ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH SỚ
Đời Nguyên,Viện Sùng Thánh Sa-môn Sư Chánh thuộc tông Thiên Thai soạn thuật.
PHẨM 20: PHẠM HẠNH
PHẦN 1
Các sư cho rằng bốn tâm Phạm hạnh là thể, ba phẩm là thể của Thánh hạnh, dẫn kinh: “Nói bốn Vô lượng là đường Phạm thiên, gọi là xoay bánh xe pháp. Nói bốn Đế là Đệ nhất nghĩa thiên gọi là xoay bánh xe pháp”.
Có sư cho rằng tuệ, định, giới là thể của Phạm hạnh, bảy thiện đều biết, biết tức là Tuệ; bốn tâm là mười hai môn thiền, tức là Định; sau nói trì giới được hay mất tức là giới. Nếu thế thì đâu khác gì với Thánh hạnh. Nhưng có khác, vì phạm là hạnh hóa tha, thánh là hạnh tự lợi. Thánh hạnh lấy tuệ làm chính; giới, định giúp thành tựu. Thánh hạnh là pháp tu của bậc Thánh; phạm hạnh là đạo thanh tịnh, đạo chung cho phàm, Thánh. Thánh hạnh thì trước là giới, sau mới là tuệ, phạm hạnh thì trước là tuệ sau là giới, cho nên phàm Thánh khác nhau.
Có sư lại cho rằng nhân quả là thể của Phạm hạnh. Phạm nghĩa là tịnh, là nhân của Niết-bàn, dẫn đến quả Niết-bàn, vì thế lấy nhân quả là thể của Phạm hạnh.
Các nghĩa trên đều chẳng đúng. Nếu bốn tâm làm thể thì đó là đạo Phạm thiên chứ chẳng phải Đại Niết-bàn. Nếu ba tâm là thể, thì tuy khác Thánh hạnh nhưng chẳng ngoài Nhị thừa, chẳng phải Đại Niếtbàn. Nếu nhân quả là thể thì còn ở nhân quả đâu được gọi là Tịnh, chẳng phải Đại Niết-bàn. Nếu chẳng phải Đại Niết-bàn thì cái gì là Phạm hạnh? Danh nghĩa chẳng thể giữ được, nên đều chẳng sử dụng.
Nay nói Phạm tức là Tịnh, Tịnh có ba nghĩa: Tịnh tịnh, bất tịnh tịnh, chẳng phải tịnh tịnh chẳng phải bất tịnh tịnh.
Thế nào là Tịnh tịnh? Là bảy thiện, bốn tâm vô lượng, ba phẩm, sáu niệm. Các pháp này đều là đạo thanh tịnh của Niết-bàn xuất thế. Nay dùng Phạm hạnh làm thanh tịnh khắp các tịnh. Kinh ghi: Pháp gì là căn cứ của tất cả thiện? Nên nói đó là Từ”. Đó gọi là tịnh tịnh.
Thế nào là Bất tịnh tịnh? Ta nói Từ có vô lượng môn, đó là thần thông điều phục voi, điều phục người điên cuồng, trị bệnh mắt, trị bệnh ung nhọt, dùng từ tâm đi trong thế gian, dùng tâm bi vào vạc nước sôi, nhờ năng lực gốc lành của Từ nên không nơi nào chẳng đến, làm cho các bất tịnh trở thành tinh. Đó gọi là bất tịnh tịnh.
Thế nào gọi là chẳng phải tịnh tịnh chẳng phải bất tịnh tịnh? Đó là Đại Thừa Đại Bát Niết-bàn chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải tự, chẳng phải tha, chẳng phải nhiễm, chẳng phải tịnh, rốt ráo thanh tịnh. Đó là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Như Lai. Văn kinh ghi: “Nếu Từ là pháp có không, là có là không thì đó là Từ của Thanh văn. Nếu Từ là pháp có không, chẳng có chẳng không là Từ của Như Lai”. Từ của Như Lai thì chẳng phải tịnh tịnh chẳng phải bất tịnh tịnh.
Ba Từ này ngang dọc đều khác nhau, chẳng diệu chẳng tịnh, ngay nơi một mà ba, ngay nơi ba mà một, chẳng thể nghĩ bàn, đó mới gọi là Phạm hạnh thanh tịnh. Từ ba mà gọi là phẩm Phạm Hạnh. Toàn phẩm có hai phần:
- Nói về phạm hạnh.
- Khen ngợi kinh.
Thứ nhất nói về Phạm hạnh, gồm có ba: – Nói về bảy thiện. – Nói về bốn tâm – Nói về giữ giới.
Nói về bảy thiện, có hai: 1. Nêu; 2. Giải thích Giải thích có ba là nêu lên, giải thích và kết luận.
Nêu tức nêu chương môn, nêu số và kể tên. Trong bảy thiện này, ba pháp trước có cả mình và người, hai pháp kế chỉ có tự hành, hai pháp sau là hóa tha. Nếu nói theo chánh phụ, thì chánh là hóa tha, phụ là tự hành.
Trong phần giải thích ở trước nói về bảy thiện của Biệt, kế là nói bảy thiện của Viên. Thứ nhất có bảy chương: một, là giải thích biết pháp; pháp thì chung cho tự và tha, vì biết pháp nên sẽ tự hành và hóa tha. Chương này có ba phần là nêu lên, giải thích và kết luận. Thứ nhất như văn kinh.
Thứ hai là giải thích, gồm nêu lên và giải thích.
Phần giải thích có mười hai đoạn, thứ nhất là giải thích Tu-đa-la.
Xưa cho rằng từ Tu-đa-la không dịch chỉ dùng năm nghĩa giải thích hoặc dịch là Khế kinh, tức dùng từ nước này thay cho từ nước kia, hoặc cho rằng khế kinh là dịch đúng. Khai Thiện cho rằng chỉ có chung, không có riêng. Trang Nghiêm cho rằng nếu riêng tức là kệ tụng và văn xuôi, dẫn luận Thành Thật “Kỳ-dạ tụng Tu-đa-la”.
Kỳ-dạ gọi đủ là Lộ-già-kỳ-dạ, dịch là cú, tụng. Khai Thiện cho là Đẳng cú, Trang Nghiêm dịch là Đẳng tụng, Quang Trạch dịch là Trùng tụng là kệ tụng phần văn xuôi.
Thọ Ký, tiếng Phạm gọi là Hòa-già-la-na. Luận gọi là kinh giải nghĩa. Ở đây dịch là Thọ Ký, tức là thọ ký cho sáu đường và Ba thừa.
Già-đà, có chỗ dịch là Bất đẳng cú, hoặc dịch là Bất đẳng tụng, hoặc dịch là Trực kệ, tức Cô khởi kệ. Nói trừ Tu-đa-la tức là trừ phần văn xuôi được tụng riêng. Lại nói trừ các giới luật tức là trừ các bài kệ loại này trong các giới luật, tức là biết trước đó có phần văn xuôi, nếu không có phần văn xuôi tức là kệ Cô khởi.
Ưu-đà-na, trong luận gọi là văn xuôi không có phần tụng, trong kinh gọi là Vô vấn tự thuyết nhân duyên, kệ này có ra pháp cú.
A-ba-đà-na, luận ghi tức là Thí Dụ kinh.
Y-đế-mục-đa-già, luận ghi là Nhất trúc Y-đế-mục-đa-già. Khai Thiện dịch là Như thị ngữ. Trang Nghiêm dịch là Bản sự. Nói “Lời ta nói gọi là giới kinh”: tức là mỗi kinh đều có giới hạn riêng, tức muốn nói mỗi loại đều có ranh giới khác nhau, gọi là Như thị ngữ.
Xà-đà-già, luận dịch là Bản sinh, nhưng bản sinh và bản sự không khác nhau, hợp cả hai thành thể loại thứ chín gọi là Bản sinh, thứ tám gọi là Như thị ngữ. Nếu chia riêng thì thể loại thứ tám gọi là Bản sự, thứ chín gọi là Bản sinh.
Tỳ-phật-lược, luận ghi là Quảng. Nói kinh này dịch là Phương Quảng. Cũng dịch là Trực Quảng, là tên gọi trong các kinh Tiểu thừa, gọi là Phương quảng là tên gọi trong Đại thừa.
A-phù-đà-na dịch là Vị tằng hữu.
Ưu-ba-đề-xá dịch là Luận nghị, cũng dịch là Đại giáo, Giải nghĩa. Trong Đại thừa không dùng danh từ giải nghĩa. Quang Trạch dịch Hòagià-la-na là Giải nghĩa, tức là giải nghĩa thọ ký.
Từ câu “Nếu Bồ-tát v.v…” trở xuống là đoạn ba, tổng kết.
Kế là nói biết nghĩa.
Tức là biết rõ lý nói trong mười hai thể loại kinh. Lời này rất sơ lược, nên phải nói là hiểu rõ các nghĩa không, bình đẳng trong mười hai thể loại kinh. Hơn nữa đối với một câu mà hiểu vô lượng nghĩa; hiểu nghĩa rốt ráo thanh tịnh. Nếu hiểu được ba nghĩa như thế, thì nghĩa mới tròn đủ.
Thứ ba nói về biết thời.
Nói trong thời như thế thuận theo bố thí tức là ý hóa tha, còn các câu khác là tự hành.
Thứ tư, là giải thích biết đủ và tự biết là thuộc về tự hành.
Thứ năm là tự biết mình.
Xem kỹ là thiện hay bất thiện, như Tăng Tử nói: “Ta mỗi ngày ba lần tự xét bản thân”.
Thứ sáu, Từ câu “Thế nào là biết chúng v.v…” trở xuống, gồm có hai thiện nói về hóa tha. Biết chúng: Nên biết đủ các chúng trong mười pháp giới, văn kinh chỉ lược nêu người và Nhị thừa; trong mỗi chúng đều dùng ba nghiệp để giáo hóa nhưng văn kinh chỉ lược nêu thân và miệng. Hơn nữa, giáo hóa thì phần lớn là thân và miệng, ít dùng đến ý, vì thế lược bỏ không nêu.
Thứ bảy, là biết cao thấp.
Nên biết đầy đủ sự cao thấp của mười cõi, nhưng văn kinh đã lược bỏ không ghi. Bất tín là Xiển-đề, tức là cõi địa ngục, đây là hạng rất thấp hèn; không bao giờ đến chùa, không tạo phước đức, tức cõi ngạ quỷ; không lễ bái là kiêu mạn, tức đường súc sinh; chẳng nghe pháp, chẳng nhận lãnh sự dạy bảo của pháp, tà vạy hung ác, tức là đường Tula; chẳng dốc lòng nghe pháp là tán thiện; chẳng chuyên tâm tức là cõi người; chẳng suy nghĩ nghĩa lý, tuy dốc lòng nghe pháp nhưng chẳng thể suy nghĩ nghĩa lý, là thuộc cõi trời; chẳng thể tu hành, chỉ có văn và tư, không có tu tuệ, tức là Nhị thừa phương tiện đạo cạn mỏng yếu kém, đều thuộc về Ti, chỉ cầu Tiểu thừa, không có chí nguyện rộng lớn; tuy có phát chân nhưng cũng là Ti. Nếu cầu Đại thừa thì mới là tôn quý, theo thứ lớp so sánh cho đến Viên biệt là cõi Phật, Bồ-tát, cứ như thế từng đoạn từng đoạn thay nhau làm cao thấp.
Từ câu “Này thiện nam, v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói về bảy thiện của Viên giáo, nêu hai dụ là dụ hạt châu như ý là dụ cho sinh điều lành của Viên, dụ cam lộ là dụ cho sự diệt ác của Viên. Một điều lành gồm tất cả điều lành, không điều lành nào không đầy đủ trong đó, một diệt thì tất cả diệt, không điều ác nào chẳng diệt. Vì thế nêu lên hai nhóm. Trước dụ sau hợp, rất dễ thấy.
Từ chữ như thế trở xuống là hợp dụ.
Nói rằng cao nhất, quý nhất trong hàng trời người, nếu chỉ giải thích theo trời người thế gian thì chưa đầy đủ, mà cần phải nói là cao nhất, quý nhất trong hàng trời người thánh hiền mới hợp với văn kinh ở đây.
Từ câu “Đó gọi là v.v…” trở xuống là phần tổng kết.
Nếu đầy đủ bảy pháp thiện, tức là được một phẩm trong phạm hạnh.
Thứ hai, nói bốn tâm vô lượng. Bốn tâm vô lượng còn gọi là Bốn đẳng tâm. Nói vô lượng là y cứ theo cảnh, nói Tứ đẳng là y cứ theo tâm. Vì sao? Vì cảnh ở trước mắt chẳng phải một, cho nên nói vô lượng, nhưng cảnh tuy nhiều mà tâm chỉ một tướng cho nên gọi là Đẳng. Nhưng nói chung thì cảnh cũng có thể gọi là Đẳng, tâm cũng có thể gọi là Vô lượng.
Văn kinh có hai đoạn là nói bốn tâm và nói về quả của tâm. Đoạn thứ nhất có hai phần: một, là nêu thứ lớp bốn tâm; hai, là nói về tròn đủ bốn tâm. Thứ tư gồm có ba đoạn là lược nêu, nói về nghĩa và thọ lãnh tin hiểu. Thứ nhất như văn kinh ghi.
Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp, v.v…” trở xuống là phần nói về nghĩa, trước hỏi sau đáp.
Trong phần hỏi có nêu lên năm lời hỏi: một, là hỏi bốn tâm chỉ nên có ba tâm; hai, là hỏi bốn tâm chỉ nên có một tâm; ba, là hỏi lại bốn tâm chỉ nên có ba; bốn, là hỏi bốn tâm chỉ nên có hai tâm; năm, là hỏi lại bốn tâm chỉ nên có một tâm. Nhưng nếu tổng hợp thì sẽ trở thành ba câu: một, là thứ nhất và thứ ba đều gạn hỏi bốn tâm chỉ nên có ba tâm; hai, là thứ hai và thứ năm đều hỏi bốn tâm chỉ nên có một tâm; ba, là hỏi bốn tâm chỉ nên có hai tâm. Nhưng nay y cứ theo văn kinh mà chia thành năm câu.
Thứ nhất cho hai tâm không khác, cùng có công năng đối trị sân hận, lẽ ra chỉ tính một tâm. Tâm hỷ có công năng ban vui và tâm xả có công năng diệt si, vậy tính chung chỉ nên nói ba tâm, chẳng nên nói bốn.
Từ câu “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói tất cả đều đồng, có ba ý hỏi về bốn tâm lẽ ra chỉ có một.
Đầu tiên là nêu ba duyên, kế là giải thích ba tâm. Ba duyên tuy có sâu cạn nhưng chỉ một nghĩa. Y cứ theo cảnh tuy có khác nhưng tâm duyên không khác nhau. Như duyên kẻ nghèo cùng tức là chúng sinh duyên, biết người nghèo cùng này cần có y thực tức là pháp duyên, nếu biết chúng sinh cần dùng vật gì, biết Như Lai thọ hưởng Đệ nhất an lạc thì không còn cần vật gì, đó là vô duyên. Cho nên tâm năng duyên là một chẳng phải bốn. Vì thế chỉ là một.
Duyên năm ấm gọi là chúng sinh duyên, vậy năm ấm từ đâu mà sinh? Duyên vào vật cần dùng mà ban cho họ, đó gọi là pháp duyên, nếu duyên Như Lai chẳng cần các vật này tức vô duyên. Muốn nói tâm duyên cảnh cùng khắp cho đến trên duyên với Phật, huống chi là các cảnh khác.
Từ câu “Cảnh duyên của từ v.v…” trở xuống là thứ ba, nêu ba duyên để hỏi.
Cảnh chúng sinh thì cạn mỏng, pháp thì không sâu xa, vô duyên tức cả hai đều không trụ cho nên rất sâu xa. Đã có ba duyên thì đâu thể nói bốn. Các sư luận Thành Thật cho rằng: “Duyên chúng sinh là “chúng sinh không”, duyên pháp là “pháp không”, duyên Như Lai là “bình đẳng không”. Theo đây thì đánh mất ý văn kinh. Nói duyên chúng sinh là duyên cha mẹ, vơ con, mong ban cho họ sự an vui, có bao giờ nói là “không”?
Từ câu “người có hai hạng v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ tư.
Hạng kiến hành là lợi căn, hàng ái hành là độn căn. Hàng lợi căn thích sân hận, vì chỉ dạy kẻ độn căn mười lần mà chẳng hiểu nên nổi giận, vì thế phải tu từ bi để xả bỏ tâm sân hận. Còn hàng độn căn khi thấy người lợi căn thì thường sinh tâm ganh ghét. Vì thế chỉ có hai chứ chẳng thể có bốn.
Từ câu “vô lượng v.v…” trở xuống là thứ năm, dùng danh từ ly hợp để hỏi.
Đã nói vô lượng thì đâu chỉ có bốn, đã có bốn thì chẳng có vô lượng. Nếu là vô lượng thì chỉ có một.
Kế là lời Như Lai đáp, có hai: một, là phá định chấp bốn; hai, là đáp lời hỏi về không có bốn.
Thứ nhất lại có ba: một, là nói về giáo môn rộng lược chẳng định; hai, là nói về phản thường bất định; ba, nói về đối trị hoặc bất định.
Đã bất định thì đâu cần có bốn. Đầu tiên là y cứ mười hai nhân duyên bất định làm lời đáp.
Hoặc nói mười một cho đến hai, một nhân duyên, tất cả là tùy cơ làm lợi ích chúng sinh, chẳng thể nhất định. Nói: “Trừ một pháp sinh”. Hà Tây cho rằng: “Ngoại đạo Tát-già Ni-kiền Tử thông minh dùng đồng lát mỏng buộc quanh bụng, đầu đội hỏa quan đến chỗ ở của Phật, tâm ý cao ngạo, không chịu nghe pháp. Cha của ngoại đạo là một vị Phạm chí, mẹ là một Ni-kiền, cả hai đều xuất gia. Vì từ cha mẹ phi pháp sinh, cho nên cho đó là điều xấu hổ, còn tất cả việc khác thì chẳng kiêng sợ. Đức Phật muốn giúp người này, cho nên trừ một chi Sinh, chỉ nói mười một chi.
Từ câu “Như Lai Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai nói trái lại thường bất định, hoặc cho rằng Khẩu mật bất định.
Phật chân thật đầy đủ thường, lạc, ngã, tịnh mà cũng nói vô thường, bất tịnh. Sinh tử thật là vô thường bất tịnh mà cũng nói thường, lạc, ngã, tịnh.
Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn ba đối trị các hoặc bất định, tức là Thân mật bất định.
Làm vua Chuyển luân ban phát tài vật là Xả, ban cho năm dục lạc là Hỷ, làm tôi tớ là Từ, can ngăn quở trách là Bi.
Từ câu “Thể tánh v.v…” trở xuống là thứ hai, đáp về câu hỏi không có bốn tâm, có hai ý là chung và riêng. Ý chung lại gồm có hai: một, nêu hai việc; hai, bác bỏ chung các câu hỏi trước. Nêu hai việc, trước nói về thể khác nhau, sau nói về dụng khác nhau.
Nói về được quả báo khác nhau. Tu tâm từ thì sinh lên cõi trời Biến Tịnh, tu tâm bi thì sinh lên cõi trời Không vô biên, tu tâm hỷ được sinh lên cõi Thức vô biên, tu tâm xả được sinh lên cõi Bất dụng, cõi khác nhau nên đối trị hoặc cũng khác.
Từ câu “Chủng loại v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về dụng khác nhau.
Tham thì lấy vật của người, từ thì ban phát vật cho người. Sân thì làm khổ người, bi thì cứu khổ cho người. Ganh tị thì ghét bỏ điều tốt của người, hỷ thì ban niềm vui cho người. Si thì mãi mãi yêu ghét, xả thì dứt hẳn ghét yêu.
Từ câu “Vì nghĩa này v.v…” trở xuống là thứ hai, tổng kết các câu hỏi trước và sau.
Chẳng phải một, tức là bác bỏ câu thứ hai và thứ năm, chẳng phải hai là bác bỏ câu thứ tư, chẳng phải ba tức bác bỏ câu thứ nhất và câu thứ ba.
Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là phần thứ hai, đáp riêng năm câu hỏi. Gồm có năm chương, đầu tiên là đáp câu hỏi thứ nhất đối trị các hoặc, chỉ có ba không có bốn.
Nay nói tuy đồng đối trị sân, nhưng sân có khinh và trọng, cho nên thành bốn. Có sáu lần lại có, như văn kinh đã ghi.
Từ câu “vì thế v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ hai, là đồng duyên.
Đối trị các hoặc có khác nhau, nên chủng loại có bốn, vậy đâu thể nói đồng có ba duyên, chỉ gom làm một.
Từ câu “Lại nữa, vì căn khí v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ ba về sâu cạn, vặn hỏi chỉ có ba.
Nay nói tùy theo dụng mà có bốn, đâu thể theo hạnh mà nói có ba,
hoặc có căn khí là cảnh.
Từ câu “Vì theo hạnh v.v…” trở xuống là trả lời câu thứ tư, y cứ vào người có lợi độn mà hỏi.
Muốn nói tuy có hai hạng người, mà có đến bốn hạnh, nên chẳng thể nói là hai hạnh.
Từ câu “vì vô lượng, v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ năm hỏi về tên gọi, có hai: đầu tiên là nêu bốn chương, kế là giải thích rộng.
Muốn nói là vô lượng còn có bốn câu, thì đâu ngại gì nói có bốn loại vô lượng.
Từ câu “Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ ba lãnh giải, như văn kinh có ghi.
Từ câu “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai, nói về chẳng thứ lớp tức viên bốn tâm, lại có hai phần: một, là phân biệt với tâm từ của Tiểu thừa; hai, hiển bày tâm từ của Đại thừa. Về Đại Tiểu này, thì Tiểu và chẳng phải Tiểu, chẳng thể lấy phàm phu làm Tiểu, Nhị thừa là Đại, Nhị thừa làm Tiểu, Bồ-tát làm Đại. Vì sao? Vì phàm phu và Nhị thừa đều chẳng trụ Đại Niết-bàn. Cho nên nay dùng tâm từ có thứ lớp làm Tiểu, tâm từ chẳng có thứ lớp làm Đại. Vì cả hai đều trụ Đại Niết-bàn. Lại có người lấy tương tự làm Tiểu, chân thật làm đại, nghĩa này chẳng đúng, vì thứ lớp tự, chân đều là Tiểu, cho nên nói phân biệt Tiểu, Đại. Văn có hỏi và đáp.
Hỏi: Có Bồ-tát nào trụ trong kinh Đại Thừa Đại Niết-bàn được tâm từ bi, mà chẳng phải là đại từ đại bi hay chăng? Đây chính là hỏi về phạm hạnh có thứ lớp.
Kế đến Phật đáp có ba phần: một, nêu là có; hai, giải thích là có; ba, kết luận là có. Thứ nhất như văn kinh.
Giải thích có hai: Trước nêu cảnh, sau nói về quán.
Cảnh có chín phẩm. Oán, thân, và không oán không thân, mỗi loại có ba phẩm, hoặc cho rằng hạnh không oán không thân chỉ có một phần, nên có bảy phẩm. Vì hạng này đối với ta chẳng thân chẳng oán nên chẳng chia làm ba phẩm. Vừa xem qua thì như thế, nhưng xét kỹ trong hạng này chẳng phải không có ngu trí, sang hèn khác nhau. Cho nên chia làm ba, thành chín cảnh, tức có chín tâm từ.
Từ câu “Bồ-tát này v.v…” trở xuống là nói về tu quán.
Nếu hoàn toàn chưa tu tập mà muốn ban cho thì đối với ba hạng thân thuộc ban cho ba phẩm vui; ba hạnh oán ghét ban cho ba phẩm khổ; ba hạnh không thân không oán thì không ban cho khổ vui. Như mới tu tâm Từ thì đối với ba hạng người thân yêu sẽ ban cho ba phẩm vui; đối với ba hạng người oán ghét thì oán bậc thượng ban cho vui bậc hạ, oán bậc trung ban cho vui bậc trung, oán bậc hạ ban cho vui bậc thượng. Khi vào bậc tu thứ hai, đối với oán bậc thượng ban cho vui bậc trung, oán bậc trung và hạ thì ban cho vui bậc thượng. Khi vào bậc tu tập thứ ba, đối với ba kẻ oán đều bình đẳng ban cho vui phẩm thượng, nhưng chưa phải là ba niềm vui đối với ngườithân thuộc. Khi vào bậc tu thứ tư thì dùng niềm vui bậc hạ của người không oán không thân mà đồng ban cho ba kẻ oán ghét. Khi vào bậc tu thứ năm, dùng niềm vui bậc trung của người không oán không thân mà đồng ban cho ba kẻ oán ghét. Khi vào bậc tu thứ sáu, dùng cái vui bậc thượng của người không oán không thân mà đồng ban cho ba hạng kẻ oán ghét. Khi vào bậc tu thứ bảy thì dùng niềm vui bậc hạ của ba hạng người thân mà đồng ban cho ba kẻ oán ghét. Khi vào bậc tu thứ tám, dùng cái vui bậc trung của hạng người thân mà đồng ban cho ba kẻ oán ghét. Khi vào bậc tu thứ chín, dùng niềm vui bậc thượng của người thân mà đồng ban cho ba kẻ oán ghét. Đó gọi là đối với kẻ oán bậc thượng mà ban cho niềm vui tăng thượng. Bấy giờ, gọi là thành tựu tâm Từ.
Vả lại, nếu y cứ theo hai phẩm vui và chín cảnh lúc mới nhập quán, đối với ba hạng người thân ban cho ba phẩm an vui; Vào quán cảnh thứ hai, đối với hạng người thân bậc trung sẽ ban cho niềm vui bậc thượng, người thân bậc hạ ban cho niềm vui bậc trung. Vào cảnh thứ ba trở xuống đối với người thân bậc hạ, ban cho niềm vui bậc thượng. Vào quán cảnh thứ tư, đối với người không oán không thân bậc hạ sẽ ban cho niềm vui bậc hạ. Vào quán cảnh thứ năm, đối với người không oán không thân bậc hạ sẽ ban cho niềm vui bậc trung. Vào quán cảnh thứ sáu, đối với người không oán không thân bậc hạ sẽ ban niềm vui cho bậc thượng. Vào quán cảnh thứ bảy, đối với người oán bậc thượng sẽ ban cho niềm vui bậc hạ. Vào quán cảnh thứ tám, đối với người oán bậc thượng sẽ ban cho niềm vui bậc trung. Vào quán cảnh thứ chín, đối với người oán bậc thượng sẽ ban cho niềm vui bậc thượng. Đó gọi là thành tựu tâm Từ.
Nay trong văn kinh chỉ lược nêu bốn phen nhập quán. Phần thứ nhất đối với ba hạng người thân, bình đẳng ban cho niềm vui bậc thượng. Đó là bao gồm ba hạng người thân thành một phần. Chia riêng ba hạng người oán thành một phần. Nếu nói về tu quán thì có chín phẩm tu tập khác nhau, nhưng trong văn kinh chỉ nói về ba phẩm.
Từ câu “Đó gọi là v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận là có.
Từ “Bạch Thế Tôn v.v…” trở xuống là phần hai, cũng có hai phần là trước hỏi sau đáp.
Đáp gồm có ba: một, nói khó thành; hai, là giải thích; ba, là kết kuận. Thứ nhất từ câu “vì sao v.v…” trở xuống là giải thích, trước nêu pháp, kế là nêu dụ thuyết.
Nêu bốn dụ như văn kinh đã ghi. Vì các hoặc thì mạnh, từ tâm thì yếu kém, nên chẳng thể gọi là Đại. Đạt được Hoặc và Từ thành tựu mới gọi là đại Từ.
Từ câu “Vì nghĩa này v.v…” trở xuống là kết luận.
“Này người thiện nam v.v…” trở xuống là phần thứ hai, hiển bày đại Từ. Nói về viên bốn tâm là đại Từ, văn có hai đoạn:
- Nói về đại Từ
- Nói về hư thật
Nói về đại từ có ba ý: Một, là chính thức nói đại từ; hai, là nói về kiêm dụng; ba, là nói về gốc thiện. Nói về đại từ lại có ba là nêu lên, giải thích và kết luận. Thứ nhất như văn kinh ghi.
Trong đoạn giải thích hàm ý ở trên nói đối với kẻ oán bậc thượng thì ban cho niềm vui bậc thượng, nhưng không ban cho Nhất-xiển-đề niềm vui bậc thượng. Còn ở đây thì tâm từ tròn đầy, duyên với Nhấtxiển-đề, chỉ thấy Thật tướng, chẳng thấy lỗi lầm, nên chẳng sinh tâm tức giận. Như thế mới là Đại từ.
Thứ ba, là kết luận.
Từ câu “Trừ những điều v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về sự kiêm dụng của tâm từ.
Nếu như từ chỉ ban vui, bi chỉ cứu khổ thì chẳng phải là kiêm dụng. Nay nói từ cũng có cả dụng cứu khổ, bi cũng có cả dụng ban vui, xả cũng như thế.
Từ câu “chỉ có bốn tâm vô lượng, v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về gốc lành gồm có ba ý: một, là nói về gốc của sáu độ; hai, là gốc phát tâm; thứ ba, là gốc tự tướng.
Từ câu “Ca-diếp bạch v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về hư thật. Khai Thiện cho là Thật quán, cũng có hai là hỏi đáp. Hỏi có ba: một, là bắt bẻ không có; hai, là bắt bẻ dù có; ba, là ngăn chặn. Thứ nhất gồm có pháp và dụ. Đầu tiên là nêu pháp.
Tuy muốn cứu khổ mà thật chưa cứu, thì đều là luống dối, tuy muốn ban vui mà thật chẳng được vui, đây là giả nói.
Kế là nêu dụ để hiển.
Cũng như Tỳ-kheo tu giả quán, quán bát canh thành chất dơ uế, mà chẳng thật dơ uế. Tuy nói ban niềm vui mà thật chẳng được vui.
Từ câu “Nếu chẳng luống dối v.v…” trở xuống là ý thứ hai vặn hỏi dù có.
Dù thật có ích, vì sao chẳng thấy người được an vui. Nếu thật có ban cho an vui, vì sao hôm nay có vô lượng vô biên chư Phật, Bồ-tát mà chẳng thấy ban an vui cho chúng sinh?
Từ câu “Nếu quả thật v.v…” trở xuống là ý thứ ba vặn hỏi ngăn chặn.
Từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là trả lời ba câu hỏi ở trước. Thứ nhất là trả lời câu ngăn chặn, thứ hai là trả lời câu không có, thứ ba là trả lời câu dù có. Lời đáp thứ nhất có hai: trước là khen lời ngăn chặn của Ca-diếp.
Kế là chánh đáp, gồm mười sáu câu kệ chia làm ba: một, gồm có bốn câu nói về đại Từ.
Thứ hai gồm bốn câu nói về đại bi.
Thứ ba gồm tám câu so sánh.
Như thật có thể ban cho niềm vui, thì công đức vô lượng.
Từ câu “Người tu tâm từ v.v…” trở xuống là đáp câu không có. Có hai ý: một, là nêu chân thật.
Cố nêu điều trái giả tưởng của Thanh văn để nói lên Bồ-tát là chân thật.
Từ câu “làm sao biết được, v.v…” trở xuống là ý thứ hai nói rộng về thật, gồm có năm: một, thật có chuyển cảnh; hai, thật có đối trị các hoặc; ba: thật có gốc thiện; bốn, thật cùng khắp các pháp; năm, thật chẳng thể nghĩ bàn. Thứ nhất có ba là nêu lên, giải thích và kết luận.
Thứ nhất như văn kinh ghi.
Hàm ý trong đoạn giải thích ở trên, có hai cách giải:
Một, cho rằng chuyển được cảnh. Hai, cho rằng có thể làm cho thấy. Nếu chuyển vàng thành đất thì đúng thật là chuyển; nếu khiến chúng sinh thành chẳng phải chúng sinh thì chỉ có thể thấy mà thôi. Có Sư cho rằng kinh đã nói: Năng thành thì vì sao có hai cách giải. Bồ-tát chẳng những có khả năng chuyển vàng thành đất, mà cũng có khả năng chuyển chúng sinh thật thành chẳng phải chúng sinh, chẳng phải chúng sinh tức là cây cỏ, chuyển chẳng phải chúng sinh thành chúng sinh. Nếu nói chúng sinh xưa nay đều là luống dối, chẳng thật có, thì nên biết trong chúng sinh có người chẳng phải chúng sinh. Nếu nói các pháp có tánh an vui thì chẳng phải chúng sinh cũng là chúng sinh, vậy tình và vô tình, hữu tánh vô thường đều y cứ theo đây mà biết.
Nay hỏi thêm rằng: Nếu chúng sinh và chẳng phải chúng sinh thật có khả năng chuyển đổi nhau, tình thành vô tình, vô tình thành hữu tình, thì nghĩa này thật khó tin. Nếu chẳng thật chuyển thì thần lực của bậc thánh mở ra luống suông. Tóm lại, chư Phật Bồ-tát đã đạt được, y chánh không hai mà hai, hai mà không hai, khiến cho chúng sinh cũng như thế, đó là chuyển biến mãi mãi. Nếu tạm chuyển thì không đâu chẳng có nghĩa này, cũng khiến cho người chuyển chẳng tự hay biết, huống chi từ tức Như Lai, Như Lai tức là từ, từ tức Phật tánh, Phật tánh tức các pháp. Kính xin các vị đời sau hãy suy xét, suy xét.
Từ câu “Lại nữa, này người thiện nam, v.v…” trở xuống là ý thứ hai nói về thật có công năng đối trị các hoặc, gồm có ba là nêu lên, giải thích và kết luận.
Xưa nói bốn đẳng chỉ là công đức của tướng hỷ lạc tạm chế phục sân nhuế, chưa phải là dứt rốt ráo. Bốn đẳng nói ở đây là Bát-nhã, tức là năng đoạn.
Từ câu “Lại nữa, này người thiện nam, bốn vô lượng, v.v…” trở xuống là ý thứ ba nói về thật là gốc lành, có hai: một, là nói về việc có khả năng làm gốc lành Đại thừa; hai, là có khả năng làm gốc lành cho Ba thừa.
Thứ nhất lại có hai: một, là chung cho tất cả gốc lành; hai, là có khả năng làm gốc cho hạnh bố thí. Đầu tiên như văn kinh rất dễ thấy.
Từ câu “Nếu Bồ-tát v.v…” trở xuống là nói riêng làm gốc cho bố thí, có năm câu: một, là chính thức làm gốc cho thí; hai, vô tướng là được; ba, hữu tướng là mất; bốn, tâm tức nhất tâm; năm, là phát thệ nguyện.
Đầu tiên là nói về gốc bố thí, có nêu tám việc, lấy tám việc ấy làm căn bản.
Từ câu “Khi bố thí như thế v.v…” trở xuống là thứ hai nói vô tướng là được, gồm ba ý: chung, riêng và kết luận. Nói chung như văn kinh ghi.
Nói chẳng thấy nhân quả, tức khi bố thí là nhân, khi được báo là quả, được quả là Thường, chẳng được là Đoạn. Bồ-tát chẳng thực hành bố thí như thế.
Thứ ba, từ câu “Tuy chẳng thấy v.v…” trở xuống là kết luận, như văn kinh có ghi.
Từ câu “Nếu Bồ-tát thấy, v.v…” trở xuống là ý thứ ba nói hữu tướng tức mất, gồm có pháp, dụ và hợp. Pháp thuyết như kinh có ghi.
Trong dụ này, người dụ cho Bồ-tát có hạnh cạn thấp, mũi tên dụ cho bỏn sẻn sinh khởi, quyến thuộc mời thầy thuốc dụ cho vị tri thức khuyên bố thí. Nói: “Hãy đợi đã” là dụ cho chẳng chịu bố thí đúng thời. Nói “Để ta xem” là chấp tướng, phân biệt “Ai bắn tên” là dụ cho việc phân biệt ruộng phước là giữ giới, phạm giới. Nói “Mũi tên làm bằng tre hay bằng gỗ dương liễu” là dụ cho tâm phân biệt vật thí, tức vật nào nên bỏ, vật nào chẳng nên bỏ, “Thuốc độc trên mũi tên” là dụ cho người chấp bố thí mà chẳng biết bố thí. Nói “Thì đã chế” tức đã chẳng biết bố thí mà còn bị bỏn sẻn ngăn che, chặt đức gốc lành.
Kế là hợp dụ, như văn kinh ghi.
Từ câu “Khi Bồ-tát v.v…” trở xuống là ý thứ tư, nói một tâm tức bốn tâm để nói lên tướng từ tròn đầy.
Nói khi hành bố thí đầy đủ bốn đẳng tâm, tức khi bố thí sinh tâm từ và khởi tâm bi. Đang khi bố thí tâm hoan hỷ, sau khi thí thì buông xả.
Từ câu “Bồ-tát sống trong tâm từ v.v…” trở xuống là ý thứ năm, phát nguyện lớn, có tám lớp. Thứ nhất nói về thí thực cho đến đèn sáng. Đầu tiên có ba lớp như văn kinh ghi.
Nói lìa thân một thước sáu tấc có hai cách giải thích: một, là nếu nói theo lý là xé rách các kiến chấp, dứt mười sáu tri kiến; hai, là nói theo sự là mỗi mặt là bốn tấc, tức là một thước sáu tấc. Trong Thí Hương Hoa thứ năm, nói vô giới tức là giới của vô giới, chẳng phải không thọ giới và thọ không đắc. Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Giới như hư không, giới vô sở úy”. Kinh Đại Tập ghi: “Giới vô sở trụ, thấy có trụ giới thì chẳng đúng”. Nói giới vô tác, chẳng phải vô tác của phi sắc phi tâm, mà đây chính là giới chẳng tạo tác sinh tử, Niết-bàn. Ba giới khác như văn kinh đã ghi.
Từ câu “Tất cả Thanh văn v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai làm gốc của Ba thừa, gồm có ba: một, là nói về ba Thừa; hai, là nói tất cả pháp; ba, là tổng kết.
Vì chương này dùng từ gồm thâu tất cả, không pháp nào chẳng gồm thâu, nên nghĩa Viên Từ lại càng sáng tỏ. Nhưng gốc của thiện tức là lợi tha, mà trong lợi tha thì tâm Từ và Bi là bậc nhất. Thứ nhất nói về ba thừa.
Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là thứ hai, nêu riêng tất cả pháp.
Bất tịnh và Xuất nhập tức là hai môn cam lộ. Về bày phương tiện, các sư Số Luận nói: Bất tịnh, biệt tướng, tổng giảm, tổng tướng, Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất. Các Luận sư nói: Sắc Khổ, Sắc Tập, Sắc Diệt, Sắc Đạo, Sắc Quả, Sắc Vị, Sắc Xuất. Ba quán xứ là Khổ, Vô Thường, Vô Ngã, đó là danh nghĩa của Tiểu thừa. Còn theo Đại thừa thì quán Khổ nghiệp và phiền não của Mười hai nhân duyên là ba quán. Kinh Anh Lạc nói ba quán là Nhị Đế Quán, Bình Đẳng Quán và Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Quán. Vô tránh có ba cách giải: một, là tâm từ thành tựu nên vô tránh; hai, là giải “không” sáng tỏ nên vô tránh; ba, là tùy tâm giác chiếu, không tranh cãi với chúng sinh nên gọi là Vô tránh.
Về trí biết bản tế có hai: một, là “không” giải tức bản tế, cho nên A-nhã Kiều-trần-như là liễu bản tế; hai, dùng trí biên tế duyên kéo dài hay rút ngắn đều tự tại là trí bản tế.
Từ câu “Vì nghĩa này v.v…” trở xuống là thứ ba tổng kết.
Từ câu “người thiện nam có khả năng làm lành, v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, nói thật cùng khắp tức là các điều lành cũng cùng khắp đối với tất cả pháp thiện mà nói Viên Từ càng hiển rõ. Văn có hai: một, tức là các pháp thiện của Đại thừa, gồm mười lăm câu; hai, các điều lành Tiểu thừa gồm có mười sáu câu.
Trên đây gồm mười lăm câu, mỗi câu đều có kết luận là tâm từ Như Lai.
Từ câu “Nếu Từ vô thường v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai, chỉ nói pháp thiện Tiểu thừa.
Mười sáu câu trên, mỗi câu đều được kết luận là tam từ Thanh văn.
Từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là ý thứ năm, nói về thật chẳng thể nghĩ bàn. Văn có bốn đoạn:
- Khen ngợi thể của Đại từ.
- Khen ngợi người hành Từ.
- Khen ngợi giáo nói về Từ.
- Nói về người chủ giảng nói Từ.
Thứ nhất là khen ngợi thể.
Xưa có ba cách giải thích: Một, là cho rằng tâm từ của chúng sinh thì duyên hữu, pháp duyên thì duyên với không, vô duyên thì duyên với chẳng phải có chẳng phải không. Hai, là cho rằng Sơ địa đến Tam địa phần nhiều là tâm không nên không; từ Tứ địa đến Thất địa phần nhiều là tâm hữu nên có; từ Bát địa đến Thập địa thì không hữu đều quán, nên nói chẳng có chẳng không. Ba, là cho rằng đồng y theo quả Phật diệu hữu, cho nên nói có, không có quả sinh tử, nên nói là không, thầm hợp chân nên chẳng phải có chẳng phải không.
Nay cho rằng các thuyết trên đều chẳng đúng, đã duyên với năm ấm vì sao lại không. Nếu là không thì lẽ ra nên vào chân, đã chẳng vào chân thì sao lại là không. Vả lại, nếu là không thì đâu khác gì với vô duyên. Hơn nữa từ Sơ địa đến Tam địa đâu chỉ một bề là không, và chẳng phải có không, đâu chỉ đều là Phật địa.
Nay văn kinh khen ngợi người thực hành tâm từ. Nhưng hạnh thì đều có song phi, không hẳn chỉ là Phật. Đây chính là ý trong phẩm Phạm Hạnh. Như duyên với tịnh tịnh là vô, nếu duyên với bất tịnh tịnh là hữu, nếu duyên với chẳng tịnh chẳng bất tịnh là chẳng phải có chẳng phải không, chẳng chung chẳng riêng. Lại duyên với ba Đế, trong đó duyên với chân nên không, duyên với tục nên có, duyên với Trung đạo nên chẳng phải có chẳng phải không.
Trung Luận ghi: “Pháp do nhân duyên sinh tức không, tức giả, tức Trung đạo.”
Hỏi: Bốn câu là hý luận, vì sao dùng để giải thích kinh?
Đáp: Nếu chấp bốn câu có định tánh thì đó là hý luận, còn bốn câu giả danh thì chẳng phải hý luận.
Từ câu “Bồ-tát sống trong v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai khen ngợi người hành từ.
Từ câu “Kinh Đại Niết-bàn v.v…” trở xuống là thứ ba, khen ngợi giáo nói về hạnh từ.
Từ câu “chư Phật v.v…” trở xuống là ý thứ tư, khen ngợi chủ giảng nói hạnh từ.
Từ câu “Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ ba, đáp câu hỏi thứ hai ở trên. Trước vặn hỏi rằng: “Nếu từ bi là thật thì lẽ ra có lợi ích”. Nên nêu lại lời hỏi để xin Phật trả lời.
Lại tiến lùi đều khó. Tức y cứ theo thật tu tâm từ là khó. Nếu Phật thật có tu thì nên ban cho chúng sinh, vì sao chúng sinh chẳng được lợi ích của tâm từ? Nếu từ chẳng làm lợi ích cho chúng sinh thì từ vô dụng.
Trong phần đáp có ba: Một, là nói thật có lợi ích; Hai, là dẫn việc để chứng minh; Ba, kết luận, khen ngợi không nghĩ bàn.
Đầu tiên lại có ba: Một, là nêu có ích; Hai, là từ câu “Có các chúng sinh v.v…” trở xuống là giải thích có ích; Ba, là từ câu “Vì nghĩa này, v.v…” trở xuống là kết luận lợi ích.
Thứ nhất như kinh ghi. Kế là giải thích lợi ích. Nếu là nghiệp nhất định chẳng thể chuyển đổi thì không được lợi ích, nếu là nghiệp bất định thì được lợi ích. Tuy là định nghiệp nếu có tu thiện thì lại thành bất định, như bất định do tám mươi tuổi, không thể chuyển đổi được, trong khoảng thời hạn ấy không chết ngang trái, thì tâm có được lợi ích cho họ. Vì sao nói là định nghiệp? Như mới khởi tâm giết đã khởi tâm độc hại sâu nặng thì khi giết có tâm quyết định. Giết rồi thì vui sướng, tất cả đều khởi tâm tức giận. Đây là nghiệp nhất định, chẳng thể ban cho niềm vui. Nếu là nghiệp bất định thì tâm từ có công năng ban cho niềm vui.
Hỏi: Nghiệp tự bất định, lẽ ra tự được niềm vui, vì sao lại cần tâm từ để ban vui cho?
Đáp: Tuy nghiệp bất định hoặc chuyển thành định nếu được Từ làm lợi ích thì sẽ chuyển nặng thành nhẹ. Nói: “Thấy sư tử, cọp, sói v.v… tự nhiên sinh sợ hãi” là dụ cho người tu tập hạnh từ, người khác thấy sinh tâm vui mừng.
Từ câu “Ta nói, v.v…” trở xuống là phần thứ hai, dẫn việc để chứng minh.
Nêu tám việc dụng tâm từ vận thần thông để cứu độ chúng sinh. Trong việc thứ nhất có nói gọi là máu, có ba cách giải thích: Một, cho rằng thời gian trước mười hai năm Phật chưa chế mặc hoại sắc, nên chỉ mặc y mầu đỏ. Hai, là cho rằng năm bộ luật nói khác nhau, trong luật Thập Tụng nói một y có điểm ba mầu xen lẫn; luật Ngũ Phần, Tứ Phần nói ba y thuận theo đắp một y màu thanh, nê, mộc-lan, trong đó mộc-lan là mầu đỏ. Ba, là cho rằng y ba sắc, tức một y dùng ba màu điểm vào, mỗi điểm như hạt châu lớn. Chỉ có đệ tử Phật mới đắp điểm y. Điểm tuy nhỏ, nhưng từ xa trông giống như toàn là mầu đỏ.
Kế là nêu năm việc, theo kinh rất dễ thấy.
Nói Kiều-tát-la và Xá-vệ, có chỗ cho rằng đó chỉ là một nước mà có hai tên gọi, hoặc cho rằng Kiều-tát-la là một nước phụ thuộc, nước này có giặc nên vua Ba-tư-nặc đem binh đánh dẹp.
Từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là phần thứ ba, kết luận, khen ngợi.
Nói về vô lượng tức chẳng thể nghĩ bàn là khen ngợi chung”. “Việc làm của Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn” là khen ngợi tâm từ có thứ bậc. Nói: “Việc làm của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn” là khen ngợi tâm từ tròn đầy. Nói: “Kinh Đại Thừa Đại Niết-bàn, v.v…” là khen ngợi giáo đều không thể nghĩ bàn, đều quy về Nhất Viên giáo là cảnh giới mà đường ngôn ngữ bặt, chỗ tâm hành dứt, chẳng thể nêu bày, chẳng thể tính lường.
PHẦN 2
Đầu phần hai của phẩm là đoạn hai nói về quả của bốn tâm, có hai ý:
Nói về quả Cực ái địa của ba tâm.
Nói về quả “không” bình đẳng địa của tâm Xả.
Xưa có hai cách giải: Một, là cho rằng ba tâm chưa thành chỉ chung thành một quả, một tâm đã thành nên có riêng được một quả. Hai, là cho rằng ba tâm đồng là hạnh hữu cho nên cùng một quả, một âm là hạnh không nên có một quả riêng.
Các nghĩa trên chẳng đúng, nếu ba tâm chưa thành thì làm gì có quả, vả lại bốn tâm đồng duyên với chúng sinh, đồng duyên vào pháp thì đồng là hạnh hữu, đồng duyên vô duyên thì đồng là hạnh vô. Hữu vô đã đồng thì ba và một phải đồng. Nay cũng nên một lần chia hai theo Biệt viên. Về biệt thì ngay nơi lý mà sự, ba tâm từ, bi và hỷ cùng với ái giúp nên một quả; tâm xả giúp không riêng một quả, nếu phán theo Viên, như trên đã nói một âm từ tức là bi, hỷ, xả; viên từ tức khắp tất cả pháp, không pháp nào chẳng gồm thâu, vậy quả có cách biệt ư? Văn lược ghi cũng là để giúp nhau hiển hiện, v.v…
Nói về Nhất tử địa, văn chia làm hai: – Nói về quả địa – Nói về nghĩa.
Thứ nhất lại có hai xướng môn và giải thích.
Một, xưa nói là Tánh địa; hai, cho là từ Bát địa trở lên; ba, cho là Sơ địa. Nay nói chẳng phải như thế. Trước nói hạnh Thánh tức là tự hành, đã cho là Sơ địa. Nay nói hạnh Phạm tức là Hóa tha, Tự hành đã vào Sơ địa thì Hóa tha đâu thể nói là Tánh địa, đâu thể định là vượt xa, nói từ Bát địa trở lên.
Các thuyết trên hoặc nói thái quá, hoặc nói bất cập. Đây chính là Sơ địa chứng quả hóa tha.
Từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích, đầu tiên nêu ra hai chương.
Nói Cực ái nhất tử, nhưng vì Cực ái nên có Nhất tử, vì Nhất tử nên có Cực ái, cả hai chẳng khác mà nay phân biệt khác, là vì Cực ái y cứ theo tâm, Nhất tử y cứ theo cảnh. Tử chẳng phải bên trong ngã, nên nói là cảnh ngoài.
Trong phần giải thích gồm có năm dụ, trong đó dụ thứ nhất giải thích Cực ái; bốn dụ sau giải thích Nhất tử, mỗi tên gọi đều có kết luận, chia ra rõ ràng. Thứ nhất như văn kinh ghi.
Từ câu “Thí như cha mẹ v.v…” trở xuống là dụ thứ hai, Bồ-tát thấy phàm phu khởi nhân ái thì sinh bi.
Từ câu “Như người lúc còn nhỏ, v.v…” trở xuống là dụ thứ ba, dụ riêng cho người học phát tâm, khởi tâm chấp đắm.
Nói đất, ngói đá, v.v… là dụ cho năm ấm, văn sau hợp với ba nghiệp thân, miệng, ý. Tay trái dụ cho thật trí, tay phải dụ cho quyền trí. Lại bên trái dụ cho định quán, bên phải dụ cho trí cứu giúp, đỡ đầu là cứu giúp điều lỗi của thân, móc kéo ra là cứu lỗi lầm của miệng.
Từ câu “Thí như đứa con v.v…” trở xuống là dụ riêng chúng sinh chiêu cảm quả khổ nên nói là đồng đọa vào địa ngục.
Từ câu “Thí như v.v…” trở xuống là dụ thứ năm, dụ chung cho nhân quả cứu giúp.
Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ hai, nói về nghĩa, gồm có hai phần hỏi đáp: thứ nhất là nói về nghĩa; thứ hai là thọ lãnh tin hiểu. Phần thứ nhất, trước là hỏi sau là đáp. Lời hỏi có hai: một, là trình bày thẳng chỗ không hiểu.
Kế là từ câu “Nếu các Bồ-tát v.v…” trở xuống là chính thức nói về nghĩa. Hoặc nói có năm câu, hoặc cho là ba câu vặn hỏi: một, là hỏi về việc giết Bà-la-môn. Hai, là hỏi về việc mắng Đề-bà-đạt-đa. Ba, là nêu Tu-bồ-đề làm dụ so sánh.
Thứ nhất chia làm ba: một, là vì sao giết; hai, là nên hộ niệm; ba, là vì sao chẳng đọa địa ngục.
Từ câu “nếu khiến cho bình đẳng, v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai quở trách Điều-đạt.
Thứ ba, nêu Tu-bồ-đề để dùng Tiểu thừa so sánh với Đại thừa.
Tiểu thừa còn hộ niệm chúng sinh, tức dùng ý này để so sánh với quả vị Phật tròn đầy còn có sát sinh quở mắng. Nếu đã là Từ tâm vì sao khiến cho chúng sinh thêm lớn phiền não.
Từ câu “Nay thầy, v.v…” trở xuống là ý thứ hai, Đức Phật trả lời. Tức trả lời ba câu hỏi trước, nhưng chẳng theo thứ lớp. Đầu tiên là trả lời câu so sánh, kế đó trả lời câu hỏi về sát sinh, sau cùng là trả lời câu hỏi về quở mắng. Vì sao chẳng theo thứ lớp? Chỉ vì câu hỏi gồm thâu trả lời trước, không cần theo thứ lớp, trường hợp này rất nhiều. Nhưng câu hỏi về so sánh rất quan trọng, vì sao? Vì nói thầy không có tâm Từ, chẳng bằng đệ tử, cho nên phải ngăn chặn bác bỏ trước, đồng thời quở trách: Là chẳng nên. Đầu tiên là quở trách chung.
Kế là nêu bảy việc, mỗi việc đều phân biệt quở trách Ca-diếp.
Nói chủy, mỏ chim nhọn gọi là chủy, vòi của muỗi cũng giống như thế, nên gọi là chủy.
Năm việc trên rất dễ hiểu.
Đoạn cuối cùng nêu ra nhiều việc, trong đó có nói thà sống chung với rắn độc v.v… là mượn Ca-diếp để răn cấm kẻ ngu si.
Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi về giết người. Có ba ý, nay đầu tiên nói vì sao phải giết, mà thật chẳng phải giết, nói rộng sáu độ. Văn có ba đoạn:
- Nêu lại câu hỏi
- Chánh đáp
- Kết luận thật chẳng giết
Từ câu “Khi trước v.v…” trở xuống là trả lời ý hỏi về hộ niệm, cũng có ba, trước là nêu lại câu hỏi.
Kế là, từ câu “Bấy giờ, v.v…” trở xuống là giải thích.
Ở trước ngài Ca-diếp hỏi khi chưa được Bất động địa thì có được phá giới hay chăng, Như Lai trả lời được. Ở đây Phật trả lời là khi giết các Bà-la-môn thì đã đạt đến Nhất tử địa. Hai văn này nghĩa thế nào?
Giải: Một, ở trên người hỏi là hỏi chưa đạt được địa, Phật đáp đã được địa và phá giới. Hai, cho rằng ở trên nói chưa được là chưa được chân, ở đây nói được là được chân. Ba, là xưa giải thích vì thấy cơ mà giết nên không phạm tội.
Hà Tây cho rằng: Một, là vì tâm đại bi sợ người bị đọa vào địa ngục. Hai, vì hộ pháp, mà người kia lại phỉ báng pháp, nên phải giết để họ tránh được tội phỉ báng. Ba, là vì diệt tà kiến. Bốn, là phát khởi tín tâm cho họ.
Xét các nghĩa trên thì cũng giống như có giết thật. Hưng Hoàng cho rằng đây là thị hiện có giết, như việc Đồng tử lén nghe giới ở trước, việc quở trách Điều-đạt sau này.
Nay thử hỏi nếu là hóa hiện giết, thì đâu có việc đọa địa ngục suy nghĩ ba việc, sinh vào cõi cam lộ tuổi thọ mười kiếp. Nếu đều là biến hóa thì việc làm của Như Lai lợi ích cho ai? Nếu chẳng phải hóa hiện thì Đồng tử sau khi chết sinh về đâu? Nên biết cả hai cách giải đều chẳng thể nghiêng chấp. Nếu đạt được ý thì yếu lý ở trong đó.
Từ câu “Vì nghĩa này v.v…” trở xuống là kết luận.
Từ câu “Nếu có người v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi chẳng đọa, có ba ý: một, là hỏi lại; hai, là Ca-diếp trả lời.
Thứ nhất như văn kinh ghi.
Từ câu “Đức Phật khen v.v…” trở xuống là ý thứ ba, chánh đáp.
Văn có ba đoạn:
- Khen ngợi
- Phân biệt nội giáo sát và ngoại đạo sát
- Hội thông lời hỏi
Thứ nhất là khen ngợi thuật lại.
Nếu có tâm ác thì cắt cỏ cũng còn có tội, nếu không có tâm ác thì giết người cũng không có tội.
Từ câu “Theo pháp v.v…” trở xuống là phân biệt việc sát sinh của ngoại đạo và nội đạo. Thứ nhất là phân biệt ngoại sát.
Từ câu “Phật và Bồ-tát v.v…” trở xuống là phân biệt nội sát.
Từ câu “Nếu giết v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, hội thông.
Nói giết không có tội, văn kinh sau ghi: Bố thí cho Nhất-xiển-đề được phước báo một ngàn lần, bố thí cho con chó đói được phước báo gấp một trăm lần. Ở đây lại ghi là giết Nhất-xiển-đề không có tội, tức muốn nói quan hệ giữa cho và đoạt. Nếu hiện Nhất-xiển-đề không có gốc lành thì giết không có tội, nếu nói là do quá khứ giữ năm giới được làm người, quý hơn súc sinh, cho nên bố thí thì được phước báo gấp một ngàn lần.
Từ câu “ở trên thầy nói rằng v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi về mắng chửi, cũng có ba phần là nêu lại câu hỏi, giải thích và kết luận hội thông, thứ nhất như văn kinh ghi.
Kế là giải thích, dẫn bảy việc để chứng minh, có hai đoạn: một, là lược thuật chung các ý.
Từ câu “Như có lần v.v…” trở xuống là nêu riêng bảy việc.
“Này thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận hội thông với câu hỏi.
Từ câu “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là phần lãnh giải. Đầu tiên là lãnh thọ, sau là thuật thành.
Nói bốn vị tức là bốn Đế, xuất là vị xuất khổ, ly là vị ly tập, còn diệt và đạo như văn ghi.
Từ câu “Ca-diếp bạch v.v…” trở xuống là nói về quả của tâm xả. Văn có hai đoạn: một, là nói về bình đẳng địa; hai, là nói về tri kiến.
Vì sao? Vì tịch mà chiếu, ngay nơi không mà hữu, ngay nơi thật mà quyền. Trên đã nói quả của ba tâm là ngay nơi sự mà lý, sau kết luận là cảnh giới Phật. Ngay nơi sự mà lý đã hiển bày cho nhau với đoạn văn này.
Đoạn một lại có ba: một, là nói về quả bình đẳng; hai, là nói về nghĩa không; ba, là nói về lợi ích.
Thứ nhất là trước hỏi sau đáp.
Trong phần đáp có hai: một, là nói lược về quả không môn; hai, là nói rộng về quả không môn.
Khen Tu-bồ-đề vì ngài là bậc giải “không” bậc nhất trong hàng Thanh văn. Nêu Tiểu thừa so sánh với Đại thừa để nói về thể của địa. Xưa nêu lên hai cách giải thích: Một, cho là Thất địa, dẫn kinh: “Thất địa vào vắng lặng”. Hai, cho là Bát địa, vì không có “đều quán bình đẳng . Nay cho rằng Sơ địa và Nhất tử địa về lý thì đồng mà công năng thì khác, nên lập tên riêng, đâu thể định là có sâu cạn. Trong các hạnh Thánh thì quả của Giới và Định đều đồng ở Sơ địa.
Từ câu “Bồ-tát trụ v.v…” trở xuống là thứ hai, nói rộng về quả của “Không môn”, gồm có pháp, dụ và hợp.
Phần pháp thuyết có nói đủ hai “không” là “nhân” không và “pháp không”. Nói chẳng thấy cha mẹ v.v… tức là Nhân không. Nói chẳng thấy ấm, giới, nhập tức pháp không. Còn nói chúng sinh và tuổi thọ là lặp lại sinh không.
Kế là từ câu “Thí như v.v…” trở xuống là nêu sự không để làm dụ.
Từ câu “Tất cả các pháp v.v…” trở xuống là hợp.
Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói rộng về nghĩa không. Văn có hai là trước hỏi sau đáp.
Phần trả lời có ba: Một, là nêu mười một không. Hai, là giải thích. Ba, là kết luận.
Đại phẩm nói mười tám không, hoặc nói bảy không. Ở đây nói trung bình nên chỉ nêu mười một không. Nhưng kinh Đại Phẩm nói rộng về không, mà sơ lược về Tánh. Kinh này nói rộng về Tánh mà sơ lược về Không. Gom chung hai kinh thì giúp nhau hiển bày trọn vẹn.
Từ câu “Đại Bồ-tát v.v…” trở xuống là giải thích mười một không. Xưa có hai thuyết: Một, là Dung Thành cho rằng sáu không trước là Hỗ vô không, tánh không trở xuống, gồm năm không là nhậm lý không, nhậm lý là chân đế không, Hỗ vô là thế đế không. Trang Nghiêm chấp nhận. Hai, là Khai Thiện cho đều là lý không mà bác bỏ Trị Thành, lại chia làm bốn nhóm: Một, là sáu không, đầu tiên là Giả danh không; Hai, là hai không, kế tiếp là Thật pháp không; Ba, là một không, kế tiếp là Bình đẳng không; Bốn, là hai không, sau cùng là Phật quả không, vì tu hành có thứ bậc.
Các Sư Trung Quán cho rằng mười một không đều là để phá bệnh, dẫn Thích Luận rằng: “Như thuốc có mười một vị để chữa mười một gốc bệnh. Không mười một hữu được gọi là mười một không, tất cả đều là lý”. Cũng có thể nói tám không trước là phá bệnh, ba không sau là hiển chân.
Ở đây nói mười một không, mỗi thứ đều có giới phận khác nhau, đó là thế giới. Vì duyên có mười một, gọi đó là sinh thiện, tức là vị nhân. Trị mười một bệnh tức là đối trị. Nghe mỗi thứ không liền thấy được lý, tức Đệ nhất nghĩa. Thông tất cả các phương thuốc để dung hợp chữa trị, đâu thể nhất định chấp một bên nào.
Nói thêm rằng các kinh luận nói có khác, nhưng chẳng vượt qua bốn Tất-đàn. Bốn Tất-đàn bao gồm bốn niệm, dung thông hiển mật, đâu thể vượt qua lý này. Mười một không này gồm mười một đoạn.
Đầu tiên nói về không thì nói không có pháp bên ngoài, nói về cái bên ngoài không thì nói không có nội pháp, Trị Thành cho đây là Hỗ vô không. Khai Thiện khi nói về cái bên ngoài không thì so sánh giải pháp cũng không. Khi nói về cái bên trong không thì cũng so sánh giải pháp bên ngoài cũng không; khi biết vô vi không thì so sánh biết hữu vi cũng không. Có người bình luận hai cách giải này như sau: Trị Thành được văn mà mất lý; Khai Thiện được lý mà mất văn. Có sư lại cho rằng đối với bên trong mà nói về bên ngoài, bên trong đã không thì bên ngoài cũng không, lời này lại giúp cho cách giải của Khai Thiện.
Văn giải thích nội không : “Chẳng có thường, lạc v.v… Tam bảo”. Văn sau lại nói: “Như Lai, pháp và Tăng chẳng ở tại hai không”. Điều này được giải thích trước, nói không tức là không chấp ngang ngoài lý, sau nói chẳng không tức chánh pháp ở trong lý.
Nếu nội ngoại “không” giải thích bằng hỗ tương không có thì chẳng thể nào tương ưng, nếu dùng ý đối đãi nhau thì dễ thấy. Đã đối đãi nội ngoại và được xa lìa nội ngoại thì lấy làm hai không. Đã không có nội ngoại, tức không nội ngoại thì hợp thành một không.
Hữu vi không cũng như nội ngoại không.
Luận về vô vi không mà nói bốn pháp như Phật v.v… chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi, tức là nói chánh pháp Trung đạo.
Về Vô thỉ không, có thuyết cho rằng vì phá minh sơ của ngoại đạo nên nói là vô thỉ. Có thuyết cho rằng xa thì chấp nguồn gốc, không có khởi đầu, chứ chẳng phải nay mới không, mới phá. Nói ‘không” tức là lý “không”, chẳng có chỗ khởi đầu. Bản này dịch theo bản dịch của đời Tống và đời Minh Bản này ghi: Vô minh vô hữu thỉ. Bản đời Tống ghi: Minh vô vô vô hữu thỉ.
Về Tánh “không”, có thuyết cho rằng phá tánh mà nói tánh “không”, có thuyết cho rằng bản tánh đều “không” tức tánh “không”, như người nghèo chẳng có vật gì.
Xưa nói: Từ câu: “Nhãn sinh diệt v.v…” trở xuống là y cứ theo pháp không để nói Đệ nhất nghĩa. Lại từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là y cứ theo nhân không để nói Đệ nhất nghĩa. Khai Thiện cho rằng đâu được dùng Sinh không và Pháp không cạn thấp để giải thích Đại Niết-bàn. Hơn nữa trong các kinh, trước đều nói về sinh không, vì sao ở đây trước nói pháp không. Các Sư Trung Quán cho rằng khi nhãn sinh, không từ đâu đến tức là nghĩa chẳng sinh, khi nhãn diệt thì không đi về đâu là nghĩa chẳng diệt, đây lại là nghĩa hai bất (trong tám bất) của Trung luận. Nếu nhãn là có thì chẳng nên nói xưa không nay có, đã có lại thành không. Suy tìm thật tánh của nó thì chẳng có nhãn, chẳng có chủ. Suy ra tất cả pháp cũng như thế.
Hỏi: “Đệ Nhất nghĩa không” đâu thể nói là nghiệp, có báo?
Đáp: Đây là nhờ vào có để nói về không, nương vào không để nói về có, chẳng phải có chẳng phải không tức Đệ nhất nghĩa.
Nói về không không, có ba là khen ngợi, giải thích và kết luận.
Khen ngợi: Đây là chỗ mê lầm của phàm phu và Tiểu thừa.
Từ câu “Là có là không v.v…” trở xuống là giải thích.
Một, cho rằng có và không là hai môn, sau nói là đúng tức lặp lại. Lại nói chẳng phải tức hai câu là ở trên đều không. Hai, cho rằng câu trên nói hai cảnh có không đều không, câu dưới nói hai trí quyền thật đều không, là phải tức quyền trí, là chẳng phải tức thật trí.
Nay lập ba câu để hỏi: Một, là cảnh không gọi là không không? Hai, vì dùng không để không nơi trí gọi là không không? Ba, vì dùng không để không đối với pháp năng không là không không?
Nếu nói là vì cảnh không, trí không, thì đó còn là thiên lệch, chưa được gọi là viên tròn để không cái Tiểu không thì mới là không của Trung đạo viên chánh. Kinh Đại Phẩm nói: “Tất cả pháp đều là không, không này cũng không”. Có hai sư giải thích khác nhau: Một, là nói tất cả pháp không, không này chưa mầu nhiệm, nay lại dùng Không để nói không cái không này. Hai, là cho rằng chẳng phải như thế, vì trước nói tất cả pháp không đã là mầu nhiệm không rồi, sau nói không cũng là không tức chỉ cho pháp năng không cũng không.
Hà Tây đồng với cách giải thích trên. Nên nói: Hoặc cho rằng muôn pháp tuy không mà trí thể chẳng không, vì dùng phá mê hoặc tình chấp. Gọi là “không không” tức là có cũng không, là không cũng không. Câu sau muốn nói rằng: Cảnh chấp đã không thì trí đâu thể có riêng. Tâm chân ngộ, theo lý thì không có sự đồng chiếu soi mà nghĩa
ngăn trừ rất dễ hiểu. Về hữu lậu không và vô lậu không thì mọi người xem trọng vô lậu không, xem nhẹ hữu lậu không. Hai không này chỉ là một thể, đâu có nặng nhẹ? Muôn pháp đã tịch, trí thể lại không, mới chính là diệu không, chẳng phải cảnh giới Nhị thừa biết được.
Có người nói Đại không tức Bát-nhã không, tức vì sắc đại nên Bát-nhã đại. Thích Luận giải thích đại không có lý có sự. Về sự tức là phương đông không, cho đến mười phương không. Về lý tức Niết-bàn Đệ nhất nghĩa không. Kinh Đại Phẩm chỉ cho Niết-bàn, kinh Niết-bàn thì chỉ cho Bát-nhã, cả hai hiển bày lẫn nhau.
Nay y cứ theo ba Đế để giải mười một không, trong đó nội không là Chân đế không. Ngoại không tức là Tục đế không. Nội ngoại không tức chân tục không. Hữu vi không tức là sinh tử tục không. Vô vi không tức là Niết-bàn chân không. Vô thỉ không: Tướng ba đế chẳng thấy Nguyên Tổ, gọi là Vô thỉ không. Tánh không tức thể tánh của ba đế xưa nay tự không nên gọi là tánh không. Đệ nhất nghĩa không: Là chân tức trung, trung tức chân, không không tức một không tất cả không. Đại không: tức ba Đế đều không.
Văn sau cũng y cứ theo ba Đế mà khen ngợi. ba Đế tức nhau là nơi mà phàm phu và bậc Thánh Tiểu thừa mê lầm. Nói là có, là không tức đồng chiếu soi hai đế nên nói hai chữ là. Mỗi đế đều gồm đủ chân và trung, cho nên nói không không. Nói là phải, là chẳng phải, tức chỉ chiếu một đế, đầy đủ không giả, vì không nên nói là phải, vì giả nên nói là chẳng phải, tức là đầy đủ Trung đạo, nên nói là không không. Hoặc đồng chiếu soi hoặc đơn độc chiếu soi, hoặc ba, hoặc một, đều chẳng thể nghĩ bàn, đầy đủ chẳng thiếu, nên phàm phu và bậc Thánh Tiểu thừa chẳng thể biết được.
Từ câu “Này thiện nam! Bồ-tát, v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, kết kuận khen ngợi.
Từ câu “Nay ta v.v…” trở xuống là nói về lợi ích, có hai ý: một, là nói về môn ngộ nhập.
Thứ hai là từ câu “Trụ trong địa này, v.v…” trở xuống là nói về công năng.
Ý nói trước xa lìa, sau chứng đắc.
Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là phần thứ hai, nói rộng về tri kiến. Tri kiến xa rộng là do không tịch, cũng tức là vắng lặng mà chiếu soi.
Văn có bốn đoạn:
- Nói về tri kiến
- Nói về vô sở đắc
- Hội thông
- Kết luận khen ngợi.
Vì ngay nơi vắng lặng mà chiếu soi, nên nói về tri kiến; chiếu soi mà vắng lặng nên nói vô sở đắc; vì tánh không hai nên hội thông; pháp này nhiệm mầu nên phải khen ngợi. Văn thứ nhất lại có ba: Một, là biết mười ba pháp; hai, là được tám thứ tri kiến; ba, là được bốn trí vô ngại.
Nói hành tức là tâm, duyên tức là cảnh, tánh tức là nội, tướng tức là ngoại, thân là nhân, sơ là duyên.
Từ câu “Nếu biết v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai, nói về tám điều thấy biết: một, là biết phi xứ; hai, là biết thị xứ; ba, là biết cộng hành; bốn, là biết nhân quả; năm, là biết chuyển chướng; sáu, là biết Phật tánh; bảy, là biết hai đế; tám, là biết hai trí.
Biết là pháp của ngoại đạo, đó gọi là biết phi xứ.
Biết quả báo thiện ác là biết xứ.
Biết bốn đức như thường, vô thường, v.v… là biết cộng hành.
Cầu Đại thừa là biết nhân, đến bờ kia là biết quả.
Thân giới tâm tuệ là biết chướng chuyển.
Chẳng biết chẳng thấy là biết chân, vừa thấy vừa biết là biết tục.
Tuệ thí v.v… là biết quyền, chẳng thấy vật bố thí v.v… là biết thật.
Từ câu “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về bốn trí vô ngại, gồm có hỏi và đáp.
Đáp có ba: 1. Nêu môn; 2. Giải thích; 3. Phân biệt.
- Như văn kinh đã nêu.
- Giải thích có năm đoạn: 1/ Y cứ theo thế đế để giải thích. 2/ Y cứ theo xuất thế để giải thích. 3/ Y cứ theo không chấp trước để giải thích. 4/ Theo dụ để giải thích. 5/ Theo nhân xưa để giải thích.
- Như văn kinh ghi.
Nói pháp tức biết các pháp và tên gọi các pháp. Nghĩa là biết nghĩa ẩn trong pháp và tên gọi. Từ là âm giọng thanh nhã, phân biệt rõ ràng. Nhạo thuyết nghĩa là linh động biến hóa, vô cùng vô tận. Nói Tùy tự luận là xác định văn tự đó, khéo biết thể của văn tự. Chánh âm luận là đúng theo âm vận, từ ngữ rõ ràng chính xác. Xiển-đà: pháp cú luận cũng gọi là hợp thanh, như hợp thanh của Phạm bái. Hà Tây cho rằng đó chính là hợp thanh ca vịnh ở Trung Quốc, lại cho đó là pháp của ngoại đạo, chưa hẳn hoàn toàn như thế, đây là kệ thanh, nội đạo và ngoại đạo đều sử dụng.
- Từ câu “Lại nói về pháp vô ngại v.v…” trở xuống là y cứ theo xuất thế để giải thích. Biết thừa tuy có ba mà nghĩa trở về một.
- Y cứ theo không chấp trước để giải thích, gồm có giải thích và luận nghĩa. Có Sư cho rằng đây là y theo trừ chấp để giải thích. Nay theo ý vặn hỏi tức y cứ theo chẳng chấp để giải thích.
- Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là nói về nghĩa, trước hỏi sau đáp.
Ý của ngài Ca-diếp hỏi là đã biết thì phải có chấp đắm.
Phật đáp vì chẳng chấp, cho nên biết.
Thứ tư là y cứ theo dụ để giải thích. Đầu tiên là nêu sáu dụ để giải thích pháp vô ngại, sau đó qua phần giải. Nói đất giữ gìn tất cả chúng sinh và chẳng phải chúng sinh, kinh Thắng Man ghi: “Mặt đất giữ gìn bốn gánh nặng là núi, biển, cỏ cây và chúng sinh”. Kinh kia nói rộng, còn kinh này nói lược. Núi giữ chặt đất, đất giữ vững núi, hai bên giữ gìn lẫn nhau.
Nói mắt hay giữ gìn ánh sáng có hai cách giải thích: Một, là ƯuLâu-ca chấp khi ánh mắt hợp với ý thì thấy được, và lấy đây để dụ. Hai, là cho rằng nhờ vào nghĩa bên ngoài, vì mắt có sắc của đại thanh tịnh, nên nhờ ánh sáng bên ngoài mà nhìn thấy được.
Từ câu “Này Thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn thứ năm, y cứ theo nhân xưa để giải thích.
Từ câu “Thanh văn, Duyên giác v.v…” trở xuống là phần thứ ba, liệu giản, có hai: Thứ nhất là liệu giản, thứ hai là nói về nghĩa.
Thứ nhất lại có ba: Một nói về Nhị thừa vô, chẳng có bao gồm; hai là giải thích riêng; ba là tổng kết.
Đầu tiên như văn kinh, kế là giải thích riêng. Trước giải thích Duyên giác không có.
Thứ hai, giải thích Thanh văn không có bốn vô ngại.
Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần giải thích nghĩa, trước hỏi sau đáp.
Lời đáp có ba: một là chánh đáp; hai là khai trừ quyền giáo khi xưa; ba hiển bày thật giáo hôm nay. Như văn kinh.
Từ câu “Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ hai, nói về tri kiến vô sở đắc. Có ba ý: Một, là nói về vô sở đắc. Hai, là dẫn kệ chứng minh. Ba, là vô đắc mà đắc. Thứ nhất lại có ba: Một, là hỏi; hai, là đáp; ba, là lãnh giải. Lời hỏi lại có ba: Một, là nêu văn trước.
Văn trước đã cách xa nên nhắc lại.
Kế là từ câu “Thấy biết v.v…” trở xuống là chánh thức hỏi.
Thứ ba, từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là kết luận lời hỏi.
Đức Phật đáp có hai ý: Một, là khen câu hỏi.
Kế là chánh đáp, có hai: Một, là chánh đáp; hai, là kết luận về chánh, phân biệt với tà.
Phần chánh đáp trên đã nêu mười cặp. Nói đắc và vô đắc đối đãi nhau. Đắc chẳng phải là đắc của vô đắc, còn vô chẳng phải là vô của tích diệt, mà là vô của thể đạt. Mười cặp là: Đắc vô đắc, đảo vô đảo, trí tuệ vô minh, Niết-bàn các hữu, đại thừa Tiểu thừa, Phương Đẳng Ba tạng, chân không sinh tử, thường vô thường, chân không năm kiến, Bồđề Nhị thừa.
Từ câu “Lời ông hỏi v.v…” trở xuống là kết luận, như văn kinh có ghi.
Đại phẩm nói rằng: Các pháp có hai là hữu sở đắc, các pháp không hai là vô sở đắc.
Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần ba thọ lãnh tin hiểu. Có hai ý là lãnh giải và có lợi ích.
Kế là dẫn kệ chứng minh. Ở trên Như Lai đã nói ở đây chính là Song thọ, vì sao lại chỉ song thọ? Đáp rằng đó chính là theo ngữ pháp, chứ chưa hẳn có nơi khác mà chỉ cho song thọ này. Vì thấy nghe khác nhau, thì đâu có nơi chốn nhất định. Nếu có nơi khác thì chỉ cho đây cũng đâu có ngại gì.
Bài kệ này là lần thứ hai giải thích đắc vô đắc. Văn có hai: một, là nêu bài kệ thưa hỏi; hai, là giải thích bài kệ làm lời đáp.
Lời đáp có ba: Một, là giải thích riêng; hai, là giải thích chung; ba, là chánh giải thích.
Trong phần giải thích, trước là khuyên bảo, sau là chánh đáp.
Phần đáp có tám phần, sáu phần trước là chánh thức giải thích; Hai phần sau nói về thật chẳng nói.
Mỗi phần, đầu tiên đều phải giải thích nửa bài kệ trên, vả lại đối chiếu với nửa dưới để giải thích nửa trên. Xưa giải thích bài kệ rằng: “Nói xưa có phiền não, không được nói là của hôm nay. Vì sao? Vì hôm nay có Niết-bàn, nếu Trời, Ma, Phạm nói Như Lai có phiền não thì thật chẳng đúng. Đó chính là quả Phật hôm nay không thuộc ba đời”. Nếu giải thích văn này như thế thì có thể tạm được, nhưng chẳng thể dứt trừ được sự vặn hỏi của người khác, chỉ vì không có ngày xưa đều vô thường, sau đó mới là thường. Đó là xưa không nay có mới dứt được nghi.
Hưng Hoàng cho rằng: Xưa không nay có đều là tùy duyên. Xưa
có phiền não, chẳng có mà nói có. Nay không có Niết-bàn, chẳng phải không mà nói không. Nếu trời, ma, Phạm hiểu được nghĩa này mà còn nói Như Lai có phiền não thì thật chẳng đúng. Như thế thì vừa dứt được sự gạn hỏi, vừa giải thích được văn, hai đường đều toàn vẹn.
Nay cho rằng đó chỉ cho lời đáp chung, nếu giải thích riêng văn thì chưa được, vả lại ý của bài kệ này là vì hóa độ chúng sinh. Chúng sinh chỉ thấy thiện ác, nên cho rằng xưa có ác, nay có thiện. Còn Nhị thừa thì sự thấy biết về chân tục khác nhau. Bồ-tát thì thấy biết ba Đế khác nhau. Ngài Văn-thù thì thấy biết ba Đế tức nhau. Đó cũng là giải thích theo bốn môn, bốn Tất-đàn, đâu chỉ lập một cách giải thích như các sư ở trên.
Nói thêm rằng: Như Lai lập tám lớp giải thích, ý muốn dùng tám lớp này làm khuôn mẫu, nên biết ý nghĩa cùng khắp tất cả pháp. Nếu các sư, mỗi vị lập một kiến giải riêng, thì sao Đức Phật lại chẳng lập một cách giải thích. Lại muốn chấp nhận mỗi sư đều đúng. Nếu muốn bác bỏ, dù cho các lời giải thích đâu hợp ý Phật, sơ lược như bốn Tấtđàn của Đại sư Chương An đều đúng thì tám phần đều đúng. Vả lại, giải thích chung thì lấy chung bao trùm riêng mới hợp được ý Phật. Bốn Tất-đàn và bốn môn như trước đã giải thích.
Từ câu “Như Lai v.v…” trở xuống là thứ hai, giải thích chung.
Tất cả đều có khả năng thành tựu ý trước, nên nói có mà chẳng phải có, nói không mà chẳng phải không. Tất cả đều vì lợi ích không nhất định chỉ thuận theo căn cơ và cõi nước tướng trạng khác nhau nên nói khinh trọng, phạm chẳng phạm khác nhau.
Từ câu “Tất cả thế đế v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, tổng kết.
Tất cả đều cho sinh tử là Thế đế, Niết-bàn là Đệ nhất nghĩa, có lúc Thế đế mà cho là Đệ nhất nghĩa; hoặc nói các pháp vắng lặng tức sinh tử mà cho là Đệ nhất nghĩa; hoặc nói diệu hữu thường trụ là Đệ nhất nghĩa mà mọi người cho là sinh tử. Như Lai nói không là muốn nêu rõ chẳng phải không; nói có là muốn nêu rõ chẳng phải có mà chúng sinh đều khởi thấy biết là có không.
Từ câu “Vì thế, v.v…” trở xuống là thứ ba, nói về vô đắc mà đắc. Có ba đoạn: Một, là nêu lên; hai, là hỏi; ba, là trả lời. Thứ nhất như văn kinh ghi.
Kế là trong phần hỏi có hai là hỏi và gạn hỏi. Thứ nhất là hỏi, nếu có đắc lẽ ra là vô thường, gồm có pháp, dụ và hợp.
“Hễ nói đạo v.v…” trở xuống là thứ hai, vặn hỏi nếu thường thì không có đắc.
Thứ ba là Đức Phật đáp, có hai là đáp câu hỏi trước và đáp câu hỏi sau. Văn thứ nhất, trước là nói chung.
Đạo có hai loại, đạo thường tuy có đắc mà chẳng phải vô thường.
Từ câu “Đạo và Bồ-đề đều gọi là thường, v.v…” trở xuống là chánh đáp.
Nay nói đạo nhất định là viên thường, xưa nay thường có, nhưng bị các hoặc che lấp, dứt trừ thì trở lại nghĩa xưa. Nói có đắc nhưng đắc mà là thường.
Từ câu “Này thiện nam! Đạo tuy không phải sắc tượng, v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi ở sau, có pháp, dụ và hợp. Thứ nhất là pháp thuyết.
Từ câu “Như tâm chúng sinh v.v…” trở xuống là phần dụ thuyết.
Nhưng thật là thường, người nào tu tập thì được, chẳng tu thì chẳng được.
Từ câu “Thấy có hai loại v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba hội thông các văn. Có ba: một, là hội thông; hai, là nói về nghĩa; ba, là nói hội thông, tức hội các văn có thể thấy biết. Ở trước đều có tự và chân, tự là tướng mạo, liễu liễu tức chân. Chân lại có hai: một, là Bồ-tát liễu liễu; hai, là Như Lai liễu liễu. Từ đây đến hết quyển là hai chương hội thông, như văn ghi.
PHẦN 3
Đầu quyển là nói về phần thứ hai, là nói về nghĩa có hỏi và đáp. Hỏi có hai câu là hỏi về đồng thế gian và hỏi về khác thế gian mà không biết.
Đáp có hai là chánh đáp và kết luận. Đáp có ba ý: Một, là nói khác thế gian; hai, là nói đồng với thế gian; ba, là chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian.
Là khác tức thế gian chẳng biết mười hai thể loại kinh điển.
Hoặc là đồng tức thế gian gượng chấp vi trần v.v… nên sinh khởi vọng chấp thế giới hữu biên là chung, chấp thế giới vô biên là vô chung. Tất cả đều là đoạn thường. Xưa có hai cách giải thích vô thỉ vô chung: một, là nói vô thỉ vô minh hoàn toàn không có đầu cuối; hai, là nói vô thỉ vô minh có đầu có cuối. Không có một khởi đầu nào ở chỗ đầu tiên của vô thỉ này. Cho nên biết có thỉ mà lại chung cuộc ở quả Phật. Hai cách giải này đồng với vọng chấp đoạn thường. Trong mười một không, nói vô thỉ không để phá thỉ chung ở đây.
Từ câu “Việc như thế v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba nói chẳng phải thế và xuất thế.
Nếu Bồ-tát biết mà phỉ báng nói chẳng biết, tức là phỉ báng người; nói không có Bồ-đề tức là phỉ báng pháp.
Kế là như văn kinh ghi.
Từ câu “Bấy giờ, Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ tư nói kệ kết luận và khen ngợi. Có người cho rằng hai câu đầu là khen ngợi đại Từ, tám câu cuối cùng là kết luận. Nay cho rằng hai câu đầu thì như trên nói; hai hàng kế là khen ngợi đại Bi; sáu câu kế là khen ngợi đại Hỷ; vui vì xa lìa nên nói chẳng phát; vui vì đạt được nên nói là cam lộ.
Từ câu “chúng sinh đã uống v.v…” trở xuống gồm hai câu là khen ngợi đại xả; kế là bốn câu kết luận, như văn kinh có ghi.
Từ câu “Nói kệ này rồi v.v…” trở xuống là phần thứ ba nói giới là phạm hạnh. Khai Thiện nói rằng: Trước nói về phạm hạnh sâu xa, còn ở đây nói phạm hạnh cạn mỏng”, nghĩa này chẳng đúng, vì giới là gốc, nên mới có thể hóa tha. Theo văn có ba: một, là trì giới; hai, là hộ pháp; ba, là nói sáu niệm. Vì trì giới nên mới hộ pháp, vì hộ pháp nên mới tu niệm. Ba pháp thứ lớp thành tựu cho nhau, vì pháp vốn như thế. Về văn nói trì giới có hai là trì giới và được mất. Văn thứ nhất có hỏi đáp. Hỏi có hai câu là lãnh chỉ và chánh thức hỏi.
Vặn hỏi có hai, trước hỏi đồng với thế gian.
Nếu thế gian chẳng thấy, chẳng hiểu biết, lẽ ra Bồ-tát chẳng thấy, chẳng hiểu biết.
Kế là hỏi về khác với thế gian.
Phật trả lời có hai: Một là chia ra hai chương; hai là giải thích hai chương.
Từ câu “Ông nói v.v…” trở xuống là giải thích hai chương. Trước nói về chẳng khác, tức giải thích chương đồng.
Ông nói có gì khác, nay ta sẽ giảng rõ. Nếu có người nam hay người nữ nghe kinh Niết-bàn này mà kính tin phát tâm Vô thượng Bồđề thì gọi là Bồ-tát thế gian. Tất cả người thế gian chẳng thấy, chẳng hiểu biết Bồ-tát này thì cũng đồng với thế gian, chẳng thấy, chẳng hiểu biết.
Có đồng có khác, chẳng phải một bề đồng nhau. Như văn có ghi.
Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là thứ hai giải thích môn Dị Chương. Có hai ý: Một, là nói vì nghe kinh cho nên được ba pháp; hai, là nói ba pháp giúp nhau.
Văn thứ nhất nói có ba pháp lấy giới làm gốc. Từ câu “Vì tu tuệ v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai nói về ba pháp giúp nhau, vì văn kinh đã lược bớt nên chỉ nói có hai. Đầu tiên là nói tuệ giúp cho giới.
Thứ hai, nói về giới giúp cho tuệ.
Từ câu “Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai, nói rộng về được mất. Có hỏi và đáp.
Lời đáp có hai: Trước nêu chẳng thanh tịnh trì giới thì chẳng thể giúp nhau, kế đó nói về tịnh giới là đáp câu hỏi. Thứ nhất, đầu tiên nói về bất tịnh, sau nói không giúp nhau.
Có bốn thứ bất tịnh: Một, là vì cầu phước hữu lậu như Nan-đà; hai là tánh bất định, hoặc có lúc giữ được, có lúc chẳng giữ được; ba, là chẳng rốt ráo, chẳng thể giữ gìn từ đầu đến cuối; bốn, là chẳng vì chúng sinh không rộng lớn, chỉ hạn cuộc ở tự thân, không gồm lợi tha.
Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói về tịnh giới, là chánh thức đáp câu hỏi. Có hai đoạn: trước nói về tịnh giới, sau nói về giúp lẫn nhau.
Cũng có bốn thứ thanh tịnh, nói giới chẳng phải giới là đối đãi với ý không có đầu cuối ở trước; giới, chẳng phải giới thì chẳng phải năm giới, luật nghi, v.v… mà lấy vô giới, vô giữ làm giới, đây là giới rốt ráo thanh tịnh.
Từ câu “Bồ-tát đối với tịnh giới v.v…” trở xuống là đoạn hai nói về năng lực giúp nhau. Có hai: Một, là ba pháp giúp nhau; hai, là năm pháp giúp đỡ. Trong phần giúp nhau theo thứ lớp xoay vần giải thích các câu ở trước. Có hai phần: Một, là trước nói do giới, giải thích chẳng hối hận, gồm có pháp, dụ và hợp.
Có ba dụ.
Kế là từ câu “Vì tịnh giới v.v…” trở xuống là giải thích vui mừng. Có hai ý nói về ba tướng và nói về ưa thích. Văn thứ nhất có ba: Đầu tiên nói về trì giới thì vui mừng; thứ hai là nói hủy giới thì lo buồn; thứ ba là nói hai nghĩa. Hai văn trước đều có pháp, dụ và hợp.
Thứ ba, nói chung là trì và phạm mỗi văn đều có pháp, dụ và hợp.
Bò dụ cho kinh giáo, người nữ dụ cho người học giáo, người cầm bình đựng chất lạc dụ cho kẻ phá giới, người cầm bình đựng sữa đặc dụ cho người trì giới. Đến thành bán dụ cho cả hai cầu quả tương lai, dùng nhân mua quả. Vấp chân té ngã là dụ cho qua đời, hai bình đều vỡ dụ cho thân hoại, vui vẻ và lo buồn là dụ cho phá giới và trì giới. Sữa đặc tức là lấy được chất bơ, còn các chất khác thì ít hay chẳng có cũng được. Đây là dụ cho người giữ giới đã tu được vị đạo, chỉ còn tuổi thọ dư thừa, mạng còn cũng tốt, mạng mất cũng chẳng hề gì. Như thế thì chất lạc chưa hoàn toàn lấy được chất bơ, nếu mất chất lạc thì chất bơ đó cũng chẳng còn, dụ cho người phá giới chưa được tu đạo, nếu qua đời thì đạo cũng mất nên lo buồn sợ hãi.
Kế là từ câu “Người giữ giới v.v…” trở xuống là hợp dụ.
Từ câu “Vì tâm vui mừng v.v…” trở xuống là giải thích sự vui mừng, gồm có hai phần là chánh giải thích và nói về nghĩa.
Nói về nghĩa trước hỏi, sau đáp.
Trong phần đáp có bốn lời giải thích, sau dần dần chuyển sâu thành Đại Niết-bàn, tất cả đều từ giới, nhưng trong năm thọ căn thì lạc cạn hỷ sâu. Mỗi thọ đều có chỗ y cứ riêng, ở đây đồng với chi thiền.
Thứ hai nói năm pháp giúp đỡ.
Nay nói được năm Niết-bàn, tức xa lìa năm ấm. Niết-bàn chẳng phải là năm, mà thoát khỏi sự trói buộc của năm ấm nên gọi là năm Niết-bàn.
Từ câu “Nếu đệ tử v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về hộ pháp, hộ pháp tức hộ giới. Hộ giới vững chắc tức trì giới. Trì giới chẳng bền là do không hộ pháp. Văn có hai phần:
Quở trách phá giới.
Khuyên hộ pháp.
Quở trách phá giới lại có ba: một, là quở trách phá giới; hai, là quở trách mong cầu; ba, là quở trách chấp thị xứ phi xứ. Những người cực ác thì không hơn kẻ phá giới, nên chẳng có mảy may công dụng. Như văn kinh ghi: “Thà rằng chẳng thọ, chẳng biết chứ không nên hủy giới mà thọ đọc”.
Hỏi: Văn trên nói là người tôi tớ khuyên bảo khiến họ đọc tụng. Văn này lại nói thà rằng chẳng thọ, chẳng trì. Hai văn trái nhau, vì sao?
Đáp: Ở đây mỗi văn đều có ý riêng. Trước thì nói dẫn dắt người ở một trăm phương khiến được vào, ở đây là khuyên răn hàng phàm phu lợi căn, giúp cho không hủy phạm giới khác.
Đầu tiên là quở trách, chẳng ngoài ba nghiệp, trước quở trách thân, kế là quở trách tâm, sau là quở trách miệng. Văn thứ nhất nói nếu người thọ trì giới cấm có đệ tử cũng học vị thầy này mà tự mình đã chẳng ưa thích chánh, thì lời nói ban ra chẳng nghiêm.
Kế là từ câu “Nếu đệ tử v.v…” trở xuống là phần thứ hai quở trách cầu hữu lậu.
Nếu cầu ba hữu thì gọi là xem thường, chẳng cầu quả báo gọi là trầm phiên, mong cầu hữu mà tu nhân gọi là vì hữu tạo nghiệp.
Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là lần quở trách thứ ba.
Lìa thị xứ phi xứ, tức xem xét có thể mở mang truyền bá Phật pháp thì nên xa lìa chỗ phi pháp này. Tuy chẳng nói khi không có thỉnh mà lại làm người bạn chẳng thỉnh của chúng sinh, như thế thì mâu thuẫn ư? Giải thích rằng: “Sự thì phải thích ứng thời cơ nên nay phải thỉnh”, chớ diệt pháp mà nói, chẳng trì giới mà nói, chẳng hộ pháp mà nói là diệt Phật pháp mà nói. Hưng thạnh thế pháp mà nói tức là cầu phước hữu lậu, tạo nghiệp mà nói, có nhiều cách giải khác, như nói rằng: Thêm vào thi văn sách của thế gian để khiến cho người chẳng tin là làm hưng thịnh thế pháp, nay cũng nói như thế, trong lời giảng nói làm cho khổ thêm nhiều khổ, gọi là hưng thịnh thế pháp.
Từ câu “Nếu muốn thọ trì v.v…” trở xuống là phần thứ hai, khuyên bảo, khen ngợi hộ pháp.
Có người nói rằng: Đầu tiên nêu mười trí, kế là khuyên tịnh tâm. Nay cho rằng đầu tiên nêu tự tha. Thọ trì nghĩa là tin nên nhận, chẳng quên sót là trì, tức chỉ cho tự hành, miệng giảng nói tức là hóa tha. Đó là tông thể, hạnh giáo, dụng quả của Niết-bàn. Trước nói Phật tánh là tông, sau nói thấy tánh là quả, cả hai đều khiến ba nghiệp thanh tịnh.
Kế là từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về sáu niệm. Trong kinh Đại Phẩm nói về mười niệm, tám niệm.
Tiểu thừa cũng nói sáu niệm, tức sáu lời xứng niệm vào lúc sáng sớm: Một, là nghĩ hôm nay là ngày tháng năm nào; hai, là nghĩ đến ngày tháng số năm giới lạp; ba, là nghĩ đến pháp khất thực; bốn, là nghĩ đến ba y, nếu dư thì nên thuyết tịnh; năm, là chẳng nghĩ nên thọ thực riêng với chúng; sáu, nghĩ bị bệnh thì nên chữa trị, mỗi thứ có ý riêng. Còn sáu niệm nói ở đây là vì người tu hành phạm hạnh sống ở núi rừng có tâm sợ hãi mà lập ra để khiến họ tu tập. Ba niệm trước là niệm tha, ba niệm sau là niệm tự. Trong đó giới thí là nhân tự hành, sinh lên cõi trời là quả của tự hành. Giới là dứt ác, thí là làm lành. Quả sinh lên cõi trời thì có quả gần và quả xa.
Văn gồm có hai đoạn:
Nêu số và nêu chương.
Từ câu “Vì sao? v.v…” trở xuống là giải thích sáu niệm này, gồm sáu chương. Chương nhớ nghĩ Phật, gồm có hai là nhớ nghĩ quả Phật và nhớ nghĩ nhân Phật. Nghĩ đến nhân là nghĩ nhớ đến nhân quá khứ, nghĩ đến quả là nghĩ đến quả hiện tại. Nghĩ đến do nhân gì mà đạt được đến quả hôm nay. Nghĩ đến quả gồm có bốn phần là nêu hai chương và giải thích hai chương. Đầu tiên là lập hai chương và mười hiệu các đức, kế là giải thích hai chương ấy. Giải thích mười hiệu là giải thích nghĩa của danh, giải thích các đức là giải nghĩa của thể.
Thứ nhất, là nêu mười hiệu.
Thứ hai từ câu “thường chẳng thay đổi v.v…” trở xuống là chương nêu các đức.
Thứ ba, từ câu “Vì biết pháp v.v…” trở xuống là giải thích các đức.
Các đức nêu trước đều lược bỏ không nói, chỉ giải thích Đại Pháp sư ở sau mà thôi. Lại dùng bảy điều lành để giải thích, tức biết ngã năng trì giới, năng nói pháp Đại thừa, lại biết Trung đạo nên gọi là Đại Pháp sư.
Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là chương thứ tư giải thích mười hiệu.
Tiếng Phạm là Đa-đà-a-già-độ, xưa dùng một nghĩa nương Đạo như thật. Lại thành Chánh giác để giải thích Như Lai. Thích luận dùng bốn nghĩa để giải thích, đó là: Như Lai, Như Khứ, Như Giải, Như Thuyết.
Tức nương vào chư Phật ba đời học mười hai thể loại kinh, tu tập mười một không mà thành Chánh giác, nên gọi là Như Lai. Xa lìa sinh tử, không bao giờ còn các pháp ác nên gọi là Như Khứ. Như như mà 58 hiểu, Như như mà nói cũng là nói điều mình hiểu, hiểu điều mình nói. Trong đó có ba phần giải thích: Phần đầu và cuối là nói về nghĩa Như thuyết, phần giữa là nói về nghĩa Như Lai. Nghĩa Như Khứ nằm trong hiệu Thiện Thệ. Nghĩa Như Giải trong hiệu Thế Gian Giải.
Ứng, tiếng Phạm là A-la-ha, gồm ba nghĩa là Sát tặc, Bất sinh và Ứng cúng, trong đây chỉ nói Ứng, chẳng nói đến cúng. Có năm phần giải thích, được chia làm hai. Bốn phần trước dùng nghĩa Sát tặc để giải thích; một phần sau dùng nghĩa Ứng cúng để giải thích. Trước nói sát tặc gồm có cả bất sinh. Vì phá ấm ma nên có bất sinh.
Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là hiệu thứ ba gồm chánh giải thích và phản giải thích, thứ nhất như văn kinh.
Phạm gọi là Tam-miệu-tam Phật-đà. Đoạn văn có năm phần giải thích. Bốn phần trước là nói Phật khéo biết bốn pháp, vì đều nói là biến. Nói nhân khổ hạnh chắc chắn bị quả khổ tức nói khổ hạnh của ngoại đạo. Một phần sau là bác bỏ Tiểu thừa.
Từ câu “Thế nào là Minh Hành Túc v.v…” trở xuống là nói hiệu thứ tư.
Phạm ghi là Tỳ-di-già-la-na. Đoạn văn gồm có bốn phần giải thích. Một phần trước là y cứ theo nghĩa đối chân để giải thích; ba phần sau là y cứ theo nghĩa đầy đủ để giải thích. Tất cả trước nêu thế gian để dụ, sau đó nêu Phật để hợp dụ. Nói minh là chú, Bát-nhã là chú Đại Minh, nhờ chú mà giải ngộ tức Giải thoát. Nói Cát tức Bồ-đề, quả gọi là Niết-bàn, do Bồ-đề mà được Niết-bàn. Ba minh: Bồ-tát minh là nhân, Phật minh là quả. Vô minh minh có ba cách giải: Một, vô minh là hoặc, minh là giải, dùng minh giải để dứt hoặc vô minh nên gọi là vô minh minh. Hai, cảnh rốt ráo không, chẳng phải là minh và vô minh mà lại năng sinh ra minh và vô minh nên nói là vô minh minh. Ba, cho rằng đầu tiên phân biệt Bồ-tát và Phật mà giải thích khác nhau, sau nên vô minh minh giải thích chẳng khác nhau, Phật và Bồ-tát là vô minh minh, vô minh tức là minh.
Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là hiệu thứ năm.
Thiện Thệ, tiếng Phạm là Tu-già-đà, Tu-già-độ. Đoạn văn gồm có ba phần giải thích, phần cuối cùng có pháp, dụ và hợp. Phần thứ nhất nói thiện là cao, tức nói về chỗ cao tột; Thệ là chẳng cao, nghĩa là tuy ra khỏi sinh tử mà chẳng xả bỏ. Nói theo tâm Phật thì thiện tri thức là chỉ cho đạo phẩm.
Từ câu “Thế nào là Thế Gian Giải v.v…” trở xuống là hiệu thứ sáu.
Tiếng Phạm gọi là Lộ-già-bại. Thế gian có ba: Một, là năm ấm; hai, là chúng sinh; ba, là cõi nước. Đoạn này có sáu phần giải thích, tức sáu thế gian: Năm ấm, năm dục, cõi nước, chúng sinh, Phật là thế gian, thế là thế gian.
Từ câu “Vì sao gọi là v.v…” trở xuống là hiệu thứ bảy.
Tiếng Phạm là Phú-lâu-sa, có năm lần lại nữa, nêu lên nghĩa dứt hoặc và chẳng dứt hoặc. Văn ghi: “Thể nhập Đại Niết-bàn chẳng mới chẳng cũ”, trong đó chư Phật đã thành gọi là cũ, chúng sinh sẽ thành gọi là mới. Không cũ không mới tức không có quá khứ, vị lai. Đó là thuận theo lý mà thể đạt. Nếu theo duyên thì nói có cũ có mới, quá khứ vị lai.
Từ câu “Thế nào gọi là v.v…” trở xuống là hiệu thứ tám. Tiếng Phạm gọi là Đàm-miệu-ba-la-đề. Trước nói về Trượng Phu, sau nói về Điều Ngự. Nói về Trượng Phu có hai: Trước nói về Năng điều, có hai chương.
Năng điều là Như Lai, sở điều là chúng sinh. Sau là giải thích hai chương. Từ câu “Như Lai thật v.v…” trở xuống là giải thích Năng điều.
Thật chẳng phải Trượng phu, phương tiện thị hiện năng điều phục Trượng phu.
Từ câu “tất cả nam nữ v.v…” trở xuống là giải thích Trượng phu điều phục.
Có đủ bốn pháp mới được gọi là Trượng phu, nếu không có bốn pháp thì hành động súc sinh. Đại luận cũng nói: “Nai đầu người, người đầu nai”.
Như điều khiển ngựa, tức là dùng bốn cách giải thích việc điều phục chúng sinh lợi độn khác nhau. Nếu gặp con ngựa nhanh nhẹn thì vừa thấy bóng roi liền chạy, còn con ngựa chậm chạp thì phải nặng tay làm đánh thấu xương mới vâng theo. Người lợi căn, vừa nghe nói sinh liền lãnh thọ; người độn căn phải nói đến già chết mới chịu nghe. Như Đại Luận nói về chồn hoang sống trong rừng.
Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là hiệu thứ chín.
Tiếng Phạm gọi là Xá-đa-đề-bà-ma-nâu-xá-nẫm. Toàn đoạn văn gồm mười hai lần lại nữa: hai lần lại nữa đầu tiên là giải thích Sư; năm lần lại nữa kế tiếp là giải thích Thiên, đồng thời y theo thắng nghĩa để giải thích Thiên; bốn lần lại nữa kế tiếp là giải thích Nhân, nói kiêu mạn nhưng chẳng phải kiêu mạn, vì muốn lập chí Trượng phu, che chở giữ gìn Tam bảo, phá trừ tâm mạn; một phần sau cùng giải thích chung Thiên Nhân Sư.
Từ câu “Thế nào là Phật v.v…” trở xuống là giải thích hiệu thứ mười. Trước giải thích danh sau khen ngợi đức.
Tiếng Phạm gọi là Phật-đà-da, Hán dịch là Giác, Giác Ngộ. Trước nói Duyên giác cũng đồng với ý này. Cho nên âm Giác là đúng, như Bích-chi-phật dịch là Độc giác mà chẳng nói là Độc giáo. Có thuyết cho rằng Tự giác, Giác tha lại là Tha giác. Việc này quá phiền phức.
Từ câu “Bà-già-bà” trở xuống là giải thích hiệu thứ mười một; có chỗ cho rằng từ Thế Tôn này kia đây khác nhau. Vì sao? Vì trước nêu chương thì ghi là Thế Tôn, đến khi giải thích thì gọi là Bà-già-bà, nên biết như thế. Nghĩa này e chẳng phải. Vì Thế Tôn, tiếng Phạm gọi là Lộ-ca-na-tha. Ngài Long Thọ dịch Bà-già-bà gồm bốn nghĩa là phá phiền não, có công đức, khéo phân biệt và có tiếng tăm tốt. Ở đây đầy đủ bốn nghĩa: phần thứ nhất là giải thích phá phiền não, phần thứ hai giải thích công đức, phần thứ ba giải thích khéo léo phân biệt; phần thứ tư có tiếng tăm tốt.
Đầu tiên giải thích phá phiền não rất dễ hiểu. Kế là từ câu “rất dễ hiểu v.v…” trở xuống là giải thích có công đức. Thứ ba từ câu “Khéo hiểu v.v…” trở xuống là giải thích khéo phân biệt. Thứ tư từ câu “Có tiếng tăm lớn v.v…” trở xuống là giải thích có tiếng tăm tốt. Ba phần khác còn lại là giải thích công đức. Công đức là y cứ theo bên trong; còn Thế Tôn là được thế gian tôn kính tức y cứ bên ngoài. Nay dùng Bà-già-bà thay thế cho Thế Tôn chứ chẳng phải Bà-già-bà là Thế Tôn. Văn gồm hai nghĩa: thứ nhất gồm bảy phần giải thích bốn nghĩa; thứ hai gồm một phần là khuyến tu.
Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai, nghĩ nhớ đến nhân Phật, tức muốn nói về được quả là phải tu nhân từ xa lắm. Văn có hai là nêu lên và giải thích.
Giải thích, trước nói lấy sáu Độ, bốn Đẳng làm nhân.
Sau nói lấy năm mươi nhân là tâm.
Tâm vô vi chẳng phải tâm thường trụ mà chính là tâm không làm ra. Không tâm, chẳng có không tâm, cả hai đều xả bỏ, chẳng những chỉ không tâm mà cũng không cả không tâm.
Không có tâm vô ký. Quang Trạch cho rằng quả Phật thường trụ có hai vô ký là tri giải vô ký và quả báo vô ký, như thế là trái với kinh này. Vì khi tu nhân chẳng còn có vô ký thì quả Phật làm sao có vô ký. Không tâm cầu báo tức chẳng cầu quả báo. Tâm chẳng trụ tức tâm không chấp đắm, tâm vô thường tức không có chấp nhất định. Tâm
nhiều ít tức không hậu đãi người này, bạc đãi người kia. Tâm giới tri là phân biệt các pháp, mỗi pháp đều có giới phần, sinh ra giới tri tâm, tức là cõi sinh diệt. Trụ giới tri tâm tức biết cõi thường trụ bất diệt. Tự tại giới tâm là đối với thường vô thường đều chẳng trụ mà thông đạt tự tại.
Sinh giới tức biết tục, trụ giới là biết chân, tự tại là biết trung.
Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là niệm thứ hai.
Các sư xưa cho rằng trước là niệm pháp biệt thể. Từ câu “Chỉ có chánh pháp này v.v…” trở xuống là niệm pháp nhất thể.
Ở đây, chẳng phải như thế, văn nói trên hết, nhiệm mầu nhất, “khiến cho chúng sinh được quả hiện tại”, nếu y cứ theo Tạng, Thông thì chỉ đạt quả hiện tại mà chẳng thượng diệu, còn theo biệt thì chỉ được thượng diệu mà chẳng phải là quả hiện tại, phải tu trải qua vô lượng atăng-kỳ kiếp mới đạt được. Chỉ có viên mới vừa thượng diệu, vừa được quả hiện tại. Cho nên biết đó là pháp Nhất thể của Viên giáo.
Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là thứ ba.
Các sư xưa cũng cho rằng trước là nói Tăng biệt thể sự hòa; Từ câu “Chẳng thể thấy v.v…” trở xuống là Tăng nhất thể lý hòa. Ở đây chẳng phải như thế. Văn kinh ghi: Thọ pháp chánh trực, Ba giáo chẳng phải trực pháp, chỉ có Tăng Viên giáo mới thọ pháp chánh trực.
Kinh ghi: Tuy không có hình sắc mà có khả năng hộ trì. Có chỗ cho rằng đó là giới vô tác. Vốn có ba cách giải thích: một, là Tăng bộ cho rằng không có sắc vô tác nên vốn không có vô tác, vô tác cũng vô sắc, nhưng có tâm để hộ trì; hai, bộ Tát-bà-đa cho rằng vô tác là sắc. Các sư Số Luận theo thuyết này cho nên nói vốn có vô tác mà lại có sắc, vì sắc này chẳng phải chất ngại, mà lại có giả sắc vô biểu, nên có thể hộ trì; ba, là bộ Đàm-vô-đức giải thích được các sư Thành Thật sử dụng, cho rằng vô tác chẳng phải sắc, chẳng phải tâm.
Các thuyết trên thuộc về Tiểu thừa, đều tạo ra sự tranh luận về hữu vô mà thôi. Trong Đại thừa không nói về việc này, nên văn trên có ghi: “Pháp hữu lậu có hai loại là sắc và phi sắc, pháp phi sắc là tâm và tâm sở; sắc pháp là đất, nước, lửa, gió”. Như thế thì lúc nào mà có sắc vô tác?
Từ câu “Thế nào là niệm thí v.v…” trở xuống là niệm thứ năm.
Đó là tu tập nhân lành.
Tạp Hoa, kinh Quán Phật Tam-muội Hải nói rằng: “Trong kinh Tạp Hoa, ta đã vì Phổ Hiền, Hiền Thủ, v.v… mà nói”. Trung Quốc không có kinh Tạp Hoa, chỉ có kinh Hoa Nghiêm. Có chỗ cho rằng có một bản kinh Tạp Hoa khác chưa truyền đến nước này. Có một thuyết 552 cho rằng kinh Tạp Hoa mà kinh Quán Phật Tam-muội nói là kinh Hoa Nghiêm.
Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là niệm thứ sáu.
Có chỗ cho rằng đương quả là Đệ nhất nghĩa thiên. Ở đây chẳng đúng, vì niệm chung các vị trời chính là niệm trời, chứ chẳng phải đương quả. Đương quả thiên và Phật quả nói ở trước chẳng khác nhau, đó chính là niệm chung cảnh giới thiên ở thế gian này, nhưng tùy theo nghĩa mà đặt tên là Thiên.
Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn lớn thứ hai, khen ngợi kinh, gồm có hai phần: Một, là từ đây đến hết quyển là khen ngợi kinh năng sinh điều lành; hai, là hai quyển sau là khen ngợi năng diệt ác. Văn sinh ra điều lành có ba: Một, là chánh khen ngợi kinh; hai, là khen ngợi người hoằng kinh; ba, là khen ngợi hưng suy. Ba đoạn này theo thứ lớp đầu tiên do năm hạnh mà hiển bày đạo, kế đó lại có người quên thân để mở mang đạo pháp, vì có người hoằng thì đạo hưng thịnh, không người hoằng thì đạo suy vi.
Thứ nhất, chánh thức khen ngợi kinh, có hai ý là Như Lai khen ngợi và Ca-diếp nhận lãnh ý chỉ.
Trong phần Đức Phật khen ngợi có nói: “Mười hai thể loại kinh chẳng bằng”, có hai cách giải thích: Một, là mười hai thể loại kinh của Tiểu thừa; hai, là cho rằng mười hai thể loại kinh của Đại thừa cũng chẳng bằng Niết-bàn, Đại thừa Phương Đẳng đương cơ nên cao quý hơn. Vả lại, trong Niết-bàn thì có mười hai thể loại kinh, còn trong mười hai thể loại chưa hẳn đã có Niết-bàn, cho nên cao siêu hơn. Nay nói Viên kinh cao siêu hơn mười hai thể loại kinh.
Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là nhận lãnh, tin hiểu.
Từ câu “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là ý thứ hai khen ngợi người mở mang giáo pháp. Văn có ba: Một, là hỏi; hai, là nhận đáp; ba, là nhận lãnh tin hiểu. Thứ nhất là hỏi như kinh có ghi.
Thứ hai là đáp. Đức Phật khen ngợi Bồ-tát có mười ba điều chẳng thể nghĩ bàn:
- Có khả năng phát tâm.
- Chịu khổ sinh tử.
- Chịu khổ địa ngục.
- Không bao giờ lui sụt.
- Vượt qua biển sinh tử.
- Xứng lượng với sinh tử.
- Có khả năng giảng nói về thường trụ.
- Sinh tử chẳng làm não loạn được.
- Ở trong thai mà chẳng loạn.
- Không tham tiếc pháp.
- Xa lìa mười điều ác.
- Quên công dụng.
Chẳng thể nghĩ bàn, xưa giải thích rằng: “Mọi người chẳng thể biết được”. Nghĩa này chẳng đúng, vì như việc nhân gian chẳng biết, há có thể lấy đây mà làm hoặc loạn ý Hiền thánh ư? Nay nói ba Đế tương tức, chẳng thể dùng một hai ba để so lường, vì đó là chỗ tâm hành bặt, cũng chẳng thể dùng ba hai một mà hiển bày, vì đường ngôn ngữ dứt. Tuy nêu mười ba, nhưng thật chẳng phải số này mà gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Nói “Không nhờ người giáo hóa mà tự phát tâm”, tức duyên chân mà phát tâm thì rơi vào Thanh văn, đúng ra phải có người giáo hóa. Nếu duyên tục mà phát tâm thì rơi vào phân biệt nên phải có cảnh giáo hóa, đều chẳng được chẳng thể nghĩ bàn. Nếu duyên Trung đạo, ba Đế tức nhau thì chẳng phải chân tục, chẳng theo người và cảnh, nên nói không nhờ người giáo hóa. Thấy rõ Phật tánh nên gọi là tự phát tâm, chẳng xen lẫn gọi là Tinh, nhập lưu gọi là Tấn. Nói địa ngục là nêu quả sinh tử, nói các kết sử là nêu nhân sinh tử. Nhiều kiếp bị nhân quả này đốt cháy, nay thấu suốt sinh tử tức là Niết-bàn, thấu suốt các kết sử tức là Bồ-đề, chẳng phải hai bên, nên gọi là động tĩnh như một. Vì chẳng hoại nên gọi là quyết định. Đốt cháy thân, đập nát đầu đều là chánh đạo. Bên trong chẳng bỏ đạo, bên ngoài chẳng cầu cứu, đó là y cứ theo ba Đế phát tâm nói chẳng thể nghĩ bàn, đồng với ý phát tâm nói trong chỉ quán.
Chẳng thể nghĩ bàn thứ hai.
Văn ghi: “Thấy sinh tử có vô lượng tội khổ, hàng Thanh văn, Duyên giác chẳng thể nghĩ bàn, chẳng sinh nhàm chán”. Nghĩa là Nhị thừa chỉ biết một ít phần đoạn mà chẳng biết lỗi lầm của biến dịch, còn Bồ-tát thì biết hơn thế, cho nên nói Nhị thừa chẳng bằng. Ngay nơi tục mà chân, trung nên nói chẳng nhàm chán; ngay nơi trung mà chân tục nên nói chẳng xa lìa. Y cứ theo trí ba Đế mà nói về chẳng thể nghĩ bàn, đồng với ý nghĩa an tâm nói trong chỉ quán.
Chẳng thể nghĩ bàn thứ ba là nói chịu khổ ở địa ngục mà vui như Đệ Tam thiền, văn này quá lược, lẽ ra phải nói là: “Chịu khổ trong ba cõi vui như ở trong Niết-bàn”. Đây là y cứ theo các chứng của ba Đế để nói về chẳng thể nghĩ bàn, đồng với ý nghĩa thông bít trong chỉ quán, 55 cũng giống như tâm Đại từ.
Chẳng thể nghĩ bàn thứ tư. Văn ghi: “Như vị Trưởng giả cứu các con”. Trong đó, nhà dụ cho Trung đạo nên nói là quay trở vào; đốt cháy dụ cho tục đế nên nói là lửa cháy; Ra khỏi dụ cho chân nên nói là ra khỏi nhà. Đây là y cứ theo hạnh ba Đế nói về chẳng thể nghĩ bàn đồng với tâm ý chân chánh đại bi nói trong chỉ quán.
Chẳng thể nghĩ bàn thứ năm, văn ghi: “Thấy các chúng sinh, nhàm chán lỗi sinh tử mà lui sụt thành Nhị thừa. Bồ-tát chẳng như thế, biết sinh tử là thường, nên chẳng thấy các tội khổ, biết Niết-bàn là gần, nên chẳng chấp lấy Tiểu thừa”. Đây là y cứ theo chứng ba Đế nói về chẳng thể nghĩ bàn, đồng với ý của Đạo Phẩm nói trong Chỉ quán.
Chẳng thể nghĩ bàn thứ sáu nói bậc thánh có thần thông dụ cho trí thể pháp, Tu-la cao lớn dụ cho trí thứ tư. Người không có hai hạng mà vượt qua được là dụ cho trí Viên giáo, chẳng có thần thông, chẳng phải trí thứ tư tức thuộc về viên trí. Đây là y cứ theo giai vị ba Đế để nói về chẳng thể nghĩ bàn, đồng với ý thứ vị trong Chỉ quán.
Chẳng thể nghĩ bàn thứ bảy, văn kinh nói: Tơ sen treo núi, một niệm mà so lường sinh tử, tức là tính biết vô lượng trong một, một trong vô lượng, chẳng phải một chẳng phải vô lượng”. Đây là y cứ theo pháp ba Đế để nói về chẳng thể nghĩ bàn, đồng với ý của Cảnh mầu nhiệm trong Chỉ quán.
Chẳng thể nghĩ bàn thứ tám, văn ghi: “Không có thường, lạc, ngã mà nói thường, lạc, ngã”, tức là tùy bệnh mà cho thuốc, giúp cho thể hội được. Đây là y cứ theo giáo ba Đế để nói về chẳng thể nghĩ bàn đồng với ý nghĩa đối trị trong chỉ quán.
Đại Bồ-tát tuy bị sinh tử não hại, vì thế gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Chẳng thể nghĩ bàn thứ chín, văn nói: “Chẳng bị chìm đắm chẳng bị đốt cháy, nghĩa là tuy ở trong sinh tử mà chẳng bị sinh tử làm hại”.
Chẳng thể nghĩ bàn thứ mười, văn ghi: “Trụ thai mà chẳng loạn động”. Tức ở trước nói là chết mà chẳng phải diệt, ở đây nói ở trong thai mà chẳng phải sinh, đây là y cứ theo quả Báo ba Đế mà nói về chẳng thể nghĩ bàn, đồng với ý nghĩa an nhẫn trong Chỉ quán.
Chẳng thể nghĩ bàn thứ mười một, văn nói Bồ-đề và tâm đều chẳng thể nói mà lại nói không hề bỏn sẻn. Đây là y cứ theo nói năng và im lặng của ba Đế để nói về chẳng thể nghĩ bàn, đồng với ý nghĩa thông bít của Chỉ quán.
Chẳng thể nghĩ bàn thứ mười hai, văn nói: “Từ thân mà lìa thân v.v…”, Là y cứ theo nghiệp của ba Đế mà nói về chẳng thể nghĩ bàn, đồng với phá pháp biến trong chỉ quán.
Chẳng thể nghĩ bàn thứ mười ba, kinh nói: Cuối cùng chẳng thể nói ta phá phiền não. Đây là y cứ theo không năng của ba Đế để nói về chẳng thể nghĩ bàn, đồng với ý nghĩa lìa ái của Chỉ quán.
Kinh này nói Bồ-tát mới phát tâm chưa nhập vị là chẳng thể nghĩ bàn, tương ưng với mười quán của Bồ-tát Viên giáo trong Chỉ quán. Vì thế dùng để giải thích. Văn này nói: “Tuệ chẳng phá được, lửa chẳng đốt được”. Văn kia nói: “Thật pháp như thế, vốn là dùng thật tuệ”. Vì là nhất tâm nên chẳng thể phá. Pháp nối nhau tức hai tâm, trước diệt thì sau khởi, nên phá được hoặc lại trừ cả tuệ. Nếu dứt hoặc rồi thì không có chỗ để trừ diệt. Cho nên đối với thật pháp chẳng thể dứt. Nhưng trong đây khen ngợi Bồ-tát mở mang kinh, đâu cần phải giả thật, chỉ suy cầu tuệ không thật có nên nói là tuệ chẳng thể phá, thí như cầu tham si không thật có nên không có tham, si. Lại sinh là diệt rồi sinh, diệt chẳng phải diệt, diệt là sinh rồi diệt nên sinh chẳng phải sinh. Nếu sinh là thường sinh thì lẽ ra chẳng diệt; nếu diệt là thật diệt thì lẽ ra diệt chẳng diệt. Các pháp đều như thế, trong đó khen ngợi tất cả pháp đều vô sở hữu, trí tuệ cũng giống như thế, chẳng tồn tại tướng trạng.
Thứ ba, từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần tin hiểu. Như văn kinh có ghi.
Từ câu “Bạch Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, khen ngợi hưng suy, có bốn phần hỏi đáp: một, là chánh pháp của Đức Thích Tôn; hai, là pháp của Phật Ca-diếp; ba, là pháp của chư Phật; bốn, là kết luận pháp của Đức Thích Tôn.
Thứ nhất là đáp có hai: trước nói tu năm hạnh thì hưng, nhiều người phạm giới thì suy.
Từ câu “Ca-diếp lại bạch v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về pháp Phật Ca-diếp, có hỏi và đáp. Hỏi có hai câu, trước là lãnh chỉ, sau là hỏi.
Kinh Hiền Kiếp ghi: “Chánh pháp của Phật Ca-diếp trụ thế hai mươi năm”. Nay nói bảy ngày là vì sao?
Đáp: Thời gian bảy ngày không khác với thời gian Phật tại thế, sau bảy ngày thì Phật pháp suy đồi chẳng bằng lúc Phật tại thế. Nói hai mươi năm là nêu thời gian trụ thế ngắn gnủi.
Từ câu “Ca-diếp Như Lai v.v…” trở xuống là hỏi. Trước là hỏi có hay không. Sau là hỏi hai ý.
Đức Phật đáp, có hai ý: Một, là nói chung có diệt mà chẳng diệt;
hai, là trả lời. Thứ nhất lại có hai: Một là Đức Phật cho phép; hai là đáp.
Nói chỉ có ngài Văn-thù hiểu được, tức nói về bài kệ xưa có nay không, muốn hiển bày diệt mà chẳng diệt, chẳng diệt mà diệt.
Đáp chung theo văn rất dễ hiểu.
Từ câu “Lúc trước v.v…” trở xuống là đáp. Văn có bốn đoạn: một, là nói Phật xưa có kinh; hai, là Pháp thật chẳng diệt; ba, là Phật nay đối luận; bốn, là Pháp thật chẳng diệt. Thứ nhất từ câu “Thời Phật Ca-diếp v.v…” trở xuống là thứ hai, chẳng cần giảng nói.
Từ câu “Chúng sinh đời này v.v…” trở xuống là nói đối với Phật hôm nay.
Từ câu “Thà rằng nói v.v…” trở xuống là thứ tư, nói về Pháp bảo chẳng diệt.
Từ câu “Nếu Phật v.v…” trở xuống là thứ ba, nói chung về pháp của tất cả chư Phật, có sáu cặp đối luận. Thứ nhất là một cặp hiểu nghĩa chẳng hiểu nghĩa.
Thứ hai, có đàn-việt và không có đàn việt.
Thứ ba, vì lợi chẳng vì lợi.
Thứ tư, sinh ra tranh luận và chẳng sinh ra tranh luận.
Thứ năm, nói lỗi và chẳng lỗi.
Thứ sáu, lập các thuyết và chẳng lập các thuyết.
Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, kết luận về pháp của Phật Thích-ca. Văn có ba đoạn:
Nói về sắc diệt khởi tranh luận.
Phật pháp ở nước Câu-diệm-di diệt.
Đại chúng buồn than.
Văn đầu tiên như phẩm Ca-diếp có nói Lạc-sa. Hà Tây cho rằng lạc-sa lấy từ cây Ba-la-sa. Cây này sinh ra thuần là trùng, người nước ngoài dùng làm thuốc nhuộm lông thú.
Từ câu “Bấy giờ vv….” trở xuống là thứ hai, nói về nguyên nhân Phật pháp diệt.
Do sáu trăm Tỳ-kheo tranh luân làm hại nhau dẫn đến diệt tận.
Từ câu “Bấy giờ ở Câu-thi, v.v…” trở xuống là đoạn ba, đại chúng buồn than. Lại có ba ý: Một, đại chúng buồn than; hai, là Ca-diếp an ủi; ba, là đại chúng thôi buồn và phát tâm.
Nghe diệt độ thì buồn, nghe chẳng diệt độ thì thôi buồn, đã đạt được diệt, chẳng phải chẳng diệt thì liền phát tâm. Cho nên chẳng diệt chẳng phải chẳng diệt mà diệt mà chẳng phải diệt là làm lợi ích lớn.
PHẦN 4
Đầu phần bốn là đoạn hai, khen ngợi công năng diệt ác của kinh. Ác tức Nhất-xiển-đề, bốn giới trọng, năm tội nghịch đều bị dứt trừ. Xưa giải thích rằng: “Vua A-xà-thế thật phạm tội nghịch nhờ năng lực của kinh mà diệt được tội”. Thật cũng có ý nghĩa này. Nhưng kinh Mật Tích ghi: “Vua A-xà-thế là phương tiện thị hiện pháp diệt tội nghịch. So sánh biết được Điều-đạt phá Tăng chắc chắn chẳng phải thật phá. Cũng như Thiện Tinh thị hiện là Nhất-xiển-đề, thật chẳng phải là Nhất-xiển-đề, Na-đề phạm giới trọng thật chẳng phải phạm. Oai lực của kinh này trừ các tội ác nặng, khiến cho người thật phạm nương tựa, tức là hiển bày phạm hạnh có thể làm cho bất tịnh thành thanh tịnh. Lương Vũ Đế chẳng thấy nghĩa này, cho rằng đoạn kinh văn trên chẳng phải thứ lớp của kinh mà thuộc phẩm khác; nếu đạt được ý bất tịnh thành thanh tịnh thì chính là phạm hạnh chứ chẳng phải phẩm khác. Văn có hai: Trước nói khởi ác, sau nói diệt ác.
Thứ nhất có ba ý: Một, là nói về nhân ác. Thích chém giết, miệng phạm bốn điều ác, tâm ác đầy dẫy, đó là nhân của mười điều ác.
Hai là nói về duyên ác, tức chỉ dùng kẻ ác làm quyến thuộc.
Ba là từ câu “Tham đắm v.v…” trở xuống chính thức nói về việc gây ra điều ác.
Từ câu “hại rồi v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về diệt ác. Có ba:
Một, là diệt nhân ác; hai, là diệt duyên ác; ba, là chánh diệt ác. Thứ nhất có bốn câu: Một là diệt nhân ác Hai, là tin sâu nhân quả.
Ba, là người mẹ thoa thuốc.
Bốn là tự cảm thương.
Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là ý thứ hai nói về diệt duyên ác, có hai: một, là người ác làm duyên; hai, là người lành làm duyên.
Hỏi: Làm ác có thể dùng người ác làm duyên, nay nói về diệt ác, vì sao lại dùng người ác?
Đáp: Người ác khuyên làm ác, nếu chẳng theo lời ác thì diệt được duyên tội.
Hỏi: Nếu thế, người lành khuyên làm lành, nếu chẳng nghe theo lời lành mà làm ác, vậy người lành cũng làm duyên ác ư?
Đáp: Vừa xem qua thì cũng có ý này. Như kinh Đại Niết-bàn vừa là cam lộ vừa là thuốc độc. Nếu xét kỹ thì chẳng giống. Tâm Phật vốn chẳng vì chúng sinh mà làm duyên phiền não, vì thầy chẳng nhận lời khuyên, thì tự đó là duyên ác. Chẳng nhận lời khuyên làm ác thì tự thầy trở thành duyên lành. Tất cả đều do thầy, đều do tự tâm người làm duyên ác thì y cứ theo sáu vị quan làm sáu chương. Mỗi chương đều có bốn ý riêng: một, vị quan vào triều tâu; hai, là vua đáp; ba, là tâu vua, nói về nơi diệt tội; bốn, là nói lời quy y.
Xưa cho rằng vua A-xà-thế là thật, điều này chẳng đúng, có chỗ cho là Ứng, hoặc cho là dụng của pháp giới. Nhưng đó đều là phương tiện khéo léo của bậc thánh. A-xà-thế là khai phương tiện nghịch để nói lên oai lực của kinh có công năng diệt ác.
San-xà-da, kinh Tịnh Danh ghi là Dạ, là hai âm nhẹ và nặng. Đây là chữ San thi định thể.
A-kỳ-đa là tên, Xí-xá là y cũ rách, Khâm-ba-la là y báu xưa.
Chữ tĩnh có hai âm là Tĩnh và Tịnh. Phần nhiều dùng âm Tịnh. Về thể của chữ cũng có hai: một là bộ phụ; hai là bộ huyệt, phần nhiều dùng bộ huyệt.
Từ câu “Bấy giờ thầy thuốc, v.v…” trở xuống là nói về người lành làm duyên. Có hai người là anh và cha. Thứ nhất có bốn câu: Một, là Kỳ-bà hỏi; hai, là vua đáp; ba, là khuyên đến nơi Phật trụ; bốn, là hổ thẹn chưa chịu đi. Thứ nhất là Kỳ-bà, Hán dịch là Cố Hoạt Đồng Tử. Khi mới sinh ra, tay đã cầm hộp thuốc, tay cầm ống đựng kim. Thuở xưa, ông đã nguyện làm thầy thuốc chữa trị cho mọi người. Từ đức mà đặt hiệu, nên dịch là Cố Hoạt, là con của cô gái Am-la.
Thứ hai, là vua dùng kệ đáp có bảy mươi câu và một ít văn xuôi, chia làm ba: Một, gồm bốn mươi sáu câu nói chung về người ngủ yên giấc; hai, là hai mươi bốn câu nói chung về người ngủ chẳng yên giấc; ba, phần văn xuôi nói vua không yên giấc.
Văn thứ nhất lại có bốn đoạn: Một, là gồm mười sáu câu nói về Đức Phật ngủ an ổn; hai, là hai mươi hai câu nói về Bồ-tát ngủ được an ổn; ba, là bốn câu kết luận về Đức Phật; bốn, là bốn câu kết luận về Bồ-tát.
Trong phần nói về Đức Phật lại chia thành hai đoạn: một, là tám câu đầu nói về lìa sinh tử được Niết-bàn; hai, là tám câu cuối nói về lìa tội ác được Thường trụ.
Chỉ có chư Phật mới thật không ngủ, vì không còn phiền não, trụ trong tánh an vui. Theo nghĩa mà nói là ngủ nghỉ an ổn.
Thứ ba như văn kinh có ghi.
Từ câu “chúng sinh thầm hợp với vô minh” v.v… trở xuống là đoạn thứ hai nói về người ngủ chẳng an ổn. Có hai: Một, là mười hai câu đầu thuộc về pháp thuyết; hai, là mười hai câu kế thuộc về dụ thuyết.
Nói Thái tử chưa nối ngôi, tức tiên đế chưa băng, ngôi kế thừa chưa được lập, bốn phương chưa thái bình thì ngủ nghỉ chẳng yên, chẳng phải nói Đông cung ngủ nghỉ chẳng yên.
Từ câu “Này Kỳ-bà v.v…” trở xuống là đoạn ba, một ít văn xuôi tự nói mình chẳng yên ổn ngủ nghỉ. Có hai: Một là nêu lên; hai là giải thích, phần nêu lên lại có hai ý: Một, là nếu bị bệnh nặng.
Thứ hai, là nói không có thầy.
Từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích hai việc. Trước là giải thích bệnh nặng, sau là giải thích không có thầy thuốc.
Từ câu “Kỳ-bà đáp v.v…” trở xuống là đoạn ba, Kỳ-bà an ủi, khuyên đến chỗ Phật. Văn có hai đoạn: Một, là đáp hai ý nghĩa ở trước; hai, là chỉ thuốc hay cho vua.
Văn thứ nhất lại có bốn ý: một, vì vua có đức nên phạm tội nhẹ; hai, người không có năm đức nên phạm tội nặng; ba, kết luận không có bốn đức là hạng Nhất-xiển-đề; bốn, kết luận vua có năm đức, nên chẳng phải Nhất-xiển-đề.
Đầu tiên có năm đức, trong đó chỉ nói bốn đức, lược bỏ một việc là gần gũi bạn lành. Đã dùng dưới để đối chứng với trên, theo lý thì trên phải có, nhưng Kỳ-bà chính là việc gần gũi bạn lành, nên chẳng nói qua. Nói bốn đức: Một, vua biết hổ thẹn; hai, vua biết sám hối; ba, vua biết phát lộ, phát lộ sám hối về địa thể thì tương tự, nhưng cũng có một vài điều khác nhau; sám là sám trừ, hối là hối lỗi; còn phát lộ tức tỏ bày lỗi lầm đã phạm cho người biết; bốn, là nói vua có tín tâm.
Nhưng bốn việc đã có mà chưa tin lời Kỳ-bà. Nếu chắc chắn tin thì tức là bạn lành, vì chưa chắc chắn cho nên chỉ nói bốn đức mà thôi.
Từ câu “Nếu có chúng sinh v.v…” trở xuống là thứ hai, nói người kia không có năm đức nên tội nặng.
Gây ra tội tức là không có đức phát lồ, che giấu không ăn năn tức là không có đức sám hối. Chậm chạp ngu độn tức là không có đức hổ thẹn, chẳng thấy nhân quả tức là không có đức tín tâm, chẳng thưa hỏi tức là không có đức hiểu biết.
Từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là đoạn ba, theo nghĩa không có năm đức mà kết luận là Nhất-xiển-đề.
Từ câu “vì sao người tội v.v…” trở xuống là y cứ có năm đức kết luận chẳng phải Nhất-xiển-đề.
Từ câu “Như vua nói v.v…” trở xuống là phần thứ hai, chỉ bày thuốc cho vua. Văn có hai: Một, là chỉ thầy thuốc; hai, là chỉ thuốc hay.
Tất-đạt-đa, Hán dịch là Thành Lợi.
Từ câu “Rõ biết các căn v.v…” trở xuống là đoạn hai, chỉ bày thuốc hay. Thuốc tức là thắng pháp, thuốc hay và thầy thuốc rõ ràng là bên nhau, vì sao nói là không có thuốc hay. Văn có hai: Một, là nói về căn cơ.
Kế là từ câu “Hiện nay v.v…” trở xuống là nói về thuyết pháp, có hai ý là chung và riêng.
Đầu tiên là nói về thuyết pháp chung cho tất cả.
Kế là từ câu “Đó là v.v…” trở xuống là nói pháp riêng. Nói riêng có hai: Một, là y cứ theo hai pháp; hai, là y cứ theo ba pháp.
Nói có không tức hai đế, nói hữu vi vô vi là phiền não Niết-bàn, nói hữu lậu vô lậu tức bốn Đế, quả phiền não là khổ tập, quả pháp lành tức đạo diệt.
Từ câu “Sắc pháp v.v…” trở xuống là nói ba pháp.
Sắc, phi sắc, chẳng phải sắc chẳng phải phi sắc, các sư Số Luận Tỳ-đàm cho rằng sắc là mười một sắc, phi sắc là pháp tâm, tâm số; chẳng phải sắc, chẳng phải phi sắc tức là mười bốn pháp bất tương ưng hành. Các Luận sư Thành Thật cho rằng sắc là mười bốn sắc, phi sắc là tâm pháp, phi sắc chẳng phải phi sắc, tức là vô tác. Các Sư Trung Quán cho rằng sắc là sắc pháp, phi sắc là tâm, phi sắc chẳng phải phi sắc, tức Trung đạo Đệ nhất nghĩa xa lìa hai bên. Hai bên đều xa lìa này chỉ mới là Tục đế, đâu thể thành Trung đạo?
Ở đây cho rằng chẳng đúng. Trước nói hai Đế, còn ở đây nói ba Đế, trong đó sắc tức tục, phi sắc tức chân, phi sắc chẳng phải phi sắc tức Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế. Tự làm tự chịu rất dễ hiểu. Ở đây nói tự làm tự chịu, văn sau lại nói: Không có ta làm mà người khác chịu quả, hai văn mâu thuẫn nhau, nhưng mỗi văn đều có nghĩa để y cứ, nay hãy giải thích: Nói ta làm người khác chịu, có người nói rằng: “Như do mọi người phát tâm mà khiến cho tội của vua trừ diệt”. Lại các công đức mà các Bồ-tát có được đều ban cho chúng sinh, chúng sinh được an vui, đó cũng gọi là tha thọ (người khác được hưởng). Chẳng đúng như thế, tự làm tự chịu là từ giả vào không, chẳng làm chẳng thọ là Trung đạo. Các văn đều như thế. Văn sau nói: “Nếu đến chỗ Phật, nghe được nghĩa chẳng làm chẳng thọ thì tội liền tiêu diệt”, nên biết đó là Trung đạo.
Từ câu “Đại vương hãy lắng nghe! v.v…” trở xuống là đoạn hai, khuyên đến chỗ Phật. Văn có ba phần:
– Dẫn rộng mười ba việc khi xưa để khuyên – Nói tâm Phật bình đẳng để khuyên – So sánh phước đức để khuyên.
Theo thứ lớp từ xưa đến nay, xưa làm người ác đều đến gặp Phật thì tội tiêu trừ. Tâm Phật bình đẳng chẳng xem trọng xưa bỏ nay.
Đầu tiên là nói mười ba việc, có hai đoạn: một, là chính thức nêu các việc.
Thứ hai là từ câu “Nếu Đại vương v.v…” trở xuống là tổng kết ý dẫn chứng.
Từ câu “Tâu đại vương v.v…” trở xuống là đoạn hai, tâm Phật bình đẳng không phân cách.
Thứ ba là từ câu “Dù cho v.v…” trở xuống là so sánh phước cao quý.
Từ câu “Bấy giờ, nhà vua đáp v.v…” trở xuống là đoạn bốn, vì hổ thẹn nên chẳng chịu tin theo.
Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là đoạn hai, nhà vua làm duyên.
Văn có bốn đoạn:
- Trên hư không phát ra tiếng nói
- Vua hỏi ngược lại
- Vua cha nói thật
- A-xà-thế buồn thảm ngất đi
Thứ nhất lại có ba ý: Một, là nói Phật pháp sắp diệt nên khuyên bảo.
Từ câu “Nay Đại vương v.v…” trở xuống là ý thứ hai, vì tội nặng sẽ vời lấy quả địa ngục cho nên khuyên bảo.
Từ câu “Nay tôi biết v.v…” trở xuống là tổng kết hai việc, khuyên hãy đến gấp.
Thứ hai là vua hỏi.
Thứ ba là tiên vương nói thật.
Thứ tư là vua A-xà-thế buồn thảm ngất đi.
Hỏi: Nhà vua đã chết, vì sao có tiếng nói?
Đáp: Có hai ý: Một, là nhà vua đã đắc đạo, tuy bị giết nhưng chẳng chết, vì thế có thể khuyên; hai, là chẳng phải là nhà vua khi xưa, chính là các Thánh gá mượn làm tiếng của nhà vua.
PHẦN 5
Đầu quyển là phần thứ ba nói về diệt tội. Toàn văn có hai đoạn là trụ thế và diệt tội. Văn thứ nhất lại có hai là trụ thế và nói về nghĩa.
Luận nghĩa: Trước hỏi, sau đáp.
Đáp có hai: Một, là chánh đáp; hai, là mật ngữ.
Nghĩa là đồng ở tại Song lâm thì đều biết Phật chẳng diệt độ, chỉ có vua A-xà-thế cho là diệt nên phải nói cho ông ấy nghe.
Từ câu “Như ta v.v…” trở xuống là đoạn hai, mật ngữ của Như Lai. Có ba ý: một, là xướng mật ngữ; hai, là giải thích; ba, là kết luận khen ngợi.
- Xướng mật ngữ như văn kinh.
- Giải thích có sáu phần:
Một, nói rằng lời này bao gồm nhiều nghĩa tức là chung cho tất cả.
Hai, nói chẳng là vô vi, có ba cách giải thích: Một, là cho rằng Bát địa trở lên là chúng sinh vô vi; hai, là nói Sơ địa trở lên chân chứng mới là vô vi; ba, cho rằng đã tự nói vô vi tức chẳng phải chúng sinh, nên biết quả Phật mới gọi là chúng sinh vô vi.
Ba, lại nói chúng sinh trong lý đều là vô vi. Nhưng chẳng những các sư có các kiến giải khác nhau, mà trong kinh nói cũng khác nhau. Văn kinh nói: “Vì tức là vì tất cả”, lại nói: “Vì người gây ra năm tội ngịch, năm tội nghịch và tất cả”, hai nghĩa khác nhau.
Bốn, lại nói vì người chưa phát tâm. Sau đó lại ghi: “Người đã phát tâm vào thời Phật Tỳ-bà-thi, phát tâm và chưa phát tâm khác nhau”. Nói “vương tức là người chẳng thấy Phật tánh, đầy dẫy phiền não”.
Năm, lại nói “vua A-xà-thế tức chẳng sinh”, chẳng sinh gọi là Niết-bàn, Niết-bàn há chẳng thấy tánh ư?
Sáu, có người cho rằng mật ngữ là hiểu biết khác nhau. Ở đây nói mật ngữ của Như Lai, đâu thể nhất định là sâu, cạn, xa, gần được?
3. Từ câu “Mật ngữ v.v…” trở xuống là thứ ba, kết luận khen ngợi chẳng thể nghĩ bàn.
Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về diệt độ. Văn có hai: trước là thân, sau là tâm.
Cho nên kinh ghi: “trước trị thân bệnh cho vua, sau mới đến tâm”. Vì trước vua nói không có thầy thuốc trị thân tâm. Do đó phát ra ánh sáng trị thân bệnh, nói pháp trị tâm bệnh. Thứ nhất trị thân, văn có hai ý: Một, là phát ra ánh sáng; hai, là nói về ánh sáng. Phát ra ánh sáng như văn kinh có ghi.
Từ câu “Vua biết v.v…” trở xuống là phần hỏi đáp thứ hai, nói về ánh sáng. Có năm câu, trong đó gom vào hai: bốn phần đầu nói về ánh sáng; một phần sau là giải thích Tam-muội Nguyệt ái. Trong bốn phần đầu, mỗi phần đều có hỏi và đáp. Ba phần trước như văn kinh có nói.
Nói trong bảy người con có một người bệnh, có ba cách giải thích: Một, là dụ chung cho sáu đường, riêng những kẻ có tội là dụ cho một người con bị bệnh; hai, là sáu bậc Bồ-tát của trụ vị cộng với ngoại phàm là bảy, trong đó ngoại phàm là bệnh; ba, là bốn quả Thanh văn, Bíchchi-phật và Bồ-tát là sáu, cộng với ngoại phàm là bảy, một người con bị bệnh là dụ cho ngoại phàm khởi ác.
Ở đây nói chẳng đúng, văn ghi: “Trong bảy người con có một người bị bệnh”, chớ đâu nói ngoại phàm bị bệnh. Vả lại nói rằng tất cả chúng sinh là con của ta, như trước đã giải thích, hoặc tiến hay lùi cũng chẳng gồm thâu trọn nghĩa. Nay lấy các căn tánh giai vị Thất phương tiện của Viên giáo và bảy người con, trong bảy người này, người nào khởi tâm nghịch ác, thì Như Lai nhớ nghĩ đến nhiều hơn.
Nói sáu trụ có hai cách giải: Một, là sáu địa chân giải; hai, là sáu tâm tự giải.
Phần sau giải thích Nguyệt ái, trước nêu Tam-muội mà Như Lai đã nhập, kế là hỏi, kế là giải thích.
Đoạn trên mỗi câu đều nêu mặt trăng làm dụ, có sáu câu.
Từ câu “Vua bèn nói v.v…” trở xuống là ý thứ hai, diệt tội của tâm. Có hai phần, trước nói về duyên của tội, sau là diệt tội. Thứ nhất có bốn: Một, là tự chưa phát tâm; hai, là nhận lời khuyên mà đến; ba, là Như Lai khen ngợi; bốn, là đến chỗ ở của Phật.
Trong phần nói chưa phát tâm lại có hai phần hỏi đáp: Một, là vua chẳng thể phát tâm; hai, là Kỳ-bà khuyên đến chỗ Phật.
Phần thứ hai nói về Nhất-xiển-đề, trước hỏi sau đáp.
Trong lời đáp, trước nêu dụ, sau là hợp. Dụ có bốn: Một, là Nhấtxiển-đề dứt mất gốc thiện; hai, là căn duyên cảm Phật; ba, là điều thiện chẳng thể sinh; bốn, là vì đó mà nói pháp.
Văn thứ nhất lại có hai: Một, là nói về khởi năm độn sử; hai, là nói về khởi năm lợi sử. Thứ nhất lại có hai ý: một, là khởi ác; hai, là mất điều thiện.
Khởi ác chia làm hai ý: Một, là nói chung về khởi ác; hai, là nói riêng về năm độn sử.
Có hai câu: Đầu tiên là nói về người bệnh, dụ cho Nhất-xiển-đề có trọng ác; thứ hai nói nằm trong mộng là dụ cho tâm vô minh, lên điện một trụ là dụ cho Nhất-xiển-đề cắt đứt gốc thiện của hiện tại và vị lai, chỉ còn một ít gốc thiện ở quá khứ. Báo thân được cảm dụ như ngôi điện chỉ còn một cây trụ sắp ngã đổ.
Kế là từ câu “Uống dầu bơ, ăn mỡ v.v…” trở xuống là ý thứ năm nói khởi riêng năm độn sử.
Phàm ái sử nhờn dính dụ như dầu bơ, tham dục nhuần thấm dụ như mỡ, ở miệng thì gọi là uống, ở thân thì gọi là xoa, ý nói chung cho thân và miệng. Nằm trên tro, ăn tro dụ cho tâm khởi sân sử, thể của sân mạnh mẽ nhanh chóng nên dụ như tro, độc khởi ở miệng thì ăn tro nóng, ý nói chung thân và miệng. Leo lên cây khô dụ cho khởi mạn, tự cao khinh thường người. Vì sao chẳng nói trèo lên cây tươi tốt? Nếu bậc Hiền thánh tự cao thì có thể dụ cho cây tươi tốt. Còn đây là dùng điều ác để tự đề cao nên dụ cho cây khô. Hoặc thấy cùng với khỉ vượn v.v… là dụ cho tâm khởi nghi sử. Nghi sử chẳng nhất định, như khỉ vượn leo trèo, chuyền từ cành này đến cành khác, bỏ một bắt một, dụ cho tâm nghi mà cầu lý thì chấp có chấp không, hoặc nói là ngã vô ngã. Vả lại khỉ vượn giống như người mà thật chẳng phải người, dụ cho tâm tưởng rằng đã được lý mà thật chưa được lý. Trầm mình trong bùn nước v.v… là dụ cho vô minh, nhẹ thì như trầm trong nước, nặng thì như lún trong bùn.
Từ câu “Rơi từ v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về mất gốc thiện. Có hai ý: trước mất ba phẩm, sau nói mất ba thừa.
Nói té từ lầu là dụ cho việc mất tuệ; lầu là nơi để nhìn ra xa, dụ cho trí tuệ hiển bày soi chiếu khắp nơi, mà nay rơi té thì biết mất phẩm tuệ. Té từ núi cao là dụ cho mất giới, té từ cây khô là dụ cho mất phẩm định.
Kế là dụ cho mất ba thừa.
Xét ý văn này lẽ ra có bốn thừa kế nhau, nhưng chỉ nói mất ba thừa. Bốn thừa đều có lời văn nói đọa lạc, nhưng văn đã lược bỏ.
Từ câu “Thân mặc v.v…” trở xuống là thứ hai, khởi lên lợi sử. Có hai ý là khởi lợi sử và khởi các duyên ác khác.
Thân mặc quần áo là dụ ngã kiến khởi, như người chấp ngã có bốn thứ khác nhau: Bà-la-môn chấp là vàng; Sát-lợi chấp là đỏ; Tỳ-xá chấp là xanh; Thủ-đà-la chấp là đen. Vui cười ca múa dụ cho là kiến chấp khởi; đối với không vui mà nghĩ là vui, đối với không cao quý mà tưởng là cao quý. Quạ, kên kên, chồn là dụ cho tà kiến khởi, bốn loại này đều ăn thịt nên dụ cho tà kiến ăn nuốt gốc thiện. Răng tóc rụng là dụ cho biên kiến, tức hai bên đoạn thường, nay chỉ nói đoạn kiến. Trần truồng, gối đầu trên chó là dụ cho giới thủ, tức giữ giới chó, chó là loài đầu tiên được tin theo, nên nói gối đầu trên chó.
Nay nói thêm rằng: Ở đây hoàn toàn là chấp năm ấm, nên nói nằm trong phân dơ”.
Từ câu “Lại thấy cùng với v.v…” trở xuống là ý thứ hai, khởi lên lẫn lộn nhiều duyên ác, gặp tri thức xấu ác. Vong là người chết đã dụ cho dứt mất gốc thiện đã hết.
Nay cho rằng bốn oai nghi đều vận động thì không có chỗ để sinh ra điều thiện, nên nói là đi, đứng, nằm, ngồi.
Điều thiện vừa sinh thì tà niệm vừa khởi, nên nói dắt tay nhau. Dùng tà để tư dưỡng thân tâm nên nói là ăn nuốt. Rắn dụ cho đa sân.
Nay nói thêm rằng: Hành xứ của tâm sở thường tương ưng với sân. Nên nói: Đi trên đường đầy rắn.
Người nữ búi tóc dụ cho người nặng về ái; y phục lá cây là dụ cho người không biết hổ thẹn; đi trên xe lừa hư là dụ cho pháp ác tự vận hành. Chánh nam có ba cách giải: Một, cho rằng Nam là đất ly, Bắc là đất khảm, bỏ khảm về lìa dụ cho mất điều thiện, khởi ác; Hai, là theo các phương thì Bắc là phương trên dụ cho người đã dứt bỏ gốc thiện, từ trên cao rơi xuống; ba, là thiên tử ngồi quay mặt về phương Nam tự do giết tha, tức người này có tà kiến, chấp không có nhân quả. Tâm này tự do thì thân càng bệnh nặng, dụ cho các điều ác ngày càng nặng thêm.
Từ câu “Vì bệnh tăng v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về nhân duyên chiêu cảm Phật.
Bệnh tăng dụ cho tâm dứt mất điều thiện càng nặng. Về thân quyến, có ba cách giải: một, là nói giới quá khứ là nghiệp lành, nên cảm được thân này, chỉ nói pháp lành này tồn tại nên dụ như thân quyến; hai, là cho rằng Nhất-xiển-đề dứt mất gốc thiện của hiện tại và quá khứ, nhưng điều thiện ở tương lai mới sinh đều có khả năng làm Phật nên gọi điều thiện chưa sinh là quyến thuộc; ba, là chẳng phải như thế, tự có pháp lành chiêu cảm Phật, tự có pháp ác chiêu cảm Phật. Nhấtxiển-đề chỉ dùng pháp ác cảm ác làm quyến thuộc. Liền sai người mời thầy thuốc, thân hình xấu xí lùn thấp: Nếu cho điều thiện là người đi mời thầy thuốc thì điều thiện này bị điều ác chữa trị, nên nói là lùn thấp. Nếu cho điều ác là người đi mời thì đạo lý ác này tự kém xấu, gốc thiện yếu mỏng nên gọi là khuyết, không có tín nên gọi là lùn thấp.
Nói thêm rằng: Tín v.v… Chẳng đủ nên nói các căn chẳng đầy đủ.
Đầu tóc đầy bụi tóc dụ cho năm trụ che phủ. Mặc áo quần rách nát
là dụ cho không biết hổ thẹn. Ngồi trên xe hư dụ cho việc nhờ vào gốc thiện đời trước cảm vời được thân này, nhưng thiếu kém gốc thiện.
Nay nói thêm rằng: Cơ duyên thầm hợp, thầy thuốc mau chóng.
Lên xe là dụ cho tâm hy vọng có cảm ứng.
Từ câu “Bấy giờ thầy thuốc v.v…” trở xuống là ý thứ ba, quán điều thiện chẳng thể sinh, có hai đoạn: một, là quán sát; hai, là chấp thuận. Thứ nhất lại có hai: Một, là sơ quán căn cơ; hai, là quán sát kỹ một lần nữa.
Đầu tiên vừa quán cơ, đã chẳng thấy gốc thiện, Đức Phật vẫn chưa muốn xả bỏ nên quán xét lại.
Thứ hai, là từ câu “Lại suy nghĩ v.v…” trở xuống là quán xét lại. Văn có hai: Một, là quán hiện tại; hai, là quán quá khứ. Quán hiện tại có ba ý: Một, là xem ngày dụ cho người thượng căn; hai, là xem tinh tú dụ cho hàng trung căn; ba, là xem thời dụ cho kẻ hạ căn. Về thời nói ban đêm tức dụ cho hàng Nhất-xiển-đề thấp kém nhất. Tinh tú kém hơn ngày nên dụ cho trung phẩm. Nhất-xiển-đề tuy có ba phẩm nhưng đều đã dứt hết gốc thiện.
Ngày mồng bốn dụ cho bốn đảo; ngày mồng sáu dụ cho sáu tệ; ngày mồng tám dụ cho tám tà; ngày mười hai là bác bỏ mười hai nhân duyên, cũng dụ cho mười hai ngã kiến; ngày mười bốn là bác bỏ không có mười bốn đế. Mười bốn Đế xuất xứ từ kinh Hoa Nghiêm. Mười bốn đế là Tướng đế, sai biệt đế, Sự đế, Sinh khởi đế, Tận vô sinh đế, Thuyết nhập đạo đế, Như Lai trí thành tựu đế…
Xem sáu vì sao là dụ cho được sáu vị giáo chủ ngoại đạo chỉ dạy.
Xem năm thời là dụ cho việc đã dứt mất gốc thiện của năm thừa.
Từ câu “Lại suy nghĩ rằng v.v…” trở xuống là ý thứ hai, quán gốc thiện đời quá khứ.
Quán cả hai đời đều không có gốc thiện.
Từ câu “Suy nghĩ rồi v.v…” trở xuống là ý thứ hai, chấp nhận. Văn có ba đoạn: một, là chấp nhận; hai, là chính thức chấp nhận. Thứ nhất có hai câu: một, là chấp nhận; hai, là quán sát lại.
Nói cùng đi với người kia, tức vừa chấp nhận thì đường cảm ứng liền giao nhau cho nên gọi là “cùng đi với”.
Từ câu “Đi trên đường v.v…” trở xuống là quán sát lại. Văn có hai là quán hiện tại và quán vị lai.
Nói hai đứa bé dụ cho đoạn thường, hữu vô. Thấy cầm lửa tự nhiên tắt, tức lửa mà chẳng phát ánh sáng, dụ cho mất tuệ. Chặt cây cối dụ cho mất định. Kéo tấm da dụ cho mất giới phẩm. Nhất-xiển-đề tuy có thọ mà không vâng giữ giống như tấm da khô. Vật rơi trên đường là điều thiện xuất thế đã hết. Tuy có các điều thiện như vợ con, thân thuộc nhưng đó là điều mà bậc Thánh vất bỏ. Thùng không là nói tuy có thân mà chẳng có đạo đáng ưa thích. Sa-môn độc hành là cho pháp xuất thế là độc nhất không có thân thuộc. Thấy cọp sói là thú ăn thịt dụ cho pháp ác ở hiện tại ăn nuốt hết pháp lành.
Từ câu “Lại thấy v.v…” trở xuống là quán vị lai. Có hai ý là quán nhân vị lai và quán quả vị lai.
Nói đứng phía trước, tức nói thân sau cũng chưa sinh điều thiện.
Từ câu “Lại nghe v.v…” trở xuống là quán quả vị lai.
Tức quả báo ở ba đường. Tiếng chim thú dụ cho âm thanh chịu khổ.
Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là chính thức nhận chữa trị. Có hai ý: một, là dụ; hai, là quán xét.
Dụ thứ nhất là vào nhà, tức bỏ bản địa mà vào sinh tử, nên nói là “vào nhà người bệnh”.
Từ câu “Thấy người bệnh v.v…” trở xuống là quán xét lại, có hai là quán hiện tại và quán quá khứ.
Quán hiện tại có bốn: Quán ba độc, quán năm căn, quán mười sử, quán ba nghiệp. Thứ nhất, ba độc là lạnh ngưng kết, dụ cho si, nóng thì đột biến dụ cho tham. Văn lược bỏ không nói sân.
Kế nói về xương cốt chi thể đau nhức là dụ cho năm căn.
Xương cốt chi thể là thân căn, mắt đỏ là nhãn căn, tai ù là nhĩ căn, cổ họng là thiệt căn, lược bỏ không nói là tỷ căn.
Thứ ba, từ câu “Sắc tướng v.v…” trở xuống là nói quán mười sử.
Mầu đen dụ cho vô minh sử, đầu chẳng cất lên nổi là dụ cho mạn sử, muốn khinh mạn tự cao mà chẳng được. Thân khô không có mồ hôi là dụ cho sân sử không được thấm nhuần. Đại tiểu tiện chẳng thông dụ cho hai chấp đoạn thường. Thân phù dụ cho ngã kiến.
Lời nói là khẩu nghiệp, toàn thân da nổi xanh vàng là thân nghiệp, bụng đầy hơi là ý nghiệp.
Từ câu “Thầy thuốc thấy vậy v.v…” trở xuống là đoạn hai, quán lại quá khứ, gồm có hai: một, là quán xét căn duyên.
Nói “từ hôm qua đến giờ, há chẳng phải là quá khứ hay sao”?
Kế là nói căn duyên đối đãi.
Nêu năm câu, một câu đầu mất tâm lành xuất thế, bốn câu sau nói mất tâm lành thế gian: Một, là mất tâm lành kính tin Tam bảo; hai, là mất tâm lành tuệ trí; ba, là mất tâm lành ít ăn và nhường nhịn; bốn, là mất tâm lành bạc ác; năm, là mất tâm lành từ hiếu.
Đã nói Tam bảo thì biết là xuất thế, còn bốn câu sau là điều thiện thế gian, như văn kinh có ghi. Nói vốn tánh bạc ác nay thuần thiện, nghĩa là chỉ có tâm thuần thiện là yêu thương vợ con, còn nói bạc ác tức là tâm lành mạnh mẽ bảo vệ chánh pháp.
Từ câu “Thầy thuốc nghe rồi v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, nói pháp. Văn có ba ý là nói pháp, thân giáo hóa và tuyệt ứng. Nói pháp có hai ý: một, là vừa nghe liền nói; hai, xét cùng tận mà nói pháp lại.
Nói ngửi người bệnh là dụ cho vừa xem qua vừa nói pháp. Bảy mùi thơm dụ cho bảy lậu, năm mùi hôi dụ cho năm dục.
Từ câu “Liền xúc chạm v.v…” trở xuống là xét đến cùng tận mà nói pháp.
Chuyển lại gần nhau, như chạm vào thân thì chỉ thấy ba độc.
Từ câu “Lại nói với v.v…” trở xuống là ý thứ hai thôi giáo hóa.
Nói bây giờ ta bận việc là đi giáo hóa các nơi khác. Nói sáng mai trở lại là nói hiện tại không có nội tâm, hóa duyên đã hết, vả lại đó là chỉ cho vị lai sâu xa. Nói tùy ý chớ cấm ngăn thì chẳng phải điều Phật chế.
Từ câu “Sáng hôm sau v.v…” trở xuống là nói về tuyệt ứng.
Người đến rước là dụ cho việc lại cảm đến Phật. Điều thiện chẳng sinh nên nói la “việc của ta chưa xong”.
Từ câu “Tâu Đại vương v.v…” trở xuống là hợp dụ. Văn có ba:
một, là chánh hợp; hai, là phân biệt Nhất-xiển-đề; ba, là vào ba đường cứu giúp.
Phần chánh hợp chỉ lược hợp với đại ý, nếu so sánh với dụ ở trước thì chỉ hợp với hai ý sau, chẳng hợp với hai ý trước. Đầu tiên là hợp với ý thứ tư nói pháp. Sau là hợp với ý thứ ba quán điều thiện chẳng thể sinh.
Từ câu “Nhất-xiển-đề v.v…” trở xuống là thứ hai, phân biệt người Nhất-xiển-đề.
Nói đời này hoặc đời sau, nếu nói ngay nơi Sự thì ba đời đều không; nếu y cứ theo mà so sánh thì có nghĩa sinh điều thiện. Lại có hai ý: đầu tiên là giáo hóa khi tu nhân, sau là cứu độ khi đắc quả.
Từ câu “Thí như v.v…” trở xuống là thứ ba, vào ba đường để cứu giúp chúng sinh.
Từ câu “Vua bảo Kỳ-bà v.v…” trở xuống là đoạn ba, nhận lời khuyên mà đến chỗ Như Lai trụ.
Từ câu “Bấy giờ, Phật bảo v.v…” trở xuống là đoạn ba, Như Lai khen ngợi. Văn có bốn ý: Một, là vua nghi ngờ. Hai, là Phật vì vua mà quyết định. Ba, là Bồ-tát Trì Nhất Thiết hỏi. Bốn, là Phật đáp.
Nghi là nghi trí Phật chẳng biết có diệt được tội hay không, nghi tội mình chẳng biết có diệt được hay không.
Từ câu “Nay ta v.v…” trở xuống là Phật quyết định.
Dùng trí năng trừ để diệt tội sở trừ.
Thứ ba là từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là Bồ-tát Trì Nhất Thiết thưa hỏi.
Phật nói tất cả đều không nhất định, vì sao lại vì vua mà nói là nhất định.
Từ câu “Phật nói v.v…” trở xuống là Phật đáp.
Vua tự cho rằng có thể trừ, chẳng thể trừ. Ta vì người mà trừ, trừ tâm bất định mà làm cho nhất định.
Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là đoạn bốn, nói về trụ xứ Phật. Có bốn: một, là vua đến.
Hai, là Thế Tôn thăm hỏi. Như Lai dùng lời hòa diệu yêu thương gọi đến ta, gọi chung thì còn nghi ngờ, đến khi gọi riêng thì tâm vui mừng.
Thứ ba, là Ca-diếp thuật lại.
Bốn là vua vui mừng cúng dường, như văn kinh.
Từ câu “bấy giờ, người ấy bảo, v.v…” trở xuống là đoạn hai chính thức diệt tội. Có hai ý: một, là lược nói pháp; hai, là giảng nói rộng. Văn thứ nhất lại có hai là nói lược và lãnh giải. Nói lược có ba câu: một, là chấp nhận chỉ dạy; hai, là chánh nói; ba, là kết luận.
Trong phần chánh nói, đầu tiên nêu hai mươi việc, sau đó giải thích.
Trong phần giải thích, đầu tiên là nói không có chân pháp vô lậu, kế là nói không có hữu lậu tự giải. Chân và tự này là một cặp.
Kế là đầu tiên nói chung có nhân ác sinh tử, sau nói là đọa vào quả ác ba đường, hợp thành một cặp.
Thứ ba, đầu tiên là nói không có trí tuệ phương tiện, trước chứng đạo, sau nói không có năng lực tu định trước chứng đạo thành một cặp.
Thứ tư, trước nói bốn điên đảo sinh tử chỉ là khổ, vô thường. Sau nói chẳng thoát tám nạn. Đảo và nạn là một cặp.
Thứ năm, oán báo là một cặp.
Thứ sáu, đầu tiên là nói chẳng tránh khỏi quả khổ của ba đường. Sau nói chẳng tránh khỏi nhân khổ, hạt giống phược và quả phược là một cặp.
Thứ bảy là một cặp vô thỉ vô chung.
Thứ tám là cặp không hữu.
Thứ chín là một cặp nhân quả.
Thứ mười là một cặp ngu si, buông lung.
Nay y cứ theo ba Đế để giải thích hai mươi quán: một, là không có vô lậu, không có gốc thiện, đây là nói chân và tự trong chân đế; hai, là, nói sinh tử chưa được điều phục, hầm sâu đáng sợ hãi, đây là nói nhân quả trong tục đế đáng sợ; ba, là hai câu nói về Phật tánh, tức là nói không có năng lực định tuệ trước chứng đạo của Trung đạo; bốn, là nói bốn điên đảo là phiền não đạo, tám nạn khổ đạo, kẻ thù và các hữu là nghiệp đạo…
Từ câu “Kẻ phàm phu v.v…” trở xuống là ý thứ ba, kết luận nêu được mất.
Có quán hai mươi việc là được, không quán thì mất. Như văn kinh có ghi.
Từ câu “Vua bạch rằng v.v…” trở xuống là thọ lãnh, tin hiểu.
Từ câu “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn hai, giảng nói rộng. Lại có ba: Một, là vua khởi chấp; hai, là Phật phá; ba, là vua vâng theo giáo hành trì.
Khởi chấp có bốn ý: Một, là chấp tội nặng; hai, là chấp nhà vua; ba, là chấp vô tội; bốn, là chấp nhất định bị đọa.
Chấp chặt bốn điều này thì hại cho việc nhập đạo, nên cần phải phá.
Từ câu “Phật bảo rằng v.v…” trở xuống là đoạn hai, Phật phá chấp. Gồm có ba ý; là phá riêng, phá chung và kết luận khuyên bảo. Thứ nhất là phá riêng, tức phá bốn chấp nêu trên, nhưng chẳng theo thứ lớp. Đầu tiên là phá chấp thứ tư là chắc chắn sẽ đọa, có ba câu: một, là chánh phá.
Sát không có tướng nhất định, như kinh Phổ Hiền Quán ghi: “Tất cả các tội nghiệp đều từ vọng tưởng sinh, ngồi thẳng niệm thật tướng, biết tội như sương móc, mặt trời tuệ chiếu tan”. Nếu đạt được vọng tưởng thì tội nghiệp tiêu diệt. Vì không có nghiệp nên chẳng có đọa.
Kế là vua thọ lãnh, tin hiểu.
Thứ ba là Như Lai xác định.
Từ câu “như lời nhà vua nói v.v…” trở xuống là đoạn hai, chấp nhà vua. Tuy gồm nêu chung câu nhà vua vô tội nhưng trước phá chấp nhà vua. Đầu tiên nói về nhân duyên giả có nên chẳng có nhà vua; kế là nói niệm niệm sinh diệt, nên không thấy có nhà vua.
Trong các pháp, suy cầu tìm kiếm pháp được gọi là cha đều chẳng thật có. Nếu theo Thế đế, bẩm tánh con người tôn trọng tình cha con là lẽ tất nhiên. Nếu y cứ theo chân không thì các pháp bình đẳng không khác nhau. Đã không có cha con khác nhau, thì đâu có sắc hay giết và bị giết? Nói sắc có mười thứ tức năm căn, năm trần cho đến lẽ ra phải có bốn đại nhưng văn kinh đã lược bỏ. Đó cũng là gồm thâu năm trần thành bốn đại, bốn đại thành năm căn. Bốn đại thành năm căn tức bốn đại gồm thâu mười sắc. Năm trần thành bốn đại thì mười sắc gồm thâu bốn đại, cho nên chẳng nói rộng.
Từ câu “Tuy có thể v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói về niệm niệm sinh diệt nên vô tội.
Từ câu “Tội nặng v.v…” trở xuống là ý thứ ba, phá định chấp thứ nhất là có tội nặng.
Dứt tâm cao thấp, bỏ chấp phân biệt.
Từ câu “Vua Tần-bà-sa-la v.v…” trở xuống là thứ tư, phá chấp thứ ba là vô tội. Văn có hai: trước dẫn việc xưa, kế là nên chấp để phá.
Từ câu “Này đại vương v.v…” trở xuống là phần thứ hai, phá chung. Văn có ba đoạn: Một, là nêu bốn thứ điên đảo, dứt bỏ định chấp thật có; hai, là từ câu “Như trong cung vua, v.v…” là phá chấp không có tâm từ, không bình đẳng; ba, là từ câu “Như Niết-bàn v.v…” trở xuống là phá sự trệ ngại mất lý. Thứ nhất có hai là pháp và dụ.
Tâm tham cuồng mạnh mẽ làm đảo loạn tất cả. Thuốc cuồng làm mê muội như nước lửa xung đột; chú thuật cuồng thì ngang dọc làm điều phi pháp; nghiệp cuồng tức là do nghiệp chế phục khiến mất bản tâm. Vua không có ba loại sau, chỉ có tham cuồng, tham cuồng thì gây ra tội của tham.
Kế là dụ, có hai: Trước nói người say, sau nói việc huyễn. Người say gồm có hai, là trước dụ sau hợp.
Nêu dụ người say: Nếu lúc trước giận nhau, mượn rượu để mắng chửi người, thì chẳng gọi là say, do đây mà tạo tội thì có tội. Nhưng nếu khi say hoàn toàn không biết gì, hoàn toàn không tự chủ được, như thế nếu tạo tội thì không có tội.
Từ câu “Nay nhà vua, v.v…” trở xuống là hợp.
Vua cũng như người say.
Từ câu “Thí như nhà ảo thuật, v.v…” trở xuống là nêu chín dụ huyễn hóa để phá chấp thật có. Mỗi dụ đều có trước là dụ, sau là hợp.
Dụ thứ nhất chính thức nêu huyễn hóa để phá thật có.
Từ câu “Như trong cung vua, v.v…” trở xuống là thứ hai, phá chấp không có tâm từ, không bình đẳng.
Xem nặng sự chết: Người nào xem nặng sự chết mà xem nhẹ sự sống. Nay chẳng nói cho nên xem nặng sự chết, bất luận là người hay thú đều cho khổ chết là nặng, vì thế tiếc giữ sinh mạng và sợ chết thì người và thú chẳng khác. Nếu y cứ theo kiết giới thì phạm với người thì nặng, phạm với thú thì nhẹ. Đó là y cứ theo nghiệp thiện ác đời quá khứ mà nói riêng, chẳng nên so sánh nhau. Nếu y cứ theo thí thực, thì đây là y cứ theo tâm bố thí đồng duyên thật tướng cho nên bình đẳng, đây cũng là nói riêng.
Từ câu “Thí như Niết-bàn v.v…” trở xuống là đoạn ba, phá sự dính mắc hai bên mất lý. Như văn kinh có ghi.
Kế là dùng sự giết để hợp dụ. Có ba phen hợp như văn kinh.
Từ câu “Đại vương v.v…” trở xuống là kết luận khuyên quán hạnh. Trước khuyên quán vô thường.
Kế là từ câu “Nếu giết vô thường v.v…” trở xuống là khuyên quán thường, lạc, v.v…
Từ câu “Bấy giờ,…” trở xuống là đoạn ba, vâng hành. Văn có hai:
trước nói về quán hạnh, sau nói về phát tâm. Quán hạnh có ba: một, là chính thức quán; hai, là thưa hỏi Phật; ba, là tự vui mừng.
Văn đầu tiên nói quán vô thường, lại nói thường là vì sao? Nếu chẳng quán thường thì chẳng biết quán vô thường. Nhờ quán thường và vô thường mà thông đạt được chẳng phải thường chẳng phải vô thường.
Từ câu “Quán rồi v.v…” trở xuống là thứ hai, thưa hỏi Phật.
Thứ ba, từ câu “Xưa con có nghe v.v…” trở xuống là nói vua tự vui mừng. Lại có ba: một, là nhờ Phật che mát.
Kế từ câu “Như núi Tu-di v.v…” là nói về đồng hiểu như Phật.
Thứ ba từ câu “Con thấy v.v…” trở xuống là tự vui.
Vô căn tín, tức khi xưa năm căn chưa lập, nay mới được tín, nên nói là vô căn.
Từ câu “Bạch Đức Thế Tôn, nếu con không gặp, v.v…” trở xuống là ý thứ hai nói về phát tâm. Văn có ba: Một, là chỉ nói vua phát tâm; hai, là phu nhân và quyến thuộc phát tâm; ba, là vua lui về. Vua phát tâm có ba ý: một, là vua phát tâm. Hai, là Như Lai ấn chứng. Ba, vua lại phát tâm.
Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là nói vua và quyến thuộc phát tâm. Văn có ba đoạn: một, là phát tâm; hai, là cúng dường khen ngợi; ba, là Như Lai nói lại để ấn chứng.
Thứ nhất, chánh phát tâm có ba ý: một, là người trong nước; hai, là vua và phu nhân; ba, là vua vui mừng.
Người trong nước phát tâm khiến tội của vua nhẹ bớt, đó là duyên xa để diệt tội. Vì sao? Vì chúng sinh bệnh nên Bồ-tát bệnh; chúng sinh hết bệnh thì Bồ-tát cũng hết bệnh. Nếu y cứ theo văn này thì phát tâm đối với Phật Tỳ-bà-thi nên chẳng đọa. Nếu y theo kinh A-xà-thế Vương thì đã từng phát tâm Bồ-đề đối với bảy mươi hai ức Đức Phật.
Từ câu “Nói lời này xong v.v…” trở xuống là ý thứ hai, cúng dường khen ngợi. Có hai phần: Một, là vài dòng văn xuôi là thân nghiệp cúng dường.
Kế là các bài kệ, thuộc về khẩu nghiệp cúng dường. Gồm sáu mươi hai câu, chia làm hai đoạn: một, gồm ba mươi tám câu đầu là khen ngợi; hai, là gồm hai mươi bốn câu sau là lời phát nguyện.
Trong ba mươi tám câu đầu lại chia thành ba đoạn nhỏ: một, là gồm ba mươi câu đầu là khen ngợi khẩu mật; hai, là gồm bốn câu, khen ngợi ý mật; ba, là gồm bốn câu khen ngợi thân mật.
Khen ngợi khẩu mật lại chia làm ba: một, là gồm mười hai câu đầu khen ngợi thật ngữ; hai, là gồm sáu câu kế tiếp khen ngợi lời hòa dịu; ba, là gồm mười hai câu cuối khen ngợi lời có Đệ nhất nghĩa.
Thật ngữ đối với lời luống dối, lời nhu hòa đối lại với lời thô cứng, lời thuận nghĩa đối lại với lời thêu dệt. Lẽ ra nên có lời hòa hợp đối với lời hai chiều chia rẽ, cho nên không có là do văn đã lược bỏ. Vả lại, thật ngữ thì gồm cả lời hòa hợp.
Thứ hai là khen ngợi ý nghiệp, tức là đức đại từ.
Thứ ba là khen thân nghiệp, vì chúng sinh mà nói thị hiện.
Từ câu “nay con v.v…” trở xuống là phần hai, có hai mươi bốn câu kệ phát nguyện sám hối, tức năm ý sám hối. Thứ nhất có bốn câu nói về hồi hướng.
Thứ hai, có bốn câu nói về khuyến thỉnh.
Thứ ba, có bốn câu nói về tùy hỷ.
Thứ tư, có bốn câu về sám hối.
Thứ năm, có tám câu nói về phát nguyện. Thứ nhất là bốn câu đầu nguyện phát sơ tâm.
Kế là gồm bốn câu sau, cuối cùng thấy Phật tánh.
Từ câu “Bấy giờ, Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn ba, Đức Thế Tôn thuật lại và chấp nhận. Văn có ba đoạn: một, là thuật về hiện đời của vua.
Thứ hai, là từ câu “Từ xưa v.v…” trở xuống là nói về quá khứ của vua.
Thứ ba, Từ câu “Từ nay về sau v.v…” trở xuống là nói về vị lai của vua, tức là khuyên tu.
Trong kinh Thế Vương cho là Phật nói, Văn-thù nói tội nặng của vua như núi Tu-di đều tiêu diệt, chỉ còn một mảy may nhỏ như hạt cải, nên cũng rơi vào địa ngục Tân-trá. Dù ở trong đó nhưng chẳng bị đau khổ, lại được thọ ký thành Phật hiệu là Duy-thủ-đà-duy-sa-da, Hán dịch là Tịnh Kỳ Sở Lãng.
Thứ ba, vua trở về kinh.
Nói Thiên Hạnh là chỉ xa cho Tạp Hoa.