THÍCH TỊNH ĐỘ
QUẦN NGHI LUẬN

(Giải Thích Những Nghi Vấn Tịnh Độ)
Pháp sư Hoài Cảm soạn
Thích Pháp Chánh dịch

 

Phần IX: Hành nghiệp của sự vãng sanh

1. Không hữu tùy căn cơ.

Hỏi: Kinh Phật Tạng nói: “Thế nào là ác tri thức, thế nào là thiện tri thức? Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: ‘Nếu có tỳ kheo bảo các tỳ kheo khác rằng: ‘Các ông nên niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên, v.v… Chỉ nên quán sát Niết bàn an ổn tịch diệt, chỉ nên ưa thích sự thanh tịnh rốt ráo.’ Kẻ nào dạy như vậy thì gọi là ác tri thức, người đó là kẻ phỉ báng Phật, hổ trợ ngoại đạo. Ta không cho phép những kẻ ác đó thọ nhận dù một hớp nước để tu hành và dạy dỗ người khác những pháp tà ma.’” Kinh lại nói: “Chẳng thà tạo năm tội nghịch, quyết không khởi các kiến chấp về ngã, chúng sanh, thọ, mạng, ấm, nhập, giới, v.v…” Điều này bao gồm cả việc niệm Phật với tâm chấp trước, v.v… Kinh này lại nói: “Nghe pháp Không vô sở đắc mà khởi tâm chấp trước đều là tà kiến. Nếu đối với pháp Không vô sở đắc, không khởi tâm nghi ngờ, hối hận, mà lại thông đạt sâu xa, không chấp vào tất cả ngã kiến, nhân kiến, v.v…, ta gọi người đó là người tu phạm hạnh thanh tịnh.” Hiện nay khuyên người khác dùng tâm chấp trước (hữu sở đắc) niệm Phật có hình tướng, đây há chẳng phải là điều mà chư Phật quở trách hay sao? (68)

Đáp: Chư Phật giảng pháp đều tùy thuận căn cơ chúng sanh. Căn cơ có sâu cạn khác nhau, cho nên giáo pháp có Đại thừa, Tiểu thừa khác biệt. Do có sự sai biệt về nhân, pháp, kiến đạo, tu đạo, v.v…, cho nên chư Phật cũng tùy theo đó mà giảng pháp không đồng: hoặc đề cao tánh Không, trách cứ pháp hữu vi; hoặc trách cứ sự chấp không, tán thán công đức hữu vi; hoặc dạy bỏ pháp Tiểu thừa, học pháp Đại thừa; hoặc dạy trước tiên học pháp Tiểu thừa, sau đó học pháp Đại thừa. Bởi có nhiều loại căn cơ khác nhau nên mới có tám vạn pháp môn sai biệt, tùy vào cơ duyên chúng sanh mà hóa độ, thật không thể nghĩ bàn. Kinh Phật Tạng trách cứ tâm chấp trước cho rằng “chẳng thà tạo tội ngũ nghịch, v.v…”, thế nhưng có những kinh khác lại dạy rằng “thà khởi ngã kiến to như núi Tu Di, không khởi không kiến nhỏ như hạt cải.” Lại như Kinh Pháp Hoa dạy “không được gần gũi những học giả Tiểu thừa”, thế nhưng Kinh Thập Luân lại dạy rằng “không đủ sức uống cạn một dòng sông, làm thế nào có thể uống hết nước biển lớn, chưa học tập pháp Tiểu thừa, thì làm thế nào đủ sức học tập pháp Đại thừa?” Những lời dạy như vậy rải rác trong các kinh điển Đại thừa, hoặc trách cứ hữu vi, khen ngợi tánh Không, hoặc ca ngợi Đại thừa, hoặc ca ngợi Tiểu thừa, hoàn toàn không nhất định, đây đều là vì muốn thích ứng căn cơ trình độ của người tu nên mới có những lời dạy khác biệt. Đức Phật có hai thân, chân thân (pháp thân) và ứng thân khác nhau, người học Phật cũng có trình độ thấp cao khác biệt. Pháp thân thâm sâu vi diệu, siêu vượt các pháp hữu vi vô vi, bách phi, tứ cú, v.v… Điều này các người học Phật trình độ cao có thể đối với pháp đệ nhất nghĩa đế tâm không lay động, thế nhưng vẫn còn chấp tướng, vẫn còn tâm phân biệt. Kinh Phật Tạng quở trách tâm chấp trước với mục đích khiến cho hành giả diệt trừ hai sự chấp trước vào nhân và pháp, dạy họ quán pháp vô sở đắc, tu tập pháp quán niệm pháp thân Phật, cho nên kinh ấy mới nói rằng “thấy được vô sở đắc gọi là niệm Phật.” Còn đối với những hành giả trình độ thấp, vừa mới bỏ tà về chánh, phát tâm Bồ đề, nguyện sanh Tịnh độ, chưa hiểu rõ pháp vô sở đắc, nếu bảo họ quán không, ắt sẽ cho rằng nhân quả vốn tịch diệt (không nhân không quả) rồi lại không còn biết sợ nhơn quả tội báo, gây tạo thêm phiền não. Nếu không nói rộng cho họ biết về nhân quả, sự khác biệt của thiện ác, các cõi lành dữ khác nhau, thân tướng của chư Phật không thể nghĩ bàn, thì họ làm thế nào có thể phát khởi tâm lành, sợ hãi tội chướng, nhàm lìa cõi uế, mong cầu cõi Tịnh, chuyên tâm quán tưởng bạch hào, quán sát cảnh tướng Cực Lạc, diệt trừ tội chướng, thành tựu nhân duyên vãng sanh. Kinh Hiền Hộ dạy: “Nếu tỳ kheo, tỳ kheo ni, v.v…, trì giới thanh tịnh, đầy đủ các hạnh, hướng về Tây Phương, quán tưởng Đức Phật A Di Đà rõ ràng minh bạch, liên tục không ngừng, thì hành giả đó rốt ráo được diện kiến Đức A Di Đà. Hành giả nên quán sát sắc thân như vậy.” Kinh lại dạy rằng: “Đức A Di Đà Như Lai Chánh Biến Giác đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân sắc quang minh như khối vàng Diêm phù đàn, v.v…. Không quán niệm Đức Phật ấy, cũng không thấy sắc thân của ngài, như vậy theo thứ tự sẽ đắc được Không tam muội. Thiện nam tử! Đây gọi là Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội.” Kinh Quán Tam Muội Hải dạy: “Đức Như Lai cũng có pháp thân, mười lực, bốn vô úy, ba giải thoát, thần thông tự tại. Những việc như vậy, không phải là cảnh giới mà phàm phu các ông có thể học tập. Các ông chỉ cần dùng lòng tin sâu thiết, khởi tâm tùy hỷ. Sau đó hệ niệm công đức của chư Phật.” Nên biết, đối với người trình độ thấp, Phật dạy quán sắc thân, đối với người trình độ cao, Phật dạy quán pháp thân, nên mới nói rằng “theo thứ tự sẽ đắc được Không tam muội.” Hơn nữa, đối với hành giả ưa thích quán sát “lý Phật”, Phật dạy quán thân vô tướng, còn đối với người cầu thấy “sắc thân”, Phật dạy quán thân sắc tướng. Phải nên khéo hiểu ý thú của kinh điển, không thể vội vàng khởi tâm khen chê, mà nên biết rõ Đức Phật khéo tùy thuận căn tánh của chúng sanh.

2. Chỉ khuyên vãng sanh Tây Phương.

Hỏi: Các cõi Tịnh độ ở mười phương nhiều vô lượng vô biên, vả lại cũng có người khuyên vãng sanh về các cõi Tịnh độ khác, tại sao ở đây lại chỉ khuyên vãng sanh Tây Phương Cực Lạc? (69)

Đáp: Có ba cách giải thích. Một là tuy nói về cõi Tịnh độ đó, nhưng không khuyên vãng sanh; hai là chỉ khuyên một số người vãng sanh; ba là lời khuyên không đầy đủ.

1) Nói về cõi Tịnh độ nhưng không khuyên vãng sanh: Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: “Từ đây hướng về phương Tây, vượt qua bốn mươi hai hằng hà sa thế giới, có một cõi Tịnh độ tên là Vô Thắng, cảnh giới thù thắng giống như cõi Cực Lạc. Đức Như Lai từ cõi Tịnh độ đó thị hiện giáng sanh tại cõi Ta Bà này, giáo hóa chúng sanh.” Nếu như cõi Tịnh độ đều có thể vãng sanh, tại sao Đức Thích Ca Như Lai không khuyến khích mọi người vãng sanh cõi ấy, mà lại chỉ khuyên vãng sanh Tây Phương Cực Lạc? Hơn nữa, nhiều kinh Đại thừa tuy cũng nói về các cõi Tịnh độ nhưng không khuyến khích vãng sanh.

2) Chỉ khuyên một số người vãng sanh: Như trong Kinh Duy Ma Cật, ngài Duy Ma Cật đưa tay tiếp thế giới Diệu Hỷ đặt vào cõi Ta Bà để cho đại chúng chiêm ngưỡng. Đức Phật khuyên đại chúng vãng sanh về cõi đó thì có mười bốn na do tha chúng sanh phát tâm Bồ đề nguyện sanh về cõi Diệu Hỷ, và Đức Phật thọ ký cho họ được vãng sanh, tức là phần dưới của kinh nói thế giới Diệu Hỷ sau khi làm lợi ích cho chúng sanh cõi Ta Bà xong bèn trở về bổn xứ. Nếu cõi Tịnh độ này thích hợp cho mọi người, tại sao Đức Phật lại không khuyến khích mọi người nguyện vãng sanh thế giới Diệu Hỷ? Cho nên biết rằng chúng sanh cõi này không có duyên với cõi Diệu Hỷ, vì thế Đức Phật không khuyến khích cầu vãng sanh.

3) Lời khuyên không đầy đủ: Kinh Tùy Nguyện Vãng Sanh, Kinh Dược Sư, v.v…, tuy cũng nêu lên các cõi Tịnh độ phương khác và khuyên vãng sanh, thế nhưng kinh văn không đề cập chi tiết. Nói chi tiết là sao? Chẳng hạn như Kinh Quán Vô Lượng Thọ, v.v…, khuyên vãng sanh đã đề cập đến những phần như sau: (a) Nêu rõ người vãng sanh là phàm phu; (b) nêu rõ vị lai; (c) nêu rõ sự tạo tội nhiều ít; (d) có chư Phật mười phương hiện tướng lưỡi chứng minh; (e) có nhiều bản kinh đồng chứng minh, có thể y theo đây tu tập không còn nghi ngại. Nên biết rằng pháp tu Vãng sanh Cực Lạc rất dễ thực hành, còn các pháp tu vãng sanh về các cõi Tịnh độ khác, kinh điển chỉ đề cập vài ba câu, chỉ dẫn sơ sài, khó y theo đó mà tu tập. Tại sao lại bỏ sự chỉ dẫn tu tập chi tiết mà y theo những lời chỉ dẫn tu tập sơ sài. Hơn nữa, kinh điển khuyên nên y theo kinh điển liễu nghĩa, không nên y theo kinh điển không liễu nghĩa. Ngài Tam tạng pháp sư (Trí Giả?), trong quyển Quán Kinh Sớ, đã giải thích tường tận rằng các kinh liễu nghĩa bất liễu nghĩa có bốn loại. Hiện nay giáo nghĩa Tịnh độ có đầy đủ bốn loại kinh liễu nghĩa và bất liễu nghĩa, có thể căn cứ vào đó để tu hạnh Tịnh độ; còn các kinh khác tuy cũng nói về giáo nghĩa Tịnh độ, nhưng không đầy đủ bốn nghĩa, khó có thể căn cứ vào đó mà tu hành Tịnh nghiệp.

3. Mạng chung hỷ xả.

Hỏi: Các bộ luận cho rằng khi mạng chung, hoặc thọ sanh, tâm thái đều ở trạng thái xả thọ. Vì sao Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho rằng người sắp vãng sanh tâm ý hoan hỷ phấn chấn, tự thấy thân mình ngồi trên đài kim cang. Tâm thái hỷ thọ mạnh mẽ như vậy, sao lại cho rằng khi mạng chung ở trong trạng thái xả thọ? (70)

Đáp: Có một pháp sư giải thích rằng sự thọ sanh ở cõi trược uế, vì không có thánh chúng đến nghinh tiếp nên tâm thái người lâm chung chỉ ở trạng thái xả thọ, còn sự vãng sanh Tịnh độ, vì có thánh chúng đến nghinh tiếp và được chư Phật Bồ tát từ bi gia bị cho nên tâm thái hành giả lâm chung hoan hỷ phấn chấn. Các bộ luận phần nhiều căn cứ vào sự thọ sanh ở cõi uế cho nên mới nói như vậy, không thể cho đây là tiêu chuẩn duy nhất. Có người cho rằng lúc mạng chung tâm thức cũng ở trong trạng thái xả thọ, chỉ vì trạng thái xả thọ yếu ớt, và khi lâm chung trạng thái hỷ thọ mạnh mẽ, cho nên y vào đây mà cho rằng hành giả hoan hỷ phấn chấn. Thật ra đến lúc chánh thức mạng chung, tâm thái cũng sẽ trụ trong trạng thái xả thọ mà vãng sanh. Kinh và luận cùng một cách giải thích, không có sự mâu thuẫn.

4. Niệm Phật dài ngắn.

Hỏi: Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói rằng lúc lâm chung chỉ cần niệm Phật một niệm cho đến mười niệm đều được vãng sanh, Kinh A Di Đà cho rằng phải niệm Phật đến nhất tâm bất loạn trong vòng một ngày cho đến bảy ngày mới được vãng sanh, còn Kinh Vô Lượng Thọ lại cho rằng phải chuyên tâm niệm Phật trọn đời mới được vãng sanh thế giới Cực Lạc. Nếu cần phải niệm cả đời mới được vãng sanh thì những lời dạy về niệm Phật một ngày bảy ngày, một niệm mười niệm đều chỉ là những lời hư dối. Còn nếu chỉ cần một niệm mười niệm, v.v…, là được vãng sanh thì cần gì phải dạy niệm Phật bảy ngày, cho đến niệm Phật trọn đời? (71)

Đáp: Niệm Phật một niệm, mười niệm, một ngày, bảy ngày, nhẫn đến niệm Phật trọn đời đều được vãng sanh Cực Lạc. Tất cả những lời dạy này đều không phải hư dối mà đều là lời thành thật. Đức Phật là bậc nói lời thật không hề hư dối lẽ nào ngài lại nói những lời sai lầm giả dối hay sao? Thế nhưng, những người tu Niệm Phật gặp được pháp môn Tịnh độ hoặc sớm hoặc muộn, phát tâm cầu vãng sanh có nhanh có chậm, hoặc tuổi thọ có dài ngắn khác nhau. Hoặc lúc lâm chung mới gặp được thiện tri thức dạy bảo phát tâm niệm Phật cũng được vãng sanh, và tuy được vãng sanh nhưng chỉ được hạ phẩm. Hoặc có người mạng căn chưa dứt, trải qua một ngày, hai ngày, hoặc trải qua nhiều ngày niệm Phật được nhất tâm bất loạn, thì Đức Phật tùy theo thọ mạng của họ mà bảo niệm Phật một ngày cho đến nhiều ngày. Hoặc có người thọ mạng dài lâu, thì Đức Phật cũng tùy theo thọ mạng của họ mà dạy niệm Phật suốt đời. Không thể đối với người thọ mạng ngắn ngủi lại bảo họ niệm Phật dài lâu, hoặc đối với người thọ mạng trăm năm lại bảo họ niệm Phật một ngày cho đến bảy ngày. Vì thế ba kinh Tịnh độ tuy đều khuyên niệm Phật, mỗi kinh tùy theo một nghĩa mà dạy phương pháp niệm Phật khác nhau, mà những ý nghĩa này cũng không hề mâu thuẫn. Kinh Quán Vô Lượng Thọ đối với người sắp lâm chung dạy pháp niệm Phật một niệm mười niệm để được vãng sanh, Kinh A Di Đà đối với người còn thọ mạng vài ngày dạy pháp niệm Phật một ngày cho đến bảy ngày để được vãng sanh, và Kinh Vô Lượng Thọ đối với những người còn thọ mạng lâu dài, hoặc dạy tích tập công đức, hoặc dạy pháp niệm Phật trọn đời để được vãng sanh. Lại nữa phương pháp khác biệt này tức là sự tu tập của ba phẩm, đối với bậc thượng phẩm dạy tu niệm Phật trọn đời, đối với bậc trung phẩm dạy tu niệm Phật một ngày đến bảy ngày, còn đối với bậc hạ phẩm dạy tu niệm Phật một niệm cho đến mười niệm. Trong chín phẩm vãng sanh lại cũng chia nhiều giai vị khác biệt. Tuy đều được vãng sanh, không còn chịu sự khổ não, nhưng hoa nở có sớm có muộn, sự ngộ đạo cũng có mau có chậm, cho nên các kinh dạy khác nhau là có ý nghĩa này.

5. Thoái vị hân tịnh.

Hỏi: Cõi Ta Bà này có mười sự kiện thù thắng mà các cõi Tịnh độ khác không có. Hơn nữa, tu đạo một ngày đêm ở cõi này thù thắng hơn tu đạo trăm năm ở cõi Cực Lạc. Y vào những lời kinh này, ở cõi Ta Bà tu tập thù thắng hơn cõi Tịnh độ, tại sao lại khuyên mọi người vãng sanh Tây Phương? (72)

Đáp: Nếu đúng như lời cật vấn thì tất cả pháp môn Tịnh độ đều không cần thiết. Ông dẫn lời kinh vừa nêu trên cho rằng pháp môn Tịnh độ không có lợi ích, nếu thế các kinh điển Tịnh độ ân cần khuyên khích mọi người vãng sanh với mục đích gì? Vả lại, hai kinh mà ông dẫn chứng chỉ là đối với một số người căn cơ thích hợp mà nêu lên sự khen ngợi khuyến khích không đồng. Khen ngợi những hành giả an trụ cõi Ta Bà là muốn cho các Bồ tát đang trụ tại cõi uế trược không mất niềm tin vào những công hạnh tu tập của mình, có thể làm lợi ích chúng sanh khổ não, vì thế đối với các Bồ tát có tâm đại bi thù thắng thì Đức Phật khen ngợi sự an trú tại cõi uế trược. Còn đối với những Bồ tát cư trú tại cõi uế, đang gặp ác duyên, gây tạo nhiều tội chướng thì Đức Phật khuyên họ vãng sanh Tịnh độ, lìa xa các ác duyên, để khỏi bị luân hồi. Ý thú khác nhau của các kinh điển là để thích ứng hai loại căn tánh không đồng, tại sao lại dẫn những lời kinh Duy Ma Cật tán thán các Bồ tát cư trú tại cõi uế làm lợi ích chúng sanh, rồi lại cho rằng chỉ cần ở cõi uế này tu đạo, cần gì phải cầu vãng sanh Tịnh độ? Tuy ở cõi uế này tu đạo một ngày đêm công đức ngang bằng với sự tu đạo ở cõi kia một trăm năm, nhưng ở cõi này ít có cơ hội thấy Phật, gần gũi thiện tri thức, mà phần lớn đều là gặp ác tri thức, hoặc gặp nhân duyên thoái chuyển sự tu hành, cho nên các kinh điển đều khuyến tấn hành giả vãng sanh Tịnh độ. Trong Kinh Đại Tập, phần Nhật Mật, thứ hai mươi tám, nói: “Các thiện nam tử! Các đệ tử của Đức Phật ở cõi ấy (Ta Bà) phiền não kiên cố, tham luyến sâu nặng, hình tướng xấu xí, thường khởi tâm kiêu mạn, hay nói lời ác, nói lời đâm thọc, nói lời gian dối. Kỳ thật là ngu si nhưng lại trá hiện tướng trí tuệ; tánh tình bỏn sẻn nhưng lại trá hiện tướng bố thí; tâm tánh điêu ngoa nhưng lại trá hiện tướng chân thực; tâm ý nhơ nhớp nhưng lại trá hiện tướng thanh tịnh; lòng đầy ghen tị nhưng lại trá hiện tướng nhu thuận; mong người khác chia rẽ nhưng lại trá hiện tướng hòa hợp; thường khởi tà kiến nhưng lại trá hiện tướng chánh kiến. Chúng sanh cõi đó vì nghe theo lời người nữ mà đoạn tuyệt căn lành, tăng gia ba đường ác. Thiện nam tử! Nay ông có thể vì ta mà làm sứ giả đến cõi đó hay không? … Lúc ấy Bồ tát Nhật Mật bạch Đức Phật rằng: ‘Bạch Thế Tôn, con có thể đọc chú đó cho chúng sanh cõi ấy nghe, nhưng con đối với cõi ấy sanh lòng lo sợ. Vì sao? Đức Như Lai vừa nói với chúng con về sự tệ ác của chúng sanh cõi đó, bọn họ giống như những kẻ đui điếc câm ngọng, nghe theo lời xúi dục của người nữ. Bạch Thế Tôn, nếu có những kẻ nào thuận theo ý của người nữ, nên biết những kẻ ấy đều đã đoạn tuyệt căn lành.’ Phật bảo: ‘Thiện nam tử! Ông không nên chỉ vì lợi lạc đời nay đời sau, mà nên vì lợi lạc tất cả chúng sanh mà đến cõi đó tuyên dương Phật pháp, đừng nên nghi ngờ lo lắng. Thiện nam tử! Ông không phải là Duy Ma Cật của cõi đó hay sao? Tại sao lại cảm thấy lo sợ? Có vô lượng vô số Bồ tát tâm ý dao động, nhất tâm hệ niệm muốn đến gần gũi lễ bái Đức Thích Ca Như Lai cùng chư vị Bồ tát, và cũng muốn nghe kinh điển vi diệu. Những Bồ tát đó đều đồng tâm muốn đi đến thế giới Ta Bà, nhưng ta muốn khuyên họ đừng đi đến cõi ấy. Vì sao? Vì bọn họ tâm ý chưa kiên định. Nếu đến cõi ấy, hoặc sẽ sanh tâm điên đảo, gần gũi ác tri thức.’” Bồ tát tâm chưa kiên định là những Bồ tát sơ vị thoái hành, gọi là bất định. Vì Bồ tát tâm chưa kiên định nên e rằng đến cõi Ta Bà này gặp ác duyên sẽ gây tạo nghiệp ác và bị thoái chuyển. Các Bồ tát cõi ấy chỉ tạm thời đến cõi Ta Bà mà còn cảm thấy lo sợ không dám đến, các người tu hành ở cõi này chưa chứng được quả vị bất thoái mà lại muốn ở lại đây tu hành không chịu vãng sanh thế giới Cực Lạc, đây là một điều sai lầm to lớn. Luận Du Già Sư Địa, quyển 78, dẫn kinh Giải Thâm Mật nói: “Văn Thù Sư Lợi Bồ tát hỏi Đức Phật: ‘Bạch Đức Thế Tôn! Ở cõi uế trược, việc nào dễ được, việc nào khó được?” Phật đáp: ‘Thiện nam tử! Ở cõi uế trược, có tám việc dễ được và hai việc khó được. Tám việc dễ được là: (1) ngoại đạo, (2) chúng sanh khổ não, (3) người giàu người nghèo khác biệt, (4) làm việc ác, (5) phạm giới, (6) đọa ác đạo, (7) các pháp môn hạ liệt, (8) các Bồ tát hạ đẳng. Hai việc khó được là: (1) các vị Bồ tát thượng đẳng, (2) chư Phật xuất hiện thế gian. Thiện nam tử! Sự việc ở cõi Tịnh độ đều trái ngược với những điều vừa nêu trên, bởi thế chư Phật đều khuyên chúng sanh cõi trược uế nên vãng sanh Tịnh độ.”

6. Có hay không có hóa nữ.

Hỏi: Cõi Tịnh độ không có ba đường ác nhưng lại có hóa điểu thuyết pháp, nếu vậy, cõi ấy tuy không có người nữ nhưng có hóa nữ thuyết pháp hay không? (73)

Đáp: Có hai cách giải thích: (1) Chỉ có hóa điểu mà không có hóa nữ. Vì sao? Bởi vì kinh chỉ nói đến hóa điểu mà không nói đến hóa nữ. Nếu như có hóa nữ thì kinh đã phải đề cập đến. Hơn nữa,  Luận Vãng Sanh cũng nói: “Nữ nhân, người tàn phế, Nhị thừa không vãng sanh.” Vả lại, kinh chưa hẳn đã nói hết về sự biến hóa trang nghiêm của cõi Tịnh độ, chẳng hạn Kinh Xưng Tán Tịnh độ nói: “Giả sử Đức Thế Tôn sống lâu trăm ngàn kiếp, biến ra vô số lưỡi để nói về cảnh tướng trang nghiêm của cõi Tịnh độ cũng không nói hết.” Chả lẽ vì kinh chưa đề cập đến bèn cho rằng cõi Tịnh độ không có điều đó hay sao? (2) Cõi Tịnh độ có hóa nữ. Như Kinh Quán Âm Thọ Ký nói: “Đức Quán Thế Âm Bồ tát hóa ra vô lượng nữ nhân.” Đây không phải là hóa nữ hay sao? Hơn nữa, Kinh Cổ Âm Thanh Vương nói: “Phật A Di Đà có cha có mẹ. Vì muốn hóa độ người căn cơ thấp nên hóa hiện có người nữ, vì muốn hóa độ người căn cơ cao nên hóa hiện không có người nữ.” Hai điều này không trái nghịch nhau.

7. Bất tạp kiết sử.

Hỏi: Kinh Di Lặc Phát Vấn nói: “Pháp niệm mười niệm không phải là pháp niệm của phàm phu ngu muội, mà là pháp niệm thanh tịnh.” Nếu vậy, các chúng sanh phàm phu ngu muội làm thế nào niệm Phật thanh tịnh? (74)

Đáp: Nếu pháp niệm mười niệm không phải là pháp niệm của phàm phu ngu muội, chả lẽ đó là pháp niệm của thánh nhân? Còn pháp niệm thanh tịnh, chả lẽ là pháp niệm đoạn trừ hẳn phiền não hay sao? Bổn ý của kinh muốn nói rằng “không phải pháp niệm của phàm phu”, không có nghĩa phải là pháp niệm của thánh nhân; “pháp niệm thanh tịnh”, không có nghĩa là pháp niệm dứt sạch phiền não, mà chỉ muốn nói rằng pháp niệm mười niệm này có thể giúp hành giả xả bỏ sự luân hồi ở cõi Ta Bà mà thuận theo sự xuất thế giải thoát. Chúng sanh phàm ngu phần lớn thuận theo dòng sanh tử, tăng trưởng phiền não, tạo nghiệp luân hồi. Nay tu pháp niệm mười niệm, nguyện vãng sanh Tịnh độ, đi ngược dòng sanh tử, thuận theo đường niết bàn, hướng về pháp thánh hiền, đi vào cửa đoạn trừ vọng hoặc, cho nên kinh mới nói “không phải pháp niệm phàm ngu, mà là pháp niệm thanh tịnh.” Ví như tỳ kheo thọ giới được gọi là “thọ giới của chư thánh đã thọ”, chả lẽ giới này không phải là giới phàm phu được thọ? Trường hợp vừa trình bày cũng giống như thế, phân tích sẽ biết.

8. Đối trị lúc lâm chung.

Hỏi: Niệm Phật A Di Đà cầu sanh Tây Phương cũng phải cần niệm nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm, mới được vãng sanh; hơn nữa, lại còn phải ân cần, thành khẩn, siêng năng niệm Phật dài lâu. Nếu như, đến lúc sắp chết chỉ cần chí thành niệm Phật cũng được vãng sanh, thì cõi người này ngày tháng ngắn ngủi, chỉ sống trăm năm, vui ít khổ nhiều, dễ chia lìa, khó hội ngộ, cuộc vui ngắn ngủi, chi bằng chạy theo ngũ dục, phóng túng lục tình, ngày đêm hưởng lạc, đợi đến lúc chết, chỉ cần niệm Phật một câu cũng được vãng sanh, vượt thoát cõi khổ, cần gì phải lâu năm suốt tháng gắng sức khổ hạnh, lao nhọc tu hành, chuyên cần ba nghiệp. Hai phương cách đều được vãng sanh, tại sao lại phải nhọc công khổ hạnh tu tập lâu dài? (75)

Đáp: Điều này có nhiều ý nghĩa, không thể chỉ nghe phong phanh về pháp môn Tịnh độ rồi bỏ phế không tu, đợi đến lúc sắp chết rồi mới chuyên tâm niệm Phật. Ông mong được vãng sanh Tịnh độ, xa lìa sự khổ ở cõi Ta bà, nhưng lại không cầu Vô thượng Bồ đề, không chịu tu Bồ tát hạnh, mà chỉ muốn về đó để phóng túng hưởng lạc, không cầu sớm chứng Vô sanh, cho nên mới mong vào phút lâm chung cầu may được vãng sanh. Nếu như thật sự có chí cầu quả Phật, thương xót chúng sanh, mong chóng thành Chánh giác, e rằng ở cõi này sẽ bị thoái chuyển tâm Bồ đề, muốn sanh về cõi Tịnh độ để được tăng tiến tu hành, chứng quả bất thoái, cứu độ chúng sanh, thì phải nên  tu tập vạn hạnh dài lâu không ngừng không nghỉ. Tại sao hiện nay đối với pháp môn Tịnh độ không chịu tu hành, lại còn kiêu sa phóng túng, đợi đến lúc sắp chết mới niệm Phật cầu nguyện vãng sanh?

9. Tịnh độ mau chứng.

Hỏi: Kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói: “Vãng sanh Cực Lạc mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.” Nếu ở cõi đó tu đạo trăm năm chỉ bằng ở cõi này tu đạo một ngày thì làm sao có thể mau chứng Vô thượng Đại bồ đề? (76)

Đáp: Nếu nói ở trong cảnh khổ tu đạo một ngày có thể trội hơn ở cõi Cực Lạc tu đạo trăm năm, nhưng ở cõi này nếu gặp ác duyên thường bị thoái chuyển nhiều kiếp, rốt cuộc vẫn là tu chậm hơn ở cõi kia. Ở cõi Cực Lạc tuy tu trăm năm chỉ bằng ở cõi này tu một ngày, nhưng chỉ có tiến mà không thoái, thành thử vẫn có thể gọi là tu đạo mau chứng đạo quả Vô thượng Bồ đề. Như người tuy đi nhanh nhưng lại thường ngừng nghỉ, hóa ra chậm đến mục tiêu. Vì lý do này, tuy ở cõi Ta Bà tu đạo một ngày trội hơn ở cõi kia tu đạo trăm năm, nhưng Đức Phật vẫn không cho rằng ở cõi này mau chứng Bồ đề. Còn như người tuy đi chậm, nhưng ở khoảng giữa tiếp tục đi không ngừng nghỉ, sẽ mau đến mục tiêu, do đây được gọi là mau chứng Bồ đề.

10. Thường khuyên niệm Phật.

Hỏi: Niệm Phật vài câu nào có khó gì? Chẳng hạn như những người sắp chết, thời gian ngắn ngủi, lại bị khổ não bức bách, không thể tu các môn Phật pháp thâm sâu như giới định tuệ, v.v…, nhưng vẫn có thể niệm Phật. Còn những người đang sống, thọ mạng còn dài, lại không bị khổ sở bức bách, tại sao không dạy họ quán Không, vô tướng, vô nguyện, tu tập các đạo phẩm, học rộng các pháp môn thâm sâu, mà lại khuyên họ chuyên tu niệm Phật. Đây là có ý gì? (77)

Đáp: Hành giả một đời tu Tịnh nghiệp, không nhất thiết phải chuyên tu niệm Phật, nhưng những người tu hành, căn tánh có lợi có độn, trình độ có sâu có cạn, thành thử pháp môn chia làm hai môn định tán, giai bậc vãng sanh cũng chia làm chín phẩm khác biệt. Đối với những hành giả lợi căn tâm tĩnh thì dạy cho họ tu pháp môn bình đẳng quán sát hữu tướng vô tướng, còn đối với những hành giả độn căn tâm loạn, thì dạy cho họ tu tập thiện nghiệp ba phước, chín phẩm, khuyên họ không nên chỉ chuyên niệm Phật, mà còn phải tu những pháp môn khác. Nếu họ không thể rộng tu các hạnh, thì niệm Phật cũng có thể vãng sanh Tịnh độ. Hơn nữa pháp môn Niệm Phật, có sâu có cạn, có định môn có tán môn, người căn cơ dù cao dù thấp đều có thể tu hành. Tu tập định môn bao gồm từ các phàm phu cho đến các bậc Bồ tát Thập địa, hành trì Niệm Phật Tam Muội, thâm sâu vi diệu. Các kinh Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Văn Thù Bát Nhã, Đại Tập Hiền Hộ, Quán Phật Tam Muội đều tán thán Niệm Phật Tam Muội là bất khả tư nghì. Như trong Kinh Hoa Nghiêm, đồng tử Thiện Tài thỉnh cầu tỳ kheo Đức Vân phương pháp tu tập Bồ tát hạnh, ngài Đức Vân chỉ dạy pháp môn Niệm Phật Tam Muội, tức là pháp môn thâm sâu đang bàn ở đây. Tu tập tán môn bao gồm tất cả chúng sanh, lúc đi lúc ngồi, ở mọi nơi, trong mọi thời, đều có thể tu tập mà không chướng ngại công tác hàng ngày, đến lúc mạng chung, cũng sẽ thành tựu công hạnh vãng sanh. Hơn nữa, tuy Phật cũng dạy tu tập các hạnh khác để vãng sanh, nhưng kinh điển ít đề cập đến, còn tu tập pháp môn Niệm Phật để vãng sanh thì kinh điển nói đến rất nhiều. Ở đây chỉ nêu lên vài chứng cứ để hành giả hiểu rõ. Kinh A Di Đà chỉ nói niệm Phật A Di Đà được vãng sanh Tây Phương, hằng hà sa chư Phật ở sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài để chứng minh hành giả niệm Phật đều được vãng sanh. Kinh Quán Vô Lượng Thọ, trong phần Hạ phẩm thượng sanh, Hạ phẩm trung sanh và Hạ phẩm hạ sanh đều nêu lên việc niệm Phật A Di Đà vãng sanh Tịnh độ, lại còn cho rằng chư

Phật luôn luôn nhiếp hộ chúng sanh niệm Phật. Kinh Vô Lượng Thọ cũng nói ba hạng thượng trung hạ, công hạnh có sâu có cạn, chỉ cần một lòng niệm Phật A Di Đà đều được vãng sanh Cực Lạc. Hơn nữa, trong phần Bốn mươi tám nguyện, đối với pháp Niệm Phật, đặc biệt có một nguyện (thứ 18) nói: “Cho đến mười niệm, nếu không được vãng sanh, tôi thệ không thành Chánh Giác.” Các kinh Bát Chu Tam Muội, Đại Tập Hiền Hộ nói rằng các chúng sinh niệm danh hiệu A Di Đà bảy ngày đêm, khi thấy được Phật A Di Đà, bèn hỏi: “Chúng sanh tu hành pháp nào để được vãng sanh Tịnh độ?” Đức A Di Đà trả lời: “Muốn sanh nước ta, phải nên niệm danh hiệu ta, không được gián đoạn, ắt sẽ được vãng sanh.” Kinh Cổ Âm Vương Đà La Ni cũng khuyên chúng sanh niệm Phật A Di Đà mười ngày đêm thì được vãng sanh Cực Lạc.” Kinh Hoa Nghiêm nói: “Đắc Niệm Phật Tam Muội ắt sẽ thấy Phật, sau khi mạng chung sẽ được sanh ở trước Phật. Thấy người lâm chung nên khuyên họ niệm Phật, lại phải đem hình tượng Phật cho người sắp mất trông thấy để họ khởi lòng tôn kính.” Kinh Chiêm Sát nói: “Nếu muốn vãng sanh mười phương cõi Phật, nên niệm danh hiệu Đức Phật cõi đó, thì sẽ được vãng sanh.” Như vậy, vô lượng kinh điển Đại thừa phần lớn đều nói niệm Phật vãng sanh Tịnh độ. Hiện nay, khuyên các hành giả niệm Phật, không có nghĩa là ngăn trở việc tu các công hạnh vi diệu khác, mà chỉ muốn nói rằng pháp môn Niệm Phật được nhiều kinh điển đề cập đến, khi đi khi ngồi, cho đến khi lâm chung cũng vẫn niệm Phật được, rất an ổn thích đáng, nên mới khuyên nhắc mà thôi.

11. Chư ác không khởi.

Hỏi: Những chúng sanh vãng sanh Cực Lạc nếu chưa chứng quả thánh thì vẫn còn là phàm phu đầy đủ phiền não, tại sao họ lại không sanh khởi nghiệp ác? Nếu sanh khởi nghiệp ác tức là đã đi ngược lại bổn nguyện của Đức A Di Đà, như vậy lời nguyện “chúng sanh ở cõi ta không có tên ác” làm sao giải thích cho ổn? (78)

Đáp: Những phàm phu ở cõi Cực Lạc, tuy chưa đắc thánh quả, nhưng tất cả những việc bất thiện đều không hiện hành. Hơn nữa, bất thiện không hiện hành có nhiều hàm ý, hoặc là họ đã khởi duyên thánh đạo, đoạn trừ phiền não, hoặc đã tu tập phương tiện thánh đạo hàng phục hiện hành, hoặc do khiếm khuyết cảnh ác mà phiền não không sanh, hoặc thường gặp thiện duyên, không có nguyên do để tạo tội, hoặc duyên vào các tư lương, khiến cho tội lỗi không sanh, hoặc nương vào bổn nguyện của Phật mà ác nghiệp không khởi, tuy vẫn còn chủng tử phiền não, nhưng phiền não không hiện hành. Cho nên Kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói: “Hoa tỏa mùi hương vi diệu, tuy khiến cho người nghe cảm thấy vui sướng, nhưng không làm cho họ tăng trưởng tham ái.” Lại như, nước tám công đức khiến cho người uống tăng trưởng nhiều căn lành thù thắng, và như hương phạn (cơm thơm) ở cõi Phật Hương Tích làm tất cả Phật sự, v.v… Do các duyên này mà chúng sanh cõi đó không sanh khởi các ác nghiệp.

12. Ngũ nghịch không định.

Hỏi: Kinh nói có bốn loại nghiệp – (1) hiện báo nghiệp, (2) sanh báo nghiệp, (3) hậu báo nghiệp, và (4) bất định nghiệp. Ba nghiệp trước là định nghiệp, nhất định chiêu cảm quả báo, nghiệp cuối là bất định nghiệp, hoặc chiêu cảm hoặc không chiêu cảm quả báo. Lại có bốn loại nghiệp: (1) quả báo nhất định, thời gian thọ báo không nhất định, (2) thời gian thọ báo nhất định, quả báo không nhất định, (3) thời gian thọ báo và quả báo đều nhất định, và (4) thời gian thọ báo và quả báo đều không nhất định. (1) và (3) là định nghiệp, còn (2) và (4) là bất định nghiệp. Các kinh điển đều nói tội ngũ nghịch là sanh báo nghiệp, tức là thời gian thọ báo và quả báo đều nhất định, tại sao Kinh Quán Vô Lượng Thọ lại nói tội báo ngũ nghịch được tiêu trừ và được vãng sanh Tây Phương? (79)

Đáp: Bốn loại nghiệp, tám loại nghiệp này, Đức Phật ở trong chín bộ kinh bất liễu nghĩa (Tiểu thừa), vì các phàm phu chưa tin nghiệp báo mà nói có những nghiệp có quả báo nhất định, còn trong các kinh Đại thừa liễu nghĩa, Phật nói tất cả nghiệp đều không có quả báo nhất định. Như trong Kinh Đại Niết Bàn, quyển mười chín nói: “Kỳ Bà vì vua A Xà Thế nói pháp sám hối, khiến cho tội báo của nhà vua được trừ diệt… Thần (Kỳ Bà) nghe Phật nói tu một tâm thiện có thể phá trừ trăm loại nghiệp ác, như một ít độc dược có thể gây hại chúng sanh, một ít thiện căn cũng vậy, có thể phá trừ nghiệp ác lớn.” Lại nữa, quyển ba mươi mốt nói: “Thiện nam tử, có những chúng sanh không tin nghiệp quả, vì muốn độ bọn họ nên mới nói như vậy (có quả báo nhất định). Thiện nam tử, tất cả nghiệp quả đều có nặng có nhẹ, trong đây lại có hai loại là nghiệp quyết định và không quyết định.” Lại nói: “Hoặc có nghiệp nặng có thể trở thành nhẹ, hoặc có nghiệp nhẹ lại trở thành nặng. Người trí dùng năng lực trí tuệ có thể khiến nghiệp địa ngục cực nặng trở thành nghiệp nhẹ hiện đời, còn người ngu si lại khiến nghiệp nhẹ hiện đời trở thành nghiệp địa ngục cực nặng.” Như vua A Xà Thế sau khi sám hối, không bị đọa địa ngục, còn ngài Ương Quật Ma La (Vô Não), tuy giết chín trăm chín mươi chín người, nhưng sau khi sám hốt, được đắc A la hán. Luận Du Già Sư Địa nói: “Chưa được giải thoát gọi là nghiệp quyết định, đã được giải thoát gọi là nghiệp bất định.” Tương tự như vậy, trong các kinh luận Đại thừa đều cho rằng tội ngũ nghịch, v.v…, đều gọi là nghiệp bất định, đều có thể trừ diệt. Hiện nay, Kinh Quán Vô Lượng Thọ là kinh Đại thừa, nêu lên việc niệm Phật A Di Đà trừ diệt tội ngũ nghịch, điều này có gì đáng nghi ngờ?

13. Bốn nghiệp có nhiếp hay không.

Hỏi: Các bộ luận đều dẫn khế kinh nói có hắc hắc nghiệp, bạch bạch nghiệp, tạp nghiệp và phi hắc bạch vô dị thục nghiệp. Hắc hắc nghiệp là nghiệp bất thiện của cõi Dục, bạch bạch nghiệp là nghiệp thiện của cõi Sắc và Vô sắc. Tạp nghiệp là nghiệp thiện của cõi Dục, còn phi hắc bạch vô dị thục nghiệp là nghiệp vô lậu. Không biết nghiệp vãng sanh Cực Lạc là loại nghiệp nào? (80)

Đáp: Có người cho rằng bạch bạch nghiệp và tạp nghiệp là nghiệp vãng sanh Tây Phương, bởi vì hắc hắc nghiệp là nghiệp bất thiện, chỉ có thể chiêu cảm quả báo ở ba đường ác, lẽ nào có thể chiêu cảm quả báo Tịnh độ. Vô lậu nghiệp không thể chiêu cảm quả báo, thể tánh của nó tuy thanh tịnh, nhưng không phải là nhân của quả dị thục. Chỉ có hai nghiệp còn lại (bạch bạch và tạp nghiệp) mới có thể chiêu cảm quả báo Tịnh độ. Nếu chưa đắc thượng giới định, dùng tâm cõi Dục tu tập nghiệp vãng sanh, dùng tạp nghiệp này vãng sanh Tây Phương. Nếu đã hàng phục phiền não cõi Dục, đắc thượng giới định tâm, vãng sanh Tây Phương, đây là dùng bạch bạch nghiệp vãng sanh. Có người cho rằng không phải như vậy. Ba loại nghiệp này đều là căn cứ vào hai nẻo thiện ác ở cõi Dục và cõi Sắc mà phân định, không phải căn cứ vào việc vãng sanh Tịnh độ mà bàn định về các thiện nghiệp: bạch bạch, v.v… Vả lại, tạp nghiệp là nghiệp của trời người cõi Dục, có thể chiêu cảm tạp báo, tuy thọ sự vui sướng cõi Dục, nhưng vẫn có thể chiêu cảm khổ báo. Cho nên tạp nghiệp chiêu cảm quả khổ lạc cõi Dục, làm sao có thể chiêu cảm quả báo vãng sanh Tịnh độ, nơi không có sự khổ mà chỉ có sự an lạc? Giả như, chỉ có bạch bạch nghiệp làm nhân cho sự vãng sanh Tịnh độ, thì nếu chưa đắc được định tâm cõi Sắc (tứ Tĩnh lự), thì do nhân duyên nào mà được sanh Tây Phương? Cho nên biết rằng chánh nhân vãng sanh Tịnh độ không bị bao hàm bởi bốn nghiệp nêu trên, và như vậy, nói bốn nghiệp đó không bao hàm tất cả nghiệp cũng đâu nghịch lý? Vả lại, có chỗ cho rằng nghiệp cõi Vô sắc cũng không bị bao hàm trong bốn nghiệp, và đây cũng là chứng cứ bốn nghiệp không bao hàm tất cả nghiệp.

14. Ba nghiệp có nhiếp hay không.

Hỏi: Các bộ luận Đại Tiểu thừa cũng dẫn khế kinh nói ba loại nghiệp là phước nghiệp, tội nghiệp và bất động nghiệp. Không biết nghiệp vãng sanh Cực Lạc là loại nghiệp nào? (81)

Đáp: Có người cho rằng trong ba nghiệp, phước nghiệp và bất động nghiệp là nghiệp vãng sanh Tây Phương. Tam phước, trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, là phước nghiệp, còn tu tập mười sáu pháp quán, nếu đắc thượng giới định tâm, tức là bất động nghiệp. Có người lại cho rằng nghiệp vãng sanh Tây Phương không bao hàm trong ba nghiệp, bởi vì ba nghiệp đều căn cứ vào cõi uế, chứ không phải căn cứ vào Tịnh độ mà nói.

15. Ba mươi lợi ích thù thắng.

Hỏi: Không biết cõi Cực Lạc có những điểm thù thắng nào để khuyến khích chúng sanh tu nghiệp vãng sanh? (82)

Đáp: Căn cứ vào Kinh Xưng Tán Tịnh Độ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ và phần Bốn mươi tám nguyện trong Kinh Vô Lượng Thọ, nói sơ lược có ba mươi điều lợi ích: (1) thọ dụng các công đức trang nghiêm thanh tịnh; (2) pháp lạc Đại thừa; (3) thân cận cúng dường Phật A Di Đà; (4) du lịch mười phương cúng dường chư Phật; (5) ở nơi chư Phật nghe pháp, được thọ ký; (6) tư lương phước huệ sớm viên mãn; (7) mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề; (8) chư Bồ tát, v.v…, đều hội tụ tại một nơi; (9) thường không bị thoái chuyển; (10) vô lượng hạnh nguyện niệm niệm tăng tiến; (11) chim Anh võ, Xá lợi, v.v…, đều thuyết pháp; (12) gió mát rung cây vang điệu nhạc trời; (13) nước ma ni giảng nói pháp khổ, không; (14) âm thanh diễn pháp mầu; (15) vĩnh viễn không tái sanh vào ác đạo; (16) thân vàng ròng; (17) hình sắc không có đẹp xấu khác biệt; (18) đầy đủ ngũ thông; (19) trụ trong chánh định; (20) không có việc bất thiện; (21) thọ mạng lâu dài; (22) y thực tự nhiên; (23) chỉ hưởng thọ sự an lạc; (24) đầy đủ ba mươi hai tướng; (25) không có người nữ; (26) không có hàng Tiểu thừa; (27) không có tám nạn; (28) được vô sanh pháp nhẫn; (29) thân phát ánh sáng, ngày đêm đều sáng; (30) được thân na la diên. Đây chỉ là nêu sơ lược, nếu nói đầy đủ ắt sẽ nhiều vô lượng. Vì những lý do này nên mới khuyên hành giả vãng sanh Tây Phương. Nếu ở cõi Ta Bà, trôi lăn sanh tử dài lâu, chỉ có ba mươi điều tổn hại, làm gì có những sự lợi ích như cõi Tây Phương?

16. Hành môn không phải chỉ có một.

Hỏi: Kinh Di Lặc Sở Vấn nói tu tập mười loại niệm mới được vãng sanh: (1) thường sanh lòng từ đối với tất cả chúng sanh; (2) không phá hoại hạnh Bồ tát của tất cả chúng sanh, nếu phá hoại sẽ không được vãng sanh; (3) sanh lòng xót thương tha thiết, không sanh tâm tàn hại tất cả chúng sanh; (4) phát tâm hộ trì Phật pháp, không luyến tiếc thân mạng; (5) không sanh tâm hủy báng tất cả Phật pháp; (6) quyết tâm kiên trì hạnh nhẫn nhục, giữ tâm thanh tịnh, không tham lợi dưỡng; (7) phát tâm Vô thượng Bồ đề, thường quán niệm tâm này ngày đêm, không hề ngừng nghỉ; (8) sanh lòng tôn trọng tất cả chúng sanh, dứt trừ kiêu mạn, nói lời khiêm hạ; (9) không đam mê đàm luận việc thế sự, tầm cầu giác ngộ, gieo trồng thiện căn; (10) không sanh khởi tâm tán loạn, chánh niệm quán Phật, trừ khử vọng tưởng. Căn cứ vào kinh văn nêu trên, mười niệm khác nhau, vì sao lại cho rằng niệm mười danh hiệu Phật A Di Đà sẽ được vãng sanh, đây có phải là điều sai lầm hay chăng? (83)

Đáp: Không phải chỉ có một pháp tu vãng sanh Tây Phương, hoặc tu tam phước, hoặc tu mười sáu pháp quán, hoặc tu chín phẩm vãng sanh, hạnh nghiệp tuy khác nhau, nhưng đều được vãng sanh Cực Lạc. Kinh Di Lặc Sở Vấn trình bày mười pháp tu để được vãng sanh, Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói về hạ phẩm hạ sanh, lúc lâm chung niệm mười danh hiệu Phật được vãng sanh, mỗi bên đều là lời dạy của Phật, trợ giúp nhau để hiển bày pháp môn vãng sanh, đều thành tựu công hạnh Tịnh độ. Vì lý do gì lại cho rằng bên kia là đúng, bên này là sai. Chỉ vì tự mình chưa hiểu rõ ý kinh, cho nên khiến cho nhiều người học Phật mê mờ… Tu tập vãng sanh Tây Phương không phải chỉ do một hạnh, cho nên trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ bàn về hai môn định tán, trong Kinh Vô Lượng Thọ nói về ba phẩm tu phước, còn pháp chuyên trì danh hiệu vốn là lời dạy của Phật A Di Đà. Bởi thế hành giả, hoặc thọ trì kinh điển Đại thừa, hoặc hiếu dưỡng cha mẹ, hoặc tu tập thiện nghiệp thế gian xuất thế gian, hoặc hành trì giới luật, thân khẩu hành thiện, đều là tư lương vãng sanh Tịnh độ, chẳng lẽ chỉ hạn cục vào một pháp môn. Ông nên đọc nhiều kinh điển, triển khai chánh tín, lẽ đâu chỉ đọc một bộ kinh rồi dùng đó làm chỉ nam để bàn luận hàm hồ, cho rằng những pháp môn khác không phải là nhân cho sự vãng sanh, đây chẳng phải là sự lầm lẫn cực điểm hay sao? Vả lại, tu nhân có vạn loại, đắc quả cũng có nhiều tầng, không thể cho rằng chỉ có một nhân một quả, mà không có những công hạnh khác.

17. Thiển vị cầu tịnh.

Hỏi: Bồ tát tu hành đều vì lợi ích tất cả, thường khởi lòng đại từ bi đối với chúng sanh, lẽ ra phải đến các cõi ác để cứu độ những kẻ đang bị chìm đắm trong biển khổ, khiến họ ra khỏi luân hồi. Hiện nay lại bỏ cõi uế này, nguyện cầu sanh về Tịnh độ, riêng mình tìm cầu thú vui, không muốn làm lợi người khác, không có lòng thương xót cha mẹ anh em, lục thân quyến thuộc nhiều đời, để mặc họ trôi lăn trong ba đường ác mà không chịu cứu vớt, đây đâu có phải là tấm lòng của bậc đại trượng phu hành bồ tát hạnh. Như vậy nguyện cầu vãng sanh Tịnh độ là điều không tốt, tôi thật không hiểu nguyên do của sự vãng sanh, xin hãy giải bày ý chỉ. (84)

Đáp: Phát Bồ đề tâm, tu Bồ tát hạnh, điều cần yếu là phải khởi tâm Đại bi, thương xót hữu tình, tế độ rộng lớn, trừ khổ ban vui. Thế nhưng, hạnh nguyện có sâu cạn, căn cơ có cao thấp. Nếu là hàng Bồ tát bậc cao, đại bi tăng thượng, đã được bất thoái chuyển, không sợ bị tổn hại, chỉ một lòng vì kẻ khác, phần lớn thác sanh vào cõi uế, rộng làm việc lợi ích, ít khi vãng sanh Tịnh độ để thân cận chư Phật; còn hàng Bồ tát bậc thấp, đại trí tăng thượng, vẫn còn bị thoái chuyển, tuy có lòng thương xót chúng sanh khổ não, nhưng nếu gặp ác duyên, vẫn có thể thoái thất hạnh Bồ đề, tạo các nghiệp ác, mất Bồ đề tâm. Điều này trong Kinh Bồ Tát Bổn Nghiệp Anh Lạc có nói rõ trường hợp của vương tử Pháp Tài, v.v… Đây tức là hai lợi (tự lợi lợi tha) đều mất, hai bên (mình và chúng sanh) đều bị tổn hoại. Vì lý do này nên nguyện sanh Tịnh độ, xa lìa ác duyên, thân cận chư Phật, thường nghe Chánh pháp, cùng với chư Bồ tát tập hội một nơi, đi khắp mười phương làm Phật sự, rải hoa cúng dường, cùng nghe pháp Đại thừa chân tịnh vi diệu, niệm niệm tăng tiến, không còn thoái chuyển, hơn nữa, không còn hàng Nhị thừa cùng nhất xiển đề làm chướng ngại đạo tâm Vô thượng của hàng Bồ tát sơ học. Tuy mỗi niệm đều không xả bỏ tâm thương xót cứu độ chúng sanh, tất cả những công hạnh tự lợi đều là căn bổn cho sự lợi tha, gốc nếu không vững chắc, thì cành lá cũng không tốt tươi. Vì vậy, trước tiên nguyện sanh Tịnh độ, nuôi lớn mầm mống tâm Bồ đề khiến trở nên kiên cố, giả như có gặp ác duyên cũng không bị thoái chuyển, lúc đó mới có thể rời cõi Tịnh độ trở về Ta bà cứu độ tất cả những chúng sanh hữu duyên, bao gồm cha mẹ, họ hàng, bạn bè đời quá khứ cùng tất cả hữu tình trong toàn pháp giới. Điều này, thiền sư Đạo Xước, trong An Lạc Tập, đã dùng ví dụ để nêu rõ. Ví như hai người con thấy cha mẹ bị cuốn theo dòng nước lũ, một người vội lao xuống nước để cứu, kết quả không những không cứu được mà chính mình cũng bị chết chìm, còn người kia chạy về nhà, chuẩn bị thuyền bè, bơi vào chỗ nước sâu để cứu cha mẹ khỏi bị chết đuối. Ý nghĩa ở đây cũng tương tự như vậy, mong người đọc hiểu rõ.

18. Nhị thừa không sanh.
a. Bốn nghĩa không sanh.

Hỏi:  Luận Vãng Sanh nói: “Đại thừa thiện căn giới, bằng, không danh xấu xa, người nữ và căn khuyết, giống Nhị thừa không sanh.” Cõi Cực Lạc tại sao lại có Thanh văn, hơn nữa trong kinh nói Đức Phật ấy có vô lượng vô biên đệ tử Thanh văn đều là bậc A la hán? (85)

Đáp: Có bốn cách giải thích: (1) Giống Nhị thừa không sanh: Luận Du Già Sư Địa cho rằng chúng sanh xưa nay vốn có năm loại căn tánh khác biệt, tức là căn tánh Bồ tát, căn tánh Duyên giác, căn tánh Thanh văn, căn tánh trời người, và căn tánh bất định. Nay nói giống Nhị thừa không sanh là chỉ cho căn tánh Duyên giác và căn tánh trời người, bởi vì người căn tánh Duyên giác nhất định thọ quả báo Duyên giác, phần lớn sanh vào đời không có Phật, vả lại cũng không tin có mười phương Tịnh độ, còn người căn tánh trời người chỉ có trôi lăn sanh tử, không thể vãng sanh Tịnh độ, lý do là vì chúng sinh Tịnh độ đều sẽ chứng đắc Vô thượng Bồ đề. (2) Có người cho rằng cách giải thích vừa nêu trên không hợp lý. Nếu cho rằng giống Nhị thừa không sanh mà chỉ loại ra Duyên giác và trời người, tức là hàm ý hàng Thanh văn sẽ được vãng sanh, như vậy tại sao gọi Cực Lạc là Đại thừa thiện căn giới? Hơn nữa, chỉ là không có ba loại thể tánh, hay là không có cả ba loại tên gọi? Hiện nay, nói “giống Nhị thừa không sanh”, không phải đề cập đến hàng trời người, mà chỉ là trong ba thừa, loại ra hai thừa Thanh văn và Duyên giác. (Giải thích (3) và (4) được tiếp tục ở câu 86).

Hỏi: Nếu hạng người có căn tánh Thanh văn, Duyên giác không vãng sanh, tại sao cõi đó lại có hàng Thanh văn? (86)

Đáp: (3) Y vào các lời giải thích của bậc cổ đức, Thanh văn chia làm hai loại: (a) ngu pháp, nghĩa là trong đời này chưa thể hồi tâm hướng Đại thừa, (b) bất ngu pháp, nghĩa là trong đời này đã hồi tâm hướng Đại thừa. Hạng ngu pháp gọi là giống Nhị thừa, bởi vì không hồi tâm hướng Đại thừa, không tin có Tịnh độ, không nguyện vãng sanh. Hạng bất ngu pháp không được gọi là giống Nhị thừa, tuy họ tu hạnh Tiểu thừa, nhưng đã tin Đại thừa và đã nguyện vãng sanh. (4) Hàng Tiểu thừa hồi tâm hướng Đại thừa, tu tập những công hạnh đoạn phiền não chứng Niết bàn đều là hướng về Vô thượng Bồ đề, không thể gọi là Tiểu thừa. Bởi vì muốn thành quả Phật thì vẫn phải tu thánh đạo, đoạn trừ ngã chấp pháp chấp, dứt sạch phiền não tập khí, chứng đắc nhân không pháp không, cứu cánh viên mãn, mới được gọi là Phật. Bọn họ trước kia là Tiểu thừa, nhàm chán ngã chấp phiền não cho nên mới trừ diệt trước, chứng đắc bốn quả, tuy được gọi là A la hán, hoặc Thanh văn, nhưng thật sự không phải Tiểu thừa. Thật ra, A la hán không phải chỉ là tên gọi của Tiểu thừa, mà Đức Phật cũng được gọi là A la hán. Như Luật Tứ Phần nói: “Sau khi độ A Nhã Kiều Trần Như, Phật nói: ‘Trong cõi Tam thiên thế giới này, hiện nay có hai A la hán. Một là Phật, hai là A Nhã Kiều Trần Như.’” Cho nên biết A la hán không phải chỉ là tên gọi của bậc Tiểu thừa, mà hơn nữa, danh xưng Thanh văn cũng thông với Đại thừa. Kinh Pháp Hoa nói: “Chúng con hôm nay thật là Thanh văn, dùng âm thanh Phật đạo khiến cho chúng sanh nghe.” Đây tức là Bồ tát Thanh văn. Kinh lại nói: “Chúng con hôm nay là chân A la hán, đáng được tất cả hàng trời người ma Phạm cúng dường.” Đây tức là Đại thừa Bồ tát. Tên gọi tuy đồng với hàng Tiểu thừa, nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác biệt. Hiện nay, hàng Thanh văn ở cõi Tịnh độ đều là những bậc tầm cầu Vô thượng Bồ đề, cho nên không phải là “giống Nhị thừa”, mà cũng không được gọi là Nhị thừa. Những vị này đã phát tâm Đại thừa, tuy gọi là Thanh văn, nhưng không phải là tên gọi của hàng Tiểu thừa, ví như trong Kinh Pháp Hoa đề cập việc ngài A Nan phát tâm Đại thừa, được đức Thế Tôn thọ ký thành Phật hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, nhưng đến lúc kết tập, thị hiện chứng quả A la hán, lẽ nào ngài lại thoái thất tâm Đại thừa, chứng quả Tiểu thừa? Lại như trong Kinh Duy Ma Cật, ngài Đại Ca Diếp nói: “Con từ ngày hôm nay không còn khuyên người khác tu tập hạnh Thanh văn, Bích chi phật”, lẽ nào đến khi kết tập lại ép buộc ngài A Nan tu chứng quả A la hán? Cho nên biết rằng quả A la hán không phải quả vị Tiểu thừa. Ngài A Nan, sau khi được Phật thọ ký, tất cả công hành đều hướng về quả Phật, nên biết công hạnh của ngài đều là công hạnh của Đại Bồ tát. Thế nhưng, những hành giả Đại thừa trực tiếp (không qua ngả Tiểu thừa), trước tiên đoạn trừ pháp chấp phiền não, tu đoạn ngã chấp phiền não, đến lúc chứng Kim cương tâm, diệt trừ ngã chấp phiền não, thì chứng quả Phật. Từ trước đến nay, các Bồ tát vào thẳng Đại thừa, trước tiên thường chỉ nghĩ đến đoạn trừ pháp chấp, cho nên lưu lại phiền não (hoặc), đến lúc hết phiền não, thì đầy đủ Nhất thiết trí của Phật. Lý do là vì phiền não pháp chấp vi tế khó trừ, chướng ngại quả vị Tam Bồ Đề (Phật). Đối với Thanh văn thì đó là bạch tịnh vô ký 1, còn đối với Bồ tát thì đó là hữu phú vô ký2. Bồ tát rất kỵ pháp chấp, như Luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Trí chướng rất mê muội, phân biệt chấp chân tục, cho nên phải đoạn trừ.” Phiền não ngã chấp chướng ngại sự chứng đắc Niết bàn. Hàng Thanh văn nhàm chán sanh tử, chỉ cầu tự lợi, không thể tu học Nhất thiết trí của chư Phật, cho nên họ không chú trọng nhiều đến việc đoạn trừ phiền não pháp chấp. Phiền não pháp chấp không chướng ngại Niết bàn, vì thế hàng Thanh văn trừ sạch phiền não ngã chấp thì sẽ chứng được Niết bàn. Các vị Thanh văn đang tu tập bảy phương tiện, hoặc đang ở trong ba phẩm đầu của bảy phương tiện, nhàm chán phiền não ngã chấp, trước tiên muốn chứng đắc quả vị Thanh văn, đối với phiền não này lập ý đoạn trừ, hiện nay vãng sanh Tây Phương, tuy đã hồi tâm hướng Đại thừa, cầu chứng quả Phật, nhưng vì họ vẫn còn nhàm chán phiền não ngã chấp, cho nên thánh chúng cõi Cực Lạc tùy thuận tập khí của họ, giảng thuyết pháp Tứ đế, giúp họ rốt ráo đoạn trừ hai loại kiến hoặc và tư hoặc, lúc đoạn trừ hai hoặc này sẽ thấy được Tứ thánh đế, dùng trí vô lậu đoạn trừ phiền não này. Đoạn được kiến hoặc gọi là Dự lưu (Tu đà hoàn), không phải trụ trong pháp Tiểu thừa mà được gọi là Dự lưu, đoạn được tư hoặc gọi là A la hán, giống như các vị A la hán (Tiểu thừa) không còn phiền não, nhưng đây là công hạnh Bồ tát. Hai hạng hành giả tiệm đốn đều đầy đủ Bồ tát hạnh, đều tầm cầu quả Phật. Tuy đều là Bồ tát, nhưng những hành giả đi vòng (qua ngõ Tiểu thừa) cũng được gọi là Thanh văn, vì vốn thuộc căn tánh Tiểu thừa, nhưng cũng được gọi là Bồ tát, vì ý nguyện tầm cầu Phật quả. Còn những vị Bồ tát đi thẳng (không qua ngõ Tiểu thừa) chỉ được gọi là Bồ tát, không được gọi là Thanh văn, bởi vốn không phải là Thanh văn ngộ đạo. Đức Phật dùng hai tên để phân biệt hai hạng đệ tử tiệm và đốn, cho nên mới nói: “Vô lượng vô biên đệ tử Thanh văn đều đắc A la hán, toán số thí dụ không thể biết được, số lượng đệ tử Bồ tát cũng giống như vậy.”

b. Ví dụ cõi Chúng Hương.

Hỏi: Thế giới Chúng Hương (trong Kinh Duy Ma Cật) và thế giới Cực Lạc đều là cõi Phật Đại thừa thanh tịnh, tại sao thế giới Chúng Hương không có danh từ Thanh văn, Bích chi phật, chỉ có chúng Đại Bồ tát thanh tịnh, còn thế giới Cực Lạc lại có vô lượng vô biên đệ tử Thanh văn. Các đệ tử Thanh văn này không phải thuộc hàng Tiểu thừa hay sao? (87)

Đáp: Hai cõi Tịnh độ tuy đều là cõi giới Đại thừa, nhưng thánh chúng của hai cõi có thông (rộng rãi) có cục (hạn hẹp). Thế giới Chúng Hương chỉ có những chúng sanh quy hướng Đại thừa. Hành giả ở cõi Ta Bà tu hành, đạt đến trình độ không còn bị bát phon 3 lay động, vãng sanh về cõi đó, chỉ nghe pháp môn Đại thừa đốn giáo, cho nên trong Kinh Duy Ma Cật nói cõi đó chỉ có các Đại Bồ tát thanh tịnh mà không có tên gọi Nhị thừa. Còn thế giới Cực Lạc là chung cho những bậc Tiểu thừa hồi tâm hướng Đại thừa vãng sanh về cõi đó, cùng nghe hai loại Đại thừa tiệm giáo (đi vòng qua ngõ Tiểu thừa trước khi vào Đại thừa) và đốn giáo (đi thẳng vào Đại thừa), quy hướng về Nhất thừa, phát tâm Đại thừa, hành Bồ tát hạnh, nhưng do tập khí đời trước, tuy hành Bồ tát đạo, vẫn phải trước tiên đoạn trừ phiền não ngã chấp, nên được gọi là Thanh văn A la hán, nhưng Thanh văn ở đây có nghĩa là “khiến cho tất cả đều nghe âm thanh Phật.” Tuy được gọi là A la hán, nhưng là bậc đáng được sự cúng dường của tất cả thế gian. Cho nên ở cõi Cực Lạc hai hàng Thanh văn và Bồ tát đều là Bồ tát Đại thừa, chỉ có đi thẳng và đi vòng là khác biệt mà thôi.

19. Vĩnh tuyệt ác thú.

Hỏi: Theo giáo pháp Tiểu thừa, bậc chứng noãn vị không còn lãnh thọ tà giáo, bậc chứng đảnh vị không còn bị đoạn diệt căn lành, bậc chứng nhẫn vị không còn sanh vào ác thú, và bậc chứng thế đệ nhất pháp nhất định sẽ chứng quả thánh (sơ quả). Đây tức là phải đến bậc hạ phẩm nhẫn vị mới chứng được “ác thú phi trạch diệt.” Bồ tát vì muốn làm lợi chúng sanh, không thọ biến dịch sanh tử là vì chưa chứng được “ác thú phi trạch diệt”. Làm thế nào những phàm phu cực ác vừa mới vãng sanh Tịnh độ, chỉ nương vào việc niệm một danh hiệu, cho đến mười danh hiệu Phật mà được vĩnh viễn không còn tái sanh vào ba đường ác? (88)

Đáp: Du Già Sư Địa Luận, Quyết Trạch Phần, cho rằng ở cõi uế, những hành giả Tiểu thừa bậc noãn và đảnh vẫn còn bị thoái chuyển, lên đến bậc nhẫn mới chứng được “ác thú phi trạch diệt.4 Nhưng những học giả Tát Bà Đa (Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ) lại cho rằng hành giả Tiểu thừa trước khi đắc nhẫn cũng đã chứng được “ác thú phi trạch diệt”, nhưng chưa quyết định. Hiện nay các hành giả vãng sanh Tây Phương, do vì ở nơi thù thắng, thường gặp thánh chúng, thường nghe diệu pháp, các hạnh nguyện thù thắng niệm niệm tăng tiến, các ác nghiệp đời trước dần dần tiêu diệt, các công hạnh thiện dần dần tăng trưởng, thiếu các ác duyên, cho nên chứng được “ác thú phi trạch diệt”, được bất thoái chuyển. Những hành giả sau khi vãng sanh Cực Lạc, nương vào nguyện lực, thọ sanh vào các cõi ác, cứu độ những kẻ trầm luân. Đây là do nguyện lực thọ sanh, chứ không phải bị nghiệp lực lôi kéo mà đọa vào đường ác.

20. Tất cả đều được vãng sanh hay không.

Hỏi: Có phải tất cả mọi người cầu sanh Cực Lạc đều được vãng sanh hay không, hay là có người được vãng sanh, có người không được? Nếu tất cả chúng sanh đều được vãng sanh, vì lý do gì cõi Phật A Di Đà có ngày chung tận, Đức A Di Đà có lúc nhập niết bàn 5. Hơn nữa, các Bồ tát Hoa Tụ và Sơn Hải Tuệ không nên phát nguyện rằng “nếu còn chúng sanh chưa được vãng sanh Cực Lạc và nếu con vãng sanh trước thì con sẽ không bao giờ thành Phật”, và cũng không nên phát nguyện rằng “tất cả chúng sanh vãng sanh rồi thì con mới vãng sanh.” Còn nếu có người không được vãng sanh, thì vì lý do gì những kẻ tạo tội ngũ nghịch thập ác phỉ báng Chánh pháp, tội nặng vô cùng mà vẫn được vãng sanh, có tội nào nặng hơn những tội này để không được vãng sanh? Hơn nữa, kinh đã nói rằng tất cả chúng sanh đều được vãng sanh, thì những kẻ không được vãng sanh ắt phải là “phi chúng sanh.” Vả lại, Đức Đại bi Thế Tôn (A Di Đà) lòng từ trùm khắp, vì nhân duyên gì lại ngăn chặn một số chúng sanh không cho vãng sanh, nếu vậy thì lòng đại bi vô hạn đó quả thật không được bình đẳng. (89)

Đáp: Có hai cách giải thích. (1) Tất cả chúng sanh đều được vãng sanh: Vì tâm đại bi của Đức Phật không có hạn lượng, sanh khởi lòng từ bình đẳng, đem sự lợi ích đến tất cả, phát nguyện rộng lớn, không phân biệt thân thù, cho nên tất cả chúng sanh không ai mà không được vãng sanh. Hỏi: Nếu vậy, làm sao trả lời cho thông những câu hỏi vừa nêu trên? Đáp: Tuy cho phép tất cả chúng sanh được vãng sanh, thế nhưng, chí nguyện chúng sanh có sự khác biệt, hoặc không tin Chánh pháp, hoặc ham thích Tiểu thừa, hoặc đam mê cõi uế, hoặc nguyện ở cõi uế để cứu độ chúng sanh, hoặc muốn nguyện về các cõi Phật khác để tu hành. Như vậy, do chúng sanh có nhiều loại tâm hành khác biệt, không thể khiến cho tất cả đều vãng sanh Cực Lạc. Tuy đều được vãng sanh, nhưng không phải tất cả đều sanh. Ví như, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tuy đều có thể thành Phật, nhưng không phải tất cả đều thành. Nếu tất cả đều thành Phật thì chúng sanh giới có hạn lượng. Ở đây cũng tương tự như vậy, ý nghĩa không mâu thuẫn với những câu hỏi vừa nêu trên. Hơn nữa, quán sát cơ duyên của một loại chúng sanh ưa thích vãng sanh Tây Phương, thì có thể hiểu rõ sự phát nguyện của Bồ tát Pháp Tạng và sự diệt độ của Phật A Di Đà. (2) Cũng có những chúng sanh bị ngăn không cho vãng sanh Tây Phương: Như kinh nói: “Những người đáng độ, nay đã độ xong.” Lại nói: “Nhân duyên hóa độ đã hết, bèn nhập Niết bàn.” Những lời kinh này căn cứ vào các chúng sanh hữu duyên, mà không luận bàn tổng quát tất cả chúng sanh. Tuy tâm Phật rộng rãi bao trùm khắp tất cả chúng sanh, nhưng sự hóa độ chỉ giới hạn vào những kẻ hữu duyên, cho nên sự vãng sanh cũng chỉ tiếp độ những người căn cơ đã đầy đủ. Đức Như Lai (A Di Đà) cũng có ngày chứng nhập Niết bàn, và như thế, Bồ tát Quán Thế Âm, ở giai vị Bổ xứ, tiếp nối hạnh nghiệp của Phật A Di Đà. Căn cứ vào đây, biết rằng không phải tất cả chúng sanh đều được vãng sanh Cực Lạc.

21. Cõi nước Thanh Thái.

Hỏi: Trong kinh nói cõi Cực Lạc không có người nữ, tại sao Kinh Cổ Âm Vương Đà La Ni nói: “Cõi Đức Phật A Di Đà tên là Thanh Thái, nơi ngự trị của đức Thánh vương là một tòa thành dài rộng mười ngàn do tuần, trong đó phần lớn nhân dân đều thuộc về giai cấp sát đế lợi. Cha của Đức Phật A Di Đà là chuyển luân vương tên Nguyệt Thượng, mẹ của ngài tên Thù Thắng Diệu Nhan, con ngài tên Nguyệt Minh, thị giả tên Vô Cấu Xưng, đệ tử trí tuệ đệ nhất tên Lãm Quang, đệ tử thần thông đệ nhất tên Đại Hóa, ma vương tên Vô Thắng, Đề Bà Đạt Đa tên Tịch Ý. Nếu như không có người nữ, tại sao Đức Phật lại có mẹ? (90)

Đáp: Có ba cách giải thích.

(1) Đức Phật có thân thọ dụng và thân biến hóa. Kinh Quán Vô Lượng Thọ đề cập thân thọ dụng, còn Kinh Cổ Âm Vương Đà La Ni đề cập đến thân biến hóa. Hơn nữa, từ thân thọ dụng hóa hiện: (a) thân phần đoạn sanh tử, thị hiện thọ thai sanh, có đủ cha mẹ, (b) thân biến dịch sinh tử, thị hiện hóa thân, không có cha mẹ.

(2) Cha mẹ, thành ấp, v.v…, đều là pháp công đức. Như Kinh Duy Ma Cật nói: “Trí tuệ là mẹ của Bồ tát, phương tiện là cha của Bồ tát, v.v…” Có thể dùng công đức làm các loại tên người, giảng nói các loại pháp, như ngài Văn Thù Sư Lợi ở phía đông Giác Thành gặp đồng tử Thiện Tài, Giác Thành cũng là tên của công đức. Ở đây cũng tương tự như vậy, dùng các công đức làm tên cha mẹ, v.v… Nói tên nước Thanh Thái là hiển thị pháp giới tối thanh tịnh của Như Lai. Thể tánh thanh tịnh gọi là “thanh”, thể tướng bao la gọi là “thái”, nơi mà vạn đức y chỉ gọi là “nước.” Thành dài rộng mười ngàn do tuần là hiển thị Đại viên kính trí của Như Lai. Trí đó đầy đủ thập trí, thập lực, nhân đây mà nói thành rộng mười ngàn do tuần. “Trong đó phần lớn nhân dân đều thuộc về giai cấp sát đế lợi”, sát đế lợi tức là dòng dõi vua. Trong đại viên kính trí có những hạt giống pháp có hằng hà sa công đức, cho nên nói là “phần lớn thuộc về giai cấp sát đế lợi.” Cha tên Nguyệt Thượng, đây là Kim Cang Tam Muội, vì Nguyệt (mặt trăng) có công năng phá trừ bóng tối (vô minh), tam muội có công dụng trừ hoặc (phiền não). Chuyển luân thánh vương, nghĩa là vua chuyển luân vượt quá các vị vua nhỏ, ví cho Kim Cương Dụ Định vượt quá các tam muội khác. Thù Thắng Diệu Nhan, nghĩa là trong một thân, dung nhan là hơn hết, trong sáu Ba la mật, Bát nhã ba la mật là thù thắng nhất, là mẹ của chư Phật. Con tên là Nguyệt Minh, nghĩa là Phật ví dụ cho mặt trời, ánh sáng đệ nhất, các Bồ tát là con Phật, cho nên gọi là Nguyệt Minh (ánh sáng mặt trăng, kém hơn ánh sáng mặt trời). Thị giả tên là Vô Cấu

Xưng, đây là sự hiển thị Bình đẳng tánh trí của Đức Như Lai, thường quán sát Đại viên kính trí gọi là phụng sự (thị giả), lìa xa phiền não gọi là Vô Cấu Xưng. Đệ tử trí tuệ đệ nhất tên Lãm Quang, là hiển thị Diệu quán sát trí của Đức Như Lai, quán tất cả các pháp, không pháp nào không rõ ràng, nên gọi là Lãm Quang. Đệ tử thần thông đệ nhất tên Đại Hóa, là hiển thị Thành sở tác trí của Đức Như Lai, khởi tất cả loại biến hóa của thân ngữ ý nên gọi là thần thông. Đây là chỉ cho ba trí. Ở phía sau Đại viên kính trí nên gọi là đệ, từ Đại viên kính trí sanh ra nên gọi là tử. Ma vương tên Vô Thắng, là hiển thị công đức đại bi của Đức Như Lai. Phật dùng tâm đại bi thương xót chúng sanh, thường ở trong sanh tử, cứu độ hữu tình, ma ưa thích sanh tử, cho nên gọi là ma vương. Tâm đại bi này vượt quá tâm bi của hàng Nhị thừa cho nên gọi là Vô Thắng. Đề Bà Đạt Đa tên Tịch Ý, nghĩa là phiền não náo động não loạn người tu, ví như Đề Bà Đạt Đa. Đức Như Lai quán sát tất cả phiền não đều là Niết bàn, cho nên Đề Bà Đạt Đa (phiền não) tên là Tịch. Trên đây là dùng các công đức để thiết lập tên của cha mẹ, v.v…, chứ không phải trên cõi Tịnh Độ, Đức A Di Đà thật có cha mẹ, v.v…

(3) Như trong Kinh Bi Hoa, v.v…, nói chư Phật trong các cõi tịnh uế, thị hiện thành đạo có sự khác biệt; hoặc có Bồ tát ở cõi nước đó sanh, tu Bồ tát hạnh, rồi ở cõi nước đó thành Đẳng Chánh Giác, thế giới không biến đổi, danh hiệu và kiếp cũng không có sự thay đổi; hoặc có Bồ tát ở cõi nước đó sanh, rồi ở cõi nước đó thành Đẳng Chánh Giác, thế giới tuy không biến đổi, nhưng danh hiệu và kiếp biến đổi; hoặc có Bồ tát ở cõi nước đó sanh, tu Bồ tát hạnh, rồi ở cõi nước đó thành Đẳng Chánh Giác, đang lúc thành Phật, thế giới có sự biến đổi, thù thắng hơn thế giới trước, danh hiệu và kiếp cũng đều biến đổi, như trong Kinh Quán Thế Âm Thọ Ký có nói đầy đủ; hoặc có Bồ tát ở thế giới này sanh, đến thế giới khác thành Đẳng Chánh Giác, như trong Kinh Bi Hoa có nói. Đây là do Bồ tát trong lúc tu nhân, phát nguyện không đồng, cho nên có sự khác biệt như vậy. Lại như trong các kinh có nói, hoặc có Bồ tát xuất gia từ nhỏ thành Đẳng Chánh Giác, hoặc có Bồ tát lấy vợ sanh con, rồi sau đó lìa bỏ ngũ dục, xuất gia thành Đẳng Chánh Giác. Hoặc có Bồ tát ở thế giới này sanh, ở thế giới này thành đạo; hoặc có Bồ tát ở thế giới khác sanh, ở thế giới khác thành đạo. Như Kinh Pháp Hoa nói Long Nữ ở thế giới Ta Bà, thọ thân súc sanh (rồng), sau đó qua thế giới Vô Cấu ở phương nam, xả bỏ thân nữ, biến hiện thân nam, thành Đẳng Chánh Giác. Lại như Hoa Quang Như Lai sanh từ bào thai, sau đó ở cõi Tịnh độ thành Đẳng Chánh Giác. Cho nên kinh nói: “Lúc Phật là vương tử, bỏ nước xả vinh hoa, ở nơi thân cuối cùng, xuất gia thành Chánh Giác.” Căn cứ lời kinh, Phật Hoa Quang ở thế giới kia, thọ thân thai sanh, sau đó trong cõi Tịnh độ thành Đẳng Chánh Giác. Nếu không phải thai sanh, làm gì có sự việc ngài là vương tử, bỏ nước xả vinh hoa? Hiện nay Đức Phật A Di Đà cũng vậy, ở nước Thanh Thái thọ thai sanh, sau đó ở cõi Cực Lạc thành Đẳng Chánh Giác.

22. Ngũ thông siêu thắng.

Hỏi: Các ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đắc được ngũ thông nhưng sự thấy nghe cũng không vượt quá cõi Ta Bà, vì sao các phàm phu vãng sanh Cực Lạc dù thần thông tối thiểu cũng thấy nghe vượt quá trăm ngàn vạn ức cõi Phật. Dùng đây suy ngẫm có thể biết rằng những người vãng sanh Cực Lạc đều là bậc đại căn đại hạnh Bồ tát, chứ không phải là kẻ phàm mà có thể vãng sanh được. (91)

Đáp: Ý nghĩa này không nhất định. Không thể cho rằng các thánh nhân ở cõi uế đắc được ngũ thông thù thắng hơn những phàm phu ở cõi Tịnh độ. Ví như chúng sanh cõi Uất Đan Việt thọ mạng đúng một ngàn năm, trong khi chúng sanh cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng tuy thọ mạng tám vạn kiếp nhưng lại có kẻ chết yểu. Đâu có thể cho rằng loài trời thọ mạng dài lâu, nhất định không có sự chết yểu. Cõi Tịnh độ cũng thế, chúng sanh cõi đó, tuy vẫn còn là phàm phu, nhưng vì nghiệp thọ sanh thù thắng, hoặc quả báo Tịnh độ ưu việt, nương bổn nguyện Phật, hoặc nhờ uy linh của các bậc Thánh, hoặc tư lương tốt đẹp, hoặc đắc được Diệu định Đại thừa, nương vào những nhân duyên này mà đắc được thần thông thù thắng hơn các bậc Thánh nơi cõi uế, đây cũng đâu có gì lạ? Lại như, các thân trung ấm đang tìm cõi thọ sanh, do nghiệp mà có thần thông, đôi khi vượt quá các bậc Nhị thừa. Nếu vậy, đâu có gì lạ khi các chúng sanh ở cõi Tịnh độ có thần thông vượt hơn các bậc thánh Nhị thừa ở cõi Ta bà. Cho nên kinh có nói: “Thiện căn vô lậu của các bậc Thanh văn Duyên giác không bằng thiện căn hữu lậu của các vị Bồ tát sơ phát tâm.”

23. Phần đoạn biến dịch.

Hỏi: Không biết những chúng sanh vãng sanh Cực Lạc thọ thân phần đoạn sanh tử hay biến dịch sanh tử? (92)

Đáp: Ở cõi Cực Lạc, các vị Bồ tát Bát địa trở lên nhất luật thọ thân biến dịch sanh tử, còn Bồ tát Thất địa trở xuống cho đến Sơ địa, hoặc thọ thân biến dịch, hoặc thọ thân phần đoạn sanh tử. Còn từ các bậc Tam hiền trở xuống đến Sơ tín, đều là thọ thân phần đoạn sanh tử. Thế nhưng, tất cả đều được thọ mạng vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, ba mươi hai tướng tốt, thân sắc vàng ròng, thân lượng vô biên, ngũ thông tự tại, vi diệu bất khả tư nghì.

24. Cực Lạc không có sự khổ.

Hỏi: Cõi Cực Lạc không có những sự khổ. Không biết trong ba khổ, tám khổ, cõi Cực Lạc không có những khổ nào? (93)

Đáp: Theo các bộ phái Tiểu thừa, như Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, v.v…, thân Phật vẫn còn đầy đủ ba khổ, trong tám khổ vẫn còn năm khổ (sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ và ngũ ấm xí thạnh khổ), chỉ có ba điều không khổ là ái biệt ly, oán tắng hội và cầu bất đắc, bởi vì thân Như Lai, mười lăm giới là hữu lậu (năm căn, năm trần và năm thức), còn ba giới kia thông cả hữu lậu và vô lậu (ý giới, pháp giới và ý thức giới). Vì là thân hữu lậu nên có năm khổ, nhưng đã đoạn tham sân si, nên không có ba khổ còn lại, bởi vì ái biệt ly khổ là phiền não ái (si), oán tắng hội khổ là phiền não sân, cầu bất đắc khổ là phiền não tham. Đức Phật tuy thương xót dòng họ Thích bị thái tử Lưu Ly tru diệt, nhưng ngài không có ái biệt ly khổ; tuy bị Đề Bà Đạt Đa làm cho chảy máu, bị con gái Bà la môn vu khống, bị đặt bẩy hầm lửa, bị bỏ thuốc độc vào cơm, bị nhiều kẻ oán địch cấu kết mưu hại, nhưng ngài không có oán tắng hội khổ; tuy đi khất thực ôm bát trống về, gặp lúc đói khát, không người bố thí, gặp những trường hợp như vậy, ngài không có cầu bất đắc khổ. Phật pháp Đại thừa cho rằng thân Phật, năm uẩn, mười hai xứ (nhập), mười tám giới đều là vô lậu. Kinh Niết Bàn nói: “Chư Phật tôn pháp làm thầy, vì pháp thường trụ, chư Phật cũng thường trụ.” Lại nói: “Xả sắc vô thường, được sắc thường trụ. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.” Kinh Duy Ma Cật nói: “Thân Phật vô lậu, các lậu đã diệt tận.” Tương tự, các kinh điển Đại thừa đều cho rằng thân Phật là vô lậu. Ba khổ, tám khổ đều là pháp hữu lậu, cho nên thân Phật không còn thọ các khổ. Từ Bồ tát thập địa trở xuống đến giai vị phàm phu, có hai cách giải thích. (1) Trong ba khổ có hành khổ, hoại khổ. Trong tám khổ có một khổ, nghĩa là ngũ ấm xí thạnh khổ. Vì các Bồ tát thập địa trở xuống vẫn còn thọ thân hữu lậu biến dịch hoặc phần đoạn. Lại nữa, sự biến hóa thay đổi là hành khổ; các sự vui hữu lậu, lúc sanh thì lạc, lúc trụ là lạc, còn lúc hoại là khổ, cho nên có hoại khổ. Những vị ấy không có sự bức bách ưu khổ của thân tâm nên không có khổ khổ. Lúc mới thọ thân, tuy gọi là sanh, nhưng không có các khổ nương vào, vả lại không có sự bức bách của bào thai, nên không có sanh khổ; thọ mạng dài lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, dù là phàm phu cũng nhập vào biến dịch sanh tử, rốt ráo thành Phật, nên không có tử khổ, sau đó xả thân (chết) ở cõi Tịnh, nguyện sanh vào cõi uế, cứu độ chúng sanh, tuy cũng là chết, nhưng không có khổ, đây là vì đem tâm ưa thích, nguyện xả báo thân, tu hạnh từ bi. Còn thân năm uẩn là do phiền não sanh ra, thể chất là hữu lậu, tức là năm ấm xí thạnh khổ. Ở cõi Tịnh độ, bốn đại an ổn, không có bệnh khổ, hình hài không suy tổn, không có lão khổ, cùng chư vị thiện tri thức tập hợp, không có oán tắng hội khổ, các duyên đều đầy đủ, không có cầu bất đắc khổ. (2) Ở cõi Cực Lạc, tám khổ cũng giống như vừa nêu trên. Còn trong ba khổ, chỉ có hành khổ, bởi vì vẫn còn thọ thân phần đoạn, biến dịch. Chúng sanh chỉ thọ sự vui sướng thanh tịnh, thường hằng không gián đoạn, rốt ráo chứng đắc sự vui tịch diệt, tuy sự vui sướng đôi lúc tạm ngừng, nhưng không lấy làm khổ, nên không có hoại khổ. Cho nên nói cõi Cực Lạc không có sự khổ là nói không có khổ khổ và hoại khổ.

Hỏi: Cõi Cực Lạc tuy không có khổ khổ, hoại khổ, v.v…, nhưng vẫn còn hành khổ, nếu vậy, tại sao gọi là Cực Lạc? (94)

Đáp: Trong ba khổ chỉ có một khổ, trong tám khổ cũng chỉ có một khổ; trong ba khổ thiếu hai khổ, trong tám khổ thiếu bảy khổ, tuy còn lại một (khổ), cũng không gọi là khổ. Kinh Niết Bàn nói: “Như sông còn lại một ít nước, cũng gọi là không có nước; như ăn một tí muối, cũng gọi là không có muối.” Lại như luận A tỳ đàm nói: “Một giọt nước biển, một hạt bụi núi Tu Di, không thể gọi là có biển, có núi.” Ở đây cũng vậy, giả sử có chút ít khổ, cũng không ngại gọi là Cực Lạc. Lại nữa, sự bức bách bất an đối với thân và tâm gọi là ưu và khổ, cõi Phật A Di Đà đều không có hai loại này nên gọi là Cực Lạc.

25. Cực Lạc độ khổ.

Hỏi: Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Phân thân của hóa Phật A Di Đà, hóa Quán Thế Âm, hóa Đại Thế Chí tập hợp tại thế giới Cực Lạc cứu độ chúng sanh đau khổ.” Cõi Cực Lạc không có sự khổ, vì sao lại nói rằng tập hợp tại cõi Cực Lạc cứu độ chúng sanh đau khổ? Nay nói cứu độ chúng sanh đau khổ là độ chúng sanh cõi Cực Lạc, hay chúng sanh cõi khác? (95)

Đáp: Thông cả hai, độ chúng sanh ưu khổ ở cõi mình và cõi khác. Hỏi: Cõi Cực Lạc đã không có chúng sanh ưu khổ, làm sao mà độ chúng sanh ưu khổ ở đó, còn các cõi khác tuy có chúng sanh ưu khổ, phải nên đến đó để độ họ, lý do gì lại tập hợp tại cõi Cực Lạc để độ chúng sanh ở các cõi xa? Đáp: Chúng sanh cõi Cực Lạc tuy không có sự khổ (thông thường), nhưng vẫn còn sự khổ của hành khổ hữu vi của hai loại sanh tử phần đoạn và biến dịch. Chư Phật tập hợp thuyết giảng diệu pháp, khiến cho chúng sanh cõi Cực Lạc mau thoát khỏi hai loại sanh tử, thành tựu pháp thân, cho nên gọi là cứu độ. Đối với chúng sanh ở cõi khác, hoặc là các ngài phân thân đến đó làm việc cứu độ, chẳng hạn, các chúng sanh ở cõi Ta Bà thành tựu Tịnh nghiệp, lúc lâm chung sẽ có hoá Phật đến rước vãng sanh Cực Lạc; hoặc các ngài tập hợp ở cõi Cực Lạc, biến hiện chư vị hóa Bồ tát, khiến họ sanh khởi tâm Đại bi, bỏ sự vui ở cõi Tịnh độ, hóa hiện đến cõi khác, hành Đại bi hạnh, giáo hóa mười phương chúng sanh hữu duyên, cho nên nói: “Tập hợp ở cõi Cực Lạc cứu độ chúng sanh ưu khổ.” Như kinh luận có nói đến trường hợp các vị Bồ tát Bát địa lúc chứng đắc chân như tịch diệt, phần lớn đều không muốn xuất định để đi cứu độ chúng sanh, chư Phật phải hiện thân đến xoa đầu, khuyến khích, khiến họ ra khỏi định, để hoàn thành công hạnh độ hóa hữu tình. Đây cũng là nghĩa vừa nêu trên. Kinh Duy Ma Cật nói: “Bồ tát ở cõi Ta Bà, tâm Đại bi đối với chúng sanh rất vững chắc.” Lại nói: “Những người như thế (tâm Đại bi kiên cố) mới có thể lìa sự vui Tịnh độ mà đến những nơi nhiều phiền não (Ta Bà) để làm Phật sự.”

26. Tám thức ba thọ.

Hỏi: Kinh A Di Đà nói: “Chúng sanh cõi Cực Lạc không bị các sự khổ, chỉ hưởng thọ pháp lạc.” Không biết trong tám thức, có mấy thức tương ứng với lạc thọ? (96)

Đáp: Trong tám thức, hai thức thứ bảy (Mạt na) và thứ tám (A lại da) luôn luôn liên tục, duyên vào cảnh giới vi tế, khó nhận biết được. Dù đọa ngục A tỳ vô cùng thống khổ, hoặc sanh vào cõi Tam thiền vô cùng hỷ lạc, thì hai thức này lúc nào cũng ở trong trạng thái xả thọ, ngay đến đạt đến quả vị Phật, tịnh thức tương ưng với đại viên kính trí, bình đẳng tính trí, hai thức này cũng vẫn tương ưng với trạng thái xả thọ. Căn cứ vào đây biết rằng ở thế giới Cực Lạc, thức thứ bảy và thức thứ tam thường ở trong trạng thái xả thọ. Sáu thức kia thì tương ưng với ba thọ hỷ, lạc và xả. Ý thức tương ưng với hai thọ hỷ lạc, năm thức còn lại tương ưng với lạc thọ. Còn xả thọ thì tương ưng với cả sáu thức. Kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói: “Không có tất cả sự ưu khổ của thân tâm, mà chỉ có vô lượng sự hỷ lạc thanh tịnh, cho nên gọi là thế giới Cực Lạc.” Căn cứ vào đây, biết rằng trong cõi Tịnh độ, sáu thức không có sự ưu khổ, nhưng không ngại có xả thọ, bởi vì sau sự hỷ lạc, trạng thái [hỷ lạc] giảm dần đến giai đoạn “ngừng bặt”, phần lớn tương ưng với xả thọ. Hơn nữa, thể tánh của xả thọ không có sự bức bách, do thiện nghiệp chiêu cảm, cho nên chúng sanh cõi đó cũng tương ưng với xả thọ. Lại nữa, chúng sanh cõi đó sanh khởi vị đáo định và trung gian thiền của các định từ cõi Tứ thiền trở lên, làm sao không cho phép tương ưng với xả thọ. Cho nên biết rằng, cõi đó tuy gọi là Cực Lạc, nhưng cũng tương ưng với xả thọ. Nếu không, cõi đó cũng không thể tương ưng với hỷ thọ.

27. Thân không có trùng.

Hỏi: Bàn về phần đoạn sanh tử, các bộ luận như Luận Đại Trí Độ, v.v…, đều cho rằng thân của các chúng sanh phần đoạn sanh tử đều là thân chứa đựng ký sinh trùng. Kinh Đại Phẩm Bát Nhã nói: “Trong thân của các Bồ tát a bệ bạt trí không có tám vạn ký sinh trùng.” Chúng sanh cõi Cực Lạc có thân phần đoạn sanh tử ắt trong thân phải có ký sinh trùng. Nếu vậy, Kinh A Di Đà nói cõi đó không có ba đường ác thì đây là điều mâu thuẫn. Làm thế nào để giải thích? (97)

Đáp: Chúng sanh cõi Tịnh độ, tuy thọ thân phần đoạn sanh tử nhưng trong thân không có tám vạn ký sinh trùng. Luận Đại Trí ĐộKinh Đại Phẩm Bát Nhã nói thân có ký sinh trùng là căn cứ vào cõi uế mà nói. Vả lại, ngay trong cõi uế, các vị trời cõi Sắc, tuy là phàm phu, nhưng trong thân cũng không có tám vạn ký sinh trùng, hoặc bị nạn tam tai. Vào thời cuối của kiếp hoại, trước tiên, ba nẻo ác bị diệt tận, lúc đó thọ thân cõi người còn không có tám vạn ký sinh trùng, bởi vì đã không còn ba nẻo ác, huống chi chúng sanh cõi Tịnh độ thọ sắc thân thanh tịnh vi diệu! Tuy họ thọ thân phần đoạn sanh tử nhưng trong thân không có ký sinh trùng.

28. Cách đây không xa.

Hỏi: Kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói cõi Cực Lạc cách thế giới Ta Bà vượt quá trăm ngàn câu chi na do tha cõi Phật, nhưng trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ lại nói cõi Phật A Di Đà cách đây không xa. Lời dạy của hai kinh có sự mâu thuẫn, xin giải thích rõ ý nghĩa này. (98)

Đáp: Thế giới Cực Lạc cách cõi Ta Bà trăm ngàn câu chi na do tha cõi Phật quả đúng là xa xăm. Hiện nay nói Cực Lạc cách Ta Bà không xa là có ý nghĩa khác. Ở đây chỉ trình bày sơ lược mười điều để giải thích nghĩa này: do Phật lực nên không xa, do phương tiện nên không xa, do ứng hiện nên không xa, do tự tâm nên không xa, do thủ hộ nên không xa, do hữu duyên nên không xa, do bổn nguyện nên không xa, do đến tiếp dẫn nên không xa, do vãng sanh nên không xa, do không phóng dật nên không xa. (1) Phật lực: Kinh nói: “Do Phật lực nên thấy được cõi đó.” (2) Phương tiện: Kinh nói: “Có phương tiện khác khiến bà [Vi Đề Hy] được thấy.” (3) Ứng hiện: Kinh nói: “Phật A Di Đà đứng trên không trung.” (4) Tự tâm: Kinh nói: “Tâm đó làm Phật, tâm đó là Phật.” (5) Thủ hộ: Kinh nói: “Chư Phật, Bồ tát thường đến nơi hành giả.” (6) Hữu duyên: Kinh nói: “Chúng sanh hữu duyên đều thấy được Phật và cõi giới Cực Lạc.” (7) Bổn nguyện: Kinh nói: “Do bổn nguyện lực khiến cho hành giả tu quán tưởng thường được thấy.” (8) Đến tiếp dẫn: Kinh nói: “Cùng các Hóa Phật đến nghinh tiếp hành giả.” (9) Vãng sanh: Kinh nói: “Trong khoảng khảy ngón tay, liền được sanh về thế giới Cực Lạc.” (10) Không phóng dật: Kinh Niết Bàn, quyển thứ ba mươi, nói: “Nếu phóng dật, tuy ở gần Phật và các đệ tử cũng vẫn gọi là xa cách.” Hiện nay chỉ cần chuyên tâm niệm Phật, không làm việc phóng dật, tức là gần gũi Đức Phật, không gọi là xa cách.

Do đầy đủ mười nghĩa này nên gọi là không xa.

29. Tâm đó làm Phật.

Hỏi: Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Tâm đó làm Phật, tâm đó là Phật. Tâm đó sanh ra biển chánh biến tri của chư Phật.” Thế nào tâm có thể làm Phật? (99)

Đáp: Theo Duy thức học, ngoài tâm không có pháp, vạn pháp vạn tướng đều do tự tâm biến hiện. Luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Tâm sanh chư pháp sanh, tâm diệt chư pháp diệt.” Kinh Duy Ma Cật nói: “Nếu tâm thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh.” Lại nói: “Do tâm cấu ô nên chúng sanh cấu ô, do tâm thanh tịnh nên chúng sanh thanh tịnh.” Cho nên biết rằng vạn pháp đều do tâm biến hiện. Đang lúc dùng tâm này quán tưởng Phật A Di Đà thì Phật A Di Đà là bổn tánh tướng, tâm đang quán tưởng biến hiện ảnh tượng tướng, ảnh tượng tướng đó gọi là tướng phần, tâm quán tưởng tức là kiến phần. Hai phần này không thể tách rời tự chứng phần. Lực lượng của kiến phần có thể hiển hiện tướng phần nên gọi là “tâm đó làm Phật.” Tướng phần này tức là tâm tự chứng phần, không có thể tánh nào khác, nên gọi là “tâm đó là Phật.” Muốn quán tưởng tất cả biển công đức của Như Lai, đều phải dùng ảnh tượng biến hiện bởi tự tâm, cho nên gọi là “tâm đó sanh ra biển chánh biến tri của chư Phật.” Hoặc là do tâm tưởng tu tập các công hạnh làm nhân cho sự thành Phật, nên gọi là “tâm đó sanh ra biển chánh biến tri của chư Phật.” Kinh Hiền Hộ, phần thứ hai, nói: “Bồ tát cũng vậy. Chuyên tâm quán tưởng, thấy được chư Phật, sau khi thấy Phật bèn hỏi các ngài Phật pháp, nghe xong tâm ý hoan hỷ, liền suy tưởng rằng: ‘Hiện nay chư Phật từ đâu đến, mà thân ta cũng từ đâu đến.’ Quán tưởng chư Phật rốt ráo không từ đâu đến, mà cũng không đi về đâu. Thân ta cũng vậy, vốn không từ đâu đến, huống là có chỗ để trở về. Hành giả đó nên quán tưởng như vậy.” Hiện nay, ba cõi do tâm hiện, tâm này có Phật. Vì sao? Tùy vào tâm niệm mà thấy được tự tâm. Hiện nay, ta từ tâm thấy Phật, tâm ta làm Phật, tâm ta là Phật. Tâm ta là Như Lai. Tâm ta là thân ta. Tâm ta thấy Phật. Tâm không tự biết tâm, tâm không tự thấy tâm. Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: “Tâm như người thợ vẽ, vẽ đủ loại ngũ ấm, trong tất cả thế gian, không pháp nào không tạo, như tâm, Phật cũng thế, các chúng sanh cũng vậy, tâm, Phật và chúng sanh, cả ba đều không khác.” Tâm ý cấu ô gọi là chúng sanh, tâm ý thanh tịnh gọi là chư Phật. Đây là ý nghĩa mà chúng ta đang đề cập đến.

30. Có thể thấy Phật đảnh hay không.

Hỏi: Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Nếu thấy được tướng bạch hào thì tám vạn bốn ngàn tướng khác sẽ hiển hiện.” Làm thế nào để thấy được tướng Vô kiến đảnh? (100)

Đáp: (1) Có người giải thích rằng: “Tướng Vô kiến đảnh này, đã gọi là vô kiến đảnh, thật ra không thể thấy được. Nói thấy tám vạn bốn ngàn tướng, nhưng thật sự đã loại trừ tướng Vô kiến đảnh, mà chỉ thấy tám vạn ba ngàn chín trăm chín mươi chín tướng khác. Vì số ít thuận số nhiều cho nên nói thấy, nhưng thật ra không thấy tướng này. Nếu không, danh và nghĩa sẽ mâu thuẫn. Ví như núi Tu Di bị thiêu rụi, chỉ còn một hạt bụi, hoặc biển lớn bị khô cạn, chỉ sót một hạt nước, thì không thể nói rằng núi biển vẫn còn tồn tại. Ở đây cũng tương tự, quán sát đầy đủ tất cả các tướng, chỉ có một tướng này không thể quán sát, nhưng không thể nói không quán sát đầy đủ tất cả các tướng.” (2) Có người giải thích rằng: “Tướng này tuy không giống các tướng khác, phần lớn không thấy, nên gọi là Vô kiến đảnh tướng. Do uy thần lực của Phật gia bị khiến cho chúng sanh, trong lúc tu quán thấy được tướng đó. Hơn nữa, thân tha thọ dụng và thân biến hóa, từ đầu đến chân đều vì chúng sanh mà hiển hiện, khiến cho họ được lợi ích. Nếu tướng Vô kiến đảnh không thể thấy được làm sao lợi ích chúng sanh, làm sao gọi là thân tha thọ dụng? Nếu chỉ một tướng này không phải tha thọ dụng, chứng tỏ tướng này là thù thắng bậc nhất, khiến cho chúng sanh tôn trọng, và vì phần lớn không thấy được, nên gọi là Vô kiến đảnh tướng. Nhưng chư Phật cũng vì chúng sanh hiển hiện tướng này cho họ thọ dụng, tôn kính, thì người tu quán tưởng tại sao lại không thấy được? Chúng ta không thể y vào mặt chữ mà chấp nghĩa. Nên biết chư Phật cho phép chúng sanh quán kiến tướng Vô kiến đảnh.

31. Được thấy chư Phật.

Hỏi: Quán thứ chín trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ vốn chỉ là quán tưởng thân tướng quang minh của Đức A Di Đà. Nếu pháp quán này thành tựu, lẽ ra chỉ thấy được thân tướng của Đức Phật A Di Đà, vì lý do gì lại có thể thấy được thân tướng của chư Phật mười phương? (101)

Đáp: Có ba nghĩa được thấy mười phương chư Phật. (1) Vì công đức của chư Phật đồng nhau, đều hóa độ bình đẳng lợi ích chúng sanh, cho nên quán tưởng thấy được một Phật, tức là thấy được mười phương chư Phật. Kinh Văn Thù Bát Nhã đề cập Nhất Hành Tam Muội nói: “Nếu có thể niệm niệm quán tưởng một Đức Phật, thì trong mỗi niệm có thể thấy được chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Vì sao? Quán niệm công đức của một vị Phật vô lượng vô biên, không khác với công đức của vô lượng chư Phật.” Phật pháp bất tư nghị không có sự khác biệt, đều nương vào Diệu pháp Nhất thừa mà thành Phật, đều đầy đủ vô lượng công đức biện tài. (2) Do thấy một vị Phật nên chứng được Niệm Phật Tam Muội, trừ chướng diệt tội, vì thế có thể thấy được mười phương chư Phật. (3) Quang minh của Đức Phật A Di Đà chiếu khắp mười phương, hành giả do quang minh này mà thấy được mười phương chư Phật. Trong Kinh Bát Chu Tam Muội, Bồ tát Bạt Đà Hòa bạch Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: “Chúng sanh đời vị lai, làm sao thấy được mười phương chư Phật.” Đức Phật dạy nên niệm Phật A

Di Đà thì có thể thấy mười phương chư Phật. Do vì Đức

Phật A Di Đà đặc biệt có duyên với chúng sanh cõi Ta Bà, cho nên trước tiên chuyên tâm xưng niệm Đức A Di Đà thì sẽ dễ thành tựu tam muội, trừ diệt tội chướng, quang minh chiếu khắp, sẽ thấy được mười phương chư Phật.

32. Sanh trước chư Phật.

Hỏi: Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Tu pháp quán này sẽ được vãng sanh đến trước chư Phật mười phương.” Tu pháp quán tưởng Phật A Di Đà, nguyện vãng sanh Tây Phương, lẽ ra chỉ nên nói: “vãng sanh đến trước Phật A Di Đà”, vì sao lại nói: “vãng sanh đến trước chư Phật?” (102)

Đáp: Có bốn cách giải thích. (1) Lúc tu tập pháp quán thứ chín, quán Chân thân, không những thấy Phật A Di Đà mà cũng thấy mười phương chư Phật, do đây, không những có thể vãng sanh về cõi Cực Lạc, mà còn có thể tùy nguyện vãng sanh về các cõi Phật khác, cho nên gọi là “vãng sanh đến trước chư Phật.” (2) Tuy thấy mười phương chư Phật, nhưng ý nguyện ban đầu là muốn vãng sanh Tây Phương, làm sao có thể cùng lúc vãng sanh đến trước chư Phật? Ở đây nói vãng sanh đến trước chư Phật, ý nói do pháp quán (thứ chín) thù thắng, lúc hành giả vãng sanh Tây Phương, không chỉ nhìn thấy Đức A Di Đà, mà cũng thấy được mười phương chư Phật, cho nên gọi là vãng sanh đến trước chư Phật. (3) Đức A Di Đà tuy chỉ là một thân, nhưng trong cõi Cực Lạc có vô số Hóa Phật, lúc hàng giả vừa vãng sanh về cõi ấy, các Hóa Phật hiện đến vây quanh, xoa đầu thuyết pháp, cho nên nói là “vãng sanh đến trước chư Phật.” (4) Đức Phật A Di Đà tuy hiện một thân, nhưng thân ấy là do chư Phật đồng thời biến hiện, hình tướng tuy là một, nhưng cá thể lại là nhiều, vì nhiều vị Phật có duyên với một chúng sanh, cho nên đều biến hiện đồng với Đức A Di Đà ở cùng một nơi. Ví như, có nhiều ngọn đèn ở cùng một nơi, ánh sáng của mỗi ngọn đèn tuy khác nhau, nhưng không chướng ngại nhau, ánh sáng chỉ là một. Thân Phật cũng như vậy, mỗi vị Phật biến hiện một thân, tuy giống như chỉ có một thân, nhưng thật sự là nhiều thân. Tuy vãng sanh trước một Đức Phật, vẫn gọi là vãng sanh đến trước chư Phật.

33. Tức thấy Phật tâm.

Hỏi: Kinh Pháp Hoa nói: “Giả sử khắp thế gian, đều như Xá Lợi Phất, nhất tâm cùng suy lường, cũng không biết tâm Phật.” Đây muốn nói hàng phàm phu và Nhị thừa đều không thể biết rõ tâm Phật. Lại có luận nói: “Địa độ, nhân độ, căn độ, không thể biết được tâm trí của kẻ khác.” Nếu vậy, tại sao Kinh Quán Vô Lượng Thọ lại nói: “Nếu thấy được thân Phật ắt thấy được tâm Phật. Tâm Phật tức là tâm từ bi.” Có kinh nói: “Con vượn dâng mật cho Phật cũng biết được tâm của ngài.” Lại có kinh nói: “Mục Kiền Liên dùng tha tâm thông quán sát biết rõ Phật muốn dùng A Nan làm thị giả.” Hai kinh nói khác nhau, phải giải thích thế nào cho thông? (103)

Đáp: Các học giả Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ giải thích ý nghĩa này nói: “Đức Phật có hai tâm, một là “tằng đắc tâm”, hai là “vị tằng đắc tâm.” Nếu Phật khởi vị tằng đắc tâm thì dù các ngài Xá Lợi Phất, v.v…, tận lực suy lường cũng không thể biết được, nếu Phật khởi tằng đắc tâm thì dù loài vượn cũng có thể biết được tâm Phật. Trong Kinh Giải Thâm Mật, Đức Phật tự giải thích: “Kiến phần tâm của Phật, ngay các Bồ tát Thập địa cũng không thể biết được, còn tướng phần tâm của Phật thì tất cả phàm phu đều có thể biết được.” Hiện nay nói thấy tâm Phật, tức là thấy tướng phần tâm. Kinh nói: “Tâm Phật tức là tâm từ bi”, nhưng Phật có ‘duyên lý nội chứng trí tâm’ và ‘duyên sự ngoại quán chúng sanh tâm.’ Duyên lý nội tự chứng trí tâm kiến phần tâm, chỉ có chư Phật biết lẫn nhau, các vị Bồ tát Thập địa trở xuống đều không thể suy lường. Duyên sự ngoại quán chúng sanh tâm kiến phần tâm cũng chỉ có chư Phật biết lẫn nhau, các vị Bồ tát Thập địa trở xuống cũng không thể suy lường. Duyên lý nội tự chứng trí tâm tướng phần tâm và duyên sự ngoại quán chúng sanh tâm tướng phần tâm, nếu được Đức Phật gia bị, thì ngay cả loài khỉ cũng có thể biết được tâm Phật.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13