THÀNH THẬT LUẬN
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 12

Phẩm 153: DIỆT PHÁP TÂM

Hỏi: Ông trước nói diệt 3 tâm gọi là diệt đế. Đã biết nhân duyên diệt tâm giả danh. Nay pháp tâm là thế nào? Và vì sao phải diệt?

Đáp: Có tâm thật cho 5 ấm, gọi là pháp tâm. Khéo tu không trí, thấy 5 ấm trống không, thì pháp tâm diệt.

Hỏi: Hành giả quán 5 ấm trống không là trong 5 ấm vô thường pháp, định pháp, bất hoại pháp, bất biến pháp, ngã, ngã sở pháp, vì không có các pháp nầy nên nói là nó trống không, chứ không phải không thấy 5 ấm?

Đáp: Hành giả cũng không thấy 5 ấm. Bởi vì sao? Vì hành giả dứt tâm duyên hữu vi, được tâm duyên vô vi. Cho nên hành giả không thấy 5 ấm, mà chỉ thấy ấm diệt.

Lại nếu thấy 5 ấm thì không gọi là không. Vì ấm chẳng phải không, như vậy thì không đầy đủ không trí.

Hỏi: Hành giả thấy sắc, vì vô ngã nên không. Như trong kinh nói: Hành giả thấy sắc nầy trống không, cho đến thức cũng trống không. Phải biết các ấm chẳng phải không có sắc.

Đáp: Có nói như vậy, nhưng không phải thanh tịnh. Như trong Kinh Pháp Ấn nói: Hành giả thấy tướng các pháp như sắc v.v… là vô thường, bại hoại, dối giả, chán lìa. Đó cũng gọi là trống không. Nhưng chưa phải là thanh tịnh. Về sau người này thấy 5 ấm diệt, là do tu quán mới được thanh tịnh. Cho nên biết thấy các ấm diệt.

Hỏi: Vì trí duyên hữu vi, sao không được thanh tịnh?

Đáp: Hành giả hoặc khi khởi tưởng 5 ấm, nên tâm giả danh sinh trở lại. Cho nên tâm duyên hữu vi không được thanh tịnh. Nếu chứng các ấm diệt, thì 5 ấm không hiện tiền nữa. Vì thành tựu diệt được nhân duyên giả danh nên tưởng giả danh không theo đuổi nữa. Ví như có cây, cưa chặt, đốt cháy, tro than đều tiêu hết, cái tưởng về cây mới diệt không còn theo đuổi nữa. Việc này cũng vậy.

Lại Phật bảo La-đà: Ông phá vỡ tan nát chúng sinh, khiến không tồn tại.

Lại một kinh khác nói: La-đà! Ông phá vỡ tan nát sắc, cho đến thức, khiến không tồn tại. Cho nên biết nếu hoại chúng sinh là giả danh trống không. Nếu phá hoại sắc gọi là pháp không.

Lại có 2 pháp quán là không quán và vô ngã quán. Không quán là không thấy giả danh chúng sinh, như người thấy cái bình, vì không có nước nên trống không. Cũng như vậy vì thấy trong 5 ấm không có người cho nên trống không. Nếu không thấy pháp thì gọi là vô ngã.

Lại trong kinh nói: Được trí vô ngã thì chính giải thoát. Cho nên biết sắc tính diệt, thụ, tưởng, hành thức, tính diệt, gọi là vô ngã. Vô ngã tức là vô tính.

Hỏi: Nếu gọi vô tính là vô ngã thì 5 ấm thật sự không có sao?

Đáp: Năm ấm thật sự là không, vì thế đế nên có. Bởi vì sao? Vì Phật nói các hành v.v… đều như huyễn, như hóa, vì thế đế nên có. Vì thế đế nên có, là không phải thật có.

Lại trong kinh nói đệ nhất nghĩa không. Nghĩa nầy vì đệ nhất nghĩa đế nên trống không, chứ không phải vì thế đế mà không. Đệ nhất nghĩa là như nói sắc trống không không có gì hết, cho đến thức trống không, không có gì hết. Cho nên nếu người quán các pháp như sắc v.v… trống không, gọi là thấy cái không của đệ nhất nghĩa.

Hỏi: Nếu vì thế đế nên có 5 ấm . Vì sao nói các pháp như sắc v.v… là chân đế?

Đáp: Vì chúng sinh nên mới nói có. Người đối với 5 ấm sinh tưởng chân thật. Vì đó nên nói 5 ấm, vì đệ nhất nghĩa nên trống không.

Hỏi: Trong kinh không nói có nghiệp có quả báo. Chỉ tác giả không thể được sao?

Đáp: Đó bởi các pháp mà nói tác giả là không thể được. Đó là nói giả danh trống không. Như trong kinh nói các pháp chỉ có cái tên gọi giả. Cái tên gọi giả đó, như vô minh, nhân duyên các hành, cho đến lão tử các khổ, tập, diệt. Do lời nói nầy nên biết 5 ấm cũng vì đệ nhất nghĩa nên không.

Lại trong Kinh Đại Không, nói: Nếu ai nói lão tử này lão tử kia, hoặc ai nói thân tức là thần, hoặc nói thân khác thần khác, những lời nói đó khác mà nghĩa đồng. Nếu có kiến chấp nầy, không phải đệ tử ta, không phải người Phạm hạnh. Nếu ngăn lão tử kia, tức phá giả danh, ngăn lão tử nầy là phá 5 ấm.

Lại nói sinh duyên lão tử gọi là trung đạo. Phải biết đệ nhất nghĩa đế nên nói không lão tử; thế đế nên nói sinh duyên lão tử.

Lại như tưởng quá hơn cái bình thì đệ nhất nghĩa nên không có cái bình. Cũng như vậy quá hơn pháp như sắc v.v… thì đệ nhất nghĩa nên không có sắc.

Lại trong kinh nói: Nếu pháp đó là lừa gạt, tức là hư vọng, nếu pháp không phải lừa gạt tức gọi là thật. Các pháp hữu vi đều biến đổi khác, nên đều gọi là lừa gạt. Lừa gạt nên hư vọng. Hư vọng nên không phải chận thật có.

Như kệ nói:

Thế gian hư vọng trói,

Trạng như tướng quyết định

Thật không, thấy như có,

Quán sát thấy đều không.

Phải biết các ấm cũng trống không.

Lại thấy diệt đế nên gọi là đắc đạo. Cho nên biết diệt là có của đệ nhất nghĩa, không phải là các ấm. Nếu các ấm thật có, hành giả cũng phải thấy mà được đạo, nhưng thật ra không phải vậy. Cho nên biết 5 ấm không phải là có của đệ nhất nghĩa.

Lại vì ấm diệt là thật, cho nên biết các ấm không phải thật. Không nên nói các ấm là thật, không ấm cũng thật.

Lại có bao nhiêu pháp được thấy đều bởi si, như người măt không thể gạt được, thì không thấy huyễn. Như vậy nếu không ngu si thì không thấy các ấm. Cho nên các ấm không phải là có của đệ nhất nghĩa.

Lại trong kinh nói: Tùy có ngã tức là động xứ. Mà trong ấm có ngã, như A-nan nói: Nhân pháp thành ngã. Nghĩa là nhân sắc ấm, cho đến thức ấm.

Lại như chư Thượng tọa Tì-kheo hỏi Sai-ma-già: Ông lấy sự gì làm ngã?

Đáp: Tôi không nói sắc là ngã, không nói lìa sắc là ngã, cho đến thức cũng vậy. Có điều là trong 5 ấm ngã mạn chưa dứt.

Ý kinh nầy cho rằng học nhân hoặc khi tâm niệm bị tán loạn mới khởi ngã mạn. Nếu nhiếp tâm niệm diệt 5 ấm thì ngã mạn diệt. Như hoa không phải chỉ rễ chồi nhánh lá là hoa, mà cũng không rời các thứ đó là hoa. Như vậy không phải sắc v.v… là ngã, mà cũng không rời sắc v.v… là ngã. Như vậy nhân duyên diệt ngã thì ngã mạn không khởi. Cho nên biết các ấm cũng không.

Lại hành giả nên diệt tất cả tướng, chứng vô tướng. Nếu thật có tướng, sao không nghĩ nhớ? Không phải như ngoại đạo khi lìa nơi sắc, biết thật có sắc, nhưng không nhớ nghĩ. Hành giả cần phải thấy sắc v.v… các ấm diệt hết. Vì thấy diệt hết nên gọi là vào vô tướng. Cho nên biết sắc v.v… không phải đệ nhất nghĩa.

Lại tùy có 5 ấm thì có ngã tâm. Phải biết không có 5 ấm thì ngã tâm diệt. Cho nên các ấm đều trống không.

Lại trong Kinh Thủy Mạt, Phật nói: Nếu ai thấy đám bọt nước, quan sát kỹ thì biết chúng không phải chân thật. Tì-kheo cũng vậy, nếu chính quán sắc ấm, tức biết dối gạt không bền không chắc, là tướng bại hoại. Quán thụ như bong bóng nước. Tưởng như sóng nắng. Hành như cây chuối. Thức như ảo hóa. Cũng như vậy, 5 dụ trên đây đều chỉ rõ nghĩa trống không. Bởi vì sao? Vì mắt thấy đám bọt nước, khi tiêu hết là hoàn lại không. Bong bóng nước cũng như vậy. Cho nên biết các ấm không phải chân thật có.

Lại như đệ tử Phật rất chán sinh tử, đều bởi thấy các pháp xưa nay không sinh, không có sở hữu. Nếu thấy vô thường thì chỉ có thể sinh bại hoại khổ tướng, cũng như vậy thấy vô tính, không còn tướng gì khác thì mới có thể đầy đủ hành khổ. Đủ 3 khổ này gọi là được giải thoát. Phải biết tất cả các pháp đều trống không.

Lại không, là cửa giải thoát. Không này không phải chỉ chúng sinh không, mà hữu pháp cũng không. Như nói mắt khi sinh không từ đâu đến, khi diệt không đi đến đâu, thì biết quá khứ, vị lai mắt là trống không. Mắt hiện tại cũng do 4 đại phân biệt nên không. Như Phật nói mắt trong hình thịt, có bao nhiêu cứng và nương cứng gọi là địa v.v…. Nếu được cái không này tức nói không có gì hết.

Lại nói tất cả các hành dứt gọi là đoạn tính, lìa gọi là ly tính, diệt gọi diệt tính. Cho nên biết tất cả các hành đều diệt. Nếu thật có các hành thì không có chính, đoạn, ly, diệt. Diệt gọi là không. Phải biết vì đệ nhất nghĩa nên các hành đều không có. Chỉ vì thế đế nên mới có các hành.

Phẩm 154: DIỆT TẬN

Như duyên Nê-hoàn gọi là không tâm.

Hỏi: Nê-hoàn không có pháp tâm thì duyên vào đâu?

Đáp: Tâm nầy duyên vô sở hữu. Điều này trước đã rõ vì biết Nê-hoàn.

Hỏi: Không tâm nầy diệt ở chỗ nào?

Đáp: Hai chỗ diệt: một là vào trong vô tâm định diệt, hai là khi vào Nê-hoàn vô dư, dứt tương tục mà diệt. Bởi vì sao? Vì diệt nhân duyên nên tâm nầy cũng diệt. Trong vô tâm định vì duyên diệt nên diệt, khi dứt tương tục vì nghiệp hết nên diệt.

Luận giả nói: Hành giả, nếu diệt được 3 tâm nầy, thì các nghiệp phiền não vĩnh viễn không còn khởi lại nữa.

Hỏi: Vì sao không khởi?

Đáp: Người nầy đầy đủ vô ngã, nên nghiệp phiền não diệt, như khói đèn đen có chỗ nương là trụ lại, mà không chỗ nương thì không trụ. Như vậy nếu có ngã tâm làm chỗ nương thì nghiệp phiền não tụ tập, không thì không tụ lại.

Lại vô lậu chính kiến đốt hết các tướng, khiến không còn sót, như kiếp hỏa đốt cháy hết đất v.v… không sót. Vì vô tướng nên các nghiệp phiền não không tụ tập lại nữa.

Lại người có ngã tâm thì nghiệp phiền não tụ lại. A-la-hán thông đạt không trí, vì không ngã tâm nên không còn tụ lại.

Hỏi: Người nầy tuy nghiệp mới không tụ, nhưng vì sao nghiệp cũ không sinh?

Đáp: Người đó đem chính trí tuệ phá hoại nghiệp nầy, nên không thể trả báo được, như hạt giống rang cháy không còn sinh được.

Lại nếu không có ái tâm thì tác nghiệp không thể trả báo được, như đất không ướt thì giống không mọc.

Lại hành giả nầy với các thức xứ diệt hết các tướng, thức không chỗ nương nên không có chỗ sinh, như giống không chỗ nương thì không mọc được.

Lại đủ nghiệp phiền não mới có thể thụ thân, mà không đủ thì diệt. Người nầy không phiền não nên nhân duyên không đủ, dù có các nghiệp cũng không thụ sinh được.

Lại chúng sinh vì phiền não nên thụ thân ở các nẻo. Vì thụ thân nên các nghiệp trong đó có thể cùng với quả báo. Nếu không phiền não thì không thụ thân. Không thụ thân, thì các nghiệp làm sao có thể cùng quả báo được? Như người mắc nợ nhờ cậy thế lực, thì chủ nợ không làm gì được. Hành giả cũng vậy, nếu không ở trong sinh tử thì dù có các nghiệp cũng không trả báo được.

Lại như người bị trói, những người không bị trói tha hồ mắng nhiếc. Cũng như vậy, chúng sinh bị phiền não trói buộc, tùy nghiệp nhiều ít đều có thể trả báo. Người được giải thoát, thì phiền não không làm gì được.

Lại tự nghiệp mình có thể trả quả báo. Người này tu hạnh không hành, nên đối với các pháp không có tự tướng, cho nên các nghiệp không trả báo được, như dùng con mình làm đứa giúp việc thì khỏi trả tiền thuê. Điều này cũng như vậy.

Lại sức mạnh phiền não có thể chuyển các nghiệp, mà phiền não hết thế lực, thì các nghiệp không chuyển được. Như bánh xe tuy còn, mà động lực đã hết, thì bánh xe không lăn.

Lại sức phiền não có thể biến đổi các nghiệp, như mẹ vì thương con nên máu biến thành sữa. Khi hết lòng thương, thì máu không biến. Như vậy do sức phiền não, nên nghiệp có thể báo, lìa thì không thể.

Lại người này, nhờ các công đức tu thân như giới, định, tuệ v.v… thế lực lớn, nên các nghiệp không làm gì được. Cho nên tuy có các nghiệp cũ mà không trả báo được. Như vậy, người nầy nghiệp cũ hiện tại trả báo chút ít, mà không gây nghiệp mới, như lửa đốt củi, củi hết thì tắt. Người này cũng vậy, vì không thụ nên diệt, diệt 3 tâm nên đối với tất cả các khổ được vĩnh viễn giải thoát. Cho nên người trí cần phải diệt 3 tâm.

Xong nhóm diệt đế.

Phẩm 155: ĐỊNH NHÂN TRONG LUẬN VỀ ĐỊNH CỦA NHÓM ĐẠO ĐẾ

Luận giả nói: Nay luận về đạo đế. Đạo-đế là 8 con đường chính thẳng từ chính kiến cho đến chính định. Tám chính đạo nầy được nói có hai: một gọi là Tam-muội và dụng cụ, hai gọi là trí. Nay sẽ luận về Tam-muội.

Hỏi: Tướng Tam-muội ra sao?

Đáp: Tâm trụ một chỗ là tướng Tam-muội.

Hỏi: Tâm nầy làm sao trụ được một chỗ?

Đáp: Tùy chỗ tập luyện nhiều và trụ ở nơi đó. Nếu không tập nhiều, thì mau rời bỏ.

Hỏi: Tập bằng cách nào?

Đáp: Tập tùy sở thích.

Hỏi: Làm sao có thể thích?

Đáp: Thân tâm nặng nề gọi là khổ. Dùng phương pháp làm khoan khoái trừ tướng thô nặng nơi thân tâm, thì có thể sinh vui thích.

Hỏi: Làm sao sinh khoan khoái?

Đáp: Dùng nhân duyên hoan hỷ, nên thân tâm điều hòa vui thích.

Hỏi: Làm sao sinh hỷ?

Đáp: Do nghĩ Tam Bảo và nghe pháp v.v… tâm ưa thích nên sinh hỷ.

Hỏi: Làm sao sinh ưa thích?

Đáp: Do thanh tịnh trì giới, tâm không sinh ăn năn.

Hỏi: Đã nói nhân Tam-muội. Nay Tam-muội lại làm nhân cho cái gì?

Đáp: Làm nhân cho như thật trí. Như thật trí là không trí. Như nói hành giả như vậy nhiếp tâm, thanh tịnh tâm, trừ che tâm, trụ tâm, và không động tâm, thì có thể biết như thật khổ Thánh đế, tập, diệt, đạo Thánh đế. Cho nên ai muốn được như thật trí, phải siêng tinh tiến tu tập Tam-muội. Người tản tâm còn không thể được lợi ích kinh sách, nghề nghiệp công xảo v.v… của thế gian, huống chi có thể được lợi ích xuất thế gian. Cho nên biết tất cả lợi ích thế gian, và xuất thế gian, đều nhờ định tâm mới được.

Lại tất cả diệu thiện đều nhờ chính trí, tất cả tệ ác đều bởi tà trí. Như trong kinh nói: Vô minh làm đầu, không hổ thẹn làm tùy tùng khởi tất cả ác. Bởi minh làm đầu, hổ thẹn làm tùy tùng khởi tu tất cả thiện. Mà Tam-muội là nhân chính trí tuệ. Cho nên biết tất cả diệu thiện đều nhờ Tam-muội. Cho nên phải siêng năng tinh tiến tu tập.

Phẩm 156: TƯỚNG CỦA ĐỊNH

Hỏi: Ông nói tâm trụ một chỗ là tướng Tam-muội. Vậy Tammuội với tâm là một hay là khác?

Đáp: Tam-muội với tâm không khác. Có người nói Tammuội khác với tâm, vì tâm được Tam-muội thì mới an trụ một chỗ. Tuy có lời đó, nhưng nghĩa không đúng như vậy. Nếu tâm được Tam-muội có thể ở trong cảnh duyên đó, thì Tam-muội nầy cũng trụ ở trong cảnh duyên, và cũng phải làm nhân cho Tammuội khác trụ. Như vậy là vô cùng, việc đó không thể được. Nếu Tam-muội nầy tự nhiên trụ thì tâm cũng như vậy, không phải nhân Tam-muội mà an-trụ. Cho nên nếu nói Tam-muội khác với tâm, nghĩa đó vô ích.

Lại thụ tưởng v.v… các tâm số pháp cũng trụ ở trong cảnh duyên, đó lại là nhân pháp nào mà trụ? Việc đó nên nói. Nếu thụ tưởng v.v… đều có Tam-muội, tức đồng lỗi như trước.

Lại trong kinh chỉ nói nhất tâm là tướng của Tam-muội, không nói tâm được Tam-muội nên trụ. Cho nên biết không đúng.

Lại nói nhất tâm thì không nói rõ các pháp khác. Như trước đã nói tùy chỗ tâm vui, duyên trụ ở đó. Phải biết với tâm không có Tammuội riêng, tùy tâm trụ lâu gọi là Tam-muội.

Hỏi: Tam-muội đó là hữu lậu hay là vô lậu?

Đáp: Có hai thứ Tam-muội, hữu lậu và vô lậu. Các thiền định thế gian là hữu lậu. Các Tam-muội khi vào pháp vị gọi là vô lậu. Bởi vì sao? Vì bấy giờ gọi là thấy biết như thật. Bấy giờ 2 thứ cũng gọi là Tam-muội, cũng gọi là tuệ. Nhiếp tâm nên gọi Tam-muội. Biết như thật nên gọi là tuệ. Nhiếp tâm có 3 thứ là thiện, bất thiện, và vô ký. Trong đó lấy thiện nhiếp tâm là Tam-muội, chứ không phải bất thiện vô ký. Tam-muội nầy cũng có 2 thứ, một là giải thoát nhân, hai là phi giải thoát nhân. Giải thoát nhân, gọi là định căn.

Có luận sư nói: Chỉ định vô lậu gọi là định căn. Lời nói nầy không đúng. Nếu hữu lậu vô lậu có thể làm nhân giải thoát đều được gọi là định căn.

Tam-muội nầy tùy trụ duyên, nên mới phân biệt 3 thứ: tiểu, đại và vô lượng. Tâm khi trụ giây lát, nếu thấy chút cảnh duyên, đó gọi là tiểu. Còn 2 thứ kia cũng vậy.

Lại tùy thời nên có 3 tướng: chế tướng, phát tướng, và xả tướng. Khi tâm lui chìm, nên dùng phát tướng. Khi tâm lay động nên dùng chế tướng. Khi tâm hòa vui, nên dùng xả tướng. Như thợ vàng gia công vàng, khi thì cho vào lửa thét, khi thì ngâm vào nước, khi thì để tự nhiên. Nếu trui luôn thì chảy tiêu, ngâm mãi thì sống, thường để tự nhiên thì không thích hợp. Tâm hành giả cũng vậy. Nếu động mà không chế ngự thì thường tán loạn. Chìm mà không phát thì sinh biếng lười. Nếu điều hòa thích hợp rồi mà không xả thì lại thành không điều hòa thích hợp.

Lại như tập ngựa, nếu chạy nhanh thì gò, chậm thì giục, vừa thì xả. Hành giả điều ngự tâm mình cũng như vậy.

Lại Tam-muội nầy có 3 phương tiện là phương tiện nhập định, phương tiện trụ định, phương tiện khởi định. Đúng như pháp mà nhập đinh là phương tiện nhập định. Ở trong định không động là phương tiện trụ định. Đúng như pháp mà xuất định là phương tiện khởi định.

Hỏi: Làm sao được 3 phương tiện đó?

Đáp: Hành giả lấy tướng tự tâm chế ngự như vậy, phát động như vậy, và xả như vậy thì có thể nhập định, trụ định, và xuất định cũng như vậy.

Hỏi: Chỉ lấy thẳng định, cần gì phải dùng phương tiện?

Đáp: Nếu không sinh 3 thứ phương tiện nầy thì có lầm lỗi. Không được tùy ý muốn nhập thì khởi, muốn khởi lại nhập, có những lỗi này.

Lại lấy lợi làm tổn, lấy tổn làm lợi như thấy chút tịnh sắc và chút ánh sáng, bảo là đã được đại lợi. Hoặc niệm vô thường, khổ, không v.v…, tâm không được vui, lại cho là tổn.

Hỏi: Hành giả, vì sao có người được định, hoặc có người không được?

Đáp: Có 4 nhân duyên được định: 1. Đời nay siêng tập. 2. Tiền thân có duyên. 3. Khéo lấy tướng định. 4. Y theo định pháp.

Lại có 4 thứ tu định: 1. Thường xuyện tập mà không nhất tâm hành. 2. Nhất tâm hành mà không thường tu tập. 3. Cũng thường tu tập, cũng nhất tâm hành. 4. Không thường tập, không nhất tâm hành.

Lại có 4 thứ: Có nhiều thiện ít tuệ, có ít thiện nhiều tuệ, có nhiều thiện nhiều tuệ, có ít thiện ít tuệ. Trong đó thứ 3 chắc hành giả có thể được định, thứ tư chắc chắn không thể được, thứ nhất và thứ 2 nếu điều hòa đồng đều thì được.

Phẩm 157: BA TAM-MUỘI

Hỏi: Trong kinh nói có 3 pháp Tam-muội là nhất phần tu Tammuội, cọng phần tu Tam-muội, và Thánh chính Tam-muội. Mỗi pháp như thế nào?

Đáp: Nhất phần tu là như tu định không tu tuệ, hoặc tu tuệ không tu định. Cọng phần tu là vừa tu định cũng vừa tu tuệ. Đó là thế gian Tam-muội ở trong pháp noãn v.v…. Thánh chính Tam-muội là như vào pháp vị có thể chứng diệt đế, gọi là Thánh chính. Làm sao biết được? Như Trưởng lão Tì-kheo bảo hành giả lấy định tu tâm, nhờ tuệ có thể ngăn được phiền não, lấy tuệ tu tâm, nhờ định ngăn được phiền não, lấy cả định tuệ tu tâm, nhờ tính được giải thoát tính. Đó gọi là đoạn tính, ly tính và diệt tính.

Lại như định tuệ đồng thời đầy đủ, nên gọi Thánh chính, như nhờ cả định tuệ được giải thoát gọi là đều giải thoát .

Hỏi: Có người nói: Nhất phần tu là nếu nhân Tam-muội có thể thấy ánh sáng không thấy các sắc, nếu thấy các sắc không thấy ánh sáng. Cọng phần tu là có thể thấy sắc cũng thấy ánh sáng. Thánh chính là Tam- muội mà các bậc học và vô học chứng được. Việc đó thế nào?

Đáp: Không có kinh nào nói chỉ thấy ánh sáng mà không thấy sắc. Trong kinh chỉ nói ta vốn đã từng thấy ánh sáng cũng thấy các sắc. Nay mất ánh sáng cũng không thấy sắc.

Lại ông phải nói nhân duyên vì sao có thể thấy ánh sáng mà không thấy sắc? Vì những lẽ đó, lời ông nói là sai.

Hỏi: Lại trong kinh nói 3 Tam-muội là không, vô tướng, vô nguyện. Ba Tam-muội nầy sai khác nhau thế nào?

Đáp: Nếu hành giả không thấy chúng sinh cũng không thấy pháp, đó gọi là không. Trong không như vậy không có tướng có thể lấy; cái không đó tức là vô tướng. Trong không, không có nguyện cầu gì, cái không đó gọi là vô nguyện. Cho nên 3 mà nghĩa là một.

Hỏi: Nếu vậy nói 3 làm gì?

Đáp: Công năng của cái không nầy là cần phải tu không. Vì tu không mà được lợi ích là không thấy tướng. Vì không thấy tướng nên là vô tướng. Vì vô tướng nên không nguyện cầu. Vì không nguyện cầu nên không thụ thân. Vì không thụ thân nên mới giải thoát được tất cả khổ. Được những lợi ích như vậy đều nhờ tu không mà có. Cho nên phải nói có 3.

Hỏi: Có luận sư nói: Nếu Tam-muội lấy hành không vô ngã, đó gọi là không. Nếu hành vô thường, khổ, nhân tập mà sinh duyên đạo như hành xuất, đó gọi là vô nguyện. Nếu hành diệt chính diệu ly, đó gọi là vô tướng. Việc đó thế nào?

Đáp: Ông nói hành vô thường, khổ gọi là vô nguyện, điều đó không đúng. Bởi vì sao? Vì Phật thường nói nếu vô thường tức là khổ, nếu khổ tức là vô ngã. Biết vô ngã thì không nguyện nữa. Cho nên biết cũng bởi không, nên mới không nguyện. Nếu nói hành nhân tập sinh duyên gọi là vô nguyện, đây hoặc có thể được. Bởi vì sao? Vì trong kinh nói: Thấy tướng sinh đều là tướng diệt thì sinh chán lìa.

Lại trong đạo, không nên có hành vô nguyện. Bởi vì sao? Vì nguyện là một phần của ái, như kinh nói: Nguyện, thượng, trung, hạ trong đạo không sinh tham ái. Cho nên không có hành vô nguyện.

Lại trong kinh nói: Năm ấm diệt nên gọi là diệt. Phải biết tùy không có 5 ấm, đó gọi là không. Không tức là diệt. Trong đó vô nguyện vì ái thân nên mới nguyện. Cho nên biết đó 3 mà nghĩa là một, không nên cho là sai khác.

Hỏi: Lại trong kinh nói 3 Tam-muội là không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng. Mỗi thứ là thế nào?

Đáp: Lấy không, để thấy 5 ấm là không, lại lấy một cái không nữa để có thể làm không cái không này, đó gọi là không không. Lấy vô nguyện để nhàm chán 5 ấm, lại lấy một vô nguyện nữa để nhàm chán cái vô nguyện này, đó gọi là vô nguyện vô nguyện. Lấy vô tướng để thấy 5 ấm tịch diệt, rồi lại dùng một vô tướng nữa để không lấy vô tướng này, đó gọi là vô tướng vô tướng.

Hỏi: Có luận sư nói: Ba Tam-muội nầy là hữu lậu. Việc đó thế nào?

Đáp: Đó không phải hữu lậu. Bởi vì sao? Vì bấy giờ không có lậu có thể sai khiến.

Lại Tam-muội nầy đối với các không v.v… vượt trội hơn, làm sao nói là hữu lậu?

Hỏi: Nếu không v.v… 3 Tam-muội, là thật trí tuệ, vì sao gọi là Tam-muội?

Đáp: Vì các Tam-muội sai khác nhau.

Lại Tam-muội có thể sinh như thật tri kiến, cho nên gọi Tammuội vì trong quả nói nhân.

Hỏi: Có luận sư nói: Các không không v.v… 3 Tam-muội nầy, chỉ bậc vô học được, không phải ai cũng được. Việc đó thế nào?

Đáp: Học nhân cũng được. Bởi vì sao? Vì hành giả phải chứng hữu lậu vô lậu tất cả pháp diệt. Cho nên học nhân cũng cần phải chứng vô lậu pháp diệt.

Phẩm 158: BỐN TU ĐỊNH

Có tu định vì vui hiện tại. Có tu định vì tri kiến. Có tu định vì tuệ phân biệt. Có tu định vì hết lậu. Như Tam-muội có thể được vui hiện tại là đệ nhị thiền v.v…. làm sao biết được? Vì Phật nói: Đệ nhị thiền là do Tam-muội sinh hỷ lạc nên vì đó đặt tên mà không vì các pháp khác, như vào thành Xá-vệ, là vì khất thực.

Hỏi: Sơ thiền cũng có hỷ lạc, vì sao không nói có hiện vui?

Đáp: Sơ thiền lẫn lộn các giác quán hay làm tản tâm, nên không nói hiện vui.

Hỏi: Đệ nhị thiền cũng có hỷ v.v… hay làm loạn tâm pháp, mà sao gọi vui?

Đáp: Trước diệt các giác, nhiếp tâm sâu, nên mới nói hỷ v.v… là vui. Nhưng vì hành khổ nên tất cả gọi khổ.

Lại trong sơ thiền khổ ở trạng thái thô, trong nhị thiền khổ ở trạng thái vi tế. Vì khổ vi tế, nên mới được gọi là vui.

Hỏi: Trong đệ nhị thiền v.v… cũng có hành vui đời sau, sao chỉ nói vì vui hiện tại?

Đáp: Như vì vua A-xà-thế nói quả Sa-môn hiện tại.

Lại vì gần nên nói.

Lại vì muốn phá vui 5 dục, nên nói vui hiện tại. Nếu ai tham đắm vui 5 dục, nên không được các thiền định, vì thế nên nói. Nếu các người có thể lìa vui 5 dục, sẽ được vui hơn vui hiện tại.

Lại chư Phật không ca ngợi việc thụ thân sau, nên không nói vui đời sau.

Lại người đời nói người tại gia vui, không phải người xuất gia vui.

Lại 4 pháp tu định đều vì hiện vui, vì đầu tiên nhận được tên, nên độc nhất nói hiện vui.

Hỏi: Nếu 4 pháp tu định nầy, có thể thành các thứ lợi, sao chỉ nói 4 lợi?

Đáp: Lợi có 2 thứ là lợi ích thế gian, và lợi ích xuất thế gian. Tu định thứ 2 là lợi thế gian, như các lợi tri kiến, biết 8 trừ nhập, 10 nhất thiết nhập v.v… , thấy 5 thần thông v.v… Bởi vì sao? Vì lợi mắt có thể thấy, nên gọi là thấy. Việc này nhờ lấy ánh sáng mà thành, nên gọi tri kiến tức nói tướng ánh sáng. Hai là lợi ích xuất thế gian. Lấy tuệ phân biệt 5 ấm, gọi là tuệ phân biệt. Nên trong kinh nói: Tuệ phân biệt là hành giả, hoặc sinh các thụ, các giác, các tưởng, đều có thể phân biệt biết.

Phân biệt biết là cái biết chấp ngã. Làm sao khiến thành không?

Nghĩa là phân biệt tưởng nam nữ v.v… là giả danh. Nếu phá được tưởng nầy thì không có các giác. Như trong kinh nói: Các giác nhân đâu? Là tưởng. Cho nên biết chỉ phá tưởng thì không có giác. Vì các giác không, nên các thụ cũng không. Cho nên biết vì phá giả danh, nên gọi là tuệ phân biệt. Vì tuệ phân biệt nên được hết lậu. Như trong kinh nói: Hành giả quán tướng 5 ấm sinh diệt, nên chứng được ấm diệt. Cho nên mới biết tất cả lợi thế gian và xuất thế gian đều thâu nhiếp trong 4 pháp.

Hỏi: Có luận sư nói trong đệ tứ thiền, có thể chứng được quả A-la-hán vô ngại đạo, gọi là hết lậu. Việc đó thế nào?

Đáp: Trong đó không có nhân duyên gì sai khác mà chỉ trong đệ tứ thiền vô ngại đạo gọi là hết lậu mà không phải các pháp khác.

Cho nên không đúng.

Lại tu định vì 3 lợi: một vì hiện vui, hai vì tri kiến, ba vì dứt kết. Hoặc nói vì hai, như nói vì rốt ráo hết, khéo thanh tịnh, sinh tử hết, phân biệt các thứ tính. Đó là người có mắt nói đạo. Trong đó, trước 3 nói dứt, sau 1 nói trí. Phật trong đó không nói hiện tại.

Phẩm 159: BỐN VÔ LƯỢNG ĐỊNH

Bốn vô lượng là từ bi hỷ xả. Từ là thiện tâm, trái nhau với giận dữ. Như các thiện tri thức, vì người thiện tri thức thường cầu cho sự an ổn lợi lạc. Hành giả cũng vậy, vì tất cả chúng sinh thường cầu an lạc. Cho nên người nầy là thiện tri thức của tất cả chúng sinh.

Hỏi: Tướng của thiện tri thức ra sao?

Đáp: Thường vì cầu lợi ích an vui đời nầy và đời sau cho nhau, quyết không trái nhau cầu việc vô ích. Hành giả cũng vậy, chỉ vì chúng sinh cầu việc an lạc, không cầu việc không an lạc.

Bi là từ tâm, trái nhau với não hại. Bởi vì sao? Cũng vì chúng sinh cầu an vui vậy.

Hỏi: Giận dữ và não hại có gì khác nhau?

Đáp: Sinh tâm niệm giận, muốn đánh đập hại chúng sinh nầy. Từ giận khởi nghiệp thân khẩu, gọi là não hại.

Lại giận làm nhân cho hại, vì người ôm lòng giận quyết làm hại cho kỳ được.

Hỷ là từ tâm, trái với ganh ghét. Ganh là thấy việc tốt người khác, tâm không chịu được tức sinh ghét giận. Hành giả thấy tất cả chúng sinh được những điều tăng ích, sinh lòng rất vui mừng, như tự mình được lợi.

Hỏi: Ba pháp nầy đều là từ cả sao?

Đáp: Tức là tâm từ có 3 thứ sai khác. Bởi vì sao? Vì không giận là từ. Có người tuy không hay giận, nhưng thấy chúng sinh khổ không có tâm bi. Nếu có thể đối với tất cả chúng sinh tu sâu tâm từ, như thấy con mình gặp khổ hại cấp bách, bấy giờ tâm từ chuyển gọi là tâm bi. Hoặc có người đối với việc khổ hại của người khác có thể sinh tâm bi, mà đối với việc tăng ích của người khác không hay sinh tâm hoan hỷ. Vì sao biết được? Vì có người thấy người oán tặc khổ, có thể còn sinh tâm bi, thế mà thấy con đắc thắng việc hơn mình vẫn không thể hoan hỷ. Hành giả thấy tất cả chúng sinh được sự tăng ích sinh tâm hoan hỷ như mình được không khác. Đó gọi là tâm hỷ. Cho nên biết sai khác của tâm từ là bi và hỷ.

Hỏi: Bỏ thứ gì gọi là xả?

Đáp: Tùy thấy oán, thân thì tâm từ không bình đẳng. Nghĩa là đối với người thân thì trọng đãi không gì bằng, đối với người oán thì khinh bạc. Bi, hỷ cũng như vậy. Cho nên hành giả muốn tâm được bình đẳng thì đối người thân xả hết thân, đối với người oán bỏ hết oán, rồi sau tâm từ đối với tất cả chúng sinh mới bình đẳng. Bi, hỷ cũng vậy. Nên trong kinh nói: Vì muốn cắt đứt sự ghét, thương phải tu tập tâm xả.

Hỏi: Nếu như vậy thì không riêng có tâm xả? Chỉ lấy tâm bình đẳng gọi là xả?

Đáp: Tôi trước đã nói sai biệt của tâm từ là bi hỷ.

Lại tâm từ do pháp hạ, trung, thượng nên có 3 thứ. Có thể khiến 3 thứ nầy bình đẳng, nên gọi là xả. Như nói dùng tâm từ bậc thượng tu tập tam thiền.

Hỏi: Dùng phương tiện nào được tâm từ nầy?

Đáp: Sau sẽ nói tội lỗi của giận dữ. Biết tội lỗi này rồi, sẽ tu tâm từ. Như trong kinh nói: Người tu tâm từ, ngủ yên, thức yên, không thấy ác mộng, được trời hộ người mến, không trúng độc; không bị đao binh, không bị nước lửa làm hại. Như vậy tất cả nghiệp báo do giận dữ sinh, không bằng đó sao? Nghe lợi ích đó nên siêng tu tập.

Lại hành giả tự nghĩ: Ta khởi giận dữ, tự chịu quả báo, không phải ai chịu cho, vậy không nên giận mà nên tu tâm từ.

Lại hành giả suy nghĩ: Ta vì chút ác làm hại người, thì tự chịu nhiều ác gấp trăm lần không sánh kịp, nên phải lìa bỏ ác.

Lại trong kinh nói 5 thứ nhân duyên trừ giận, thường phải nhớ. Lại giận dữ không phải là điều đáng có của người tu hành.

Lại phải nghĩ việc thiện lợi ích của người kia mà trừ bỏ việc ác, thì tự dứt giận dữ.

Lại phải quán nhân duyên trước sau của người kia. Như người này đời trước, hoặc từng làm mẹ ta, ôm thai sinh đẻ nuôi dưỡng ta, vì ta chịu khổ nhọc, hoặc từng làm cha, anh, em, vợ, con ta thì làm sao có thể giận?

Lại nghĩ: Đời sau, họ có thể sẽ làm cha mẹ anh em ta, hoặc sẽ làm La-hán, Duyên Giác, hay Chư Phật, thì làm sao dám giận?

Lại thấy người ác vì làm ác nên bị khổ cả 2 đời. Cho nên không giận.

Lại quán kỹ thể tính người kia là thiện hay ác. Nếu là ác họ làm ác với ta, cớ sao sinh giận? Như lửa đốt người, có ai giận lửa?

Lại thấy người kia bị phiền não bức bách, không được tự tại, giống như bị quỷ ám, thì sinh giận làm gì?

Lại tùy dùng nhân duyên nào đó mà tu tập nhẫn nhục, phải nghĩ nhớ pháp đó, thì dứt giận dữ, tâm từ thêm lớn.

Công đức nhẫn nhục là hành giả tâm nghĩ rằng: Nếu ta giận người, tức cũng thô bỉ như người không khác. Cho nên phải nhẫn. Như Phật nói kệ:

Ví như tập voi,

Chịu đao, cung tên.

Ta cũng như vậy,

Nhẫn nhịn các ác.

Lại kệ nói:

Ác khẩu mắng nhiếc,

Nhục mạ giận dữ,

Tiểu nhân không kham:

Chim bị mưa đá.

Ác khẩu mắng nhiếc,

Nhục mạ giận dữ,

Đại nhân kham nổi:

Voi tắm mưa hoa.

Cho nên phải nhẫn.

Lại đem việc ác nầy chuyển làm công đức, làm cho các việc ác đó chuyển thành công đức.

Lại hành giả biết chúng sinh nầy ngu si không hiểu biết, như trẻ con, không nên giận. Nhờ các phương tiện nầy có thể tu tâm từ.

Hỏi: Làm thế nào tu bi?

Đáp: Hành giả thấy chúng sinh vui ít khổ nhiều nên sinh tâm bi. Ta nỡ nào đối với chúng sinh khổ kia lại gây thêm khổ?

Lại thấy chúng sinh quá tham đắm vui, sinh ý nghĩ rằng: Ta nay làm sao dứt lòng tham của chúng, nên sinh tâm bi.

Lại thấy chúng sinh khổ, vì hiện khổ cho nên khổ, thấy chúng sinh vui, vì vô thường nên khổ. Cho nên tất cả chúng sinh đều có phần khổ, hoặc sớm hoặc muộn, không ai thoát được. Vì nhân duyên nầy, nên sinh tâm bi.

Hỏi: Làm sao tu hỷ?

Đáp: Hành giả thấy người ganh lợi với người khác là tướng xấu xa, cho nên tu hỷ, khởi nghĩ như vầy: Ta phải cho chúng sinh vui, nhưng nay chúng tự được, vậy là đã giúp ta. Cho nên sinh hỷ.

Lại thấy ganh ghét đó luống uổng vô ích, không tổn ai được, mà lại chỉ hại mình.

Lại như kinh nói ganh ghét là tội lỗi. Muốn lìa lỗi đó, nên sinh hoan hỷ.

Hỏi: Làm sao tu xả?

Đáp: Thấy lỗi tâm không bình đẳng, muốn cho tâm bình đẳng, cho nên tu xả.

Lại hành giả thấy lỗi của tâm tham giận nên tu hành xả.

Hỏi: Vô lượng tâm nầy ở trong cõi nào?

Đáp: Đều ở 3 cõi.

Hỏi: Có luận sư nói từ tam thiền trở lên không có hỷ căn. Việc đó thế nào?

Đáp: Tôi không nói tâm hỷ là hỷ căn tính chỉ vì tâm lợi tha, hỷ không làm vẫn đục, nên gọi là hỷ. Bốn vô lượng tâm nầy đều là tuệ tính.

Hỏi: Trong cõi Vô sắc làm sao có 4 vô lượng tâm? Vì có sắc tướng mới phân biệt chúng sinh, trong cõi đó sắc tướng đã hoại, làm sao có được?

Đáp: Chúng sinh vô sắc cũng có thể phân biệt. Như trong kinh nói: Phải làm hữu sắc và vô sắc v.v…

Lại trong kinh nói: Tu từ rất xa, được báo Biến tịnh, tu bi rất xa, được báo Không xứ, tu hỷ rất xa được báo Thức xứ, tu xả rất xa được báo Vô sở hữu xứ. Cho nên biết trong Vô sắc cũng có vô lượng tâm.

Hỏi: Trong mỗi mỗi cõi có một vô lượng tâm. Phi tưởng phi phi tưởng xứ không có sao?

Đáp: Tất cả xứ có tất cả, chỉ tu từ ở bậc thượng nên sinh về Biến tịnh xứ. Vì các nghiệp sinh quả báo tương tự, nghĩa là chúng sinh cầu vui lại được báo vui. Bi cũng như vậy. Do có thân nên tụ tập các khổ. Vô sắc trong hư không, nên tâm ở Thức xứ trong cảnh duyên rất vui, nên bỏ hết. Vô sở hữu xứ thì hành giả vì bị tưởng làm mỏi mệt, nên vào Vô sở hữu xứ. Phi tưởng phi phi tưởng cũng có vô lượng tâm. Nhưng vì vi tế không rõ nên không nói.

Lại tất cả xứ có tất cả, nhưng tùy nhiều mà nói, trong Biến tịnh, tâm từ cao tột nên như vậy v.v…

Lại trong các thiền định, 4 vô lượng tâm thụ quả báo vượt trội, vì duyên chúng sinh.

Hỏi: Có luận sư nói 4 vô lượng tâm nầy chỉ duyên chúng sinh cõi Dục. Việc này thế nào?

Đáp: Vì sao không duyên các chúng sinh khác ư? Là phải nói nhân duyên. Trong vô lượng kinh Phật nói tâm từ của hành giả bao trùm khắp chúng sinh 4 phương trên dưới. Chúng sinh trong cõi Sắc, Vô sắc cũng có vô thường bại hoại đọa các nẻo ác, tại sao lại không duyên.

Hỏi: Có luận sư nói chỉ sinh cõi Dục hành giả mới có thể hiện nhập vô lượng. Việc đó như thế nào?

Đáp: Tất cả sinh xứ đều có thể hiện vào.

Hỏi: Nếu sinh trong đó cũng có thể hiện vào thì phúc không thể hết, vì thường sống trong đó?

Đáp: Như trong đó cũng hiện nhập thiền v.v…, các thiện pháp khác, cũng vẫn có thoái lui. Từ v.v… cũng như vậy.

Hỏi: Nếu có lẽ nầy, sao không mau thoái lui?

Đáp: Có nghiệp như vậy, tuy có nhân duyên thoái lui, mà không mau thoái lui, như các cõi trời trong cõi Dục v.v…, tuy có thiện nghiệp mà cũng sinh ác đạo. Việc này cũng vậy.

Hỏi: Người tu từ Tam-muội, vì sao đao binh, nước lửa không làm hại được?

Đáp: Đó là nhờ phúc thiện sâu dày, nên các ác không hại được, lại còn được chư thiên bảo hộ.

Hỏi: Kinh nói với từ cùng tu giác ý. Hữu lậu và vô lậu làm sao cùng tu?

Đáp: Từ nầy và giác ý thuận nhau như trong kinh nói: Nếu ai nhất tâm nghe pháp, thì có thể dứt 5 thứ ngăn che. Tu 7 pháp giác ý không cần nghe pháp, cũng tu giác ý được.

Lại trong kinh nói: Này các Tì-kheo! Tu tập tâm từ, ta bảo đảm các ông được quả A-na-hàm. Tâm từ tuy không dứt kết, nhưng trước dùng tâm từ nhóm họp các lợi ích phúc đức trí tuệ, nên được Thánh đạo, vì Tuệ có thể dứt các kết, nên mới nói tu từ được A-na-hàm. Cùng với từ tu giác cũng như vậy.

Hỏi: A-la-hán dứt tưởng chúng sinh, làm sao tu vô lượng tâm?

Đáp: A-la-hán tuy vào tâm từ, mà không thể nhóm họp thành nghiệp từ, là vì không thụ sinh.

Hỏi: Thế nào là đại bi của hư Phật Thế Tôn?

Đáp: Chư Phật Thế Tôn có trí không thể nghĩ bàn như vầy: Tuy biết các pháp rốt ráo không mà có thể hành đại bi sâu sắc hơn phàm phu, chỉ không được quyết định tướng chúng sinh.

Hỏi: Bi với đại bi có gì sai khác?

Đáp: Gọi bi chỉ có lòng thương xót, có thể thành xong sự nghiệp, mới được gọi đại bi. Bởi vì sao? Vì Bồ-tát thấy chúng sinh khổ, muốn hết khổ nầy mới siêng có thể tu tinh tiến.

Lại trong vô lượng kiếp tu tập được thành, nên gọi đại bi.

Lại đem con mắt trí tuệ thấy khổ chúng sinh, quyết định phát tâm phải trừ diệt, nên gọi đại bi.

Lại làm nhìều việc lợi ích, nên gọi đại bi. Cũng không bị gì ngăn ngai, nên gọi đại bi. Bởi vì sao? Vì tâm bi nếu nghĩ ác về người khác thì sinh ngăn ngại, chứ đại bi đối với các ác dữ dội thông suốt không ngại.

Lại tâm bi có dày, mỏng không đồng, còn tất cả bình đẳng nên gọi đại bi.

Lại tự bỏ lợi mình, mà cầu lợi cho người, nên gọi đại bi. Tâm bi không được như vậy. Đó là các tên sai khác. Như vậy từ, v.v… ở Phật đều gọi là đại. Nhưng vì bi có thể cứu khổ, cho nên được nêu riêng.

Phẩm 160: NĂM NHÁNH THÁNH TAM-MUỘI

Trong kinh nói 5 nhánh Thánh Tam-muội là hỷ, lạc, thanh tịnh tâm, minh tướng, và quán tướng. Hỷ là sơ thiền nhị thiền tướng hỷ như nhau, nên gọi chung làm một nhánh. Đệ tam thiền vì lìa hỷ lạc nên riêng làm một nhánh. Trong đệ tứ thiền tâm thanh tịnh nên gọi nhánh thứ 3. Nương 3 nhánh nầy có thể sinh minh tướng, quán tướng. Minh tướng và quán tướng nầy làm nhân, có thể phá rách 5 ấm. Quán 5 ấm trống không, gọi là quán tướng. Có thể đến Nê-hoàn, nên gọi là Thánh. Hỏi: Trong kinh nói 5 Thánh trí Tam-muội là thế nào?

Đáp: Phật tự nói: Hành giả khởi nghĩ như thế này: Ta với Tammuội nầy là Thánh thanh tịnh, đó là sơ trí. Tam-muội nầy phi phàm phu mới đến gần được, là Tam-muội được người trí ngợi khen, đó là trí thứ hai. Tam-muội nầy phải tịch diệt diệu ly mới được, đó là trí thứ ba. Tam-muội nầy hiện tại vui, sau được quả báo vui, đó là trí thứ tư. Tam-muội này ta nhất tâm nhập, nhất tâm xuất, đó là trí thứ năm. Phật chỉ thị cho biết trong định cũng có trí tuệ. Không những chỉ buộc tâm, mà hành giả khi tu tập định, nếu sinh phiền não thì trong đó sinh trí trừ phiền não ấy. Muốn làm cho Tam-muội là Thánh thanh tịnh gọi là sơ trí. Thánh thanh tịnh là hạng phi phàm phu mới đến gần được, là điều người trí ngợi khen. Nói phi phàm phu nghĩa là các Thánh nhân vì đã được trí nên không gọi phàm phu. Trí nầy có thể phá giả danh, đó là trí thứ hai. Mỏng dần các phiền não, tham v.v…, phiền não diệt, nên gọi tịch diệt. Vì tịch diệt nên diệu, lìa các phiền não nên gọi là ly. Được pháp nầy đều là đạo lìa dục, đó là trí thứ ba. Tùy chứng phiền não dứt, được an ổn tịch diệt, được cái vui lìa nóng nảy, nên nói hiện vui, sau vui. Hiện vui, là vui lìa phiền não. Sau vui là vui Nê-hoàn, đó là trí thứ tư. Hành giả thường hành tâm vô tướng, nên thường nhất tâm nhập Tam-muội xuất Tam-muội, đó là trí thứ năm. Cho nên nếu người nào chưa sinh 5 trí thì phải sinh, sinh rồi tức được quả Tam-muội.

Phẩm 161: SÁU TAM-MUỘI

Hỏi: Trong kinh nói 6 Tam-muội là: Có một tướng tu làm một tướng. Có một tướng tu làm nhiều các tướng. Có một tướng tu làm một tướng và nhiều các tướng. Nhiều các tướng tu cũng như vậy. Thế là thế nào?

Đáp: Một tướng đó phải là thiền định. Vì thiền định ở trong một cảnh, duyên nhất tâm hành. Cho nên nhiều các tướng phải là tri kiến, vì biết các pháp nhiều các tính, nên có phương tiện đối với các pháp trong 5 ấm v.v…

Hỏi: Một tướng tu làm một tướng là thế nào?

Đáp: Là như người nhờ định lại được sinh định. Còn một tướng tu làm nhiều các tướng là như người nhờ định được sinh tri kiến. Một tướng tu làm một tướng và nhiều các tướng là như người nhờ định được sinh thiền định và 5 ấm phương tiện. Nhiều các tướng tu cũng như vậy.

Hỏi: Có luận sư nói: Một tướng tu làm một tướng, phải là như người nhờ đệ tứ thiền chứng quả A-la-hán. Một tướng tu làm nhiều các tướng là như người nhờ đệ tứ thiền chứng 5 thần thông. Một tướng tu làm một tướng và nhiều các tướng là như nhờ đệ tứ thiền chứng quả A-la-hán và 5 thần thông. Nhiều các tướng tu làm nhiều các tướng là như người nhờ 5 nhánh Tam-muội chứng quả A-la-hán và 5 thần thông.

Còn 2 pháp kia cũng như vậy. Nghĩa đó thế nào?

Đáp: Phải nói nhân duyên vì sao đệ tứ thiền và quả A-la-hán là một tướng, 5 nhánh Tam-muội và 5 thần thông là nhiều các tướng?

Lại 5 nhánh không nên làm chỗ nương, vì 5 nhánh Tam-muội là minh tướng quán tướng của 4 Thiền, thì làm sao nương đó được quả A-la-hán? Bởi vì sao? Vì cần phải nương một thiền mới được A-la-hán quả.

Lại cũng không nên nương minh tướng để được quả A-la-hán. Cho nên không đúng.

Hỏi: Có người nói có 6 thứ nhập định là thuận nhập, nghịch nhập, nghịch thuận nhập, thuận siêu, nghịch siêu, và nghịch thuận siêu. Việc đó thế nào?

Đáp: Có luận sư nói: Hành giả muốn được diệt tận định, nên thứ lớp nhập xuất các thiền. Cho nên không nên hoặc nghịch, hoặc thuận, hoặc nghịch thuận, và siêu việt v.v….

Năm thứ nhập xuất được lợi ích gì?

Hành giả muốn được diệt tận định, quyết phải nhập theo thứ lớp, cũng phải xuất theo thứ lớp.

Lại nếu được bậc thượng, vì sao lại nhập bậc hạ?

Vì bậc hạ gai góc, như người lớn không còn ưa cách chơi đùa của trẻ con.

Lại như người vì nghề nghiệp đã tinh xảo, thì không còn ưa sự vụng về nữa. Việc này cũng phải như vậy.

Lại nếu nói siêu việt thì việc này không đúng. Trong kinh chỉ nói thứ lớp vào các thiền định. Hành giả nếu có thể vượt đến thứ 3, sao không thể vượt đến 4, 5? Nếu nói vậy sức mạnh chỉ chừng đó, như người trèo lên thang lên một bậc không lên được bậc nữa, ví dụ này cũng không hẳn nhất định.

Lại người sức mạnh có thể bước lên bậc 4, lại cũng có thể vượt trên trăm bậc. Cho nên không đúng. Trong kinh tuy nói khi Phật nhập Nê-hoàn, nghịch thuận vượt lên vào các thiền định. Kinh nầy trái với chính nghĩa, không nên tin thụ. Tuy có câu đó, nhưng nghĩa không phải vậy. Bởi vì sao? Nếu nói hành giả đến diệt tận định, chỉ nên thuận nhập mà không cần 5 thứ. Hành giả nếu muốn đến thẳng diệt định, thì không cần. Nếu muốn tự thử tâm mình ở trong thiền định xem có thể tự tại không thoái lui, nên mới nghịch thuận nghịch, xuất nhập, siêu việt, như người cỡi ngựa, nếu tại trận đối địch thì không nên chạy quanh, còn như muốn tập luyện trong lúc nhàn rỗi thì nên. Nếu nói bậc dưới gai góc thì không nên vào đó, không vì bậc dưới thắng hơn mà sau lại vào, mà vì là chỗ hành đạo của hành giả. Nếu nói như người không ưa trẻ nít đùa giỡn, mà vì nhân duyên phải làm trẻ nít đùa giỡn, như người dạy vũ đạo phải múa nhảy trọn ngày, đâu phải lòng mình ưa vui mà vì dạy dỗ luyện tập. Như vậy Thánh nhân nghịch thuận ra vào vượt lên các thiền, là vì muốn thị hiện cho trời, người và các thần, tiên biết sức tự tại trong các thiền định.

Lại khi Phật vào Nê-hoàn, vì muốn đem thâm diệu thiền định để huân tu ngọc Xá-lợi, nên tự tại vào ra nghịch thuận vượt lên.

Lại người thấy Phật khi vào Nê-hoàn vô dư, chán hết tất cả pháp hữu vi, cho nên Phật hiện pháp báu quí đáng yêu mến này.

Ông nói kinh này trái với chính nghĩa, điều này không đúng.

Ông nói vì sao không thể vượt đến thứ 4, là vì trong Bồ-tát Tạng nói tướng vượt lên từ sơ thiền khởi vào diệt tận đinh, từ diệt tận định khởi cho đến vào trong tản tâm, vì tâm lực vĩ đại nên mới có thể như vậy.

Phẩm 162: BẢY TAM-MUỘI

Luận giả nói có 7 chỗ nương: Nương sơ thiền được hết lậu, cho đến nương Vô sở hữu xứ được hết lậu. Nương là nhân nhờ 7 chỗ này được Thánh trí tuệ, như nhiếp tâm được sinh thật trí. Có người chỉ được thiền định cho đó là đủ. Cho nên Phật nói đó không phải đã đủ. Cần phải nương định nầy cầu thêm thắng pháp. Nghĩa là hết các lậu, cho nên nói là nương.

Hỏi: Làm sao nương thiền định nầy được hết các lậu?

Đáp: Phật nói hành giả tùy đem tướng nào, duyên nào vào sơ thiền là hành giả đó không còn nghĩ nhớ tướng đó, duyên đó nữa, mà chỉ quán trong sơ thiền, có các sắc, hoặc thụ, tưởng, hành, thức như bệnh, như ung nhọt, như tên bắn, đau nhức, vô thường, khổ, không, vô ngã. Khi quán như vậy, tâm sinh chán lìa, giải thoát các lậu. Cho đến Vô sở hữu xứ cũng như vậy. Chỉ trừ 3 không xứ vì không có sắc có thể quán được. Hành giả thấy cõi Dục rối loạn, sơ thiền tịch diệt, rồi sau mới được. Cho nên Phật nói: Đừng nghĩ tướng vui tịch diệt ở sơ thiền, mà chỉ quán 5 ấm và 8 thứ tội lỗi của sơ thiền mà thôi. Các chỗ nương khác cũng vậy.

Hỏi: Cõi Dục vì sao không nói nương?

Đáp: Trong Kinh Tu-thi-ma nói: Trừ 7 chỗ nương lại có Thánh đạo xứ. Cho nên biết cõi Dục cũng có nương.

Hỏi: Có người nói nương một bên sơ thiền chưa đến chỗ được quả A-la-hán. Việc đó thế nào?

Đáp: Không phải vậy. Nếu chưa đến nơi mà có chỗ nương, tức là có lỗi. Nếu chưa đến chỗ có thể được, vì sao vì không vào sơ thiền? Cho nên không phải.

Hỏi: Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vì sao không nói nương ư?

Đáp: Trong đó không rõ định nhiều tuệ ít, nên không nói có nương. Bảy tưởng định là 7 chỗ nương.

Hỏi: Vì sao Phật nói 7 chỗ nương là 7 tưởng định?

Đáp: Ngoại đạo không có chân trí nên chỉ nương dựa nơi tưởng. Tất cả chỗ nương dựa đều bị tưởng làm nhiễm ô không giải thoát, nên gọi là tưởng định. Thánh nhân có thể phá hoại tưởng, chỉ nương định nầy thẳng lấy hết lậu, nên gọi là nương. Như nói hành giả quán các pháp nầy như tật bệnh, như ung nhọt. Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng vì tưởng không rõ rệt, nên không nói tưởng định.

Phẩm 163: TÁM GIẢI THOÁT

Luận giả nói: Trong kinh nói 8 giải thoát: Trước tiên tưởng nội sắc, quán ngoại sắc. Hành giả nhờ giải thoát nầy xé rách các sắc. Làm sao biết được? Vì trong đệ nhị giải thoát nói: Nội không sắc tưởng, quán sắc bên ngoài. Để phá sắc bên trong nên nói nội không sắc tưởng. Cho nên biết hành giả trong sơ giải thoát, phá dần sắc thân, đến trong đệ nhị giải thoát, đã phá được sắc bên trong, chỉ còn sắc bên ngoài. Trong đệ tam giải thoát sắc bên ngoài cũng phá, nên không thấy sắc trong ngoài, đó gọi là sắc không. Như trong Kinh Ba-la-diên nói: Phá rách sắc tướng, dứt diệt các dục, trong ngoài không thấy, ta hỏi việc đó. Trong 4 giải thoát nói tâm thức trống không, như trong Kinh Lục Chủng nói: Nếu Tì-kheo đối với 5 thứ rất sinh chán lìa, chỉ còn có thức. Phải biết trong 4 giải thoát nầy phá rách các sắc, đến giải thoát thứ 8 mới diệt hết tất cả. Bởi vì sao? Nếu diệt sắc diệt tâm thì hữu vi đều diệt, đó gọi là quả A-la-hán. Dùng thứ lớp như vậy mới được diệt hết. Đó gọi là 8 giải thoát. Có người nói giải thoát đầu tiên và thứ hai là bất tịnh, giải thoát thứ ba là tịnh. Việc này không đúng. Bởi vì sao? Vì là giải thoát không bởi quán bất tịnh mà được giải thoát, tịnh quán cũng không giải thoát, chỉ do không quán mới có thể giải thoát.

Lại ngoại đạo có thể được tịnh và bất tịnh quán, mà không gọi là được giải thoát.

Hỏi: Ngoại đạo cũng có thể phá rách sắc tướng, việc đó thế nào?

Đáp: Ngoại đạo lấy tín giải quán, phá hoại sắc tướng, mà không phải không quán. Bởi vì sao? Như dùng tín giải mà quán. Thấy thân đã chết đem bỏ trong gò mả cho trùng, thú ăn v.v….

Hỏi: Ngoại đạo lìa sắc được vô sắc định, lẽ ra phải có vô sắc giải thoát?

Đáp: Ngoại đạo tuy có Vô sắc định, mà vì tham đắm nên không gọi giải thoát. Thánh nhân nhờ Vô sắc định có thể quán 4 ấm bệnh v.v… 8 việc, nên gọi giải thoát.

Hỏi: Ông nói diệt định là quả A-la-hán. Điều này không đúng. Bởi vì sao? Vì học nhân cũng gọi là được 8 giải thoát. Ông nói diệt định gọi là lậu tận, vậy thì học nhân phải được lậu tận?

Đáp: Trong kinh nói diệt tướng chung mà không phân biệt nói là tâm diệt hay là phiền não diệt. Như trong kinh nói 2 thứ diệt: một diệt, hai thứ lớp diệt, 2 thứ Nê-hoàn: một hiện tại Nê-hoàn, hai cứu cánh Nê-hoàn, cũng nói 2 thứ yên ổn: một an ổn, hai đệ nhất an ổn, người được an ổn cũng 2 dạng: một được an ổn, hai được đệ nhất an ổn. Cho nên sở đắc của học nhân không phải là chân thật diệt.

Lại trong kinh nói: Nếu Tì-kheo có thể vào diệt định là xong tất cả việc. Nếu diệt định không phải quả A-la-hán thì không nên nói xong tất cả việc.

Hỏi: Học nhân thật không được 8 giải thoát sao?

Đáp: Trong kinh nói học nhân được 9 thứ lớp định, không nói được diệt tận. Hành giả nếu được diệt tận, mà không thể vào các thiền định, gọi là tuệ giải thoát, nếu có thể vào các thiền định mà không được diệt tận, gọi là thân chứng. Nếu cả 2 đều được, gọi là đều giải thoát. Bởi vì sao? Vì các lậu là một phần chướng, mà pháp thiền định là một phần đắc. Giải thoát 2 phần trên gọi là đều giải thoát.

Hỏi: Trong các thứ lớp diệt và trong các giải thoát diệt, có gì khác nhau?

Đáp: Tên đồng mà nghĩa khác. Trong thứ lớp diệt, gọi là tâm, tâm số diệt. Trong giải thoát diệt, gọi là các phiền não diệt. Như trong kinh nói các hành thứ lớp diệt. Nghĩa là vào sơ thiền diệt ngôn ngữ, vào nhị thiền diệt giác quán, vào tam thiền diệt hỷ, vào tứ thiền diệt lạc, vào không xứ diệt sắc tướng, vào thức xứ diệt không tướng, vào vô sở hữu xứ diệt thức tướng, vào phi tưởng phi phi tưởng xứ diệt vô sở hữu tướng, vào diệt tận định diệt các tưởng thụ. Các diệt trong đây lại có thắng diệt, như hành giả đối với tâm tham sân si nhàm chán nên được giải thoát.

Hỏi: Làm sao biết trong thứ lớp tâm, tâm số diệt, trong giải thoát các phiền não diệt?

Đáp: Tên diệt tuy đồng mà nghĩa phải có khác. Trong thứ lớp nói diệt tưởng thụ. Trong giải thoát nói diệt vô minh xúc thụ. Bởi vì sao? Vì từ giả danh sinh thụ, phá giả danh thì diệt. Trong thứ lớp không phải như vậy. Trong các kinh có sai khác như vậy. Nếu nói thẳng hành giả được diệt tận thì xong tất cả mọi việc. Phải biết vì khi chứng Nê-hoàn các phiền não diệt, không nói tâm, tâm số diệt.

Hỏi: Nếu 8 giải thoát là pháp diệt phiền não thì tất cả A-la-hán v.v… đều phải được?

Đáp: Đều được, nhưng không thể vào. Nếu chứng được các thiền định, thì có thể vào.

Hỏi: Hành giả nếu không thiền định, làm sao có thể được thân tâm trống không, và hết các phiền não?

Đáp: Người này có định mà không thể chứng.

Lại có như điện Tam-muội, nhờ Tam-muội này được hết phiền não. Như trong kinh nói: Ta thấy Tì-kheo khi muốn lấy áo có phiền não, lấy áo rồi tức không phiền não. Như vậy là bởi vì sao? Vì tâm như điện, Tam-muội như kim cương. Chân trí có thể phá phiền não.

Lại nghĩa này trong đệ tam lực của Phật có nói: Như các thiền, giải thoát, Tam-muội, nhập, cấu, tịnh, sai biệt, như thật biết, trong đó thiền là 4 thiền. Có người nói 4 thiền, 4 vô sắc định đều gọi là thiền. Giải thoát là 8 giải thoát. Tam-muội là trong một niệm Tammuội như điện. Nhập là được sức tự tại trong thiền giải thoát Tammuội. Như Xá-lợi-phất nói: Ta trong 7 Giác, có thể xuất nhập tự tại. Cho nên biết tuệ giải thoát, với A-la-hán có các thiền định không thể nhập, thâm tu tập mới có thể tự tại nhập.

Hỏi: Vì sao A-la-hán có vị không tu tập sâu các thiền định?

Đáp: Người đó được đạo, việc làm đã xong, vui tu tâm xả, nên không hay tập nữa. Nếu không tâm xả, thì vào định không khó. Như trong kinh nói: Hành giả khéo tu 4 pháp như ý túc, có thể thổi tan núi Tuyết thành bụi đất, huống chi thứ vô minh chết ư? Cho nên biết trong 8 giải thoát nói diệt hết lậu, không phải nhập định diệt.

Lại trong kinh nói: Có minh tính, có không tính, có vô biên hư không tính, có vô biên thức tính, có vô sở hữu tính, có phi tưởng phi phi tưởng tính, có diệt tính. Bởi tối nên có tính sáng. Bởi chẳng không, nên có tính không. Bởi sắc nên có tính vô biên hư không. Bởi tính vô biên hư không, nên có tính vô biên thức. Bởi vô biên thức nên có tính vô sở hữu. Bởi vô sở hữu nên có tính phi tưởng phi phi tưởng. Bởi 5 ấm nên có tính diệt. Nếu không thể phá tướng giả danh của 5 ấm đó gọi là tối. Nếu có thể phá giả danh của 5 ấm, thì gọi là tính sáng. Như Phật bảo một Tì-kheo: Ông đối với không, trong các hành phải quán các hành trong trống không, để tự điều phục tâm mình. Như người cầm đèn vào trong căn nhà trống không, tất cả chỗ thấy đều không. Hành giả lấy sắc chứng sắc nầy diệt, gọi là không tính.

Ngoại đạo nhờ vô biên hư không xứ được lìa sắc, cho đến nhờ phi tưởng phi phi tưởng xứ mà lìa vô sở hữu xứ. Bởi các ấm có diệt tính đó, hành giả có những suy nghĩ, có các tác khởi đều diệt là vi diệu. Đó gọi là bởi các ấm có diệt tính.

Hỏi: Các tính nầy nương định nào mà được?

Đáp: Trong kinh nói minh tính cho đến phi tưởng phi phi tưởng tính, đều do tự hành nhập định mà được. Nghĩa là hành duyên hữu vi đạo nên được. Bởi vì sao? Vì trí mới duyên sắc gọi là minh tính. Tính thứ hai cũng lấy sắc, lấy rồi phân biệt khiến không. Như vậy cho đến phi tưởng phi phi tưởng tính, diệt tính, vào diệt tính, tất cả pháp hữu vi đều không, cho nên mới được. Trong đây vì diệt tận các hữu vi cho nên biết trong đây nói diệt gọi là lậu tận Nê-hoàn.

Hỏi: Các giải thoát nầy ở trong bậc nào?

Đáp: Hành giả muốn phá hoại sắc, hoặc nương cõi Dục mà trụ định, hoặc nương cõi Sắc mà trụ định, thì có thể được sắc không. Tất cả trong các bậc có thể được tâm không.

Hỏi: Giải thoát nầy có mấy hữu lậu, mấy vô lậu?

Đáp: Là không tính cho nên tất cả là vô lậu.

Phẩm 164: TÁM THẮNG XỨ

Thắng xứ thứ nhất: Tưởng nội sắc thấy ngoại sắc ít hoặc tốt hoặc xấu. Đối với các sắc nầy thắng tri thắng kiến, nên gọi là thắng xứ.

Thứ hai tưởng nội sắc thấy ngoại sắc nhiều.

Thứ ba tưởng nội không có sắc, thấy ngoại sắc ít.

Thứ tư tưởng nội không có sắc, thấy ngoại sắc nhiều.

Thứ năm tưởng nội không có sắc, thấy ngoại sắc xanh, hình xanh, sáng xanh, như hoa Ưu-ma-già, như sắc chân thanh nhuộm áo Ba-la-nại.

Thứ sáu thấy vàng.

Thứ bảy thấy đỏ.

Thứ tám thấy trắng.

Hành giả thấy các sắc nhiều vô lượng như thế bởi vì sao? Vì không chỉ có 4 sắc xanh v.v… này, mà vì lược nói nên mới có 8 thắng xứ. Nếu hành giả có thể dùng không quán phá rách các sắc, bấy giờ gọi là thắng xứ.

Hỏi: Ai có thể được pháp này?

Đáp: Đệ tử của Phật chứ không phải ai khác.

Hỏi: Tám thắng xứ nầy ở trong bậc nào?

Đáp: Ở cõi Dục, và cõi Sắc.

Hỏi: Là hữu lậu hay vô lậu?

Đáp: Trước là hữu lậu, mà dùng không quán phá sắc thành vô lậu.

Hỏi: Vì sao pháp này riêng gọi là thắng xứ?

Đáp: Đó là chỗ tham đắm nhất của hành giả. Cho nên Phật vì đệ tử nói tên thắng xứ, nghĩa là chỉ thị cho biết cần phải thắng cảnh duyên nầy.

Phẩm 165: SƠ THIỀN

Chín thứ lớp của định là 4 thiền, 4 vô sắc định và diệt tận định. Sơ thiền là như trong kinh nói: Hành giả lìa các dục các pháp ác bất thiện, hữu giác, hữu quán, ly sinh hỷ lạc vào sơ thiền.

Hỏi: Chỉ nên nói tướng sơ thiền, sao lại nói lìa các dục ư?

Đáp: Có người chê bai nói thế gian không ai có thể lìa dục, vi người đời đều ở trong 5 dục, không ai mắt không thấy sắc, tai không nghe tiếng, mũi không ngửi mùi, lưỡi không nếm vị và thân không chạm xúc. Cho nên nói lìa dục, là dục tâm chứ không phải là sắc v.v…

Như nói sắc v.v… các vật không gọi là dục.

Làm sao biết được?

Có người tinh tiến, sắc v.v… vẫn tồn tại, mà có thể dứt dục.

Lại trong kinh nói: Sắc v.v… là phần không gọi là dục. Trong đó tâm tham mới gọi là dục. Nếu sinh tâm tham thì tìm cầu các dục. Vì nhân duyên tìm cầu dục, nên mới có tham giận, roi gậy, giết hại, các ác pháp tiếp theo. Như trong Kinh Đại Nhân nói: Nhân nơi ái sinh cầu v.v…. Cho nên biết lìa tham dục gọi là lìa dục.

Có người nói lìa sắc v.v… 5 thứ dục gọi là lìa dục, lìa pháp ác bất thiện, gọi là lìa 5 thứ ngăn che. Sơ thiền gần với tâm tán loạn, nên gọi hữu giác.

Lại định lực của hành giả nầy chưa thành, tâm tán loạn phát khởi, nên gọi là hữu giác. Như trong kinh nói: Ta tu hạnh hữu giác hữu quán. Phải biết Phật nói tản tâm là giác. Giác nầy yếu dần nhiếp tâm chuyển thành sâu, thì gọi là quán. Tùy theo định lực thành tựu, không tản tâm nhiều, bấy giờ nói là quán. Quán nầy đi theo hành giả đến bậc thiền trung gian. Nếu lìa giác quán được hỷ gọi là ly sinh hỷ. Hỷ nầy mới được có thể lợi ích nơi thân, nên gọi là lạc. Lìa giác quán vui trụ trong một cảnh duyên, đó gọi là thiền. Thiền nầy bị giác quán làm loạn nên được quả báo thân có sai khác. Vì hạ, trung, thượng sai khác nên có trời Phạm Chúng, trời Phạm Phụ, trời Đại Phạm.

Hỏi: Nếu lìa giác quán hỷ, gọi là sơ thiền, thì không cần dùng 5 nhánh làm sơ thiền. Nếu lìa giác quán thì với đệ nhị thiền có gì khác nhau?

Lại trong kinh nói: Sơ thiền có giác có quán, khoái lạc khác, hỷ cũng khác. Nếu hỷ tức là lạc, thì trong 7 giác ý không nên riêng nói khoan khoái giác ý?

Đáp: Ông nói sơ thiền không có 5 nhánh. Điều này không đúng. Không nói 5 nhánh là tính của sơ thiền. Sơ thiền gần địa có giác quán nầy, nên gọi là nhánh.

Hỏi: Nếu gần địa có pháp số là nhánh, thì sơ thiền cũng gần 5 dục, thì phải nói là nhánh?

Đáp: Năm dục không gọi là gần, vì tâm hành giả nầy đã lìa.

Lại sơ thiền thứ lớp không khởi dục tâm.

Lại 5 dục không trụ làm nhánh sơ thiền. Nhánh gọi là nhân. Nhân tức là phần, như thánh đạo phần nhóm họp đủ v.v…. Giác quán cũng như vậy, là nhân của sơ thiền. Nếu định tâm của hành giả ở trong cảnh duyên bị thoái lui, thì trở lại lấy định tướng. Nhiếp tâm nơi cảnh, nhớ nghĩ bản tướng, đó gọi là giác quán. Cho nên biết giác quán là nhân của sơ thiền. Trong đệ nhị thiền, định tâm đã thành, cho nên không do giác quán làm nhân, nhị thiền cũng thứ lớp mà không sinh giác quán.

Nếu ông nói sơ thiền cùng chung với giác quán, đó cũng không đúng. Vì từ sơ thiền khởi, kế đó sinh giác quán. Vì gần giác quán nên gọi là cùng chung, như cùng đi chung với đệ tử, tuy chút xa nhau, nhưng cũng gọi là chung được.

Lại trong bậc nầy có sinh nhân duyên, nên gọi có giác quán, như người bệnh quỉ ám, tuy khi không phát cũng gọi là bệnh. Người nầy bị quỉ ám nếu có cơ hội là phát ra, nên gọi là bệnh.

Lại lạc thụ tức là hỷ, chỉ nói sai khác cũng từ khoái mà riêng nói là lạc. Như trong kinh nói: Được thân khoái thì thụ lạc.

Hỏi: Nếu như vậy, sao sơ thiền nói 5 nhánh ư?

Đáp: Tùy lúc nói 5, như 7 giác ý được thời tiết, thì gọi là 14 giác ý. Trong đây nói có khoái thân, khoái tâm mà thật ra thân không khoái, chỉ có tâm vui nên thân cũng thụ vui. Hỷ cũng như vậy, ban đầu đến nơi thân gọi là hỷ. Mới đầu được tướng hỷ lạc, nên gọi là lạc. Về sau chỉ gọi hỷ, vì khác thời gian.

Lại không riêng có pháp khoái, chỉ khi hỷ sinh thân tâm không còn thô nặng, mà được nhu nhuyến điều hòa, nên gọi là khoái. Như bệnh 4 đại diệt, bệnh 4 đại không sinh, người đó gọi là vui. Khoái cũng như vậy.

Lại trong pháp trừ diệt cũng gọi là khoái. Như trong kinh nói: Các hành thứ lớp diệt. Như nhập sơ thiền, ngôn ngữ diệt, cho đến nhập diệt tận định các tưởng thụ diệt. Cho nên không riêng có pháp khoái. Nếu nói sơ thiền tương ưng với giác quán cũng không đúng. Bởi vì sao? Trong kinh nói: Hành giả nếu vào sơ thiền thì diệt ngôn ngữ. Giác quán là nhân của ngôn ngữ, làm sao có nhân ngôn ngữ mà ngôn ngữ diệt? Nếu bảo rằng giác quán vẫn còn, chỉ ngôn ngữ diệt, thì như người ở cõi Dục khi tâm không muốn nói, cũng gọi là diệt.

Hỏi: Nếu trong sơ thiền không giác quán, phải gọi là Thánh mặc nhiên. Mà Phật chỉ nói nhị thiền là Thánh mặc nhiên, không nói sơ thiền. Cho nên biết sơ thiền, phải có giác quán?

Đáp: Vì gần giác quán nên không nói mặc nhiên, chứ không phải giác quán tương ưng nên không nói.

Lại trong kinh nói sơ thiền còn có âm thanh kích thích, nên không nói là mặc nhiên.

Hỏi: Trong sơ thiền vì sao có âm thanh kích thích?

Đáp: Sơ thiền an trụ định tâm yếu ớt như hoa trên mặt nước, đệ nhị thiền v.v… an trụ định tâm mạnh như sơn sơn vào gỗ.

Lại xúc v.v… cũng gọi những kích thích đối với sơ thiền, vì xúc có thể khiến khởi sơ thiền vậy. Nhị thiền v.v… không như vậy. Bởi vì sao? Vì trong sơ thiền các thức không diệt, nhị thiền v.v… 5 thức diệt hết.