư trụ tại Tam Phong, sau đến Vân Cư đề xướng. Bấy giờ, dòng họ Quý Chung đời Đường, nương cậy có Hồng tỉnh khuynh uy tín thành, mỗi lần thỉnh Sư vào châu thì dự bày thanh khiết tại Cam tử Đường để kính lễ Sư. Và dâng biểu trình tấu lên vua Chiêu tông ban tặng một bộ pháp y ca sa và phong hiệu cho Sư. Song, Sư đều chẳng lưu tâm để ý. Đồ chúng nơi Ngài dạy dỗ, mặc dù nóng lạnh xen nhau mà thường có hơn ngàn vị. Những thứ vây quanh cây hương ngưu đầu chiên đàn đều là Chiên-đàn, loài bay liệng cao quanh chim đại bàng chúa chẳng loài nào bằng chim yến. Bốn phương dâng cúng ngàn dặm cùng theo gió, như Kinh Nam Soái thành Nhuế sai mang đàn thí, động doanh đến hằng muôn.

Đến mùa thu năm Tân Dậu (901) tức niên hiệu Thiên Phục thứ nhất, Sư hiện bị bệnh, qua ngày mồng 3 tháng 1 năm sau (902), Sư thị tịch, Dự Chương Nam Bình Vương họ Chung cúng dường chu cấp mọi sự trong tang lễ. Bấy giờ các đạo Thiền Tử cứ theo điều kính chuộng của xứ sớ, tùy theo kinh khám đưa rước đến đâu thì đều liệt bày cây hoa, màn chướng thiết, soạn thức ăn đến đó, gọi là Trác tế. Một thời hung lễ hưng thạnh không đâu hơn. Thật tốt lành thay! Sư ra đời độ người suốt ba mươi năm, thì để lại sự kính ái như thế nào có thể biết.

13. Truyện ngài Hữu Duyên ở viện Liên Vân, thuộc Tấn Vân, thời Tiền Đường:

Thích Hữu Duyên, họ Phùng, người ở xứ Tử Đồng; thuộc Đông Xuyên. Ở độ tuổi tiểu học, Sư đến chùa Phước Cảm ở Thành Đô, phụng thờ ngài Định Lan Khai Sĩ, tức là thầy của vua Tuyên Tông. Sư theo hầu, ra vào thường ở trong cung. Một hôm, vua Tuyên Tông mời Sư đến và cầm nắm bút viết lên lưng Sư rằng: “Đồng tử này có duyên với trẫm! Do đó mà mời đến lễ”.

Niên hiệu Đại Trung thứ 9 (8) bạch Công Mẫn Trung ra trấn giữ Ích bộ, mở giới đàn, Sư liền thọ giới cụ túc tại chùa Tịnh Chúng, rồi tiếp tục tập học kinh luật ở trong cung vua. Qua sau năm hạ, thân Sư mặc áo vải thô, tay cầm sắc mực, vân du khắp trong nước, tham kiến Tiểu mã thần chiếu, Phàm các tòng lâm thiền tổ ở đương thời, nơi nào Sư cũng chẳng đến lễ yết. Sư dừng trụ tại Hoa Sơn, thuộc Trừ Châu. Đến lúc Sư tới núi Võ Di ở phương Nam. Bấy giờ, Liêm Sứ Lý Hối xây dựng Thiền Thất cho Sư ở. Đến niên hiệu Càn Phù thứ 3 (876), Sư đến lập viện tại núi Đại Trại, ở Long Tuyền, thuộc Tấn Vân. Nhân đó tấu trình Tư Bộ cấp biển ngạch đề hiệu là Long An, ban sắc độ bảy vị tăng. Sư ở đó mười tám năm. Tuy an mà hay dời đổi đến ở viện Liên Vân. Thái Thú Lư ước, với tâm thành tin thực thỉnh Sư đến trụ biệt viện ở chùa Khai Nguyên, thuộc bổn châu, cúng dường tứ sự.

Đến ngày mồng 8 tháng năm Đinh mão (907) thuộc niên hiệu Thiên Hậu, Sư thị hiện bị bệnh, qua ngày rằm tháng 6, Sư thị tịch tại

Giải Thự, thọ bảy mươi ba tuổi, năm mươi hai hạ lạp. Sư để lại di chúc Chế Trí Dương Tập Tư không lo làm chủ Tang Lễ, trà-tỳ ở phía Nam vườn chùa, sau khi lửa tắt phân chia xá-lợi khoảng mấy trăm viên. Sau, thâu nhặt bốn mươi chín viên và một bình di cốt, an táng trong tháp đá. Đến thời Hậu Tấn, niên hiệu Khai Vận thứ 2, tức năm Ất Tỵ (9), Luật Sư Văn Thái soạn văn bia tháp Sư.

14. Truyện ngài Nghĩa Tồn trụ viện Quảng Phước ở Vân Phong, thuộc Phước Châu, thời Tiền Đường:

Thích Nghĩa Tồn, họ Tằng, sanh năm Nhâm Dần (822) tức niên hiệu Trường Khánh thứ 2 ở huyện Nam An, thuộc Tuyền Châu. Từ Vương Phụ trở xuống đều làm bạn với chư tăng gần gũi Phật pháp, thanh tịnh kính nguyện. Vừa mới sanh mà mũi Sư đã không ưa ngửi mùi máu thịt tanh nồng, đang ôm bầu sữa, mà nghe tiếng chuông khánh, hoặc thấy hình bóng vị tăng thì sắc mặt Sư liền tươi tắn lên. Do đó mà được mọi người mến thương từ khi còn ở dưới gối.

Năm chín tuổi, Sư cầu xin xuất gia, tức giận vì chưa được chấp thuận, năm mười hai tuổi, Sư theo gia quân đến chùa Ngọc Nhuận ở Bồ Điền. Tại đó có Luật sư Khánh Huyền trì hành cao khiết, Sư vội đến lễ bái và nói: “Đây là thầy tôi!” Ngài Khánh Huyền bèn giữ Sư lại làm thị giả. Năm mười bảy tuổi, Sư xuống tóc, đến tham yết Đại sư Hằng Chiếu ở núi Phù Dung, thấy lạ, nên Sư dừng ở tại chỗ đó. Đến thời vua Tuyên Tông phục hưng Phật giáo, đạo đó nhuộm mà chẳng đen, thân đó bóng nhoáng lộ bày ra, Sư vân du đến phương Bắc, tới các xứ Ngô, Sở, Lương, Tống, Yên, Tần. Và thọ giới cụ túc tại chùa Bảo Sát ở U Châu. Xong, Sư đến tham kiến các Danh sơn, khấu lễ các Thiền Sư, tự tại phiêu diêu, mây liệng chim qua. Bèn đến Võ Lăng, một mặt ở Đức Sơn, chỉ ở trân trọng mà ra. Đồ chúng tại đó khoản vài trăm vị đều chẳng thể lường biết. Ngài Đức Sơn bảo: “Đây là không thềm bậc mà ta được nó!”

Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 6 (86), Sư trở về núi cũ Phù Dung. Năm đó Đại sư Viên Tịch cũng dẫn dắt đồ chúng từ núi Đại Quy đến Di Sơn; chỗ đất Vương Chân Quân thượng thăng. Trong đồ chúng đó, ai đến Sư đã tiếp nối Đức Sơn, nhiều lớp ở trong cửa nghi. Sư cầm cự lâu ở đó thì có hành thật mới đầu cùng bàn luận rằng: “Đạo của ta cao vời vợi, chỗ vây quanh pháp môn không thể vội vàng. Tại đất nầy nếu như hình trải vàng có thể biết xinh đẹp ngần nào. Ở phía tây cách phủ hai trăm dặm có quả núi vây quanh kéo dài bốn ấp cao vợi vượt cả muôn nhận, nơi chót vót dùng viên ngọc tròn, lầu cao để trông thấy các núi xanh, đá quái tùng xưa nương nép rùa hạc, ao linh hang thẳm ẩn thấy rồng sấm. Trên đỉnh núi trước đây mùa đông tuyết đóng, giữa hè lạnh băng, cây cối ở đó đều có dây leo lòng thòng, phong rêu xanh rờn dùng làm áo mặc, giao thố mà chẳng phô bày hình thể. Dáng kỳ cảnh lạ chẳng thể nói hết tướng trạng. Tuy Hoắc Đồng Võ Di cũng chẳng thể thêm. Thật là thần tú của đất Việt Mân mà các tiên xưa kia không hề đến ở. Thật là hữu đãi đối với ta”. Cầu nguyện đồng đi, mùa thu tháng bảy, xuyên mây nhẹ bước, rêu leo hiểm trở lên điểm u huyền, sắp đến nơi đó. Sư bảo: “Thật là ta ở đây!” Đêm đó, quả thật thần núi hiểu linh, ngày mai hang núi sáng lãng, ráng khói bay động mây che đã đứng, trăng dựng sáng cùng. Xoay bánh xe pháp ở vô vi, dựng không môn nơi Hữu địa. Hành thật mới xin đặt tên núi đó là “Tuyết Phong”. Bởi vì ở đó mùa đông tuyết đóng, mùa hè lạnh băng, lấy ý nghĩa của sông Hầu núi Thứu.

Như vậy, từ năm Canh dần đến năm Ất mùi (870-87), Sư lấy núi làm nơi mở mang đạo. Núi nhờ Sư mà hiển bày danh tiếng. Thích Tử trong nước chẳng chấp Hoa Hạ, kéo đến đó như mời gọi. Vào niên hiệu Càn Phù, có quán sát Sứ Kinh Triệu Vi Công, vào niên hiệu Trung Hòa, có Tư Không Dĩnh Xuyên Trần Công, thường khát Đề Hồ mà chẳng chịu đến uống, sai sứ đến khẩn gấp, Sư vì thế mà vào phủ, theo ước nguyện của người. Khi đó, trong nội quan có người chống lại lệnh ban vào kinh để nói về đạo Sư, trong chúng đó lại có người vượt tục tỏ ngộ Lý không, xin xác Phù hoa mà lại cởi giày cỏ. Vua Hy Tông nghe như thế. Hàn Lâm Học Sĩ phỏng hỏi Trần Diên Hiệu – người đất Mân, và được tấu trình về sự thật. Khi đó, vua mới ban tặng Sư danh hiệu là “Chân Giác Đại Sư”. Và lấy một bộ y tía bảo Trần Diên Hiệu đến trao dâng Sư. Sưthọ nhận đó mà như không thọ nhận, đắp mặc đó mà dường không đắp mặc. Sư trụ ở đó thêm nhiều mùa hạ, đến đầu năm Tân Hợi (891), bỗng nhiên, Sư chống gậy mang giày, đồ chúng thưa hỏi mà Sư chẳng đáp, nhóm họp theo Sư về phương Đông đến Đan Khâu Tứ Minh. Năm sau (892) thuộc Vương Thị Trung bắt đầu chiếm cứ Mân Việt, bèn tắm gội binh lính dưới mưa pháp, dốc lòng kính lễ chốn thiền lâm, phảng phất đạo của Sư, thường trông về phía Đông. Hai năm sau đó (89) từ xứ Ngô trở về đất Mân, càng thêm lễ khác. Đến lúc Mân Dương, họ Vương phát thệ, ngoài việc chăm dưỡng muôn dân còn tôn sùng hưng thạnh đạo của Sư. Phàm mỗi lúc trai tăng xây chùa thảy đều thưa hỏi Sư. Vì thế, mà thêm nhiều chùa viện, thiết trí tôn tượng, đúc chuông để trang nghiêm núi đó. Vui mừng cúng thí để sung túc cho tăng chúng. Bấy giờ, từ Quan đến Phủ khắp đông tây đều là quý tộc, thường cùng trang nghiêm, cờ xí, lãnh hội pháp luận chẳng hề đổi thời. Chỉ suốt mười năm khẩn thiết ân cần, các Tăng sĩ xán lán đều theo vết Đàn-Na, những người săn bắn, chài lưới vội bỏ, tâm bắt cá bẫy chim.

Đến tháng 3 năm Mậu thìn (908), Sư thị hiện bị bệnh, Mân Vương vội chạy thuốc. Đến lúc trao thuốc, Sư bảo: “Ta chẳng tật bệnh gì, không thể công không”. Cuối cùng chẳng uống dùng. Sau đó, Sư viết kệ phó chúc pháp tử, viết thư từ biệt Vương Đình. Tới ngày mồng 2 tháng , chim thú buồn kêu, mây trôi ảm đạm. Đêm đó, lúc 18 giờ, Sư thị tịch, thọ tám mươi bảy tuổi, năm mươi chín hạ lạp. Tới ngày 1 tháng đó (0) xây tháp an táng. Ngày đó, Tăng Ni Sĩ thứ ở đất Mân vội vã tìm đến, nơi các đường hẻm không người ở. Mân Vương rơi lệ, nói rằng: “Thầy bỏ chúng ta sao vội thế!” Sai con là Trần Diên Bẩm đích thân đến cúng tế, lại làm lễ trai tăng vậy.

Sư hành hóa hơn bốn mươi năm, Tăng chúng bốn phương đua nhau tìm đến chỗ Sư giảng tông không thể kể xiết, bất luận mùa đông hay mùa hạ đều chẳng dưới ngàn rưỡi người, đồ chúng vây quanh chân Sư là hàng đi rảo, vội mà càng lìa xa, biện luận mà càng mê mờ. Trong đó hy vọng có các vị: 1. Ngài Sư Bị, dẫn dắt Đồ chúng ngài Huyền Sa (nay là nước An Quốc). 2. Ngài Khả Hưu, dẫn dắt chúng ở Động Nham, thuộc Việt Châu. 3. Ngài Trí Phu, dẫn dắt đồ chúng ở Nga Hồ, thuộc Tín Châu. . Ngài Tuệ Lăng, dẫn dắt đồ chúng ở Chiêu Khánh, thuộc Tuyền Châu. . Là ngài Thần Yến trú tại Cổ Sơn; Phước Châu, phân đèn hóa vật đều đáng thánh thưởng, ban tặng ca sa tía. Mà Huyền Sa cấp cho Đại Sư Tông Nhất.

Liên quan thử bàn:

Đạo của Tuyết Phong rộng lớn, người học tài giỏi trải khắp bốn biển. Song, môn sinh lưu xuất hình sắc chẳng đồng loại là tại sao? Huyền Sa nương Lăng-nghiêm mà vào đạo, sự thấy biết khác xa. Còn như ngạn ngữ nói: “mầu xanh thành mầu lam; mầu lam rời mầu xanh, thầy sao thường tại Minh kinh, cho nên có thuyết hơn thầy. Một là do Tuyết Phong tự soạn bài minh ở tháp, đã đến chỗ cùng tận. Và một là do Huyền Sa an lập ba câu quyết trạch mọi sở kiến, cực thành thấu suốt. Nay, giang biểu phần nhiều ưa chuộng phép học đó. Học đó hư thông không phiền toái, liễu đạt tiêu diêu chẳng bó buộc. Biết là gấp. Tuyết Phong hóa chúng thiết thực ở im lặng ngồi thiền, biết là giới gấp. Đó là bỏ một hoãn để thành một toàn, thì có thể biết vậy.

15. Truyện ngài Nguyên An ở Tô Khê, thuộc Lễ Châu, thời Tiền Đường:

Thích Nguyên An, họ Đạm, người ở xứ Du Lân, thuộc Phụng Tường. Vừa độ tuổi tết tóc, Sư đến chùa Hoài Ân ở Kỳ Dương, xuất gia với anh là Luật Sư Hựu. Chỉ có kinh và luận, không gì chẳng thông suốt. Sư mới đến hỏi đạo Thúy Vi, kế tiếp Lâm Tế. Mỗi nơi hưởng thọ pháp vị no nê, chứa nhóm mùi thơm đầy bát. Đẽo gọt chạm trổ, lại phác tiêu diêu tự như. Nghe ở Giáp Sơn Đạo Thạnh Chí Đức, Sư đến Lễ Dương thưa hỏi nhiều việc, lại thêm sáng tỏ. Sau, Sư mở núi Lạc Phổ, rồi trụ ở Tô Khê. Sư đáp dạy cho những người đến thưa hỏi tham học, phần nhiều lời văn hay đep, lưu truyền khắp bốn phương.

Sư thị tịch vào tháng 12 năm Mậu ngọ (898) tức niên hiệu Quang Hóa thứ nhất, thời vua Chiêu tông, thọ sáu mươi lăm tuổi, bốn mươi sáu hạ lạp. Trước lúc thị tịch, Sư dạy chúng rất nhiều từ cú Cảnh sách.

16. Truyện ngài Hằng Thông ở viện Tuyết Đậu, Minh Châu, thời Tiền Đường:

Thích Hằng Thông, họ Lý, người xứ Bình Ân, thuộc Hình Châu. Gia đình nhiều đời làm quan, Sư từ thuở ấu thơ đã biết học. Tô Tần hiển đạt vẫn còn ôm hoài hai khoảnh ruộng, Nguyên Lượng cao vợi chẳng tham năm đấu lộc, dù cho vượt trời ném đất, kéo tía yêu vàng, nháy mắt phù hoa đâu bổ ích, cuối cùng lễ cha mẹ!

Năm mười ba tuổi, Sư trốn vào Thước Sơn, hỏi đạo nương thầy, đã bỏ sách Nho, chỉ thích kinh Phật, Sư tinh cần sám tụng, khẩn thiết tham hầu khăn bình chẳng thôi, lúc đầu như cuối, được ân thế độ. Năm hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc tại chùa Khai Nguyên trong Bổn châu. Sau đó, Sư đến chùa Thuần Phước ở kinh Triệu nghe đọc kinh luật, suốt thời gian bảy, tám năm nghiên cứu tận cùng tạng giáo. Ngài mới tự bảo rằng: “Tôn giả Ma-Đằng vào Trung Hoa ở thời Hậu Hán dịch soạn văn kinh này. Thánh Trụ đến đời Lương lại làm sáng tỏ việc gì?” Nhân đó, Ngài khước từ Bắc Quyết, trải qua tham thỉnh ở phương Nam, gặp được Đại sư Chiêu Hiền Cảnh Sầm. Đại sư hỏi: “Ông người xứ nào?” Sư đáp: “Người ở Hình Châu”. Ngài Chiêu Hiền bảo: “Đạo ta chẳng từ kia lại!” Ngài nói: “Hòa-thượng còn trú tại đây chăng?” Từ đó, có chỗ vướng mắc đều bày tỏ, không nghi ngờ nào chẳng quyết trạch. Sau, Sư đến động Sơn, Thạch Sương, Sư đều đến tham lễ. Khi Ngài Chiêu Hiền thị tịch thì Sư giữ lễ đệ tử mà kính thờ.

Cuối niên hiệu Hàm Thông (87), Sư đến Tuyên thành: Thượng Thư Thôi Ngụ vốn kính phụng thiền môn, đón rước cung kính, thấy Sư nghi mạo thoát tục, hỏi đáp qua lại, ông rất vui mừng kính phục, bèn tấu đặt thiền viện ở núi Tạ Tiên hiệu là “Thụy Thánh” và thỉnh Sư ở đó. Học chúng đạo Phật ở bốn phương chẳng khơi mà tự nhóm họp. Bát Lăng phương bèn tấu dâng tặng hiệu cho Sư. Sư cương quyết từ chối bèn thôi. Cuối niên hiệu Trung Hòa; đầu niên hiệu Văn Đức (88-888), bọn giặc cướp đua nhau dấy động, Sư lãnh đạo đồ chúng đến Tứ Minh.

Tới niên hiệu Đại Thuận thứ hai (891), Quận mục Hoàng Quân Thịnh thỉnh Sư dừng ở tại Tuyết Đậu, giáo hóa hưng thạnh.

Tháng 7 năm Thiên Hựu thứ 2 (90), Ngài thị hiện bị bệnh, qua ba ngày, Sư tự vào phòng tắm gội, xong an tọa trên dường dây, nhóm chúng đốt hương, ân cần phó chúc, sau đó Sư chắp tay thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, năm mươi hai hạ lạp. Đến ngày mồng 7 tháng 8 năm đó, dựng tháp đá an táng tại phía Tây nam cách viện hơn hai trăm bước.

Có thuyết nói rằng: lúc sắp thị tịch Sư nói “Ta là Bàng Huân”. Đó là không đúng. Cao Tăng vô tác vì hành lục nên không nói thế. Nếu xem xét về niên lạp thì Bàng Huân đâu chính lúc tuổi hai mươi lại trốn nạn ư?

17. Truyện ngài Tuệ Tịch ở Ngưỡng Sơn, thuộc Viên Châu, thời Tiền Đường:

Thích Tuệ Tịch, họ Diệp, người xứ Tu Xương, thuộc Thiều Châu. Năm mười lăm tuổi, Sư khẩn thiết cầu xin xuất gia mà cha mẹ không chấp thuận, đành thôi. Đến năm mười bảy tuổi, Sư lại cầu xin nữa, cha mẹ Sư vẫn còn do dự chưa quyết định. Đêm đó, có hai luồng ánh sáng trắng từ Tào Khê phát ra chiếu thẳng đến nhà Sư. Lúc ấy, cha mẹ Sư mới tỏ ngộ con mình chí thành mà cảm cách như thế! Sư chặt đứt ngón út và ngón vô danh ở cánh tay trái để trong bát đặt trên chiếu, quỳ thẳng trước thềm nhà, nói: “Đáp tạ công ơn cù lao như thế”. Cha mẹ Sư biết không thể giữ Sư được nữa nên đành chấp thuận. Sư đến nương tựa Thiền sư Thông ở chùa Nam Hoa, cầu xin xuất gia. Năm mười tám tuổi, Sư còn là Sa-di, mà mang đạo cụ đi tìm tri thức. Trước tiên gặp ngài Đam Nguyên, vài năm sau, đã có sở đắc. Sau, Sư đến tham yết thiền sư Linh Hựu ở núi Đại Quy, Sư nương ở đó mười bốn, mười lăm năm chân bị khập khiễng, nên người thời bấy giờ gọi Sư là “Chân khập khiễng đuổi quạ”. Phàm ở Thương Hoắc thường hay chỉ bày tướng đó. Bấy giờ, Vi Trụ đến chỗ Sư xin kệ, Sư lấy giấy bút, vẽ hình vòng tròn, dưới vòng tròn ghi chú rằng: “Nghĩ mà biết đó thì rơi vào đầu thứ hai, chẳng nghĩ mà biết thì rơi vào đầu thứ ba”. Và phong dáng lại trình đạt. Từ đó có bấy nhiêu thế để chỉ bày cho người học, gọi đó là “Tông Phong của Ngưỡng Sơn”! Đồ chúng vén y đắc đạo khôn lường tính hết, thường hay có điềm thần dị, chợt đến chợt đi, mọi người chẳng ai lường hết được.

Sau, vua ban sắc truy tặng Sư thụy là “Trí Thông Đại sư”, tháp hiệu là “Diệu Quang”. Hiện nay truyền Pháp của Ngưỡng sơn, chỉ bày thành đồ tướng lưu hành ở đời.

18. Truyện ngài Tuệ Cung ở núi Tử Ngưng, thuộc Thiên Thai, thời Tiền Đường:

Thích Tuệ Cung, họ La, người ở xứ Mân, thuộc Phước Châu, gia đình nhiều đời theo Nho giáo, vốn chẳng giao thiệp với đạo khác. Lúc mới mang thai Sư, mẹ Sư mộng thấy tại chỗ ở nổi lên một ngôi tháp, cao lên tới tận trời. Đến lúc sanh Sư thì thông minh dĩng ngộ. Năm mười bảy tuổi, Sư thì đỗ Tiến sĩ, danh tùy kế xa, dẫn đến kinh quyết. Nhân đến chùa Phụng Nhật ở núi Chung Nam, mắt nhìn tôn tượng Tổ sư mà cởi mở vòng lưới thế tục, bèn xin xuất gia.

Sư giữ gìn tiết tháo, chăm việc tăng chúng, trải qua đủ thứ gian khổ đắng cay. Năm hai mươi hai tuổi Sư đến chùa An Quốc – vừa mới dựng lập, thọ giới cụ túc. Sau đó du phương, Sư men theo núi hiểm nguy lội qua chống hoang dã, mà không lộ vẻ khó khổ. Sư từng bị rắn cắn vào tay, chẳng tìm cầu thầy thuốc, mà độc tố tự tiêu. Sư gặp quỷ mị chiếm núi, bèn dẫn dụ tội phước mà yêu vật ngưng dứt. Sư đến Đức Sơn, thuộc Võ Lăng, tham yết Thiền sư Tuyên Giám, lãnh hội phong khí, do đó hợp đạo. Nhân chống tích trượng thi lễ của môn nhân. Sau khi Ngài Tuyên Giám thị tịch, Sư bèn đến Ngọc Sơn, kế đến Tín Châu. Thứ Sử xây dựng viện Tây Thiền lễ thỉnh Sư ở đó. Đồ chúng có đến mấy trăm vị, Sư ở đó hơn một năm, vì chốn thành quách ồn ào phiền tạp, nên Sư lại vào núi Mã Quan, ở Trường Khê, thuộc Phước Châu. Rồi từ núi Mã Quan đến núi Phú Dương ở Tuyền Châu. Những chỗ Sư đến, đàn việt đua nhau tìm tới, đồ chúng ở phường giải bát thiền lập thành. Đó là vì các hàng sĩ thứ ảnh hưởng kính phụng như vậy.

Niên hiệu Cảnh Phước thứ 3 (89), Sư cùng môn nhân đến Thiên Thai, ở Châu Mục, thuộc Kinh Triệu, Đỗ Hùng lưu giữ nên Sư ở lại. Đỗ Hùng Nhân đó mà lập viện Thụy Long ở núi Từ Ngưng, thỉnh cầu Sư mở mang trường giảng để khai ngộ người mê. Tăng tục cùng nhau tụ hội, hương hoa chất thành núi. Vào giờ ngọ tháng 12 năm Quý hợi (903) tức niên hiệu Thiên Phục thứ 3, Sư bảo chúng đánh chuông, ngoái nhìn chung quanh, bỗng nhiên Sư nói: “Đi!” và ngồi kiết già, nhắm mắt an nhiên thị tịch, thọ tám mươi bốn tuổi, sáu mươi hai hạ lạp.

Ngài mở mang Tông Viên Đốn, ở ngôi vị đạo đức tối cao, thị tịch không đổi tên, tháp không có bảng đề đủ thấy rằng phù danh là gông cùm. Môn nhân thượng túc của Sư bèn trồng cây thông, mang đất góp sức tôn thờ tháp miếu, cái gọi là “pháp không chẳng hoại nhân duyên”.

Nhân duyên có đó, hiếu hạnh không tổn thương đạo.

19. Truyện ngài Văn Hỷ ở viện Long Tuyền, thuộc Hàng Châu, thời Tiền Đường:

Thích Văn Hỷ, họ Chu, người ở xứ Ngự Nhi, thuộc Gia Hòa. Lúc mang thai Sư, mẹ Sư mộng thấy ăn nuốt ba lá đào. Đến lúc sanh Sư, càng chẳng ưa thích mùi vị tanh nồng.

Năm bảy tuổi, Sư đến chỗ Sa-môn Thanh Quốc ở chùa Thường Lạc trong ấp, cầu xin xuất gia. Ngài Thanh Quốc liền cho Sư đến Vị Dương để tụng kinh và sám văn mười quyển, xong mới xuống tóc. Ngài đến chùa Khai nguyên ở Việt Châu, học kinh Pháp Hoa, tập văn cú Thiên Thai liền diễn giảng được, nghiên cứu tỉ mỉ phân trung nên có thể giảng dạy người. Niên hiệu Khai Thành thứ 2 (837), Sư đến Quận Triệu thọ giới cụ túc, tập học Luật Tứ Phần. Đến thời pháp nạn Hội Xương thanh trừng đào thải Sư mặc áo trắng, mà trong tâm kín giữ không đổi. Vào những năm đầu niên hiệu Đại Trung theo lệ có Trùng sám độ, Sư đến chùa Tề Phong ở Diêm Quan giảng thuyết. Sau đó, Sư sang lễ yết Thiền Sư Tánh Không ở núi Đại Từ. Ngài Tánh Không dạy bảo Sư rằng: “Sao ông chẳng học theo Đồng tử Thiện Tài mà tham lễ khắp nơi?”

Đến năm Nhâm ngọ (862) thuộc niên hiệu Hàm Thông, Sư tới viện Quán Âm ở Dự Chương, được gặp ngài Ngưỡng Sơn ngay lời dạy bảo mà Sư tỏ ngộ tâm mình. Ngài Ngưỡng Sơn cho Sư giữ chức thường trụ. Một hôm nọ, có vị tăng dung mạo khác lạ đến cầu xin trai thực, Sư liền giảm bớt phần ăn của mình mà dâng hiến. Ngài Ngưỡng Sơn biết trước, nên hỏi Sư rằng: “Vị tăng ấy đã chứng quả đến cầu thực, ông cung cấp có chu toàn chăng?” Sư đáp: “Bớt phần mình mà cúng dâng”. Ngài Ngưỡng Sơn bảo: “Ông được lợi ích lớn!” Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), Sư đến Triết Hữu, dừng ở núi Thiên Khoảnh, cất thất mà ở đó.

Niên hiệu Hàm Thông thứ 10 (869), Lưu Nghiêm Hợp Mã ở Dư Hàng, thỉnh Sư đến trụ viện Cổ Thành, ở Long Tuyền. Sư đến ở đó được mười một năm. Tới năm Kỷ Hợi (879) thuộc niên hiệu Càn Phù, giặc cướp đất đến Dư Hàng, Sư lánh nạn đến ở Hồ Châu, ngoài ra chẳng dừng ở đâu. Thứ Sử Đỗ Nhụ Hưu thỉnh Sư đến ở viện Nhân Vương. Đến niên hiệu Quang Khải thứ 3 (887), Võ Túc Vương họ Tiền mới lấy lại Quận Hàng, ban sớ thỉnh Sư đến ở Giải thự thuộc Long Tuyền, nay là viện Từ Quang. Đến niên hiệu Đại Thuận thứ 2 (891), Uy Thắng Quân Tiết Sứ Huân Xương, và Võ Túc Vương đồng năm phát biểu dâng luận, cả hai đều ban tặng y tía. Niên hiệu Càn Ninh thứ (898), tấu trình tôn xưng Sư hiệu là “Vô Trước”.

Đến niên hiệu Quang Hóa thứ 3 (901), Sư thị hiện bị bệnh, qua ngày 27 tháng 10, Sư ngồi kiết già mà thị tịch tại giải thự thuộc Châu Quách, thọ tám mươi tuổi, sáu mươi hạ lạp. Lúc Sư thị tịch trên phương trượng phát ra luồng ánh sáng mầu trắng. Cây trúc biến thành mầu trắng. Đến ngày 22 tháng 11, thỉnh nhập tháp tại gò ở phía Tây núi Linh Ẩn.

Sư vốn có hình mạo cổ phác, xương cứng mà gầy. Giới đức ở thiền môn thật là bậc tri thức. Ban đầu, lúc Sư ngụ ở tại Tráp Xuyên. Mùa hè niên hiệu Quảng Minh thứ nhất (880), có loài sâu Hoàng bay che khắp trời đất, ăn hại lúa mạ, Sư tự chống tích trượng treo máng áo ca-sa lên trên, dựng giữa khoảng trống. Loài sâu trùng đó sắp xuống, bèn gắng tiếng kêu nó, tất cả đều vụt bay đi, lúa mạ trong mười khoảnh riêng năm đó được mùa. Ngài có sự cảm thông đến như thế! Có thuyết nói rằng: Sư được truyền y ca-sa của ngài Mã Tố, để làm Tín Bảo. Sau khi an táng, vào tháng 8 năm Nhâm tuất (902) tức niên hiệu Thiên Phục thứ 2, Tuyên thành soái Điền Quân Ứng Hàng cùng định làm loạn, thao túng binh lính, cướp bóc cùng khắp, đập phá tháp Sư, thấy nhục thân chẳng mục rã, như đang nhập thiền định, tóc móng tay đều dài ra. Võ Túc Vương lấy làm lạ, sai Tướng Thiệu chí cúng Tế, sau đó bít lấp lại.

20. Truyện ngài Duy Tĩnh ở núi Phục Long, thuộc Minh Châu, thời Tiền Đường:

Thích Duy Tĩnh, người xứ Ngô Môn. Năm đã ba mươi tuổi, hình mạo kỳ lạ, lại giống như ám độn, Sư vào chùa Quốc thanh đi khắp tăng phòng mà xướng rằng: “Xin người xuất gia hãy giữ gìn. Sư xuống tới viện Kinh Tạng, thấy Đại Đức Tuệ Chính là bậc thầy Xà-lê của cả hai chúng, Sư liền quỳ lạy, tỏ bày ý nguyện thành thực xin được tiếp nhận, ngài Tuệ Chính liền chấp nhận và cho xuống tóc, thọ giới cụ túc ở Thiên Thai, Sư tạm trở về bái tạ ngài Tuệ Chính, rồi bèn tìm phỏng các danh sơn, nơi nào có thiện tri thức, thì Sư hẳn trải qua ấm lạnh. Từ đó, Sư chuyên cần đối với thiền pháp, không hề phát ngôn, và liền đến ở đạo tràng kim địa; nơi Thiền Sư Định Quang phế bỏ, Rồi Sư lấn sao đến chùa Thiền Lâm vào lúc dùng cháo sáng mà có nhiều Hổ Báo theo đến cửa chùa. Hổ quỳ dưới đất như đợi hầu, lúc Sư trở ra, lại theo Sư trở về đến kim địa, mãi đến sáng, thấy nhiều dấu vết rất lớn, Sư sợ mọi người biết nên dùng bừa để cào xóa vết chân hổ. Bỗng nhiên Sư mắc bệnh ung nhọt sau lưng khó ngủ. Có phân loài chim bôi thoa vào vết thương, chẳng bao lâu thì lành hẳn. Sư lại dự liệu mùa băng tuyết nên chuẩn bị nửa hộc lúa canh, mỗi ngày dùng xoong kèm với rau để nấu ăn, Sư để lúa canh giữa đất trong hầm hố, trải qua thời gian lâu mà gạo vẫn thường đầy đủ chẳng phải cày cấy. Sư bèn xây dựng lại mà bảo rằng: “Ta nhờ vật này mà biết là phi lý”. Rồi Sư tìm đến ở núi Phục Long, ở núi đó có thể nhìn ra biển, thế núi cao chót vót. Xưa kia Sa-môn Giám Gia từng ẩn cư tại đó, ngài Giám Gia là em ruột của thân mẫu Đường Vương Tướng Quốc, giỏi về văn, chuyên tu đạo, Thứ Sử thường đến đó tham yết ngài Giám Gia. Sư cũng tiếp nối ẩn cư ở núi đó. Thứ Sử Hoàng Thịnh thường đến thỉnh Sư ra khỏi châu, cúng thí rất nhiều. Cuối cùng Sư đến lập viện ở núi tại phía bắc Phụng Xuyên, Sư thị hiện bị bệnh mà an tọa thị tịch, thọ hơn bảy mươi tuổi, an táng ở dưới núi. Tháp thờ Sư đến nay vẫn còn.

TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

(Quyển 12 hết)