THẾ NÀO LÀ GỐC KHỔ CỦA THÂN?
(Thư Học Phật Số 60)
Btg Bảo Đăng

(Tiếp theo bức thư số 59):

Huống chi là ngay trong hiện kiếp của một đời nầy, nhờ duyên lành về TỊNH ÐỘ đã gieo trồng nơi đời quá khứ (mà TA may mắn) được biết đến thánh hiệu A DI ÐÀ PHẬT” và pháp môn TU TỊNH ÐỘ” cùng với sự “Tiếp dẫn” vãng sanh về CỰC LẠC (TỊNH ÐỘ) thì đó là một đại sự vui mừng.

Tại sao vậy?‌ Bởi vì:

“Nhơn thân nan đắc,
Phật Pháp nan phùng.
Bá kiếp thiên sanh,
Vị tằng nhứt ngộ”.

Nghĩa là:

“Thân người khó được,
Phật Pháp khó gặp.
Trăm kiếp ngàn đời,
Chưa (chắc) được một lần”.

Vả lại:

“DI ÐÀ thậm dị niệm,
TỊNH ÐỘ thậm dị sanh”.

Nghĩa là:

“Danh hiệu PHẬT A DI ÐÀ rất dễ niệm,
CỰC LẠC TỊNH ÐỘ cũng rất dễ sanh về”.

Vì thế cho nên:

Trong đường tu hành nếu như ai là người có “trí huệ” [NOTE , phải nên sớm lo liệu việc NIỆM PHẬT trước đi. Tổ sư đã có lời dạy rằng : (Xuất tạng “LUẬN”)

1/- (ÂM):

“Thí như nhơn nhập “đại thành” trung, tất:

– Tiên mích an hạ xứ,

– Khước xuất cán sự.

Ðể:

– Mộ hôn hắc, tất hữu đầu túc chi địa.

– Tiên mích an hạ xứ: Tu “TỊNH ÐỘ” chi vị dã.

– Ðể mộ hôn hắc giả: Ðại hạn đáo lai chi vị dã.

– Hữu đầu túc chi địa giả: Sanh liên hoa trung, bất lạc ác thú chi vị dã”.

(NGHĨA):

“Ví như có người đi vào trong thành lớn, ắt trước hết là phải:

– Tìm chỗ ở an, rồi:

– Sau đó mới đi làm công việc.

Ðể cho:

Ðến buổi chiều hôm trời tối, mới có chỗ nghỉ ngơi.

– “Kiếm trước chỗ ở an” ấy là nói đến:

Việc: lo tu “TỊNH ÐỘ” đó.

– “Ðến buổi chiều hôm trời tối” là nói đến việc:

“Giờ chết tới nơi vậy.”

– “Có chỗ để nghỉ ngơi” là nói đến việc:

“ Ðược vãng sanh về cõi CỰC LẠC TỊNH ÐỘ, ngồi trên toà sen báu, giải thoát khỏi vòng sanh tử, chớ chẳng bị lạc vào trong 3 nẻo xấu ác (là Ðịa ngục, Ngạ quỷ, súc sanh) vậy.”

(ÂM):

2/- “Hựu như:

XUÂN nguyệt viễn hành, tiên tu bị “võ cụ”.

Sấn võ hốt chí, tắc vô lâm ly lang bối chi hoạn.

  1. Tiên tu võ cụ dã: Tu “TỊNH ÐỘ” hốt chi vị dã.
  2. Sấn võ hốt chí dã: Ðại mạng tương tận chi vị dã.
  3. Vô lâm ly lang bối chi hoạn dã : Bất chí trầm luân ác thú, thọ chư khổ não vị dã”.

(NGHĨA):

“Lại như có một người đi xa trong tháng xuân, thì trước hết phải lo sắm đồ đi mưa (như áo mưa, dù, nón…)

Mưa bỗng ào đến, ắt khỏi bị cái cảnh “ướt loi ngoi”.

  1. “Lo liệu sắm đồ đi mưa trước” : Ðó là nói đến việc lo tu “TỊNH ÐỘvậy.
  2. “Mưa bỗng ào đến” : Ðó là nói đến việc cái mạng sống của mình sắp hết vậy.
  3. “Không khỏi cảnh bị “ướt loi ngoi” : Ðó là nói đến việc chẳng bị đoạ vào trong 3 nẻo ác, chịu các khổ não vậy.

* * *

Thế nào gọi là lo “TU TỊNH ÐỘ”?‌

Người lo Tu TỊNH ÐỘ phải thiết yếu “cần cầu giải thoát”, vì vậy cho nên đối với “SỰ NIỆM PHẬT” bắt buộc phải xem đó là một điều “RẤT KHẨN CẤP”, cho nên:

Biết được (việc NIỆM PHẬT) lúc nào là phải “thực hành” ngay trong lúc ấy.

Chớ: Ðừng nên chờ hẹn nay mai ! Bởi vì:

Mạng sống của con người chỉ mong manh như hơi thở. Nếu hơi thở có ra (khỏi mũi rồi) mà không quay trở vào lại, thì “Thần thức” (tức là “HỒN” mình) đã bước sang qua kiếp khác (rồi vậy) !

Cho nên:

Trong mỗi giây, phút, ngày giờ đều có cái chết “KHÔNG CHỜ HẸN” ta ở trong đó, nên chẳng ai dám quyết đoán cuộc đời mình, thân mạng mình còn tồn tại đến bao lâu !

Trong “TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH”, có đoạn PHẬT dạy về sự “vô thường của thân mệnh” như sau:

(ÂM):

“PHẬT” vấn nhất “Sa môn”– Nhơn mạng tại kỷ gian‌

Ðối viết: Sổ nhật gian.

PHẬT ngôn: Tử vị tri “đạo”.

Phục vấn nhất “Sa môn”: Nhơn mạng tại kỷ gian ‌

Ðối viết: Phạn thực gian.

PHẬT ngôn: Tử vị tri “đạo”.

Phục vấn nhất Sa môn: Nhơn mạng tại kỷ gian‌

Ðối viết: Hô hấp gian.

PHẬT viết: Thiện tai ! Tử tri “ÐẠO” hỷ.

(NGHĨA):

PHẬT hỏi vị “Sa môn” rằng : Mạng người sống chừng bao lâu?‌

Thưa rằng: Chỉ trong vòng vài ngày.

PHẬT bảo: Ông chưa hiểu được “ÐẠO”.

Lại hỏi một vị “Sa môn” khác rằng : Mạng người sống chừng bao lâu?‌

Thưa rằng: Chỉ trong vòng một bửa cơm mà thôi.

PHẬT bảo: Ông cũng chưa hiểu được “ÐẠO”.

PHẬT hỏi một vị “Sa môn” khác nữa rằng : Mạng người sống chừng bao lâu ?‌

Thưa rằng: Trong một hơi thở mà thôi.

PHẬT khen: Hay lắm, Ông mới là người hiểu ÐẠO.

(Phụ chú:

Hơi thở ra thì gọi là “HÔ”. Hơi thở vào thì gọi là “HẤP”.

Cho nên:

Nếu một hơi thở ra rồi mà không lấy lại được, thì đã thành ra người “thiên cổ” (tức là “nhứt tức bất hồi, thiên thu vĩnh biệt”).

Ðiều nầy chứng tỏ rằng đời người, mạng người là vô thường, mong manh, ngắn ngủi, mà:

Người có “TRÍ” cần phải luôn luôn quán xét đến vậy.)

* * *

“QUÁN XÉT” như thế nào?‌

Nên quán xét rằng: “thân” của mình đây chính là “gốc” của mọi điều “KHỔ” não” (THÂN vi “khổ bổn”) vậy.

Ai “tin” được việc nầy ‌ Chỉ trừ người có “TRÍ” trong “PHẬT ÐẠO” mới “tin” được mà thôi. Tất cả chúng sanh chúng ta, hầu hết đều do nơi tham “THÂN” và tham cái “VUI” của cuộc đời, mà không chịu, không biết nghĩ tưởng cùng quán xét lại tấm “THÂN” nầy và những cái “VUI” kia thảy đều là “GỐC KHỔ”.

(Phụ giảng: Kinh dạy: (Xuất tạng “KINH”)

Sao gọi là “THÂN”?‌

Tức là “sắc thân” tứ đại – “đất, nước, gió, lửa” – của mình.

Bởi trong thân thể của Ta thì:

  1. Phần xương, thịt, tóc, lông, răng, móngvv…thì thuộc về “địa đại” (đất).
  2. Phần máu mủ, đờm, rải, nước mắt, nước mũi vv…. thì thuộc về “thủy đại” (nước).
  3. Hơi thở ra, vàovà các sự co giãn tay chân, máu huyết, ruột…., cùng các sự vận chuyển khác ở trong thân mình….thì thuộc về “phong đại”(gió).
  4. Hơi nóng trong thân thì thuộc về “Hỏa đại”(lửa).

Bốn chất “Ðất, nước, gió, lửa” nầy sở dĩ gọi là “Ðại” bởi vì nó có đầy dẫy ở khắp cả các nơi, lớn thì đầy khắp cả trời đất, nhỏ cho chí đến hột bụi, mảy lông cũng đều có sự hiện diện của nó.

Thân tứ đại nầy còn gọi bằng một tên khác nữa là “thân danh sắc”.

Căn cứ trên “NGŨ UẨN”, tức là SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC mà suy ra thì:

  1. Toàn thân từ đầu cho chí đến chân, tay….vì nó “có hình tướng”,nhìn thấy rõ ràng, cho nên nó thuộc về “SẮC”.
  2. Ngoài ra trong thân nầy còn có thêm mấy thứ vô hình nữa – nhưng vẫn hiện diện và mình vẫn cảm nhận nói có một cách rõ ràng, ấy là:

– THỌ: “Nhận lấy các cảm giác buồn, vui, sướng, khổ vv…..

– TƯỞNG: Biết suy tưởng, nhớ, quên vv….

– HÀNH: Ý niệm đổi dời, nối luôn không dứt…..

– THỨC: Biết suy xét, phân biệt đây kia, đẹp, xấu, hay, dỡ vv….

Bốn “UẨN” nầy vì là “vô hình tướng”, chỉ có tên mà thôi chớ không thấy được nên gọi là “DANH”.

Hai phần DANH và SẮC nầy hợp lại thì thành ra toàn thân tứ đại của Ta : Gọi là thân “danh sắc” (tức là thân “NGŨ UẨN”). KINH DẠY :

– Thân nầy do các vi trần (tế bào nhỏ) tích tập lại mà thành, nó sanh diệt trong từng giây phút (sanh, trụ, dị, diệt), niệm niệm dời đổi không ngừng.

– Thân nầy có 9 cửa (2 mắt, 2 tai, 2 mũi, 1 miệng, đại tiện, tiểu tiện) hằng chảy ra chất dơ như hang rắn độc.

– Thân nầy chẳng biết ơn nghĩa – Tức là nó bất kể đến ơn mình nuôi nấng, săn sóc, hoạn dưỡng nó, vì nó mà mình vào sanh, ra tử, xuống biển, lên rừng, vào tù, ra khám vv….Ấy thế mà nó muốn già, muốn bịnh, muốn chết thì nó cứ tự động làm theo ý nó, chớ chẳng có chút nào thương tình mình cả, dù cho mình có năn nỉ cách mấy nó cũng vẫn cứ làm ngơ !!

Cho nên PHẬT dạy:

– Thân nầy nó không có từ tâm như người hàng thịt (đồ tể),

– Thân nầy khó hầu gần, khó chìu chuộng, như kề bên kẻ bạo ác.

– Thân nầy luôn tìm dịp hại mình như kẻ oán thù vv….

Và còn vô lượng thí dụ khác nữa.

Với lại, thân nầy do 360 khối xương lớn, nhỏ, ráp lại mà thành, như căn nhà hư, mục – Các lóng, đốt (xương) chi trì (chỏi) nhau, dùng bốn lưới mạch giảng bủa giáp vòng làm dây cột – 500 phần thịt phủ lên tợ như bùn tô, trét – 6 mạch gân chánh cột nhau, 500 sợi gân lớn ràng buộc – 700 mạch nhỏ đan vào nhau dường như dây lạc bện – 16 mạch to nối nhau – 2 sợi dây thịt dài ba tầm rưỡi vấn gút bên trong – 16 đoạn ruột (trường vị) vây quanh sanh thục tạng – 25 mạch hơi như song cửa sổ – 107 cửa huyệt như cái bình to lủng đầy những lỗ, 7 lớp da gói gém trong ngoài80.000 lỗ chân lông, nơi đó lông mọc lên như cỏ loạn trùm, 5 căn 19 khiếu 2 tràn đầy chất dơ, lục vị hấp thụ đồ ăn, uống (để nuôi thân) như lửa nuốt củi khô, không bao giờ chán….thân thể như vậy, hôi dơ, thúi rã…..có gì đâu mà tự phụ, ngạo kiêu !….

Bấy giờ, PHẬT liền nói kệ rằng:

“Thân nầy là chậu dơ,
Dường như bình đựng phẩn.
Phàm phu không trí huệ,
Cậy “sắc” (đẹp) sanh kiêu mạn.
Trong mũi hằng chảy nước,
Hơi miệng luôn hôi hám.
Mắt ghèn, thân đầy trùng,
Kẻ ngu tưởng sạch, vui !
Như người cầm cục than,
Ðem mài muốn trắng, bóng.
Dầu mài đến mòn hết,
Thể sắc than không đổi.
Dầu muốn thân mình sạch,
Rửa hết nước biển, sông.
Thân trọn không sạch được,
Vì thể chất vốn dơ….”

Ðại khái thì “THÂN” của chúng ta là như vậy. Còn như nếu muốn nói ra cho đủ, thì dù cho có nói đến mãn đời cũng không sao hết được”.

Kiếp người qua mau lẹ như lửa nháng nơi thân đá, hay chớp xẹt giữa lưng trời, nào có tồn tại được lâu đâu !!. Xác thân “mộng huyễn” không bền, rốt lại phải về nơi tan nát !!

Nói thế nghĩa là sao?‌

(XUẤT TẠNG “LUẬN”)

Nay ta thử “QUÁN” (xem) lại thân mình của TA đây, từ ÐẦU” cho chí đến CHÂN” đi, thì Ta sẽ thấy rằng trong tấm thân đó có đến “36 vật”, chính là các thứ:

  1. Tóc;
  2. Lông;
  3. Răng;
  4. Móng;
  5. Ghèn;
  6. Nước mắt;
  7. Nước mũi;
  8. Nước miếng;
  9. Ðất;
  10. Mồ hôi;
  11. Nước tiểu;
  12. Phẩn;
  13. Da trong;
  14. Da ngoài;
  15. Máu;
  16. Thịt;
  17. Gân;
  18. Xương;
  19. Tuỷ não;
  20. Mỡ thịt;
  21. Mỡ da;
  22. Óc;
  23. Mỡ chài;
  24. Tỳ;
  25. Thận;
  26. Tim;
  27. Phổi;
  28. Gan;
  29. Mật;
  30. Ruột;
  31. Bao tử;
  32. Ðàm trắng;
  33. Ðàm đỏ;
  34. Ruột non;
  35. Ruột già;
  36. “Chín lỗ” tuôn chảy mãi ra ngoài những chất thúi hôi, bất tịnh.

(XUẤT TẠNG “KINH”)

Cho nên “KINH” dạy:

“Bao nhiêu nỗi khổ đều nhóm lại ở thân nầy, 7 ngày sau khi sanh ra xong rồi, trong thân tự nhiên có “80.000” loại “vi trùng” hiện ra, dọc ngang ăn nuốt, phá hoại cho cơ thể “hư mòn”. Ðó chính là (xin kể ra đây, một ít phần đại lược):

1. Có một loại “vi trùng”tên là “THỰC PHÁT”, nương nơi tócmà ăn nuốt tóc (khiến cho tóc từ xanh đen, dần dần đổi ra màu sương tuyết).

2. Có hai loại “vi trùng”tên là “PHỤC TÀNG” và “THÔ ÐẦU” nương nơi ÐẦUmà ăn đầu khiến cho da đầu nổi lên “gàu”, (và dần dần khiến cho đầu bị hư mòn (tức là bị các bịnh đau nhức nơi đầu), xấu xí đi (so với thời thơ trẻ).

3. Có một loại “vi trùng”tên là “NHIỄU NHÃN” nương nơi mắtmà ăn mắt (khiến cho mắt càng ngày càng mờ, yếu hoặc đui mù)... đi.

4. Có bốn loại “vi trùng”tên là “KHU TRỤC”, BÔN TẨU, “ỐC TRẠCH”, và “VIÊN MÃN” nương nơi “Óc”ăn Óc (khiến cho “trí nhớ” và sự “suy nghĩ”) càng ngày càng thêm kém cỏi, hoặc là bị các chứng đau bịnh về óc và “thần kinh óc”.

5. Có một loại “vi trùng”tên là “ÐẠO DIỆP” nương TAI” ăn “tai” (khiến cho taicàng ngày càng nghễnh ngãng, lảng tai, nghe không rõ được như hồi còn trẻ (hoặc điếc tai luôn).

6. Có một loại “vi trùng”tên là “TÀNG KHẨU” nương nơi MŨI” ăn mũi (khiến cho mũi bị chảy nước, mũi hôi, mũi thúi, và các thứ bịnh khác thuộc về “MŨI”…)

7. Có hai loại “vi trùng”tên là “DAO TRỊCH” và “BIẾN TRỊCH” nương “MÔI”ăn môi (khiến cho môi bị lỡ lói, môi (đẹp) càng ngày càng khô héo, cằn cỗi, nhăn nheo).

8. Có một loại “vi trùng”tên là “MẬT DIỆP” nương nơi răngăn răng (khiến cho răng sanh ra những chứng bịnh về răng, đại khái như là răng xiếc, răng sâu, răng mòn, răng rụng, vv…)

9. Có một loại “vi trùng”tên là “MỘC KHẨU” nương “chân răng”ăn chân răng (khiến cho răng bị khuyết chân, mủ chân răng, chân răng dần lung lay, lỏng lẻo, rụng răng, v.v…)

10. Có một loại “vi trùng”tên là “CHÂM KHẨU” nương LƯỠI ăn lưỡi (khiến cho lưỡi bị hôi hám, bị nhiễm trùng, riết rồi mất dần đi khả năng “nếm vị”).

11. Có một loại “vi trùng”tên là “LỢI KHẨU” nương cuống lưỡiăn Cuống lưỡi (khiến cho sanh ra bịnh nói trệ trại, giọng nói dần dần chẳng còn trong sáng, rõ ràng hoặc sanh ra các chứng bịnh về đau cuống lưỡi) v.v…

12. Có một loại “vi trùng”tên là “VIÊN THỦ” nương “NƯỚU” ăn mòn nướu răngkhiến cho nướu răng bị lở, bị đau, bị chảy mủ, máu…

13. Có hai loại “vi trùng”tên là “THỦ VÕNG” và “BÁN KHUẤT” nương “bàn tay”ăn bàn tay (khiến cho da tay bị già nua, khô héo… chẳng còn nõn nà mơn mởn như lúc còn thơ).

14. Có hai loại “vi trùng”tên là “ÐOÃN HUYỀN” và “TRƯỜNG HUYỀN” nương “cánh tay”ăn cánh tay (khiến cho Cánh tay bị mỏi mòn, teo rút)….

15. Có hai loại “vi trùng”tên là “CẬN TÝ” và “VIỄN TÝ” nương “bắp tay”ăn bắp tay…

vv…. Như thế:

THÂN” nầy rất là đáng chán, đáng sợ, bởi vì trong “NÓ” có đến tám chục ngàn loại “vi trùng” như vậy, ngày đêm ăn rút, khiến cho cơ thể theo thời gian ngày càng thêm héo úa, mỏi mòn, già xấu, đi đứng lom khom, tay chân đau nhức, thân thể sanh ra mọi thứ nóng, khổ, gầy, ốm, mỏi mệt, đói khát v.v…

(XUẤT TẠNG “LUẬN”)

Lại nữa, “THÂN” nầy nếu như : Có đủ “sáu căn” 3 thì tốt, nhưng mà Ta cũng thấy rằng:

Giữa loài người còn có người đui, người điếc, người què tay chân, người tay cán vá, lưng gù, kẻ vai gãy, miệng câm, lưỡi thụt, mũi sứt, miệng méo, môi khuyết (sứt môi), răng hô, đầu sói….gò má mọc “bướu thịt” treo lủng lẳng, chân đi không được phải dùng tay chống chỏi, què lết, ngọng câm, ghẻ độc đeo thân, sanh ra máu mủ hôi thối, bịnh tê, bịnh bại, cùi hủi, ghẻ lở, thúi tha dơ dáy…

Hoặc:

– Làm “Tôi trai, tớ gái” cho nhà người, bị “chủ” hành hạ, đánh đập, chưởi bới, đày đoạ …

– Sanh vào nhà bần cùng hạ tiện, sống ở chốn hoang dã, núi rừng (như mọi, mên, mường, mán…)

– Sống chui rúc trong các loại hang, động, ăn uống tanh hôi… không khác gì loài cầm thú v.v…

Tóm lại,

Nếu nói về những nỗi “KHỔ” trong thân “NGƯỜI”, thiệt là không cùng tận vậy.

Lại còn có thêm “8 nỗi khổ chánh” nữa nung đốt lẫn nhau, không lúc nào tạm nghĩ, như là :

– KHỔ khi mới SANH ra.

– KHỔ vì GIÀ nua, lụm cụm.

– KHỔ vì BỊNH hoạn, ốm đau, da nhăn, má cóp, bịnh hoạn rề rề.

– KHỔ vì CHẾT chóc, tử biệt, bỏ lại những gì (mà) mình thương mến.

– KHỔ vì kẻ “OÁN THÙ” hằng luôn gặp gở.

– KHỔ vì “THƯƠNG YÊU” mà phải xa lìa.

– KHỔ vì “MONG CẦU KHÔNG TOẠI Ý”.

– KHỔ vì “NGŨ ẤM HỪNG THẠNH” (XÍ THẠNH) xoay vần.

(Phụ giảng:

– Bảy món “KHỔ” đầu là “QUẢ” của TẬP “NHƠN” quá khứ (mà TA đã từng gieo trồng trong các kiếp trước).

– Riêng món “NGŨ ẤM XÍ THẠNH KHỔ” thứ 8 sau chót nầy là “NHÂN” KHỔ cho các kiếp đời tương lai khác xa sau. (mà TA đã hoặc “vô tình”, hoặc “cố ý” gây ra trong hiện kiếp nầy).

Trong 8 món “KHỔ” Chánh nầy, lại còn có thêm (trong đó) vô lượng thứ “KHỔ” khác nhỏ hơn làm “quyến thuộc”. Chỉ người có “TRÍ” trong PHẬT ÐẠO mới nhận thấy rõ được 8 thứ “KHỔ” nầy mà thôi.)

* * *

Lại còn có thêm nhiều thứ “KHỔ” khác nữa, như là:

– Chết thình lình (trúng phong, trúng tên, đạn) không thể giữ mạng được. Hoặc chết đói, chết lạnh, chết vì đứt gân óc (đứt mạch máu đầu).

– Chết vì ăn uống quá độ, chết vì rượu, chết vì Sắc đẹp, chết vì của cải (do liều thân giữ của cải nên bị cướp giết chết – (gọi là lấy “THÂN” che “CỦA” ).

– Chết vì tức uất, nóng giận, chết vì phỏng lửa, chết chìm, chết trôi, chết vì núi lở, đá lăn đè, chết vì nhà sập, tường xiêu, chết vì trộm cướp giết hại…

– Ngựa voi đạp, xe cán chết, ra trận trúng tên đạn mà chết, bị pháp luật giết mà chết, chiêm bao kinh sợ quá mà chết, ma quỷ ám hại mà chết, ngây điên mà chết, cọp beo cắn xé mà chết, rắn độc cắn mà chết, sét đánh núi băng mà chết, uống nhằm độc dược (thuốc độc) mà chết, bị trù ếm mà chết, uất ức giận tức mà chết v.v…

– Trúng gió, trúng phong mà chết, đau bịnh ruột gan mà chết, bị gạch đá ném lầm mà chết, trật chân té từ trên cao xuống mà chết, sợ hãi, lo rầu mà chết, cầu danh lợi không được (nên buồn tức) mà chết, treo cổ mà chết, nhảy xuống sông, sa vào trong lửa mà chết v.v…

Còn nhiều thứ “CHẾT” nữa mà không sao kể ra cho xiết được.

* * *

Sau khi “QUÁN XÉT” về cái “THÂN” và cái “CHẾT” xong rồi.

Lại phải “quán xét” thêm về một số các “KHỔ” khác…nữa.

Có không biết bao nhiêu là nổi “KHÁCH KHỔ” 4 khác nữa, nay xin nói lược qua về một vài thứ tiêu biểu mà thôi, đại lược như:

– Ðói khát cũng là “KHỔ”.

– Ðau, ngứa cũng là “KHỔ”.

– Nóng quá cũng khổ mà lạnh quá cũng “khổ”.

– Ruồi, lằn, rận, rệp, ong, bò cạp, rắn rết… cắn, chích cũng là “khổ”.

– Chó dữ cắn cũng là “khổ”.

– Nắng mưa trái thời, trái tiết cũng là “khổ”.

– Cào cào cắn lúa, phá hoại mùa màng cũng là “khổ”.

– Gặp nhằm năm mất mùa cũng là “khổ”.

– Gió, mưa, bão, lụt cũng là “khổ”.

– Sét đánh, điện chớp làm cho mình, người kinh hoàng cũng là “khổ”.

– Gia quyến không an lành cũng là “khổ”.

– Giặc cướp nhiễu nhương cũng là “khổ”……

Lại còn có biết bao thứ “khổ” trong cái “KHỔ” khác nữa, khó mà nói ra cho hết được. !!

Kinh dạy: (Xuất tạng KINH)

“Nầy NAN ÐÀ 5, người “TRÍ” (HUỆ) đâu có ai ở trong biển sanh tử mà ưa thích tấm thân “RẤT Ư (là) khổ não” nầy…

….Giả sử như:

…Dầu cho có được an lạc, không bị tật bịnh, lại còn thêm được áo cơm dư thừa, sống lâu trăm tuổi, thì trong đó:

Giấc ngủ chiếm (gần) hết phân nửa (tức là bị mất gần hết 50 năm “ngủ nghỉ”).

Ban đầu làm trẻ thơ, kế làm đồng tử, khi đến trưởng thành thì bị:

Nhiều ưu bi, hoạn nạn, các thứ bịnh hoạn, đau nhức, vô lượng thứ “KHỔ” hành hạ “thân” ấy, khó nói ra cho hết.

Lại còn có thêm:

Các “KHỔ” trong nội thân phát ra bức não, khi khó chịu đựng nổi thì chẳng còn có ý muốn sống, cố ý tìm chết. Thân như vậy, NHIỀU “KHỔ”, ÍT “VUI”, dầu cho được tạm thời còn, tất cũng phải đến ngày “hoại diệt” !!!.

Nầy NAN ÐÀ,

Phàm có “SANH”, tất phải có “TỬ” chớ không thường còn. Dầu cho có uống thuốc trường sanh, trì dưỡng thọ mạng kéo dài được đến trăm tuổi, chung quy cũng chẳng khỏi phải bị “tử thần” giết chết, đưa qua “đất trống”. 6

Phải biết, sanh sống không đáng vui ưa, “tư lương” 7 đời sau phải siêng chứa họp, chớ có buông lung, chuyên tu phạm hạnh chớ nên lười nhác. Ðối với các việc “lợi hành”, “pháp hành”, “công đức hành”, “thuần thiện hành” phải thường thích tu tập.

Hằng quan sát ở nơi chính mình, lòng luôn ghi nhớ hai việc THIỆN, ÁC đừng quên, chớ nên để cho sau nầy phải nói lên lời “ĂN NĂN, hối hận”. Bởi vì khi ấy:

Tất cả “sở hữu” mến ưa đều rời lìa, “Thần thức” – (tức là “HỒN” / thức thứ 8 A LẠI DA) – phải theo hai nghiệp “THIỆN”, “ÁC” mà đi vào đời sau.

Nầy NAN ÐÀ, Thọ mạng trăm năm, có 10 “vị”:

– Tối sơ là: “anh nhi”. Vị nầy còn nằm trong nôi.

– Thứ hai là: “đồng tử”, làm trẻ nít vui đùa.

– Thứ ba là: “thiếu niên” thọ các thứ DỤC LẠC.

– Thứ tư là: “Thiếu tráng” dũng kiện, đa lực – (là Thiếu niên đầy đủ sức lực khoẻ mạnh).

– Thứ năm là: “Thanh niên” có trí đàm luận.

– Thứ sáu là: “Thành tựu”, hay khéo tư lương, giỏi làm kế sách (kế hoạch, sách lược).

– Thứ bảy là: “Lần suy”, giỏi biết pháp thức (tức là già dặn, đầu có “sạn”)

– Thứ tám là: “Hủ mại”, thân thể lần lần suy nhược.

– Thứ chín là: “Cực lão”, không còn làm gì được.

– Thứ mười là: “Trăm tuổi”, đúng vào vị “CHẾT”

Nầy NAN ÐÀ,

Khái quát đời người đại lược có 10 “VỊ” như thế.

– Cứ tính theo “4 tháng” làm một mùa  thì trong một trăm năm 8(mỗi năm có 12 tháng) được 300 mùa, 100 mùa xuân, 100 mùa hạ và 100 mùa đông.

– Một năm có 12 tháng, tổng số đời người 100 năm, gồm có 1200 tháng.

– Lấy mỗi nửa tháng làm số thì có tất cả 2400 lần nửa tháng.

– Theo ba mùa Xuân, Hạ, Ðông thì mỗi mùa (hoặc Xuân, hoặc Hạ, hoặc Ðông) có riêng 800 lần nửa tháng.

– Ngày đêm thì có ba vạn sáu ngàn. (36.000 ngày đêm)

– Một ngày ăn hai bửa cơm thì có 7 vạn hai ngàn bửa ăn (72.000).

(Dầu có duyên sự chi chẳng ăn được thì cũng ở trong số đó). Như là:

– Vì “sân hận” quá mà chẳng ăn.

– Vì gặp “khổ” quá mà chẳng ăn.

– Vì cầu không được (nên buồn bỏ ăn), vì ngủ, vì trì trai, vì chơi đùa mà chẳng ăn

– Vì sự vụ, vì bịnh mà chẳng ăn.

“ĂN” cùng “CHẲNG ĂN” cộng lại có tổng số như trên là: 7 vạn 2000 bữa (gồm luôn cả lúc còn bú sữa của mẹ).

Mạng người trăm tuổi. Năm, tháng, ngày, đêm và số uống ăn, NHƯ LAI đã nói rõ ra như vậy rồi, các “ông” phải nên sanh tâm nhàm chán.

Nầy NAN ÐÀ,

Thân ấy từ khi mới sanh thành, cho đến lúc trưởng đại, còn có nhiều thứ bịnh hoạn đau đớn, khổ sở khác nữa, như là : Bệnh đầu, mắt, tai, mũi, lưỡi, răng, cổ, họng, ngực, bụng, tay chân, cùi, hủi, điên cuồng, sưng thủng, ho suyễn, bịnh phong, bịnh hoàng nhiệt, đàm ấm, ngược bịnh, gân cốt đau nhức. “Thân người” có nhiều “bịnh khổ” như vậy. (!!!)

Lại còn có thêm:

101 thứ bịnh phong, 101 thứ bịnh hoàng nhiệt, 101 thứ bịnh đàm ấm, 101 thứ bịnh tổng hợp, cộng là 404 thứ “bịnh” từ nội thân phát sanh ra. (!!!)

Nầy NAN ÐÀ, thân thể nầy tồi tệ, dơ bẩn như ung, nhọt, mà trên “THÂN” đó lại còn có thêm các thứ bịnh hợp thành, không tạm thời dừng, niệm niệm chẳng ở lại 9, cho nên các ÔNG phải biết như thật điều rằng:

Thể chất “NÓ” – (THÂN ấy) là “vô thường”, là “KHỔ”, là “KHÔNG”, là “VÔ NGÔ, là pháp “bại hoại” – (tức là hư hỏng) gần đến nơi chết mất, chẳng thể nào bảo hộ “nó” hoài, cũng chẳng thể nào cưng yêu NÓ” mãi mãi được !!!

Nầy NAN ÐÀ,

Các “HỮU TÌNH chúng sanh” còn có nhiều sự “thống khổ” khác lúc còn “sống” nữa, như là:

Bị chặt tay, chặt chân, chặt đầu, móc mắt, thẻo tai, lắt mũi, ngục tù giam cầm, gông xiềng, khảo tra, đánh đập, đói khát, khổ sở, rét nóng, mưa tuyết lạnh lẽo, muỗi mòng, kiến rận, gió bụi, ác thú, độc trùng… nhiều thứ “bức não”, khổ sở vô lượng, vô biên khó mà kể ra cho hết được.

Mà các “hữu tình” ở giữa những sự “thống khổ” ấy, lại đam mê, ưa thích !!!

Bao nhiêu “dục lạc” đều lấy “KHỔ” làm căn bản, mà HỮU TÌNH chúng sanh chẳng biết rời bỏ, lại mãi đi tìm cầu, ngày đêm bị nung nấu thân tâm, nhiễu não, bên trong (lòng của) chúng cháy nóng hừng hực (do nơi các thứ lửa tham, sân, si và lửa tham cầu “NGŨ DỤC’ cháy bừng) không lúc nào ngừng nghĩ.

Các “KHỔ” chánh như là:

Sanh khổ, bịnh khổ, lão khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, “ngũ thủ uẩn” khổ, cho đến:

Ði, đứng, ngồi, nằm, bốn oai nghi ấy thảy đều là “khổ” cả.

Ði mãi, ngồi mãi, nằm mãi, đứng mãi đều phát sanh ra đau khổ. Nếu tạm thời có thay đổi oai nghi – (như cũng có lúc đi, đứng, ngồi, nằm) thì cho rằng vui sướng, chớ kỳ thiệt chẳng phải là vui sướng.

Nầy NAN ÐÀ,

Những “HỮU TÌNH” ấy thảy đều là:

– Bỏ “KHỔ” nầy mà đi tìm “KHỔ” khác.

– Chỉ là: “KHỔ sanh”, chỉ là “KHỔ diệt”.

– Các “HÀNH” làm nhơn duyên nối nhau phát khởi, là vô thường, chớ chẳng phải là cứu cánh chơn thiệt, là pháp biến hoại, chẳng bảo thủ – (tức là “giữ gìn”) được, phải:

Cầu: tri túc, thiểu dục (tức là “ít muốn, biết đủ”).

Phải: Rất chán sợ.

Phải: Siêng năng tu hành cầu giải thoát.

Nầy NAN ÐÀ,

Các loài HỮU TÌNH sanh trong “thiện đạo” (đường lành như cõi NGƯỜI, cõi TRỜI), chỗ sanh bất tịnh 10 còn phải chịu nhiều thứ đau khổ khó nói ra cho hết. Huống hồ chi là các HỮU TÌNH sanh ra trong 3 “ác đạo” thì “CHÚNG” còn phải chịu thêm biết bao nhiêu là “thống khổ”, khó mà kể ra cho hết được.

Than ôi ! Các nỗi “KHỔ” trên đây hãy còn là cái “KHỔ” nhỏ ở trong cõi Người, còn bằng như do ngu si mà làm ra các ác nghiệp, tội chướng, ắt phải bị:

Ðoạ lạc vào trong ba “ác đạo” là Ðịa ngụcNGẠ QUỶsúc sanh chịu những cái “KHỔ ÐỘC” lớn lao nơi các “cõi” đó.

So lại, thì các nỗi “KHỔ” nhỏ nơi cõi “Người” nào có ra chi.

Than ôi ! Nay nói lên không biết bao nhiêu là thứ “KHỔ”, lập đi, lập lại hoài, dặn dò, nhắn nhủ nhiều lần, đó là bởi vì :

Muốn khiến cho người trong thiên hạ thảy đều biết “sợ”, biết y theo lời PHẬT, THÁNH dạy mà TU, ăn chay, giữ giới, cùng niệm thánh hiệu “PHẬT A DI ÐÀ”, đồng phát nguyện sanh về “CỰC LẠC TỊNH ÐỘ” để thoát ra khỏi vòng “khổ”, về đến chỗ “vui”. Hỡi các bậc “nhơn giả” ơi !

Nên biết cái bịnh, cái chết tới nơi rồi, có cái gì, thứ gì mà thế được cho ta đâu ! Dầu cho “chí thân” như cha mẹ, ông bà, vợ chồng, con cái, giàu sang, công danh, quý hiển vv…, đến khi đó cũng thảy đều là vô dụng mà thôi.

Chỉ có một việc cần thiết phải biết, phải nhớ nằm lòng là:

“Mỗi người trong chúng ta phải tự ráng sức mình, rồi y theo lời Phật, Thánh, Tổ sư dạy mà lo liệu TU TỊNH ÐỘ trước, để dự bị cho con đường Tử, Sanh trước mắt mà thôi”. Huống chi : Tháng ngày có hạn, thời giờ chẳng có chờ người, sống chết vô thường, Hô hấp nan định, nay còn mạnh khoẻ mà không chịu lo dự bị “TƯ LƯƠNG TỊNH ÐỘ” – (để phòng thân) trước, còn chờ đến khi nào ‌

Nương theo các lời vừa luận trên, Tổ sư có lời “KỆ” khuyên dạy rằng:

Sân lan trời ngã bóng chiều, 11
Cảm “thân phù thế” ít nhiều ngẫn ngơ.
Cuộc đời là mấy giấc mơ,
Kẻ mong thanh sắc, người chờ lợi danh.
Cánh bèo sóng vỗ bập bềnh 12,
Tại ai hay cũng gây nên bởi mình.
Bể trần là mấy phù sinh ‌
Thị phi thương ghét trong tình quẩn quanh !
Kìa trông chiếc lá lìa cành,
Vinh hư cõi tạm trong vành đó thôi.
Mà trong ngọn nước chảy trôi,
Mênh mang “sáu nẻo” biết rồi về đâu.
Kiếp người nào có bao lâu,
Nắng mưa thôi cũng dãi dầu cỏ hoa.
Lầu sương nhạt ánh trăng tà,
“Hoàng lương” một giấc tỉnh ra ngỡ ngàng.
Chi bằng về cõi “Liên Bang” (là cõi CỰC LẠC),
Hoa khoe sắc ngọc, gió đàn pháp âm.
Trời giải thoát, cảnh thậm thâm,
An vui muôn kiếp, tuyệt lầm lỗi xưa.
Chỉ câu “NIỆM PHẬT” đừng thưa 13,
Chỉ bền “TÍN”, “NGUYỆN” tam thừa 14 bước lên.
Ðài vàng đã sẵn ghi tên,
Cơ duyên sẵn đợi một nền “ÐẠO TÂM” !

Sao được gọi là bậc “ÐẠO TÂM”?

Tức là người biết:

quán xét thân nầy là “khổ” rồi lo sợ mà y theo lời PHẬT dạy, phát tâm niệm câu NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT, cầu sanh về CỰC LẠC TỊNH ÐỘ để dứt “khổ” vậy. Trong THẬP LỤC QUÁN KINH (tức là QUÁN VÔ LƯỢNG Thọ Kinh) có lời dạy rằng :

Hết lòng niệm một câu NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT, tiêu được 80 ức sanh tử trọng tội, ấy chính là phần việc :

Trên giữ một lòng không loạn (nhứt tâm bất loạn)
Dưới đến chỉ cần 10 niệm – (mỗi niệm có 10 câu) thành công.

(Xem lại lời LUẬN về việc nầy trong bức THƯ HỌC PHẬT SỐ 57).

Kẻ phạm: 10 tội ÁC, 5 tội NGHỊCH, khi sắp chết niệm 10 câu NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT cũng được vãng sanh về CỰC LẠC TỊNH ÐỘ, huống chi kẻ có phát “ÐẠI TÂM” ăn chay, giữ giới, niệm PHẬT mà không được vãng sanh sao?‌

HỎI:

Trong “Luận Kinh” đã nói nơi (trang 1) có dạy : “Thân người khó được, TỊNH ÐỘ dễ qua”. Là sao?‌

ÐÁP:

1. Thân “người khó được” là bởi vì:

Nếu không khéo biết giữ gìn “ngũ giới” 15  thời dứt (đường sanh về các) nẻo Trời, Người, còn như giữ 5 giới ấy trong sạch thì mới được sanh ra làm “người” trở lại.

Huống chi ngày nay mấy ai chịu khó “THỌ” và “giữ gìn” kỹ lưỡng năm giới (ngũ giới) lại cũng không chịu tích cực tu hành chi để mà bảo đảm cho kiếp người về sau.

Cho nên nói : “Thân người khó được” là như vậy.

2. Còn “CỰC LẠC TỊNH ÐỘ” dễ qua là bởi vì :

Kẻ nào biết tu TỊNH ÐỘ, chuyên Tâm trì niệm câu “NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT” thì dù chưa có thể giữ gìn ngũ giới được sạch trong, nhưng nhờ có sức “nguyện lực” của PHẬT A DI ÐÀ cầm nắm, nếu như lỡ có gây tạo nhiều tội nghiệp – (dù lớn lao đến thế mấy) PHẬT cũng cho sám hối, đến khi kẻ đó mạng chung thì:

PHẬT A DI ÐÀBỒ TÁT QUÁN THẾ ÂMBỒ TÁT ÐẠI THẾ CHÍ, cùng chư THANH TỊNH ÐẠI HẢI CHÚNG BỒ TÁT nơi cõi CỰC LẠC, mỗi mỗi đều dùng sức “NGUYỆN LỰC” của mình, đồng đến dìu dắt vãng sanh, cho nên nói:

“CỰC LẠC DỄ SANH VỀ” là như vậy.

Nương theo “Ý” trên, nên Tổ sư có bài kệ “KHUYẾN TU” như sau:

Xưa Nhan Bính, Như Như cư sĩ,
Dẫn luận kinh, ý ý khuyên cầu.
Bút nhàn khuyên giữa canh thâu,
Tỉnh ai trần lụy, đổi sầu làm tươi.
Thân bào ảnh lắm người yêu qúy,
Yêu qúy thân cho lụy vì thân,
Cuộc vui những ước vô ngần,
Nào hay vui vẫn là nhân chác sầu !
Kiếp phù thế bóng câu cửa sổ,
Vóc huyễn hư giọt lộ lòng hoa,
Ðôi mươi trẻ, tám mươi già,
Số người yểu thọ, khó qua vô thường.
Dép dưới giường, trên giường bỗng biệt, 16
Sống ngày nay dễ biết ngày mai,
Mạng người Hô hấp cho hay,
Nghĩ cơn vĩnh biệt, tuyền đài mà đau !
Xót duyên kiếp vì sao ngắn ngủi, 17
Chấp thân chi để tủi cho thân,
Da bao những thịt, xương, gân,
Xác người như thể đống phân sạch gì.
Tóc, răng, móng khác chi đất bợn,
Mũi, dãi, đờm ghê tởm xiết bao !
Bên ngoài rệp đút, muỗi đeo !
Bên trong sán, lãi lẫn vào nhớp chưa ‌
Nỗi nóng bức, ngày trưa tiết hạ,
Cơn lạnh lùng đêm giá trời đông,
Xét thân nhơ khổ vô cùng,
Xả lòng tham luyến, khởi lòng thoát ly.

Trách người thế mê chi lắm nhẻ,
Sánh phong lưu phô vẻ y quan,
Kẻ khờ cũng học đài trang
Ðể lòng điên đảo, theo đàng sắc thanh.
Ðầu xương sọ cài trâm thắt lụa,
Ðảy da hôi ướp xạ, xông hương,
Khéo đòi nhung gấm phô trương,
Chỉ tuồng che lớp vô thường hôi tanh.

Những mãn tưởng ngày xanh muôn tuổi,
Lắm cơ mưu theo đuổi yên hoa.
Ngờ đâu tai điếc, mắt lòa,
“DIÊM VƯƠNG” sắp rước đến tòa “U Minh”.
Làn tóc bạc đưa tin quỉ sứ,
Góc răng long nhắn ý quy âm,
Càng tài, càng sắc, càng dâm,
Càng cho đọa lạc, càng lầm mà thôi.
Cuộc hành lạc một thời tham tiếc,
Nẻo luân hồi muôn kiếp đắng cay,
Ðến khi sắp xuống Diêm đài,
Gân xương đau nhức, chân tay rụng rời,
Vợ lưu luyến, đầy vơi giọt lệ,
Con tiếc thương, kể lễ khóc than.
Dầu cho quyến thuộc muôn ngàn,
Có ai thay thế cho chàng được đâu !

Kẻ sống ở nặng hoằng gánh tủi,
Người chết đi dong ruỗi phách hồn,
Ðường âm mờ tựa đêm hôm,
Trông ra quạnh quẻ bồn chồn chỉnh ghê.
“Nại hà” đến lạnh tê gió lốc,
“Quỉ MÔN quan” ghê gốc tiếng thương,
Bảy ngày lià quá cõi dương,
“Âm ty” đã trải trăm đường khảo tra.
Tào quan xử thét la chẳng vị,
Ngục TỐT hờn, xoa, chủy đâu tha. 18

Ðài gương nghiệp cảnh chói lòa,
Soi tường thiện, ÁC chối qua được nào.
Người NHÂN ÐỨC đưa vào cõi phước,
Kẻ hung hoang giải trước hình ty,
Ðọa đày thảm khổ xiết chi,
Mới hay nhân quả mấy khi sai lầm.
Rừng đao kiếm bao năm hết tội,
Kiếp lông, sừng nhiều nỗi đa mang,
Trả đền cho dứt nghiệp oan,
Mới mong thoát khỏi con đàng long đong.
Dù ai có to lòng, lớn mật,
Mặc chàng hay báng Phật, khinh Tăng,
Chẳng qua đối trước “Diêm quân”,
Cúi đầu, co gối chịu phần khảo tra.

Hồn phách đã xa chơi âm giới,
Thi hài còn nơi cõi dương gian,
Có tiền mua lớp áo quan,
Không tiền vùi chốn núi hoang lạnh lùng.
Chất da thịt sẽ cùng tan rã,
Tấm hình hài lần hóa tanh hôi,
Chỉ trong hôm sớm mà thôi,
Chầy năm bảy bửa, sớm thời ít hôm.

Nét kiều diễm chập chờn xuân mộng,
Kiếp tài hoa hình bóng bạch vân,
Khi xưa tài, sắc mười phân,
Mà nay một nấm cô phần lạnh tanh.
Thời oanh liệt, anh hùng đâu tá,
Nỗi ái ân hư, giả còn chi,
Phất phơ cành liễu xanh rì,
Giấy tiền treo đó, dường ghi mối sầu.
Bóng chiều rủ xuống mầu cỏ biếc,
Bia mồ trơ một chiếc vắng không,
Nghĩ thôi rơi lệ chạnh lòng,
Ðời người đến thế là xong cuộc đời.

Ví chăng biết tìm nơi “giải thoát”,
Nương về ngôi “chánh giác” quy y,
Luân hồi dứt hẳn có khi,
Bên trời “Bát nhã” còn chi lo phiền.
Lối ma quỉ đừng riêng sinh sống,
Ðất từ bi có giống hoa “đàm”, (tức là HOA “Vô ưu”)
Giữ lòng thiện, dứt lòng tham,
Gái, trai, Tăng, tục đều ham tu hành.
Rõ cảnh mộng chớ quanh đường mộng,
Biết miền chơn hãy chóng tu chơn,
Dần dà tính thiệt so hơn,
Tuổi xuân qua mất để hờn về sau.
“Sáu chữ Phật” cùng nhau gắng niệm,
Chín phẩm đài sen, chiếm ngôi vinh,
Chớ nên mình phụ lấy mình,
Trách sao “Diêm Lão” vô tình chẳng dung.

Bỏ điều ác xin cùng tu thiện,
Chừa lỗi xưa, cải tiến đường sau,
Lại vì quyến thuộc bảo nhau,
Cùng khuyên già trẻ sớm mau tu trì.
Khiến mỗi kẻ đồng quy bến giác,
Cho mọi người đều thoát sông mê,
Dù cho lao khổ dám nề,
Ðài sen đốt mảnh hương thề nguyền xin…
Xin dốc tưởng tin theo lời Thánh,
Ðừng để cho rổi rảnh, ưu du,
Kiếp nầy nếu chẳng “chuyên tu”,
Chỉnh e kiếp khác công phu lỡ làng.

TRÍ HIỀN /VÔ NHẤT ÐẠI SƯ
(THÍCH THIỀN TÂM Hòa Thượng)

Nơi cuối bài “KỆ” đây, Ta thấy có hai chữ “CHUYÊN TU”.

Vậy thì thế nào mới được gọi là “CHUYÊN TU” trong pháp môn TỊNH ÐỘ mà ý của Tổ sư muốn dạy ‌

Chính là ý của việc “niệm niệm TƯƠNG TỤC” (tức là phải “NIỆM PHẬT” không cho gián đoạn).

Việc “niệm niệm TƯƠNG TỤC” nầy xin lấy thí dụ nơi đây mà giải nghĩa, như sau, người có TRÍ nhơn đây hiểu rõ:

“thí dụ như có người ở nơi đồng vắng, bị người cầm gươm rượt theo muốn giết, (dụ cho sanh tử, vô thường không tha mạng sống). Người đó sợ hãi quá, cắm đầu chạy riết, đến chỗ gặp một con sông chắn ngang qua (con sông sanh tử. Bờ bên nầy là sanh tử ngạn, bờ bên kia là giải thoát ngạn).

Người ấy vừa chạy trốn vừa thoáng nghĩ trong đầu rằng:

Nếu Ta lội qua khỏi được con sông nầy, đến “BỜ BÊN KIA” thì mới mong bảo toàn thân mạng. Nhưng để y phục mà lội hay là cởi bỏ ‌

Nếu để y phục mà lội sợ e vương mắc, lúng túng tay chân khó bơi. Còn cỡi bỏ thì không kịp nữa rồi, vì giặc cướp đã rượt tới sau lưng (đây là dụ cho cái chết đã gần kề không còn xa nữa).

Bấy giờ người ấy chỉ còn có một “NIỆM DUY NHẤT” là làm sao cho qua sông được thì thôi chớ không còn có ý nghĩ chi khác”…..

Thì người NIỆM PHẬT chúng ta đây cũng y như vậy, nghĩa là:

– Chỉ chuyên tâm tha thiết mà NIỆM PHẬT.

– Ðừng nghĩ ngợi điều chi khác cả (tức là dứt hết mọi tạp tưởng).

– Câu “NIỆM PHẬT” nầy vừa “DỨT” thì câu “NIỆM PHẬT” khác “TIẾP NỐI” theo liền lập tức (đừng có để phí thời giờ).

– “niệm niệm” nối nhau liên tục như vậy cho đến “MƯỜI NIỆM”.

Ðây gọi là “THẬP NIỆM TƯƠNG TỤC” (tức là 10 niệm nối nhau không dứt).

Cho nên Người có “TRÍ” sau khi quán xét, thấy rõ thân nầy là “NHƠ”, là “KHỔ” rồi, phải y theo lời PHẬT dạy mà “CHÍ TÂM NIỆM PHẬT”, cầu được vãng sanh “CỰC LẠC TỊNH ÐỘ” .

Sao gọi là “CHÍ TÂM NIỆM PHẬT”?‌

  1. Nghĩa là : “Ý” nghiệp làm lành….(ý đây tức là “TÂM”)
  2. MIỆNGluôn luôn xưng niệm Danh hiệuPHẬT. Ðó là “KHẨU NGHIỆP LÀM LÀNH”
  3. Chấp tay cúi mình lạy PHẬT– Ðó là THÂN NGHIỆP làm lành.

Nếu giữ THÂN, KHẨU, Ý làm lành như vậy trọn đời, thì một câu NIỆM:

“NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT” mới có thể diệt được trọng tội trong 80 ức kiếp sanh tử.

Nhưng cũng cần phải hiểu thêm điều rằng:

“ Lúc lễ bái, Niệm PHẬT và “PHÁT NGUYỆN” (vãng sanh) phải:

– Khẩn thiết và chí thành, không xen lẫn tạp tưởng.

– Như người sắp sửa bị giết mà cầu được tha mạng.

– Như người bị giặc cướp đuổi mà muốn được thoát.

– Như thân bị lâm vào cảnh nước trôi, lửa cháy, một lòng mong được cứu nạn.

NIỆM PHẬT phải “KHẨN CẤP” và “CHÍ THÀNH” như thế thì mới mong thành tựu được “CÔNG PHU”.

Tóm lại là “NẾU”:

– Nói một đường, làm một nẻo (Tức là MIỆNG thì nói NIỆM PHẬT (chỉ nói suông thôi) mà “TÂM” thì không chịu “NIỆM”).

– Lời “NÓI” và “HÀNH ÐỘNG” chẳng giống (y như) nhau!

– Lòng “TIN” nơi TỊNH ÐỘ pháp môn không vững chắc!

– Nay thì “NIỆM PHẬT”, mai mốt lại bỏ bê biếng trễ!

“NIỆM PHẬT” như thế khó được vãng sanh lắm”.

Người xưa khi nghe dạy “NIỆM PHẬT CHUYÊN TU” thì một lòng “Y GIÁO PHỤNG HÀNH” mà “Hạ thủ công phu”. Còn người đời nay, đa phần thì ngược lại, nghĩa là chỉ ham chuộng các điều huyền lý cao xa, chê TỊNH ÐỘ” là Pháp TU thấp kém, nên chẳng chịu chuyên tâm, nhứt ý xét lại phận mình mà thực hành NIỆM PHẬT theo như lời dạy, rốt lại phải bị lâm vào trong cảnh:

MIỆNG thì nói đủ hết các phương “THUỐC” quý, hay,

Mà: Tự thân thì vương mang đủ thứ “BỆNH”,

Vì: Chẳng chịu “đầu toa bốc thuốc”,

Thì: Làm sao cho khỏi “bệnh” được ‌Ngài LIÊN TRÌ ÐẠI SƯ là Liên Tông Bát Tổ (Tổ thứ 8 trong TỊNH ÐỘ TÔNG và cũng là ứng thân của PHẬT A DI ÐÀ) – có nói lời “tự thuật” rằng :

…..“Lúc TA (Ngài LIÊN TRÌ) còn đang trên đường “Tham phương học ÐẠO” 19 nghe nói Ngài BIỆN DUNG Thiền sư tông phong 20 rất thạnh, bèn vượt đường ngàn dậm đến nơi cầu PHÁP, đôi ba phen quỳ lạy thưa hỏi:

Thiền Sư bảo:

– “ Ngươi nên gắng giữ bổn phận, chớ nên tham cầu danh lợi.

– Cũng đừng chạy theo “DUYÊN” bên ngoài.

Chỉ cần:

Phân minh “LÝ NHÂN QUẢ”, một lòng chuyên “NIỆM PHẬT mà thôi”.

TA liền lãnh giáo, lạy tạ mà lui ra.

Bấy giờ các bạn đồng hành (bạn tu cùng đi theo) đều cười chế nhạo, bảo TA rằng:

Từ ngàn dặm xa xôi đến đây, lòng chỉ mong nghe được các lời PHÁP cao siêu, thâm diệu… Té ra chỉ lãnh được mấy câu “KHÔNG ÐÁNG NỮA ÐỒNG TIỀN” !!! Giá mấy câu ấy, ai mà nói không được chứ !‌!

TA đáp:

“Ðó mới là chỗ TỐT của THIỀN SƯ. Ở chỗ nào?‌

TA và các ngươi một lòng khát ngưỡng, mong muốn, từ ngàn dặm đến đây. NGƯỜI không nói chi lời “cao siêu, huyền diệu” để lấn lướt kẻ dưới, chỉ chất phát, thiệt thà, đem chỗ công phu “Thiết cận” song vô cùng “tinh yếu” chính mình đã thể nhận được, mà dặn dò, khuyên bảo. Cái hay của NGÀI chính ở “TẠI CHỖ ÐÓ”.

Từ đấy đến nay, TA vẫn còn tuân giữ và thực hành y theo các lời “DẠY” ấy, không dám lãng quên.

(Lời bình giảng của BẢO ÐĂNG):

“GIỮ BỔN PHẬN, không tham danh lợi, không chạy theo duyên bên ngoài, rõ lý nhân quả, chuyên Tâm NIỆM PHẬT”.

Các lời “DẠY” nầy, mới đọc đến hoặc vừa thoáng nghe qua, thì xem như rất là cạn cợt, tầm thường, song thật ra thì : RẤT LÀ CAO SIÊU, MẦU NHIỆM.

Bởi vì: Tuy là giản dị, song trong lời DẠY ấy đã bao gồm hết cả Kinh nghĩa, gom góp lại thành tinh yếu của cả một đời tu tập.

Giữ đúng theo lời dạy đây, cứ bình tâm mà xét kỹ lại đi. Hỏi hiện nay vào trong thời MẠT PHÁP nầy, mấy ai (dù tại gia hay xuất gia) làm y theo được ‌ Cho nên, mấy Kẻ nông cạn tất nhiên là xem thường lời “nói” nầy vậy.

Còn: Mấy “KẺ” tự cho mình là cao siêu, vô ngại, hoặc xưng TA là người thông đạt, xuất cách, ưa nói lý huyền của BÁT NHÃ, LÝ KHÔNG của Ðại Thừa, thì quyết định rằng :

Chẳng bao giờ “HỌ” làm theo đúng được với lời “DẠY” nầy cả (vì tăng thượng mạn).

(Vì “HỌ” cho là quá tầm thường, chẳng có gì là “cao diệu” cả, nên khinh dể không thèm làm theo, học đến) !!!.

Nơi đây TA thấy rằng:

1. Nếu chẳng phải là bậc “CHƠN CHẤT tu hành”,đã từng có nhiều kinh nghiệm trong đường tu tập như Ngài BIỆN DUNG THIỀN SƯ thì:

KHÔNG THỂ THỐT RA ÐƯỢC NHỮNG “LỜI NÓI” NẦY.

Mà nếu:

2. Chẳng phải là bậc “CHƠN TU”như NGÀI LIÊN TRÌ (Tổ sư)(ứng thân của PHẬT A DI ÐÀ) tất cũng : KHÔNG THỂ NÀO “LÃNH THỌ” lấy được lời “NÓI” nầy cả.

Vậy ai là người chân thật tu hành, nghĩ sao về chuyện nầy ‌

Lại nữa, BẢO ÐĂNG cũng xin được kể thêm một chuyện khác như sau:

Ðời nhà ÐƯỜNG, Thái Thú HÀNG CHÂU là “BẠCH CƯ DỊ” (khoảng năm 772- 786). Vào niên hiệu TRƯỜNG KHÁNH thứ hai (822), nhân vào núi TẦN VỌNG yết kiến Ngài “ÐẠO LÂM Hòa Thượng” 21, thấy Ngài ngồi một mình trên một cái “Ổ chim” cheo leo, nên nói rằng:

Chỗ ở của “HÒA THƯỢNG” sao mà nguy hiểm quá vậy ‌

Hòa Thượng ÐIỂU KHÒA (tức Ngài ÐẠO LÂM) nói:

Chỗ ở của quan “Thái Thú” còn nguy hiểm hơn của bần tăng nhiều !

BẠCH CƯ DỊ nói:

Ðệ tử địa vị trấn giang sơn, có gì đâu mà nguy hiểm ‌

ÐẠO LÂM Hòa Thượng nói : Củi lửa giao nhau,

(ý nói “CĂN” và “TRẦN” tiếp giáp nhau (sanh ra mê chấp nơi “lạc TRẦN”).

– “Thức tánh” chẳng dừng, (ý nói “Tâm thức” vẫn còn chạy dong hoài theo các cảnh “ngũ dục, lục trần”).

– Hỏi không “nguy hiểm” sao được ‌ (nói “nguy hiểm” là bởi vì sẽ rất dễ bị đọa lạc vào trong vòng sanh tử, luân hồi).

BẠCH CƯ DỊ lại hỏi:

Bạch Hòa Thượng, thế nào là “Ðại ý” của Phật Pháp?‌

ÐẠO LÂM Hòa Thượng đáp:

“Chư “ÁC” mạc tác,

Chúng “THIỆN” phụng hành”.

Nghĩa là:

“Các điều “ÁC” phải nên tránh,
Những điều “THIỆN” thì nên vâng làm”.

BẠCH CƯ DỊ nói:

Tưởng gì, chớ cái “đó” thì đứa con nít 3 tuổi nói cũng được !‌.

ÐẠO LÂM Hòa Thượng nói:

Tuy rằng đứa con nít 3 tuổi nói cũng được,

Ấy vậy mà: Ông lão 80 tuổi (như Ông) làm không được !!!

BẠCH CƯ DỊ thấm ý, mắc cỡ dùng lời “KỆ” hỏi rằng:

“Ðắc nhập “KHÔNG” môn vấn KHỔ, KHÔNG,
Cảm tưởng “THIỀN SỰ” khẩu “THIỀN ÔNG”.
Vi đường “MỘNG” thị “PHÙ SANG” sự,
Vi phục “PHÙ SANH” thị “MỘNG” trung ‌

Nghĩa là:

Vào chốn KHÔNG MÔN (chùa) hỏi KHỔ, KHÔNG,
Nay đem “THIỀN SỰ” hỏi “THIỀN ÔNG”.
Ngay khi “MỘNG” là “PHÙ SINH”,
Hay việc phù sinh trong “GIẤC MỘNG” ‌

(Kỳ sau tiếp)