THÀNH THẬT LUẬN
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 9

Phẩm 117: MƯỜI THIỆN ĐẠO

Mười thiện nghiệp đạo, là lìa sát cho đến chính kiến là 10 điều nhiếp thuộc vào trong giới luật nghi. Một thời được nhiếp thuộc về thiền Vô sắc luật nghi, và một thời được lìa gọi là thiện nghiệp đạo, tức là vô tác.

Hỏi: Các phúc như lễ kính, bố thí v.v… là thiện nghiệp đạo, sao chỉ nói lìa là nghiệp đạo?

Đáp: Vì lìa là hơn, nên 10 thứ nghiệp nầy đối với thí v.v… là hơn. Bởi vì sao? Vì bố thí v.v… được phúc báo không bằng trì giới. Như đến khi con người chỉ còn 10 tuổi, nhờ nhân duyên lìa giết mà thọ mạng được tăng lên.

Lại 10 nghiệp bất thiện là thật tội, nên lìa được gọi là thật phúc.

Lại 3 thứ thiện nghiệp sau là gốc các thiện, cho nên các thiện bố thí v.v… đều gồm trong nghiệp đạo.

Lại nghiệp đạo nầy có lìa roi gậy v.v…, vì trước sau hợp nói, nên tất cả các thiện đều thuộc vào trong ấy.

Phẩm 118: TỘI LỖI

Hỏi: Nghiệp bất thiện có những tội lỗi gì?

Đáp: Do nghiệp bất thiện nên chịu các khổ địa ngục. Như trong kinh nói: Vì nhân duyên sát sinh nên đọa địa ngục. Nếu được sinh trong loài người, thì chịu quả báo chết yểu. Như vậy cho đến tà kiến.

Lại vì nhân duyên nghiệp bất thiện, nên chịu khổ não lâu, như địa ngục A-tì trải vô lượng tuổi mà thọ mạng không hết.

Lại chúng sinh có tất cả các điều ác bại hoại suy não, đều bởi nghiệp bất thiện.

Lại chưa từng thấy bất thiện mà có lợi ích lớn, như những người hàng thịt, thợ săn v.v…, không bao giờ nhờ nghiệp ấy mà được tôn quý. Hoặc ý ông bảo: Nhờ nhân duyên phá giặc mà được giàu sang. Điều này trong phẩm Ba nghiệp ở trước đã giải đáp.

Lại người làm việc bất thiện, bị quở trách và các phần khổ não.

Lại khiến người khác phải ra làm việc ác, gọi là hung bạo. Cho nên cần phải lìa nghiệp bất thiện nầy.

Lại trong kinh nói giết có 5 lỗi: Người không tin dùng, bị mang tiếng ác, xa thiện gần ác, khi chết sinh hối, sau đọa ác đạo.

Lại nhân duyên sát sinh, vui ít khổ nhiều.

Lại làm nghiệp bất thiện, nhiễm ô tâm con người, chất chứa lâu đời khó mà chữa được.

Lại người làm điều bất thiện, từ chỗ tối vào chỗ tối lưu chuyển trong tam đồ vĩnh viễn không ngày ra khỏi.

Lại người làm bất thiện, uổng một đời người, như vào núi Tuyết tìm thuốc mà hái phải cỏ độc, thật là rất ngu.

Như vậy nhờ 10 thiện đạo nầy mới được làm thân người, có điều là không làm thiện đã là một lỗi lớn, huống chi còn khởi ác nghiệp!

Lại người làm bất thiện tuy tự yêu thân mà thật không tự yêu được; tuy tự hộ thân mà thật không phải tự hộ. Vì nhân duyên khởi nghiệp mà tự não hại.

Lại người nầy thụ thân giống như người oán tặc tự làm khổ vậy.

Lại nếu làm bất thiện là mình gây giặc cho bản thân, huống chi người khác ư?

Lại làm nghiệp bất thiện, nay tuy không hiện quả báo mà đã mắc phải. Cho nên tuy ít cũng không thể không tin. Như chất độc tuy ít có thể hại người; như nợ tuy ít dần dần sinh lợi tức.

Lại làm ác với người, người thường không quên. Cho nên gây nghiệp tuy lâu xa mà không thể không tin.

Lại người làm bất thiện gọi là mất vui, nghĩa là vì làm bất thiện nên mất quả vui người trời. Không vui điều đáng vui là người ngu lắm vậy.

Lại người làm bất thiện là bị khổ dữ dội đáng thương. Hiện tâm bị ăn năn các khổ, sau chịu khổ nơi ác đạo.

Lại quả báo của nghiệp bất thiện dù bay lên hư không, hay lặn dưới biển cũng không chỗ trốn thoát được, như cây giáo vàng truy đuổi theo Phật.

Lại tất cả nghiệp bất thiện đều do si khởi, cho nên người có trí không nên tùy theo.

Lại trong kinh nói: Phóng túng như người oán, có thể hại các pháp thiện, nên không đáng theo.

Lại nghiệp bất thiện, Chư Phật, Bồ-tát các Thánh hiền ứng chân, thần tiên có 5 thần thông và những người rõ thấu tội phúc không ai không quở trách, cho nên không nên tạo.

Lại hiện thấy người ác tâm mạnh mẽ thì ý chí mờ tối rối loạn buồn bực khổ đau, nên sắc mặt biến khác, người không muốn thấy, huống là khởi nghiệp thân khẩu. Vì các duyên do nầy, nên biết nghiệp bất thiện có tội lỗi nhiều vô lượng.

Phẩm 119: BA NGHIỆP NHẸ NẶNG

Trong 3 nghiệp, nghiệp nào nặng hơn: thân nghiệp, khẩu nghiệp, hay ý nghiệp?

Hỏi: Có người nói 2 nghiệp thân khẩu nặng, chứ không phải ý nghiệp. Bởi vì sao? Vì nghiệp thân khẩu định thật. Như tội ngũ nghịch đều bởi thân khẩu gây nên.

Lại thân khẩu có thể thành xong việc, như người sinh lòng muốn giết chúng sinh nầy, cần đem thân khẩu có thể hoàn thành việc ấy, không phải chỉ ý nghiệp gây được tội sát sinh. Cũng không phải chỉ phát tâm xây chùa tháp mà được phúc đức.

Lại nếu không có thân khẩu, chỉ ý nghiệp thì không quả báo, như người phát tâm rằng ta phải bố thí, mà thật không bố thí, thì không có thí phúc.

Lại không chỉ tùy nghiệp mà việc được thành xong, như người phát nghiệp mở hội Đại thí, mà thật không thí, thì không hội phúc. Nếu tâm nghiệp lớn thì phải được thí phúc, vậy thì nghiệp báo lộn xộn.

Lại trong Luật Tì-ni, ý không phạm tội. Nếu ý nghiệp là trọng đại vì sao không phạm?

Lại nếu phát tâm liền được phúc, thì phúc dễ được, vì sao hành giả bỏ nghiệp dễ nầy mà tu thí v.v… là những hạnh nghiệp khó tu ư?

Lại nếu như vậy, thì phúc vô tận, như người chỉ phát tâm suông hoàn toàn không đâu thì chỗ dùng làm sao cho hết được? Vì tài vật có hạn nên phúc mới có thể hết.

Lại không chỉ phát tâm mà có thể làm tổn hại hay lợi ích cho người khác. Như chúng sinh đói khát cần phải cơm nước, chứ đâu phải tâm nghiệp có thể trừ được đói khát.

Lại người đời rất quan trọng việc suy tổn hay lợi ích, vì tâm nhẹ nhàng mau lẹ khó chế phục, nên không điều ác nào không khởi, thì mình chịu việc suy tổn nặng nề. Nếu phát thiện tâm muốn gây phúc nghiệp, thì mình được lợi lớn, vậy là quá lắm.

Lại nếu ý nghiệp lớn phát tâm muốn sát sinh thì đọa địa ngục. Như vậy tuy lâu tụ tập giới v.v… đâu có ích gì!

Lại tu trì giới v.v… các công đức thiện không có an ổn. Bởi vì sao? Vì chỉ một khi phát tâm liền bị tội.

Lại trong kinh nói: Nghiệp thân khẩu thô nên dứt trước. Vì dứt phiền não thô nên tâm được định.

Lại nếu phát dâm tâm làm dâm rồi, liền phải phạm giới. Nếu phát tâm mà không gọi là dâm, thì lìa dâm tâm nầy lại có pháp gì gọi là dâm ư?

Lại có bao nhiêu sinh khởi tác nghiệp đều do thân khẩu, không phải do ý nghiệp, như dối gạt người khác ắt do khẩu nghiệp mới bị tội vọng ngữ.

Lại như trước đã nói đủ 4 thứ nhân duyên mới bị tội sát sinh là: có chúng sinh, có tâm tưởng chúng sinh, có tâm muốn sát, dứt mạng sống nó. Do 4 việc thành tội, nên phải biết không do ý nghiệp là trọng.

Lại như Phật nói: Như đứa trẻ nhỏ tập lòng từ từ nhỏ, có thể khởi ác nghiệp, nghĩ ác nghiệp ư? Cho nên biết chỉ là thân khẩu nghiệp ác, chứ không phải ý nghiệp?

Đáp: Ông nói nghiệp thân khẩu nặng, không phải nghiệp ý, điều này không đúng. Bởi vì sao? Trong kinh Phật nói: Tâm là gốc các pháp. Tâm cao tột, tâm dẫn đường, tâm nghĩ thiện ác. Tức nói tức làm. Cho nên biết ý nghiệp là quan trọng.

Lại ý có sai biệt nên nghiệp thân khẩu mới có sai biệt, như thượng, trung, hạ v.v… Lìa tâm không có thân khẩu nghiệp.

Lại trong kinh nói: Cho nên khởi tác nghiệp ắt phải chịu báo.

Lại nói 7 thứ tịnh phúc, có 3 thứ chỉ dùng ý nghiệp. Bảy tịnh phúc nầy, với tài phúc của là hơn.

Lại lòng từ là ý nghiệp, nên kinh nói từ tâm được quả báo lớn. Như kinh nói: Xưa, ta lên 7 tuổi, nhờ tu tập tâm từ nên ở trong 7 đại kiếp, không trở lại thế gian nầy. Cho nên biết ý nghiệp là quan trọng. Vì quan trọng mới có thể che khắp tất cả vậy giới.

Lại ý nghiệp là trọng, như quả báo ý nghiệp nên sống lâu được 8 vạn đại kiếp.

Lại thế lực của ý nghiệp thắng hơn thân khẩu nghiệp, như người tu thiện khi mạng sắp chết sinh lòng tà kiến, thì đọa địa ngục. Người làm bất thiện khi sắp chết khởi tâm chính kiến, thì sinh lên trời. Nên phải biết ý nghiệp là quan trọng.

Lại trong kinh nói: Trong các tội, tà kiến là nặng nhất.

Lại nói: Nếu người được thế gian thượng chính kiến, tuy qua lại trong sinh tử cho đến trăm ngàn năm hoàn toàn không đọa ác đạo.

Lại sức của ý nghiệp vượt trội hơn thân khẩu nghiệp. Như trong Kinh Hòa Lợi nói: Ngoại đạo thần tiên một khi nổi giận, liền diệt nước Na-la-vu-đà. Như Đàn-đặc v.v… các chỗ hiểm nạn đều do người tiên nổi giận gây nên.

Lại ý nghiệp có thể mau được quả báo, như trong kinh nói: Nếu người nầy nay chết lập tức vào địa ngục, lập tức sinh lên trời, như cây giáo mau lẹ lìa khỏi tay.

Lại ý nghiệp nầy chứa nhóm pháp nhơ bẩn cho đến đọa vào địa ngục A-tì, chứa nhóm pháp thiện cho đến được Nê-hoàn.

Lại tâm có quả báo nên thân khẩu mới có quả báo, vì nghiệp không cố ý không có quả báo.

Lại không lìa ý nghiệp mà có báo nghiệp thân khẩu, nếu ý nương nơi thân khẩu làm thiện hay bất thiện, gọi là thân khẩu nghiệp. Lìa thân khẩu nghiệp, thì ý nghiệp có quả báo; mà lìa ý nghiệp thân khẩu không quả báo. Cho nên biết ý nghiệp là quan trọng, chứ không phải thân khẩu nghiệp.

Tuy ông nói thân khẩu nghiệp là định thật, như tội ngũ nghịch đều do thân khẩu gây nên, cho nên gọi là nặng. Điều này không đúng. Vì nghĩ nặng, sự nặng nên nghiệp mới nặng, không phải thân khẩu nặng nên nặng.

Lại vì tâm quyết định nên nghiệp mới định thật, như chỉ dùng tâm lực vào ngôi vị chính pháp, cũng vì tâm lực có thể đủ nghịch tội. Nếu người vô tâm dù giết phải cha mẹ cũng không bị nghịch tội. Nên biết thân khẩu là không có sức.

Ông nói thân khẩu có thể làm xong việc. Điều đó cũng không đúng. Vì việc rồi gọi là xong. Như cướp mạng sống người khác rồi, mới bị tội sát sinh, không phải khi khởi nghiệp thân khẩu. Khi xong việc còn phải cần dùng đến tâm lực nữa, cho nên không phải thân khẩu.

Ông nói chỉ phát tâm suông không quả báo. Điều này không đúng. Như trong kinh nói: Phát tâm mạnh nên lập tức sinh lên trời, lập tức vào địa ngục. Sao nói ý nghiệp không quả báo ư?

Ông nói không chỉ nhờ nguyện có thể thành sự. Điều đó cũng không đúng. Vì có người phát thiện tâm sâu, được phúc thắng hơn đại thí hội.

Ông nói ý không phạm tội, Điều đó cũng không đúng. Nếu phát ác tâm tức thì bị tội. Như Phật nói có 3 thứ tội là thân, khẩu, ý. Nên biết chỉ phát ác tâm không được vô tội. Có điều là không kết giới vì khó hành trì. Thô tội trì giới có thể ngăn được. Tế tội thì thiền định v.v… mới trừ được.

Ông nói tội phúc dễ. Điều này không đúng. Bởi người tâm lực yếu nên bỏ việc dễ, làm việc khó. Như từ tâm v.v… được phúc rất nhiều, không phải bố thí được như vậy. Chỉ vì chúng sinh trí lực yếu ớt không thể tu ý nghiệp từ bi v.v.. , nên mới tu bố thí v.v…, đem các thứ hương hoa và dụng cụ cúng dường, vì tịnh tâm khó được.

Ông nói phúc vô tận. Cũng lấy đây mà đáp. Người nầy nếu có trí lực thì có thể được pháp thiện vô tận.

Ông nói ý nghiệp không làm tổn ích. Điều này không đúng. Vì thân khẩu nghiệp đều do ý nghiệp dẫn đường nên không gọi là thắng. Vì tùy theo sức tự khởi được mới gọi là thắng.

Lại các điều lợi ích đều do tu từ tâm. Sở dĩ vì sao? Vì sức tu hành từ bi nên được mưa thuận gió hòa trăm thứ lúa được thành thục. Như thời đại kiếp sơ, gạo thóc tự sinh. Đến khi con người thọ chỉ còn 10 tuổi thì những điều ấy đều mất hết, làm sao nói từ tâm không lợi ích ư?

Lại người tu tâm từ, có thể trừ hết tất cả gốc nghiệp bất thiện. Vì nghiệp bất thiện có các điều suy não, làm sao nói tu tâm từ không có lợi ích lớn? Nếu tất cả chúng sinh tu tâm từ thì đều sinh chỗ thiện, tất cả thụ dụng tự nhiên mà có, không cần gia công. Cho nên biết phúc của từ là sâu dày hơn hết.

Lại, hoặc có khi vì từ tâm bố thí lợi ích chúng sinh, hoặc chỉ do từ tâm mà lợi ích.

Lại người tu từ tâm, nếu chúng sinh chạm đến thân phần, hoặc vào trong bóng của thân đều được an vui. Nên phải biết phúc của từ tâm thắng hơn phúc đức của bố thí.

Ông nói suy lợi rất lắm. Trước đã đáp việc ấy rồi nghĩa là dùng sức của ý làm tổn hại hoặc lợi ích chúng sinh, cho nên biết ý nghiệp là quan trọng.

Ông nói thời gian lâu tụ tập giới v.v… không có ích gì. Điều này không đúng. Bởi vì sao? Vì ý tịnh nên trì giỡi mới tịnh. Nếu ý bất tịnh, giới cũng bất tịnh như trong Kinh Thất Chủng Dâm nói.

Lại giới thanh tịnh được quả báo lớn, như trong kinh nói người trì giới được sở nguyện tùy ý, là vì giới tịnh vậy.

Lại nếu thanh tịnh trì giới, thì tâm được yên ổn, chứ không phải pháp nào khác.

Ông nói nghiệp thân khẩu thô nên dứt trước. Điều này không đúng. Vì thiện vi tế mới được quả báo lớn, như ý nghĩ trong thiền định.

Ông nói nếu phát dâm tâm liền bị phá giới. Điều này không đúng. Nếu người ý nghiệp không tịnh thì giới cũng không tịnh.

Lại được tội phúc khác, phép kết giới khác.

Ông nói khởi ra tác nghiệp là do thân khẩu. Điều này đã giải đáp chung rồi. Nghĩa là thân khẩu nghiệp pháp khác, ý nghiệp pháp khác. Nghiệp thân khẩu cần do tác thành, như do 4 nhân duyên thành tội sát sinh, không lìa tâm nghiệp.

Lại thế gian chúng sinh cho nghiệp thân khẩu là ác, mà ý nghiệp không như vậy.

Lại ý nghiệp không gia hại với người, cũng không thể được là có.

Lại trước đã nói tướng tội phúc vì bởi tướng nầy nên chỉ ý nghiệp là quan trọng chứ không phải thân khẩu.

Phẩm 120: NÓI RÕ NGHIỆP NHÂN

Luận giả nói: Đã lược nói các nghiệp. Nghiệp là nhân duyên thụ thân. Thân là bản tính khổ nên phải diệt trừ. Muốn diệt thân nầy phải dứt nghiệp nhân, vì nhân diệt nên quả cũng diệt, như nhân hình có bóng, hình diệt thì bóng diệt. Cho nên, nếu muốn diệt khổ phải siêng năng tinh tiến dứt nghiệp nhân nầy.

Hỏi: Do nghiệp thụ thân, điều này cần hiểu rõ. Bởi vì sao? Hoặc có người nói: Thân do Bà-la-già-đề sinh, có người nói do trời Tự Tại sinh, hoặc nói do Đại nhân sinh, hoặc nói do tự nhiên sinh. Cho nên phải nói lý do vì sao biết do nghiệp sinh?

Đáp: Điều này đã dùng nhìều thứ nhân duyên phá rồi. Phải biết do nghiệp thụ thân.

Lại muôn vật có nhiều thứ tạp loại, nên biết nhân cũng sai khác, như thấy lúa bắp v.v… khác, biết giống không đồng, thì trời Tự Tại vì không sai khác, nên phải biết không phải nhân. Nghiệp vì có vô lượng sai khác, nên mới thụ nhiều thứ thân khác nhau.

Lại các người thiện đều tin bởi nghiệp nên thụ thân. Bởi vì sao? Vì những người nầy thường tu các pháp thiện như thí, giới, nhẫn v.v…, lìa các pháp bất thiện như sát sinh v.v… Nên biết do nghiệp thụ thân.

Lại nếu bởi nghiệp thụ thân thì là có thể trở lại được chân trí, dứt tà trí. Vì tà trí dứt, nên tham sân v.v… các phiền não đều dứt. Vì các phiền não dứt, nên nghiệp nặng khởi thân sau cũng dứt. Đó gọi là có thể trở lại. Trong nhân Tự Tại v.v… thì không trở lại được, vi Tự Tại v.v… không dứt được, nên biết do nghiệp thụ thân.

Lại hiện thấy quả cùng nhân giống nhau, như do bắp sinh bắp, do lúa sinh lúa. Như vậy do nghiệp bất thiện được báo không ưa thích, do nghiệp thiện được quả báo ưa thích. Trong nhân Tự Tại v.v… không có giống nhau nầy. Cho nên nghiệp là gốc của thân, chứ không phải trời Tự Tại v.v….

Lại nay hiện thấy muôn vật đều do nghiệp sinh, vì nhân ác nghiệp nên bị chịu đánh, bắt, trói, nhốt, roi, gậy chết v.v… các khổ, nhân thiện nghiệp được tiếng khen, lợi dưỡng v.v… vui sướng. Người tùy ý nói lời ái ngữ, thì được hưởng quả báo tùy ý, nên biết do nghiệp thụ thân, không phải Tự Tại v.v….

Lại người đời tự biết muôn vật do nghiệp nhân sinh nên khởi làm các sự nghiệp cấy lúa mạ, và cũng tu thí, giới, nhẫn v.v… các nghiệp phúc, không ai ngồi yên mà trông ông trời Tự Tại ban cho điều mình muốn, nên biết do nghiệp được quả báo.

Lại như những người tuy nói do Tự Tại mà họ cũng phải nương nhờ các nghiệp, nghĩa là tự khổ thân và thụ trai pháp v.v…. nên biết lấy nghiệp làm nhân.

Lại nếu việc không hiện có, phải theo người khác mà thụ giáo, nghĩa là chỗ sở hành của Thánh nhân, tất cả Thánh Hiền nhờ giới v.v… các pháp thiện, nên biết vì do nghiệp nhân mới có thế gian pháp. Nếu lìa giới v.v… cũng không có Thánh nhân, nếu không Thánh giáo thì hành nghiệp trái lỗi, cho nên biết do nghiệp thụ thân.

Lại tu giới v.v… các nghiệp thiện, nên có thể thành các việc thần thông biến hóa, nên biết lấy nghiệp làm nhân.

Lại địa ngục v.v… trong các ác thú, sân não v.v… nhiều, cho nên biết do sân não v.v… mà có các ác thú, như thấy quả trên cây biết cây là nhân, cho nên biết nghiệp là gốc của thân.

Lại trong ác đạo do sức mạnh của si v.v…, nên phải biết phiền não là nhân ác đạo, vì tất cả bất thiện đều do si.

Lại sinh các ác đạo thì nhiều, mà sinh về chỗ thiện thì ít. Mắt thấy người giết v.v… người làm ác nhiều, người làm thiện ít. Nên biết việc giết v.v… là nhân ác đạo.

Lại việc giết v.v… bị người thiện quở bỏ không làm, vì người thiện biết giết v.v… chắc chắn có quả báo, nên mới quở bỏ không làm. Nếu biết không quả báo ác thì vì sao bỏ?

Lại tâm của các người thiện nếu khởi ác tức liền siêng năng ngăn chận, vì sợ ác báo. Nên phải biết giết v.v… chắc chắn có ác báo. Nếu không phải vậy, thì tùy ý tung hoành là vui sướng thì chúng sinh ăn được cứ giết ăn, của cải người cứ cướp, vợ người cứ dâm, cũng đều cho là vui sướng cả. Vì sợ khổ báo đời sau nên mới xa lìa các việc ấy, nên biết do nghiệp có thân.

Lại tu tập chính trí nên dứt hết nghiệp hữu lậu thì không thụ thân, nên biết nghiệp là cội gốc.

Lại A-la-hán tuy có các nghiệp hữu lậu, vì tu chính trí nên nghiệp không nhóm, nên biết nghiệp là nhân thụ thân. Vì nhân của thân diệt nên thân cũng diệt theo.

Lại vì nhờ biết 4 đế nên nhờ 4 đế mà phiền não vĩnh viễn không sinh khởi lại nữa. Vì không khởi nên không có thân. Người trí suy nghĩ như vậy, nên muốn biết 4 đế. Cho nên biết nghiệp là nhân của thân.

Lại nếu nhân duyên không đủ thì không thụ thân, như đất khô giống hư thì tất cả mầm không mọc được. Như vậy nơi đất thức mà không có nước ái thấm nhuần hạt giống nghiệp bị chân trí làm hư, thì thân sau là mầm không nảy sinh được. Người trí vì biết điều này nên muốn làm khô đất thức, làm hư hạt giống nghiệp, nên mới siêng năng gia công tinh tiến. Cho nên biết nghiệp là nhân duyên thụ thân.

Xong phần luận về nghiệp.

Phẩm 121: TƯỚNG CỦA PHIỀN NÃO, TRONG LUẬN VỀ PHIỀN NÃO CỦA NHÓM TẬP ĐẾ

Luận giả nói: Đã nói các nghiệp, các phiền não, nay sẽ nói làm bẩn tâm gọi là phiền não.

Hỏi: Sao gọi là bẩn?

Đáp: Nếu tâm có thể khiến sinh tử nối nhau luôn, đó gọi là bẩn. Sự sai khác của tâm bẩn là: tham, sân, si v.v…, tâm bẩn nầy gọi là phiền não, cũng gọi pháp tội, cũng gọi pháp thoái lui, cũng gọi là pháp ẩn chìm, cũng gọi là pháp nóng và cũng gọi là pháp ăn năn. Có các tên như vậy. Tâm bẩn nầy tu nhóm gọi là sử, không phải chỉ khi tâm bẩn sinh gọi là sử.

Phiền não là tham, sân, si, nghi, kiêu mạn và 5 thứ kiến. Do 10 thứ sai khác nầy nên mới có 98 thứ sử. Tham là mừng vui 3 cõi, cũng mừng vui vô hữu gọi là tham. Như trong kinh nói: Dục ái, hữu ái, vô hữu ái. Vô hữu gọi là đoạn diệt. Chúng sinh bị khổ ép ngặt, nên muốn diệt ấm thân cho cái không đó là vui.

Hỏi: Mừng vui là tướng thụ, chứ không phải tướng tham. Như trong kinh nói nghĩa nay mừng, sau mừng là nói đời nay thụ vui, sau cũng thụ vui.

Lại nói nghĩa nay buồn sau buồn là nói đời này chịu khổ, đời sau cũng chịu khổ.

Lại như trong lời trời hỏi rằng có con thì mừng. Phật đáp: Có con thì lo. Các việc như vậy?

Đáp: Tham là một phần của mừng. Như trong kinh nói: Thụ làm nhân duyên cho ưa vui, trong thụ tham sai khiến, trong đoàn thực có mừng có tham, mừng hết nên tham cũng hết. Cho nên biết tham là một phần của mừng. Vậy là không lỗi. Vì sao biết được? Như trong kinh nói: Tập đế: Nghĩa là khao khát. Khao khát là thế nào? Là muốn được thân sau. Hành tướng thế nào? Là nương dựa lòng tham muốn được đủ thứ.

Hỏi: Nếu nói muốn được thân sau là tướng khao khát, vì sao nói nương dựa lòng tham muốn được đủ thứ?

Đáp: Lại còn có tướng khao khát, như nói muốn được đủ thứ là nói tướng chung; muốn được thân sau là nói tướng riêng. Người lìa dục cũng có muốn được các thứ như khi khát muốn được nước v.v…, đó không phải nhiếp vào tập đế. Nếu nương dựa lòng tham muốn được thân sau, khao khát nầy mói gọi là nhiếp vào tập đế.

Hỏi: Nếu như khao khát cũng là mừng, tham cũng là mừng vì sao nói nương dựa lòng tham?

Đáp: Mới sinh gọi khát, tăng trưởng gọi là tham, nên nói nương dựa. Như trong kinh nói: Ưa thích trói buộc trong thế gian. Cho nên mừng tức là tham.

Lại trong kinh nói: Diệt trừ tham buồn các pháp bất thiện. Trong đó tham tức là mừng, buồn tức là giận. Như nói giận là buồn thì biết cũng nói mừng là tham. Cho nên trong 18 ý hành, không nói phiền não, mà chỉ nói các thứ thụ, nên biết phần mừng là tham.

Lại phàm phu lìa tham không thể thụ vui, lìa giận không thể thụ khổ, lìa si không thể thụ không khổ không vui. Làm sao biết được? Trong thụ thứ 3 nói: Người phàm phu trong thụ này, không biết tập nhân, không biết diệt trừ, không biết ý vị, không biết tội lỗi, không biết xuất ly, nên với trong thụ không khổ không vui bị vô minh sử sai khiến. Người phàm phu ấy thường không biết 5 pháp nầy, nên thường đối với trong thụ không khổ không vui bị vô minh sử sai khiến. Vô minh sử tức là tính không biết của thụ hành. Như vậy phàm phu tâm hành khổ vui cũng tức là tham giận.

Lại như bắt đầu đến tại tâm gọi là thụ, tăng trưởng minh liễu gọi là phiền não.

Lại tâm mềm xuống gọi là thụ, cũng tức tâm ấy tăng lên gọi là phiền não.

Phẩm 122: TƯỚNG CỦA THAM

Luận giả nói: Tham này trong 9 thứ kết buộc cả 3 cõi gọi là ái. Trong 7 sử chia làm 2 thứ là dục tham và hữu tham. Bởi vì sao? Vì có người đối với 2 cõi trên sinh tưởng giải thoát. Cho nên Phật mới nói nơi đó gọi là hữu. Hữu gọi là sinh. Nếu không tham thì không sinh. Cho nên đặc biệt nói hữu tham. Không phải chỉ có dục tham. Hoặc nói chỉ dục tham là phiền não, hết dục tham gọi là được giải thoát. Cho nên Phật nói: Thiền trong Vô sắc cũng có hữu tham. Phật chỉ rõ trong đó có trói buộc vi tế. Cho nên đặc biệt nói tham này, ở trong 10 đường bất thiện và trong 4 trói buộc gọi là tham dục. Tham dục mà gọi là dục, vì muốn được vật của người khác. Ở trong 5 thứ ngăn che và trong hạ phần kết gọi là dục dục. Dục dục mà gọi là dục, vì ở trong 5 dục. Trong 3 bất thiện căn gọi là tham bất thiện căn. Tham bất thiện căn là có thể sinh trưởng các pháp bất thiện. Tham nầy, nếu tham phi pháp gọi là ác tham, như trộm cướp vật của người khác, cho đến lấy vật của tháp, chùa, Tăng chúng; hoặc chúng sinh chưa chết mà muốn ăn thịt, hoặc muốn dâm mẹ, chị, em gái, vợ của thầy, người xuất gia và vợ của mình mà dâm chỗ phi đạo, đều gọi là ác tham.

Nếu vật của mình không muốn xả cho, gọi là xan, xan tức là tham.

Nếu thật không công đức, mà muốn khiến người ta bảo là có, gọi là ác dục.

Nếu thật có công đức, mà muốn cho người ta biết gọi là phát dục. Nếu muốn được thí nhiều, được nhiều vật, gọi là đa dục.

Nếu được thí ít, ít vật, mà cầu thứ tốt không biết chán gọi là bất tri túc.

Nếu chấp đắm sâu về chủng tính, dòng họ, danh sắc, của cải, tuổi trẻ, tuổi thọ v.v…, gọi là kiêu dật.

Nếu tham 4 vật cúng dường, gọi là tứ ái.

Lại tham này có 2 thứ một là dục tham, hai là cụ tham.

Lại có 2 thứ một là ngã tham, hai là ngã sở tham. Một duyên nội, hai duyên ngoại. Tham 2 cõi trên một bề duyên nội.

Lại có 5 thứ: 1. Tham sắc. 2. Tham hình. 3. Tham xúc. 4. Tham oai nghi ngôn ngữ. 5. Tham tất cả.

Lại tham sắc, thanh, hương, vị, xúc gọi là tham 5 dục.

Lại với 6 thứ xúc sinh ái gọi là tham 6 trần.

Lại tham ở trong 3 thứ thụ: Trong lạc thụ có tham muốn được, có tham giữ gìn. Trong khổ thụ có tham không muốn được, có tham muốn mất. Trong bất khổ bất lạc thụ có tham si.

Lại tham này có 9 phần, như trong Kinh Đại Nhân nói: Do ái nên tìm cầu chỗ mong muốn. Như người bị điều này làm khổ thì tìm việc khác, như nói người vui không cầu, người khổ nhiều cầu. Tham nầy tăng trưởng gọi là cầu. Khi cầu, nếu được gọi là đắc. Ưa thích nhân được thì trù tính là nên lấy hay không nên lấy. Nếu tâm quyết định gọi là nhân trù tính nên ưa muốn, nhân ưa muốn nên tham đắm, tham đắm gọi là ái sâu. Nhân tham đắm duyên thủ, thủ gọi là thụ, nhân thụ sinh keo kiệt, nhân keo kiệt nên giữ gìn, nhân giữ gìn nên mới sắm đủ thứ roi, gậy, dao, xà mâu v.v…. Đó gọi là 9 phần.

Lại có 9 phần nữa là tham tùy thời, nên có thượng, trung, hạ là hạ hạ, hạ trung, hạ thượng; trung hạ, trung trung, trung thượng, thượng hạ, thượng trung, thượng thượng.

Lại thế gian chia tham nầy làm 10 thứ: 1. Như khi thấy sắc đẹp trước tiên tâm cho là được. 2. Tiếp đó sinh muốn. 3. Phát nguyện. 4. Nghĩ nhớ. 5. Theo bắt chước làm. 6. Quên xấu hổ. 7. Thường ám ảnh trước mắt. 8. Phóng dật. 9. Cuồng si. 10. Chết ngất. Đó là tướng tham.

Phẩm 123: NHÂN CỦA THAM

Hỏi: Tham đó sinh như thế nào?

Đáp: Như trong cảnh duyên nữ sắc v.v… sinh nghĩ nhớ tà vạy như hoặc sắc, hoặc hình, hoặc xúc, hoặc điệu bộ nói năng là sinh tham dục.

Lại nếu không giữ gìn các cửa mắt tai thì sinh tham dục.

Lại như với việc ăn uống không biết độ lượng là sinh tham dục.

Lại gần gũi nữ sắc thì sinh tham dục.

Lại hưởng các thú vui thì sinh tham dục.

Lại vì ngu si nên sinh tham dục như với bất tịnh tưởng là tịnh.

Lại bởi ác tri thức nên sinh tham dục, như đem khăn nhơ nhớp mà gói áo sạch.

Lại vì cộng sự với người đa dục, nên sinh tham dục.

Lại đối với thân thụ v.v… 4 pháp sinh nghĩ nhớ vọng tưởng là bị tham dục lôi kéo, như bình tròn không có đế, như hoa không xỏ xâu.

Lại như biếng nhác không siêng tu thiện thì tham dục dễ sinh.

Lại đi chỗ không nên đi, thì bị tham xâm nhập, như là nơi dâm nữ, quán rượu, hàng thịt v.v…, ví như loài chim ưng, đại bàng.

Lại quán bất tịnh v.v… chưa có thể phá hoại được cảnh duyên thì tham dục đắc vậy.

Lại từ lâu xa đến giờ, thường quen tham dục, thành tham sử nên dễ sinh.

Lại với cảnh duyên nữ sắc v.v… ưa thủ tướng, thủ liễu. Thủ tướng là lấy các tướng tay, chân, mặt, mắt, lời nói, giỡn cười, nhìn ngắm, khóc lóc v.v…. Thủ liễu là phân biệt trai gái hình trạng sai khác. Như vậy thủ lấy, thủ lấy rồi nghĩ nhớ phân biệt thì sinh tham dục.

Lại tâm nghĩ lường yếu ớt nên cứ chạy theo cảnh duyên không thể ngăn chận được, thì sinh tham dục.

Lại nếu sinh tham dục nhẫn chịu không bỏ, thì ngày càng tăng thêm từ hạ sinh trung, từ trung sinh thượng.

Lại trong tham dục chỉ thấy say đắm mùi lợi lạc mà không biết tội lỗi, thì sinh tham dục.

Lại vì thời tiết nên sinh tham dục, như mùa xuân v.v….

Lại vì nơi chỗ nên sinh tham dục, như có địa phương từ xưa nay nhiều thói dâm dục.

Lại tùy theo thể lực, nên sinh tham dục, như tuổi trẻ, không bệnh hoạn và đồ nuôi sống đầy đủ.

Lại vì lực có thể nên sinh tham dục, như uống thuốc tăng lực v.v….

Lại được tịnh diệu tùy ý ngũ dục thì sinh tham dục. Nghĩa là thấy sắc đẹp hoa ao, vườn rừng, sum sê xanh tốt, nước suối chảy mát mẽ, mây đẹp, điện chớp sáng, gió đưa hương đến, hoặc nghe tiếng kêu áo não của chim chóc hòa nhau, và nữ nhân trang điểm dáng điệu dịu dàng, nói năng cử chỉ v.v….

Lại vì nghiệp nhân duyên nên sinh tham dục, như người thanh tịnh thí thì hay ưa thích tịnh diệu ngũ dục, mà người tội lỗi thì ưa bất tịnh.

Lại vì từng loại nên sinh tham dục, như người thì tham dục người.

Lại đắm sâu giả danh thì sinh tham dục. Người nầy đối bên trong sinh tướng sĩ phu, bên ngoài sinh tướng nữ lưu và áo mặc, người oan, người thân các tướng.

Lại vì chưa được không tâm, nên trong thấy chúng sinh, ngoài thấy sắc v.v… thì sinh tham dục.

Lại nếu tham sử chưa diệt hết, ái duyên hiện tiền, trong đó sinh nghĩ nhớ tà vạy. Những nhân duyên như vậy v.v… tức sinh tham dục.

Phẩm 124: LỖI CỦA THAM

Hỏi: Tham dục có những lỗi gì nên muốn dứt ư?

Đáp: Tham dục thật khổ, phàm phu điên đảo vọng sinh tưởng vui, người trí thấy khổ, thấy khổ thì phải dứt.

Lại thụ dục thì không bao giờ biết chán, như uống nước mặn, càng uống càng khát. Vì càng khát thì làm sao được vui?

Lại vì thụ dục nên các ác đều tụ tập và có dao gậy v.v… xảy ra đều bởi tham dục.

Lại trong kinh nói: Tham tội nhẹ mà khỏ bỏ. Vì đối với giận dữ nên gọi là tội nhẹ, kỳ thật là nặng.

Lại tham làm nhân duyên cho thân sau, như nói ái làm nhân duyên cho thủ, cho đến tụ tập thành khổ lớn.

Lại nói nhân khổ là ái.

Lại nói Tì-kheo phải suy nghĩ kỹ xem có bao nhiêu các khổ và do đâu mà có? Phải biết đều lấy thân làm nhân duyên, thân là nhân nơi ái.

Lại nói trong đoàn thực có hỷ có tham, cho nên thức sinh trong đó. Phải biết ái làm nhân duyên của sự thụ thân.

Lại tham này thường hành động trong bất tịnh, như nữ nhân v.v…. Thân tâm nữ nhân là bất tịnh, như cục phân được bọc lại, có thể làm ô uế, như rắn độc có thể cắn hại.

Lại tham dục này thường hành động trong si, như trong kinh nói: Ví như chó gặm xương khô dính máu, vì nước dãi thấm vào, nên tưởng cho là ngon. Người tham cũng vậy, trong cái dục vô vị, mà vì sức tà điên đảo cho là có hương vị.

Lại như miếng thịt v.v… có 7 thứ ví dụ.

Hoặc có người bảo với việc trong quá khứ vị lai mà sinh tham dục cho nên biết thường hành động trong si.

Lại chúng sinh vì nhân duyên tham dục nên vui ít khổ nhiều. Bởi vì sao? Vì như hưởng giàu sang thì ít, mà lúc tán hoại thì nhiều.

Lại người ái dục là vì nhân vui nên chịu đủ các thứ khổ. Nghĩa là khi tìm cầu khổ, khi giữ gìn khổ, khi thụ dụng cũng khổ luôn. Như trồng lúa, buôn bán, chinh chiến, làm quan v.v…. Khi tìm cầu là khổ. Khi giữ gìn lo sợ mất mát nên khổ, hiện tại không chán nên khổ.

Lại đoàn tụ vui yêu ít, ly biệt khổ nhiều. Cho nên biết tham dục có nhiều tội lỗi.

Lại như Phật nói ái dục có 5 thứ tội lỗi: 1. Ý vị ít mà lỗi nhiều. 2. Các kết bùng phát. 3. Đến chết không chán. 4. Bị Thánh trách bỏ. 5. Không ác nào không tạo.

Lại tham dục nầy thường khiến chúng sinh thuận theo dòng sinh tử, xa lìa Nê-hoàn. Có các tội lỗi như vậy nhiều vô lượng. Nên phải biết tham dục là nhiều tội lỗi.

Lại sinh các phiền não đều bởi tham dục, như tham thân nên khởi các phiền não về thân.

Lại không nhổ gốc ái sử thì thường xuyên bị khổ, như không chặt cây độc thì thường hại người.

Lại tham có thể khiến chúng sinh gánh gánh nặng.

Lại trong kinh nói: Tham ái là trói buộc, như bò đen bò trắng tự không buộc nhau, chỉ bởi dây buộc. Như vậy mắt không buộc sắc, sắc không buộc mắt, mà tham dục ở trong đó buộc. Nếu duyên là buộc, thì không được giải thoát.

Lại trong kinh nói: Chúng sinh bị vô minh che khuất bị ái kết trói buộc, qua lại trong sinh tử không cùng tận.

Lại trong kinh nói: Tham dứt nên sắc dứt, cho đến thức cũng dứt. Tham nầy nhờ quán vô thường v.v… mới dứt được. Dứt được tham dục nầy thì tâm được giải thoát. Sắc tham dứt thì không sắc. Không sắc thì khổ diệt, cho đến thức cũng như vậy. Cho nên biết tham dục là trói buộc bền chắc.

Lại tham dục như giặc mà chúng sinh không thấy cái ác của nó.

Lại tham dục thường hành động trong sự mềm dịu đẹp đẽ nên gọi là thâm ác.

Lại tâm chúng sinh ưa khởi tham dục, cho đến loài muỗi, kiến cũng đều ở trong uống ăn, dâm dục mà khởi.

Lại tham dục nầy có nhiều thứ nhân duyên có thể buộc lòng người, như là cha mẹ, anh em, chị em vợ con và của cải v.v….

Lại chúng sinh vì tham dục ăn uống, dâm dục v.v…che tâm nên mới có thể thụ sinh. Nếu tham thiền định thì sinh cõi trên.

Lại tham dục nầy có thể làm hòa hợp tất cả sở thích khác nhau của thế gian. Tham dục làm hòa hợp lại, giống như cát trộn với nước là dính nhau lại.

Lại trong sinh tử lấy tham ái làm khí vị, như nói trong sắc đắm vị. Nghĩa là do sắc sinh hoặc mừng hoặc vui. Nếu không tham thì không có khí vị, không khí vị thì có thể mau dứt sinh tử.

Lại tham dục nầy trái nhau với giải thoát. Bởi vì sao? Vì chúng sinh vì tham đắm vui dục lạc, vui thiền định nên không vui muốn giải thoát.

Lại tùy dứt được một phần tham, tức được biến thành một phần vui, như nói tùy chỗ lìa dục chuyển thàh vui sâu sắc.

Lại nói: Nếu muốn được các vui, phải bỏ tất cả dục. Bỏ tất cả dục nên được rốt ráo thường vui. Nếu muốn được cái vui lớn, phải lìa bỏ cái vui nhỏ. Bỏ cái vui nhỏ nên có thể được cái vui vô lượng.

Lại nói: Người trí không có cái lợi nào khác bằng lìa lìa bỏ tâm tham ái. Tùy tâm lìa tham ái thì diệt các khổ não.

Lại tham dục nầy làm hại thiện pháp. Bởi vì sao? Vì người nặng tham đắm thì bất chấp giới luật, chủng tính, giáo pháp, oai nghi, danh dự, không lĩnh thụ giáo hóa, không thấy sự suy bại, không coi tội phúc ra gì, như cuồng như say không biết tốt xấu; cũng như người mù không thấy phúc lợi. Như nói: Tham dục không thấy lợi; tham dục không biết phân biệt phải trái, giống như mù lòa không biết, vì không diệt trừ tham dục.

Lại nói: Tham dục là biển cả, không bờ cũng không đáy, sóng mòi xoáy sâu, ác trùng và quỉ La-sát, các hiểm nạn như vậy, không ai quá khỏi được, chỉ có ở trong thuyền tịnh giới, nhờ sức gió chính kiến, Phật là vị thuyền trưởng có thể chỉ dẫn đường chính, đúng như nói mà tu hành, thì mới qua được.

Lại trong các phiền não không có tưởng nhớ phân biệt khí vị nào bằng tham dục.

Lại tham dục này là khó dứt, như trong kinh nói có 2 thứ ước muốn khó dứt: một là muốn được, hai là muốn sống lâu.

Hỏi: Tham dục có những lỗi như vậy, làm sao biết được tướng của người tham dục?

Đáp: Người nhiều tham dục thì ưa vui nữ sắc và hoa hương, đồ trang sức, ca nhạc, múa hát; thường đến nhà dâm nữ nhóm họp, ăn uống; ưa tụ họp đông đảo và các đồ dụng cụ vui chơi, ưa đem lời ái ngữ, tâm thường vui mừng, sắc diện tươi hòa, gợi ý hỏi han, cười cười nói nói, khó giận dễ vui, để tâm chiếu cố, thân thể mau lẹ, tính tình tháo vát, tự chấp chặt bản ngã. Những tướng như vậy gọi là tướng nhiều tham dục. Tướng nầy cùng với tính trói buộc đều thuận nhau, cho nên khó dứt.

Lại tất cả tham dục rốt ráo đều khổ. Bởi vì sao? Vì những việc tham ái, được thì chắc chắn phải có lìa tan, lìa tan ắt có buồn khổ. Như nói người, trời đều thích sắc, tham sắc, ưa sắc, đắm sắc. Khi sắc nầy hoại thì tâm hối tiếc buồn rầu. Thụ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.

Lại trong các kinh Phật nói nhiều ví dụ để quở trách tham dục nầy. Nghĩa là có thể hại tuệ mạng, nên nói là độc. Ở trong tâm thì đau nên gọi là gai, có thể dứt thiện căn nên gọi là dao, có thể đốt thân tâm nên gọi là lửa, có thể sinh các khổ nên gọi là oán, từ trong tâm sinh ra nên gọi là giặc bên trong, vì khó nhổ nên gọi là rễ sâu, có thể làm bẩn danh dự nên gọi là đất bùn, ngăn trở đường thiện nên gọi là chướng ngại, đau bên trong nên gọi là mũi tên đâm trong tim, khởi các ác nên gọi là bất thiện căn, chảy vào biển sinh tử nên gọi là sông, trộm cướp của thiện nên gọi là giặc. Tham dục có vô lượng tội lỗi như vậy cho nên cần phải dứt.

Phẩm 125: DỨT TRỪ THAM

Hỏi: Tham dục có những lỗi như vậy, làm sao dứt?

Đáp: Lấy bất tịnh quán v.v… mà ngăn, vô thường quán v.v… mà dứt.

Hỏi: Có người biết vô thường nên càng tăng tham dục, việc ấy thế nào?

Đáp: Nếu người có thể biết tất cả vô thường thì không tham dục. Như trong kinh nói: Khéo tu tưởng vô thường nên có thể phá hoại được tất cả tham dục, tham sắc, tham vô sắc, tất cả hí lộng, kiêu mạn và vô minh.

Lại nếu người có thể thấy thế gian đều khổ, khổ bởi nhân duyên tham, thì tham nầy dứt.

Lại nếu người thường nghĩ rằng mình chắc phải chịu khổ sinh lão bệnh tử, thì tham nầy dứt.

Lại như được cái lạc thanh tịnh thì bỏ cái lạc bất tịnh. Như được Sơ thiền thì bỏ dục ái.

Lại thấy lỗi của tham dục là có thể dứt được. Lỗi như trước đã nói.

Lại vì đa văn v.v… trí tuệ tăng trưởng nên có thể dứt tham dục vì tính trí tuệ phá phiền não.

Lại nhờ nhân duyên thiện đầy đủ, thì tham dục dứt, nghĩa là tịnh trì giới v.v…, và 11 thứ định cụ. Điều này sẽ nói trong đạo đế.

Lại sắc trí v.v…, pháp trí v.v… các phương tiện, Phật là vị thầy thuốc lớn, các đồng học là những người sai khiến, chính pháp là thuốc, tự như nói mà làm đúng, thì bệnh tham dục dứt. Như có người biết bệnh và đầy đủ 3 việc ấy thì bệnh khỏi tức thì.

Hỏi: Như trong kinh nói dùng bất tịnh quán để trừ tham dục. Vì sao nói bất tịnh v.v… và vô thường v.v…?

Đáp: Tất cả Phật pháp đều vì phá các phiền não. Nhưng đều có sức thắng riêng. Trước tiên dùng bất tịnh quán để ngăn tham dục, sau mới lấy trí vô thường mà dứt.

Lại dùng bất tịnh để trừ tham dục thô, điều đó được nhiều người biết, còn tham sử thì vi tế nên phải dùng vô thường mới dứt được.

Lại chỉ trong một kinh đó nói như vậy, chứ trong các kinh khác cũng nói các pháp khác cũng có thể dứt. Nhân duyên như vậy thì tham dục dứt.

Phẩm 126: SÂN NHUẾ

Luận giả nói tướng giận dữ là như giận người nầy muốn khiến người này diệt mất, nhờ người khác trói đánh giết hại, nhất quyết trừ bỏ không muốn thấy. Giận này gọi là Ba-la-đề-già, nghĩa là giận hạng nặng. Có thứ giận chỉ muốn mắng nhiếc đánh đập người khác gọi là Vi-hân-bà, là giận hạng trung. Có thứ giận không muốn bỏ rời như bởi ghét, yêu vợ con mà sinh, gọi là Câu-lô-đà; là giận hạng nhẹ. Có thứ giận thường nhiễm ô tâm, gọi là Ma-xoa, là không trả thù. Có thứ giận ở mãi nơi tâm không bỏ, cần muốn trả thù, gọi là Ưu-bà-na-ha, là trả thù. Có thứ giận vội chấp một việc, dù nhiều lời khuyên nhủ quyết không muốn bỏ, như sư tử muốn qua sông, cứ nhắm đến bờ bên kia, chết cũng không nao núng, gọi là Ba-la-đà-xá, nghĩa là chấp chặt. Có thứ giận thấy người ta được lợi, tâm sinh ganh ghét, gọi là I-sa. Có thứ giận thường ưa tranh tụng, tâm khẩu cương cường, gọi là Tamlam-ba, nghĩa là giận tranh giành. Có thứ giận, hoặc sư trưởng dạy dỗ mà nghịch chống lại, gọi là Đầu-hòa-già, nghĩa là phàn kháng. Có thứ giận như được việc chút ít không vừa lòng thì tâm sinh bối rối gọi là A-sằn-đề, nghĩa là không nhẫn nhịn. Có thứ giận nói lời không nhỏ nhẹ thường hay nhăn nhó không có sắc mặt hòa dịu. Nói năng cướp lời trước, gọi là A-bà-cật-lược, nghĩa là không vui lòng. Có thứ giận đối với người ở chung thường hay mắng nhiếc, gọi là A-tảo-la-cô, nghĩa là không thuận hòa. Có thứ giận dùng thân khẩu ý xúc não người đồng học, gọi là thắng kỳ, nghĩa là xúc hại. Có thứ giận thường hay càu nhàu và chê bai đủ thứ, gọi là Đăng-đan-na-tha, nghĩa là khó tính.

Hai thứ giận này, hoặc nhân chúng sinh hoặc không nhân chúng sinh. Nhân chúng sinh gọi là tội nặng.

Lại có thượng, trung, hạ phân biệt làm 9 phẩm.

Lại nhân 9 thứ phiền não phân biệt làm 9, và vô sự nổi giận ngang ấy là thứ 10.

Hỏi: Giận nầy làm sao sinh?

Đáp: Từ việc không vừa ý khổ não mà sinh.

Lại vì không biết đúng cái tính của khổ thụ, nên sinh giận dữ.

Hoặc từ quở mắng roi vọt v.v… mà sinh.

Hoặc cùng làm việc với người ác mà sinh giận dữ, như hàng thịt, thợ săn v.v….

Hoặc vì do trí lực yếu ớt nên sinh giận dữ như cành nhánh cây bị gió làm lay.

Hoặc tích chứa giận dữ lâu ngày đến nỗi thành tính nên sinh giận dữ.

Hoặc gốc từ dòng hàng thịt, thợ săn và loài rắn độc lai sinh làm người thì sinh giận dữ.

Hoặc ưa nhớ lỗi của người khác nên sinh giận dữ, như trong 9 thứ phiền não đã nói.

Hoặc tùy thời tiết nên sinh giận dữ, như đến khi người chỉ còn 10 tuổi v.v….

Hoặc bởi loài giống nên sinh giận dữ, như loài rắn độc v.v….

Hoặc bởi địa phương nên sinh giận dữ, như người nước Khương Cù v.v….

Lại như trước đã nói nhân duyên sinh tham, cùng mâu thuẫn với tham thì sinh giận dữ.

Lại tâm chấp ngã, kiêu mạn bùng phát mạnh và say đắm tài vật một cách sâu đậm, các nhân duyên như vậy v.v…, thì sinh giận dữ.

Hỏi: Giận nầy có những tội lỗi gì?

Đáp: Trong kinh nói giận là tội nặng đối với tham dục. Cho nên nói là dễ cởi bỏ, mà kỳ thật là khó gỡ. Có điều là không bằng tham đeo bám lâu nơi tâm.

Lại giận tạo ra 2 cái phiền não. Trước đốt hại nơi mình, sau đốt hại nơi người.

Lại giận chắc chắn là địa ngục, vì do giận đa phần khởi nghiệp đọa địa ngục.

Lại giận có thể phá hoại phúc thiện, nghĩa là thí, giới, nhẫn 3 pháp nầy đều do tâm từ v.v… sinh ra, giận thì mâu thuẫn với tâm từ nên nói là có thể phá hoại.

Lại do giận khởi nghiệp đều bị tiếng xấu.

Lại do giận khởi nghiệp về sau tâm phải ăn năn.

Lại người hay giận hờn, là người không có lòng thương yêu, nên gọi là người hung bạo, vì chúng sinh đã thường khổ mà lại vì giận làm hại thêm, như ung nhọt, như lửa.

Lại trong kinh tự nói lỗi của giận là người nhiều giận thì hình sắc xấu xí, ngủ thức không yên vì tâm thường lo sợ bị người khác không tin v.v….

Hỏi: Người nhiều giận dữ có những tướng ra sao?

Đáp: Tâm khẩu cương cường thường không vui vẻ, mặt mày nhăn nhó, sắc diện không khoan hòa khó gần gũi, dễ nổi xung khó bỏ, thường hay giận hờn, ưa cãi cọ, hay sắm sửa binh khí, kết bè đảng với bạn ác, lại ganh ghét người thiện, là người thô kệch không suy nghĩ kỹ, ít khi biết hổ thẹn. Có những điều như vậy gọi là tướng giận dữ. Các tướng nầy đều vì ganh ghét người khác mà sinh, cho nên cần phải dứt.

Hỏi: Phải dứt như thế nào?

Đáp: Thường tu từ bi hỷ xả thì giận dữ dứt.

Lại phải thấy tội lỗi của giận dữ thì mới dứt được.

Lại được chân trí thì giận dữ dứt.

Lại phải nhờ sức nhẫn nhục, giận dữ mới dứt được.

Hỏi: Sao gọi là sức nhẫn?

Đáp: Nếu có thể nhẫn các khổ do người khác mắng nhiếc là người nầy được phúc của pháp thiện. Cũng không nên do không nhẫn mà sinh hung ác. Đó gọi là sức nhẫn nhục.

Lại người tu nhẫn gọi là Sa-môn, vì nhẫn nhục là cửa ngõ đầu tiên vào đạo. Pháp Sa-môn là giận dữ không đáp trả bằng giận dữ, bị mắng không mắng trả, bị đánh không đánh trả.

Lại nếu Tì-kheo nhẫn được là đúng với pháp xuất gia.

Lại người giận dữ là không phải phép của người xuất gia. Phép người xuất gia là nhẫn nhục.

Lại nếu Tì-kheo thân mặc áo khác tục mà tâm còn giận dữ đồng với người là không hợp.

Lại như người tu nhẫn nhục tức là đã đủ công đức từ bi.

Lại người tu nhẫn nhục có thể thành tựu tự lợi. Bởi vì sao? Vì những người giận dữ muốn não hại người, mà trở thành tự hại. Đem hết thân khẩu để thêm ác cho người, mà tự mình bị ác quá hơn trăm ngàn lần. Cho nên biết giận là tự tổn hại nặng nhất. Vì vậy người trí muốn mình và người đều được khỏi khổ lớn và tội lớn, cần phải tu nhẫn nhục.

Hỏi: Làm sao có thể chịu nổi cái khổ bị mắng nhiếc?

Đáp: Nếu người khéo tu vô thường, rõ thấu các pháp niệm niệm sinh diệt, thì biết rằng người mắng, người bị mắng đều diệt từng mỗi niệm, trong đó có chỗ nào đáng sinh giận dữ?

Lại khéo tu không tâm, mới có thể nhẫn nhục được. Nên nghĩ như vầy: Các pháp là thật không, có ai là người mắng, có ai là người bị mắng.

Lại sự việc nếu thật, thì nên nhẫn nhục, vì ta thật có lỗi, người kia nói thật lời, sao lại giận? Nếu sự không thật, thì người kia tự phải bị quả báo vọng ngữ, ta giận làm gì?

Lại nếu nghe lời mắng ác, phải nghĩ như vầy: Tất cả thế gian đều theo nghiệp chịu báo, ta xưa chắc đã gây nghiệp ác này, nay nên đền trả chứ sao lại giận?

Lại nếu nghe mắng ác, tự phải xét lỗi mình. Bởi ta thụ thân, mà thân là đồ đựng các nỗi khổ, nên phải chịu mắng.

Lại người tu nhẫn nhục nên suy nghĩ như vầy: Vạn vật đều do nhiều nhân duyên sinh. Cái khổ mắng ác nầy, là do nhĩ thức, ý thức và âm thanh v.v… sinh ra. Trong đó tự ta có 2 phần, người kia chỉ có âm thanh, vậy là tội ta nhiều hơn, sao lại giận? Và vì ta chấp lấy tướng phân biệt của âm thanh kia, nên sinh phiền não tức là ta lỗi.

Lại người nhẫn nhục không nên bắt lỗi người khác. Bởi vì sao? Vì tội tham sân si nầy không phải lỗi của chúng sinh mà do tâm bệnh của chúng sinh phát sinh ra nên không được tự tại. Như thầy trị quỷ, chữa người bị quỷ ám, thì chỉ nên giận quỷ mà không nên giận bệnh nhân.

Lại người nầy vì siêng tu tinh tiến thích tập pháp thiện nên không chấp lời người khác.

Lại nghĩ nhớ chư Phật, các Hiền thánh còn không khỏi bị mắng. Như người Bà-la-môn xảo quyệt v.v… mắng Phật nhiều điều. Như Xá-lợi-phất v.v… bị Bà-la-môn gia hại các thứ nhục mạ, huống chi chúng ta là hạng người bạc phúc ư?

Lại nghĩ như thế này: Thế gian nhiều ác mà không đoạt mạng ta đã là rất may mắn lắm rồi huống chi đánh mắng nào có nhằm gì?

Lại nghĩ thế nầy: Các thứ mắng ác nầy với ta không khổ, có thể dễ nhẫn chịu. Như Phật dạy Tì-kheo dẫu cho cưa sắt xẻ mình, cũng nên nhẫn chịu, huống chi mắng nhiếc.

Lại người tu hạnh này thường chán sinh tử nếu bị mạ nhục thì chứng nghiệm rõ ràng lại càng thêm chán lìa, bỏ ác tu thiện.

Lại người này biết không nhẫn nhục sau chịu khổ báo, mới nghĩ như vầy: Thà bị khinh mắng, chớ đọa địa ngục.

Lại người này ôm sâu lòng hổ thẹn. Ta là đệ tử Thế Tôn, bậc Đại nhân, là người tu đạo, làm sao lại khởi thân khẩu là nghiệp không đáng khởi ư?

Lại được nghe Bồ-tát tu nhẫn nhục và Đế Thích v.v… mà được sức nhẫn. Cho nên phải tu nhẫn.

Phẩm 127: VÔ MINH

Luận giả nói chạy theo giả danh gọi là vô minh. Như nói phàm phu theo tiếng ngã. Trong đó thật không có ngã và ngã sở. Chỉ có các pháp hòa hợp giả gọi tên là người. Phàm phu không thể phân biệt nên sinh ngã tâm. Ngã tâm sinh tức là vô minh.

Hỏi: Trong kinh Phật nói không biết đời quá khứ v.v… gọi là vô minh. Vì sao chỉ nói ngã tâm?

Đáp: Vì trong quá khứ nhiều người sai lầm, nên nói trong đó không biết gọi là vô minh.

Lại trong kinh giải thích nghĩa chữ minh là có chỗ hiểu biết mới gọi là minh. Biết những pháp gì? Là sắc ấm vô thường, như thật biết vô thường. Thụ, tưởng, hành thức các ấm vô thường, như thật biết vô thường. Trái lại với minh gọi là vô minh. Vậy thì không rõ như thật nên gọi là vô minh.

Hỏi: Nếu không rõ như thật gọi là vô minh thì gỗ đá v.v… các pháp lẽ ra cũng phải gọi là vô minh? Vì chúng không rõ như thật?

Đáp: Không phải vậy. Gỗ đá vô tâm không phân biệt được đời quá khứ v.v…, vô minh phân biệt được nên không đồng gỗ đá.

Hỏi: Vô minh gọi là vô pháp, như người mắt không thấy sắc không có pháp không thấy. Cho nên chỉ minh là không có, nên gọi là vô minh, chứ không có pháp khác?

Đáp: Không phải vậy. Nếu không có vô minh thì trong 5 ấm vọng chấp có người, và trong gạch đá sinh tưởng vàng bạc, gọi là thứ gì? Cho nên phải biết tính tà phân biệt gọi là vô minh, chứ không phải vì không có minh mà gọi là vô minh.

Lại từ vô minh nhân duyên mới có các hành v.v… nối nhau sinh; nếu là vô pháp thì làm sao sinh được?

Hỏi: Nếu không phải minh gọi là vô minh thì nay chỉ trừ minh, tất cả các pháp còn lại đều là vô minh. Cho nên không lấy một pháp gọi là vô minh?

Đáp: Vô minh nầy là nói trong tự tướng, chứ không nói các pháp. Như nói bất thiện tức là nói cái thể bất thiện, chứ không nói vô ký. Vô minh cũng vậy. Tuy mang thân hình người, mà không có hành động như con người, nên mới gọi là không phải người. Như vậy cái minh nầy tuy có phân biệt mà không biết như thật, nên mới gọi vô minh. Còn gỗ đá không phải vậy.

Hỏi: Nếu nói vô sắc, vô đối, vô lậu, vô vi đều là các thuyết, vì sao vô minh không phải như vậy?

Đáp: Hoặc giả có lý nầy, nhưng trong bất thiện v.v… thì không như vậy.

Hỏi: Có người nói chỉ vì không có minh nên gọi vô minh, như trong nhà không ánh sáng nên gọi là tối?

Đáp: Thế gian có 2 lối nói: Hoặc không có sáng nên nói là không sáng, hoặc sáng không đúng cũng nói là không sáng. Không có sáng nên nói là không sáng, là như thế gian nói mù không thấy sắc, điếc không nghe tiếng. Sáng không đúng cũng nói là không sáng như đêm thấy cây trơ trụi sinh tưởng là người, thấy người tưởng là cây trơ trụi. Lại người không thể thật biết việc đó nên gọi là không biết.

Lại tà tâm gọi là phiền não. Các hành nghiệp nhân duyên nầy, A-la-hán đã dứt nên không có vô minh làm nhân duyên cho các hành. Nếu không phải minh gọi là vô minh thì nay A-la-hán không minh trong Phật pháp, lẽ ra phải gọi vô minh? Mà nếu có vô minh thì không phải A-la-hán. Cho nên phải biết rằng nói có thể tính vô minh riêng tức là tà tâm. Tà tâm nầy là vô minh phân ra tất cả phiền não.

Bởi vì sao? Vì tất cả phiền não đều là tà hành.

Lại tất cả phiền não che tâm người, đều là đui mù. Như nói tham dục không thấy pháp, tham dục không thấy phúc. Người hay thụ tham nầy đều gọi là đui mù. Sân si cũng như vậy.

Lại từ tất cả phiền não sinh các hành nghiệp, nên trong kinh nói từ vô minh sinh hành. Cho nên biết tất cả phiền não đều là vô minh.

Lại người không thấy không, thường có vô minh. Có điều là cáu bẩn vô minh là nhân duyên các hành.

Lại vì tà minh nên nói là vô minh. Người chưa thấy không, thường là tà minh. Cho nên biết vô minh phân ra tất cả phiền não.

Hỏi: Vô minh sinh như thế nào?

Đáp: Nếu nghe, nghĩ tà nhân thì sinh vô minh. Như cho có đàla-phiêu, có hữu phần, có tinh thần, các pháp niệm niệm không diệt, không có thân sau, âm thanh và Thần là thường còn, cỏ cây v.v… có tâm, rồi muốn thành lập các tà chấp như vậy, thì sinh vô minh.

Hoặc do tà nhân nên sinh vô minh là gần gũi bạn tà ác, nghe tà pháp, rồi nghĩ tà và làm việc tà. Vì 4 tà nhân đó nên sinh vô minh.

Lại nhân duyên sinh các phiền não khác, đều là nhân sinh vô minh.

Lại do nhân vô minh nên sinh vô minh, như từ bắp sinh bắp, từ lúa sinh lúa. Như vậy từ chấp của chúng sinh, thì sinh vô minh.

Lại trong kinh nói: Từ nhân duyên tà niệm mà sinh vô minh. Tà niệm là một biệt danh của vô minh, như thấy có người, trước tâm sinh ý niệm về người, sau nghĩ rõ ràng, nên gọi là vô minh. Hai hiện tượng trước sau nầy tương trợ tương sinh, như từ cây sinh trái, từ trái lại sinh cây.

Hỏi: Vô minh có những lỗi gì?

Đáp: Tất cả tổn hại đều bởi vô minh. Bởi vì sao? Vì từ vô minh sinh tham v.v… các phiền não; từ phiền não khởi nghiệp bất thiện, từ nghiệp thụ thân. Nhân duyên thụ thân, mới bị các thứ tổn hại. Như trong kinh nói: Vô minh che khuất ái kết trói buộc, thụ thân các hữu.

Lại trong Kinh Sư Tử Hống nói: Các thủ, đều do vô minh làm gốc. Lại kệ nói:

Có các chỗ tội ác

Đời nay hoặc đời sau,

Đều vô minh làm gốc,

Nên từ tham dục khởi

Tất cả lỗi phiền não

Đều bởi vô minh có,

Vì từ vô minh sinh

Tất cả phiền não đó.

Lại phàm phu vì vô minh nên chịu thân 5 ấm nầy là bất tịnh, vô thường, khổ, không, vô ngã, làm gì có người trí chịu các khổ này!

Lại vì nhờ chính tư duy nên có thể xả 5 ấm. Như trong kinh nói: Nếu biết tâm ta là tà điên đảo, thì không sinh trở lại. Cho nên biết do vô minh nhân duyên nên bị trói buộc, minh nhân duyên nên giải thoát.

Lại thế gian chúng sinh vì vô minh nên tham cầu một chút khí vị mà không thấy nhiều tội lỗi, như con thiêu thân tự gieo mình vào lửa, như cá nuốt mồi câu. Chúng sinh cũng vậy, hiện tham chút khí vị mà bất cố nhiều tội lỗi.

Lại kinh điển ngoại đạo sinh tà kiến nói không có tội phúc v.v…, đều là vô minh.

Lại các ác đạo đều do bất thiện. Bất thiện đều là vô minh.

Lại các tà kiến khởi nghiệp phần nhiều đọa địa ngục. Tà kiến đều do vô minh sinh.

Lại Phật là đấng Thế Tôn, là bậc Nhất thiết trí, là Đại sư của 3 cõi, là người chân tịnh tu hành và Thánh đệ tử v.v…. mà các ngoại đạo không phân biệt biết được, như người mù vất bỏ viên ngọc châu báu. Đó đều là lỗi vô minh.

Lại tất cả chúng sinh có bao nhiêu việc tổn não bại hoại v.v…, đều do vô minh, tất cả lợi ích thành tựu tăng trưởng đều nhờ minh mẫn. Nếu tăng trưởng vô minh rốt ráo quyết đọa địa ngục A-tì. Như kiếp sơ con người không biết khí vị là hư vọng, mới sinh tham đắm, nên mất sắc lực thọ mạng các việc v.v…. Phải biết đều bởi vô minh làm mất các điều lợi.

Lại vô minh nầy chỉ có chân trí mới dứt được, còn tham v.v… thì không vậy.

Lại trong tâm tham không có giận, trong tâm giận không có tham, còn vô minh thì có mặt trong tất cả tâm; và người không tu tuệ thì vô minh thường trực ở trong tâm.

Lại trong các phiền não vô minh là rất mạnh, như trong kinh nói vô minh tội nặng cũng khó giải trừ.

Lại vô minh là cội rễ của 12 nhân duyên, nếu không có vô minh thì các nghiệp không nhóm không thành. Vì sao biết được? Các A-lahán không có tướng chúng sinh, vì không vô minh nên các nghiệp không thể nhóm thành. Nghiệp không nhóm nên thức v.v… các chi phần không sinh lại được. Cho nên biết vô minh là gốc của các khổ.

Lại hiện thấy tham đắm thân bất tịnh nầy cũng đối với vô thường sinh tưởng là thường, giống như nắm tay không để gạt trẻ nít, cũng nhà ảo thuật có thể diễn trò ảo thuật khiến người xem thấy đất là vàng.

Lại tục nói người ngu hiện có thể gia thêm tội mà cũng có thể dùng lời nói gạt. Thế gian cũng vậy, mắt thấy bất tịnh mà vẫn để bị gạt.

Lại các tâm pháp niệm niệm diệt hết, vì chấp lấy tướng nên sinh. Sắc diệt hết rồi, vì si nên chấp lấy tướng. Với âm thanh v.v… cũng như vậy. Cho nên khó giải trừ. Đó là lỗi của vô minh.

Hỏi: Người nhiều vô minh có những tướng gì?

Đáp: Người nầy với chỗ đáng sợ không sợ, chỗ nên vui không vui, ganh ghét người thiện, ưa thích người ác, lấy ngược ý người, thường ưa trái chống, chấp cứng việc tà, thiếu lòng hổ thẹn, bất cố hiềm nghi, không hay làm cho người vui, tự mình cũng khó được vui, không hay gần ai, ai cũng khó gần; ngu hãi không hiểu, ưa mặc áo bẩn, ưa ở chỗ tối, và chỗ bất tịnh, tự cao tự đại, hay khinh dễ người không cần đạo lý, tự khoe công đức, lỗi không biết lỗi, lợi không biết lợi, không thích sạch sẽ, cũng không oai nghi, nói năng vụng về, thường hay hờn giận, lấy trộm pháp người, mà sâu tham đắm, học tụng khó được, được rồi dễ mất, dẫu có sở đắc, không thể hiểu nghĩa, dẫu có hiểu nghĩa, thì cũng hiểu sai. Tất cả tướng đó đều do vô minh. Cho nên biết vô minh có vô lượng tội lỗi cần phải dứt trừ.

Hỏi: Làm sao dứt được?

Đáp: Khéo tu chân trí thì dứt được.

Hỏi: Biết ấm giới v.v… cũng gọi là chân trí. Vì sao trong kinh nói thuốc chữa vô minh là hoặc nhân duyên, hoặc quán nhân duyên?

Đáp: Các ngoại đạo phần nhiều hiểu lầm nhân trong sự vật, vì hiểu lầm nhân, nên nói trời Tự Tại v.v… tạo ra thế gian. Vì lầm nhân trong sự vật, nên nói có đà-la-phiêu, có hữu phần v.v…. Quán pháp nhân duyên, thì dứt 2 sai lầm nầy.

Hỏi: Nhân duyên gọi là thuốc chữa vô minh. Vì sao nói 2 thứ?

Đáp: Vì muốn thu gom hết các trí. Nếu quán ấm, giới, nhập v.v… cũng phá được vô minh. Nhưng vô minh nặng là tà kiến. Tà kiến nhờ nhân duyên dứt, nên nói 2 thứ. Tham giận cũng như vậy.

Lại thế gian phần nhiều sai lầm đối với tên gọi cái bình v.v… Như nghe tên cái bình thì sinh nghi sắc v.v… là cái bình hay rời sắc v.v… lại riêng có cái bình? Như vậy 5 ấm là người hay rời 5 ấm lại riêng có người? Nếu tâm quyết định thì sa vào nhị biên là đoạn và thường. Thân tức là Thần, hay thân khác Thần khác cũng như vậy. Nếu người biết cái bình từ các duyên sinh, do sắc, hương, vị, xúc mà thành, vậy sắc v.v… các ấm có thể hiểu là người. Biết được như vậy thì có thể lìa bỏ sự sinh nghi từ tên gọi. Cái tên gọi này có thể che khuất thật nghĩa các pháp. Như trong Kinh Thiên Vấn nói: Tên gọi hơn tất cả pháp, mà không có gì có thể hơn được. Tên gọi nầy tất cả các pháp đều theo.

Lại nói: Thấy thế gian tập thì dứt được chấp không thấy thế gian diệt thì dứt được chấp có.

Lại nói: Vì các hành nối nhau luôn nên nói 5 ấm sinh tử. Đó đều là tội lỗi của vô minh, quán nhân duyên thì dứt.

Lại trong kinh nói: Nếu ai thấy nhân duyên là người đó thấy pháp. Nếu thấy pháp tức thấy Phật. Như vậy nếu ai có thể dứt sự sinh nghi do tên gọi thì người đó mới thật thấy Phật, mà không phải theo ai học. Cho nên nhờ chính trí thì hết vô minh. Vì nhờ biết đúng pháp nhân duyên nên mới có được chính trí.

Lại lược nói trong 8 vạn 4 ngàn pháp tạng có bao nhiêu trí tuệ đều để diệt trừ vô minh, vì vô minh làm cội rễ tất cả phiền não và giúp phát triển tất cả phiền não. Nhân duyên như vậy thì dứt được vô minh.