THÍCH TỊNH ĐỘ
QUẦN NGHI LUẬN

(Giải Thích Những Nghi Vấn Tịnh Độ)
Pháp sư Hoài Cảm soạn
Thích Pháp Chánh dịch

 

Phần VI: Hội thông kinh điển để đả phá những giải thích sai lầm.

1. Ngũ nghịch báng pháp được tiếp dẫn hay không.
a. Giải thích của mười lăm nhà chú giải.

Hỏi: Như lời nguyện thứ 18 trong Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Khi tôi thành Phật, chúng sanh mười phương, chí tâm tin ưa, muốn sanh về cõi nước tôi, nếu niệm ít nhất là mười danh hiệu của tôi mà không được vãng sanh, tôi thề không giữ ngôi Chánh Giác, ngoại trừ những kẻ phạm năm tội nghịch và phỉ báng Chánh pháp.” Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Hoặc có chúng sanh tạo tội ngũ nghịch thập ác, làm đủ các việc chẳng lành; kẻ ngu ấy do nghiệp ác đáng lẽ phải bị đọa vào ác đạo, trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô cùng… Thiện tri thức dùng nhiều cách an ủi, nói phép mầu cho nghe, lại dạy quán tưởng niệm Phật. Người đó tuy nghe lời dạy, nhưng vì sự khổ bức bách, không thể yên tâm quán tưởng Đức Vô Lượng Thọ Như Lai. Thấy thế, thiện hữu lại bảo: ‘Nếu ông không thể tưởng Đức Phật kia, thì nên chí thành xưng niệm: ‘Nam Mô A Di Đà Phật’, niệm liên tục cho đủ mười niệm.’’ Hành giả vâng lời xưng danh hiệu Phật, trong mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Khi mạng chung, người ấy thấy hoa sen vàng rực rỡ như vầng nhật hiện ra trước mặt. Trong khoảng khảy ngón tay, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc.” Tại sao hai kinh đều đề cập đến việc phạm năm tội nghịch và việc niệm Phật mười niệm được vãng sanh, mà một bên cho người phạm năm tội nghịch vãng sanh, một bên thì không cho. Đây là ý gì? (44)

Đáp: Các vị cổ đức xưa nay đối với việc này có mười lăm cách giải thích khác nhau: (1) Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho phép vãng sanh là người đã sám hối, Kinh Vô Lượng Thọ không cho phép vãng sanh là người chưa sám hối. (2) Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho phép vãng sanh là người phạm tội nghịch với tâm nhẹ, Kinh Vô Lượng Thọ không cho phép vãng sanh là người phạm tội nghịch với tâm nặng. (3) Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho phép vãng sanh là những người chỉ phạm tội nghịch, Kinh Vô Lượng Thọ không cho phép vãng sanh là những người phạm tội nghịch và phỉ báng Chánh pháp. (4) Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho phép vãng sanh là người phạm tội nghịch tương tự, Kinh Vô Lượng Thọ không cho phép vãng sanh là những người phạm tội nghịch chánh thức. (5) Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho phép vãng sanh là những người đã phát tâm Bồ đề, Kinh Vô Lượng Thọ không cho phép vãng sanh là những người chưa phát tâm Bồ đề. (6) Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho phép vãng sanh là những người niệm danh hiệu Phật A Di Đà chí thành, Kinh Vô Lượng Thọ không cho phép vãng sanh là những người niệm danh hiệu Phật A Di Đà không chí thành. (7) Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho phép vãng sanh là những Bồ tát Thập tín, Kinh Vô Lượng Thọ không cho phép vãng sanh là những người chưa phải Bồ tát Thập tín. (8) Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho phép vãng sanh là những hành giả không phải Nhất xiển đề,

Kinh Vô Lượng Thọ không cho phép vãng sanh là những Nhất xiển đề. (9) Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho phép vãng sanh là những người đã phạm tội nghịch, Kinh Vô Lượng Thọ không cho phép vãng sanh là những người chưa phạm tội nghịch 1. (10) Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho phép những người phạm tội nghịch vãng sanh là “khai môn”, Kinh Vô Lượng Thọ không cho phép những người phạm tội nghịch vãng sanh là “giá môn.”2 (11) Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho phép những người phạm tội nghịch vãng sanh là dựa trên nguyên tắc “nghiệp ngũ nghịch là bất định nghiệp”, Kinh Vô Lượng Thọ không cho phép những người phạm tội nghịch vãng sanh là dựa trên nguyên tắc “nghiệp ngũ nghịch là định nghiệp.” (12) Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho phép những người tạo tội nghịch vãng sanh là những người đã chứng giai vị noãn, đảnh, Kinh Vô Lượng Thọ không cho phép những người phạm tội nghịch vãng sanh là những người chưa chứng giai vị noãn, đảnh. (13) Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho phép những người phạm tội nghịch vãng sanh là những người đã trồng thiện căn giải thoát, Kinh Vô Lượng Thọ không cho phép những người phạm tội nghịch vãng sanh là những người chưa trồng thiện căn giải thoát. (14) Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho phép những người phạm tội nghịch vãng sanh là những người giai đoạn hai, Kinh Vô Lượng Thọ không cho phép những người phạm tội nghịch vãng sanh là những người giai đoạn ba. (15) Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho phép những người phạm tội nghịch vãng sanh là những người niệm đủ mười niệm, Kinh Vô Lượng Thọ không cho phép những người phạm tội nghịch vãng sanh là nói chung cho những người niệm đủ hoặc không niệm đủ mười niệm.

b. Bài xích sự sai lầm, hiển bày ý nghĩa của định.

Hỏi: Mười lăm loại giải thích trên đều đúng hết, hay cũng có giải thích sai? (45)

Đáp: Các nhà chú giải đều có cách giải thích riêng, không thể nói có sự hơn kém. Như trong cách giải thích thứ nhất cho rằng những hành giả vãng sanh là những người đã sám hối, còn những hành giả không vãng sanh là những người chưa sám hối. Cách giải thích này chứng tỏ nhà chú giải chưa biết rõ niệm Phật có công năng diệt tội hay không. Nếu niệm Phật không thể diệt tội, tại sao Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói rằng mỗi niệm Phật diệt trừ tám mươi ức kiếp tội nặng sanh tử. Nếu niệm Phật đã diệt trừ tội chướng, thì lý do gì lại cho rằng chưa sám hối thì không được vãng sanh! Lại như Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho phép những người phạm tội nghịch vãng sanh, chưa thấy chỗ nào đề cập đến sám hối. Cách giải thích này cũng như mười bốn cách giải thích bên dưới, tất cả đều không nêu rõ được toàn diện bổn ý của kinh. Bổn ý của Kinh Quán Vô Lượng Thọ là khi cho phép những người phạm tội nghịch vãng sanh, đã nói “niệm đủ mười niệm liền được vãng sanh.” Còn Kinh Vô Lượng Thọ lúc không cho phép người phạm tội nghịch vãng sanh đã nói: “cho đến đầy đủ mười niệm.” Hai kinh đã nói: “cho đến đầy đủ mười niệm”, thì cần gì những cách giải thích khác! Như trong phần hạ phẩm thượng sanh, hạ phẩm trung sanh, khi bảo hành giả niệm Phật, đã không đề cập đến “đầy đủ mười niệm.” Niệm một niệm trở lên đều được vãng sanh, bởi vì những hành giả này tội còn tương đối ít, cho nên không cần phải niệm đủ mười niệm. Còn hạ phẩm hạ sanh, vì hành giả phạm tội nghịch cho nên nói phải niệm đủ mười niệm mới sanh Tịnh độ. Ý của kinh muốn nói nếu không phạm tội nghịch, bất luận niệm nhiều ít, một tiếng mười tiếng, đều được vãng sanh; còn nếu phạm tội nghịch thì phải niệm đủ mười tiếng mới được vãng sanh, thiếu một tiếng cũng không được vãng sanh, cho nên mới nói: “ngọai trừ.” Điều này không liên hệ gì với các cách giải thích khác nhau của các bậc cổ đức.

c. Đả phá thiền sư Tín Hành.

Hỏi: Các nhà chú giải khác có thể hiểu lầm ý kinh, nhưng thiền sư Tín Hành là bậc Tứ y Bồ tát, chả lẽ ngài cũng hiểu lầm ý kinh hay sao? (46)

Đáp: Thiền sư Tín Hành trong khi giải thích sự thủ xả hai bộ kinh Vô Lượng ThọQuán Vô Lượng Thọ, phân biệt sự vãng sanh của hai hạng người giai đoạn hai và giai đoạn ba, đã hiểu sai lệch ý chỉ của kinh. Nếu y theo cách giải thích của thiền sư sẽ phạm vào hai lỗi thái quá và bất cập. Lỗi thái quá là hạng người giai đoạn hai cũng tạo tội ngũ nghịch, mà đã tạo tội ngũ nghịch thì cũng phải không được vãng sanh. Lỗi bất cập là hạng người giai đoạn ba nếu không tạo tội ngũ nghịch, kinh đã không nói đến việc loại trừ, ắt là họ có thể được vãng sanh. Kinh nói: “Chỉ trừ những người tạo tội ngũ nghịch và phỉ báng Chánh pháp”, đây là ngăn ngừa hai lỗi thái quá và bất cập. Nếu y theo kiến giải của thiền sư Tín Hành, kinh ấy nên nói: “Chỉ trừ chúng sanh giai đoạn ba”, thì sẽ không phạm vào hai lỗi thái quá và bất cập? Thế nhưng, đây là lời nguyện lớn của tỳ kheo Pháp Tạng để dứt trừ hai lỗi thái quá và bất cập, chả lẽ trí tuệ của ngài chưa đầy đủ mà lời nguyện còn thiếu sót? Nếu như lời nguyện của Pháp Tạng không sai, thì thiền sư Tín Hành ắt đã giải thích sai lạc. Điều này chứng tỏ đây là lỗi của người phàm (Tín Hành) chứ không phải lỗi của bậc thánh (Pháp Tạng).

Các học giả Tam Giai biện hộ rằng: Những lời giải thích về “chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch, v.v…”, có ý muốn nói “ngoại trừ tất cả chúng sinh giai đoạn ba”, bởi vì chúng sanh giai đoạn ba đều là những người tà vạy bất chánh, ác độc bất nhân, từ xưa đến nay toàn là phạm tội, tất cả chư Phật đều không màng cứu độ, mười phương Tịnh độ đều không dung chứa, cho nên ngài Pháp Tạng mới nói: “Ngoại trừ những kẻ tạo tội ngũ nghịch, v.v…”, tức là loại trừ toàn bộ những chúng sanh giai đoạn ba.

Hỏi: Điều này tuy có vẻ giải thích lỗi bất cập, nhưng vẫn chưa hoàn toàn giải thích lỗi thái quá. Nếu các học giả Tam Giai cho rằng phần Hạ phẩm hạ sanh trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ là sự giải thích lỗi thái quá, thì e rằng sự giải thích của họ không hợp lý. Lại nữa, tất cả chúng sanh giai đoạn ba đều bị gọi là kẻ phạm tội ngũ nghịch, nếu trong đời quá khứ bọn họ đã bị thọ khổ địa ngục, đã trả xong quả báo, thì đâu còn là kẻ phạm tội nghịch nữa. Nếu đời này họ chưa từng tạo tội vô gián, chả lẽ họ vẫn là những kẻ phạm tội nghịch hay sao? Nếu cho rằng họ đều là những kẻ phạm tội nghịch, ắt là họ đều thuộc về tà định tụ, đời sau quyết chắc bị đọa vào ngục a tỳ mà không thọ sanh vào nẻo nào khác, không thể xuất gia tu hành, không có kẻ nào thuộc vào bất định tụ, và tạo bất định nghiệp. Nếu vậy, Kinh Niết Bàn dạy rằng tất cả chúng sanh, phần lớn đều thuộc về loại bất định nghiệp, ắt phải là sai lầm. Lời giải cứu của phái Tam Giai cũng chưa thể giải quyết lỗi bất cập.

Thiền sư trả lời: Hiện nay nói tất cả chúng sanh giai đoạn ba đều là kẻ tạo tội ngũ nghịch, không có nghĩa là tất cả đều phạm tội giết cha, giết mẹ, làm thân Phật chảy máu, giết A la hán, phá hòa hợp tăng mới gọi là người phạm tội nghịch. Chỉ vì những kẻ đó căn cơ cực ác, tâm tánh tà vạy, chỉ toàn làm ác, chưa lìa được bảy ghét bảy thương, chưa xả được sáu tình năm lạc. Ba nghiệp đầy đủ mười hai điên đảo và năm loại không thể cứu độ. Tuy họ không phải là kẻ hiện tạo tội nghịch, nhưng có đầy đủ căn cơ tạo nghiệp ngũ nghịch, cho nên một cách tổng quát dùng chữ “nghịch” để chỉ cho những chúng sanh giai đoạn ba.

Hỏi: Điều này có vẻ như giải cứu được lỗi bất cập, nhưng vẫn chưa giải cứu được lỗi thái quá. Vả lại, lời giải thích vừa rồi lại sanh khởi bảy nghi vấn. (1) Nếu cho rằng có khả năng tạo tội nghịch cho nên gọi là căn cơ tạo tội nghịch, như vậy chúng sanh giai đoạn hai cũng có khả năng tạo tội nghịch, hai bên đều có thể tạo tội nghịch, tại sao lại có hai giai đoạn khác biệt?3 (2) Lại nữa, thiền sư Tín Hành cho rằng chúng sanh giai đoạn ba là những kẻ phạm ngũ nghịch, có mười ba ách nạn, không thể trở thành đại tỳ kheo, thì chỉ có thể gọi họ là những kẻ không có giới, chứ không được gọi họ là những người phá giới (bởi vì không có giới để phá). Còn nếu cho rằng những chúng sanh giai đoạn ba chỉ là căn cơ tạo nghịch, nhưng hiện tại chưa hề tạo tội nghịch, có thể đắc giới tỳ kheo, thì tại sao lại cho rằng loại trừ những chúng sanh giai đoạn ba là loại trừ những kẻ phạm tội nghịch? (3) Lại nữa, chúng sanh giai đoạn ba dù chưa tạo tội nghịch cũng bị gọi là người tạo ngũ nghịch, như vậy, họ thuộc về tà định tụ, hay thuộc về bất định tụ? Nếu cho rằng họ thuộc tà định tụ, nhưng họ chưa tạo tội nghịch làm sao lại thuộc về tà định tụ? Nếu cho rằng họ thuộc bất định tụ, tại sao lại nói rằng ngoại trừ những kẻ phạm ngũ nghịch, tức là loại trừ tất cả chúng sanh giai đoạn ba? (4) Nếu cho rằng người chưa tội nghịch là căn cơ tạo tội nghịch, cho nên gọi là kẻ phạm ngũ nghịch, nhưng họ cũng là người có thể hành trì đầy đủ tịnh giới, như vậy, cũng có khả năng chứng đắc thánh quả, tuy chưa chưa đắc thánh quả, lại cũng có thể gọi họ là thánh nhân. Nếu họ tự nhận là thánh nhân, thì phải thuộc về chánh định tụ, phải nên xả bỏ dị sanh tánh, nhưng đồng thời lại phạm tội ba la di, thì làm sao được gọi là nguời trì giới? (5) Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho phép người tạo ngũ nghịch vãng sanh, đây là những người đã tạo tội nghịch, phần Bốn mươi tám nguyện trong Kinh Vô Lượng Thọ loại trừ những người tội nghịch không cho vãng sanh, lẽ nào đây là những người có căn cơ ngũ nghịch (có khả năng tạo tội nghịch nhưng chưa tạo)? (6) Chúng sanh giai đoạn ba tuy chưa tạo tội nghịch, chỉ vì có căn cơ tạo nghịch nên gọi là kẻ tạo nghịch, như vậy, giả như chúng sanh giai đoạn hai tạo tội nghịch, chả lẽ vì họ không phải căn cơ tạo tội nghịch, mà không gọi là người tạo tội nghịch hay sao? (7) Nếu cho rằng căn cơ chúng sanh giai đoạn hai cũng là kẻ tạo tội nghịch, thì ba phẩm hạ sanh phải nhập thành một phẩm, bởi vì không tạo tội nghịch mà cũng là kẻ tạo tội nghịch, hơn nữa, hoa nở không có sự nhanh chậm, hoặc sự diệt tội cũng có không có sự khác biệt. 4

Lại có người giải thích rằng người giai đoạn ba không phải không được vãng sanh Tịnh độ, nhưng họ phải tu tập pháp môn Phổ chân Phổ chánh mới được vãng sanh Tây Phương, nhưng nếu họ đã tạo tội ngũ nghịch thì dù có tu tập pháp Phổ chân Phổ chánh cũng không được vãng sanh, cho nên lời nguyện của ngài Pháp Tạng là loại trừ chúng sanh giai đoạn ba tạo tội ngũ nghịch. Chúng sanh giai đoạn ba chưa tạo tội ngũ nghịch, nếu tu tập pháp Phổ chân Phổ chánh ắt sẽ được vãng sanh Tịnh độ, nếu đã tạo tội ngũ nghịch, dù có tu tập pháp Phổ chân Phổ chánh cũng không được vãng sanh. Vì lý do này, thiền sư với trí tuệ bao la, lòng từ sâu rộng, thương xót chúng sanh giai đoạn ba đang chìm ngụp trong cõi uế, nên đã khai mở pháp môn Phổ chân Phổ chánh để tiếp dẫn những kẻ thuần tà thuần ác, khiến họ học tập Phật pháp thích đáng thời cơ, để đều được vãng sanh Tây Phương thế giới. Đây là điều mà ngài Pháp Tạng chưa từng nghĩ đến, Đức Bổn Sư cũng chưa từng đề cập đến, mà chỉ riêng có thiền sư Tín Hành khai phát giáo nghĩa này để độ chúng sanh giai đoạn ba, cho nên có thể cho rằng thiền sư nói những điều Đức Phật chưa nói, độ những chúng sanh mà chư Phật chưa độ. Chúng ta đều mong đọc quyển Tam Giai Tập Lục, cung kính thọ trì quanh năm suốt tháng, không còn dám đọc tụng những kinh điển khác. Đáng thương cho những kẻ cố chấp lỗi cũ, vẫn còn đọc tụng những kinh điển Biệt chân Biệt chánh, tạo tội địa ngục. Nên biết ngài Thiện Tinh vì đọc pháp tạng mà bị đọa địa ngục lâu dài, còn ngài Thường Bất Khinh, vì tu hành pháp Phổ chân Phổ chánh cho nên được chứng đắc thánh quả, đến bờ bên kia. Đây là do không biết học Phật pháp thích đáng đưa đến sự cách biệt giữa tổn hại và lợi ích khác như trời với đất. Tôi [Hoài Cảm] không tra xét được sự đúng sai [của thiền sư Tín Hành], cho nên chỉ biết tu tập pháp Biệt chân Biệt chánh, dù sai cũng không hối tiếc. Hiện nay giải thích như vậy, hy vọng sẽ giải trừ phần nào sự nghi hoặc.

Có người trách rằng: “Thiền sư Tín Hành tuy giải thích như vậy, nhưng chỉ khiến gia tăng nghi hoặc. Hiện nay xin trình bày thêm những nghi vấn, ngưỡng cầu sự giải đáp. (1) Lời giải thích của thiền sư tựa hồ giải quyết được lỗi bất cập, nhưng vẫn chưa giải thích được lỗi thái quá. Không biết câu “cho đến mười niệm” là phổ pháp hay biệt pháp. Nếu cho là phổ pháp, thì câu “mười niệm” này chỉ là mười niệm “A Di Đà Phật”. Đây là niệm biệt Phật, sao lại cho là phổ pháp? (2) Nếu niệm Phật A Di Đà là phổ pháp thì đây là pháp cho chúng sanh giai đoạn ba, tại sao lại cho đó chỉ là giáo pháp của giai đoạn hai? (3) Nếu niệm Phật A Di Đà là phổ pháp, thì điều này cùng với Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói về hành giả hạ phẩm hạ sanh niệm đủ mười danh hiệu Phật A Di Đà có gì khác biệt? Tại sao pháp Mười niệm trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ là biệt pháp, còn pháp Mười niệm trong phần Bốn mươi tám nguyện lại là phổ pháp. Cùng một lời nói, tại sao lại có hai pháp khác biệt? (4) Tại sao phổ pháp chỉ cứu độ người giai đoạn ba chưa tạo tội nghịch, còn biệt pháp lại có thể cứu độ người cấp hai đã tạo tội nghịch? Đây là vì chúng sanh giai đoạn ba tạo tội nghịch, không còn có cách diệt tội cho nên họ không được vãng sanh Tịnh độ? Hay có cách diệt tội, nhưng người tạo tội nghịch vẫn không được vãng sanh? Xin hãy giải thích rõ. (5) Nếu pháp “mười niệm” này là biệt pháp, chúng sanh giai đoạn ba dù tu biệt pháp hay không đều không được vãng sanh. Dùng biệt pháp để loại trừ chúng sanh, điều này đưa đến lỗi bất cập. Không những loại trừ chúng sanh đưa đến lỗi bất cập, mà còn khiến nhiều người tạo tác lỗi lầm. Tiến thoái đều không thể trốn tránh trách nhiệm nặng nề đối với Phật pháp. (6) Lời nguyện của ngài Pháp Tạng nên nói như sau: “Giả như tôi thành Phật, mười phương chúng sanh chí tâm tin ưa, muốn sanh nước tôi, tu hành phổ pháp, nếu không vãng sanh, tôi thệ không thành Chánh giác, duy trừ chúng sanh giai đoạn ba tạo tội ngũ nghịch và phỉ báng Chánh pháp.” Đây tức là trình bày rõ ràng ý nghĩa của phổ giáo, thủ xả hai loại chúng sanh giai đoạn ba, và loại trừ chúng sanh giai đoạn hai phạm tội ngũ nghịch. Thế nhưng Bồ tát Pháp Tạng nêu lên những lời nguyện này là muốn cho chúng sanh đời vị lai hiểu rõ sự thủ xả, nếu vậy chỉ cần nói phổ pháp thì ý nghĩa của sự thủ xả sẽ đầy đủ, còn như nói biệt pháp thì sự thủ xả sẽ không đầy đủ. Nếu như trong phổ pháp không trình bày rõ ràng hai sự kiện này, thì làm sao giải cứu được sự giải thích sai lạc của thiền sư Tín Hành? Nếu các học giả Tam Giai cho rằng lời kinh có ẩn ý khác không tiện trình bày phổ pháp, xin các vị ấy hãy trình bày rõ ràng những giải đáp của họ. (7) Lại nữa, Tỳ kheo Pháp Tạng, như trong kinh khen ngợi, là Bồ tát Thập địa, chứ không phải chỉ là Bồ tát Tam hiền. Điều này chứng minh ngài là bậc đầy đủ từ bi trí tuệ, rộng nhiếp độ chúng sanh. Vì sao khi phát đại nguyện tiếp dẫn chúng sanh cực ác vãng sanh Tịnh độ, lại chỉ dùng biệt pháp cứu độ chúng sanh giai đoạn hai, mà không dùng phổ pháp cứu độ chúng sanh giai đoạn ba? (8) Chúng sanh giai đoạn ba tuyệt đối không được vãng sanh, có phải Bồ tát Pháp Tạng thấy bọn họ là bại chủng nên không phát nguyện cứu độ họ? (9) Lại có phải vì chúng sanh giai đoạn ba không được vãng sanh, cho nên Bồ tát Pháp Tạng không đem phổ giáo đến cứu độ, mà đành phải bỏ rơi họ hay sao? (10) Hay là Bồ tát Pháp Tạng tuy biết phổ pháp, nhưng không nói cho bọn họ biết, sẻn tiếc giáo pháp không dạy dỗ chúng sanh, tâm thương xót không lan đến những chúng sanh giai đoạn ba này cho nên không nhiếp thọ họ vãng sanh Tịnh độ? (11) Hay là Bồ tát Pháp Tạng tuy đầy đủ trí tuệ từ bi, nhưng vì hạng người giai đoạn ba khó có thể giáo hóa thành tựu, Bồ tát không thể cứu độ, cho nên đã giao lại cho thiền sư Tín Hành? (12) Hay là Bồ tát PhápTạng không có duyên với chúng sanh giai đoạn ba, mà chỉ riêng thiền sư Tín Hành có duyên, có thể cứu độ bọn họ. Vả lại, chỉ có những chúng sanh sống trong nước Trung Hoa mới gặp được thiền sư giáo hóa, có thể vãng sanh Tây Phương, còn những chúng sanh giai đoạn ba sống ở quốc độ khác không gặp được thiền sư, làm sao vãng sanh Tịnh độ? (13) Giả sử Bồ tát Pháp Tạng lúc phát nguyện, sự giải ngộ hành trì của ngài chưa được tròn đầy, cho nên sự nhiếp độ chúng sanh chưa được viên mãn, thế nhưng Đức Thế Tôn đã thành Chánh Giác, vì lý do gì mà không độ những chúng sanh giai đoạn ba này? Nếu thế thì bốn hoằng thệ nguyện chưa tròn, ý nghĩa của bốn ân chưa trọn. Bỏ rơi những đứa con đang mang bệnh nặng, làm sao được gọi là thương xót tất cả? Những lời như: “Những người đáng được độ, đã được độ, những người chưa được độ, đã được nhân duyên cứu độ”, v.v…, đều là nói ngoa. Hơn nữa, tôi cảm thấy khâm phục thiền sư là bậc cao hơn bậc thánh, ông đã ép uổng Đức Thế Tôn vào địa vị thấp hơn cả bọn phàm phu hạ cấp, mà không tự biết rằng mình đang tuyên bố những lời hàm hồ lầm lỗi  5.

Lại nữa, Kinh Vô Lượng Thọ là biệt giáo, nhưng Đức Thế Tôn đã dùng lòng từ bi đặc biệt lưu lại trên thế gian thêm một trăm năm. Tại sao phổ giáo thích hợp với thời mạt pháp, ngài lại không lưu lại thế gian để giáo hóa chúng sanh, còn biệt pháp không thích hợp với thời mạt pháp, ngài lại lưu lại trên thế gian tổn hoại mọi người? Đấng Giáo chủ từ bi cứu khổ lẽ nào không biết rõ căn cơ? Không chỉ riêng Đức Thích Ca Như Lai không giải cứu chúng sanh giai đoạn ba, ngay cả mười phương hằng hà sa chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài cũng chỉ để cứu độ chúng sanh giai đoạn hai, nhưng lại không hiện tướng lưỡi rộng dài để chứng minh phổ pháp cứu tế hàng chúng sanh giai đoạn ba? Lẽ nào chư Đại Thánh Thế Tôn, bậc Nhất thiết chủng trí, lòng từ rộng khắp, thương tất cả chúng sanh như con một, đều giấu nhẹm phổ pháp, không cứu độ hàng chúng sanh giai đoạn ba? Hơn nữa, Đức Từ Phụ A Di Đà, lời dạy bao trùm ba cõi, bốn mươi tám nguyện rải khắp mười phương, vô lượng vô số kiếp về trước lúc còn làm chuyển luân thánh vương đã phát tâm thành Phật, cho đến vô lượng vô số kiếp về sau khi ngài Quán Thế Âm kế thừa ngôi vị Chánh đẳng Chánh giác, đã phát lời nguyện lớn, mà mươi phương chư Phật đã từng chứng minh, là muốn cứu độ tất cả chúng sanh, lẽ nào lại bỏ rơi mà không cứu độ chúng sanh giai đoạn ba hay sao? Chư Phật Bồ tát dùng trí tuệ bậc thánh quán sát, biết rằng hạng chúng sanh giai đoạn ba không thể vãng sanh, không thể nào cứu độ, bèn bỏ phế không dùng Chánh pháp cứu vớt bọn họ ra khỏi vũng lầy sinh tử, nhưng thiền sư Tín Hành lại có thể ban bố phương tiện thiện xảo, đem Phổ chân Phật pháp ra để cứu độ những chúng sanh giai đoạn ba, chứng tỏ lòng từ bi của thiền sư vượt quá Đức Thích Ca, trí tuệ của thiền sư thù thắng hơn Phật Vô Lượng Thọ, đây cũng có nghĩa là các bậc Vô thượng Điều ngự sư biến thành hữu thượng Thế tôn, còn các bậc Vô đẳng đẳng trở thành Quá đẳng Chánh giác. Thiền sư Tín Hành quả thật còn thù thắng hơn chư Phật!

Hỏi: Nếu cho rằng do tạo tội nghịch mà có hai loại chúng sanh giai đoạn ba để phân biệt vãng sanh hay không, chứ không dùng sự niệm Phật nhiều ít để phán định, vì lý do gì lúc loại trừ người phạm tội nghịch lại nói “cho đến mười niệm”, còn lúc cho phép người phạm tội nghịch vãng sanh lại nói: “đầy đủ mười niệm”? Vì sao kinh văn loại trừ người phạm tội nghịch không đề cập đến “chúng sanh giai đoạn ba”, còn lúc cho phép người phạm tội nghịch vãng sanh lại không đề cập đến “chúng sanh giai đoạn hai”? Tại sao thiền sư Tín Hành trong lúc không cần thiết lại thêm “cho đến mười niệm”, còn trong lúc cần thiết lại không thêm “chúng sanh giai đoạn ba”?

Thiền sư trả lời: Phần chín phẩm trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói quá rộng về biệt pháp, nghĩa là nói riêng về những người thiện ác vãng sanh chín phẩm, cho nên đối với hạng người cực ác không nói về pháp niệm một danh hiệu6, mà nói riêng về pháp vãng sanh cho hạng người này, tức là “niệm đầy đủ mười niệm.” Còn hai đoạn trong Kinh Vô Lượng Thọ lại nói quá sơ lược về phổ pháp, nghĩa là nói chung về pháp thiện ác cho hai hạng hành giả hạ phẩm, lời kinh bao hàm niệm pháp nhiều ít, ý nghĩa gồm chung hai hạng thiện ác. Cho nên phần trên nói về pháp niệm một danh hiệu dành cho người thiện, phần dưới nói về pháp niệm mười danh hiệu dành cho người ác. Thiện ác nhiều ít, chỉ nói chung chung, cho nên gọi là tổng. Còn nói “cho đến”, đây là không nói hết, cho nên gọi là “quá sơ lược.” Câu “cho đến mười niệm” nghĩa là từ một niệm cho đến mười niệm. Phía cuối nói “mười” nghĩa là từ bắt đầu từ “một” vượt qua chín, do đó trong đây bao hàm pháp “niệm một niệm’ cho người thiện. Phần sau nói “cho đến niệm một niệm”, đây là từ mười đếm xuống một. Phía cuối nói “một”, tức là bắt đầu từ “mười” vượt qua chín, cho nên trong đây bao hàm pháp “niệm đủ mười niệm” cho người ác. Cho nên tôi [Tín Hành] cho rằng chữ “cho đến” bao hàm pháp niệm mười niệm. Pháp mười niệm là dành cho người ác, trong hạng người ác lại có hai loại tà chánh lẫn lộn, cho nên chỉ nói đơn giản là “loại trừ người phạm tội nghịch và hủy báng Chánh pháp”, chứ đâu có nghĩa là vì “niệm thiếu một niệm” mà bị loại trừ.

Hỏi: Hạng người phạm tội nghịch có hai loại thiện và ác, chúng sanh giai đoạn hai và giai đoạn ba cũng phân làm hai phẩm tà và chánh, chẳng phải hai hạng tà chánh cũng đều có kẻ ác người thiện hay sao? Trong hạng người ác có tà chánh lẫn lộn, cho nên nói đơn giản là “loại trừ người phạm tội nghịch và phỉ báng Chánh pháp”, tại sao trong hạng người thiện có tà chánh lẫn lộn, lại không nói đơn giản là “loại trừ người không phạm tội nghịch và phỉ báng Chánh pháp, mà lại cho rằng người không tà ác cũng đồng với người tà ác, trong phần mười niệm đều nói “loại trừ.” Lại nói “một niệm và mười niệm” là lời rất đơn giản, trong pháp người thiện, lấy người chánh thiện, không bỏ người tà thiện, tại sao trong pháp người ác, lại lấy người chánh ác, mà loại bỏ người tà ác?….

Trả lời: Đây không phải là câu hỏi. Bổn ý Đức Phật muốn tỏ bày là người sắp mất, nếu có thể niệm một danh hiệu, hai danh hiệu cho đến chín, mười danh hiệu Phật, đều được vãng sanh thế giới Cực Lạc. Chỉ trừ những người phạm tội nghịch và phỉ báng Chánh pháp.

Bổn ý của kinh muốn nói là người mạng chung, nếu có thể niệm một danh hiệu Phật rồi qua đời, hoặc niệm đến mười danh hiệu Phật rồi qua đời, đều có thể vãng sanh Tịnh độ. Bổn ý của Đức Phật muốn nêu rõ là chúng sanh không phạm tội nghịch, niệm nhiều ít đều vãng sanh, còn những người phạm tội nghịch niệm ít thì không vãng sanh, phải niệm đủ mười danh hiệu thì mới vãng sanh. Vì muốn cho biết rằng những người không phạm tội nghịch có thể niệm nhiều ít đều được vãng sanh, cho nên mới nói “loại trừ người phạm tội nghịch và phỉ báng Chánh pháp”, đâu có liên quan gì đến người tà nghịch. Nếu tất cả chúng sanh đến ngày lâm chung mới gặp bạn lành dạy pháp Niệm Phật, đều niệm đủ mười niệm thì ông mới có thể trách móc. Giả như niệm chưa đủ mười niệm mà đã mạng chung, lẽ nào loại trừ người phạm tội nghịch mà lại không nói “loại trừ.”

2. Niệm Phật trong thời tượng pháp, mạt pháp.

Hỏi: Kinh Đại Tập Nguyệt Tạng nói: “Sau khi Đức Phật diệt độ, năm trăm năm đầu, các đệ tử Phật trí tuệ kiên cố; năm trăm năm thứ hai, các đệ tử Phật thiền định kiên cố; năm trăm năm thứ ba, các đệ tử Phật đa văn kiên cố; năm trăm năm thứ tư, các đệ tử Phật chuyên xây chùa lập tháp; năm trăm năm thứ năm, Phật pháp suy tàn, các đệ tử Phật chỉ lo đấu tranh kiện tụng, ít tu pháp thiện.” Hiện nay, mười sáu pháp quán và Niệm Phật Tam Muội là pháp định tuệ, chỉ thích hợp với thời kỳ năm trăm năm thứ hai, vì sao lại khuyên tu học? Phần lớn các học giả Tam Giai Giáo đều dẫn chứng đoạn văn này cho rằng từ năm trăm năm thứ ba về sau không thể tu định, vì lý do gì lại khuyên mọi người tu tập mười sáu pháp quán và Niệm Phật Tam Muội? (47)

Đáp: Mười sáu pháp quán và Niệm Phật Tam Muội có sâu có cạn. Sâu tức là ở giai đoạn tứ tĩnh lự chưa đến trung gian thiền, trong lúc tu tuệ, tu mười sáu pháp quán và Niệm Phật Tam Muội; cạn tức là nương vào văn tư tu tuệ ở cõi Dục, nhiếp niệm tác ý, cũng có thể tu mười sáu pháp quán và Niệm Phật Tam Muội. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Quán tưởng như vậy gọi là thấy được phần thô của thế giới Cực Lạc. Nếu đắc tam muội, sẽ thấy cõi Cực Lạc vi diệu rõ ràng, không thể tả xiết.” Cho nên biết rằng quán tưởng thành tựu mà chỉ thấy được phần thô của cõi Cực Lạc là do dùng văn tư tuệ của cõi Dục để tu quán tưởng; còn chứng được tam muội thấy được phần vi diệu của cõi Cực Lạc là do dùng tu tuệ của cõi Sắc mà tu quán tưởng. Kinh nói năm trăm năm thứ hai tu tập thiền định kiên cố, đây là căn cứ vào định tâm tu tuệ ở cõi Sắc mà nói. Nếu do văn tư cõi Dục tu quán thành tựu thì điều này áp dụng chung cho năm trăm năm thứ hai, thứ ba, v.v… Nếu không, tại sao Kinh Hiền Hộ, quyển thứ ba, nói: “Hiền Hộ! Sau khi ta diệt độ bốn mươi năm, tam muội này sẽ được lưu truyền rộng rãi trên thế gian. Đến một trăm năm cuối ở trong thời kỳ năm trăm năm thứ năm, lúc Chánh pháp đang hoại diệt, sự trì giới tổn giảm, sự phá giới thạnh hành, các nước gây hấn nhau, trong những thời kỳ như vậy, quyển kinh này sẽ lại xuất hiện trên thế gian, đây là do oai thần của Phật.” Điều này là muốn cho những chúng sanh trong thời đó nghe được kinh này, vui mừng ghi chép, đọc tụng thọ trì, tư duy nghĩa lý, giảng giải cho người khác, tu hành đúng theo lời dạy của Phật. Lại nữa, quyển thứ hai nói: “Hiền Hộ! Các thiện nam tử thiện nữ nhân ấy, trong quá khứ đã từng nghe nhiều Đức Phật giảng nói tam muội này, đọc tụng thọ trì, y theo lời dạy mà tu hành. Do ý nghĩa này, sau khi Như Lai diệt độ, vào một trăm năm cuối của năm trăm năm thứ năm, lúc Chánh pháp sắp bị hoại diệt, lúc đó lại được nghe tam muội này, nghe xong sanh lòng tin, không hề nghi hoặc, không hề ngần ngại, sanh lòng hoan hỷ, thân tâm rung động, đọc tụng thọ trì, suy ngẫm nghĩa lý, giảng giải cho người khác, nhẫn đến tu hành tam muội ấy một ngày một đêm, v.v…” Nên biết rằng lời dạy của kinh muốn nói đến sự tu tập tam muội này vào khoảng cuối của năm trăm năm thứ năm, như vậy, tại sao có thể cho rằng thời kỳ sau năm trăm năm thứ hai không thể tu tập tam muội này. Thiền sư Tín Hành trong Tam Giai Tập Lục nói khái quát rằng thời kỳ sau một ngàn năm sau khi Phật diệt độ, chỉ có thể tu hành phổ pháp, không thể tu hành biệt pháp, rồi lại đem pháp môn Niệm Phật Tam Muội, v.v…, xếp vào loại pháp môn không hợp căn cơ chúng sanh, nghĩa là các giáo pháp cần phải bị phế bỏ. Đây là một điều vô cùng sai lầm!

3. Cật vấn học giả Tam Giai Giáo.

Hỏi: Kinh Đại Tập Nguyệt Tạng, quyển thứ mười, nói: “Những chúng sanh thế giới Ta Bà phỉ báng Chánh pháp, nhục mạ thánh hiền, các cõi Tịnh độ mười phương đều loại bỏ, không tiếp thọ họ.” Chúng sanh bị loại bỏ tức là những chúng sanh giai đoạn ba, không đáng vãng sanh Tịnh độ. Hiện nay, tại sao lại cho phép những chúng sanh giai đoạn ba này cùng với chúng sanh giai đoạn một và hai đều được vãng sanh Tịnh độ? (48)

Đáp: Nếu đúng như các thiền sư phái Tam Giai cật vấn, không biết các chúng sanh giai đoạn hai ở thế giới Ta Bà này có được phép phỉ báng Chánh pháp, lăng mạ thánh hiền hay không. Nếu cho phép phỉ báng Chánh pháp, lăng nhục thánh hiền, có bị loại bỏ, không cho vãng sanh Tịnh độ hay không? Nếu được phép vãng sanh, thì lý do gì mà các thiền sư phái Tam Giai lại đem đoạn kinh văn này chứng minh các chúng sanh giai đoạn ba không được vãng sanh? Nếu được vãng sanh, chúng sanh giai đoạn hai đã phỉ báng Chánh pháp, lăng mạ thánh hiền, lẽ ra phải bị loại bỏ, vì sao lại được vãng sanh Tịnh độ? Nếu cho rằng chúng sanh giai đoạn hai không phỉ báng Chánh pháp, không hủy nhục thánh hiền, tại sao đã là nhất xiển đề mà lại không phỉ báng Chánh pháp? Nếu lại cho rằng tuy phỉ báng Chánh pháp, hủy nhục thánh hiền nhưng vẫn có thể vãng sanh, xin hãy trưng kinh điển ra làm bằng chứng. Nếu lại cho rằng tuy phỉ báng Chánh pháp, hủy nhục thánh hiền, đáng lẽ không vãng sanh, nhưng vì căn cơ thuần thục, tội lỗi tương đối nhẹ nên vẫn được vãng sanh, tại sao kinh kia không cho phép vãng sanh mà kinh này lại cho phép? Hơn nữa, tất cả chúng sanh giai đoạn ba ở cõi Ta Bà đều phạm vào tội phỉ báng Chánh pháp, hủy nhục thánh hiền hay sao? Nếu tất cả chúng sanh giai đoạn ba đều hủy báng thánh hiền, thì lúc ở trong thai, chẳng lẽ cũng có thể phỉ báng Chánh pháp, hủy nhục thánh hiền? Nếu cho rằng có những chúng sanh giai đoạn ba không phỉ báng Chánh pháp, hủy nhục thánh hiền, không bị liệt vào hạng không vãng sanh Tịnh độ, thì tại sao lại nói chúng sanh giai đoạn ba không được vãng sanh và đem kinh này ra làm chứng cứ? Nếu lại cho rằng chúng sanh giai đoạn ba, đời này tuy không phỉ báng Chánh pháp, nhưng trong quá khứ đã từng phỉ báng, biết đâu chúng sanh giai đoạn hai trong quá khứ cũng đã từng phỉ báng Chánh pháp. Nếu cho rằng bổn ý kinh này là muốn nêu rõ chúng sanh giai đoạn ba đều là tà đạo bất chánh, phỉ báng hay không đều không cho phép vãng sanh. Chúng sanh giai đoạn hai nửa tà nửa chánh, phỉ báng hay không, đều được phép vãng sanh. Nếu vậy, những lời dạy này phạm hai lỗi là vừa thái quá vừa bất cập. Thái quá là không cho phép những chúng sanh giai đoạn hai phỉ báng Chánh pháp được vãng sanh, bất cập là cho phép những chúng sanh giai đoạn ba không phỉ báng Chánh pháp được vãng sanh. Các đệ tử của thiền sư Tín Hành đem kinh sách dẫn chứng, thường thường đi ngược với những lời dạy chánh đáng của Phật. Kẻ ngu này (Hoài Cảm) không dám tin những lời tuyên truyền của họ.

4. Sự bất đồng giữa khai và ngăn.

Hỏi: Kinh Đại Tập Phật Tạng và các bộ luật nói: “Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni không nhận các tỳ kheo phá giới, v.v.., làm đệ tử, không nhận làm thầy bọn họ, không cho phép bọn họ bước chân vào tăng già lam. Bọn họ giống như cây đa la bị chặt ngang, không thể sống lại; giống như viên đá bể đôi, không thể ráp lại; giống như biển lớn không dung chứa xác chết; bọn họ không thể tham dự các pháp yết ma, bố tát.” Đức Phật không cho phép bọn họ thọ thực của thập phương tăng, nếu bọn họ thọ dụng của tín thí sẽ phạm trọng tội, ngay một giọt nước cũng không được uống, bọn họ không được cư trú trong tăng già lam, đây gọi là bọn tặc hành, tặc trụ, huống hồ [lại cho bọn họ vãng sanh] Tịnh độ là nơi cư trú của các bậc thánh, làm bạn pháp của các bậc Nhất sanh bổ xứ hay sao? (49)

Đáp: Kinh luật đều có hai môn cấm đoán và khai duyên. Giáo pháp Tiểu thừa, Đại thừa, cấm đoán và khai duyên không đồng, không thể chỉ tin vào môn cấm đoán mà không tin vào lời dạy của Kinh Quán Vô Lượng Thọ về năng lực diệt tội của chư Phật. Những lời dạy ban đầu của Phật về sự cấm đoán ấy, hoặc là giáo lý Tiểu thừa, hoặc là những lời quở trách, hoặc đối với chúng sanh chưa biết khởi tâm hổ thẹn sám hối tội chướng, hoặc đối với những người chưa phát tâm Bồ đề, còn ham mê ngũ dục sanh tử, hoặc đối với những người quyến luyến cõi Ta Bà, thích trầm luân trong ba cõi, hoặc giả, nếu Đức Như Lai trước tiên không giảng về môn đối trị tội chướng, chúng sanh ắt không biết sợ tội mà thường tạo ác. Cho nên Đức Phật đã phải trước tiên giảng về những tội nặng, khuyên nhắc chúng sanh không nên tạo tội phá giới, hoặc ngài dạy rằng sám hối tuy diệt tội, miễn đọa ác đạo, nhưng giới thể đã mất, không thể thọ dụng vật dụng của thường trụ tăng. Hiện nay giáo pháp Tịnh độ giảng dạy là phát tâm Bồ đề, sanh lòng tàm quý, tha thiết sám hối những tội chướng đã tạo trong quá khứ, sửa đổi lỗi lầm, tha thiết ra khỏi nhà lửa ba cõi, mong cầu vãng sanh Tịnh độ, nương vào bổn nguyện của Phật, tội diệt phước sanh, sợ hãi quả báo khổ nơi ác đạo trong đời vị lai, tùy thuận lời dạy của Phật, lánh dữ làm lành, trong cửa Phật là người dũng kiện bậc nhì, lỡ phạm tội nhưng biết hối lỗi, chư Phật đều khen ngợi. Người đó tuy là xác chết trong biển giới luật thanh tịnh của Đức Bổn Sư, nhưng lại được vãng sanh về cõi Tịnh độ của Đức A Di Đà, được chứng giai vị bất thoái chuyển. Cho nên biết rằng Phật này quở trách việc phá giới, Phật kia khen ngợi sự sám hối diệt tội, Phật này không nhiếp thọ, Phật kia đến tiếp dẫn, giống như cha mẹ giáo dục con cái, một người thì mắng nhiếc trách phạt, một người thì mềm mỏng khuyên răn, làm cho đứa con biết sửa đổi sám hối. Chư Phật cũng giống như vậy, hoặc cấm đoán, hoặc khai duyên, đều là muốn lợi ích thành tựu chúng sanh, cho nên lời thô ác hoặc lời mềm mỏng đều là đệ nhất nghĩa. Lại như, các tỳ kheo phạm tội nặng, trong giới luật thì quở trách, nhưng trong Kinh Đà La Ni lại dạy trì tụng thần chú khiến tội diệt, hoàn phục giới thể; cấm chỉ và khai duyên không đồng, khen chê cũng có sự khác biệt. Kinh Đại Niết Bàn nói: “Chưa vào pháp Đại thừa, gọi là quyết định nghiệp, đã vào pháp Đại thừa, thì gọi là bất định nghiệp.” Đây cũng có ý nghĩa giống như trên, chúng ta phải biết uyển chuyển, không nên câu chấp vào một phía.

5. Lưu lại trăm năm.
a. Thời cơ lưu trụ.

Hỏi: Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Trong đời vị lai, khi kinh điển bị diệt tận, ta vì lòng từ bi thương xót chúng sanh, đặc biệt lưu lại quyển kinh này trên thế gian thêm một trăm năm.” Không rõ dùng thời điểm nào để biết kinh điển bị tận diệt? (50)

Đáp: Các thiền sư phái Tam Giai đều tin rằng thiền sư Tín Hành là Bồ tát tứ y, đã soạn quyển Tam Giai Tập Lục cho rằng: “Từ nay (đời Đường) cho đến một ngàn năm về sau, các chúng sanh giai đoạn ba chỉ có thể hành trì Phổ chân Phổ chánh Phật pháp (Phổ pháp hoặc Phổ giáo), còn việc đọc tụng kinh điển Đại thừa không còn thích hợp thời cơ, hành giả (đọc tụng kinh điển Đại thừa) sẽ bị đọa vào địa ngục khắp mười phương. Hiện nay Kinh Vô Lượng Thọ, v.v…, đều là pháp Biệt chân Biệt chánh (Biệt pháp hoặc Biệt giáo), đây là Phật pháp giai đoạn hai, chỉ thích hợp tu hành khoảng ngàn năm về trước. Một ngàn năm sau, không còn loại căn cơ này, giáo pháp Biệt chân Biệt chánh phải bị phế bỏ, dù kinh có nói lưu lại kinh A Di Đà một trăm năm, thì cũng chỉ là một ngàn một trăm năm mà thôi. Vì sao biết được như vậy? Như trong đời tượng pháp đầy dẫy những kẻ tăng thượng mạn, có Bồ tát Thường Bất Khinh xuất thế, ngài không đọc tụng kinh điển mà chỉ chuyên lễ lạy, cho nên biết rằng sau khi Chánh pháp bị diệt, tăng thượng mạn thạnh hành, không còn có thể đọc tụng, mà phải học pháp Phổ chân Phổ chánh. Do học pháp Phổ chân Phổ chánh thích ứng căn cơ nên được sáu căn thanh tịnh, lại gia tăng tuổi thọ. Còn tỳ kheo Thiện Tinh là chúng sanh giai đoạn ba, vì đọc tụng mười hai bộ kinh, cho nên bị đọa ngục A tỳ, đây là điều tổn thất lớn.”

Phần lớn các hành giả phái Tam Giai đều có cùng kiến giải nêu trên. Nhưng nếu chúng ta truy tầm ý nghĩa sâu xa thì sẽ thấy những điều vừa nêu trên không hợp lý. Vì sao? Nếu như sau một ngàn năm, Chánh pháp đã bị diệt tận, chỉ còn lại những chúng sanh giai đoạn ba tà ác, chỉ thích hợp hành trì pháp Phổ chân Phổ chánh, không thích hợp hành pháp Biệt chân Biệt chánh và đọc tụng kinh điển Đại thừa, nếu như đọc tụng sẽ bị đọa mười phương địa ngục A tỳ, [đây là đức Như Lai có ác tâm, đố kỵ chúng sanh giai đoạn ba, lưu lại pháp Biệt chân Biệt chánh khiến cho họ hành trì lầm lẫn để bị đọa vào địa ngục A tỳ,] thì điều này quả không liên quan đến việc từ bi lưu lại Kinh A Di Đà trăm năm. Nếu nói pháp Phổ chân Phổ chánh là thích đáng, tại sao Đức Phật sau khi nói pháp này, lại không đặc biệt lưu lại trăm năm? Nếu nói pháp Phổ chân Phổ chánh không phải do Phật nói, mà do thiền sư Tín Hành nói các kinh chư Phật chưa nói, để độ các chúng sanh chư Phật chưa độ, thì thiền sư không phải là Phật tại sao lại có thể nói kinh? Và hơn nữa, tại sao lại phải căn cứ vào kinh điển Đại thừa để soạn quyển Tam Giai Tập Lục? Nếu kinh điển Đại thừa có Phổ giáo và Biệt giáo, Phổ giáo không nói đến việc đặc biệt lưu lại, mà trong kinh Biệt giáo nói đến sự lưu lại một trăm năm, nhưng lại không thích hợp với căn cơ, điều này quả thật đi ngược lòng từ bi, khác biệt với sự giáo hóa của đức Như Lai. Nếu đã không có lời dạy của Phật, làm sao phân biện chánh tà? Nếu nêu trường hợp ngài Thường Bất Khinh không đọc tụng kinh điển để dẫn chứng rằng trong thời tượng pháp đầy dẫy những kẻ tăng thượng mạn không nên đọc tụng kinh điển, thì vì lý do gì ngài Thường Bất Khinh đến lúc lâm chung được nghe và thọ trì hai chục ngàn vạn ức bài kệ trong Kinh Pháp Hoa do Đức Phật Uy Âm Vương giảng nói từ trước, hơn nữa, đắc được sáu căn thanh tịnh, và tăng thọ mạng hai trăm vạn ức na do tha tuổi, rộng vì mọi người giảng thuyết Kinh Pháp Hoa? Nếu chúng sanh giai đoạn ba không được phép nghe hoặc đọc kinh Đại thừa, tại sao Bồ tát Thường Bất Khinh lại vì hạng người tăng thượng mạn giảng Kinh Pháp Hoa, khiến cho người nghe phải gây tạo nhân duyên đọa vào địa ngục A tỳ ở mười phương thế giới? Lại nữa, ngài Bồ tát Dược Vương nguyện: “Sau khi Phật diệt độ, sẽ phụng trì đọc tụng giảng thuyết Kinh Pháp Hoa. Chúng sanh trong đời ác năm trược, thiện căn giảm dần, phần lớn là những người tăng thượng mạn, tham lợi cúng dường, tăng trưởng bất thiện căn, xa lìa sự giải thoát, tuy khó có thể giáo hóa, nhưng chúng con sẽ khởi đại nhẫn lực đọc tụng Kinh Pháp Hoa, hộ trì, giảng thuyết, v.v…” Lại như Kinh Bát Nhã nói về năm trăm năm sau rốt, trong thời mạt pháp nếu có người đọc tụng thọ trì, v.v… Kinh Hiền Hộ đề cập đến vấn đề trong năm trăm cuối ở đời mạt pháp thọ trì đọc tụng kinh ấy, v.v… Chẳng lẽ một ngàn năm sau khi Biệt pháp bị phế bỏ, không còn thích hợp đọc tụng kinh điển Đại thừa? Khuyên các người tu xét kỹ lời Phật dạy, đừng nên tự mình lầm lẫn, khiến cho kẻ khác lầm lẫn, lại còn khiến cho kinh điển Đại thừa không còn lưu hành trên đời. Đây là tự mình uống thuốc độc (tà kiến), lại còn gây tạo nhân duyên đọa lạc địa ngục, hủy diệt cặp mắt Chánh pháp. Còn gì điên đảo hơn những việc này, quả thật đáng thương.

Có người giải thích “kinh đạo diệt tận”, bằng cách căn cứ vào Kinh Đại Bi Liên Hoa (Bi Hoa) cho rằng Chánh pháp kéo dài một ngàn năm, tượng pháp kéo dài một ngàn năm, mạt pháp kéo dài một vạn năm, sau thời mạt pháp, kinh đạo diệt tận, chỉ lưu lại Kinh A Di Đà một trăm năm. Trong thời đao binh kiếp này, loài người phần lớn tạo ác, những cây cỏ trong tay họ đều biến thành đao kiếm, sát hại lẫn nhau, sân độc hẫy hừng đến cực điểm. Thọ mạng chỉ còn mười tuổi, thân cao chỉ độ hai gang tay. Trong thời kỳ này không còn có thể tu tập các pháp môn giới định tuệ thâm sâu, chỉ còn phương cách niệm Phật, nhàm chán cõi Ta Bà tam tai, ngũ trược cực ác, nguyện sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đức Bổn Sư Thích Ca đã biết trước chúng sanh thời đó khổ bức, có thể sanh tâm nhàm chán, cho nên khởi lòng từ bi, sau khi các kinh điển khác đều bị diệt tận, đặc biệt lưu lại Kinh A Di Đà trên thế gian một trăm năm, trong thời tai kiếp lợi lạc hữu tình.

Lại có người giải thích như sau. Thuyết Pháp Trụ của tôn giả Ái Hữu nói: “Sau thời kỳ đao binh kiếp, loài người chán làm việc ác, đều khởi tâm từ, không còn sát hại, mà lại thương xót lẫn nhau, như cha như con, tuổi thọ dần dần tăng trưởng, đến lúc thọ mạng dài trăm tuổi, có mười sáu vị Đại A la hán, tam minh lục thông, đầy đủ bát giải thoát, thông suốt Tam tạng kinh điển, thọ lời phó chúc của Phật, trụ trì Chánh pháp, lợi ích chúng sanh, không nhập Niết bàn, các ngài và những vị A la hán khác, cùng hàng đệ tử, đem giáo pháp của Đức Như Lai truyền bá khắp nơi, giáo hóa dẫn đạo chúng sanh, xây chùa lập miếu, độ người xuất gia, tu giới định huệ, Phật pháp hưng thạnh, đến lúc thọ mạng loài người lên đến cuối sáu vạn tuổi, đầu bảy vạn tuổi, các vị A la hán thu góp tất cả xá lợi của Phật, tạo dựng một bảo tháp. Mười sáu vị Đại a la hán cùng hàng đệ tử đi nhiễu chung quanh tháp, đem hương hoa cúng dường, chiêm ngưỡng lễ bái, sau đó các ngài đều bay lên hư không, nói lời như sau: ‘Kính lễ Thế Tôn Thích Ca Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, chúng con lãnh thọ lời dạy của Ngài, hộ trì Chánh pháp, cùng làm lợi ích cho hàng trời người. Pháp tạng đã chìm, những người có duyên đã độ xong, nay xin cáo từ để nhập Niết bàn.’ Nói xong, tất cả đều đồng thời nhập Vô dư Niết bàn. Tháp xá lợi liền chìm xuống đất đến tầng Kim luân thì ngừng nơi đó. Giáo pháp Tam tạng đã bị diệt tận trước đó một trăm năm, còn pháp môn Tịnh độ, tháp xá lợi và các vị A la hán thì diệt tận cùng một lúc. Khi ấy, giáo pháp Vô thượng của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni trong tam thiên đại thiên thế giới (Ta Bà) hoàn toàn bị diệt tận, không còn xuất hiện. Từ đó về sau, trong cõi này có bảy vạn câu chi Độc giác đồng thời xuất hiện. Đến lúc thọ mạng loài người được tám vạn tuổi, các vị Độc giác cũng đều diệt độ. Sau đó Bồ tát Di Lặc xuất hiện thế gian, ngài cũng vì chúng sanh mà giảng nói pháp môn Tịnh độ, khiến cho vô lượng chúng sanh đều được vãng sanh Tịnh độ. Như vậy lần lượt, ngàn vị Phật trong Hiền kiếp và các vị Phật về sau, đều giảng nói pháp môn Tịnh độ, khuyến khích mọi người vãng sanh Tây Phương, nhẫn đến mười phương chư Phật cũng đều như vậy. Đức A Di Đà thọ mạng vô lượng a tăng kỳ kiếp. Khi ngài vẫn còn tại thế, mười phương thế giới chư Phật xuất hiện trên đời, đối với các chúng sanh có duyên với Đức A Di Đà đều giảng nói pháp môn Tịnh độ và khuyên họ vãng sanh Cực Lạc.” Cho nên câu “kinh đạo diệt tận, đặc biệt lưu lại kinh này thêm một trăm năm” là chỉ cho thời kỳ này.

b. Ý nghĩa của sự lưu lại pháp Niệm Phật.

Hỏi: Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Trong đời vị lai, khi kinh điển bị diệt tận, ta vì lòng từ bi thương xót chúng sanh, đặc biệt lưu lại quyển kinh này trên thế gian thêm một trăm năm.” Thế nhưng tất cả kinh điển đều có mục đích giáo hóa lợi ích chúng sanh, đọc tụng thọ trì đều diệt trừ tội nặng, nương vào Chánh pháp đều được thoát khổ, tại sao chỉ có Kinh Vô Lượng Thọ được lưu lại trên thế gian này một trăm năm sau khi tất cả kinh điển khác đều bị diệt tận? (51)

Đáp: Đức Phật Thế Tôn xuất hiện thế gian, dùng một âm thanh thuyết pháp, tùy theo căn cơ, mỗi chúng sanh hiểu một cách khác nhau. Số chúng sanh nghe pháp ngộ đạo nhiều như số cát bụi, hoặc chứng bốn đạo quả Tiểu thừa, hoặc đắc Vô sanh pháp nhẫn, hoặc được xa lìa ác đạo, hoặc được tái sanh vào cõi người, cõi trời, hoặc được vãng sanh Tịnh độ, hoặc gieo nhân giải thoát đời sau. Các chúng sanh có căn lành nghe pháp trong quá khứ, gặp được giáo lý chân thật của Phật, thọ trì đọc tụng, đều được lợi ích. Nếu chúng sanh bạc phước, không thể giáo hóa được, thì tất cả kinh điển đều sẽ ẩn tàng nơi long cung. Lúc ấy các tỳ kheo không còn mặc cà sa nhiễm sắc, tất cả pháp yết ma, thọ giới đều không thành tựu. Chúng sanh không còn nghe biết đến pháp Đại thừa sâu xa, cùng các giáo pháp vi diệu về thật tướng bình đẳng chân như, cho nên các pháp này ẩn mất trước tiên, chỉ còn lại pháp môn Niệm Phật dễ tu dễ học, các phàm phu ngu mê tội chướng đều có thể học tập, tu hành. Đây là do Đức Đại Thánh từ bi đặc biệt lưu quyển kinh này ở lại thế gian thêm một trăm năm. Y vào lời kinh mà biết rằng Phật pháp dần dần diệt tận, chúng sanh phước đức mỏng cạn, chỉ còn lại pháp môn Tịnh độ này đặc biệt có thể làm lợi ích cho họ. Dùng pháp môn và thời cơ để chứng nghiệm, biết rằng pháp môn Tịnh độ thích hợp với căn cơ chúng sanh đời mạt pháp, cho nên nhiều nơi trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ đều nói là vì tất cả chúng sanh đời vị lai mà nói pháp môn Cực Lạc. Xin thỉnh quý vị tăng tục hãy tra cứu lời dạy của Phật để chiêm nghiệm căn cơ chúng sanh, đừng nghe những lời bàn tán vu vơ của người khác mà không tin lời Phật.

6. Sự diệt tội trong Kinh Thập Luân.

Hỏi: Kinh Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân nói: “Chư Phật không cứu độ những chúng sanh tạo tội thập ác.” Nếu đã nói không cứu độ, tại sao niệm Phật lại được diệt tội vãng sanh Tây Phương? Nếu được vãng sanh, đây là cứu độ, tại sao lại nói chư Phật không cứu độ? (52)

Đáp: Kinh nói “không cứu độ” là để răn bảo những người tạo tội ác. Đây là ý nghĩa bí ẩn của Đức Như Lai, muốn làm cho những người ác sợ tội bị trầm luân biển khổ nhiều đời mà không dám tiếp tục làm ác. Đến Phật còn không cứu thì ai cứu, cho nên bọn họ không dám làm quấy. Lẽ nào lại nghĩ rằng Phật nói “không cứu” là thật không cứu hay sao? Hay là do tội quá nặng, sám hối không tiêu diệt hết tội cho nên chư Phật không cứu? Lại nữa, không biết chúng sanh giai đoạn hai cũng tạo những tội thập ác này hay không? Nếu nói không, như vậy tại sao chúng sanh giai đoạn hai có thể tạo tội ngũ nghịch mà không tạo tội thập ác? Nếu bọn họ cũng tạo tội và không được cứu, như vậy rõ ràng là bọn họ cũng không thể vãng sanh Tịnh độ. Vì lý do gì mà chỉ đem những sự kiện tạo tội thập ác ra để làm chứng cứ rằng chúng sanh giai đoạn ba không được vãng sanh Tịnh độ? Nếu cho rằng chư Phật không cứu, nhưng trong kinh chỉ nói “chư Phật không cứu người tạo tội”, chả lẽ chúng sanh giai đoạn hai tạo tội này lại được chư Phật cứu hay sao? Thiền sư Tín Hành dùng đạo lý gì mà cho rằng trong những người tạo tội thập ác, chúng sanh giai đoạn hai được cứu, còn chúng sanh giai đoạn ba thì không được cứu, chúng sanh giai đoạn hai được vãng sanh, còn chúng sanh giai đoạn ba thì không được vãng sanh? Lời kinh đâu có ẩn ý nào khác, tại sao lại cho rằng chư Phật chỉ cứu độ chúng sanh giai đoạn hai. Đây là dùng ý riêng để giải thích kinh văn chứ không phải là bổn ý của Phật. Thêm thắt ý riêng mà giải thích kinh văn, hoàn toàn không thích đáng với ý chỉ của Phật. Vả lại, trong kinh dạy rằng “chúng sanh niệm Phật, tội nặng đều được trừ diệt, ngay cả tội ngũ nghịch thập ác cũng đều tiêu diệt.” Kinh nói tội ngũ nghịch là định nghiệp, niệm Phật tiêu diệt định nghiệp này, còn kinh nói tội thập ác là tội không thể cứu, chả lẽ niệm Phật không cứu được tội này hay sao? Tại sao lại làm ngơ sự việc Đức A Di Đà đến tiếp dẫn. Cho nên biết rằng thiền sư Tín Hành chấp văn mê nghĩa, chưa thấu hiểu đạo lý chân thật. Thỉnh cầu quý vị hãy tra cứu lại lời kinh để khử trừ những nghi vấn này.

7. Năm lợi ích thù thắng của sự niệm Phật.

Hỏi: Kinh Phật Tạng, quyển thứ ba, nói: “Có Đức Phật hiệu Đại Trang Nghiêm, sau khi ngài diệt độ một trăm năm, các đệ tử chia làm năm phái. Phái thứ nhất tên Phổ Sự, phái thứ hai tên Khổ Ngạn, phái thứ ba tên Tát Hòa Đa, phái thứ tư tên Tương Khứ, phái thứ năm tên Bạt Nan Đà. Năm vị tỳ kheo này là những người lãnh đạo đồ chúng của phái mình. Tỳ kheo Phổ Sự là người thấu hiểu nghĩa lý của pháp Chân không Vô sở đắc của Đức Phật giảng nói, còn bốn vị tỳ kheo kia đều hiểu sai ý Phật, sanh khởi tà kiến, phần lớn giảng nói về pháp hữu lậu sanh diệt. Trong các đồ chúng nghe tỳ kheo Phổ Sự giảng nói về lý Chân không, có sáu mươi tám ức na do tha người đã ngộ đạo và nhập Niết bàn. Còn bốn vị ác tỳ kheo kia phần lớn dẫn dắt đồ chúng đi vào đường tà, phủ nhận pháp Đệ nhất nghĩa Vô sở hữu Tất cánh không, tham ưa pháp của bọn ngoại đạo Ni Kiền Tử. Bọn đồ chúng của bốn ác tỳ kheo thường bám theo lý thuyết tà vạy của thầy, quyến luyến không rời. Lúc đó, phần lớn các đệ tử tại gia của bốn ác tỳ kheo đều đọa ác đạo, không theo đường ngay, hoại diệt Chánh pháp của Phật. Bốn ác tỳ kheo đó, sau khi mạng chung đọa vào địa ngục A tỳ, nằm ngửa, nằm xấp, nằm nghiêng hông trái, nằm nghiêng hông phải, trải qua chín trăm vạn ức năm, bị thiêu đốt trên giường sắt, sau khi mạng chung, lại sanh vào địa ngục tro nóng, địa ngục đẳng hoạt, địa ngục dây đen, thọ vô lượng khổ não, trải qua thời gian cũng bằng địa ngục A tỳ. Sau khi mạng chung ở ngục dây đen, kế đến sanh trở lại địa ngục A tỳ. Các đồ chúng tại gia xuất gia của bốn vị ác tỳ kheo, số đông khoảng sáu trăm bốn vạn ức người, đều cùng bốn vị ác tỳ kheo cùng sanh cùng tử, cùng bị thiêu đốt trong các đại địa ngục. Đến thời kỳ kiếp tận, bốn ác tỳ kheo cùng sáu trăm bốn vạn ức đệ tử từ địa ngục A tỳ chuyển sanh qua địa ngục ở thế giới khác, trải qua vô số bách thiên vạn ức na do tha năm, chịu vô lượng khổ não. Khi thế giới này thành hình trở lại, thì lại sanh trở về đại địa ngục ở cõi này trải qua thời gian cực kỳ lâu dài, sau khi được ra khỏi địa ngục, sanh vào cõi người, trong năm trăm đời sanh làm kẻ đui mù, sau đó gặp được Đức Phật Nhất Thiết Minh, xuất gia làm tăng, trong mười vạn ức năm siêng năng tu hành như cứu đầu đang cháy, nhưng vẫn không đắc được Thuận nhẫn, huống chi đắc được đạo quả. Sau khi mạng chung, lại bị sanh trở vào ngục A tỳ. Do vì quá khứ đã trồng nghiệp bất thiện sâu nặng, cho nên sau đó mặc dầu lại gặp được chín chục ức Đức Phật, vẫn không đắc được Thuận nhẫn. Vì sao? Vì đối với giáo pháp thâm sâu của Phật không sanh lòng kính tin, phản phúc bại hoại, phá hủy thánh hiền trì giới tỳ kheo, dèm pha phỉ báng, khởi nhân duyên phá hoại Phật pháp, cho nên bị quả báo như vậy. Kinh trên đã nói “vì tội bất tịnh thuyết pháp mà trong mười vạn ức năm tinh tiến tu hành như cứu đầu đang cháy mà không diệt được tội”, vì sao công đức niệm Phật một danh hiệu, mười danh hiệu, lại được diệt tội vãng sanh Tây Phương Cực Lạc? (53)

Đáp: Do năm nhân duyên thù thắng, tuy tạm thời niệm danh hiệu Phật mà công đức diệt tội, sanh khởi tín tâm vượt quá mười vạn ức năm tu hành tinh tiến như cứu đầu đang cháy. Năm nhân duyên thù thắng là: (a) phát tâm thù thắng, (b) cầu vãng sanh thù thắng, (c) bổn nguyện thù thắng, (d) công đức thù thắng, (e) uy lực thù thắng.

a) Phát tâm thù thắng: Người vãng sanh hạ phẩm là người căn tánh Đại thừa, phát tâm Đại thừa. Còn người căn tánh Tiểu thừa, nay do vì phát tâm Đại thừa, trong một niệm vượt quá tâm Tiểu thừa vô lượng bách thiên ức kiếp, cho nên diệt trừ tội nặng nhanh chóng.

b) Cầu sanh thù thắng: Ở đây một niệm niệm Phật nguyện sanh Tịnh độ, còn những người kia tuy tu hành tinh tiến như cứu đầu đang cháy, nhưng bọn họ phát tâm Tiểu thừa, không tin có Tịnh độ của chư Phật mười phương, vì không nguyện vãng sanh thù thắng cho nên tội không diệt, còn những hành giả Tịnh độ, vì nguyện vãng sanh thù thắng nên tội diệt.

c) Bổn nguyện thù thắng: Do vì Đức A Di Đà đã từng phát đại nguyện thù thắng rằng tất cả chúng sanh phạm trọng tội, nếu niệm danh hiệu của ngài, tội chướng sẽ tiêu trừ và được ngài tiếp dẫn vãng sanh về Tịnh độ. Những chúng sanh hiện nay tuy tạo trọng tội, nhưng thiện căn đời quá khứ đã chín muồi, cho nên có thể niệm Phật một niệm liền được vãng sanh.

d) Công đức thù thắng: Hành giả Tiểu thừa chỉ quán tứ niệm xứ cho nên không thể diệt vô lượng tội, hiện nay niệm Phật một niệm có đủ công đức diệt trừ tội nặng trong mười ức kiếp sanh tử, như trong kinh có nói tường tận. Cho nên một niệm niệm Phật có công đức thù thắng hơn công đức tu hành tinh tiến các pháp quán Ngũ đình tâm, quán Tứ niệm xứ, .

e) Uy đức thù thắng: Kinh Đại Thừa Đồng Tánh nói: “Chư Phật có mười giai vị, Phật A Di Đà ở giai vị thứ nhất, công đức uy lực phi thường, cho nên có thể dùng uy lực gia trì hành giả niệm Phật, khiến cho họ quyết định được vãng sanh, không đồng với các Đức Phật khác.”

8. Báng pháp và vãng sanh.

Hỏi: Kinh Pháp Hoa nói: “Những người phỉ báng kinh này thường sanh vào những xứ hiểm nạn, vĩnh viễn không được gặp Phật.” Vì sao trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, những kẻ báng pháp lại được vãng sanh Tịnh độ, gặp Phật nghe pháp, vĩnh viễn xa lìa cảnh khổ. Nếu vậy, tại sao lại nói thường sanh vào những xứ hiểm nạn? (54)

Đáp: Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Những kẻ ngu này, không việc ác nào không làm, phải bị đọa vào địa ngục, chịu khổ vô cùng.” Kế đến kinh nói: “Nếu niệm mười danh hiệu Phật, được vãng sanh Tịnh độ.” Nếu cho rằng người ác ấy thường sanh vào chỗ hiểm nạn, không thể thoát ra, và nếu thường phải cư trú chỗ hiểm nạn, thì làm sao vãng sanh Tịnh độ? Cho nên, khi tội chưa trừ diệt thì quả báo đó là vô cùng tận, nếu tội bị trừ diệt, thì quả báo đó là có cùng tận. Tuy thường sinh vào chỗ hiểm nạn, nhưng nếu tội diệt, thì ngại gì mà không được thấy Phật! Lại nữa, thiền sư Tín Hành dẫn chứng ý nghĩa của kinh văn, mục đích muốn chứng minh rằng chúng sanh giai đoạn ba có tội không thể trừ diệt, không được vãng sanh Tịnh độ, hơn nữa, thiền sư cũng dẫn chứng rất nhiều kinh điển để chứng minh kẻ tà không thể vãng sanh. Không biết chúng sanh giai đoạn hai có phỉ báng Kinh Pháp Hoa hay không? Nếu phỉ báng thì có thường sanh vào chỗ hiểm nạn hay không? Niệm Phật có được vãng sanh Tịnh độ hay không? Nếu cho rằng được vãng sanh, thì không thể dùng Kinh Quán Vô Lượng Thọ làm chứng cứ. Nếu không được vãng sanh, thì chúng sanh giai đoạn hai phỉ báng Chánh pháp cũng không được vãng sanh, vì sao lại cứ muốn chứng minh chỉ có chúng sanh giai đoạn ba là không được vãng sanh?

9. Phật pháp đúng căn cơ.

Hỏi: Kinh Duy Ma Cật nói: “Bồ tát thành tựu tám pháp, ở nơi thế giới này tu hành không bị chướng ngại, được vãng sanh Tịnh độ.” Thiền sư Tín Hành cho rằng tám pháp này là giáo pháp vãng sanh Tịnh độ dành cho chúng sanh giai đoạn ba, còn giáo pháp của Kinh Quán Vô Lượng Thọ, v.v…, là giáo pháp vãng sanh dành cho chúng sanh giai đoạn hai. Hiện nay, chúng sanh phần lớn thuộc về giai đoạn ba, làm sao học tập giáo pháp vãng sanh dành cho chúng sanh giai đoạn hai? (55)

Đáp: Bổn ý thành lập giáo pháp của thiền sư Tín Hành là dùng “Phật pháp thích đáng căn cơ” làm tông chỉ, cho đây là chỉ quy để thấu hiểu lời Phật dạy, và xem thường kiến giải của các học giả xưa nay. Thật ra, thiền sư dùng ba nghĩa này, nếu tìm trong giáo nghĩa thì đúng là pháp môn thích hợp căn cơ, một là thời gian, hai là nơi chốn, ba là người tu tập. Nếu xét kỹ sự thành lập ba môn này của thiền sư quả thật là vô cùng tuyệt diệu, thích đáng. Thế nhưng chư đại đức cổ kim, đều có học vấn uyên bác, thông thạo nội điển ngoại điển, thấu rõ ý nghĩa bán tự mãn tự, thâm hiểu chỗ thâm sâu của pháp môn, vượt đến chỗ cùng cực của bí tạng, chưa hề có ai phán định tông chỉ giống như thiền sư. Vả lại, thiền sư tự thiết lập ý nghĩa, nhưng lại đi trái ngược với ý thú. Vì sao? Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Hôm nay, đức Như Lai vì bà Vi Đề Hy và tất cả chúng sanh ở đời vị lai”, đây là thời ác. “Bị giặc phiền não xâm nhiễu mà nói nghiệp thanh tịnh”, đây là người ác. “Đây là sự giáo hóa chúng sanh ở cõi uế trược”, đây là chỗ ác. Kinh Quán Vô Lượng Thọ hội đủ ba nghĩa, lẽ ra phải là Phật pháp thích đáng căn cơ, thế mà thiền sư lại nói không phải. Đây là có ý gì? Tám pháp của Kinh Duy Ma Cật không nói đến đời vị lai, đây là không phải thời ác. Bồ tát thành tựu tám pháp: đây là không phải người ác. Đây là sự giáo hóa chúng sanh cõi trược uế: đây là chỗ ác. Kinh Duy Ma Cật chỉ có một nghĩa, thiếu hai nghĩa kia, sao lại cho là thích đáng căn cơ. Đây là có ý gì?

10. Chuyên tu và tạp tu.

Hỏi: Kinh Bồ Tát Xử Thai, quyển thứ hai, nói: “Về phía tây cách cõi Ta Bà mười hai ức na do tha cõi Phật có cõi nước Giải Mạn. Xứ đó khoái lạc, ca xướng kỹ nhạc, y phục lộng lẫy, hương hoa trang nghiêm, v.v… Các chúng sanh phát nguyện sanh về cõi Phật A Di Đà đều bị lạc vào cõi nước Giải Mạn mà không vãng sanh Cực Lạc. Trong ngàn vạn ức chúng sanh, hoạ hoằn chỉ có một người vãng sanh Cực Lạc.” Kinh này là minh chứng cho sự khó vãng sanh. Vì lý do gì hiện nay lại khuyến khích mọi người vãng sanh cõi Phật ấy? (56)

Đáp: Vì có lời kinh như vậy, cho nên Hòa thượng Thiện Đạo khuyến tấn bốn chúng chuyên tu Tây Phương tịnh nghiệp, bốn tu 7 không thoái chuyển, ba nghiệp không tạp nhạp, phế bỏ những ước nguyện và hành trì khác, mà chỉ chuyên hành một hạnh Tây Phương. Trong những người tu tạp hạnh, vạn người không được một người vãng sanh, còn những người chuyên tu thì ngàn người tu, ngàn người được vãng sanh.Như phần sau của kinh nói: “Vì sao? Do vì giải đãi lười biếng, lòng tin không vững chắc. Phải biết những người tu hạnh tạp nhạp, lòng tin không kiên cố, cho nên sanh vào cõi nước Giải Mạn.” Lời này giống hệt Kinh Bồ Tát Xử Thai đã nói. Nếu không tu tạp nhạp, chuyên tu tịnh nghiệp, đây là lòng tin vững chắc, ắt sẽ vãng sanh về cõi Cực Lạc, khéo phù hợp với ý chỉ của Kinh Tùy Nguyện Vãng Sanh. Kinh ấy nói: “Chúng sanh cõi Ta Bà phần nhiều đều tham sân si, ít người có lòng tin chân chánh, phần lớn tu tập tà pháp, không tin Chánh pháp, không thể chuyên nhất, tâm ý tán loạn không chí hướng. Các cõi Tịnh độ mười phương thật sự không có sự sai biệt, vì muốn cho hành giả chuyên tâm vào một cõi, cho nên Đức Phật đặc biệt khen ngợi cõi Cực Lạc mà thôi! Các hành giả tùy thuận nguyện cầu của họ mà được vãng sanh.” Cho nên biết rằng nếu tu tạp nhạp sẽ sanh vào cõi Giải Mạn, còn như chuyên tu thì sẽ vãng sanh cõi nước Cực Lạc. Điều này càng hiển rõ sự chuyên tu sẽ được vãng sanh. Đâu phải vì sanh Cực Lạc là khó mà không ai được vãng sanh về đó! Lành thay các hành giả Tịnh độ, không thể không chuyên tâm vào hành nghiệp của mình. Vả lại, rất ít người vãng sanh về Báo độ, mà phần lớn vãng sanh về Hóa độ. Cho nên Kinh Bồ Tát Xử ThaiKinh Quán Vô Lượng Thọ tuy nói khác nhau, nhưng hàm ý không mâu thuẫn.

11. Thăng trầm của sự niệm Phật.

Hỏi: Kinh Quán Tam Muội Hải nói: “Năm trăm người thuộc dòng họ Thích trong đời quá khứ đều là anh em, học tập kinh điển ngoại đạo, không tin Phật pháp. Phụ vương thương xót, bèn giảng cho họ nghe pháp Mười hai nhân duyên cùng Phật pháp sâu xa, bọn họ không tin mà còn sanh lòng hủy báng. Đến khi sắp chết, bọn họ nhận chịu nhiều sự khổ não. Người cha thương xót, e rằng bọn họ sẽ phải đọa địa ngục A tỳ, bèn khuyên bọn họ niệm Phật. Các người con sắp chết, khởi lòng kính trọng, tùy thuận lời cha dạy, niệm Nam mô Phật. Người cha lại khuyên niệm Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng. Sau khi các người con mạng chung, nương vào công đức niệm Phật, đều được sanh lên cõi trời, hưởng thọ khoái lạc. Sau khi nghiệp báo cõi trời đã hết, nhân vì nghiệp phỉ báng Chánh pháp đời trước, bèn đọa vào địa ngục A tỳ, nhận chịu sự khổ khốc liệt.” Y theo lời kinh, lâm chung niệm Phật, tuy được sanh lên cõi trời, tội báng pháp không trừ diệt, vẫn bị đọa vào địa ngục. Làm sao các hành giả vãng sanh Hạ phẩm hạ sanh niệm Phật một tiếng, liền được diệt tội, vãng sanh Tây Phương, vĩnh viễn không còn trầm luân, không còn bị đọa ác đạo, thường hưởng thọ khoái lạc, cho đến khi thành Phật. Đều là niệm Phật, tại sao có thăng trầm khác biệt như vậy? (57)

Đáp: Bọn họ tuy niệm Phật được sanh cõi trời, nhưng chỉ biết hưởng thọ khoái lạc, đam mê ngũ dục, không biết tiếp tục tu thiện, đến lúc phước báo niệm Phật hết, lại bị đọa ba đường ác. Hiện nay, vãng sanh Cực Lạc, sau khi hoa nở, gặp Phật nghe pháp, dần dần tiến tu các đạo phẩm, thường hành sáu Ba la mật, các tội khiên từ vô thỉ, đều lần lần tiêu diệt, các hạnh nguyện thù thắng càng ngày càng tăng trưởng, trăm ngàn tam muội đều hiện trước mắt, quán sát nhân không pháp không, thấu rõ pháp vô sở đắc. Làm sao có thể so sánh chúng sanh của trời cõi Dục, nơi mà nam nữ chỉ hưởng thọ dục lạc, phóng túng sáu căn, tạo tội thập ác, với chúng sanh vãng sanh cõi Cực Lạc!! Lại nữa, bọn họ tuy niệm Phật nhưng chưa ân cần hổ thẹn sám hối và phát tâm Vô thượng Bồ đề cầu sanh Tịnh độ. Vả lại, Bổn nguyện của Đức A Di Đà có nói: “Chúng sanh vãng sanh Cực Lạc, nếu còn đọa ba đường ác, thì tôi sẽ không thành Phật.” Hơn nữa, những người con đó không hề chí tâm tha thiết mà chỉ vì nghe lời dạy của cha mà niệm, cho nên tội chưa trừ diệt, chỉ tạm thời sanh cõi trời, rồi lại đọa ác đạo. Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, phần Hạ phẩm hạ sanh nói: “Hành giả phải niệm đủ mười niệm tội mới trừ diệt.” Bọn họ không chí tâm, lại niệm có một niệm, cho nên tội không trừ diệt, sanh thiên rồi vẫn còn đọa ác đạo. Ví như mắc nợ, người chủ nợ lớn nhất đến trước để kéo đi. Phước lực của niệm Phật lớn, cho nên tạm thời sanh thiên, nhưng tội báng pháp rất nặng, thành thử vẫn kéo xuống ác đạo. Ý nghĩa của hai kinh có những sự khác biệt như vậy.

12. Niệm Phật trừ ma.

Hỏi: Kinh nói: “Trong tâm có ba độc tham sân si thì sẽ chiêu cảm ma quỷ từ bên ngoài vào.” Hiện nay nói Niệm Phật Tam Muội được thấy Đức Phật A Di Đà, đến lúc lâm chung thấy Phật và thánh chúng đem hoa đến rước. Hành giả vãng sanh là phàm phu, trong tâm đầy đủ ba độc, như vậy Phật và thánh chúng đến rước có phải là quỷ thần giả hiện hay không? (58)

Đáp: Nếu tâm có tam độc, tu hành Niệm Phật Tam Muội thấy được Phật A Di Đà, đến lúc lâm chung thánh chúng đến nghinh đón đều là quỷ thần giả hiện, thì tất cả chúng sanh đầy đủ tham sân si, dù không đắc Niệm Phật Tam Muội, hoặc không tu hạnh nghiệp Tây Phương, thì thường phải thấy Phật, và khi lâm chung đều phải thấy Phật A Di Đà mang hoa đến rước. Nếu cho rằng không thấy Phật, Phật không đến rước, thì người đó ắt không có ba độc tham sân si. Hơn nữa, chí tâm xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, tu hành nghiệp Tây Phương, trì trai giữ giới, v.v…, là nhân của ba độc tham sân si, hay không phải là nhân của tham sân si? Nếu là nhân cho ba độc tham sân si, vì lý do gì niệm Phật tu thiện lại sanh khởi ba độc? Nếu vậy, đức Thế Tôn không nên khuyên chúng sanh niệm Phật, v.v… Vả lại, tu thiện niệm Phật chiêu cảm quỷ thần, thì phá trai phá giới ắt không chiêu cảm cảnh tướng ma quỷ! Còn nếu trì trai giữ giới không phải là nhân cho ba độc, thì đó là pháp để trừ diệt ba độc. Tôi tu pháp diệt ba độc mà chỉ thấy ma quỷ, còn ông chưa từng tu pháp diệt ba độc, tại sao ông lại chưa từng thấy Phật?

Nếu dùng đoạn văn này làm chứng cứ để phán quyết nhất định là ma, và người không còn ba độc ắt không bị ma quấy nhiễu, tại sao tôn giả A Nan bị ma làm mê hoặc, không thỉnh đức Thế Tôn tiếp tục an trụ tại thế gian, và tôn giả Ưu Ba Cúc Đa trong khi nhập định lại bị thiên ma lấy vòng hoa choàng lên đầu? Cho nên biết rằng không phải ba độc tham sân si nhất định chiêu cảm ma quỷ, và những người không còn ba độc không bị ma quấy nhiễu. Tại sao lại cứ cho rằng lâm chung thấy Phât đều là quỷ thần ma giả hiện. Lại nữa, nếu ba độc chiêu cảm ma quỷ, tại sao lại chỉ biến hình Phật mới gọi là chiêu cảm cảnh tướng ma. Kinh Đại Niết Bàn nói: “Trong đời vị lai, ma biến hiện thành thân tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, thân Phật, v.v…, đến mê hoặc hành giả.” Đức Phật dạy các đệ tử phải biết biện biệt lời dạy của Phật và lời dụ hoặc của ma, làm cho mọi người nhận thức rõ. Chúng sanh đọa lạc vào cảnh giới ma, phần lớn là y theo lời dụ hoặc, chứ đâu phải hoàn toàn bị hình tướng làm thác loạn. Cho nên Kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy rằng trong lúc tu mười sáu pháp quán, giả như cảnh giới thanh tịnh hiện tiền, không luận là tà hay chánh, nếu trong lúc quán tưởng mà nghe âm thanh giảng nói diệu pháp thì Đức Phật dạy phải xuất định, nhớ kỹ không quên những lời dạy trong định, sau đó đem so sánh với kinh điển để biện định tà chánh.

Căn cứ vào kiến giải của ông, những cảnh tướng biến hiện đều là ma, đây là do thân ông có tà độc tham sân si. Dù thân Phật là do ma biến hiện, đây là do pháp của tôi chân chánh mà hiện ra cảnh ma, thấy thân Phật đến não loạn, hay là do pháp của tôi không chân chánh, tăng trưởng tà pháp, chiêu cảm ma hiện đến? Nếu do pháp chân chánh mà hiện ra cảnh ma, thì lại càng phải chuyên tâm niệm Phật, bởi vì niệm Phật là pháp khiến xuất ly cảnh giới ma. Còn như pháp không chân chánh, tăng trưởng tà độc tham sân si mà lại chiêu cảm ma hiện thân Phật, thì bọn đồ tể, chiên đà la, v.v…, chuyên làm việc ác, ắt phải thường thấy chư Phật mười phương hiện thân. Lúc bọn họ lâm chung, thân tâm ắt phải an lạc, mắt nhìn thấy chư Phật mang hoa đến rước. Nếu đúng như vậy thì Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói về chín phẩm vãng sanh, thánh chúng đến tiếp dẫn ắt phải là pháp ba độc tham sân si. Nếu các thánh chúng đến nghinh tiếp đều là ma, thì Kinh Quán Vô Lượng Thọ ắt không phải là pháp Phật, mà là pháp ma. Vả lại, nếu ba độc tham sân si chiêu cảm ma đến, cần gì phải thấy Phật đến mới gọi là ma đến, nguyện vãng sanh Tây Phương mới gọi là chiêu cảm quỷ thần đến. Thế nhưng, bốn mươi tám nguyện của Đức A Di Đà, tiếp dẫn tất cả chúng sanh phạm tội ác vãng sanh, đây là điều mà kinh Phật nói rõ ràng. Những điềm lành về cảnh tướng vãng sanh, xưa nay đã được ghi chép trong các truyện ký, nào là tiếng nhạc thánh thót, mùi hương vi diệu, tướng lành hiển hiện, lẽ nào đây là những điều bịa đặt hay sao?

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13