THÀNH THẬT LUẬN
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 11

Phẩm 138: CÁC CÂU HỎI KHÁC

Luận giả nói: Tất cả phiền não phần nhiều gồm thâu trong 10 sử, cho nên phải do nơi 10 sử mà tạo luận. Mười sử là tham, giận, mạn, vô minh, nghi và 5 kiến chấp.

Hỏi: Mười phiền não đại địa pháp nầy là không tin, biếng nhác, nhớ sai, tán tâm, vô minh, tà phương tiện, tà niệm, hiểu sai, vui đùa, phóng dật. Pháp nầy thường chung cùng với tất cả tâm phiền não. Việc đó thế nào?

Đáp: Trước đã phá tương ưng, chỉ tâm pháp mỗi mỗi sinh cho nên không đúng.

Lại đó là không đúng đạo lý. Vì sao biết? Hoặc có tâm bất thiện cùng tín bất thiện chung. Hoặc có tâm bất thiện mà không tín. Tinh tiến v.v… cũng như vậy. Cho nên biết không phải tất cả trong tâm phiền não có 10 pháp nầy.

Lại ông nói ngủ nghỉ và vui đùa ở trong tất cả tâm phiền não, cũng không đúng. Nếu tâm mê chìm, bấy giờ mới có ngủ nghỉ, chứ không phải ở trong tâm vui đùa. Có những lỗi như vậy.

Hỏi: Trong cõi Dục có 10 phiền não. Cõi Sắc và Vô sắc trừ sân, còn lại tất cả. Điều này thế nào?

Đáp: Trong đó cũng có ganh ghét v.v…. Vì sao biết được? Trong kinh nói có Phạm Vương bảo các Phạm chúng rằng: Các ngươi đừng đến Sa-môn Cù-đàm, các ngươi chỉ ở đây với ta tự sẽ được hết sự già chết. Đó là ganh ghét. Vì có ganh ghét nên phải có giận dữ.

Lại kinh nói Phạm Vương nắm tay một Tì-kheo kéo ra khỏi chúng Tăng, bảo rằng: Tì-kheo! Ta cũng không biết 4 đại ở chỗ nào diệt hết không còn. Như vậy đem tâm gièm siểm gạt các Phạm chúng đó gọi là gièm siểm. Như nói ta là tôn quý tạo ra muôn vật. Đó là kiêu mạn phóng dật. Những điều như vậy, trong đó cũng có những ác phiền não, nên phải biết cũng có bất thiện.

Có luận sư nói: Nếu tham phụ mẫu và Hòa thượng, A-xà-lê v.v… gọi là tham thiện, tham vật của người khác v.v… gọi là tham bất thiện, không làm tổn hại, hay lợi ích người khác gọi là tham vô ký. Giận pháp bất thiện và ác tri thức v.v… gọi là giận thiện, nếu giận thiện pháp và chúng sinh gọi là giận bất thiện, nếu giận vật phi chúng sinh gọi là giận vô ký. Nếu dựa ngạo mạn để dứt ngạo mạn gọi là ngạo mạn thiện, khinh chúng sinh gọi là ngạo mạn bất thiện. Vô minh v.v… cũng như vậy.

Lại có luận sư khác nói: Nếu như thiện thì không gọi là phiền não.

Hỏi: Thân kiến ở cõi Dục phải gọi vô ký. Bởi vì sao? Vì nếu thân kiến là bất thiện thì tất cả phàm phu đều sinh ngã tâm, không thể khiến đều đọa địa ngục, nên gọi là vô ký. Việc đó thế nào?

Đáp: Thân kiến là căn bản của tất cả phiền não, làm sao gọi vô ký được! Lại người nầy đọa là vì người khác nói có thần ngã, bấy giờ làm sao được gọi vô ký? Biên kiến cũng như vậy.

Hỏi: Nếu chuyển người tà kiến sang đọa vào trong nghi, người nầy là bất thiện chăng?

Đáp: Người đó không phải là bất thiện. Bởi vì sao? Vì thà đọa trong nghi không vào tà kiến.

Hỏi: Có người nói tất cả phiền não trói buộc cõi Dục có thể khiến dục hữu nối nhau, buộc cõi Sắc và Vô sắc cũng như vậy. Việc đó thế nào?

Đáp: Chỉ ái có thể khiến các hữu nối nhau, vì trước vui mừng rồi sau mới sinh.

Lại nói ái là nhóm khổ, cũng nói ái ưa uống ăn tham dục v.v… nên tùy theo chỗ mà thụ sinh. Trong tà kiến v.v… không có nghĩa như vậy. Tuy trong kinh nói khinh mạn nhân duyên sinh. Cũng trước mạn sau ái nên mới sinh. Giận cũng như vậy. Cho nên biết đều bởi ái nên các hữu nối nhau.

Hỏi: Trong các phiền não có mấy thứ thấy đạo lý thì dứt, mấy thứ suy nghĩ mới dứt?

Đáp: Tham, sân, mạn và 2 thứ vô minh, thấy đạo lý và suy nghĩ dứt, ngoài ra 6 thứ chỉ thấy đạo lý là dứt.

Hỏi: Người học nhân cũng có ngã tâm. Cho nên biết không thị hiện tướng đó thôi, vì học nhân một phần thân kiến chưa dứt?

Đáp: Đó là mạn không phải kiến. Kiến là tướng thị-hiện.

Hỏi: Có người nói bủn xỉn, ganh ghét, hối tiếc, gièm siểm v.v… chỉ suy nghĩ dứt. Việc đó thế nào?

Đáp: Đó đều có 2 thứ, có kiến đế dứt, có tư duy dứt. Vì sao biết được? Như Ni-kiền tử v.v… vì thấy đệ tử Phật được cúng dường nên sinh tâm ganh ghét. Tâm ganh ghét nầy thấy đạo thì diệt. Cho nên biết kiến đế thì dứt liền.

Có người trước đối với đệ tử Phật, lẫn tiếc không thí, vì được thấy đạo nên có thể cúng thí. Lẫn tiếc nầy thấy đạo là dứt. Như Tôna-sát-đa-la v.v…, hối tiếc cũng thấy đạo là dứt. Như Tu-đà-hoàn nhân duyên đọa địa ngục v.v… và thụ thân đời thứ 8, gièm siểm v.v… cũng thấy đạo lý mới dứt.

Hỏi: Các phiền não có mấy thứ thấy khổ đế dứt, mấy thứ thấy tập, diệt, đạo đế dứt, và mấy thứ suy nghĩ dứt?

Đáp: Trước đã nói thấy đạo lý dứt 6 sử là 4 thứ, thấy khổ đế dứt, thấy tập, diệt, đạo đế dứt. Ngoài ra 4 sử là 5 thứ.

Hỏi: Thân kiến, biên kiến chỉ thấy khổ đế dứt, giới lấy 2 thứ, thấy khổ thấy đạo dứt. Việc đó thế nào?

Đáp: Các phiền não khi thật thấy diệt đế mới dứt. Cho nên thân kiến v.v… không phải chỉ thấy khổ đế mà dứt được.

Lại thân kiến đối với 4 đế hiểu sai lầm. Năm ấm vô thường do nhân duyên sinh. Ngã không phải vô thường, không do nhân sinh. Năm ấm có diệt, ngã không diệt. Đạo đế cùng với ngã kiến là pháp trái nhau. Cho nên thân kiến 4 thứ dứt. Biên kiến cũng 4 thứ dứt. Bởi vì sao? Vì hành giả thấy khổ đế do tập đế sinh thì dứt dứt kiến. Kiến chấp do đạo đế được dứt, thì dứt thường kiến. Giới lấy cũng có 4 thứ. Có nhân có quả, cho nên khi thấy khổ đế biết giới nầy là khổ, không, nhờ đó mà được thanh tịnh. Phải thấy khổ đế mới dứt. Biết giới nầy là nhân khổ, không, nhờ đó mà được tịnh. Phải là thấy tập đế mới dứt. Vì tà kiến bài báng Nê-hoàn, cho rằng nhờ kiến chấp nầy được tịnh. Phải là thấy diệt đế mới dứt. Bởi đó mà bài báng đạo. Phải thấy đạo đế mới dứt. Như kiến lấy dựa vào tà kiến nên có 4 thứ, giới lấy cũng như vậy.

Hỏi: Nếu như vậy thì không gọi 98 thứ sử?

Đáp: Các sử tùy bậc mà dứt, không tùy cõi, nên không giới hạn ở số 98.

Hỏi: Tham, mạn và trừ tà kiến, còn 4 kiến kia đều tương ứng với 3 căn. Trừ khổ căn ưu căn, giận dữ cũng tương ứng với 3 căn.

Trừ lạc căn hỷ căn, vô minh tương ưng với 5 căn. Tà kiến, nghi tương ưng 4 căn. Trừ khổ căn, giận, che giấu tội, xan lẫn, ganh ghét không tương ưng với ưu căn. Việc đó như thế nào?

Đáp: Trước đã phá không có tương ưng rồi. Ra sau sẽ nói. Trong 5 thức không có phiền não.

Lại trong pháp của ông, tham tương ưng với hỷ căn, mà xan thì không phải như vậy. Đó là không lý do, vì xan là một phần của tham. Như vậy kiêu mạn không cùng tương ưng với ưu căn cũng không lý do. Cho nên biết chỗ lập luận của các ông đều tự nhớ tưởng phân biệt.

Hỏi: Có người nói thấy khổ đế, dứt được 5 thứ kiến. Nghi và tham, sân, mạn không tương ưng với vô minh. Và tập đế dứt được tà kiến, kiến thủ. Nghi và tham, sân, mạn không tương ưng vô minh. Đó gọi là sử biến khắp, ngoài ra không phải biến khắp. Việc đó thế nào?

Đáp: Tất cả biến khắp. Bởi vì sao? Vì tất cả đều cùng chung nhân duyên.

Lại đối với tà kiến của mình sinh tâm tham, như nói không khổ cho đến không đạo. Tham đắm kiến chấp nầy mà giữ lấy làm tự cao, nếu nghe nói khổ thì sinh ghét giận.

Lại tham nầy có thể duyên diệt đế, sân cũng có thể ghét giận Nê-hoàn, cũng lấy Nê-hoàn sinh tâm tự cao. Đạo cũng như vậy. Phải biết các sử khác cũng có thể biến khắp.

Lại phiền não trói buộc cõi Dục có thể duyên cõi Sắc, như bởi tham nên mừng, bởi giận nên oán ghét, vì lấy pháp kia tự cao, cũng lấy đó cho là hơn, không phải chỉ có cõi Dục. Như phiền não cõi Dục có thể duyên cõi Sắc, phiền não kiến v.v… cõi Sắc cũng có thể duyên quả cõi Dục. Cõi Vô sắc cũng như vậy.

Lại phiền não nầy đều có thể có tướng chung tướng riêng. Bởi vì sao? Vì tham cũng có thể có tướng chung như nhiễm cả 4 thiên hạ.

Lại như Kinh Trường Trảo nói: Tất cả nhẫn là tham, tất cả bất nhẫn là sân. Tất cả bất nhẫn là tham, tất cả nhẫn là sân. Cũng lấy phiền não nầy tự cao. Phiền não nầy đều có thể khởi nghiệp thân khẩu. Bởi vì sao? Vì trong kinh nói: Sinh tâm thấy biết như vậy, nói việc như vậy. Nghĩa là có thần v.v….

Lại tất cả phiền não nầy đều ở trong thức thứ 6, trong 5 thức kia không có. Bởi vì sao? Vì tưởng hiện hành trong thức thứ 6, nên tất cả phiền não đều do tưởng sinh. Nếu không phải như vậy, thì thân kiến v.v… cũng phải ở trong 5 thức. Bởi vì sao? Vì mắt thấy sắc bảo ta có thể thấy. Nghi nạn v.v… cũng như vậy.

Hỏi: Trong kinh nói 6 ái chúng. Vì sao nói trong 5 thức kia không phiền não?

Đáp: Như 6 ý hành đều hiện hành trong ý thức. Chỉ nhờ mắt v.v… mở cửa và dẫn đường, nên mới gọi 6 ý hành. Điều này cũng vậy.

Lại trong ý thức có những phân biệt nhân duyên, mà trong 5 thức kia không có. Cho nên biết trong 5 thức không có phiền não.

Phẩm 139: DỨT LỖI

Hỏi: Có người nói các phiền não có 9 bậc hạ, trung, thượng là hạ hạ, hạ trung, hạ thượng; trung hạ, trung trung, trung thượng; thượng hạ, thượng trung, thượng thượng. Trí cũng có 9 bậc là phiền não trước dứt thượng thượng, sau cùng dứt hạ hạ. Đem trí hạ hạ dứt phiền não thượng thượng, cho đến đem trí thượng thượng dứt phiền não hạ hạ. Việc đó thế nào?

Đáp: Dùng vô lượng tâm dứt các phiền não. Bởi vì sao? Trong kinh Phật nới: Vì như người thợ khéo, tay cầm cán rìu, mắt thấy chỗ ngón tay nắm, tuy hằng ngày không thể phân biệt mòn hết bao nhiêu, nhưng khi mòn hết mới hay là mòn hết. Tì-kheo cũng vậy, khi đang tu đạo, tuy không phân biệt biết ngày nay diệt được hết bao nhiêu phiền não, hôm qua đã diệt hết bao nhiêu; nhưng đến khi diệt hết rồi mới biết là hết. Cho nên biết phải dùng vô lượng trí diệt mới hết các phiền não chứ không phải 8 không phải 9.

Hỏi: Dựa định nào, diệt những phiền não nào?

Đáp: Nhờ 7 chỗ dựa diệt được phiền não. Như trong kinh Phật nói: Nhờ Sơ thiền lậu hết, cho đến nhờ Vô sở hữu xứ lậu hết.

Lại lìa 7 chỗ dựa nầy cũng có thể hết lậu, như trong kinh Tu-thima nói lìa 7 chỗ dựa cũng được hết lậu. Cho nên biết dựa vào định cõi Dục cũng được hết lậu.

Hỏi: Kiến đế thì phiền não dứt, không cần nưong định Vô sắc mà dứt, vì lẽ hành giả nầy đã hoại sắc tướng?

Đáp: Điều này trước đã đáp rồi, nghĩa là Vô sắc định có thể duyên sắc.

Hỏi: Vì là trước từ Sơ thiền rồi tuần tự lìa dục đến Nhị thiền v.v… là đồng thời hay sao?

Đáp: Phải tuần tự, vì lìa Sơ thiền muốn sinh Nhị thiền.

Hỏi: Trong cõi Dục cũng có thứ tự sao?

Đáp: Các phiền não diệt từng mỗi niệm nên cũng phải thứ tự.

Lại như những người ở các cõi trời Diệm-ma, khi ôm nhau thì thành dâm dục. Trời Đâu-suất-đà nắm tay nhau thành dục. Trời Hóa Lạc miệng nói với nhau thành dục. Trời Tha Hóa Tự Tại nhìn nhau là thành dâm dục. Phải biết phiền não cõi Dục cũng tuần tự mới dứt hết.

Có người nói nhờ nhân duyên phúc đức mà sinh về trong đó, chứ không phải nhờ dứt phiền não, vì chỗ sở dục vi diệu nên mới có sai khác.

Lại do căn chậm lụt nên ôm nhau mới thành dục; căn linh lợi nên nhìn nhau là thành dục.

Hỏi: Có người nói phiền não do tư duy thì dứt là dứt dần dần. Trước dứt trói buộc cõi Dục, sau dứt trói buộc cõi Sắc và Vô sắc. Còn kiến đế thì dứt là đồng thời dứt.. Việc đó thế nào?

Đáp: Tùy theo kiến đế mà dứt, nhưng thật ra tất cả phiền não, thấy diệt đế mới dứt. Điều này trước đã nói. Như nói kiến đế dứt các phiền như thân kiến v.v… đều là khi thấy diệt đế mới dứt. Từ noãn pháp, dùng vô thường v.v… tu quán tướng 5 ấm mới dứt phiền não, thấy diệt đế mới hết.

Hỏi: Quán khổ trói buộc cõi Dục, có thể dứt kết cõi Dục. Tập cũng như vậy. Như cõi Dục cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ cũng như vậy. Quán diệt cõi Dục có thể dứt kết cả 3 cõi. Đạo cũng như vậy. Việc đó thế nào?

Đáp: Diệt trí có thể dứt phiền não. Cho nên lời ông nói không đúng.

Hỏi: Trong kinh nói quán 5 ấm vô thường v.v…, nên được quả Tu-đà-hoàn, cho đến quả A-la-hán. Sao ông nói chỉ quán diệt đế là dứt phiền não?

Đáp: Trí quán 5 ấm nầy sinh diệt hợp lại mà quán nên có thể dứt kết sử. Như trong kinh nói: Tì-kheo quán sắc nầy là sắc tập, là sắc diệt.

Lại còn nói thấy pháp biết pháp thì dứt phiền não. Mới biết là thấy diệt đế nên dứt hết các phiền não.

Lại 5 ấm là ở trong khổ sinh các phiền não, nếu thấy 5 ấm diệt cho là tịch diệt an ổn. Như vậy là khổ tưởng đầy đủ. Cho nên biết thấy các ấm diệt, thì phiền não hết. Như nói vì các pháp không thể tính, nương một xả tâm mà dứt, Không thể tính tức diệt. Nếu hành giả thấy sắc không thể tính, cho đến thức cũng không thể tính, thì được xa lìa sâu.

Lại 3 môn giải thoát đều duyên Nê-hoàn, vì môn giải thoát nầy có thể dứt phiền não, không còn phương tiện nào khác. Cho nên biết chỉ vô vi duyên đạo mới có thể dứt phiền não. Cho nên ông nói phương pháp dứt phiền não là việc đó không đúng.

Luận giả nói: Các phiền não có vô lượng môn phân biệt như vậy v.v…, người cầu giải thoát cần phải biết. Bởi vì sao? Vì biết đó là trói buộc là tội lỗi nên được giải thoát. Như người biết kẻ oán nên mới xa lìa được. Như biết đường hiểm nên mới tránh được. Phiền não cũng như vậy.

Lại phiền não trói buộc rất là chặt chẽ, quá hơn vua A-tu-la Tỳma-chất-đa-la, cho nên chúng sinh ở cõi Hữu Đảnh cũng vẫn thường bị phiền não trói buộc. Cho nên phải biết tội lỗi đó.

Lại chúng sinh, cho đến cõi Hữu Đảnh vẫn còn thoái đọa trở lại, là vì đều không thể thấy biết tội lỗi của phiền não.

Lại vì không dứt kết nên sinh tăng thượng mạn, tự cho mình đã dứt, sau thì nghi ngờ hối hận. Cho nên phải biết lỗi các phiền não, đừng để bị lừa gạt.

Lại nếu chúng sinh lìa bỏ cái vui tịnh diệu của Nê-hoàn, lại tham vui dục lạc tệ lậu. Hễ có vui thì đều do lỗi các phiền não. Nếu dứt các phiền não thì được lợi ích lớn. Cho nên phải biết thấy lỗi các phiền não có chướng ngại pháp giải thoát tức là phiền não. Nếu không dứt phiền não quyết không có nhân duyên giải thoát. Bởi vì sao? Vì các phiền não là nhân duyên có thân; tùy phiền não có thân, tùy thân có khổ. Cho nên người cầu lìa khổ, cần phải siêng năng tinh tiến dứt các phiền não.

Phẩm 140: THUYẾT MINH VỀ NHÂN

Hỏi: Phiền não làm nhân duyên cho thân, điều này cần phải làm rõ. Bởi vì sao? Vì có các ngoại đạo không tin điều này. Hoặc nói thân nầy không nhân không duyên, giống như cỏ cây tự nhiên sinh. Hoặc nói muôn vật là do Đại Tự Tại v.v… các Trời sinh ra. Hoặc nói muôn vật từ thể tính sinh ra. Hoặc vi trần hòa hợp sinh ra. Có những thuyết lập luận như vậy, cho nên phải nói rõ?

Đáp: Từ nghiệp có thân, việc nầy trước đã thành lập. Nghiệp đó do phiền não sinh nên lấy phiền não làm nhân duyên sinh thân.

Hỏi: Vì sao biết do phiền não mới có nghiệp?

Đáp: Tùy tâm giả danh gọi là vô minh. Tâm giả danh đó có thể nhóm các nghiệp, cho nên biết nhân duyên phiền não mới có nghiệp.

Lại A-la-hán các nghiệp không nhóm không thành, cho nên biết các nghiệp do phiền não mà thành. Như trong kinh Phật nói: Nếu người được minh, lìa vô minh, người đó có thể khởi tội nghiệp, phúc nghiệp và bất động nghiệp chăng? – Thưa không, Thế Tôn!

Lại không có nghiệp vô lậu, cho nên biết chỉ tùy giả danh có thể khởi các nghiệp. Tâm vô lậu không tùy giả danh nên không khởi nghiệp.

Lại người học nhân không hành, như kinh nói: Học nhân hoàn mà không hành, diệt mà không tác. Tướng tác là hành, hành là nghiệp.

Lại vì tâm vô lậu không phải tướng của hành, nên không có nghiệp vô lậu. Cho nên tất cả nghiệp thụ thân đều bởi phiền não sinh.

Lại người dứt phiền não không còn thụ sinh. Cho nên biết có thân đều bởi phiền não.

Hỏi: Tất cả chúng sinh đều là không phiền não, sau khi sinh mới khởi, như người khi sinh không răng, về sau mới mọc?

Đáp: Không phải vậy. Người có phiền não tùy có những tướng, nghĩa là khi mới sinh ra hiện có tiếng khóc v.v…. Cho nên biết đều cùng với phiền não cọng sinh.

Lại hiện thấy chúng sinh phần nhiều sinh trong chuồng xí v.v… chứ không sinh trên đá bàn thạch. Phải biết vì tham đắm hương vị v.v… nên mới sinh vào trong đó. Cho nên biết do phiền não mà sinh.

Hỏi: Trong địa ngục v.v… không nên sinh được. Bởi vì sao? Vì không ai tham vui gì trong địa ngục?

Đáp: Chúng sinh vì sức mạnh của ngu si, nên ở trong tâm điên đảo mà sinh, khi sắp chết xa thấy địa ngục lầm cho là ao hoa do đó tham đắm, nên sinh vào trong đó. Như trong kinh nói: Nếu người ở trong chỗ chật hẹp ồn ào mà chết thì muốn được chỗ rộng rãi là sinh trong loài chim. Nếu người chết vì khát có thể là sinh làm loài trùng trong nước. Nếu người chết vì lạnh thì sinh trong địa ngục nóng, chết nóng thì sinh trong địa ngục băng giá. Nếu tham đắm dâm dục thì sinh trong loài chim sẻ. Tham đắm ăn uống thì sinh làm loài trùng trong thây chết.

Lại bởi vì chỗ tham đắm nên gây các ác. Vì các nhân duyên ác bắt buộc phải thụ quả báo.

Lại vì tham đắm thân, nên các nghiệp có thể sinh quả báo. Bởi vì sao? Vì sức mạnh ngu si tham đắm thân mình, nên sinh các phiền não kiêu mạn v.v…. Do đó có thể tụ tập thành nghiệp, vì nghiệp nên vào trong các đạo.

Hỏi: Nếu vì nhân duyên phiền não mới có thân, Người dứt phiền não, lẽ ra 5 ấm không còn nối nhau được?

Đáp: Thân nầy gốc do phiền não mới sinh, phiền não tuy hết, nhưng vì thế lực nên thân vẫn còn không dứt. Như lấy gậy quay bánh xe, tuy tạm bỏ gậy, nhưng bánh xe vẫn còn chạy không ngừng.

Hỏi: Nếu vì thế lực phiền não nghiệp trước nên mới có thân thì những người dứt phiền não, cũng vì thế lực phiền não nghiệp trước nên cũng phải thụ thân?

Đáp: Cốt yếu là vì lấy lấy tướng nên thức mới trụ được. Người nầy hết thế lực nghiệp trước, nay khéo tu môn vô tướng giải thoát nên không thụ thân sau.

Lại như các hạt giống không sinh trên đá nóng. Như vậy lấy lửa trí tuệ làm nóng các thức xứ thì giống thức không sinh, là dứt không còn nối nhau đời sau.

Lại vì nhân duyên các hành không đầy đủ nên không còn nối nhau nữa. Như trong kinh Phật nói: Thức là hạt giống, nghiệp hành là ruộng, tham ái là nước, vô minh là che khuất. Vì nhân duyên nầy nên thụ thân sau. A-la-hán duyên nầy không đủ nên không có thân sau. Phải biết nhân duyên phiền não mà thụ sinh.

Lại người không phiền não, có tâm biết khổ v.v…. Nay những người thụ sinh không thấy có những tâm nầy. Cho nên biết người không phiền não không thể thụ sinh.

Hỏi: Tu-đà-hoàn v.v… có tâm biết khổ v.v… mà khi sinh cũng không thấy có?

Đáp: Các A-la-hán sức trí tuệ mạnh, tất cả phiền não không thể thắng nổi, nên khi mạng sắp chết ngăn được thụ sinh. Tu-đà-hoàn v.v… trí lực không bằng, cho nên không nên đem so sánh.

Lại ông nói như răng về sau dần dần mọc, phiền não cũng vậy. Việc đó không đúng. Bởi vì sao? Vì các A-la-hán dùng trí tuệ vô lậu đã đốt cháy phiền não, nên không còn thụ sinh nữa, như hạt giống bị rang cháy không còn mọc được.

Lại hiện thấy đời nay do phiền não sinh thân, như do tham dục mà thân sắc biến khác, giận dữ cũng vậy. Cho nên biết 5 ấm thân đời sau cũng do từ phiền não sinh.

Hỏi: Cũng thấy do nhân duyên uống ăn v.v… có 5 ấm sinh, mà sao không gọi uống ăn là nhân duyên thụ thân?

Đáp: Uống, ăn nương nhờ tâm mà có thể sinh sắc v.v…. Phiền não không phải như vậy.

Lại vì không chỗ nương để sinh sắc v.v…. Cho nên biết phiền não là nhân duyên thụ thân.

Lại hiện thấy chim sẻ v.v… nhiều dục, rắn độc v.v… nhiều giận, heo v.v… nhiều ngu si. Phải biết các chúng sinh đó chắc chắn đã nhóm họp dâm dục v.v… các phiền não, nên mới sinh vào trong các loại đó.

Hỏi: Pháp sinh xứ là vậy, nhưng không phải trước đã nhóm họp nhân duyên phiền não?

Đáp: Nếu như vậy thì dâm dục v.v… không có nhân, điều này không thể được. Phải biết do từ trước nhóm họp nhân duyên nên mới có.

Lại tham giận v.v… phiền não bùng phát mạnh thì gây các tội sát hại v.v…. Vì tội này nên hiện chịu các khổ roi gậy trói buộc. Phiền não, nếu mỏng thì được trì giới tu thiện, làm các điều lợi ích v.v…. Nhờ giới thiện nầy hiện được vui tiếng khen lợi dưỡng v.v…. Nếu hiện đời này suy bại lợi lạc, là đều bởi phiền não thì biết đời sau sẽ cũng như vậy.

Hỏi: Nếu do phiền não mà có thân, thì không có sinh tử qua lại. Bởi vì sao? Vì phiền não thịnh nên đọa trong ác đạo. Thân đã chịu tội, phiền não càng tăng, hẳn không nhân giải thoát. Như vậy không thể được sinh chỗ thiện. Nếu thụ thân phúc thì phúc lại tăng lên, tức không còn sinh lại chỗ ác. Như vậy thì không có sinh tử qua lại?

Đáp: Người đó tuy đọa chỗ ác, hoặc cũng có được thiện tâm, tuy sinh chỗ thiện hoặc cũng có khởi ác tâm, cho nên sinh tử qua lại không dứt.

Lại tùy tham v.v… phiền não giảm ít, theo đó mà được sinh chỗ tốt, tùy tham v.v… nhiều, theo đó mà sinh chỗ xấu, như heo chó v.v….

Người tùy theo phiền não giảm sinh chỗ tốt, như vì phiền não mỏng nên có thể tu bố thí, trì giới v.v… phúc sinh cõi trời Lục Dục, vì dứt tâm dâm dục nên được vui thắng thiền, vì dứt sắc nhiễm nên được vui thắng định, hết tất cả kết thì được vui Nê-hoàn không gì so sánh. Cho nên biết thân nầy bởi phiền não mà có.

Lại hiện thấy chúng sinh ưa cõi nước tồi tệ, và ưa ở những chỗ tồi tệ của người ác là đều do tham đắm. Cho nên biết chỗ ở của chúng sinh trong sinh tử cũng do tham đắm, như con bướm tham ánh sáng mà bị đèn đốt cháy. Sự tham đắm đó không do trí sinh. Bởi vì sao? Vì con bướm kia không biết lửa đèn là khổ xúc nên mới gieo mình vào. Cũng vậy, chúng sinh bị khổ thân sau, đều bởi nhân duyên vô minh tham ái nên mới sinh. Như cá nuốt mồi câu; hưu nai chạy theo tiếng kêu giả của người thợ săn, đều do tham đắm nên đến nỗi phải chết chóc.

Lại như người vì tham đắm nên đi đến phương xa lạ mà không thể hồi hương. Phải biết đều bởi phiền não sinh ra.

Lại như cây không nhổ rễ thì cây mọc lại. Cũng như vậy rễ tham không nhổ thì cây khổ vẫn còn. Như Phật nói: Rễ cây không nhổ, dù chặt gốc cây vẫn còn sinh. Tham sử không nhổ, thường thường chịu khổ.

Lại thân này là bất tịnh, vô thường, khổ, không, vô ngã, tự không vô minh, thì làm gì có người trí mà tham thụ khổ nầy. Giống như người mù mới có thể đem áo bẩn mà gạt là đồ quý báu. Như vậy là bị vô minh làm mù quáng, thì có thể chịu tội lỗi 5 ấm bất tịnh.

Lại bởi ngã tâm nên thụ thân, tuy khổ mà không thể rời bỏ. Nếu không có ngã tâm, thì có thể xa lìa, như Xá-lợi-phất nói: Người thanh tịnh trì giới đắc đạo, khi chết vui mừng, như phá vỡ bát thuốc độc. Cho nên biết nhân duyên phiền não mà có thân.

Lại có người vì vô trí nên tham đắm thân nầy, như lấy chiếc hộp sơn vẽ đựng đầy đồ bất tịnh, khi chưa mở nắp, thì thấy có thể yêu thích, nhưng khi mở ra thì toàn là hôi thối.

Lại như rắn độc đầy trong nhà tối, khi đèn chưa soi thì sinh lòng vui đắm, mà khi thấy thì bỏ chạy ngay. Chúng sinh cũng vậy, tùy có vô minh thì vui thế gian, nếu khi hết vô minh thì tâm chán lìa. Như vậy tham ái là căn bản của thụ thân. Bởi vì sao? Vì tham ái nên cầu. Cầu có 2 thứ là dục cầu và hữu cầu. Cầu các dục hiện tại gọi là dục cầu, lại cầu thân sau gọi là hữu cầu. Cho nên biết tham ái là gốc của sự thụ thân.

Lại nếu tham đắm 5 ấm tức sinh thân kiến. Như nói: Ngã nầy là ngã ngữ thủ. Nhân thủ nầy sinh 3 thủ khác. Thủ làm nhân duyên hữu, hữu làm nhân duyên sinh. Phải biết phiền não là căn bản của thân.

Lại thân nầy đều khổ. Với khổ thân nầy sinh tưởng điên đảo là vui. Do vui điên đảo nầy sinh ái điên đảo, vì ái điên đảo nầy mà có thể thụ thân sau. Cho nên biết nhân duyên tham ái mới có thân.

Lại thân nầy nhờ nhân duyên ăn nên mới sống còn. Đắm trước đoàn thực nên không vượt khỏi cõi Dục. Như trong Phẩm nghiệp nói tham hương vị nên sinh trong chuồng xí v.v…. Vì tham đắm xúc nên sinh trong bào thai. Vì tham đắm xúc ấm mát, nên sinh trong trứng, chỗ ướt, đều không vượt khỏi cõi Dục. Nhân 3 thứ xúc nầy mà sinh 3 thứ thụ, nên mới nói xúc làm nhân duyên thụ. Ý tư thực cũng như vậy. Phát nguyện muốn được thân đời sau rằng ta sẽ làm điều này. Không thấy biết thức là gốc tham ái, có thể khiến có thân sau. Cũng như vậy, 4 cách ăn đều do tham ái. Tất cả chúng sinh đều nhờ ăn mà sống còn, cho nên biết ái làm nhân duyên cho sinh.

Lại 4 loài sinh là sinh trứng, sinh thai, sinh bằng sự ẩm ướt, và sinh bằng biến hóa. Vì ái dâm dục nên sinh trứng sinh thai. Tham hương vị v.v… nên sinh chỗ ẩm ướt. Tùy chỗ yêu thích nên khởi nghiệp nặng nề thì thụ hóa sinh. Cho nên biết 4 loài sinh sai khác đều do tham ái.

Lại 4 thứ thụ thân có thứ có thể tự giết mà người khác không thể giết, như vậy v.v… 4 thứ đều do tham ái sai khác mà có. Cho nên biết tham ái là nhân duyên có thân.

Lại 4 thức xứ là tùy sắc thức trụ, y sắc, duyên sắc, lấy hỷ làm nhuận thấm. Thụ, tưởng, hành cũng như vậy, mà không nói thức là thức xứ, vì khi thức tỉnh là không phiền não. Cho nên biết phiền não là nhân duyên có thân.

Lại 12 nhân duyên đều do vô minh. Bởi vì sao? Vì theo tâm giả danh gọi là vô minh. Nhân vô minh nầy mới khởi nghiệp phúc hành, tội hành và bất động hành. Muốn an lạc chúng sinh gọi là phúc hành, làm khổ não chúng sinh gọi là tội hành, nhiếp tâm từ bi v.v… gọi là bất động hành. Tùy theo các hành nghiệp nầy mà thức trụ thân đời sau. Dựa vào thức sinh danh sắc, 6 nhập, xúc, thụ. Bốn chi nầy là quả báo phiền não nghiệp đời trước.

Lại nhân ái nầy sinh ái, lấy và hữu là nghiệp phiền não có thể sinh sinh, lão và tử đời sau. Như vậy 12 hữu phần nối nhau đều lấy vô minh làm gốc. Cho nên biết phiền não là nhân duyên có thân.

Lại sinh tử vô thủy, vì sao biết được? Trong kinh nói: Từ nghiệp nhân duyên mới có mắt v.v… các căn. Do ái có nghiệp, do vô minh nên có ái. Vô minh do nhớ nghĩ tà vạy, nhớ nghĩ tà vạy trở lại do mắt duyên sắc, từ si sinh. Cho nên biết sinh tử luân chuyển không có khởi đầu.

Nếu nói do trời Tự Tại v.v… thì chẳng phải vô thủy, điều này không thể được. Cho nên biết phiền não nhân duyên có thân.

Lại diệt hết phiền não thì được giải thoát.

Lại thân chúng sinh có nhiều tạp loại. Nếu do Tự Tại v.v… thì lẽ ra không tạp. Vì nghiệp phiền não có nhiều thứ nên thân cũng không phải một.

Lại 22 căn, do 6 căn sinh 6 thức. Trong đó có nam nữ căn. Các pháp nầy nối nhau không dứt nên gọi là mạng. Mạng nầy lấy gì làm căn? Đó gọi là nghiệp. Nghiệp nầy do nơi phiền não. Phiền não nương thụ, nên lấy 5 thụ làm căn. Như vậy sinh tử lần lượt nối nhau. Nương tín v.v… các căn v.v… có thể dứt sự nối nhau. Như vậy 22 căn qua lại sinh tử. Cho nên biết đều bởi phiền não có thân.

Lại người cầu giải thoát mới sinh các phẩm giới định tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Những thứ nầy dùng để làm gì? Đều để diệt các phiền não. Người trí thấy lợi ích đó nên mới dựa vào các phẩm nầy. Cho nên biết là nhân duyên phiền não có thân.

Lại các phiền não thứ lớp diệt hết. Dứt 3 kết được quả Tu-đàhoàn. Mỏng dần tham dục v.v…được quả Tư-đà-hàm. Hết kết cõi Dục được quả A-na-hàm. Trong các thiền định cũng như vậy. Thứ lớp tất cả đều hết thì chứng được quả A-la-hán. Như vậy tùy theo các phiền não thứ lớp diệt nên thân cũng dần diệt theo. Nếu thân do trời Tự Tại v.v…

thì không phải dần diệt. Cho nên biết là nhân duyên phiền não có thân.

Lại phiền não tham v.v… các người thiện đều cầu dứt diệt, vì chắc sẽ thấy nhân duyên tham v.v… đời này đời sau bị việc suy hại, cho nên cầu dứt. Nếu không như vậy thì không cầu dứt. Nếu ai nói thân là do trời Tự Tại v.v…, thì người đó cũng cầu dứt tham dục v.v…. Cho nên biết tham dục v.v… là nhân duyên có thân.

Lại người trí biết dùng trí tuệ mà được giải thoát. Có thể biết vì do vô trí nên phải trói buộc. Cho nên biết là do nhân duyên phiền não có thân.

Lại Phật nói trong các kinh: Diệt hết tham, và vui mừng mới được chính giải thoát. Bởi vì sao? Vì mắt, sắc v.v… không gọi là trói buộc, tham và vui mừng mới gọi là trói buộc. Vì phá tham và vui mừng, nên tâm được chính giải thoát. Chính giải thoát nên tâm mới có thể vào Nê-hoàn. Cho nên biết là do nhân duyên phiền não có thân.

Lại dùng không, vô tướng, vô tác mà được giải thoát. Cho nên biết là nhân duyên phiền não có thân. Bởi vì sao? Vì quán các pháp trống không, tức không có tướng có thể được. Vì diệt tướng nên không nguyện muốn thân sau. Cho nên dùng không, làm môn giải thoát. Trái lại kia là trói buộc. Vì các lẽ trên nên biết do phiền não mà có thân. Điều này thuyết minh đã rõ.

Hết nhóm Tập đế.

Phẩm 141: TRONG NHÓM DIỆT ĐẾ, TRƯỚC TIÊN LẬP GIẢ DANH

Luận giả nói: Diệt 3 thứ tâm gọi là diệt đế. Đó là giả danh tâm, pháp tâm, và không tâm.

Hỏi: Làm sao diệt 3 tâm này?

Đáp: Giả danh tâm thì hoặc dùng nhân duyên trí đa văn mà diệt, hoặc dùng nhân duyên trí tư duy mà diệt. Pháp tâm ở trong noãn pháp v.v… dùng không trí mà diệt. Không tâm thì vào Diệt tận định diệt, hoặc khi vào Nê-hoàn vô dư, khi dứt nối nhau là diệt.

Hỏi: Sao gọi giả danh?

Đáp: Bởi các ấm có phân biệt, như bởi 5 ấm nói có người, bởi sắc, hương, vị, xúc mới nói có cái bình v.v….

Hỏi: Vì sao lấy đó cho là giả danh?

Đáp: Trong kinh Phật nói: Như trục, bánh xe, hòa họp nên gọi là cái xe. Các ấm hòa họp nên gọi là người.

Lại như Phật bảo các Tì-kheo: Các pháp là vô thường, khổ, không, vô ngã. Do nhiều nhân duyên sinh, không có tính nhất định. Chỉ có tên gọi, chỉ có nghĩ nhớ và chỉ có tác dụng. Do 5 ấm nầy sinh nhiều thứ tên như là chúng sinh, người, trời, v.v…. Trong kinh đó ngăn pháp thật có, nên nói chỉ có tên gọi.

Lại Phật nói 2 đế là chân đế và tục đế. Chân đế là sắc v.v… pháp và Nê-hoàn. Tục đế là chỉ có giả danh không có tự thể. Như sắc v.v…

nhân duyên thành cái bình, nhân duyên 5 ấm thành người.

Hỏi: Nếu trong đệ nhất đế không có thế đế thì cần gì phải nói?

Đáp: Thế gian chúng sinh thụ dụng thế đế. Làm sao biết được? Như nói vẽ lửa người ta cũng tin nhận. Chư Phật, Hiền thánh muốn cho thế gian lìa bỏ giả danh, nên đem thế đế giảng nói. Như trong kinh Phật nói: Ta không tranh với thế gian, mà thế gian tranh với ta. Vì người trí không cần tranh cãi.

Lại người thời thượng cổ vì muốn dùng sự vật, nên khi vạn vật sinh thì đặt tên, như cái bình v.v…. Nếu trực tiếp pháp đó thì không thể dùng được, nên nói thế đế.

Lại nếu nói 2 đế thì Phật pháp thanh tịnh. Vì đệ nhất nghĩa đế nên người trí không hơn. Vì thế đế nên người ngu không tranh cãi.

Lại nói 2 đế thì không rơi vào đoạn, thường, không sa vào tà kiến và bên khổ bên vui, nghiệp quả báo v.v… đều có thể thành lập được.

Lại thế đế là căn bản giáo hóa của chư Phật, như bố thí trì giới được quả báo sinh chỗ thiện. Nếu lấy pháp nầy điều hòa tâm nhu thuận mới kham thụ đạo giáo, rồi sau vì nói đạo lý đệ nhất nghĩa. Như vậy Phật pháp ban đầu không sâu gấp mà giống như biển cả sâu dần dần, nên nói thế đế.

Lại nếu thành tựu được đạo trí tuệ, mới có thể vì nói thật pháp. Như Phật nghĩ rằng: Tì-kheo La-hầu-la nay đã có thể thành tựu đạo trí tuệ, sẽ vì nói thật pháp. Ví như cái ung nhọt đã chín muồi thì dễ vỡ mà chưa muồi thì khó phá. Cũng như vậy, dùng trí thế đế khiến tâm điều hòa nhu thuận, rồi sau mới lấy trí đệ nhất mà phá chấp.

Lại trong kinh nói: Trước biết phân biệt các pháp, rồi sau mới biết Nê-hoàn. Hành giả trước biết các pháp là giả danh có, hay là chân thật có? Sau mới có thể chứng diệt đế.

Lại các phiền não trước thô sau tế, lần lượt diệt hết, như lấy các tướng tóc lông diệt tướng nam nữ, lấy tướng sắc v.v… diệt tướng tóc lông. Sau mới lấy không tướng mà diệt sắc tướng v.v…, như lấy cái nêm tháo cái nêm, cho nên nói thế đế.

Lại nhờ thế đế nên được thành lý trung đạo. Bởi vì sao? Vì 5 ấm nối nhau sinh nên không dứt; niệm niệm diệt nên không thường. Lìa dứt thường này gọi là trung đạo. Như trong kinh nói: Thấy thế gian nhóm thì diệt chấp không; thấy thế gian diệt thì diệt chấp có. Vì có thế đế nên mới có thể thấy tập, thấy diệt, cho nên nói thế đế.

Lại vì thế đế nên Phật pháp đều thật. Nghĩa là có các môn có ngã không ngã. Nếu vì thế đế nên nói có ngã thì không lỗi, vì đệ nhất nghĩa nên nói không có ngã cũng là thật.

Lại vì thế đế nên có lời nạn vấn mà để đó không đáp. Nếu đứng về thật pháp thì đều có thể đáp.

Lại nếu chấp thật có chúng sinh là đại si ám. Nếu nói thật không, cũng đọa vào si ám. Bởi vì sao? Vì 2 chấp có, không, nầy là sa vào chấp đoạn thường, khiến hành giả thoát được bên có, lại rơi vào bên không. Nếu không có thế đế thì do đâu được ra khỏi?

Lại nếu người chưa được trí tuệ chân không, mà nói không có chúng sinh, vậy là tà kiến, vì không chúng sinh chịu sinh tử, nên gọi tà kiến. Nếu được không trí, nói không chúng sinh thì không lỗi. Như trong kinh nói: A-la-hán Tì-kheo-ni hỏi ác ma rằng: Ngươi lấy gì cho là chúng sinh? Chỉ có nhóm 5 ấm trống không, thật không có chúng sinh.

Lại nói thân này 5 ấm nối nhau, trống không, không có gì cả, như trò ảo hóa dối gạt phàm phu, gọi là oán là giặc, như mũi tên, như ung nhọt, khổ, không, vô ngã, chỉ là tướng sinh diệt bại hoại.

Hỏi: Đều là tâm không có gì cả, mà vì sao gọi là tà kiến, hoặc gọi đệ nhất nghĩa?

Đáp: Nếu người chưa sinh trí tuệ chân không, vì có ngã tâm nên nghe nói vô ngã liền sinh khiếp sợ. Như Phật nói: Nếu phàm phu nghe không, vô ngã, thì rất kinh sợ không còn làm gì nữa. Cho nên biết chưa được không trí, vì có ngã tâm nên khiếp sợ Nê-hoàn, vậy là tà kiến. Được trí chân không, biết bản lai không, thì không e sợ.

Lại người này chưa được chân không mà thấy không có gì thì đọa ác kiến, tức là đoạn kiến, tà kiến. Nếu người đó trước nhờ thế đế nên biết có ngã, tin nghiệp quả báo, sau quán tướng các pháp vô thường sinh diệt, dần dần chứng được diệt. Không còn ngã tâm thì diệt tâm tham. Nếu nghe nói không có gì, thì không tội lỗi nên nói thế đế.

Lại có ngoại đạo chê Phật là Sa-môn Cù-đàm phá chân thật Thần. Cho nên Phật nói: Ta dùng thế đế nói có chúng sinh. Ta biết rõ trong chính kiến nói có chúng sinh qua lại sinh tử. Đó gọi là chính kiến. Chỉ vì phàm phu tà niệm nên trong cái thật không chúng sinh, mà nói là thật có, nên chỉ phá tà niệm nầy mà không phá chúng sinh. Như cái bình v.v… là lấy giả danh mà nói. Trong đó không phải sắc v.v… là cái bình, không phải rời sắc v.v… riêng có cái bình. Cũng như vậy, không phải sắc v.v… các ấm là chúng sinh, cũng không phải rời sắc v.v… các ấm riêng có chúng sinh. Như do sắc v.v… quá giả danh, cũng như vậy lấy tướng diệt quá sắc v.v…, lấy thí dụ khiến nghĩa dễ hiểu. Cũng như cái đèn vẽ, cũng gọi là cái đèn, mà thật không có công dụng của cái đèn. Như vậy tuy nói có cái bình, mà không phải thật có, tuy nói 5 ấm mà không phải đệ nhất nghĩa.

Phẩm 142: TƯỚNG CỦA GIẢ DANH

Hỏi: Làm sao biết các vật như cái bình v.v… là giả danh mà có, không phải chân thật?

Đáp: Trong giả danh, hiển thị cái tướng, trong chân thật, không hiển thị tướng. Như nói sắc nầy là sắc của cái bình, không nói được là sắc của sắc, cũng không nói được là thụ v.v… của sắc.

Lại đèn vì dụng cụ của sắc có thể soi, dụng cụ của xúc có thể đốt. Thật pháp không thấy như vậy. Bởi vì sao? Vì thức không vì khác dụng cụ thức, thụ cũng không vì khác dụng cụ thụ. Cho nên biết có dụng cụ là giả danh có.

Lại nhân pháp khác mà thành tên, giả danh là có, như nhân sắc v.v… thành cái bình. Thật pháp thì không nhân pháp khác mà thành. Bởi vì sao? Vì như thụ không nhân pháp khác mà thành.

Lại giả danh có nhiều sở năng, như đèn có thể soi có thể đốt. Thật pháp không thấy như vậy. Bởi vì sao? Vì như thụ không thể vừa thụ vừa thức.

Lại tên cái xe ở trong bánh xe, trục xe v.v…. mà tên gọi sắc v.v… không ở trong vật. Có sai khác như vậy.

Lại bánh xe, trục xe v.v… là nhân duyên thành cái xe, trong đó không có tên cái xe. Vậy thì trong nhân duyên cái xe không có pháp cái xe, mà chỉ nhờ đó thành xe. Cho nên biết cái xe là giả danh.

Lại như vì tên gọi sắc v.v… được nói là sắc v.v…, mà tên gọi cái bình v.v… không được nói cái bình v.v…. Cho nên biết cái bình v.v… là giả danh.

Lại có trong giả danh tâm động không định. Như người thấy con ngựa, hoặc nói thấy đuôi con ngựa, hoặc nói thấy thân con ngựa, hoặc nói thấy da, hoặc nói thấy lông. Hoặc nói nghe tiếng đàn tranh, hoặc nói nghe tiếng đàn huyền. Hoặc nói ngửi hoa, hoặc nói ngửi mùi thơm của hoa. Hoặc nói nếm bơ, hoặc nói nếm vị bơ. Hoặc nói chạm phải người, hoặc nói chạm thân người, hoặc nói chạm cánh tay người, hoặc nói chạm tay người, hoặc nói chạm ngón tay người, hoặc nói chạm đốt ngón tay. Ý thức đối với trong chúng sinh v.v… động, bảo thân là chúng sinh, tâm là chúng sinh. Sắc v.v… là cái bình, rời sắc v.v… có bình. Như vậy v.v… trong thật pháp tâm định không động. Không được nói tôi thấy sắc cũng thấy tiếng v.v….

Lại trong pháp khả tri v.v… bất khả thuyết cũng gọi là có, vì đó là giả danh như cái bình, cho nên biết cái bình v.v… là giả danh có. Bởi vì sao? Vì các pháp như sắc v.v… không gọi là bất khả thuyết trong các pháp khả tri v.v…

Lại như pháp sắc v.v… là tự tướng khả thuyết mà cái bình v.v… là tự tướng bất khả thuyết. Cho nên biết là giả danh có.

Hoặc có thuyết nói tướng giả danh là tướng ở những chỗ khác, không ở trong giả danh. Như trong kinh nói: Nghiệp là trí, tướng là chẳng có trí. Nếu thân khẩu ý có thể khởi nghiệp thiện gọi là trí, mà thân khẩu ý khởi nghiệp bất thiện gọi là chẳng phải trí. Thân nghiệp khẩu nghiệp nương 4 đại, ý nghiệp nương tâm. Ba việc nầy vì sao gọi là tướng của trí, tướng của chẳng phải trí? Cho nên biết giả danh không có tự tướng.

Lại tướng giả danh tuy ở các chỗ khác cũng không phải một. Như nói người chịu khổ não như mũi nhọn đâm vào tâm não hoại là sắc tướng.

Lại thụ là thụ tướng, cũng đối với người mà nói. Như Phật nói: Người trí người ngu đều thụ khổ vui mà người trí trong khổ vui không sinh tham giận, lấy nhiều ít v.v…Tướng là tướng tưởng, cũng đối với người mà nói. Như nói tôi thấy ánh sáng, thấy sắc tác khởi, đó là tướng của hành. Cũng với người mà nói. Như nói người nầy khởi tác phúc hành, cũng khởi tội hành và bất động hành. Thức là thức tướng, cũng với người mà nói, như nói người trí biết pháp như lưỡi nếm vị. Cho nên nếu ở các chỗ khác mà nói cũng có nhiều tướng là tướng giả danh. Tướng sắc v.v… không ở các chỗ khác, cũng không nhiều tướng.

Lại nếu pháp bị tất cả thứ sử sai khiến, là giả danh có. Thật pháp không bị sử sai khiến, vì các sử sai khiến người.

Lại trong giả danh không sinh biết, mà trong sắc v.v… trước sinh biết, sau do tà tưởng phân biệt nói tôi thấy cái bình v.v….

Lại trong cái bình, cái biết cần đợi sắc v.v…. Bởi vì sao? Vì nhân sắc, hương, vị, xúc mới gọi là cái bình, mà cái biết trong thật pháp lại không cần đợi gì cả.

Lại trong giả danh sinh nghi, như nghi là thân cây trơ trụi, hay là con người? Mà trong sắc v.v… không sinh nghi là sắc hay là thanh.

Hỏi: Trong sắc v.v… cũng có nghi là có sắc hay không có sắc?

Đáp: Không phải vậy. Nếu thấy sắc quyết chắc thì không nghi là âm thanh.

Lại vì các nhân duyên khác nên mới nghi có sắc không sắc. Như nghe nói sắc không mà lại thấy sắc thì sinh nghi nói là có hay là không. Nếu thấy được diệt đế thì nghi nầy liền dứt.

Hỏi: Trong diệt đế cũng có nghi là có diệt hay là không diệt?

Đáp: Trong sở chấp sinh nghi chứ không phải trong diệt đế. Như nghe chấp có diệt, cũng chấp không diệt, trong đó sinh nghi là có hay là không. Người nầy bấy giờ không thấy diệt đế. Bởi vì sao? Vì người thấy diệt đế không còn nghi. Cho nên biết chỗ sinh nghi là giả danh có.

Lại trong một vật được sinh nhiều nhận thức. Đó là giả danh có, như bình v.v…. Trong thật pháp không có như vậy. Bởi vì sao? Vì trong sắc không sinh nhĩ thức v.v…

Lại nhiếp thuộc nhiều nhập là giả danh có, như cái bình v.v…. Cho nên có người nói giả danh gồm có 4 nhập. Thật pháp không được nhiếp thuộc nhiều nhập.

Lại nếu không tự thể mà có thể có tạo tác là giả danh có. Như nói người tạo tác mà thể của người và thể của nghiệp không thể được.

Lại có bao nhiêu phân biệt là người oán người thân v.v…, đều là giả danh chứ không phải thật pháp có. Bởi vì sao? Vì nếu chỉ thẳng ở trong pháp sắc v.v… thì không sinh tưởng người oan người thân gì cả.

Lại đi lại v.v…, đoạn hoại v.v…, đốt nát v.v… có bao nhiêu việc ra làm, đều là giả danh không phải thật pháp mà có. Bởi vì sao? Vì thật pháp không đốt, không phá hoại.

Lại các nghiệp tội phúc đều giả danh có. Bởi vì sao? Vì sát sinh v.v… là tội, mà lìa sát sinh v.v… là phúc, đều không phải thật có.

Lại giả danh có đối đãi nhau mới thành, như đây kia, nhẹ nặng, dài ngắn, lớn nhỏ, thầy trò, cha con và sang hèn v.v…. Thật pháp không có đối đãi mà thành. Bởi vì sao? Vì sắc không đợi các vật khác để thành âm thanh v.v….

Lại không nhờ không, mà phá là giả danh có, như dựa vào cây phá rừng, dựa vào gốc rễ phá cây, dựa vào sắc v.v… phá gốc rễ. Nếu lấy không mà phá là thật pháp có. Như sắc v.v… cần lấy không mà phá.

Lại tùy không hành xứ là giả danh có. Tùy vô ngã hành xứ là thật pháp có.

Lại có 4 lối lập luận: 1. Một. 2. Khác; 3. Bất khả thuyết. 4. Không. Bốn thứ lập luận này đều có lỗi. Cho nên biết cái bình v.v… là giả danh có. Một, là sắc, hương, vị, xúc tức là cái bình. Khác, là lìa sắc v.v… riêng có cái bình. Bất khả thuyết, là không thể nói sắc v.v… là cái bình, hay lìa sắc v.v… riêng có cái bình. Không, là không có cái bình nầy. Bốn lối lập luận nầy đều không đúng. Cho nên biết cái bình là giả danh.

Phẩm 143: PHÁ CHẤP CHO LÀ MỘT

Hỏi: Chấp này trong 4 lối lập luận có lỗi gì?

Đáp: Lỗi lập luận cho là một, là sắc v.v… các pháp, tướng đều sai biệt.

Nếu là một, thì cái bình không có được.

Lại sắc v.v… mỗi mỗi không gọi là địa, thì hòa hợp lại làm sao thành địa được? Bởi vì sao? Vì như mỗi mỗi con ngựa không gọi là con bò, thì hợp lại làm sao thành bò được?

Hỏi: Như mỗi mỗi hạt mè không thể thành đống mè, mà hòa hợp là có thể thành đống mè. Như vậy sắc v.v… mỗi mỗi không thể thành địa, mà hòa hợp lại thì thành?

Đáp: Không phải vậy. Bởi vì sao? Vì đống mè là giả danh có, còn lập luận cho là một v.v… là luận trong thật pháp, làm sao đem ví dụ được!

Lại sắc, hương, vị, xúc là 4 pháp, mà địa là 1 pháp, 4 không phải là 1. Nếu 4 là 1 thì 1 cũng phải là 4? Việc đó không thể được. Cho nên biết sắc v.v… không tức là địa.

Lại thế gian đều nói địa sắc, địa hương, địa vị, địa xúc, mà không thấy nói là sắc sắc, mà cần lấy pháp khác để chỉ cho nhau, như nói nhà người nào đó v.v….

Hỏi: Đó không lấy pháp khác chỉ cho nhau, mà tức lấy tự pháp tự chỉ, như tay chân người bằng đá. Bởi vì sao? Vì lìa tay chân lại không có người đá. Như vậy tuy không lìa sắc v.v… là địa, mà cũng lấy tự thể tự chỉ, đâu có lỗi gì?

Đáp: Nếu nói địa lấy sắc v.v… tự hiển thị là không có lý nầy. Ông tuy nói thí dụ người đá, nhưng thí dụ nầy không đúng. Bởi vì sao? Vì như khi chỉ tay người đá, phải lấy các thân phần khác mới thành người đá.

Lại giữa hư không cũng nói có, như khi nói thân người đá, bấy giờ người đá lại không còn có nữa, mà cũng nói được. Như Phật nói trong thân này có tóc lông máu thịt v.v…, lìa tóc đây v.v… lại không có thân. Chỗ nương ở của tóc nầy v.v… tuy không có chỗ nương riêng mà cũng có thể nói. Cho nên biết nói người đá cũng là nói không đúng. Nếu ông cho người đá thành địa, cũng không thành địa được. Trong kinh của ông nói có sắc, hương, vị, xúc là địa. Địa nầy tức không phải như thân, cho nên biết sắc, hương, vị, xúc không phải là địa.

Lại trong các cầu-na không thể hiển thị cho nhau được, vì không được nói sắc này có hương, mà chỉ nói địa có sắc, hương, vị, xúc. Cho nên biết không phải là một.

Lại sắc tâm v.v… với địa tâm đều khác. Cho nên biết sắc v.v… không phải địa.

Lại sắc v.v… tên khác, địa tên cũng khác.

Hỏi: Tâm khác, tên khác, đều ở trong hòa hợp mà có khác?

Đáp: Nếu tâm và tên chỉ là hòa họp mới có, mà hòa họp chỉ là tên gọi. Vậy thì địa chỉ có tên gọi, không thể luận là một.

Lại địa có thể lấy tất cả căn mà biết. Làm sao biết được? Vì có người nghĩ như vầy: Ta thấy địa, ngửi địa, nếm địa và chạm xúc địa. Nếu sắc, hương, vị, xúc là địa, thì không nên chỉ trong sắc sinh tưởng về địa mà bảo là ta thấy địa. Hưong v.v… cũng như vậy, mà thật chỉ trong sắc mới sinh tưởng về địa. Cho nên biết không phải sắc v.v… là địa. Chỉ nhờ nhân duyên tên gọi, trong một phần cũng có thể nói tên gọi giả danh. Như người chặt cây, cũng nói chặt cây, cũng nói chặt rừng.

Lại bên các cầu-na khác với đà-la-phiêu. Trong đó có bao nhiêu nhân duyên, vì nhân duyên đó mà không thành luận cho là một.

Lại người phái Tăng-khư nói 5 cầu-na là địa. Đó cũng không đúng. Bởi vì sao? Vì như trước đã nói tiếng lìa sắc v.v… niệm niệm diệt, rồi nối nhau sinh lại, mà không phải nhân để thành 4 đại. Cho nên biết không phải tất cả 4 đại đều có âm thanh.

Phẩm 144: PHÁ CHẤP CHO LÀ KHÁC

Hỏi: Trong lập luận chủ trương cho là khác có những lỗi gì?

Đáp: Lìa pháp sắc v.v… lại không còn địa. Làm sao biết được? Vì không lìa sắc, hương, vị, xúc sinh tâm biết địa, chỉ trong pháp sắc v.v… mà sinh tâm. Bởi vì sao? Vì như sắc khác, thanh v.v… khác, không đợi thanh v.v… mà sinh tâm biết sắc. Nếu lìa sắc v.v… riêng có địa thì cũng nên không đợi sắc v.v… sinh tâm biết địa. Mà thật không phải không đợi. Cho nên không riêng có địa.

Hỏi: Không phải không đợi các pháp khác, cần đợi sắc tướng mới sinh tâm biết sắc?

Đáp: Đến Phẩm phá tướng chung sẽ nói. Lìa sắc không riêng có sắc tướng, cho nên không phải vậy.

Lại khác với pháp địa v.v… không căn có thể biết. Cho nên biết không riêng có địa v.v….

Hỏi: Địa v.v… dùng 2 căn có thể lấy, là thân căn và nhãn căn. Vì sao biết được? Vì mắt thấy biết là cái bình, hoặc lấy thân căn chạm xúc cũng biết là cái bình. Cho nên ông nói không căn lấy địa. Điều này không đúng?

Đáp: Nếu như vậy thì cái bình là 4 căn lấy, nghĩa là cũng dùng tĩ căn ngửi đất bùn, thiệt căn nếm đất bùn.

Hỏi: Tĩ căn thiệt căn không thể thủ lấy cái bình. Bởi vì sao? Vì trong tối không thể phân biệt là ngửi cái bình hay ngửi cái chậu, nếm cái bình, hay nếm cái chậu?

Đáp: Tuy không thể phân biệt là cái bình hay cái chậu, nhưng ở trong đất bùn sinh biết là ngửi bùn nếm bùn.

Lại nếu chôn cái bình để ló miệng, hoặc thấy, hoặc chạm không thể biết chắc là cái bình hay là cái vò hay là miếng sành. Cho nên biết nhãn căn thân căn cũng không thể thủ lấy được cái bình.

Lại trong tối tuy sinh tâm biết cái bình, mà không thể phân biệt là cái bình vàng hay bình bạc. Cho nên biết nhãn căn thân căn cũng không thể thủ lấy được cái bình.

Lại tĩ căn thiệt căn có thể lấy được các pháp như hoa quả bơ sữa v.v… , mà nhãn căn thân căn thì không thể lấy được. Như thấy hoa v.v… không thể phân biệt biết thơm, hôi, tốt, xấu và ngọt, chua v.v…. Cho nên nếu bảo nhãn căn thân căn biết đà-la-phiêu, mà tĩ căn thiệt căn không biết là không có chuyện đó. Như tĩ căn thiệt căn không thể khác với đà-la-phiêu mà vẫn riêng có phân biệt. Nhãn căn thân căn cũng như vậy, tuy không khác với đà-la-phiêu mà cũng phân biệt được.

Lại trong 5 căn không có lấy giả danh mà biết. Cho nên biết giả danh không phải sở đắc của các căn mắt, thân, mũi, lưỡi, mà trong căn thứ 6 có biết giả danh. Bởi vì sao? Vì ý thức có thể duyên tất cả pháp.

Lại nếu mắt có thể thấy sắc, mà cũng thấy phi sắc, thì lẽ ra cũng phải có thể thấy được âm thanh v.v…? Nếu vậy thì không còn cần tai v.v… các căn. Việc đó không thể được. Cho nên không đem nhãn căn thân căn lấy đà-la-phiêu.

Hỏi: Do sắc mới rõ đà-la-phiêu thì mắt có thể thấy, chứ không phải tất cả những gì khác với sắc pháp đều có thể thấy.

Đáp: Do sắc nên rõ cái bình, việc đó không đúng. Bởi vì sao? Vì cái gì làm ra sắc của cái bình chỉ là hòa hợp. Cho nên không phải sắc làm rõ cái bình.

Lại nếu vì pháp có thể thấy rõ các pháp khác, khiến có thể thấy là vì cái bình v.v… pháp không thể thấy rõ sắc, sắc cũng phải là không thể thấy.

Lại cái bình cần 2 thứ là vừa có thể thấy vừa không thể thấy. Vì là pháp có thể thấy, vừa không thể thấy rõ.

Lại nếu cần vì pháp sắc v.v… rõ, nên nhãn căn v.v… có thể biết, thì sắc tướng không nên là cái bị biết của nhãn căn. Bởi vì sao? Vì pháp của ông do sắc tướng nên sắc mới có thể thấy. Sắc tướng nầy lại không có tướng. Vậy thì sắc tướng lẽ ra không thể thấy. Cho nên không đúng.

Lại nếu vì sắc rõ nên có thể thấy, thì các căn đều phải biết Đàla-phiêu; nhĩ căn cũng phải biết hư không, vì âm thanh rõ.

Lại người phải lấy thân căn biết gió, vì xúc rõ, mà pháp của ông không phải như vậy. Cho nên không có pháp rõ nầy.

Hỏi: Các pháp khác cũng không thể làm rõ, chỉ sắc có thể làm rõ?

Đáp: Không phải vậy. Trong đó không có nhân duyên chỉ nói sắc có thể làm rõ, mà các pháp khác lại không thể. Như ông nói đàla-phiêu lớn nhiều, trong đó sắc có thể thấy. Như vậy thì nhân sắc nên được sắc, lẽ ra phải lấy sắc tướng để rõ sắc, rồi sau mới có thể được, không chỉ có sắc có thể làm rõ. Nếu nói như vậy cũng không tránh khỏi lỗi như trước.

Lại khi khác thời sinh tâm biết sắc thì khác thời sinh tâm biết cái bình. Cho nên dù cho sắc có thể rõ, đối với cái bình có ích gì?

Lại như người mù vì quen thuộc với cái bình, nên tuy mất nhãn căn, chỉ cần chạm xúc cũng biết cái bình. Cho nên không phải chỉ có sắc có thể làm nhân cho thấy.

Lại người mù thân căn cũng có thể biết gió, cho nên không phải chỉ sắc rõ, mới có thể sinh tâm biết.

Lại trong kinh của ông cũng nói cái xúc đến chạm xúc thân không phải là địa, thủy, hỏa. Phải biết cái tướng không thể thấy đó là gió. Đó cũng không đúng. Bởi vì sao? Vì người mù khi biết gió nầy, cũng không biết cái xúc nầy là có thể thấy hay không thể thấy.

Lại người mắt thấy các pháp số lượng, trong đó không có cái biết về sắc, có nghe hương cũng biết được pháp không phải hương, nếm vị cũng có thể biết được pháp không phải vị. Cho nên phải do sắc rõ đà-la-phiêu, rồi sau mới biết được. Việc đó không đúng.

Hỏi: Nếu sắc rõ trong cái thấy không phải nhân, nếu số lượng các pháp, ở trong đà-la-phiêu không thể thấy và gió lẽ ra cũng thấy được?

Đáp: Pháp của tôi, lìa sắc thì không còn có pháp nào có thể thấy được. Cho nên tùy trong pháp nào đó có sắc sinh thì mắt có thể thấy. Mắt đã thấy sắc rồi tức sinh tưởng cái bình. Nếu trong pháp không sắc sinh, thì trong đó dù có mắt vẫn không sinh tưởng có khác với cái bình. Cho nên, nếu lìa sắc v.v… riêng có cái bình là không có lý lẽ nầy.

Phẩm 145: PHÁ CHẤP CHO LÀ BẤT KHẢ THUYẾT

Hỏi: Trong lập luận cho là bất khả thuyết có những lỗi gì?

Đáp: Thật pháp không có trong các lập luận cho là một, là khác, là bất khả thuyết. Bởi vì sao? Vì không có nhân duyên thí dụ cho rằng cái biết này là bất khả thuyết. Vì sắc v.v… pháp thật có, nên không phải bất khả thuyết.

Lại các pháp đều có tướng của chính nó, như não hoại là tướng của sắc mà không có tướng nào khác, sao gọi là bất khả thuyết?

Lại tùy nhận thức sai khác nên pháp mới có sai khác, như dùng nhãn thức biết màu sắc, không biết âm thanh v.v…. Cho nên trong đó không có cái gọi là bất khả thuyết.

Lại sắc là nhiếp thuộc về sắc nhập, không phải nhiếp thuộc về thanh v.v…. Nếu ông muốn cho có cái bất khả thuyết đó, thì sắc nầy là sắc khả thuyết, hay sắc nầy là phi sắc bất khả thuyết? Thanh v.v… cũng như vậy.

Lại các pháp có số thứ lớp, nếu là bất khả thuyết, thì các pháp không có số. Bởi vì sao? Vì thứ nhất thứ hai không có khác nhau. Cho nên biết thật sự không có pháp gọi là bất khả thuyết.

Chỉ ở trong giả danh gọi là một, là khác, nên mới nói là bất khả thuyết.

Phẩm 146: PHÁ CHẤP KHÔNG

Hỏi: Trong lập luận cho là không, thì có những lỗi gì?

Đáp: Nếu không thì không có quả báo tội phúc v.v…, không có tất cả các pháp trói buộc, giải thoát v.v…

Lại nếu chấp không, không có gì hết, thì cái chấp đó cũng không có nốt, bởi không có ai nói điều đó và không có ai nghe điều đó.

Lại lập luận có, không v.v… đều bởi tin mới nói. Hoặc tin do hiện thấy biết, hoặc tin do so sánh biết, hoặc theo kinh sách mà biết. Nếu nói không có gì hết, thì không ở trong 3 trường hợp nầy.

Ý ông hoặc bảo tôi theo kinh sách. Điều này cũng không đúng. Vì ý trong kinh sách cũng khó hiểu. Hoặc khi nói có, hoặc khi nói không, làm sao tin được? Nếu tin do so sánh biết, thì trước phải hiện thấy rồi sau mới so sánh biết.

Lại pháp cái bình v.v… nay hiện thấy có, vì có thể sinh tâm biết.

Tùy có thể sinh tâm thì pháp nầy có, nên chẳng phải không.

Lại nay cái bình, cái chậu v.v… hiện có sai khác, nếu tất cả là không, thì đâu có sai khác? Ý ông hoặc bảo vì tà tưởng nên có phân biệt đó. Vậy sao không ở giữa hư không mà phân biệt cái bình v.v….

Lại nếu ông bảo vì si nên sinh tâm biết vật đó. Nếu tất cả là không, thì cái si nầy cũng không, lấy đâu mà khởi?

Lại ý ông bảo tất cả pháp là không, thì biết do duyên nào mà sinh? Các cái biết không lẽ không có duyên mà sinh? Vì biết vật nên gọi là biết. Cho nên biết không nên nói không.

Lại nếu là đều không, thì nay tất cả người đời đều tùy ý ra làm. Những người thiện đều vui các pháp thiện như bố thí trì giới nhẫn nhục, xa lìa các pháp bất thiện. Cho nên biết chẳng phải không.

Lại pháp cái bình v.v… hiện nay có thể biết, mà ông nói hiện tại đều không có. Nếu không có pháp thì cũng không nên tin kinh sách. Vậy do nhân duyên gì mà nói tất cả không? Tất cả không, việc này cần phải thuyết minh. Nếu không thể dùng nhân duyên để thuyết minh, thì chỗ chấp của người ta tự nhiên phải được thành lập. Luận của người ta được thành lập, thì pháp của ông phải bị phá. Nếu có nhân duyên có thể thành, thì không gọi là không.

Phẩm 147: THÀNH LẬP KHÔNG

Người lập luận cho là không, nói: Tuy ông dùng ngôn thuyết phá không, nhưng thật sự các pháp không có, vì các căn trần đều không thể được. Bởi vì sao? Vì trong các pháp không có hữu phần có thể lấy. Cho nên tất cả pháp là không thể lấy, vì không thể lấy cho nên là không. Nếu ông bảo hữu phần tuy không thể lấy, nhưng các phần có thể lấy. Điều này không đúng. Trong các phần không sinh tâm. Bởi vì sao? Vì các vật thô như cái bình v.v… là có thể lấy.

Lại phần không làm hữu phần. Bởi vì sao? Vì nhân hữu phần nên mới nói phần, mà hữu phần là không, nên phần cũng không.

Lại đà-la-phiêu, cầu-na không phần, cho nên không phần.

Lại nếu thấy phần vi tế, thì phải thường sinh phần tâm, mà không sinh tâm biết cái bình. Bởi vì sao? Vì nếu thường nghĩ phần, thì phải hoàn toàn không sinh tâm biết cái bình.

Lại nếu trước nhớ phần, sau sinh tâm biết cái bình, thì tâm biết cái bình phải lâu mới sinh, mà thật không phải lâu mới sinh, cho nên không nghĩ nhớ phần.

Lại nếu thấy cái bình không sinh tâm phần phân biệt, tức sinh tâm biết bình.

Lại không có tất cả phần. Bởi vì sao? Vì tất cả phần đều có thể chia tách tan nát cho đến thành vi trần, rồi mới phá vi trần chung qui đều không có.

Lại tất cả các pháp rốt ráo ắt sinh không trí. Cho nên trong đệ nhất nghĩa các phần đều không.

Lại nếu nói phần, thì phá 2 đế lý. Bởi vì sao? Vì ai nói không có hữu phần mà chỉ có các phần, thì không có các nghiệp khứ, lai, kiến, đoạn v.v… . Như vậy là không có thế đế. Ông cho đệ nhất nghĩa là không. Trong đệ nhất nghĩa cũng không có các phần. Cho nên biết chỉ nói các phần thì không vào 2 đế. Mà vi không vào trong 2 đế nên không có.

Lại nếu pháp có thể vượt qua tức là không có, như nhân phần vượt qua hữu phần rồi cũng lại nhân các phần khác vượt qua phần trước. Vì có thể qua nên không có phần luận nầy.

Lại sắc v.v… cũng không. Bởi vì sao? Vì mắt không thể thấy sắc vi tế, ý không thể lấy sắc hiện tại. Cho nên sắc không thể lấy được.

Lại nhãn thức không thể phân biệt sắc nầy. Ý thức ở quá khứ, không ở trong sắc, nên không có khả năng phân biệt được sắc. Vì không phân biệt, nên sắc không thể lấy.

Lại thức đầu tiên không thể phân biệt sắc, thì thức thứ hai v.v… cũng như vậy. Cho nên không có khả năng phân biệt được sắc.

Hỏi: Nhãn thức lấy sắc, rồi sau mới đem ý thức nghĩ nhớ, cho nên chẳng phải không phân biệt?

Đáp: Nhãn thức thấy sắc xong liền diệt, kế đó mới sinh ý thức. Ý thức nầy không thấy sắc. Không thấy làm sao có thể nhớ? Nếu không thấy mà có thể nhớ, thì người mù cũng phải nhớ sắc, mà thật ra không nhớ? Cho nên ý thức không thể nhớ.

Hỏi: Từ nhãn thức sinh ý thức, cho nên có thể nghĩ nhớ?

Đáp: Không phải vậy. Bởi vì sao? Vì tất cả tâm sau, đều nhân nhãn thức sinh. Vậy thì lẽ ra đều có thể nhớ?

Lại quyết không được quên, vì từ nó sinh, mà thật không phải như vậy. Cho nên biết ý thức cũng không thể nhớ. Như nhớ hư vọng, lấy sắc cái bình v.v… vạn vật cũng đều hư dối, không mà vọng lấy. Cho nên không có tất cả vật.

Lại nếu nói mắt thấy là đến sắc thấy hay không đến mà có thể thấy? Nếu đến thì không thể thấy, vì mắt không có tướng đi. Điều này trước đã nói rõ. Nếu không đến mà thấy lẽ ra phải thấy sắc tất cả các nơi. Mà thật ra là không thấy. Cho nên biết chẳng phải không đến có thể thấy.

Hỏi: Sắc ở cảnh bị biết thì mắt có thể thấy?

Đáp: Cảnh bị biết là thế nào?

Hỏi: Tùy khi mắt có thể thấy gọi là cảnh biết?

Đáp: Nếu mắt không đến cũng gọi là cảnh biết, thì sắc tất cả chỗ phải đều là cảnh biết. Cho nên đến và không đến đều không thể thấy. Cho nên biết sắc là không thể thấy.

Lại nếu trước có mắt và sắc, sau nhãn thức mới sinh, thì nhãn thức nầy không chỗ nương và duyên. Nếu đồng thời thì không gọi mắt và sắc làm nhân duyên sinh thức, vì đồng thời không làm nhân cho nhau được.

Lại mắt là 4 đại, nếu mắt có thể thấy, thì tai v.v… lẽ ra cũng có thể thấy, vì đồng là 4 đại. Sắc cũng như vậy.

Lại nhãn thức nầy nên hoặc có chỗ, hoặc không chỗ cả hai đều có lỗi. Bởi vì sao? Vì nếu nhãn thức nương vào mắt thì có chỗ, nếu vật không chỗ thì không nương đâu được. Nếu ông bảo thức sinh một chỗ phần ít nơi mắt, hoặc khắp sinh, hoặc trong 2 mắt đồng thời sinh thức thì có chỗ. Mà có chỗ tức là hữu phần. Như vậy thì do nhiều thức, mà thành một thức. Có những lỗi như vậy, và cũng có lỗi nhiều thức đồng thời sinh.

Lại mỗi mỗi phần thức không thể biết được hữu phần đó, mà lẽ ra phải biết. Mà thật ra là không có hữu phần. Có những lỗi như vậy. Nếu không chỗ thì không nên nương mắt.

Phẩm 148: PHÁ CHẤP VỀ ÂM THANH

Người nói không, nói: Một lời cũng không có. Bởi vì sao? Vì tâm niệm niệm diệt, âm thanh cũng niệm niệm diệt. Như nói Phúlâu-sa, lời nầy không thể nghe. Bởi vì sao? Vì vừa nghe Phú thì thức không nghe Lâu, nghe Lâu thì thức không nghe Sa. Không có một thức có thể lấy cả 3 lời. Cho nên không có thức có thể lấy một lời. Cho nên biết âm thanh không thể nghe.

Lại tản tâm nghe tiếng, định tâm không thể nghe, vì sở tri của định tâm là thật. Cho nên tiếng không thể nghe.

Lại tiếng nầy, hoặc đến hoặc không đến đều không thể nghe, vì không thể nghe nên không tiếng.

Lại có người nói: Tai là tính của hư không, vì nó không vật nên gọi hư không. Cho nên không tai. Không tai nên không tiếng.

Lại nhân duyên của tiếng là không. Cho nên không tiếng. Nhân duyên của tiếng là các đại hòa hợp, pháp hòa hợp này là không thể được. Bởi vì sao? Vì nếu thể của các pháp có khác thì không hòa hợp. Nếu thể không khác làm sao tự hợp. Dù ở một chỗ cũng niệm niệm diệt. Cho nên hòa hợp không được.

Phẩm 149: PHÁ CHẤP VỀ HƯƠNG VỊ XÚC

Hương không thể lấy. Bởi vì sao? Vì tĩ thức không thể phân biệt là hương Chiêm-bặc hay các thứ hương khác. Ý thức không thể nghe hương, cho nên ý thức cũng không thể phân biệt là hương Chiêm-bặc.

Hỏi: Tuy không thể phân biệt là hương Chiêm-bặc, nhưng có thể lấy hương?

Đáp: Không phải vậy. Như người không được cây Chiêm-bặc, vì ngu si nên tâm sinh cây Chiêm-bặc. Như vậy không được cái thể của hương, vì ngu si nên sinh tâm hương.

Lại như trước đã nói hương hoặc đến, không đến mà lấy, hai lẽ đều có lỗi. Cho nên không hương. Vị cũng như vậy. Xúc cũng không. Bởi vì sao? Vì trong phần vi trần v.v… còn không sinh biết xúc, như trước đã nói. Cho nên không có xúc.

Phẩm 150: PHÁ CHẤP VỀ Ý THỨC

Ý thức cũng không thể lấy pháp. Bởi vì sao? Vì ý thức không thể lấy sắc hương vị xúc ở hiện tại, như trước đã nói quá khứ vị lai thì không có. Cho nên ý thức không lấy sắc v.v….

Hỏi: Nếu ý thức không biết pháp sắc v.v…, thì phải biết tự thể.

Đáp: Pháp không tự biết. Bởi vì sao? Vì hiện tại không thể tự biết, như cái dao không thể tự cắt mình. Còn quá khứ vị lai vì không pháp nên cũng không có tâm nào khác. Cho nên ý thức không thể tự biết.

Hỏi: Nếu ai khi biết tâm người khác, tức ý thức có thể biết tâm pháp?

Đáp: Như người tâm không tự biết, mà cũng khởi ý nghĩ như vầy: Ta có tâm ở trong tâm người khác, cũng lại như vậy.

Lại nếu pháp vị lai không, cũng có thể sinh biết tâm người khác. Nếu vậy có lỗi gì?

Lại ý thức có thể duyên pháp thì có nhiều lỗi. Như ý đến duyên, và ý thức không đến duyên, không nên nhớ sắc v.v…, vì các lỗi này nên ý thức không biết pháp.

Phẩm 151: PHÁ CHẤP VỀ NHÂN QUẢ

Người nói không, nói: Nếu có quả lẽ ra trong nhân trước phải có cầu-na mới sinh, hay trước không cầu-na mà sinh? Cả 2 đều có lỗi. Như trong 2 tay trước không tiếng mà có thể có tiếng. Trong nhân rượu, trước không rượu cũng có thể sinh rượu. Trong nhân xe, trước không xe mà có thể thành xe. Cho nên không phải trong nhân trước có cầu-na mà sinh quả. Nếu ông bảo trong nhân trước không cầu-na mà sinh quả, thì như vi trần của gió không sắc, phải có thể sinh sắc? Nếu vậy thì gió có sắc. Trong kim cương v.v… cũng phải có mùi thơm.

Lại hiện thấy chỉ trắng thì thành vải trắng, chỉ đen thì thành vải đen. Nếu trong nhân trước không cầu-na mà sinh quả đó thì vì sao chỉ trắng vẫn thành trắng mà không thành đen ư? Cho nên không phải trong nhân trước không cầu-na mà sinh quả. Xét cho cùng, 2 lý đều có lỗi, cho nên không có quả.

Lại nếu trong nhân có quả thì không cần sinh lại, vì đã có, còn sinh làm chi nữa! Nếu không cũng không sinh được, vì không làm sao sinh.

Hỏi: Hiện thấy làm cái bình, sao nói không quả?

Đáp: Cái bình này, nếu trước không làm, thì sao làm được? Vì nó không có. Nếu trước đã làm, còn làm chi nữa? Vì nó có rồi.

Hỏi: Chính khi làm gọi là làm?

Đáp: Không có khi nào là khi làm. Bởi vì sao? Vì chỗ phần có làm đã rơi vào trong làm, chỗ phần chưa làm rơi vào trong chưa làm, cho nên không có cái gọi là khi làm.

Lại nếu cái bình có làm, thì phải là quá khứ, vị lai hay hiện tại? Quá khứ không làm, vì đã diệt mất. Vị lai không làm vì chưa có. Hiện tại không làm vì là có.

Lại nhân có người làm mới có thành nghiệp. Mà trong đó người làm, thật không thể được. Bởi vì sao? Vì thân phần cái đầu v.v… đối với việc làm đó là vô sự, nên không có người làm. Vì không có người làm nên việc làm cũng không.

Lại nhân ở trong quả hoặc trước hoặc sau, hoặc đồng thời đều không đúng. Bởi vì sao? Vì nếu nhân trước, quả sau thì nhân đã diệt hết, quả làm sao sinh, như không cha làm sao sinh con? Nếu nhân sau quả trước; nhân tự chưa sinh, làm sao sinh quả? Như chưa đẻ ra cha, ai sinh con? Nếu nhân quả đồng thời thì không có lý. Như 2 sừng đồng mọc không được nói tướng tả hữu làm nhân cho nhau. Xét cho cùng, 3 điều này đều không đúng, cho nên không có quả.

Lại nhân quả nầy hoặc một hoặc khác, cả hai đều có lỗi. Bởi vì sao? Vì nếu khác thì lẽ ra lìa chỉ phải có vải. Nếu là một thì chỉ và vải không khác nhau.

Lại người đời không thấy có pháp nhân quả nào không sai khác.

Lại nếu có quả lẽ phải tự mình làm, hoặc người khác làm, cùng chung làm hay không nhân mà làm, đều là không đúng. Bởi vì sao? Vì không có pháp nào có thể làm ra tự thể. Nếu sẵn có tự thể thì cần gì tự làm. Nếu không tự thể làm sao có thể tự làm được?

Lại không thấy có pháp nào có thể làm ra tự thể, nên không tự làm. Người khác làm cũng không đúng. Bởi vì sao? Vì như mắt và sắc đối với việc sinh thức vô sự, nên người khác không làm được.

Lại vì không có nghĩ tưởng làm, nên tất cả pháp không có người làm. Như hạt giống không nghĩ là ta nên nảy mầm. Mắt và sắc cũng không nghĩ là chúng ta nên hợp lại mà sinh thức. Cho nên các pháp không có tưởng làm. Hợp lại làm cũng không đúng vì có lỗi tự mình và người khác. Không có nhân làm cũng không đúng, vì nếu không nhân, cũng không có tên quả. Nếu 4 thứ đều không, làm sao có quả, nếu phải nói?

Lại quả nầy phải hoặc trước có tâm làm, hay trước không có tâm làm. Nếu trước có tâm làm thì thân phần như mắt v.v… của thai nhi là ai có tâm làm? Trời Tự Tại v.v… cũng không làm nên được. Trước đã nói nghiệp cũng không tâm đối với việc làm. Nghiệp nầy ở trong quá khứ làm sao có tâm làm. Cho nên nghiệp cũng không tâm. Nếu trước không tâm mà làm, thì làm sao làm khổ, người khác bị khổ, làm vui, người khác được vui?

Lại hiện trong nghiệp làm cũng đem tâm phân biệt nên làm như vầy, không nên làm như vầy. Nếu không tâm mà làm, thì sao có sai biệt này? Cho nên nói trước có tâm không tâm đều không đúng. Như vậy tất cả căn, trần đều không thể được. Cho nên là không có pháp.

Phẩm 152: THẾ ĐẾ

Đáp: Tuy ông đem các thứ nhân duyên nói các pháp đều không, nhưng nghĩa nầy không đúng. Bởi vì sao? Vì trước tôi đã nói nếu tất cả không, luận nầy cũng không có, cũng không ở trong các pháp. Như vậy phá không, ông hoàn toàn không đáp. Hãy còn cố tâm thành lập không, cho nên không phải không có tất cả các pháp.

Lại ông đã nói không căn không duyên v.v…. Điều này không phải chỗ minh luận của chúng tôi. Bởi vì sao? Vì trong kinh Phật tự ngăn điều này. Đó là 5 việc không thể nghĩ bàn: việc thế gian, việc chúng sinh, việc nghiệp nhân duyên, việc của người tọa thiền, và việc Chư Phật. Điều này nếu không phải bậc nhất thiết trí thì không thể nghĩ lường quyết đoán, chỉ Chư Phật mới có thể phân biệt pháp trí. Thanh Văn, Bích-chi-phật, chỉ có trí tuệ thông đạt Nê-hoàn, còn đối với trí phân biệt các pháp chỉ được phần ít. Chư Phật đối với tất cả pháp, tất cả chủng loại, gốc ngọn, thể tính, tướng chung, tướng riêng đều có thể biết thông suốt, như người, nhà cửa các vật, dễ hoại khó thành. Cũng như vậy, không trí dễ được, mà trí tuệ phân biệt đúng các pháp thì khó sinh.

Hỏi: Như Phật ngồi đạo tràng, chứng được các pháp tướng. Cứ đúng như Phật đã nói, phải như vậy mà nói?

Đáp: Tuy Phật nói tất cả pháp, nhưng không nói tất cả chủng, vì không được giải thoát. Như Phật nói các pháp từ nhân duyên sinh, nhưng không nói mỗi mỗi từ nhân duyên nào, mà chi nói điều cần thiết có công dụng có thể dứt khổ mà thôi. Các màu sắc hội họa, các âm thanh kỹ nhạc, các thứ hương vị xúc vô lượng sai biệt không thể nói hết được. Nếu nói cũng không lợi ích gì lớn lao, nên Phật không nói những việc như vậy, không được nói là không có.

Lại như người không biết phân biệt các phép hội họa mà nói đó là không. Ông cũng như vậy, việc không thể thành sự, mà nói là không có việc đó. Nhưng với người trí thì có, mà người không biết cho là không. Như người mù bẩm sinh nói không có đen trắng, vì tôi không thấy. Không nên vì không thấy mà nói không có các sắc như vậy. Như không thể vì tự duyên thành, mà nói không có tất cả pháp.

Lại chư Phật Thế Tôn là bậc nhất thiết trí, được chúng ta tin, Phật nói có 5 ấm, cho nên biết sắc v.v… tất cả pháp là có, như cái bình v.v… do thế đế cho nên có.