SÁU TƯỚNG TRẠNG TIÊN TRIỆU ĐỂ BIẾTSIÊU HAY ĐỌA
(Thư Học Phật Số 59)
Btg Bảo Đăng

  1. Chuyện kể về người con hiếu hạnh Tuệ Khai (tiếp theo số 58) và phương cách hộ niệm
  2. Việc cho nội tạng cơ thể của người mới chết nên hay không nên
  3. Thế nào là nhất tâm trì chú và nhất tâm niệm Phật
  4. Tướng trạng tiên triệu người lâm chung bị đọa vào ác đạo hay sanh về cõi người, trời và vãng sanh về Cực Lạc tịnh độ

* * *

(Tiếp theo lá thư số 58…

(Phụ chú:

Lý do vì từ chùa đến địa điểm nhà thương gần 100 dặm xa.

Vả lại BẢO ÐĂNG cũng không muốn giẫm chân lên địa bàn hoạt động về “Phật Pháp” của các Chùa, các Thầy khác. Bởi vì đã hơn 20 năm trong đường đạo, BẢO ÐĂNG nghe thấy rất nhiều các cảnh giành giựt chùa chiền, đệ tử, Thầy nầy dụ dỗ Phật tử của Thầy kia về mình….cùng những sự phỉ báng lẫn nhau giữa một số các chùa, các Thầy rồi, nên BẢO ÐĂNG và THẦY Bổn sư rất cẩn thận về việc nầy, vả lại Tổ sư cũng đã có lưu KỆ lại dạy rằng:

“ẨN TU nhìn thấy chốn Tăng già,
Ganh ghét thị phi lẫn bất hòa.
Danh vị chùa chiền tranh đệ tử,
Ưu đàm, lan, huệ héo mầm hoa” !!!

(Vô Nhất Ðại Sư Hòa Thượng ÐẠI NINH Thích Thiền Tâm)

Suốt hơn 20 năm qua Thầy Bổn sư THÍCH HẢI QUANG cũng như BẢO ÐĂNG luôn luôn giữ ý không bao giờ tới những nơi nào đã có Chùa, có Trụ trì rồi cả, mặc dù có rất nhiều Phật tử từng nghe danh mến đức, ái mộ muốn thỉnh Thầy đến dạy Giáo Pháp cho những Phật tử ở địa phương nhưng Thầy THÍCH HẢI QUANG vẫn luôn khước từ. Huống chi THẦY đã “nhập thất ẨN TU” cho đến suốt cuộc đời còn lại của THẦY. (nhất là ở trong thời buổi hiện nay, lấy công tâm mà nói thì rất khó có vị THẦY nào làm được những HẠNH đặc biệt nầy nhất là ngay tại xứ văn minh vật chất quá nhiều như ở bên Mỹ).

Sách có câu : “Rừng nào, cọp nấy”.

Nhưng vì cảm được lòng thành và sự tha thiết, hiếu thảo của Pt. TUỆ KHAI, cùng với sự bối rối của gia đình trước cảnh tử vong, nhất là gia đình của một Phật tử không từng có sự hiểu biết nhiều về đạo pháp của việc “HỘ NIỆM”, hơn nữa là đang bị lâm vào trong cảnh:

“sanh ly, tử biệt” đau buồn, do đó mà BẢO ÐĂNG mới nhận lời.

Lại nữa, BẢO ÐĂNG cũng không hề biết qua gia đình của TUỆ KHAI, cho nên BẢO ÐĂNG có nhấn mạnh với TUỆ KHAI là phải cho gia đình biết rõ BẢO ÐĂNG không phải là người xuất gia, sợ e rằng Cha, Vợ, Anh, chị, em vv…không hoan hỷ hoặc không tin tưởng để cho BẢO ÐĂNG lo mọi việc HỘ NIỆM và tang lễ….Vì từ nào tới giờ Ai ai cũng thỉnh mời quý  (người xuất gia) lo việc tang sự cả. Hơn nữa ở Phoenix đã có 3, 4 ngôi chùa, lại còn có nhiều Quý  nữa sao không thỉnh mời ‌

TUỆ KHAI liền trả lời ngay rằng : “Dạ,  khỏi phải lo về “vấn đề” đó, mặc dù gia đình chúng con chưa hề đến Chùa, hay gặp mặt CÔ lần nào, nhưng Vợ con vẫn thường tụng và đọc các Kinh do Chùa của  in, và đã từng nghe được những băng của THẦY, của  giảng PHÁP rồi (Do người Chị ở HAWAII gởi cho), nên dầu rằng gia đình con chưa biết mặt CÔ, nhưng giọng nói, tiếng cười, tiếng tụng kinh của CÔ, của THẦY…. thì tụi con rất là quen thuộc, vả lại Con là Con Trai Trưởng trong gia đình. mọi quyết định đều do nơi con. Ba con tuy vẫn có mặt ở đây, nhưng lúc nầy Ba con bối rối lắm, không còn biết gì cả.”

TUỆ KHAI vừa nói xong, thì nghe tiếng của người Vợ nói:

Thưa  con tên là “HUỆ DIỆU” Vợ của anh TUỆ KHAI, nãy giờ con đã nghe rõ hết mọi việc, xin CÔ thương mà giúp chúng con, tuy con chưa hề gặp mặt CÔ lần nào, nhưng hằng ngày, riêng cá nhân con đều có TU theo pháp môn của , và THẦY dạy. Ðể con “TRÌ CHÚ” cho CÔ nghe nha, xem có đúng với pháp Tu MẬT TỊNH của Cô và THẦY dạy không.

Nói xong Cô HUỆ DIỆU lớn tiếng “TRÌ CHÚ”, và đọc những câu “phát tâm vô thượng Bồ Ðề”. BẢO ÐĂNG nghe xong tức cười mới hỏi :

Ủa, câu Chú đó và câu “phát nguyện” nầy nằm ở trong pháp môn Tịnh Ðộ, và THẦY chỉ có dạy cho những đệ tử trong vòng “pháp quyến” mà thôi, làm sao Cô biết được mà học thuộc lòng, lại “TRÌ CHÚ” giỏi vậy ‌”. HUỆ DIỆU trả lời : “Dạ Chị (HUỆ TÂM) của con ở HAWAII đã chỉ cho con Tu đó. Chị ấy bảo tụi con tới Chùa gặp Cô, xin Cô chỉ dạy thêm, mà mãi tới giờ vẫn chưa đủ cơ duyên để gặp được , xin  từ bi cứu anh TUỆ KHAI, hoàn cảnh hiện tại của gia đình ảnh khổ lắm Cô ơi !

BẢO ÐĂNG nghe xong thì cảm thấy lòng mình không còn có gì để e ngại nữa.

Sau khi nhận lời rồi, BẢO ÐĂNG mới nói với TUỆ KHAI là : Bảo với Y tá điều trị, chăm lo cho Bà CỤ phải tắm rửa thân thể của CỤ cho sạch sẽ trước hết, rồi ngày mai vào lúc giờ sáng CÔ và các đệ tử trong ban “HỘ NIỆM” sẽ đến.

TUỆ KHAI mừng lắm, nghe lời của BẢO ÐĂNG dặn, mọi việc đều sẵn sàng, nhưng sau đó BẢO ÐĂNG được nghe TUỆ KHAI gọi phone nói thêm rằng:

Bác sĩ điều trị cho biết rằng : Tất cả các bộ phận (Organs) về nội tạng trong mình của bà “CỤ” còn rất tốt, nên “HỌ” có ý muốn xin Organs. BẢO ÐĂNG mới giảng sơ cho TUỆ KHAI biết tại sao không nên cho Organs.

Sau đó TUỆ KHAI gọi lại cho BẢO ÐĂNG rõ là : Con đã nói với Bác sĩ rằng:

Việc nầy Tôi chưa có thể đơn phương quyết định được, xin chờ ngày mai Thầy Tôi đến, rồi Tôi sẽ có quyết định sau”, thì Họ OK.

Sau đó là việc chỉ đường đi từ Chùa (tức từ Tucson) lên đến nhà thương – (cũng gần nhà TUỆ KHAI chớ không xa lắm) – Tháp tùng theo BẢO ÐĂNG là vài đệ tử học chúng của bổn tự đạo tràng (như Cô HUỆ NGỘBé HUỆ NGỌC và Chú TUỆ MẪN). Vì là ngày thường trong tuần lễ nên đa phần các đệ tử khác đều phải đi làm, đi học, nên ít người có thể đi được.

Lại nữa BẢO ÐĂNG cũng biết rằng:

Vì đây là lần đầu tiên đi xa, đường xá, nơi chỗ đều còn xa lạ, nếu lỡ như có đi lạc đường thì không biết bao lâu mới đến, vả lại việc HỘ NIỆM” có thể kéo dài, có khi lâu hơn 5, 6 giờ đồng hồ, hơn nữa nhà của TUỆ KHAI chắc là đơn chiếc và bận rộn, bối rối….nên BẢO ÐĂNG nói với các đệ tử là nên đem theo cơm, trái cây, nước uống, hoặc mua bánh mì theo ăn, phòng khi sự HỘ NIỆM tùy theo trường hợp có thể kéo dài hơn 8 tiếng hoặc 1, 2 ngày gì đó không chừng.

Vì lo ngại đường xa xôi, lạ cảnh, lạ quê….nên : Mới 6 giờ sángBẢO ÐĂNG cùng với các đệ tử khởi hành (lái xe đi).

Khi đến PHOENIX thì BẢO ÐĂNG gọi phone cho TUỆ KHAI biết, là BẢO ÐĂNG lái chiếc xe VAN (Sienna) màu bạc, sẽ đến thẳng nhà thương ngay tại chổ cấp cứu. Khi tới nơi, thì thấy có một người Ðàn Ông Việt Nam nhỏ người, mặc áo trắng vẩy vẫy tay, dáng người tiều tụy, mặt mũi bơ phờ, thiểu não, trông thấy rất là thảm thương và tội nghiệp, người nầy tự giới thiệu : “Thưa , con là TUỆ KHAI”.

Sau khi vào trong nhà thương, TUỆ KHAI giới thiệu gia đình xong rồi, thì BẢO ÐĂNG mới giải thích cho TUỆ KHAI và gia đình rõ, sở dĩ không nên cho “ORGANS” là vì lý do sau đây (xem phụ chú):

(Phụ chú quan trọng:

Khi một người chết đi (tức là hơi thở vừa mới chấm dứt) thì 7 “THỨC” trong thân tứ đại của Ta liền diệt mất.

Tức là: NHÃN THỨC, NHĨ THỨC, TỶ THỨC, THIỆT THỨC, THÂN THỨC, Ý THỨC và “MẠT NA THỨC” thứ 7 đồng thời biến mất ngay. Vì thế cho nên:

MẮT không còn thấy, TAI không còn nghe, MŨI không còn ngửi biết, LƯỠI không còn phân biệt được mùi vị, THÂN không còn biết cảm xúc giác, “MẠT NA thức” không còn hoạt động được, nên chẳng còn năng lực thâu góp được các “PHÁP” HIỆN HÀNH của 6 “THỨC” kia nữa. Duy chỉ còn có thức “A LẠI DA” (tức là “căn bản thức”) thứ 8 (đây là cái hồn của mình) là vẫn còn “HIỆN HÀNH” mà thôi.

Do vì còn “HIỆN HÀNH” cho nên : “NÓ” (Tâm thức (tức là cái “HỒN” nầy vẫn của mình còn nghe biết, hoặc cảm nhận và phân biệt được (dù là rất vi tế), nhưng “NÓ” vẫn còn có khả năng phân biệt, nhận biết được Tất cả mọi việc chung quanh.

Trong “DUY THỨC HỌC” có bài kệ nói về thức thứ 8 nầy như sau:

Hạo hạo “tam tàng” bất khả cùng,
Uyên thâm thất lãng cảnh vi phong.
Thọ huân trì chủng căn thân giới,
“KHỨ HẬU”, “LAI TIÊN” TÁC CHỦ ÔNG.

Nghĩa là:Chơi vơi “ba tàng” không cùng tận,
Vực sâu 7 sóng cảnh làm gió.
Chịu huân trì chủng căn thân cảnh,
“KHỨ HẬU”, “LAI TIÊN” tác “CHỦ NHƠN”

Trong đây Ta thấy có câu:“KHỨ HẬU, LAI TIÊN, TÁC CHỦ NHÂN”.
(BẢO ÐĂNG xin được miễn phần giảng giải bài kệ nầy, vì là ngoài “đề tài”).

Nghĩa là: (Ðến trước, đi sau nhưng mà “NÓ” giữ địa vị “CHỦ NHÂN ÔNG”. Câu “KỆ” nầy, ý nghĩa là nói đến thức “A LẠI DA” thứ 8, là cái “THỨC” rất “đặc biệt”, vì “NÓ” mới chính thật là ông chủ của cuộc đời TA. Tức là:Một khi Ta chết rồi thì “THỨC” thứ nầy là cái “THỨC” đi sau chót (Tức là “NÓ” rời khỏi cơ thể sau cùng nhất, có đôi khi mình chết đến 4, 5 giờ đồng hồ rồi (hay hơn nữa) mà cái THỨC” nầy vẫn còn tồn tại trong thân xác chớ chưa đi hẳn (đây tức là “khứ hậu”).

Còn khi nào mà:

Mình đầu thai (vào trong bụng mẹ), thì “THỨC” thứ 8 nầy nó lại là “THỨC” đi đến (nhập thai) trước nhất (đây tức là “lai tiên”).

Cho đến khi mình chết rồi thì “NÓ” (Thức thứ 8) vẵn còn tồn tại (thêm một thời gian ngắn nữa) ở trong nội thân của mình, vì vậy nên thân thể của mình vẫn còn có một sự “nhận biết vi tế”, do đó cho nên khi mình mới vừa tắt thở, nhưng thân thể vẫn còn nóng đến vài ba giờ sau (hơi nóng đó là TÂM” và cũng lại là THỨC “A LẠI DA”).

Nếu như có người đến Mổ bụng phân thây, để lấy nội tạng (như TIM, GAN, THẬN vv….)

Thì “A LẠI DA THỨC” đó sẽ khiến cho Thân, Tâm không sao kham nhẫn (chịu đựng) được sự khổ hình (đau đớn) lúc bị phân thây, mỗ bụng ấy, nên khiến cho “TÂM” nổi giận lên có thể làm cho người mới vừa mất đó bị thất lạc “CHÁNH NIỆM”, vì thế mà khiến cho kẻ đó :

Ðáng lẽ được siêu thăng mà trái lại bị đọa lạc trở lại (vào trong 3 “ác đạo”).

Thậm chí ở vào trong hoàn cảnh nhẹ hơn, như là:

Có người sờ mó, đụng chạm, thay đổi quần áo… khác để tẩn liệm vv…..

(Nếu như người vừa mới chết đó là một “trinh nữ”, hoặc là một “tiết phụ”, cả đời giữ thân hình của mình rất kỹ, không chịu để cho một ai sờ mó, đụng chạm đến, huống hồ chi là :

Cởi áo thay quần, ra ư ‌ (để mặc đồ mới, tốt, sạch cho người chết khi đem tẩn liệm).

Nếu như có “việc nầy” thì thức A LẠI DA” còn tồn tại trong thân đó sẽ khiến cho người chết ấy cảm thấy hổ thẹn, tức tối, bực bội lên. Ngay khi đó thì, thay vì “HỒN” của người ấy đáng lẽ được siêu thăng, nhưng ngược lại :

Bị đọa lạc vào trong “lục đạo luân hồi”.

Hoặc nếu lòng “giận tức” ấy quá lẫy lừng, có thể là kẻ đó sẽ :

Bị đọa lạc vào trong 3 “ác đạo”, sanh ra trong các loài Cọp, beo, hổ, báo, sói lang, sư tử vv…..

Cho nên:

Trong mấy lá thư “HỌC PHẬT” trước đây (đại khái như ở bức thư số 56, 57, BẢO ÐĂNG (đã y theo lời dạy của PHẬT, BỒ TÁT, Tổ sư) trong Kinh luận có nhắc lại rằng, đối với:

– Kẻ mới vừa tắt thở, thì, người “HỘ NIỆM” nào (đã có được sự hiểu biết đúng theo Pháp lý, và đã có kinh nghiệm về HỘ NIỆM) phải:

– Nên tiếp tục NIỆM PHẬT (hoặc TRÌ CHÚ) thêm để HỘ NIỆM” cho người (mới chết đó) tối thiểu cũng phải là 3, 4 giờ đồng hồ nữa mới được ngưng, hoặc – thuyết pháp, khuyên dạy cho người chết hiểu rõ đạo lý, để cho Kẻ đó tỏ ngộ được Pháp mầu của PHẬT vv…., phát lòng hoan hỷ mà chịu buông bỏ mọi duyên đời trói buộc. Ðồng thời luôn theo dõi Monitor (màn ảnh TV để xem đo nhịp tim và hơi thở) thì sẽ biết rõ khi nào A LẠI DA” thức (cái HỒN cuối cùng) xuất ra khỏi xác, chừng đó mới được ngưng “HỘ NIỆM” thì thần thức của người chết ấy mới được lợi ích, siêu thăng, thoát hóa.

(phụ chú 1:

Những việc làm nầy – (tức là tiếp tục niệm PhậtTRÌ CHÚ, thuyết pháp), người mới chết ấy vẫn nghe hiểu được hết – (Vì Thức thứ 8 “A LẠI DA” vẫn còn tồn tại ở trong thân thể).

trường hợp nầy thì thay vì người chết đó: NGHIỆP đáng lẽ phải bị đọa ác đạo.

Mà trở thành ra : Ðược siêu thăng !

(Ðây là trường hợp có nhiều người chết mà (kẻ đó) khi sanh tiền không từng biết hoặc chẳng có tu niệm vv….chi cả, hoặc Kẻ ấy tội nhiều, chướng nặng, mà khi được bậc Thiện Tri thức HỘ NIỆM đúng pháp cho, nên vẫn được siêu thăng, vãng sanh…., đều là do vào “LÝ” nầy và công đức cùng “PHÁP LỰC” của PHẬT mà thành tựu được (như vậy).

Cho nên, nếu như để cho Người Mổ bụng lấy TIM, GAN, THẬN vv….(tức là “nội tạng”) ngay trong khi Kẻ ấy đang còn có “sự sống” (vi tế), ý nói là khi Thức A LẠI DA” vẫn còn tồn tại trong thân chớ chưa có đi, thì :

KẺ” ấy sẽ rất dễ bị Ðọa lạc – (vì đau, giận cho nên thần thức thứ 8 ấy bị đọa) trở lại vòng luân hồi, lục đạo lắm, uổng cho một đời tu tập khó nhọc (nếu có) của người ta đi.

(Phụ chú quan trọng 2:

Giả sử như Người đó khi còn sống (vì không hiểu được “Kinh nghĩa” nầy) nên, có lòng tốt hứa là khi chết sẽ cho nội tạng, nhưng “Họ” không ngờ rằng Bác sĩ chỉ muốn lấy “nội tạng” khi người chết ấy vừa tắt thở khoảng 1/2 phút mà thôi. Bởi vì nếu như chờ cho đến 4, 5 tiếng đồng hồ sau, thì tất cả nội tạng đều sẽ chết theo luôn, ắt sẽ không còn dùng vào việc chi được nữa !!

Vì BẢO ÐĂNG làm Phật sự, nhất là giữ chức vụ Trụ trì, hoằng dương “Phật Pháp” trên 20 năm rồi, nên bắt buộc phải học kỹ Kinh, luận, bởi vì đã hiểu rõ được “LÝ” nầy, nên mới ngăn cản không cho mổ xẻ xác bà CỤ ra quá sớm để lấy ORGANS là như vậy, chớ tuyệt đối:

Chẳng phải là BẢO ÐĂNG thiếu lòng từ bi, bác ái…..chi đâu.

Người học Phật Pháp phải nên biết rõ lý do như vậy) để mà :

HỘ phần Tâm thức (thứ 8 nầy) cho thân nhân của mình trước ngã hai đường :

SIÊU THĂNG hoặc Ðọa lạc vậy.

* * *

Khi ấy thì:

BẢO ÐĂNG cùng TUỆ KHAI (và gia quyến) vào đến ICU (phòng cấp cứu) thì gặp đủ mặt của các Bác sĩ, Y tá (điều trị, và Bác sĩ đang chờ Mổ lấy “ORGANS”) ở đó, HỌ” đang chuẩn bị rút dây, ống trên thân bệnh nhân (của Họ) – tức là bà CỤ) ra.

TUỆ KHAI nói với BẢO ÐĂNG rằng:

– Bác sĩ và Y tá không cho đông người vào, sợ làm ồn ào, rối loạn sự “điều trị” của HỌ đi. BẢO ÐĂNG mới đến gặp Bác sĩ và nói với “Họ” rằng:

– Người sắp chết đây nguyên là Phật tử tu theo đạo PHẬT và là hội viên nơi Chùa của Tôi. Còn Tôi là “LAY MINISTER” của Chùa trên 20 năm rồi. Hôm nay TÔI đến đây chỉ để cầu nguyện giúp cho “HỒN” của người sắp chết được an bình mà lên “Thiên đàng” theo đúng nghi thức của đạo PHẬT mà thôi, chớ không có ý gì khác hết.

Sau khi nghe BẢO ÐĂNG nói như vậy xong, thì các nhân viên nhà thương ấy đổi ra sắc diện vui vẻ, đồng ý cho BẢO ÐĂNG và các thân nhân vào phòng, còn tự thân của “HỌ” thì mang thêm ghế ngồi đến (7, 8 cái) và lại còn mang thêm nước đá… cho uống vv…trong một tinh thần rất là cỡi mở.

Khi BẢO ÐĂNG đến gần để quan sát bà CỤ”, thì thấy rằng : Bà CỤ vẫn còn thở nhẹ, tuy nhiên: Sắc mặt (và mình mẩy) của bà CỤ” đã “đen sạm” lại hết (Tức là “Tử khí” đã hiện rõ ra ngoài rồi, cho nên sắc mặt của “CỤ” rất là đen, xấu).

BẢO ÐĂNG mới bước ra ngoài nói với người Bác sĩ (chuyên môn lấy Organs), và Bác sĩ điều trị rằng:

Tuy đã biết Tất cả “nội tạng” của Bà “CỤ” đều còn tốt. Nhưng, theo quy luật của PHẬT GIÁO vì muốn giúp cho linh hồn của người chết được siêu thoát, cho nên chúng tôi không thể cho nội tạng ngay trong giờ phút nầy được, rồi BẢO ÐĂNG mới đem “LÝ” trên ra giảng giải (đương nhiên là bằng tiếng Mỹ) cho HỌ” nghe – (đúng theo những phần mà BẢO ÐĂNG vừa đã trình bày ở trước, và còn nói thêm với “HỌ” rằng:

– Chẳng hạn như khi mình bị bịnh CẢM CÚM, hay bị đứt tay, trầy da, chảy máu, mà mình còn không thể nào chịu đau nổi. Bị “CỨM” thì tứ chi nó rã rời, đau nhức.

– Còn nếu có đi “MỔ”, như “MỔ BỤNG”, “MỔ RUỘT” vv….thì bệnh nhân ấy đều được chụp thuốc “MÊ”, cho nên không cảm được cái đau đớn đang lúc bị MỔ, sau khi “thuốc mê” tan hết rồi thì bệnh nhân sẽ bắt đầu cảm thấy đau đớn đến tận cùng của xương tủy, cho nên “HỌ” mới rên la và Bác sĩ cho uống thuốc trấn thống (chống đau) là như vậy,.

– Huống chi là người vừa bị bệnh nặng, lại sắp chết thì tự thân “HỌ” sẽ cảm thấy đau đớn đến thế nào ‌ mà lại còn bị đem ra MỔ (phân thây) để lấy TIM. GAN, THẬN, RUỘT, PHỔI vv… phải chi được Bác sĩ chích thuốc “TÊ” hoặc thuốc “MÊ” cho người mới chết giống y như người còn sống bị Mổ, thì cũng đỡ cảm thấy đau đớn phần nào, nhưng việc TÊ, MÊ nầy ít có bao giờ được thực hiện đâu. (Vì “HỌ” nghĩ rằng : Người đã chết rồi thì không cần đến thuốc “MÊ” nữa).
Và BẢO ÐĂNG cũng có nói thêm với “HỌ” nữa rằng:

– Tôi sẽ dùng nước Phật (Holy water) để tắm cho Bà CỤ thêm một lần nữa, khi nào xong, Tôi ra ngoài cho Quý vị biết thì Quý vị có thể vào rút dây ra được rồi đó. Sau khi được rút dây ra hết rồi, chúng tôi sẽ tiếp tục “HỘ NIỆM” (cầu nguyện) thêm cho Bà CỤ, thời gian ngắn hoặc lâu hơn thì không ai biết chắc chắn được, có thể kéo dài đến 3, 4 tiếng đồng hồ cũng không chừng, khi nào xong thì chính TÔI sẽ ra ngoài cho Quý vị biết liền, trong thời gian chúng tôi đang “HỘ NIỆM” để đưa HỒN” của người chết lên Thiên đàng, xin Quý vị vui lòng không được tự ý vô khám bệnh…gì hết, và BẢO ÐĂNG đã yêu cầu Họ để lại một sợi dây đo TIM, hầu BẢO ÐĂNG có thể theo dõi hơi thở của “CỤ” để có thể biết chắc được thức A LẠI DA” (hồn của “CỤ”) sẽ xuất ra khi nào.

Bác sĩ và các Y tá trực đều gật đầu ra vẻ hiểu biết và chấp nhận.

Sau khi HỌ vào rút hết dây ra xong, đồng đi ra ngoài hết, nhẹ tay khép cửa lại.

* * *

BẢO ÐĂNG liền phân nhiệm rằng:

Các “thân quyến” và “đệ tử học chúng” của Ðạo tràng thì “NIỆM PHẬT” theo tiếng BẢO ÐĂNG hướng dẫn, đều đều không mau, không chậm, không lớn, không nhỏ, không trước, không sau gì hết, và giữ y như vậy trong suốt thời gian HỘ NIỆM không được sai khác.

BẢO ÐĂNG còn dặn thêm : Phải luôn giữ TÂM của mình cho được thanh tịnh, tha thiết, chí thành, chớ đừng để cho TÂM bị giao động, miệng NIỆM, tai nghe cho rõ ràng tiếng TRÌ NIỆM của mình thì mới được “cảm ứng đạo giao”.

BẢO ÐĂNG cũng khuyên không một ai được khóc, la, hoặc kêu gọi… chi cả. Nếu được vậy thì sẽ giúp cho Thân TÂM” của CỤ được an vui, nhẹ nhàng, mà thoát hóa về “cảnh giới” tốt.

Phần của Cô HUỆ NGỘ (Cô nầy đã mấy lần được đi theo BẢO ÐĂNG “HỘ NIỆM” rồi và cũng được BẢO ÐĂNG chỉ dạy cách HỘ NIỆM đúng pháp để phụ với BẢO ÐĂNG).

Nhờ HUỆ NGỘ có TÂM” rất chí thành, nên khi Cô “TRÌ CHÚ” thì cũng phát sanh ra được ít nhiều TÂM LỰC. Cho nên BẢO ÐĂNG mới giao cho Cô cầm kiếng CHUẨN ÐỀ” (của BẢO ÐĂNG) rọi khắp phòng, dưới giường cho tan bớt Tử khí, hoặc Ma khí đi, thì không khí ở trong phòng mới được nhẹ nhàng hơn, vừa TRÌ CHÚ, NIỆM PHẬT luân phiên nhau, và rọi kiếng từ chân của CỤ cho tới đầu để xóa tan hết âm khí, làm cho tinh thần của CỤ” được quang đảng, (Nếu như trong phòng có những Vong linh khác đã chết trước kia, nay cũng còn vất vưỡng, thì “Họ” cũng sẽ chạy ra ngoài phòng, chớ không còn dám đeo theo quấy phá, hoặc lôi kéo “HỒN” của bà CỤ được, còn nếu như có Những Vong linh nào có chút căn lành, có duyên với PHẬT pháp, nhờ nghe được tiếng CHÚ, nước CHÚ (do BẢO ÐĂNG rải trúng), và được ánh quang minh của kiếng CHUẨN ÐỀ rọi trúng, lập tức cũng được “siêu thoát” luôn.

Còn riêng BẢO ÐĂNG thì 2 tay bắt ẤN để trên đầu Bà CỤ, và nhất tâm TRÌ CHÚ”.

(Phụ chú:

Có nhiều Phật tử HỎI:

“Thế nào là “NHẤT TÂM, TRÌ CHÚ” ‌ và NHẤT TÂM NIỆM PHẬT” ‌ – mỗi ngày trong khóa TU thì chúng tôi cũng có NIỆM PHẬT lai rai ít nhiều, hoặc y như trong Kinh đã chỉ dạy mà “Tụng NIỆM” hoặc TRÌ CHÚ vậy thôi.

Như vậy mà còn phải “nhứt tâm” thêm nữa sao?‌

Thế nào để được “TRÌ NIỆM NHẤT TÂM” ‌ Kế đến xin CÔ (hoặc) THẦY HẢI QUANG giảng giải cho chúng tôi rõ biết và học hỏi thêm về vấn đề : HỘ NIỆM ÐÚNG PHÁP (theo giáo lý “Ðại thừa” của PHẬT gia)

ÐÁP: “NHẤT TÂM TRÌ CHÚ ” là:

Khi vào trong mỗi thời khóa TU hằng ngày, phải luôn có cái TÂM trong sáng, chí thành và tha thiết, (nghĩa là : trong TÂM không còn nhớ, nghĩ đến những niệm ưu phiền, hơn thua, đúng sai, phải quấy, Ganh ghét, đố kỵ vv… nếu mà có những thứ “TRẦN Tâm VỌNG NIỆM” nầy thì không được gọi là “trong sáng” và nhứt tâm”).

Cho nên không phải là ai hay người nào – (dù Kẻ đó là Tại gia hay xuất gia) TRÌ CHÚ, NIỆM PHẬT (để HỘ NIỆM…) cũng được có kết quả, ích lợi hết cả đâu.

Trong KINH “MẬT TÔNG” PHẬT có dạy rằng : “TAM MẬT” TƯƠNG ƯNG, TỨC THÂN THÀNH PHẬT

(Nghĩa là:

Khi TRÌ CHÚ thì cả TÂM, Ý đều phải tương ưng với các sự (trong sạch, phải có sự chân thật, chí thành, tha thiết, nhất là không có “TÂM tranh đấu”“TÂM phân biệt…” (ở nơi lời, hoặc chữ của câu THẦN chú” mà mình đang trì) –phải tin tưởng triệt để, chí TÂM, chí thành, chí cốt mà “TRÌ NIỆM”. Mắt thì luôn quán PHẬT, còn THÂN “MẬT”, TÂM “MẬT” và Ý “MẬT”, 3 cái nầy nhập lại thành một “khối” mà TRÌ CHÚ (hoặc NIỆM PHẬT).

TÂM phải thanh tịnh và nhất là phải phối hợp với âm thanh của THẦN chú.

Nghĩa là:

“TIẾNG” (trì chú) phải tương ưng với “TÂM”
“TÂM” phải tương ưng với tiếng “TRÌ CHÚ”.

Hành trì như thế lâu ngày, lâu tháng, lâu năm, với sự tinh tấn, với TÂM chí thành, thì sẽ phát sanh ra “TÂM LỰC”, do đó mà “hiệu lực” và “PHÁP LỰC” cũng sẽ được phát sanh ra, rất là thần diệu, hiệu nghiệm. (Gọi tắt là (có được) chơn “THẦN LỰC”, (chớ không phải có THẦN LỰC “TÀ”). Một khi đã đạt được cái “CHƠN LỰC” rồi thì mới “diệu dụng” được, mới làm “lợi ích” cho Mình và cho Người, cứu Mình và cứu Người được.

Có câu:

NHẤT NHƠN HÀNH ÐẠO, CỬU HUYỀN THĂNG là như vậy.

Tóm lại:

Nếu TA mà dùng cái “TÂM” dơ đục, xấu ác, tranh đấu, phân biệt vv….mà TRÌ CHÚ thì chẳng những là không thể phát sanh ra được một chút “TÂM LỰC” nào, có khi còn phải bị phản ảnh trở lại, làm cho người TRÌ CHÚ đó cảm thấy đau đớn, nhức đầu, nhức mình mẩy, tức giận, chưởi bới, có khi phát điên luôn (gọi cho dễ hiểu là bị “Tẩu hỏa nhập MA”).

Trong sự Hành trì MẬT TÔNGấn quyết….xưa nay BẢO ÐĂNG ít thấy có ai chịu TRÌ CHÚ, hoặc biết TRÌ CHÚ, và dạy TRÌ CHÚ, đúng y như Pháp (Ðại thừa) lắm, cho nên TU NIỆM hoài mà không thấy hiệu nghiệm chi hết (riết rồi nói bậy là Phật Pháp không linh), CHÚ nầy trật, hoặc là nói:

“Phật tử Tại gia Không nên TRÌ CHÚ, vì làm cho gia đình bị não phiền, hoặc chính mình sẽ bị KHÙNG ÐIÊN vv….. !!”

* * *

Trở lại phần HỘ NIỆM ÐÚNG PHÁP (của PHẬT gia):

Thông thường theo lối thường tình, thì ít có Ai hết lòng mà chịu chỉ dạy tỉ mĩ, kỹ càng cả.

Ða phần mạnh ai nấy tự Học, tự tu tập, mạnh Ai nấy thủ (cho riêng mình).

Vì Tất cả những Liên hữu gần cũng như xa có “DUYÊN” với BẢO ÐĂNG, với Ðạo tràng PHÁP HOA TỰ, Tucson Arizona, vì muốn giúp Phật tử có thêm chánh trí, và biết phương cách “BẢO HỘ” TÂM (Bồ đề) của mình, ngày càng thêm kiên cố cho đến phút Lâm chung mà không bị lạc vào Ma Ðạo. Cho nên BẢO ÐĂNG không ngần ngại đem những lợi ích của Pháp Tu MẬT TỊNH nầy để chia sẻ những Kinh nghiệm “TU TRÌ” của riêng mình, hầu gởi đến cho những Liên hữu đã, và đang TU theo dòng pháp của Thầy Bổn sư THÍCH HẢI QUANG.

Vì BẢO ÐĂNG biết được rõ hoàn cảnh của CỤ” đây là (do niệm sân giận quá mức, nên tức tối mà chết) dĩ nhiên là không được tốt lắm, vì vậy mà (riêng) BẢO ÐĂNG (áp dụng phương cách TU mỗi ngày, và trải qua nhiều kinh nghiệm đã có) chí thành vận dụng hết TÂM LỰC” của mình mà TRÌ CHÚ “tiếp dẫn”, dùng PHÁP LỰC”, và tập trung hết NHÃN LỰC” của mình, rồi dùng “quán LỰC” để đưa hơi nóng của CỤ” đi từ bàn chân lên đến trên đầu, thỉnh thoảng BẢO ÐĂNG lấy nước TRÌ CHÚ mà rải, rửa trên mặt, thân thể của CỤ” và nhiễu vài giọt nước (“Holy water” ấy) vào miệng CỤ (thì thấy môi CỤ chép, nuốt) ngõ hầu giúp cho tiêu trừ hết các “trần cấu” trên thân và trong tâm của CỤ đi, BẢO ÐĂNG lại còn giảng pháp nói về sự vô thường, Vô Ngã…cho CỤ” nghe, để giúp cho “TÂM” của CỤ dịu bớt đi những sự buồn phiền, hận tủi vv….

BẢO ÐĂNG NHẤT TÂM TRÌ, NIỆM liên tục như vậy chừng 25 phút đồng hồ sau, thì thấy rõ sự hiệu nghiệm hiện tiền xảy ra lập tức, đó là:

Thấy gương mặt đen thui, sắc khí dữ dằn, buồn giận, của CỤ trước đó, giờ đổi thành ra:

Vẻ mặt tươi sáng, hồng hào, và diệu hiền lại rõ ràng.

Thấy vậy, Tất cả mọi người đều hăng hái TRÌ, NIỆM tiếp, bấy giờ BẢO ÐĂNG mới tạm ngưng phần TRÌ CHÚ để QUY Y TAM BẢO” cho CỤ, xong QUY Y rồi lại giảng Pháp tiếp, hầu giúp cho CỤ” buông bỏ được mọi sự lưu luyến trói buộc, buồn tủi…, mà phát ra TÂM từ bi, hỷ xả và tha thứ mình, người vv…..

BẢO ÐĂNG lại tiếp tục bắt ấn, TRÌ CHÚ thêm một tiếng đồng hồ nữa, thì CỤ tắt hơi (với vẻ mặt sáng tươi, hồng hào, hiền diệu) – (Kim chỉ nhịp TIM (nhịp thở) trên MONITOR (trên màn ảnh TV) từ từ hạ xuống “O” độ) – BẢO ÐĂNG đưa tay chỉ trên màn ảnh ra hiệu là CỤ đã chết rồi, thân quyến không một ai dám kêu khóc, vẫn rập tiếng phấn khởi mà NIỆM PHẬT “HỘ NIỆM” cho “CỤ” vang rền.

BẢO ÐĂNG lại còn dùng hết TÂM LỰC” tập trung vào trong NHÃN LỰC” của mình mà QUÁN TƯỞNG” rồi dùng Ý LỰC” mà vận chuyển “hơi nóng” còn sót lại trong mình “CỤ” chạy lên trên đỉnh đầu, lại còn dùng hết “TÂM LỰC” của mình ngăn cản “hơi nóng” không cho đi ngược xuống bụng, đầu gối, bàn chân, từ nơi ngực của CỤ, miệng BẢO ÐĂNG TRÌ CHÚ không ngừng, tay bắt ẤN để trên đầu CỤ như vậy liên tục suốt 2 tiếng đồng hồ nữa, BẢO ÐĂNG dùng TÂM LỰC” (trong sáng) của mình mà “cảm ứng” với TÂM” của CỤ” để làm cho TÂM” (thần thức) “CỤ” được trong sáng lên, rồi sau đó Phục nguyện, SÁM HỐI giùm cho CỤ”.

BẢO ÐĂNG thấy trên mặt CỤ đã hiện rõ được sự “trong sáng” rồi, mới bắt đầu dùng “TÂM Ý” và “PHÁP LỰC” của mình nói lời khuyên CỤ” nên nương theo ánh hào quang đang chiếu sáng của “PHẬT LỰC tiếp dẫn” mà xuất ly, nói xong BẢO ÐĂNG vừa TRÌ CHÚ vừa HÔ lên lớn xuất ly”.

“HỘ NIỆM” thêm khoảng 1 tiếng đồng hồ nữa tự nhiên nhịp TIM trên màn ảnh bùng lên, đập mạnh hơn lúc bình thường (làm mọi người có mặt giựt mình, hết hồn…), xong lần lần hạ xuống “40” độ, rồi lại bùng lên một lần nữa thật mạnh tới “70” độ, dần dần hạ xuống trừ “O” độ (Âm độ) như cũ, rồi im lặng luôn….bấy giờ:

BẢO ÐĂNG biết chắc là Thức A LẠI DA” cuối cùng (tối hậu) của CỤ đã hoàn toàn xuất ra khỏi xác rồi.

Nên BẢO ÐĂNG liền ngưng TRÌ CHÚ, chuyển qua NIỆM PHẬT cùng với mọi người, để tiếp dẫn “thần thức” của “CỤ” thêm một lúc lâu nữa.

Ðoạn: BẢO ÐĂNG ra hiệu ngưng việc HỘ NIỆM” và bắt đầu chuyển qua nghi thức:

Cầu PHẬT chứng minh, Phục nguyện, Hồi hướng công đức, để “truy tiến thêm” cho “Hương Linh” của “CỤ” được siêu thăng sau đó rồi BẢO ÐĂNG mới:

Tuyên bố việc HỘ NIỆM” cho “CỤ” đã hoàn tất. thân quyến lần lượt và thay phiên nhau đến bên cạnh di thể của CỤ dùng tay thăm dò xem “hơi nóng cuối cùng” của CỤ còn tồn tại lại ở chỗ nào…

Ðoạn ra ngoài cho các Bác sĩ, Y tá biết, và đồng thời giảng cho HỌ” nghe về sự thăm dò “hơi nóng” để biết được HỒN” người chết chuyển kiếp (tức là mang thân “HẬU ẤM”) về những cõi nào….

HỌ” nghe xong, xin được vào khám nghiệm, thì HỌ ngạc nhiên đồng nói rằng:

thân xác của bà CỤ (so fresh) tươi đẹp, hồng thắm…., y hệt như một người đang còn sống nằm ngủ vậy. “Dung sắc” đẹp hơn lúc sống nhiều.

HỌ” cùng nhau và lần lượt sờ tìm hơi nóng ở chỗ nào.

Xong, Ai nấy cũng đồng chấp nhận là HƠI NÓNG CÒN TỒN TẠI TRÊN ÐẦU GẦN TRÁN (tức là chỗ “mõ ác”).

BẢO ÐĂNG mới nói cho mọi người biết là “HỒN” của bà CỤ” được siêu thăng lên cõi TRỜI. Mấy Bác sĩ và Y tá hiện diện đều khen rối rít rằng (it is Amazing) “HỌ” thành thật mà nói rằng : “thật là hy hữu, chưa bao giờ nghe biết đến việc nầy, có một “Bác sĩ” nói:

Giờ Tôi hiểu rồi, từ đây trở đi, mỗi khi có bệnh nhân nào (của Tôi) chết, Tôi sẽ sờ tìm xem hơi nóng còn ở chỗ nào thì Tôi sẽ biết là “HỒN” Họ được chuyển kiếp đi về đâu. HỌ đồng nhau cám ơn BẢO ÐĂNG đã giảng giải cho “Họ” học hiểu và rỏ biết thêm về Phật Pháp.

Có mấy Bác sĩ, Y tá xin BẢO ÐĂNG Business card (thẻ có ghi lên Tên BẢO ÐĂNG và CHÙA, địa chỉ, số điện thoại) để “HỌ” liên lạc với BẢO ÐĂNG khi cần.

BẢO ÐĂNG còn yêu cầu các Bác sĩ và Y tá không được lấy cái mền TỲ LÔ” ra khỏi thân xác của bà CỤ, phải luôn đắp cho , hầu giúp cho thân xác của Bà được mềm mại, tươi tốt. Bác sĩ và Y tá đồng gật đầu, nói là sẽ làm y theo lời BẢO ÐĂNG dặn, không dám sai trái.

Ðến đây, BẢO ÐĂNG chợt nhớ lại một việc “quan trọng” là ;

Ngày bà CỤ mất đó nhằm vào ngày July 4, tức là ngày lễ Ðộc lập của Hoa Kỳ, vả lại vì “di thể” của bà CỤ rất là tươi tốt, y hệt như một người vẫn còn sống, chớ không phải là của một người đã chết (mấy tiếng đồng hồ rồi) giống như bao nhiêu xác chết khác vậy, nên mấy Bác sĩ và Y tá điều trị đều lấy làm lạ lùng lắm.

Ngày hôm sau HỌ gọi điện thoại cho TUỆ KHAI” nói rằng:

Chúng Tôi muốn giữ xác của bà CỤ lại trong tuần để giải phẫu, tìm xem nguyên nhân tại sao mà bà CỤ không bị đứt mạch máu trên đầu (nói riêng), và trong mình (nói chung), các cơ phận (Organs) trong thân thể lại còn nguyên vẹn, tốt lành, nên suy tìm mãi mà chẳng biết nguyên nhân nào làm cho đường dẫn Oxygen lên mạch máu ở đầu bị nghẽn, chớ toàn thân của “CỤ” thì không có bệnh gì hết. Chúng Tôi muốn học hỏi thêm về “bệnh lý”.

TUỆ KHAI và gia đình nghe Bác sĩ nói như vậy thì vừa lo, vừa sợ, vừa bối rối….không biết tính ra sao. Vợ, Mẹ mình chết thình lình, thân xác lại không được yên, nên lo rầu vì sợ “VỢ” và “MẸ” của mình sẽ bị thảm cảnh mổ xẻ, phân thây, thì tội nghiệp cho người đã chết, nhưng chẳng biết làm sao để có thể tránh được cảnh chậm trễ, rắc rối ngoài ý muốn nầy !!

BẢO ÐĂNG nói với TUỆ KHAI rằng:

Trong tuần lễ “lưu xác” đó, ở CHÙA thì CÔ sẽ đọc KINH cầu siêu, cúng thất cho CỤ, đồng thời  sẽ gởi Tên, tuổi, ngày sanh, ngày tử…của CỤ lên trên thất của THẦY Bổn sư THÍCH HẢI QUANG nhờ ÐỨC của THẦY Hồi hướng truy tiến Hương Linh cho CỤ, không sao đâu, đừng quá lo rầu.

Riêng TUỆ KHAI thì phần của con là ráng NHẤT TÂM, chí thành đọc Kinh ÐỊA TẠNG suốt trong thời gian HỌ lưu “di thể” của CỤ để khám nghiệm, cầu cho CỤ khỏi phải chịu cảnh xẻ thịt, phân thây…. đi, ắt sẽ bình yên, an ổn, Tất cả mọi sự thành hay bại đều do nơi “TÂM” của con có thành kính, có tin tưởng PHẬT, TRỜI hay không mà thôi, nhưng mà hễ có CẦU, ắt sẽ có cảm ứng đạo giao ngay. Cố gắng đi…

Trong thời gian chờ đợi đó, BẢO ÐĂNG chỉ dạy cho TUỆ KHAI và gia đình nên phát tâm in quyển KINH:

nghi thức SÁM HỐI DIỆT TỘI – THẬP NHỊ DANH NHƯ LAI LỄ SÁM.

Vì quyển KINH” nầy có công năng “DIỆT TỘI” và “diệt nghiệp” rất mạnh. Dầu cho người chết mà (nghiệp tội tiền khiên) còn sót lại TO cho đến thế mấy đi nữa – (như là phỉ báng TAM BẢO) cũng được tiêu trừ.

TUỆ KHAI và gia đình đều đồng ý.

Vì nhằm ngày lễ July 4 (Ðộc Lập) nên không có ai làm việc cả, vì vậy nên di thể của CỤ” lại phải giữ thêm gần 10 ngày nữa, tội nghiệp cho TUỆ KHAI là con hiếu tử, nên từng ngày, giờ, phút, giây trong khoảng thời gian đó, y như người bị ngồi trên lửa đỏ vậy. TUỆ KHAI xin công ty (chỗ TUỆ KHAI làm việc) cho tạm nghỉ làm thêm mấy ngày nữa vì MẸ chết, ở nhà suốt ngày, không ra khỏi cửa chỉ toàn là tụng KINH ÐỊA TẠNG, rồi trở lại tụng từ đầu cuốn, cứ như vậy mà Tụng miết, thêm vào đó là lạy SÁM HỐI THẬP NHỊ DANH cầu PHẬT từ bi gia hộ cho MẸ thoát khỏi cảnh phân thây, mọi sự được may lành, và “Hồn” MẸ được siêu thoát về cõi TRỜI, cõi PHẬT vv….

Sau gần tuần lễ lưu xác để “khám nghiệm”, Bác sĩ gọi điện thoại cho hay là việc khám nghiệm đã xong, cho phép được di chuyển di thể của Cụ” ra nhà quàng (Funeral home) và bảo TUỆ KHAI đến gặp Bác sĩ, ký giấy tờ cho chôn cất (hoặc “thiêu hóa” gì tùy ý).

TUỆ KHAI vừa mừng vừa lo, không biết thân xác của MẸ mình ra sao. Ðến gặp Bác sĩ, ký giấy tờ khai tử, trong giấy có ghi lời xác nhận rằng:

“Người bệnh nhân nầy chết một cách tự nhiên vì tuổi già, sức yếu. Nên cho phép chôn cất”.

TUỆ KHAI vừa ký giấy tờ nhận xác MẸ vừa mừng đến ứa nước mắt. Bác sĩ khám nghiệm mới hỏi TUỆ KHAI rằng:

MẸ của Ông có ăn, uống thuốc bổ bí mật, hiếm có gì đó của Á đông không, mà thân xác của BÀ tươi tốt quá chừng vậy ‌ Tôi chưa hề thấy xác người chết nào (trên 20 ngày rồi) mà được tươi tốt như vậy cả”.

TUỆ KHAI nói:

“MẸ Tôi đâu có uống “thuốc bổ” gì đâu ! (TUỆ KHAI tự nghĩ dù mình có giải thích tại sao xác MẸ mình được tươi tốt như vậy, thì HỌ cũng không hiểu, không tin), cho nên TUỆ KHAI chỉ cười vui chớ không nói gì thêm. Rồi TUỆ KHAI lại yêu cầu đừng chính thuốc (formaldehyde) giữ xác được tươi, thì Bác sĩ khám nghiệm nói ngay là:

“Xác của MẸ ông không cần, vì suốt mấy tuần rồi chúng tôi không có chích thuốc gì hết, mà xác MẸ ông vẫn tươi thắm, hồng hào như một người sống đang nằm ngủ vậy, cũng không cần trang điểm nữa, vì Bà đẹp quá xá rồi”.

TUỆ KHAI nghe Bác sĩ nói vậy thì trong lòng mừng lắm, lái xe chạy về nhà, mà nước mắt chảy dài trên mặt tự lúc nào không hay biết.

Sau đó, di thể của bà CỤ được đưa sang nhà quàng chờ ngày tẩn liệm.

BẢO ÐĂNG xem lịch qui định ngày làm lễ truy tiến, phát tang, đưa đi thiêu và chỉ TUỆ KHAI cách tẩn liệm đúng theo nghi thức MẬT TỊNH của PHẬT GIÁO.

TUỆ KHAI đem theo áo TỲ LÔ, Mền TỲ LÔ và áo tràng đến nhà “quàng” để tẩn liệm cho MẸ mình, nhân viên nhà quàng mới nói với TUỆ KHAI rằng:

– “Chúng tôi thấy xác của CỤ bà tươi đẹp, hồng hào….như thế nên chúng tôi cũng rất thương mến, lại thấy tánh tình của Ông cũng chân thật, hiền lành nên chúng tôi có cảm tình, Ông có cần mọi sự giúp đỡ gì nơi chúng tôi, thì cứ mạnh dạn nói ra, chúng tôi sẵn sàng giúp”. HỌ nói tiếp :

– “Thông thường thì chúng tôi có trách nhiệm trang điểm xác, và phụ giúp tẩn liệm (mặc quần áo), nhưng nay Chúng tôi thấy di thể của Bà “CỤ” không cần phải trang điểm làm chi cho tốn tiền, vì Bà đã đẹp một cách tự nhiên rồi”.

Khi TUỆ KHAI mặc áo tràng cho MẸ thì bấy giờ mới thấy thêm một điều lạ nữa là:

Toàn thân xác của CỤ rất mềm mại, y như người còn đang sống, bởi vì khi mặc áo vào thì phải đỡ cho thân CỤ ngồi dậy, đưa tay, đưa chân lên cao, hoặc co tay lại hay duỗi ra…để mặc áo vào, day qua phải, day qua trái gì cũng rất là tự nhiên, dễ dàng như người sống mà ngủ vậy thôi.

TUỆ KHAI rất là thương MẸ, sau khi mặc quần áo mới xong, TUỆ KHAI còn quyến luyến chưa muốn ra về, đứng nhìn MẸ mà lòng cảm thấy xót xa, nghĩ rằng không ngờ Mẹ Con đã bao năm xa cách, mới đoàn tựu không được bao lâu, tuy thân xác của MẸ còn nằm đây mà Âm Dương đã cách biệt, chỉ còn vài ngày nữa thôi, MẸ, CON sẽ phải xa lìa mãi mãi trong 6 nẻo luân hồi biết bao giờ mới gặp lại. Nước mắt chan hòa…TUỆ KHAI mới đưa tay lên sửa cổ áo tràng của Mẹ lại cho ngay ngắn, thì đụng vào mặt MẸ thấy “da mặt” rất là mềm mại, TUỆ KHAI lấy tay vuốt mắt MẸ thấy “da mí mắt” cũng vẫn còn thiệt là mềm và chạy theo chiều vuốt nữa.

Toàn thể nhân viên của nhà quàng đang có mặt trong buổi nhập liệm ấy đều lấy làm lạ, chắc lưỡi than tiếc khôn cùng, chỉ có riêng TUỆ KHAI là không để ý, bởi vì :

Chưa lần nào anh thấy cảnh chết chóc và được chính tay mình nhập liệm bao giờ, nên trong tâm không thắc mắc gì hết, cứ nghĩ việc đỡ lên, nằm xuống, di chuyển tới lui để mặc áo tràng cho MẸ là đúng, thì là “tự nhiên” như vậy thôi, và mặc dù chăm chú gài nút áo, miệng TUỆ KHAI vẫn không rời câu NIỆM PHẬT. Chớ anh không bao giờ nghĩ, bởi vì Mẹ mình được siêu thăng” mà có ảnh hưởng khác thường như vậy !

Ngày động quan đến lò thiêu, BẢO ÐĂNG lại cùng các đệ tử học chúng trong ban HỘ NIỆM một lần nữa lại lái xe lên Phoenix để tụng “Cầu siêu, phát tang, và truy tiến” cho Hương Linh bà CỤ” thêm một lần chót, trước khi đưa di thể của “Bà” vào lò thiêu, việc điều đầu tiên mà BẢO ÐĂNG nhận thấy là:

Xác của CỤ rất tươi và rất đẹp.

Mặt mắt….đều hồng hào tươi trẻ, (như người 30 tuổi) vả lại vì để xác CỤ trong phòng lạnh nên trên mặt Cụ (có Hơi lạnh như sương) đóng trên da mặt tựa như có thoa phớt nhẹ một lớp phấn hồng !.

Toàn thân của CỤ đẹp lạ như một “Beauty sleep” vậy !!

Tuy đã biết vì sao mà di thể của CỤ đẹp như thế rồi, nhưng BẢO ÐĂNG vẫn còn thắc mắc vì muốn nghiệm cho chính xác, cho nên kêu TUỆ KHAI lại hỏi rằng :

– “Con nói với CÔ là con không có tiền, vậy mà tại sao lại còn mướn trang điểm cho MẸ làm chi vậy, không để dành tiền đó mà In KINH Hồi hướng cho MẸ phải ích lợi hơn không”. TUỆ KHAI vội đáp:

– “Dạ đâu có, Bác sĩ khám nghiệm cho MẸ con nói rằng : “Xác MẸ tươi tốt lắm, cho nên không cần chích thuốc để giữ xác tươi, và cũng không cần trang điểm nữa bởi vì MẸ đã đẹp lắm rồi. Vì thế Con không có lo về các phần nầy”.

BẢO ÐĂNG gật đầu ấn khả, và trong lòng cũng đã biết đây là nhờ công đức HỘ NIỆM đúng “PHÁP” nên “HỒN” của “CỤ” được siêu thoát lên TRỜI phước TRỜI đó ảnh hưởng ít nhiều đến thân xác của CỤ”, nên mới có được vẻ tươi đẹp lạ lùng hiếm thấy như thế.

* * *

Khi làm lễ động quan, đưa quan tài của CỤ vào lò thiêu, mấy đệ tử học chúng của bổn tự và các bạn hữu cùng gia đình tham dự buổi lễ hôm ấy đều quyến luyến đi theo quan tài của CỤ để nhìn mặt (của một người được sanh lên làm “Thiên Nữ” trên cõi Trời) như thế nào?‌

Riêng phần BẢO ÐĂNG thì khởi Tâm tiếc rẻ rằng:

Phải chi được đem xác CỤ về Chùa để cho mọi người cùng nhìn ngắm, hầu cho các Phật tử thấy, mà biết phát tâm lành và chăm lo tu niệm, làm phước, tin nhận “Phật Pháp CAO SIÊU RẤT NHIỆM MẦU”, và PHẬT LỰC của “pháp môn Tịnh Ðộ” cùng “PHÁP LỰC” của THẦN chú thật diệu huyền, có thể cứu người ra khỏi sông mê, biển khổ, đặt lên bờ giải thoát.

Uổng thay cho một sắc thân, một dung nhan xinh đẹp hiếm có như vầy, mà trong phút chốc đây sẽ tan thành ra tro bụi.

Quả thật y như lời PHẬT dạy:

“Ðời là vô thường, thân tứ đại yếu đuối, mong manh không bền chắc. Và trên sắc thân giả tạm nầy, Không có gì mà gọi là “TA” và “của TA” (Ngã và Ngã sở hữu) hết.

Than ôi ! vậy mà Chúng sanh có biết, (hoặc) có bao giờ nghĩ đến câu “THÂN là gốc KHỔ” mà “hồi đầu khổ hải” hay không ‌

(Phụ chú:

BẢO ÐĂNG có điện thoại lên THẦY Bổn sư THÍCH HẢI QUANG hỏi về sự thắng diệu khác thường trên di thể của bà CỤ, thì THẦY nói rằng:

Vì bà CỤ được sanh lên cõi TRỜI, làm thân Thiên nữ – (mà Thiên nữ trên cõi TRỜI thì vô cùng đẹp đẽ , đoan trang, Tất cả người đẹp nhất trên thế gian cũng không thể nào so sánh kịp), nên vẻ đẹp hậu thân (HẬU ẤM) của một người Thiên Nữ trên cõi TRỜI mà CỤ đang mang lấy đó, ảnh hưởng (một phần rất ít) đến thân xác hiện tại, vì thế mà xác CỤ mới có một vẻ đẹp đoan trang khác thường như vậy.

BẢO ÐĂNG hỏi thêm (để học cho biết) rằng:

Bạch THẦY “Con đã “HỘ NIỆM” cho CỤ rất cẩn thận bằng vào Tất cả TÂM LỰC, và PHÁP LỰC của con, vậy mà sao CỤ vẫn không được siêu sanh CỰC LẠC vậy ‌”

THẦY Bổn sư đáp:

“Vì lúc bình sanh, người nầy Tu theo “Thần đạo” (ở dưới nhà quê thì đa phần hàng Thiện Tín chỉ biết đi tới Ðình miễu, đền thờ Thần Thánh nhiều hơn là biết tu học theo Ðại thừa Phật Pháp”), vả lại vì xưa nay, người MẸ (tức là bà “CỤ”) chưa từng biết khởi lòng TÍN, NGUYỆN mà NIỆM PHẬT là gì, chưa từng biết phát nguyện cầu được vãng sanh”.

Nói tóm lại là Bà CỤ” trong khoảng thời gian còn sanh tiền trên cõi thế, không có gieo nhân duyên Tịnh Ðộ, nhưng nhờ ở nơi BẢO ÐĂNG “TRÌ, NIỆM” và “HỘ NIỆM” quá chí thành, đúng “NHƯ pháP” nên mới chuyển được “thần thức” của CỤ” từ phiền não mà thành “trong sáng”, mới được sanh lên TRỜI làm một người “Thiên Nữ” trên cõi Trời “TAM THẬP TAM THIÊN” như thế, toàn là nhờ ở nơi “ơn đức TAM BẢO” và sự “HỘ NIỆM” của BẢO ÐĂNG mà có, chớ không phải là do nơi “tự lực” Tu hành của “CỤ” mà được vậy đâu. Như thế cũng đã là rất (Cực kỳ) may mắn và hy hữu lắm cho Hương Linh của bà “CỤ” rồi vậy.

(Lời phụ của BẢO ÐĂNG:

Các Phật tử, đạo hữu chớ nên xem thường sự “Sanh lên TRỜI” hoặc “đầu thai lại cõi NGƯỜI” là thấp !!

Bởi vì khi đức THẾ TÔN còn tại thế, có lần Ngài dùng móng tay vít một ít đất lên và hỏi Ngài A NAN ÐÀ thị giả rằng:

“Nầy A NAN, đất trên móng tay của TA nhiều, hay đất trên đại địa nhiều” ‌

Ngài A NAN thưa rằng:

“Bạch Ðức THẾ TÔN, đất trên móng tay PHẬT thì rất là ít so với đất trên miền Ðại địa đến ngàn, muôn,….. vô lượng ức phần….”

PHẬT đáp : “Nầy A NAN, cũng y như vậy.

“Trong thời mạt pháp về sau (tức là thời gian hiện nay) các chúng sanh sau khi bỏ thân tứ đại (tức là chết), thần thức được sanh lên cõi TRỜI, hoặc đáo lại cõi NGƯỜI cũng rất là ít oi, như đất trên móng tay TA mà so với đất trên miền Ðại địa vậy”.

Lấy lời “KINH” nầy ra mà suy thì:

Việc được sanh lên cõi TRỜI của bà CỤ đây rất là hiếm có. Ðược như thế cũng đã mừng lắm rồi, còn như việc muốn được sanh về cõi CỰC LẠC thì bình sanh phải tự biết phát lòng TÍN, NGUYỆN mà NIỆM PHẬT (tự lực), siêng năng gieo duyên lành nơi pháp môn “Tịnh Ðộ”, và hằng luôn tha thiết, chí thành nguyện cầu được vãng sanh về CỰC LẠC quốc (tức là TÍN, NGUYỆN, HẠNH phải được “cụ túc” (đầy đủ). Việc ấy lại càng hiếm hoi, và quý báu hơn nữa.

(Phần phụ lục của BẢO ÐĂNG về các trường hợp mà thần thức của người chết sẽ được sanh vào cõi nào (hoặc Trời, hoặc Phật, hoặc bị đọa vào nơi 3 “ác đạo”.

Phần nầy được trích theo lời Phật dạy trong Kinh “LỤC ÐẠO TẬP” như sau:

Việc “thọ sanh” vào nơi sáu nẻo luân hồi, tức là:

TRỜI, THẦN, NGƯỜI, ÐỊA NGỤC, NGẠ QUỶ, SÚC SANH, thì như BẢO ÐĂNG đã có nói nơi các bức thứ Học Phật gần đây là số 56, 57 rồi (về việc “dò tìm hơi nóng qua “KỆ” Ðảnh thánh….nhãn sanh Thiên”…) quyết định không còn nghi ngờ chi hết.

Nay, trong phần nầy BẢO ÐĂNG muốn viện dẫn thêm lời của PHẬT dạy về việc thọ sanh (tức là mang thân “HẬU ẤM”) của Người chết nơi đời nay, và qua đến đời sau, để “chứng tín” và làm duyên thêm cho sự “hiểu biết” và phát lòng lo sợ (hoặc vui mừng) cho chúng hữu tình (như chúng ta đây) được biết rõ thêm về “thân phận” ở kiếp sau – (tức là thân “HẬU ẤM”) của mình sau khi bỏ thân “Tiền Ấm”, thân “Trung hữu”, hay thân “Tiền Hữu” của mình trên cõi thế, như sau:

I/- TƯỚNG TRẠNG TIÊN TRIỆU (CÕI ÁC):

Báo trước cho biết kẽ Lâm chung ấy sẽ bị đọa vào nơi “ÁC ÐẠO”.

A. Ðọa vào loài “SÚC VẬT” (SÚC SANH).

Kẻ ấy khi Lâm chung có các “Tiên triệu” (báo trước) sau đây:

– Thân mang bệnh nặng, tâm trí mê mờ, tán loạn, như ở trong mây mù,

– Sợ nghe các danh hiệu PHẬT, không chịu nghe ai khuyên bảo điều lành.

– Ưa thích mùi Cá, Thịt.

– quyến luyến Vợ, Con, đắm đuối không bỏ.

– Các ngón tay và chân đều co quắp lại.

– Cả mình toát ra mồ hôi.

– Khóe miệng chảy nước.

– Tiếng nói khò khè, rít róng rất khó nghe.

– Miệng thường ngậm đồ ăn.

Người nào khi Lâm chung mà có đủ 9 triệu chứng (Tiên triệu) như trên, quyết định sẽ bị “đọa” vào trong loài “SÚC VẬT”.

B. Ðọa vào loài “Quỷ đói”:

(Người đó) trước khi Lâm chung sẽ có các triệu chứng (Tiên triệu) báo trước như sau:

– Thân mình nóng như lửa,

– Lưỡi luôn luôn liếm môi.

– Thường cảm thấy đói khát, ưa nói đến các việc ăn uống.

– Miệng hả ra không ngậm lại.

– Tham tiếc tiền của, dây dưa khó chết, làm khổ gia quyến.

– Mắt thường mở trướng lên chớ không nhắm lại.

– Ðôi mắt khô khan như mắt chim gỗ.

– Không có tiểu tiện, nhưng đại tiện thì nhiều,

– Ðầu gối bên mặt lạnh trước.

– Tay bên mặt thường nắm lại, tiêu biểu cho lòng tham lam, bỏn sẻn.

– Lúc tắt hơi, hai mắt vẫn mở.

Người nào khi Lâm chung mà có “11 triệu chứng” (Tiên triệu) như trên, quyết định sẽ phải bị đọa vào trong loài QUỶ đói (tức là NGẠ QUỶ) không sao thoát được.

C. Ðọa vào “ÐỊA NGỤC”:

(Người đó) trước khi Lâm chung có các “triệu chứng” (Tiên triệu) báo trước như sau:

– Nhìn ngó thân quyến bằng con mắt giận ghét.

– Hai tay đưa lên quờ quạng trong chốn hư không.

– Ði đại, tiểu tiện trên chỗ nằm mà không tự hay biết.

– Thân thường có mùi hôi hám.

– Nằm úp xuống hoặc che giấu mặt mày.

– Hai mắt đỏ ngầu.

– Nằm co quắp và nghiêng về bên trái.

– Các lóng xương đau nhức.

– Thiện Tri thức dù có chỉ bảo, “Họ” cũng không tùy thuận (tức là không nghe, không làm).

– Ðôi mắt nhắm nghiền không mở.

– Mắt bên trái hay động đậy.

– Sống mũi xiên xẹo.

– Gót chân, đầu gối luôn luôn run rẫy.

– Thấy ác tướng hiện ra, vẻ mặt sợ sệt không nói được, thảng thốt kêu la lớn lên là có ma quỷ hiện.

– Tâm hồn rối loạn.

– Cả mình lạnh giá, hai tay nắm lại, thân thể cứng đơ.

Người nào trước khi Lâm chung mà có “16 triệu chứng” (Tiên triệu) nầy, quyết định là sẽ bị đọa vào nơi địa ngục.

Trên đây là 3 trường hợp bị đọa vào nơi “tam đồ, ác đạo”.

II/- TƯỚNG TRẠNG Tiên triệu (CÕI LÀNH):

Cho biết “Kẽ Lâm chung” đó sẽ đáo sanh trở lại cõi “NGƯỜI” thì có những “triệu chứng” (Tiên triệu) báo trước như sau:

– Thân không bệnh nặng,

– Khởi niệm lành, sanh lòng hòa diệu, tâm vui vẻ, vô tư, ưa việc phước đức.

– Ít sự nói phô, nghĩ đến Cha mẹ, Vợ, Con.

– Ðối với các việc lành hay dữ, Tâm (vẫn) phân biệt rõ ràng không lầm lẫn.

– Sanh lòng tịnh tín, thỉnh TAM BẢO đến đối diện, QUY Y.

– Con trai, con gái, cháu, chắt…đều đem lòng thương mến và gần gũi xem như việc thường.

– Tai muốn nghe tên họ của anh, chị, em và bạn bè.

– TÂM chánh trực không dua nịnh.

– Rõ biết bạn bè giúp đỡ mình, khi thấy bà con đến săn sóc thời sanh lòng vui mừng.

– Dặn dò, phó thác lại các công việc cho thân quyến rồi từ biệt mà đi.

Nếu Người nào mà có đầy đủ 10 điều “Tiên triệu” như trên thì sau khi chết 49 ngày, thân trung ấm (tức là thần thức) của người chết đó sẽ đáo sanh trở lại cõi người (tức là thân HẬU ẤM), hưởng các sự tôn quý.

III/- Sanh lên cõi TRỜI:

Người nào khi sắp Lâm chung sẽ được sanh lên cõi TRỜI thì có những Tiên triệu (báo trước) sau đây:

– Sanh lòng thương xót.

– Phát khởi tâm lành.

– Lòng thường vui vẻ.

– CHÁNH NIỆM hiện ra.

– Ðối với tiền của, Vợ con….không còn tham luyến.

– Ðôi mắt có vẻ sáng sạch.

– Ngước mắt nhìn lên không trung mỉm cười, hoặc tai nghe tiếng thiên nhạc, mắt trông thấy tiên đồng.

– Thân không hôi hám.

– Sống mũi ngay thẳng, không xiên xẹo.

– Lòng không giận dữ.

Nếu có được những Tiên triệu như thế, thì “thần thức” của Người chết ấy quyết định sẽ được sanh lên cõi Trời.

IV/- vãng sanh về “CỰC LẠC Tịnh Ðộ”:

Có 2 trường hợp sanh về Tịnh Ðộ (cõi PHẬT):1. Sanh về “nghi thành” ở ngoài biên phương (tức là cõi biên thành, biên địa) của CỰC LẠC Tịnh độ.

2. Sanh về “Chánh quốc” (thuộc vào 9 phẩm sen).

A. Sanh về biên phương (nghi thành Tịnh độ):

Như Người nào bình thường giữ giới, cũng có NIỆM PHẬT nhưng không được tính tấn và tin tưởng cho lắm, khi Lâm chung không có tướng lành, dữ chi cả, nhắm mắt đi xuôi tựa như người ngủ, vì kẻ ấy nghi tình chưa dứt (tức là tuy có NIỆM PHẬT mà lòng không tin tưởng tuyệt đối) nên không được sanh thẳng vào nơi chánh quốc mà chỉ trụ vào một nơi ở ngoài biên phương Tịnh độ mà thôi.

Chỗ đó tên gọi là NGHI THÀNH (hay là BIÊN ÐỊA).

Người sanh về cõi nầy có thọ số (tuổi thọ) là 500 năm (một ngày nơi cõi đó bằng 100 năm ở cõi người). Mãn kiếp nơi đó xong thời sẽ bị đáo sanh trở lại trong sáu nẻo luân hồi .1

B. Sanh về Chánh quốc (Tịnh độ):

Người nào bình thường niệm Phật tinh tấn, một lòng thành tín không lui sụt, khi Lâm chung biết trước ngày giờ, CHÁNH NIỆM rõ ràng, tự mình tắm gội, thay y phục, hoặc được quang minh của Phật chiếu đến thân, hoặc thấy tướng hảo của chư Phật cùng chư thánh chúng hiện thân ra giữa không trung hay đi kinh hành trước mặt, các điềm lành hiển hiện rõ ràng, kẻ ấy trong một sát na liền được sanh thẳng về nơi Tịnh độ, gần gũi chư thượng thiện nhơn (BỒ TÁT) được dự vào một trong 9 phẩm sen nơi chốn Liên trì, hằng nghe được pháp âm của chư Phật, rốt ráo thành tựu được chánh quả (BỒ TÁT quả, PHẬT quả)

Trên đây BẢO ÐĂNG đã y theo trong Kinh sách và các lời dạy của PHẬT mà lược khảo, biên soạn ra, quyết không dám sai trái.

(Như muốn biết thêm chi tiết, xin xem lại quyển THƯ GỞI NGƯỜI HỌC PHẬT (quyển 1) nơi các trang 327 cho tới 341, mà Thượng Tọa Bổn sư THÍCH HẢI QUANG (đã y theo lời Kinh dạy mà biên soạn ra) và đã được bổn tự PHÁP HOA in Ấn tống” vào năm 1999 ắt sẽ hiểu rõ ràng (chi tiết hơn).

* * *

Sau khi đưa bà CỤ vào lò thiêu xong:

TUỆ KHAI và gia đình chân thành mời BẢO ÐĂNG và các đệ tử học chúng ghé qua nhà (cũng ở cách đó không xa) dùng cơm chay (do Vợ của TUỆ KHAI nấu), BẢO ÐĂNG vui vẻ nhận lời ngay.

Khi vào nhà TUỆ KHAI, thấy hình bà CỤ” chụp khi còn sống treo trên vách, thì BẢO ÐĂNG nhận xét, thấy rằng:

Hình của “CỤ” chụp khi còn sống, vẻ đẹp đó thua hình của bà CỤ sau khi đã chết rất xa, tựa như là 2 người khác nhau vậy. Vì sau hơn mấy tuần lễ lưu lại trong nhà thương và nhà xác là Bà CỤ” đã chuyển đổi hình dạng và mang ít nhiều “sắc vóc” của một Thiên Nữ ở cõi TRỜI. ảnh hưởng đến sắc thân TỨ ÐẠI hiện tại.

Sau khi lo việc chung sự của Thân mẫu xong, vả lại vì thấy việc NIỆM PHẬT, TRÌ CHÚ, tu hành có nhiều lợi ích như thế, nên TUỆ KHAI càng phát lòng tin tưởng thêm, hơn nữa cũng vì có sẵn căn lành, nên Vợ Chồng TUỆ KHAI và Thân phụ cùng với thân quyến đều phát tâm tu hành, nhân dịp Thượng Tọa Bổn sư về Chùa để làm lễ và hướng dẫn hàng môn đồ pháp quyến tu Bát Quan Trai, cả gia đình TUỆ KHAI đều xuống Chùa xin QUY Y TAM BẢO, và sau đó TUỆ KHAI vẫn tiếp tục tụng KINH ÐỊA TẠNG cho MẸ suốt 49 ngày không bỏ sót. Ngoài ra TUỆ KHAI và gia đình còn trường chay nữa. BẢO ÐĂNG đã chỉ dẫn cho gia đình TUỆ KHAI tu theo pháp môn MẬT TỊNH” và chỉ phương cách phân thời khóa tu của mình ra mỗi ngày 2 thời gồm có Tụng Kinh ÐỊA TẠNG, SÁM HỐI THẬP NHỊ DANHTRÌ CHÚ và NIỆM PHẬT mà Hồi hướng cho MẸ cho VỢ được siêu thăng.

(phụ lục:

(Như TUỆ KHAI đây mới thật là một người con CHÍ HIẾU (vả lại tục danh (tên đời) của anh cũng là HÀ CHÍ HIẾU nữa) – theo đúng như lời của PHẬT dạy mà BẢO ÐĂNG đã có lược nói trong thư HỌC PHẬT số 58 vừa qua.

Ðó là:

– Làm sao cho Hương Linh của MẸ được siêu thăng, và:

– Thân PHỤ cùng với VỢ phát tâm QUY Y TAM BẢO, ăn chay, Niệm PHẬT tu hành…

Thì cái ÐẠO HIẾU ấy PHẬT mới khen, mới gọi là “TRỌN HIẾU” vậy.

Từ ngày thân mẫu TUỆ KHAI qua đời và được siêu thăng cho đến nay, việc Tu hành của Anh (và của Thân phụ cùng với Vợ) ngày càng thêm tinh tấn hơn nhiều.

Thượng Tọa Bổn sư THÍCH HẢI QUANG và ngay cả chính BẢO ÐĂNG cũng đã nhiều lần khen ngợi.

Tóm lại:

Là người Phật tử, Ta phải nên có sự nhận xét như thế nào qua các gương vãng sanh, siêu thoát xưa nay và hiện tại gần đây nhứt như (của CỤ ÐẠO NGUYÊN NGUYỄN VĂN PHAN (thân phụ của BẢO ÐĂNG), Phật tử HUỆ TỊNH NGUYỄN THỊ THÚY, Bà VIÊN ÐỨC TRẦN PHƯƠNG NỮ, và Bà diệu hiền LÊ THỊ TƯỞNG (thân mẫu của TUỆ KHAI), mới đây lại có thêm 2 người được siêu thăng nữa, BẢO ÐĂNG sẽ lần lượt hiển bày ra và đề cập đến trong những kỳ “THƠ HỌC PHẬT” kế tiếp.

Ta phải nhận thức rõ rằng:

Kiếp NGƯỜI ngắn ngủi chẳng có bao lâu và thời gian qua mau, chớ chẳng chịu đợi chờ Ta hay bất cứ một ai hết cả, cho nên còn sống được một ngày quang âm nào TA phải nên Cố gắng NIỆM PHẬT tu hành, đó gọi là người có trí, biết lo việc “hậu sự” của mình về sau qua pháp môn (tu) Tịnh Ðộ, đừng đợi cho gần đến giờ phút (Lâm chung) “đáo đầu”, rồi mới sợ, mới lo tìm Thầy, tìm người thiện Tri thức HỘ NIỆM, sợ e cho tìm người “HỘ NIỆM” chưa có – (vì cái “NGHIỆP CHƯỚNG” nặng nề, NÓ ngăn che) mà 3 tấc hơi đã mỏn rồi, chừng ấy thì thần thức biết lạc về đâu trong 6 nẻo ‌!

TỔ SƯ dạy:

ÂM:

“Ðương tư nhơn sanh tại thế, năng hữu kỹ thời, thạch hỏa điện quang, biến nhãn tiệm quá.

Sấn thử vị lão, vô bịnh chi tiền, đẩu tẩu thân tâm,bát khí trần sự, đắc nhứt nhựt quang cảnh, niệm nhứt nhựt PHẬT danh, đắc nhứt thời công phu, tu nhứt thời “TỊNH NGHIỆP”.

Do tha lâm mạng chung thời, hảo tử, ác tử, chỉ yếu ngã chi bàn triền, dự biện liễu dã. Ngã chỉ tiền trình, ổn ổn, đáng đáng, liễu dã. Nhược bất như thử, hậu hối nan truy. Tư chi, tư chi”.

NGHĨA:

“Phải nên nhớ, con người sanh ra ở đời, kiếp sống nào có được bao lâu đâu ‌

(Vả lại) kiếp người qua mau như lửa nháng nơi thân đá, hay điện chớp giữa lưng trời, nháy mắt đã qua, đã mất.

Vì vậy, mà người đời phải nhơn lúc chưa già, không bệnh, ráng phấn chấn sức lực và tinh thần, cởi bỏ bớt việc đời, được một ngày thong thả thì NIỆM PHẬT một ngày, được một giờ công phu thì tu một giờ “TỊNH NGHIỆP” – (tức là tu Tịnh Ðộ) –

Người ở đời khi chết, cũng có Kẽ chết lành, cũng có người chết dữ,

Ta chỉ cần nên lo liệu (NIỆM PHẬT) trước đi, bởi vì con đường trước mặt Ta, cái chết NÓ đã ẩn ẩn, hiện hiện ra rồi đó.

Bằng như mà Ta không biết, chẳng chịu lo liệu (cái “TƯ LƯƠNG” (NIỆM PHẬT) trước để phòng thân, e về sau (khi cái chết tới rồi) muốn ăn năn cũng không còn kịp nữa.

Hãy suy nghĩ kỹ (và cho thật kỹ lưỡng) đi”.

Bậc Cổ đức (Tổ sư) vẫn thường dạy lên lời cảnh giác rằng:

Cười thương KẺ giàu sang,
Lo giàu thêm rộn ràng,
Hũ gạo sanh mối mọt,
Trong khi tiền ngổn ngang.
Ngày cầm cân suy nghĩ,
Ðêm đốt đuốc lo toan.
Hình hài trơ lẫn thẩn.
tâm trí rối bàng hoàng,
vô thường khi chợt đến.
Biển NGHIỆP sóng mênh mang”!!!

NGHĨA là:

Thấy con người sống ở trên đời nầy, cứ mãi lo toan tính làm giàu, cho nên cuộc sống cứ luôn luôn bận rộn, đến nổi:

Quên cả việc ăn uống (bận lo tính toán việc sanh kế (làm ăn) mỗi ngày), riết rồi hũ gạo sanh ra mối mọt (mà cũng không hay) –(ý nói quên cả việc ăn uống) – tiền bạc thu về cho thật nhiều, đến nổi cất chứa ở trong kho (nhà băng) cả đống. (Vậy mà cũng vẫn không thấy đủ).

Nên ban ngày thì mãi lo tính việc cân non, cân già (ý nói lo buôn lường, bán lận).

Còn Tối đến thì đốt đèn lên sáng trắng để lo sổ sách, giấy tờ. Riết rồi:

“tâm trí” rối ren (vì bận lo nhiều công việc quá), đầu óc chỉ còn biết lo làm sao cho có nhiều tiền của mà thôi. Như thế mãi rồi thì sao?‌

Lở như mà : Một ngày nào đó, Quỷ vô thường đến bắt hồn đi (vì tới số chết), chừng ấy rồi thì lấy gì mà bảo đảm cho việc siêu thoát của mình ‌ Và như vậy thì “thần thức” phải bị trôi lang thang trong biển NGHIỆP” (mà thọ lãnh NGHIỆP BÁO) chẳng biết sanh về cõi nào ‌! (Lở như bị đọa sanh vào trong 3 nẻo ác là: Ðịa ngục, NGẠ QUỶ, SÚC SANH, thì lúc đó dù cho có hối hận, có ăn năn e cũng không còn kịp nữa) !

(Kỳ sau tiếp…)