TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

Đại Sư Thông Tuệ chùa Thiên Thọ ở Tả Nhai Tứ Tử Sa-môn Tán Ninh v.v… vâng sắc soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 13

 

CHƯƠNG III: TẬP THIỀN

TRONG PHẦN 6 CỦA CHƯƠNG III

(chánh truyện có mười bảy vị, phụ có sáu vị).

1. Truyện ngài Viên Thiệu chùa Phong Thiền, ở Đông Kinh, thời Tiền Đường:

Thích Viên Thiệu, họ Tôn. Tổ Tiên Sư vốn người Phú Dương, ông nội của Sư làm quan tại Nam Yên, do đó trở thành người xứ Bạch Mã, thuộc Cốt Đài. Năm Sư vừa mới hiểu biết thì thiên nhiên tuấn tú, bọn trẻ ở gần đùa vui thì Sư chỉ điềm nhiên, chúng rượt đuổi nhau thì riêng Sư nhàn tĩnh.

Năm mười tám tuổi, Sư mới toại chí nguyện xuất gia, kính thờ Thiền Sư Chánh Giác ở chùa Minh Phước làm thầy. Ngài Chánh Giác lấy làm lạ, tuy dạy các đệ tử nhưng riêng chấp nhận Sư, nói rằng: “Đây là pháp khí vĩ đại trong cửa chân không”. Năm hai mươi hai tuổi, Sư đến Luật sư Hương Đăng, ở nghĩa đàn thuộc Tương Châu cầu thọ giới cụ túc. Sau đó, Sư lên đường hỏi đạo tìm thầy, bắt chước Tổ sư tham học đạo huyền, ngoài ba y như chim ha cánh và một bình bát thì Sư không có một vật gì khác, chỉ thệ nguyện học Thiền tông, đứng dưới tuyết truyền y. Đó vốn là ước vọng của Sư. Các xứ Tam Tương, ngũ lãnh, nhị thục, lưỡng kinh hễ nơi nào có tòng Lâm, thì Sư đều đến tham lễ, đã thấu suốt thâm sâu, tỏ ngộ cơ tâm, Sư bèn chống tích đến Di môn, tức chùa Thủy Nam, ở Thương Viên, nay là chùa Khai Bảo.

Niên hiệu Đại Trung thứ 10 (86), Sư đến gặp Đường Tướng Quốc Bùi Công Hưu, Thôi Điều thương đảnh đến trấn Ngụy Giao, đồng khí tương cầu, một lời hợp đạo, liền ban cho Sư ở viện Kim Đông Thượng Phương. Sư nhóm họp thiền chúng, khổ nỗi ở đó chật hẹp, bèn mở ở phía Tây của Thượng viện, tổn hại ở trên, ích lợi ở dưới. Bấy giờ, đàn thí tìm đến rất đông, người mặc áo nạp có đến mấy trăm, sư mở rộng núi Di môn đến cao vợi. Sư là pháp tôn của Thiền sư Hà Trạch Thần Hội Tổ thứ 7, Sư diễn pháp vô niệm, chỉ bày chân tâm, thấy suốt Mật truyền của Đạt-ma, thông cùng thú hướng sâu xa của Tuệ Năng – Nam Tông. Bấy giờ, những người tham học dẫn dắt Đồ chúng đến càng đông. Gặp Nguyên soái Tướng quốc Vương Tấn Công Đạc cho rằng: “Đạo của Sư hành hóa thông cảm đến thần kỳ, công hiệu linh nghiệm, ban rưới cam lồ nơi khoảng trời cao, thấm điềm tốt lành khắp cùng cây cối”. Bèn trình tấu lên vua Hy Tông ban sắc biển ngạch của viện là “Song Lâm” và tặng Sư danh hiệu “Pháp Tế”, riêng sắc lệnh độ cho bảy vị thị giả. Thời gian đó, pháp hội hưng thạnh, các hàng sĩ thứ thảy đều quy tâm, chỉ hơn bốn mươi năm mở mang mà có đến cả muôn người, đệ tử tăng ni hơn năm trăm vị.

Đến ngày mồng tháng 7 năm Ất Mão (89) tức niên hiệu Càn Ninh thứ 2, Sư bảo chúng rằng: “Hãy mau tự liễu đi, vốn là thoát sanh tử, nếu không rõ huyền chỉ, lúc nào mới được thoát? Tôi như cảnh trời chiều xế bóng, đây là lời nói sau cùng!”

Rồi Sư ở trong phương trượng vắng lặng mà thị tịch, thọ tám mươi lăm tuổi, sáu mươi ba hạ lạp. Vua Chiêu Tông ban sắc xây tháp ở góc Tây Nam của Bổn viện để thờ. Qua năm năm, đến ngày mồng 2 tháng 2 lại mở tháp ra, thì thấy tóc dài nửa tấc, nghi mạo vẫn như lúc còn sống, mới dâng hương hoa cúng dường bảy ngày, mọi người xa gần chiêm ngưỡng lễ bái, khen ngợi lạ lùng đó. Thế rồi, hành pháp trà-tỳ, trong lửa chợt phát ra ánh sáng thần năm mầu, thâu nhặt được hơn trăm viên xá-lợi, tùy ý mang đi khắp nơi. Đãi nhặt gần được ngàn viên, mầu tươi như ngọc sạch, xán lán tợ châu tròn, ứng nghiệm thật do năm phần hương huân thành, chẳng phải là một đời chứa nhóm. Bốn chúng lại kính thành đón rước nhập tháp. Năm đó là năm Mậu Ngọ (898) dưới thời vua Chiêu Tông.

Huy Dương Tướng Quốc Viên Tượng trước trấn giữ tại Lăng Giao, đệ tử của Sư là Tuệ Ái v.v… cùng chung hưởng pháp nhũ, nên nêu bày hành trạng của Sư và xin hành lễ ban thụy hiệu, trong năm Quý Dậu (913) tức niên hiệu Càn Hóa thứ 3 đời Hậu Lương, vua Thái Tổ sắc tặng Sư danh hiệu khác là “Định Giác”, tháp hiệu là “Linh Hóa” đến tháng 9 niên hiệu Trinh Minh thứ (918) Ngài Tuệ Ái v.v… muốn phô bày tán dương đức hạnh của Sư nên dựng lập bia. Vua Mạc Đế (thời Hậu Lương) ban sắc chấp thuận. Khai Phủ Y Vương Công Toản soạn văn bia.

2. Truyện ngài Pháp Phổ ở núi Hoàng Cương thuộc Kỳ Châu, thời Tiền Đường:

Thích Pháp Phổ, họ Phan, người ở xứ Lư Giang, dáng mạo khô gầy, tánh tình khoan dung, Sư mặc áo nạp mà du phương.

Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), Sư thấy núi Hoàng Cương sắc mầu đẹp lạ, đỉnh núi cao chót vót, trong rừng rậm rạp ấy có đàn đá bằng phẳng và cao, Sư bèn cởi giày, chống tích trượng vào trong trải chiếu gai mà ở, thời gian lâu, bèn dựng cây lợp tranh chỉ để dung thân mà thôi. Sau đó không lâu, có một người từ tiểu kinh đi đến thấy Sư bèn kinh sợ. Sư hỏi: “Có duyên sự gì đi đến nơi này?” Người ấy đáp: “Tôi vốn đi qua Sơn Lộc, thấy trên đỉnh núi cao hơi khí mầu tía phát túa cuộn quanh, thật là thích ý, nghĩ rằng núi này có lắm vật nên lại đây!” Rồi người ấy nhìn Sư chập lâu mới đi. Hành giả dưới núi nghe nói tìm đến, chưa được mấy năm mà những người học thiền có tới cả trăm người. Sư từ khước mà bảo rằng: “Lão Tăng đây ở một mình, không vật lợi người. Các ông cũng không thiếu thốn gì”. Từ đó, am nầy ở rất đông người. Đệ tử Sư là Quảng Nghiêm, v.v…, xây dựng thành Đại Viện. Tự nhiên thiền khách truyền đạo của Sư nhiều không thể tính kể. Một hôm, Sư nhóm chúng để từ biệt, bảo rằng: “Ta đến lúc đi rồi, các ông hãy khéo trụ mà quý tiếc!” Rồi ngồi kiết già trên giường mà thị tịch. Nhục thân Sư không rã hoại. Sau đó, dùng bùn thơm bôi phết lên.

Đến niên hiệu Càn Phù (87-880) lại sửa sang và dựng lập bia tụng v.v…

Kế nữa, có ngài Thích Hữu Tĩnh trụ chùa Hoa Nghiêm ở kinh thành Lạc Dương, không rõ Sư là người xứ nào, Sư thuộc phong hạnh Thiền đạo của Động Sơn. Sư đến xây dựng ở đó, giải thích điều nghi nhanh như chớp, rồi trở về vị trí cũ. Đi ngược lên phương bắc, Sư đến Ấp Lạc khai diễn. Nhân ứng phó thỉnh trai ở nội cung, các danh công đều cầm lấy kinh đọc tụng, riêng Sư và các đệ tử Sư đều ngồi im lặng. Đế Tuyên hỏi: “Sao chẳng tụng kinh?” Sư trả lời vẫn làm vui lòng Đế Tuyên. Sư trở về Bình Dương mà thị tịch, thâu nhặt được xá-lợi, bốn phương xây dựng tháp, Sư được ban tăng thụy hiệu là “Bảo trí Đại Sư”, tháp hiệu là “Vô vi”.

3. Truyện ngài Trí Nhàn ở viện Hương Nghiêm, thuộc Đặng Châu, thời Hậu Lương:

Thích Trí Nhàn, người ở xứ Thanh Châu, thân cao bảy thước, nghe rộng nhớ nhiều, có tài năng sách lược. Bà con bạn thân thấy vậy, nói với

Sư rằng: “Ông hãy cố sức học thì ngày sau sẽ thành đồ tốt để giúp ích cho đời”. Không bao lâu, Sư từ biệt thân thích mà xuất tục. Thế rồi, tâm bền chắc kính mến Phật pháp, Ngài đến phương nam, tham lễ Thiền Sư Linh Hựu ở núi Đại Viên. Cả chúng hội đều tôn sùng Sư là bậc tài giỏi thông minh. Một hôm, ngài Đại Viên gọi Sư đến mà đối đáp, Sư mịt mờ, Ngài bèn đem tất cả các ngữ yếu của thiền đức các nơi cùng một lúc thiêu đốt, bảo rằng: “Bánh vẽ không no được bụng kẻ đói!” Rồi hướng về vết tích của Quốc Sư Trung ở Nam Dương mà sống, tình cờ cắt phát cỏ cây, đánh chạm vào hòn sỏi, Sư bèn phát cười, thầm có sở chứng, mà tuôn trào các bài tụng xướng. Từ đó, Sư mở mang thạnh hành, sau khi thị tịch, vua ban tặng Sư thụy hiệu là “Tập Đăng Đại Sư”, tháp hiệu là “Đình Phước”.

Kế nữa, có ngài Thích Đại Đồng ở núi Đầu Tử, thuộc Đồng Thành, ở Dã Châu. Sư họ Lưu, người ở xứ Hoài Ninh, thuộc Dã Châu. Từ thuở bé, Sư đã có tánh cứng rắn, ngay thẳng; khí độ của bậc lão thánh. Nhân đến cầu xin xuất gia với Thiền Sư Mãn ở Bảo Đương, thuộc Lạc Hạ. Ban đầu, Sư tập học kinh An-ban, quán nghiệp sắp thành, bèn cầu biển tánh Hoa Nghiêm. Sư lại mang Tích trượng đến tham yết pháp hội ở núi Thúy Vi, đồng lúc Phục Ngưu Nguyên Thông khơi phát thỉnh ích mà Sư tỏ ngộ ý Tổ. Từ đó, Sư du trở về quê cũ, ẩn náu tại núi Đầu Tử, xây dựng am tranh, nương sống đạm bạc để cầu chí ấy.

Vào niên hiệu Trung Hòa (881-88), giặc cướp lan tràn khắp kinh, thiên hạ nghịch loạn. Có bọn giặc cầm mũi nhận đến hỏi Sư: “Ông ở đây làm gì?” Sư dùng Phật pháp mà đối đáp, Khôi Cừ nghe mà lạy dài, cởi bỏ áo giáp trên thân mình bỏ xuống núi. Đến ngày mồng 6 tháng năm Giáp Tuất (91) tức niên hiệu Càn Hóa thứ đời Hậu Lương, Sư ngồi kiết già mà thị tịch, thọ chín mươi sáu tuổi, bốn mươi sau hạ lạp. Sư hoằng hóa ở núi đó hơn ba mươi năm.

4. Truyện ngài Quang Nhân ở Sơ Sơn, thuộc Phủ Châu, thời Hậu Lương:

Thích Quang Nhân, không rõ Sư là người xứ nào, thân hình thấp bé. Từ thuở nhỏ khí phách Sư đã trội vượt người khác. Tinh sáng khác với người thường. Sư sớm tham học ở Đông Sơn, vào sâu nghĩ lý kín mật, biện luận lại hơn người. Sư từng hỏi Thiền sư Hương Nghiêm, nhưng điều giải đáp có sự thiên lệnh. Sư bảo: “Tôi vì lụy kén trọng tơ mà đến, chẳng lẽ không mệt nhọc ư?” Rồi bèn thóa nhổ giữa đất, bỏ đi. Sau, Sư trú tại Sơ Sơn, thuộc Lâm Xuyên, những người học thiền 2 tìm đến thưa hỏi, rất có ngôn từ. Sư có soạn các bài tụng về “Tứ Đại”; “Lược Hoa Nghiêm trưởng giả luận” lưu hành ở đời. Sau khi Sư thị tịch, nhập vào trong khám, đã có con nai trắng đến trước linh quỳ gối, Tăng chúng lúc bấy giờ cho đó là Nai kính điếu.

Kế nữa, có ngài Thích Bản Nhân, ở viện Bạch Thủy, thuộc Quân Châu, không rõ Sư là người xứ nào. Sư đắc tâm ấn ở pháp tịch ngài Động Sơn. Tuy Sư ít đàm đạo, nhưng người khắp nơi tìm theo như bóng theo hình. Sư khước từ họ lại tìm đến. Sư bèn theo sự thỉnh mời của người Đan Dương mà đến ở. Sau đó không bao lâu, vào niên hiệu Thiên Phục (901-90), Sư đến viện Bạch Thủy ở Cao An, thuộc Hồng Tỉnh nhóm chúng, Sư sắp nhập diệt, trước xúc xứ bảo trái, bèn nhóm chúng, đốt hương, bảo: “Đến lúc khói hương cháy tan hết là ta nhập tịch”. Và đúng như lời nói, Sư an nhiên ngồi thẳng thị tịch.

Kế nữa, có ngài Thích Cư Tuần, ở núi Long Nha. Sư họ Quách, người ở xứ Nam Thành, thuộc lâm Xuyên. Năm mười bốn tuổi, Sư thức tỉnh cuộc đời là vô thường mà giữ sự điềm đạm, cầu xin cha mẹ được xuất gia tại chùa Mãn Điền, ở Lô Lăng. Sư đến Tung Sơn thọ giới cụ túc, đã nghĩ chọn gỗ, mới tham thiền hội Thúy vi, mê lại chưa trở về chẳng biết chỗ đến. Nghe lời huyền cách cao xa của Động Thượng, Sư đích thân tìm đến, Sư bước tới hỏi: “Thế nào là ý Tổ?” Động Thượng đáp: “Nếu nước trong động chảy ngược sẽ nói cho nghe.” Ngay lời đó Sư thấu suốt huyền vi. Ngài ẩn chúng bặt tăm suốt bảy, tám năm, chăm chăm dấu sự tỏ sáng, nhưng lâu thì thông. Sở Vương dòng họ Mã ở phủ Thiên Sách vốn cậy nhờ Phương âm, kính thờ Sư như cửa hiếu để bẩm phụng Tỳ trưởng, nên thỉnh Sư đến trụ tại Thiền Viện Diệu Tế ở núi Long Nha, đông đúc đồ chúng thường nhóm hop cả năm trăm vị, bèn tấu trình đề cử triều đình ban tặng Sư y tía, tôn xưng hiệu Sư là “Chứng Không”, lúc đó là đầu niên hiệu Trinh Minh (91) thời Hậu Lương. Ở dưới Phương Nhạc gọi đó là Thiền Quật, xem thất đó được môn đó cũng nối nhau. Đến tháng 8 năm Quý Mùi (923) tức niên hiệu Long Đức thứ 3, Sư bị bệnh kéo dài đến ngày 13 tháng 9 thì thị tịch. Sư ra đời hơn bốn mươi năm, có nói rõ ở Biệt lục.

5. Truyện ngài Sư Bị ở viện Huyền Sa, thuộc Phước Châu, thời Hậu Lương:

Thích Sư Bị, họ Tạ, người ở đất Mân. Thuở nhỏ, Sư dũng cảm sáng suốt, đam mê câu cá, thường thả thuyền nhỏ nổi trôi trên sông Nam Đài để tự vui. Thuyền đó lơ lửng như rỗng không, đồng loại chẳng thề lường biết. Một hôm, Sư bỗng nhiên phát ý xuất trần, Sư ném cần câu, bỏ thuyền lên núi Phù Dung xuất gia. Lúc đó là đầu niên hiệu Hàm Thông (860).

Sau, Sư đến chùa Khai Nguyên ở Dự Chương thọ giới cụ túc rồi trở về quê cũ. Ở trong Sơn Môn, Sư gắng sức làm việc nặng nhọc, không việc gì chẳng dẫn đầu. Thân mang áo vải thêm giày gai quấn cỏ, bớt ăn vật thực mà nói nín có thường, mọi người đều kính sợ. Sư mênh mông đại độ, dù có chước khéo kế hay cũng chẳng thể lường biết. Sư có bạn đồng học là pháp huynh Nghĩa Tồn ở Tuyết Phong. Qua một vài lần cùng gặp, ngài Nghĩa Tồn phần nhiều chăm chú vào Sư cho là “Bị Đầu-đà”. Một hôm, hỏi ngược Sư rằng: “Đầu-đà sao chẳng đi tham lễ các nơi?” Sư đáp: “Đạt-ma chẳng đến Đông Độ, Nhị Tổ không sang Tây Thiên”. Ngài Nghĩa Tồn rất mến quý Sư và lúc khai hoang Tuyết Phong thì Sư cũng đổ lắm công sức, dòng họ Vương mới có đất Mân, tấu trình triều đình ban tặng Sư y tía, tôn xưng hiệu là “Tông Nhất Đại Sư”. Đến niên hiệu Khai Bình thứ 2 (908), thời Hậu Lương, ngày 27 tháng 11 năm Mậu thìn, Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi, bốn mươi bốn hạ lạp. Mân Việt Trung Ý Vương, họ Vương xây tháp thờ Sư.

Suốt ba mươi năm, Sư mở mang hoằng hóa, thiền khách có bảy trăm vị, trong đó, vị đắc pháp của Sư, thì tăng chúng đều suy cử ngài Quế Thâm là Thượng túc. Đến nay, môn nhân ở Lưỡng triết, đều thạnh hành truyền bá rộng tông đó, đệ tử nối pháp rất nhiều nhiều. Với sự kiến lập của Sư thấu quá sơ môn Đại thừa. Người học ở Giang Biểu không ai chẳng nương gió mà đè cỏ.

6. Truyện ngài Tồn Thọ ở núi Thê Nham, thuộc Phủ Hà Trung, thời Hậu Lương:

Thích Tồn Thọ, không rõ Sư là người xứ nào, Sư là người thanh cao, khuôn mẫu, người vội vàng làm sao sáng bằng, Sư tìm khắp kinh luận, vượt hơn mọi người, đến cầu hỏi luật ở Thiền Sư Thạch Sương, quyết rõ nghi ngờ, thuyền rỗng chẳng phiền, giống như cây khô, khác với mọi người. Sau, Sư trở về Bồ-Phà, Tăng tục đều quy tâm. Bấy giờ, Ký Vương Hữu nhường nhận Phong tịnh Hàn, ưa thích theo lạ, nghe người làm được một việc lành thì ban tặng lễ hậu. Vương mời Sư vào phủ thiết trai cúng dường, luận đạo đàm huyền, bất chợt quỳ gối trước chiếu. Lại thêm sự tôn sùng kính tin, Sư tiếp tục làm thầy truyền giới Bồ-tát, cúng thí càng thêm nhiều. Ngài độ môn nhân có đến bốn trăm vị, ni chúng có đến số trăm. Thường ngày, Sư ít nói, hễ nói thì có lợi ích chúng sanh, sắc mặt mừng giận, mọi người chưa từng thấy, trông Sư như cây thông già trên tuyết. Sư thị tịch lúc chín mươi ba tuổi, ngồi kiết già, một tháng sau, râu tóc mọc dài, phải cạo lại mới nhập tháp. Trong sân tháp thường có hổ đi nhiễu quanh, có nhiều dấu chân. Triều đình ban tặng Sư thụy hiệu là “Chân Tịch Đại Sư”.

7. Truyện ngài Sư Ngạn ở viện Thụy Nham, thuộc Đại Châu, thời Hậu Lương:

Thích Sư Ngạn, họ Hứa, người ở xứ Mân Việt, sớm tỏ ngộ mọi sự ràng buộc, gấp cầu thoát tục. Sư thuận theo giới luật, bỗng nhiên muốn du phương. Gặp được Thiền Sư Nham Đầu được lãnh hội không nghi ngờ gì.

Ban đầu, Sư ưa thích sự nín lặng dường như người không biết nói. Sau được Đôn Dụ Doãn thỉnh Sư trụ viện Thụy Nham thuộc Thai Châu. Bấy giờ, Đạo Phu đến tham vấn, Sư đối đáp nhanh nhẹn, Đạo Phu bèn thuần phục. Sau cả hai chúng đồng chung sống, oai đức của Sư lạnh lùng như Nghiêm Sương, Sư Cáo Chánh tăng ni, không dụng lầm lẫn, nên Giang Biểu nói rằng: “Người chế ngự chúng cho bằng đều, thì Thụy Nham là trên hết”. Từng có ba vị tăng, hình dáng người Hồ, thanh nhã cao ráo, tròng mắt thường lay động như sấm chớp. Sai Kiên Tịnh túc trí lễ. Ngạn hỏi rằng: “Các vị từ đâu đến?” Đáp: “Từ Thiên Trúc đến”. Ngài hỏi: “Bắt đầu đi từ lúc nào?” Đáp: “Đi từ sáng sớm, giờ mới đến”. Ngài hỏi: “Có nhọc mệt chăng?” Đáp: “Vì pháp nên quên mất nhọc mệt”. Sư bèn xem kỹ thì chân các vị đó đều chẳng chạm đất, Sư bảo mời họ vào an nghỉ tại Đường thượng, sáng sớm, bỗng nhiên không còn thấy, họ nữa, bảo đó là “Bích-Chi-ca quả nhân”, nhưng chẳng biết thuộc giai cấp nào. Bấy giờ, có những người chẳng thể lường vào trong pháp hội chẳng phải chỉ một lần. Lúc Sư tham học, gọi là “Tiểu Ngạn Trưởng Lão”. Lưỡng Triết Võ Túc Vương nhiều lần thỉnh Sư mới chấp thuận lai nghi, cuối cùng khổ nhọc từ khước. Nhà kho trong chùa thường đầy đủ mọi vật. Từng có bà lão ở trong làng đến tham lễ, Sư bảo: “Bà hãy thôi lạy, chẳng bằng mau trở về nhà cứu lấy mấy trăm mạng sống sinh vật có nhiều ích lợi hơn”. Bà lão mờ mịt trở về đến nhà, đứa con dâu, dùng nôm bắt ốc ruộng cũng vừa trở về, bà lão liền đón lấy mà thả xuống sông. Có lúc mấy nhà cùng thỉnh Sư chứng trai trùng một ngày, mà mỗi nhà đều trông thấy Sư đến. Đến sau khi Sư thị tịch, lúc trà-tỳ, có con rắn lớn, men cây leo lên cành cao rồi lao mình vào trong lửa, tới khi lửa tắt, xá-lợi bay rải rác, hoặc theo gió động trên cỏ cây lăng xăng rơi xuống. Sư có lắm điều thần dị, ghi chép đầy đủ ở Biệt lục.

8. Truyện ngài Bổn Tịch ở Tào Sơn, thuộc Phủ Châu, thời Hậu Lương:

Thích Bổn Tịch, họ Hoàng, người ở xứ Bồ Điền, thuộc Tuyền Châu. Tại ấp Sư ở vào cuối đời Tiền Đường có nhiều y quan, các hàng sĩ tử ngụ ở, Nho phong hưng khởi gọi đó là “Tiểu Tắc Hạ”. Thuở thiếu thời, Sư nhiễm phong hóa xứ Lỗ, theo nhiều cường học, từ đó thuần túy bất động, đạo tánh thiên phát.

Năm mười chín tuổi, cha mẹ mới cho Sư xuất gia, Sư vào núi Vân Danh ở Phước Châu. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư thọ giới cụ túc. Mọi hành động cử chỉ của Sư đều như vị Tỳ-kheo lão túc. Vào đầu niên hiệu Hàm Thông (860) thời Tiền Đường, Thiền Tông hưng thạnh, phong khởi từ núi Đại Quy. Còn như Thạch Đầu; Dược Sơn danh tiếng đều lắng dừng, gặp Động Sơn thương vật cao hơn Thạch Đầu. Qua lại thưa hỏi ích lợi, học đồng với Thù Tứ. Sư ơ trong chúng như người Ngu, nói năng như người ngọng. Sau, được thỉnh đến trụ tại Tào Sơn, thuộc Lâm Xuyên. Người đến tham học thường đầy đường chật thất. Ngài đối đáp chẳng ngừng. Đặc biệt là tiêu chuẩn người học thiền, nên bày năm vị để đo lường khu vực, không đâu chẳng hết bờ mé. Sư lại chú đối thơ đối Hàn Sơn Tử, lưu hành trong chỗ trú ngụ. Bởi vì, Sư vốn có nghiệp tu cử rất giỏi. Văn từ rắn rỏi nhã lệ, gọi là “giàu có pháp tài”. Bỗng dưng, Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch tại núi, thọ sáu mươi hai tuổi, ba mươi bảy hạ lạp.

Đệ tử đón rước khám mà xây tháp thờ. Sau, Sa-môn Huyền Thái ở Nam Nhạc soạn bài minh tháp.

9. Truyện ngài Quế Sâm ở viện La-hán, thuộc Chương Châu, thời Hậu Lương:

Thích Quế Sâm, họ Lý, người ở xứ Thường Sơn, vừa mới tuổi nhi đồng mà dốc cầu lánh tục, ăn ngày một bữa, điều hòa hơi thở suốt ngày. Giữ tâm nên được bà con xóm làng mến phục, cha mẹ thương quý ràng buộc khó từ, quanh theo tình trói khó thoát. Đã ngoài hai mươi tuổi, Sư tiếp gót vượt thành, tìm thầy được đồng bạn mở Hổ, bèn kính thờ Đại sư Vô Tướng chùa Vạn Tuế ở bổn phủ.

Lúc mới thọ giới, Sư học luật, Sư vì chúng mà lên đài tuyên tụng giới bổn. Sẽ biết chỉ lớn, đâu bó buộc ở đạo nhỏ ư? Sư tự răn mình rằng:

“Trí phạn bó buộc thân chẳng phải giải thoát. Vậy, y văn mà hiển đâu phát Thánh ư?” Từ đó, Sư phát thệ họi đạo ở Nam Tông, lộ trình cả muôn dặm. Trước tiên, Ngài đến yết kiến ngài Vân Cư, kế đến hai hội Tuyết Phong, Huyền Sa, siêng năng tham phỏng, chỉ bởi nối duyên ở đó, Ngài được ngộ yếu chỉ ở Đại Sư Tông Nhất. Sáng tối, sắc không rỗng rang hết hoặc, Sư giữ mật hạnh nhiều năm, ở trong chúng nhưng ẩn dấu vết. Tuy ẩn che dạ quang mà vật báu trọn khác, nên được Cố Chương Mục Thái Nguyên Vương Công Thành thỉnh mời, Sư đến Thạch Sơn ở phía Tây Mân Thành, dựng lập liên cung mà dừng ở, Sư chống tích mười lăm năm, học chúng qua lại mấy trăm vị. Sư dùng Bí trọng Diệu Pháp, không xem thường việc chỉ bày đồ chúng. Lúc có người khẩn cầu mật học thì Sư giảng nói cho nghe. Sau, Long Khê Vi quân tốt, cần Châu Thái Bảo Lang Da Công Chí thỉnh Sư đến trú viện La-hán, tuyên giảng diệu cho đồ chúng nghe pháp. Từ chối chẳng được, Sư bèn mở phương tiện, chẳng mấy năm sau mà những người tham thiền ở Nam Bắc có điều nghi mà tìm đến nhiều chẳng thể tính xiết. Trong đó, các vị có góc đứng như Văn Ích ở Tào Sơn, thuộc Phủ Châu, Hưu Phục ở Đông Thiều, thuộc Giang Châu đều mở mang truyền bá diệu chỉ của Sư. Mỗi vị làm pháp nhãn của một phương, nhìn người con thì biết được cha!

Đến mùa thu năm Mậu tý (928), tức niên hiệu Thiên Thành thứ 3 thời Hậu Đường, Sư lại bảo trở về ở tại chỗ cũ Mân Thành, đến viếng thăm các chùa viện gần thành, rồi Sư thị hiện bị bệnh, vài ngày sau Sư an tọa thị tịch, thọ sáu mươi hai tuổi, bốn mươi hạ lạp. Sư căn dặn lại “chớ theo lễ nghi thế tục sắm quan làm mộ”. Khi đó, trà-tỳ ở sườn núi phía Đông của viện, Tây thành, thâu nhặt xá-lợi, xây tháp phụng thờ tại phía tây viện, đó là vâng theo di giáo. Đến niên hiệu Thanh Thái thứ 2 (93), ngày rằm tháng 12, người đắc pháp mật truyền của Sư là Đại sư Thần Yến, rất được dòng họ Vương kính trọng, dùng ngôn sự hiếp khiến bỏ Huyền sa mà nối pháp Tuyết Phong, đích thực là chẳng phát triển. Cuối cùng bởi vì Thần Yến gièm pha mà lăng lậu. Thật tiếc thay!

10. Truyện ngài Tuệ Lăng trụ viện Trường Khánh ở Phước Châu, thời Hậu Đường:

Thích Tuệ Lăng, họ Tôn, người ở xứ Hải Diêm, thuộc Hàng Châu. Lúc sanh Sư đã mang thai y mầu tím, ở tuổi bé thơ, Sư tài tuấn sáng suốt. Sau khi thọ giới cụ túc tại chùa Thông Huyền ở Ngô Uyển, nghe ở Phương Nam có thiền học, Sư bèn tìm đến Mân Lãnh tham yết Tuyết Phong, kề tai chỉ bảo, đốn rõ bổn tánh, Sư bèn nói kệ rằng:

“Ngày trước dối theo học giữa đường
Nay đây nhìn lại băng trong lửa”.

Như vậy, Sư gần gũi nương tựa suốt ba mươi năm chẳng xuống khỏi núi. Thầm trốn định nghiệp, khéo nhiếp sáu căn. Thứ Sử Tuyền Châu là Vương Diên Bân mời Sư đến trụ viện Chiếu Khánh, người tu thiền đua nhau nhóm họp, chỉ Ngu đến sau. Đến lúc Ngài trụ tại viện Trường Khánh ở phủ Trường Lạc, hơn hai mươi năm năm ra đời chẳng dưới một ngàn năm trăm chúng. Sư tánh tình từ nhẫn, chẳng dối hứa với người. Hay xét lại ba góc mới ấn khả.

Sư thị tịch ngày 17 tháng năm Nhâm thìn (932) tức niên hiệu Trường Hưng thứ 3, thọ bảy mươi chín tuổi, sáu mươi hạ lạp, Mân Quốc họ Vương riêng kính viếng suy tặng Sư thụy hiệu là “Siêu Giác Đại Sư”. Xây tháp, chi phí lễ tang đều xuất kinh phí của quan cúng dường. Chế Quan Lâm Văn Thạnh soạn văn bia ghi lại đức hạnh của.

11. Truyện ngài Đạo Phu trụ chùa Long Sách ở Hàng Châu, thời Hậu Đường:

Thích Đạo Phu, họ Trần, người ở xứ Vĩnh Gia. Mới đen tuổi tết tóc mà tánh Sư đã khác thường, ghét mùi máu huyết. Bà con có gượng ép thì chỉ ăn cá khô mà lại ưa nôn oẹ. Sư đến xin xuất gia tại chùa Khai Nguyên. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư vân du đến đất Mân và đất Sở, nói rằng đi tham vấn thiện tri thức, cần kíp quyết dứt cội nguồn sanh tử. Sư gặp được Tịch Công ở Tào Sơn, thuộc Lâm Xuyên, có nhiều người thưa hỏi như Đàm Tuân thưa hỏi Tăng Điều. Cuối cùng Sư dứt sạch nghi tình ở Tuyết Phong. Trong xứ Mân gọi Ngài là “Tiểu phu bố nạp”. Bấy giờ, Thái Nguyên đồng danh, niên lạp hẳn cao hơn, khi trở về đất Chiết trụ viện Giám Thanh ở Việt Châu. Khi đó, người sáng nghiệp bên ngoài là con của Nhật Hưu, từ học Hoằng Thiệm, tham cùng thấu suốt thiền môn, thường đến vặn hỏi, khi trở về nói với mọi người rằng: “Đạo của Phu công sùng luận hoành nghi chưa đến chỗ cùng cực”. Võ Túc Vương họ Tiền khâm phục kính mến ban thỉnh Sư ở chùa Thiên Long, nơi ở riêng của Đại sư Thuận Đức. Kế đến, Văn Mục Vương cũng họ Tiền xây dựng chùa Long Sách, thỉnh Sư đến ở đó. Và thiền học xứ Ngô Việt từ đó mà hưng thạnh.

Sư thị tịch vào tháng 8 năm Đinh Dậu (937) thuộc môn hiệu Thiên Phước, thời Hậu Đường, thọ bảy mươi tuổi. Trà-tỳ tại gò núi Đại Từ, thâu nhặt xá-lợi, xây tháp thờ ở trước núi Long Mục. Tăng Chủ Vựng

Chinh soạn bài minh tháp. Nay tại viện Xá-lợi, đệ tử chủ sự ở đó thay 8 nhau hương khói.

12. Truyện ngài Toàn Phó trụ viện Thanh hóa, ở Cối Kê thời Hậu Tấn:

Thích Toàn Phó, người ở xứ Côn Sơn, thuộc Quận Ngô. Thuở nhỏ theo cha đi buôn, đến Dư Khương, nghe thuyết thiền tịch, Sư bèn có chí nhàm chán thế tục, cầu xin xuất gia. Cha của Sư có vẻ buồn giận, khi cha hết giận, Sư lại cầu xin đến ba lần. Cha của Sư lấy làm lạ về sự chân thành đó, bèn cho phép. Sư liền tìm đến Đại sư Thanh Bình ở Giang Hạ. Ngài Thanh Bình hỏi: “Ông đến đây cầu cái gì?” Sư đáp: “Chí nguyện mong cầu pháp”. Ngài Thanh Bình thương Sư còn nhỏ mà có chí khí lớn nên vỗ về mà thâu nhận.

Ngài dậy sớm thức khuya, khác hẳn các trẻ nhỏ đồng bạn. Đến lúc lớn khôn, ngài Thanh Bình cho xuống tóc rồi đăng đàn thọ giới cụ túc. Ngài phụng thờ thầy càng kính cẩn, nghiệm xét tự thân càng chín chắn. Hỏi pháp không chán no nê, thấy tánh chẳng buộc ràng. Ngài Thanh Bình gật đầu chấp thuận. Một sáng nọ, Sư nói với mọi người: “Tôi nghe học thầy vô thường, tôi chẳng phải là dưa bầu, há hệ lụy ở đây mà bỏ trống nơi kia ư?” Sư bèn từ giã thầy, đi đến Nghi Xuân, tới Ngưỡng Sơn, đảnh lễ Nam Tháp thiền sư Dũng. Sư ứng đối ngữ ngôn, nhận biết sâu sắc về thế mạnh của Ngưỡng Sơn. Chóng tỏ rõ tâm ngay đó, ngài Ngưỡng Sơn nhoẻn cười mến quý, chăm chăm mến phục, giữ lấy nhiều năm lắng thần.

Sau, Sư đến Lô Lăng, Tể Dương Công ở huyện An Phước xây dựng thiền viện Ứng Quốc, thỉnh Sư ở đó, người tu thiền tìm đến đông chật Thất. Đến lúc Tể Dương Công bãi nhiệm, dân chúng trong làng lại đến núi Cáp Hồ lập viện, thỉnh Sư đến ở đó. Liêm Sử đề cử tấu trình, triều đình sắc ban danh hiệu là “Thanh Hóa Thiền Viện”, người tu thiền tìm đến thưa hỏi đông đầy chật cả tường vách, đều chẳng ngã khuất, đâu nhượng nhiều đối với tiền bối. Có vị tăng ở cùng quê nói với Sư rằng: “Làng quê của cha mẹ sao có thể bỏ vậy? Tùy duyên theo thời thế, xin thỉnh Sư trở về”. Sư bèn từ giả Cáp Hồ mà trở về quê cũ. Bấy giờ, Ngô Việt Văn Vương, họ Tiền bảo ban thăng cấp, ban tặng các thứ xiêm y, bình bát càng thêm lễ hậu.

Đến năm Đinh Dậu (937) Tiền Thành Nhung Tướng mở núi Vân Phong, xây dựng thiền viện Thanh Hóa, thỉnh Sư về ở đó. Tiếp theo, Trung Hiếu Vương họ Tiền, sai sứ mang y tía đến dâng tặng, Sư tấu chương nhiều lần từ chối, Trung Hiếu Vương lại ban tặng, Sư lại từ chối, bèn đổi lấy áo nạp. Sư nói: “Tôi chẳng vinh hạnh vì sự ban tặng đó mà trang sức, nên có khước từ. Sợ người đời sau bắt chước theo tôi mà khoe khoang ham muốn. Vua lại ban tặng Sư danh hiệu “Thuần Nhất Thiền Sư”. Sư lại cố từ chối.

Sư vốn chẳng vì tình mà quên tình cho nên tình chân thật, chẳng vì đạo mà cầu đạo nên đạo thẳng thắng. Điện Vũ phòng nhà nơi viện Sư ở, mọi người đua nhau xây dựng. Đúc Đại Hồng chung nặng hơn ngàn cân. Đề biển ngạch mới là: “thiền viện Vân Phong Thanh Hóa, đồng bạn mây nước đông đúc kéo đến quyện quanh chẳng muốn lìa bỏ.

Đến tháng 7 năm Đinh Mùi (97), niên hiệu Khai Vận thứ thời Hậu Tấn, Sư thị hiện bị bệnh, bảo với chúng rằng: “Sanh là pháp khởi, chết là pháp diệt. Khởi diệt chẳng thể dùng ngôn luận mà nói được!” Rồi Sư an nhiên thị tịch, có mưa lớn gió dữ chấn động gẫy đổ cả rừng cây, Sư thọ sáu mươi sáu tuổi, bốn mươi lăm hạ lạp. An táng tại gò ở phía bắc núi. Sư có tất cả hơn mười vị đệ tử như Ứng Thanh v.v…, vâng theo di huấn của Sư chẳng để đạo đó rơi rụng. Tăng chủ Vựng Chinh soạn bài minh tháp, xây dựng vào niên hiệu Kiến Long thứ 2 (961) thời Bắc Tống.

13. Truyện ngài Thiện Tĩnh trụ viện Vĩnh An ở Vĩnh Hưng thời Hậu Tấn:

Thích Thiện Tĩnh, họ Vương, người ở xứ Kim Thành, thuộc Trường An. Cha của Sư là Lãng Đường thứ sử Oai Châu, mẹ Sư họ Lý. Nhân mộng thấy Thánh Dung soi chiếu ngời sáng, từ đó bèn mang thai Sư. Đến lúc sanh ra Sư tướng mạo cao ráo, hầu như biết học thông rành các thứ ngữ ngôn. Nhân cầm sách trong tay tấu đến Thần Sách Quân, Trung úy vô cùng mến quý Sư. Sư chợt nhàm chán thế sự phù hoa, bèn trốn đến chùa Phong Đức ở Chung Nam, đảnh lễ Thiền sư Quảng Độ xin xuất gia, lúc đó Sư đã hai mươi bảy tuổi.

Sau khi xuống tóc, thọ giới cụ túc, vào hiệu Thiên Phục (901-90) thời Tiền Đường. Sư đến Lạc Phổ ở phương Nam, gặp được Pháp Duệ của thiền sư Nguyên An mới dung thông tâm yếu, trở lại phương Bắc giáo hóa đồ chúng ở quê nhà. Sư gài dựng am tranh tại núi Vân Cư ở Chung Nam. Tăng tục kéo về đông như chợ. Sư lại vân du đến Gia Ni, lễ bái thế giới Sắc bạc của Bồ-tát Khổ Hiền, rồi trở về Hưng Nguyên. Liên soái Vương Công Lễ Trọng lưu giữ Sư ở lại. Sau đó Sư lại trở về quê cũ, đều đã lìa xa! Lưu Thủ Vương Công xây dựng thiền viện Vĩnh An để Sư ở đó.

Đến mùa Đông năm Bính Ngọ (96) thuộc niên hiệu Khai Vận thời Hậu Tấn, Sư đánh kiền-chùy nhóm chúng, dặn dò mọi việc rồi trở về phương trượng, xoay mặt về hướng Đông, nằm nghiêng bên hông hữu mà thị tịch, thọ tám mươi chín tuổi, sáu mươi hạ lạp. Đồ chúng tăng tục như chịu tang cha mình vậy, qua ngày mồng 8 tháng giêng năm sau (97), trà-tỳ tại phía Nam thành, thâu nhặt được vài ngàn viên xá-lợi. Đến ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Tuất (90), tức niên hiệu Càn Hựu thứ 3, thời Hậu Hán, dời tháp đến làng Nghĩa Dương, thuộc Trường An, tháp đá cao sừng sững.

Trước kia, Sư dẫn nhiều vị Tiên giác đến Oanh đạo lánh mông trần của Chiêu Tông. Lại lúc bình thuường, khi tắm gội, Sư xá-lợi rơi rớt Sư đều lượm nhặt lại kín không cho đệ tử chỉ bày với mọi người. Lại những lúc Sư thiền tịch, ở ngoài cửa sổ tự nhiên có con hạc trắng đến quanh quẩn giữa sân, như có ý muốn nghe pháp, Sư bảo người đuổi nó đi. Tất cả những điều hiển bày đặc biệt có mà chẳng có. Tấn Xướng Quân Phủ Chúa Quách Công rất kính ngưỡng sùng tín, xây dựng thiền viện thỉnh Sư ở. Hàn Lâm học sĩ Ngư Sùng Lượng soạn bài minh trên tháp, ghi lại đức hạnh của Sư.

Kế nữa, có ngài Thích Linh Chiếu trụ chùa Long Hoa ở Hàng Châu. Sư vốn là người nước Cao-Ly, xem trọng việc dịch mà lại học Tổ Pháp, lại vào đất Mân Việt, đắc tâm ấn với Tuyết Phong, Sư dốc chí tham bồi để tiết kiệm, siêng năng mọi việc trong chúng, hiệu là “Chiếu Bố Nạp”. Cả ngàn chúng đều sợ phục, mà Sư nói rằng tợ như lội qua Đảo Di, cá tánh đặc biệt điềm đạm tự giữ. Ban đầu, Sư trú ở núi Tề Vân, kế đến Sư trụ tại viện Giáp Thanh, Việt Châu, thường chỉ đối phó với sứ Bỉ Quang Nghiệp, lời nói chẳng hợp nhau, Bị đề cử tẫn xuất đến Long Hưng. Đến lúc Thái Thú Hồ Châu là Tiền Công xây dựng viện Bảo Từ, thỉnh Sư đến ở đó. Thiền chúng tụ như nhóm họp hội. Chư tăng trong Ngô Hội, hạng người xả bỏ ba y mà mặc Ngũ Nạp nhiều không thể kể xiết. Trung Hiếu Vương, họ Tiền xây chùa Long Hoa, đón rước Kim Hoa, linh cốt đạo cụ của đại sĩ Phó Hấp đời Lương tôn trí tại chùa đó, xây tháp, thỉnh Sư trụ trì. Sư thị tịch tại chùa đó, nhập tháp tại đỉnh núi Đại Từ.

14. Truyện ngài Văn Ích Viện Thanh Lương ở Kim Lăng thời Hậu Chu:

Thích Văn Ích, họ Lỗ, người ở xứ Dư Hàng. Năm bảy tuổi, đã phát chí xuất tục, xuống tóc xuất gia tại viện Trí Thông, ở Tân Định, Sư nương tựa ngài Thiền Bá, ở Toàn Vĩ. Năm hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc tại chùa Khai Nguyên ở Việt Châu, bấy giờ, rời tục lụy để đắp y, rời phần lũng đến Kiểu Dục. Thuộc luật tượng ở Đại sư Hy Giác, đang thạnh hành hoằng hóa Đồ chúng tại chùa Dục Vương, ở Mậu Sơn. Ngài rất được chỉ thú trì phạm, lại đến trường của Văn Nhã. Ngài Hy Giác hứa ban làm đệ tử, sau đó Huyền vừa phát thì mọi việc đều dứt.

Ngài chống tích đến phương Nam, dừng ở pháp hội của Thiền sư Trường Khánh. Đã dứt sạch nghi trệ, Sư lại ước hẹn cùng bạn đi về phía Tây đến Hồ Tương. Ngày đổ mưa bão chẳng thể đi, Ngài tạm vọng trông về Tây viện, gởi đạt tín tức, lánh hoạn khê trướng. Bèn tham yết Đại sư Tuyên Pháp, từng trụ tại viện La-hán ở Chương Bồ. Người dân xứ Mân chỉ gọi là La-hán. La-hán vốn biết Sư đang ở tại Dĩnh thoát thuộc Trường Khánh, duệ ý tiếp nhận. Nguyên do xướng đạo từ Huyền sa và Tuyết Phong, huyết mạch khác nhau. Núi nghi của Sư đốn bẻ gãy đường chánh từ đây được, mừng rỡ mà treo đãy dừng ở. Biến bùn đất thoa vết trở lại xác thực chẳng phát triển. Ngài lại du phương đến Lâm Xuyên Bang Bá bảo mời Sư ở tại Sùng Thọ. Chư tăng khắp bốn phương xa gần đến tham cầu Sư chẳng dưới ngàn vị. Giang Nam Quốc chúc Lý Thị Thỉ Tổ, biết kính trọng đón rước Sư đến ở thiền viện Báo Ân; biệt thự hiệu là “Tịnh Tuệ”. Sau đó, lời thâm huyền sắp dứt, mộng lớn ai tỉnh. Đã truyền pháp mà có chỗ về, cũng đồng với phàm phu mà thị hiện diệt độ.

Đến ngày 17 tháng 7 năm Mậu ngọ (98) tức niên hiệu Hiển Đức thứ thời Hậu Chu, Sư thị hiện bị bệnh, Quốc chúa vội đến phương trượng thăm hỏi bệnh Sư. Qua ngày mồng tháng 7 nhuận, Sư cạo tóc tắm gội, giã biệt đại chúng, ngồi kiết già mà thị tịch, nhan sắc vẫn như còn sống. Sư thọ bảy mươi bốn tuổi, năm mươi lăm hạ lạp. Thụy hiệu riêng là “Đại Pháp Nhãn”, tháp hiệu là “Vô Tướng”. Khiến các chùa chư tăng dưới thành đều đủ lễ uy nghi đón rước, đón rước toàn thân Sư đến làng Đơn Dương, ở huyện Giang Ninh, xây tháp thờ.

Sư giỏi làm văn, đặc biệt mến mộ thể của Chi Thang. Bấy giờ làm kệ tụng chân tán, Biệt hình toản lục, đệ tử nối pháp của Sư có các vị như Đức Thiều, Tuệ Minh ở Thiên Thai, Trí Y, Đồng sơn, Đạo Khâm ở Chương Châu, Quang Dật ở Mân Châu, Văn Toại ở Cát Châu, Hậu Chủ ở Giang Nam, soạn văn bia khen ngợi đức hạnh Sư, Hàn Hy soạn bài minh ở tháp v.v…

15. Truyện ngài Hạnh Nhân trụ trên đỉnh núi Phật Thủ ở Lô Sơn, thời Hậu Chu:

Thích Hạnh Nhân, không rõ Sư họ gì, người ở Nhạn Môn. Sư du phương hỏi đạo, đến Giang Hoài thấy phía bắc Lô Sơn có đỉnh núi đứng xa trông giống như duỗi tay. Dưới tay thì sâu thẳm đến ba, hoặc năm trượng. Nhân đó, một mình Sư vào trong đó dừng ở mà Thiền Quán. Ngụy Đường chúa Nguyên Tông nghe thế, ba lần thỉnh Sư chẳng ra. Đêm khuya trong hang núi, có con nai lạ đến nằm bên cạnh hang đá của Sư. Lại có con chim Cẩm… phủ phục dưới vách đá, hai con đều không sợ hãi. Sư chẳng độ đệ tử, có vị tăng ở gần am đến cúng dường hầu hạ. Một hôm, bị bệnh nhẹ, Sư nói vị Tăng hầu Sư rằng: “Quấn rèm lên, tôi đi đây. Rèm vừa quấn tới móc, Sư bước xuống giường đi vài bước rồi đứng thẳng thị tịch, thọ bảy mươi tuổi. Vua Nguyên Tông bảo thợ đắp họa chân tượng Sư. Và Trà-tỳ, thâu nhặt hài cốt, xây tháp trắng tại lưng chừng núi để thờ.

Ban đầu, Sư truyền thiền pháp tại Lộc Sơn, thuộc Tương Dương. Sau đó vì vua Nguyên Tông cố thỉnh Sư đến trụ chùa Thê Hiền, xây giảng đường giảng đạo. Khi chiều tối trăng lặn Sư trở về hang núi. Ban đầu tại đỉnh núi đó như năm ngón tay, trên ngón giữa có một gốc thông. Ngày Sư thị tịch, gốc thông đó cũng khô chết, Sư có học kinh sách, có người hỏi thỉ chỉ trích chỗ được mất, chương cú đúng sai của các vị Tiên Nho, đàm luận chẳng dính mắc bởi phương góc, mở bày dẫn dụ, hẳn hợp với giáo hóa, Sư thật là bậc lương sĩ đắc đạo!

Liên hệ thử bàn:

Phàm phu xả bỏ báo thân thì giống nhau, Phật thì nằm nghiêng phía hông hữu, các bậc chứng đắc quả vị thì ngồi mà thị tịch, hoặc chống đầu xuống đất hiện thần thông, thân đứng hiện bày khác lạ. Ở đây chỉ có Sư đi bộ mà thị tịch, trừ ngài Tăng Hội ra thì chỉ có một mình ngài Hạnh Nhân.

Kế nữa, có ngài Thích Đạo Tiềm trụ chùa Tuệ Nhật ở Vĩnh Minh, đời Tiền Đường. Sư họ Võ, người xứ Bồ Tân. Vừa mới sanh mà Sư lớn mạnh, dáng dấp đoan nhã. Đứng thì thân cao bảy thước, trước ngực có bảy chấm đen như bảy sao Bắc đẩu.

Sư vào núi Trung Điều, dừng ở tại Thiền viện Đại thông trên đỉnh núi, lễ bái Thiền sư Chân Tịch làm Thân giáo. Răn kiểm nghiêm minh, nói năng chậm chạp, làm việc nhanh nhẹn. Sau khi ngài Chân Tịch thị tịch, Sư phát nguyện đến núi Ngũ Đài ở Nhạn Môn. Do tinh cần kính ngưỡng, mà Sư đích thân thấy được thánh dung đức Văn-thù. Sau đó, các phương chưa định đi về đâu, Sư đến chưa tới Lâm Xuyên, gặp được Thiền sư Văn Ích ở chùa Sùng Thọ, mà chóng tỏ được tâm quyết. Kế đến, Sư dừng ở tại một ngôi chùa xưa ở Cù Châu, xem đọc kinh tạng, thường trong lúc ngồi thiền thấy được Đức Văn-thù hiện hình, bất chợt, Sư đứng dậy đảnh lễ. Đến lúc Sư tới Hàng Châu, lễ bái tháp vua Adục, Sư quỳ mà đảnh đội dòng lệ tuôn như mưa, Sư hỏi vị tăng giữ tháp rằng: “Xá-lợi là vật báu, mắt người không trông thấy, vậy thật có hay không?” Vị tăng đó đáp: “Căn cứ theo truyện ghi rằng: “Xá-lợi ẩn táng ở góc phía trong, trông như huyền chung”. Sư nghi ngờ chưa thôi, bèn khổ chí quỳ lễ không hề ngừng nghỉ. Bỗng chốc trông thấy xá-lợi sắc hồng ở ngoài huyền chung ngọ ngoạy mà đi. Khi đó, Sư mừng buồn lẫn lộn. Lại có Đại sư Quang Văn Vựng Chinh hẳn bằng trọng tự làm Đàn Việt, thỉnh Sư đến núi thiết trai, hành trì sám pháp Phổ Hiền suốt mười một ngày. Bỗng thấy khắp nơi tốt lành, voi ngựa, tại tháp, dưới đình Tam môn, của chùa. Con voi đó đưa mũi gối thẳng đến chỗ lễ sám. Hán Nam Quốc Vương họ Tiền thỉnh Sư vào vương phủ để cầu thọ giới Bồtát, xây dựng đại già-lam, đề hiệu là “Tuệ Nhật Vĩnh Minh”, thỉnh Sư ở đó, giả hiệu là “Từ Hóa Định Tuệ Thiền Sư”, riêng cấp nguyệt bỗng để cúng thí, lại thêm ưu lễ.

Đến ngày 18 tháng 9 năm Tân Dậu (961) tức niên hiệu Kiến Long thứ 2 thời Bắc tống, Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch. Lúc nhập quan có luồng ánh sáng mầu trắng họa phát chữ “bột” (sao chổi) sáng rực. Cả chúng đều trông thấy, đến tháng 10, cử hành lễ trà-tỳ tại núi Long Tỉnh, thâu nhặt được nhiều viên xá-lợi. Có người làm nghề giết mổ, chỉ chuyên nghiệp ác, mở vạt áo đến bên đống lửa cầu xin, trong phút chốc có được bảy viên, cả nhà mang đến in họ trong tháp. Đến năm Canh ngọ (970) thuộc niên hiệu Khai Bảo, thời Bắc Tống, Thiền sư Thiều ở Thiên Thai xây dựng tháp đá, lấp bít chân cốt Sư, tới năm Quý Dậu (973), trên đảnh tháo phát ra luồng ánh sáng mầu trắng.

16. Truyện ngài Duyên Đức viện Viên Thông ở Lô Sơn, thời Bắc Tống:

Thích Duyên Đức, họ Hoàng, người ở xứ Tiền Đường. Cha của Sư là siêu, tu nho học nhưng phát triển nghề vẽ họa, truyền cho Chu Phường, Phật phấn bổn, thọ bút pháp ở Ngô Hưng Lý Chiểu Trường Sử.

Thuở tuổi còn bé mà Sư đã có chí muốn xuất gia, tâm tánh cô tịch má ít hợp, Sư bèn sang Thiên Thai thọ giới cụ túc, tập học Thiền Quán ở Thiền sư Đạo Phu tại chùa Thiên Long. Sau đó, Sư đến Giang Tây hỏi đạo, từ núi Vân Cư sang Lô phụ, cô tiết cao ngạo thật chẳng thấy có chỗ đáng ưa thích. Giang Nam Quốc Chủ – họ Lý – mời Sư vào Nội đạo tràng để ở. Lo ngại Sư chẳng thích ồn náo, nên xây riêng viện La-hán để Sư ở. Sư khổ cầu vào núi. Nên thỉnh Sự trụ tại Tân Viện ở Lô Sơn, mới liệt bày oai nghi dẫn đạo. Sư chuẩn bị sửa sang y phục mang vác mà vào. Nhưng sau đó, Sư lên tòa đối đáp mọi người đến thưa hỏi. Quốc chủ ban tặng mọi thứ mà Sư không hề dùng Biểu Điệp đáp tạ. Có Quốc Lão Tống Tề Khâu kính lễ theo đạo thờ thầy.

Ngài thị tịch vào niên hiệu Khai Bảo (968-976) tại viện ở núi. Một đời Sư mặc dùng thục vi khố miệt mà thôi. Hành đỗ nhiều pháp, cung cấp đầy đủ cho các Thiền lữ, nhà trù kho lẫm chẳng hề thiếu thốn. Có ngươi cho rằng Sư có “thuật Hoàng Bạch”.

17. Truyện ngài Đức Thiều ở núi Thiên Thai, thời Bắc Tống:

Thích Đức Thiều, họ Trần, người ở xứ Tấn Vân. Ngài xuất gia từ thuở nhỏ tại bổn quận. Sau khi đăng đàn thọ giới cụ túc, vào niên hiệu Đồng Quang Sư tìm phỏng các danh sơn, tham kiến thiện tri thức. Quật chỉ chẳng hơn được số, ban đầu, Sư phát tâm đến Hòa-thượng ở núi Đầu Tử, sau tham kiến Thiền sư Pháp Nhãn ở Lâm Xuyên, liễu ngộ tâm yếu, Sư bèn nối pháp như vậy.

Ban đầu, mới vào núi Thiên Thai, dựng lập chùa viện đạo tràng, không bao lâu, Sư liền hưng phát đạo pháp Huyền Sa. Người đến quy y rất đông. Hán Nam Quốc Vương, họ Tiền, từng trị vị tại Đan Khâu, Sư có sự thấy biết trước rõ ràng, nói rằng: “Ngày sau làm Quốc Vương, sẽ làm hưng thịnh Phật pháp”. Lời Sư nói thật đáng tin cậy, sai sứ vào núi Bàng ngọ, sau đặt hiệu “Đại Thiền Sư”, mỗi lúc Sư nói gì thảy đều phù hợp. Tiết Sứ Tô Châu là Tiền Nhân Phụng bị bệnh, sai người mang hương đèn sang cầu nguyện. Sư đề sớ rằng: “Lệnh công tám mươi mốt, Nhân Phụng được như thế”. Tiền Nhân Phụng rất vui mừng nói: “Tôi thọ tám mươi mốt tuổi!” Đến ngày 11 tháng 8 năm đó thì qua đời. Sư có nhiều việc đồng loại như thế. Trước lúc Sư thị tịch, đá trên ngọn Hoa đảnh sụp đổ rung chuyển cả trăm dặm, từ núi cho đến đồng hoang đều bị đốt cháy tràn lan, quả thật ứng điềm Sư thị tịch! Sau khi trà-tỳ, thâu nhặt xá-lợi, xây dựng nhiều ngôi tháp. Ban mời Đồ Tăng Chánh Tán Minh làm văn bia ở tháp. Sư hưởng thọ tám mươi hai tuổi, sáu mươi bốn hạ lạp. Sư thị tịch, ngày 28 tháng 6 năm Nhâm thân (972) tức niên hiệu Khai Bảo thứ , thời Bắc Tống. Có Ngữ lục lưu hành ở đời. Ngài có đệ tử truyền pháp đến trăm vị. Sư lại hưng khởi Đạo tràng Trí giả mấy mươi chỗ. Sư công thành mà chẳng hể, tâm địa thẳng ngay, thuật số rất tinh thông, lợi người là trên cả. Đến nay, tại Giang Triết gọi Sư là “Đại Hòa-thượng”.

Thử luận bàn:

“Thiên-Na” là tiếng Phạn, Hán dịch là Niệm Tu. Vì, Xúc tình niệm mà vô niệm, suốt ngày tu mà vô tu. Còn gọi là Chánh Định, hay Chánh Thọ. Chánh thì hoát nhiên thầm lặng mà định. Chánh thọ là phân biệt với tà tư duy tăng thêm Biến Kế. Do đó, xa¬-ma-tha có nghĩa là Tịch tĩnh, tam-Ma-Đề nghĩa là Quán như Huyễn. Còn Thiền-Na đều lìa Tĩnh huyễn. Mới gọi là Bồ-tát chẳng trú bờ này, chẳng trú bờ kia mà độ chúng sanh khiến lên bờ kia. Nếu vậy thì trú xứ của các Thánh tức như thế, còn các Thánh Độ sanh thì như thế nào?

Xét kỹ, pháp diễn ở Hán Đình danh từ cực chứng không chấp đắm, phong hành Lô phụ, môn học Thiền-na mới manh nha. Phật-Đàthập ở đời Tần tẫn xuất mà đến, Bát-Nhã-Đa đời Tấn mời mà đến. Bấy giờ, Viễn Công mật truyền tọa pháp xoáy sâu huyền cơ, dần nhiễm thì hạnh thí trái noi theo. Ngài Tăng Hội thời Ngô cũng chỉ bày hữu duyên, đều chưa rõ ràng, thiết lập nhiều ẩn mật. Đến thời Tuệ Văn Đại Sĩ mới tầm tông của Long Thọ, Tư Đại Thiền Ông truyền diệu chỉ ba Quán. Thiên thai Trí giả dẫn mà trình bày, hoằng hóa khai đạo ở đời Trần, đời Tùy, gọi là “Chỉ Quán”, ở đất Việt có Trung Thiên Đạt-ma. Buồn thay! Chúng sanh chúng ta biết kinh điển mở mang truyền bá mà đắm chìm nơi danh tướng. Chỉ nhận ngón tay, quên bặt ánh trăng. Đã được cá lại giữ lấy nôm. Chỉ giữ gìn niệm tụng lấy đó làm công phu, chẳng tin chính mình là Phật. Vì vậy mà xướng lời rằng: “Ta chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, chẳng lập văn tự”. Đó là nương phương tiện Ba-la-mật qua thẳng mà độ khỏi xa vời. Than ôi! Kinh có Điển Chỉ, Điển Chỉ thì tiệm tu. Còn thấy tánh thành Phật tức đốn ngộ tự tâm xưa nay thanh tịnh, vốn không phiền não. Trí tánh vô lậu, vốn tự đầy đủ. Tâm này tức là Phật, hoàn toàn không có gì khác. Tu chứng như thế tức là tối thượng thừa thiền. Nói “không lập văn tự” tức trong kinh nói rằng: “Chẳng chấp trước Văn tự, chẳng lìa văn tự, mà chẳng phải không có văn tự, nếu tu được như thế tức là chẳng thấy tướng tu.

Kế nữa, Tổ Sư Đạt-ma lập pháp yếu chỉ có hai thứ, đó là “Lý” và “Hạnh”. Thế thì thắng mà chẳng xa, nhanh mà chẳng vội. Nói chẳng lập văn tự tức trái với duyên để hợp với đạo. Thời bấy giờ, vua Võ Đế nhà Lương chẳng biết, còn người đất Ngụy chưa tin trọng, nên Tổ Sư Đạt-ma thẳng đến Thiếu Lâm ngồi xoay mặt vào vách. Chỉ có ngài Tuệ

Khả dùng thần giao, cũng như Bạch Tuyết tuy Ca-Ba Đồng ít hòa, sau thì con cháu Lâm thông Mục Ngữ, cuối cùng gọi đó là Cương Tần lánh địch. Kỳ Bân văn võ mới thành Vương Đạo. Ngài Tuệ Khả xuất sanh ra Tăng, ngài Tăng lại xuất sanh ra Đạo Tín, ngài Đạo Tín lại xuất sanh chia thành hai nhánh, đó là Hoằng Nhẫn và Pháp Dung. Ngài Pháp Dung ở Ngưu Đầu. Còn ngài Hoằng Nhẫn thì xuất sanh ra Thần Tú và Tuệ Năng. Ngài Tuệ Năng được truyền tín y, như chư hầu giao phó phần khí cho con cháu. Sau đó tông này thành vượt, như đoàn xe trăm cổ, Cây Ni-Câu-Đà xoay vần mà rũ cành rưới mưa muôn phương, rồng hồ A-nậu mà ban rải khắp nhuần. Bấy giờ, ứng vào Huyền ký mà thuộc người nầy. Về sau, số người đắc đạo nhiều không thể kể xiết. Lại nói rằng: “Thiền là vật vì nó lớn ư! Các Đức Phật được nó mà chứng Đẳng Giác, Diệu Giác. Rồng coi được nó mà phá chướng triền do cửa nhanh vội không gì hơn đây.

Nên nay, ở trong thời tượng pháp mạt pháp, đấu tranh lại sanh khởi. Chân thầy đã bị thương, mà sự tranh giành chưa thôi! Nếu như nghe “Tâm này là Phật”, thì liền nói: “sao ba mươi hai tướng tốt không có?” Hoặc nghe “Một con đường Niết-bàn” thì liền bảo: “Tám mươi muôn pháp môn ở đâu?” Mà chẳng hề biết trong kinh nói phát tâm Bồ đề tức là thấy được Phật tánh nầy. Thế nào là tu hạnh Bồ-tát? Đây là hành bố tu hành. Vì đức tin không bằng với sự vô minh che mờ khuất lấp chìm đắm quên trở về. Sao lại do nghiệp. Hoặc có người nêu trong kinh để chỉ bày đó, thì nên đáp rằng: “Đây là tông Pháp Tánh”. Hoặc cho đó là: “Chẳng phải ma nói, thì có thể thiêu hủy đó chăng?” Hãy để yên chớ luận bàn. Nếu muốn bỏ, hoặc muốn giữ lại, chẳng vì thế mà mê lầm. Xưa kia, các bộ ở nước Vu-Điền cho rằng: “kinh Đạo Hạnh” là sách của Bà-la-môn. Ô-trà Tiểu thừa phỉ báng học Đại thừa là Không hoa ngoại đạo. Ở Tây Vực còn như vậy, tại đây sao chẳng kinh hãi ư? Chỉ bởi sáu đời Tông Sư một thời nên xướng, chỉ phá bóng tối trăm năm. Chẳng xây một ngôi nhà đến lúc hủy nát thì rất không biết thiền có lý, thiền có hạnh. Thoát hoặc giới thừa đều gấp. Mắt và chân nương giúp nhau, hchẳng phế bỏ mà Lý càng sáng tỏ, pháp không thiên lệch mà công đức gồm cứu giúp. Sau đó mới có thể cùng nhau nói thiền.

Như Huyền học, thường bài xích giảng gia, người chỉ biết đếm của báu cho người mà trọn đời khốn khổ bởi trong nhà thường trống không! Sao chẳng thấy kinh là lời Phật, Thiền là ý Phật. Tâm và miệng các Đức Phật nhất định chẳng trái nhau, thi thiết thì tùy căn cơ mà dụng hẳn có thời gian và nơi chốn. Huống gì sông kinh Cao Quốc ghi tên đó, biển luận tổng triều hội của Tông. Một môn luật học khuôn phép cả ngàn đường, trao hình đều dựng lập nền tảng của Thích tử, xướng tùy hạnh nghiệp thanh tịnh của Sa-môn. Nếu như mất cả ba sự thì đâu thể cỡi Nhất thừa. Trọn đời ôm lấy mà chẳng đáng xấu hổ. Đâu trái với địa vị chuyển y. Người thông chẳng trách, trẻ nhỏ sao biết. Trong môn Phật sự chẳng bỏ một pháp. Tiếng chó sủa đáng trách đổi giận tổn thương người, do đập chuột mà làm vỡ chén bát, bởi căn nhau mà cắn chủ. Tự tha đều có, Bỉ Ngã thảy quân bình. Ngang dọc hết mà thành nhất Tần. Khí tể hòa mà thành một vị.

Nay đây, từ niên hiệu Trinh Quán, đời Tiền Đường, cho đến đời Bắc Tống đây, đối với chọn núi lộ bày Tu-di mà xuất hin biển cả. Đối với lông lại tìm lông phóng thả chim đại bàng bay nhảy giữa hư không, khiến mọi hạng người phá xích và kính ngưỡng đều kính mến đạo bền chắc cao cả này. Tôi luống thông đạt vô tướng đạt luân, thí như văn võ là tài nghệ của một người, nếu không kiêm gồm để hỗ tương thì chẳng thể phá xích. Nếu cùng suy trọng Phật pháp thêm ngời sáng, thì đền trả được ân của quân vương độ mình, và báo đáp đức Phật là bậc thầy chỉ dạy. Cẩn trọng thay! Cẩn trọng thay!

TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

(Quyển 13 hết)