LUẬN THẬP TRỤ TỲ BÀ SA
Tác giả: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 14
Phẩm 28: PHÂN BIỆT NGHIỆP ĐẠO CỦA ĐỊA THỨ HAI, phần 2
Kệ nêu:
Bồ-tát trụ Địa này
Tự nhiên không hành ác
Do rất ưa pháp thiện
Tự nhiên hành đạo thiện.
Hỏi: Tự nhiên không hành mười đạo bất thiện, tự nhiên hành mười đạo thiện. Hai thứ đạo này, thân hành bao nhiêu? Miệng hành bao nhiêu? Ý hành bao nhiêu?
Đáp:
Thân, ý mỗi thứ ba
Miệng bốn, thiện cũng thế
Nói lược là như vậy
Dưới đây sẽ phân biệt.
Ba hành ác của thân: Giết hại mạng sống kẻ khác, trộm cướp, tà dâm. Bốn hành ác của miệng: Nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời tán loạn. Ba hành ác của ý: Tham lấy, giận dữ gây não hại, tà kiến.
Ba hành thiện của thân: Lìa bỏ giết hại mạng sống kẻ khác, không trộm cướp, không tà dâm. Bốn hành thiện của miệng: Lìa bỏ nói dối, lìa bỏ nói hai lưỡi, lìa bỏ nói lời thô ác, lìa bỏ nói lời tán loạn. Ba hành thiện của ý: Không tham lấy, không giận dữ gây não hại, chánh kiến.
Nghiệp đạo của thân, miệng, ý là thiện, bất thiện, nên cần luận bàn để khiến người được hiểu.
Trước hết, giết hại mạng sống kẻ khác: Là đạo bất thiện. Biết đó là chúng sinh có sự sống mà cố tâm hành não hại. Nhân nơi não hại mà kẻ kia bỏ mạng. Khởi thân nghiệp ấy, gọi là giết hại mạng sống kẻ khác, là đạo bất thiện. Lìa bỏ hành như thế gọi là lìa bỏ giết hại mạng sống kẻ khác, là hành thiện.
Trộm cướp: Là đồ vật của người khác, biết rõ là của người khác, lại sinh tâm trộm cướp, dùng tay lấy vật ấy đem đi nơi khác, hoặc cướp hoặc trộm, cho vật đó là của mình, sinh tâm ngã sở, đó là hành trộm cướp. Lìa bỏ hành như thế gọi là không trộm cướp, là hành thiện.
Tà dâm: Là người nữ hiện có, hoặc được cha mẹ bảo hộ, thân tộc bảo hộ, giòng họ bảo hộ, pháp luật bảo hộ, giới pháp bảo hộ. Nếu là vợ người khác, đã biết có những thứ ngăn cản, chướng ngại như đánh đập, não hại. Trong sự việc này sinh tâm tham dục, khởi hành ở thân. Hoặc đối với thê thiếp của mình mà vẫn hành dâm tuy đang ngày thọ giới, đang mang thai, đang cho con bú, hay thực hiện việc dâm dục không phải chỗ v.v…, đó gọi là tà dâm. Lìa bỏ hành như thế gọi là không tà dâm, là hành thiện của thân.
Nói dối: Là giấu tướng, giấu tâm, giấu sự trông thấy, giấu nhịn, giấu điều muốn. Biết rõ các tướng như vậy mà nói khác, đó gọi là nói dối. Xa lìa việc ấy gọi là lìa bỏ nói dối, là hành thiện.
Nói hai lưỡi: Là muốn chia rẽ người khác, đem sự việc này nói cho người kia, đem sự việc kia nói cho người này, là nhằm chia rẽ, người hòa hợp thì khiến chia lìa, người chia lìa thì tùy thuận cho chia rẽ là tốt, đáng mừng, đó gọi là nói hai lưỡi. Từ bỏ sự việc như thế gọi là lìa bỏ nói hai lưỡi, là hành thiện.
Nói lời thô ác: Là nơi thế gian hiện có các thứ lời ác, lời độc hại, lời cay đắng, lời thô bỉ, lời tồi tệ v.v…, khiến người khác nổi giận, não hại, đó gọi là nói lời thô ác. Từ bỏ sự việc như thế gọi là lìa bỏ nói lời thô ác, là hành thiện.
Nói lời tán loạn: Là nói không đúng lúc, nói không lợi ích, nói lời phi pháp, lời không đầu không đuôi, lời không duyên cớ, đó gọi là nói lời tán loạn. Từ bỏ sự việc như vậy gọi là lìa bỏ nói lời tán loạn, là hành thiện.
Tham lấy: Là những vật của người khác, những sở thích của họ, như ruộng vườn, của cải, lại khởi tâm tham muốn lấy cho được. Ngược lại, đối với vật của người khác không tham, không ganh tị, không muốn lấy cho mình, đó gọi là không tham lấy, là hành thiện.
Giận dữ gây não hại: Là tâm nổi giận dữ, là tâm sân hận, tâm gây cản trở đối với chúng sinh khác. Suy nghĩ: Sao ta không đánh đập, cột trói, giết nó? Đó gọi là giận dữ gây não hại. Từ bỏ sự việc như thế gọi là không giận dữ gây não hại, là hành thiện.
Tà kiến: Là nói không có bố thí, không có ơn báo, không có nghiệp thiện ác, không có quả báo, không có đời này, không có đời sau, không có cha mẹ, không có Sa-môn, Bà-la-môn, cho mình có thể nhận biết rõ về đời này, đời sau, thông đạt hết thảy, tự thân tác chứng. Đó gọi là tà kiến. Chánh kiến: Là cho có hành bố thí, có ơn báo, có nghiệp báo thiện ác, có đời này, đời sau, thế gian có Sa-môn, Bà-la-môn, nhận biết về đời này đời sau, thông suốt hết thảy, tự thân tác chứng. Đó gọi là chánh kiến, là hành thiện. Bồ-tát này như thế là nhập đạo chánh kiến.
Lại nữa:
Đạo thiện, đạo bất thiện
Đều hai mươi phân biệt
Biết xứ nào khởi lên
Mười hai thứ phân biệt.
Bồ-tát đối với vô số tướng riêng như mười đạo thiện, mười đạo bất thiện, nhận biết có hai mươi thứ phân biệt.
Lại, đối với hai mươi thứ phân biệt ấy khéo nhận biết từ xứ nào khởi mười hai thứ phân biệt.
Trong mười đạo bất thiện có hai mươi thứ phân biệt, đó là không lìa bỏ giết hại mạng sống kẻ khác:
1. Bất thiện.
2. Hệ thuộc cõi Dục.
3. Hữu lậu.
4. Không phải tâm số pháp.
5. Tâm không tương ưng.
6. Không tùy tâm hành.
7. Hoặc cùng tâm sinh, hoặc không cùng tâm sinh. Thế nào là cùng tâm sinh? Là thật có chúng sinh nhận biết đó là chúng sinh, vì thân nghiệp nên đoạt mạng sống của họ, đó gọi là cùng tâm sinh. Thế nào là không cùng tâm sinh? Như người muốn giết hại chúng sinh thì bắt trói, kéo lê, đánh ngã xuống đất, sau đấy nạn nhân tự chết, đó gọi là không cùng tâm sinh. Lại, thân không hành tác, miệng không nói, chỉ sinh tâm như vầy: Ta từ nay phải giết hại chúng sinh kia. Tội giết hại mạng sống kẻ khác như vậy gọi là không cùng tâm sinh. Lại nữa, không lìa bỏ ý giết hại mạng sống kẻ khác, nhưng giác quán luôn tích tập, tăng trưởng, cũng gọi là không cùng tâm sinh.
8. Hoặc sắc, hoặc không phải sắc. Ban đầu cùng tâm cố ý gây tội giết hại, đó là sắc. Tội giết lần thứ hai, tội giết lần thứ ba, tội giết lần thứ tư là không phải sắc.
9. Hoặc có tạo tác, hoặc không tạo tác. Có sắc là tạo tác, ngoài ra là không tạo tác.
10. Hoặc có duyên, hoặc không có duyên. Sắc là có duyên, ngoài ra là không có duyên.
Hỏi: Tâm này có duyên hay là không có duyên?
Đáp: Không có duyên.
Hỏi: Nếu tâm không có duyên khi thân không hành tác, miệng không nói, chỉ tâm sinh niệm: Từ nay ta phải giết hại chúng sinh ấy. Đã có nghiệp gây tội như vậy, sao gọi là không có duyên?
Đáp: Nếu gây tội giết thì tâm tức nên có duyên. Nay, thật sự có tội giết nhưng không phải là tâm, vì tội giết là nghiệp của thân, mà tâm thật không phải là nghiệp của thân, cho nên tội giết hại chúng sinh như vậy không gọi là có duyên. Tội sát sinh này chỉ là cùng tâm sinh, vì tâm ở trong thân, do tâm này không tạo tác, nên nói là không có duyên.
- Là nghiệp.
- Không phải nghiệp tương ưng.
- Không tùy nghiệp hành.
- Hoặc cùng nghiệp sinh hoặc không cùng nghiệp sinh. Cũng như cùng tâm sinh không khác, chỉ trừ tâm và suy nghĩ cùng sinh thì khác.
- Không phải nghiệp báo của đời trước.
- Không thể tu tập.
- Nên khéo nhận biết.
- Nên dùng tuệ chứng, không dùng thân chứng.
- Có thể đoạn trừ.
- Có thể thấy biết.
Không lìa bỏ tội trộm cướp, không lìa bỏ tội tà dâm, không lìa bỏ tội nói dối, trong các tội đó, chỉ:
1. Cùng tâm sinh. | 2. Không cùng tâm sinh. |
1. Có sắc. | 2. Không sắc. |
1. Có tạo tác. | 2. Không tạo tác. |
1. Có duyên. | 2. Không có duyên. |
Phần còn lại đều giống như đã nói trong tội giết hại mạng sống kẻ khác.
Không lìa bỏ nói hai lưỡi, không lìa bỏ nói lời thô ác: Cũng đều như vậy.
Không lìa bỏ nói lời tán loạn thì hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký: Từ tâm bất thiện sinh là bất thiện. Từ tâm vô ký sinh là vô ký. Hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc: Hệ thuộc cõi Dục là do thân tâm của cõi Dục nói lời tán loạn. Hệ thuộc cõi Sắc cũng như thế. Ngoài ra, như nói trong tội vọng ngữ.
Tham lấy là hệ thuộc cõi Dục, hữu hậu, tâm số pháp, tâm không tương ưng, không tùy tâm hành, tâm cùng sinh, không sắc, không tạo tác, có duyên, nghiệp không tương ưng, không tùy nghiệp hành, không cùng nghiệp sinh, không phải nghiệp báo của đời trước, trừ báo của nhân, không thể tu tập, nên khéo nhận biết, nên dùng tuệ chứng, thân chứng, có thể đoạn trừ, có thể thấy biết.
Giận dữ gây não hại hoặc tâm tương ưng, hoặc tâm không tương ưng: Thuộc về triền gọi là tâm tương ưng. Thuộc về sử gọi là tâm không tương ưng. Tùy tâm hành hoặc không tùy tâm hành cũng như vậy. Hoặc cùng tâm sinh, hoặc không cùng tâm sinh: Chúng sinh có giác là cùng tâm sinh. Chúng sinh không giác là không cùng tâm sinh. Như tâm tương ưng, tùy tâm hành, cùng tâm sinh, thì nghiệp tương ưng, tùy nghiệp hành, cùng nghiệp sinh cũng như vậy. Như tâm không tương ưng, không tùy tâm hành, không cùng tâm sinh, thì nghiệp không tương ưng, không tùy nghiệp hành, không cùng nghiệp sinh cũng như vậy. Phần còn lại phân biệt như đã nói trong tham lấy.
Như giận dữ gây não hại, tà kiến cũng như vậy.
Đó gọi là hai mươi thứ phân biệt của đạo bất thiện.
Trong mười đạo thiện, lìa bỏ giết hại mạng sống kẻ khác là tánh thiện. Hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc không hệ thuộc ba cõi: Hệ thuộc cõi Dục là do thân cõi Dục đã lìa bỏ việc giết hại mạng sống kẻ khác. Không hệ thuộc ba cõi nghĩa là thuộc về tám Thánh đạo của hàng hữu học và hàng vô học.
Lìa bỏ sát sinh là chánh nghiệp. Hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu: Hệ thuộc cõi Dục là hữu hậu, không hệ thuộc ba cõi là vô lậu. Không phải tâm số pháp, tâm không tương ưng, không tùy tâm hành.
Hoặc cùng tâm sinh, hoặc không cùng tâm sinh: Những gì là cùng tâm sinh? Như người đi đường thấy trùng, nghĩ như vầy: Ta đâu để thân nghiệp xa lìa không thương hại chúng. Đó gọi là hành thiện xa lìa giết hại mạng sống, là cùng tâm sinh. Những gì là thiện, là lìa bỏ sát sinh, không cùng tâm sinh? Như có người thân không hành, miệng không nói, chỉ tâm nghĩ: Kể từ nay, ta không sát sinh, đó gọi là không cùng tâm sinh. Lại như có người, trước đã lìa bỏ sát sinh, bây giờ thì hoặc ngủ hoặc thức, tâm duyên nơi những việc khác, nhưng đều giữ niệm không sát sinh, do vậy phước luôn được thêm lớn, đó cũng là không cùng tâm sinh.
Hoặc sắc, hoặc không phải sắc. Một là sắc, hai là không phải sắc. Một là có tạo tác, hai là không tạo tác. Một là có duyên, hai là không có duyên.
Là nghiệp, nghiệp không tương ưng, không tùy nghiệp hành. Hoặc cùng nghiệp sinh hoặc không cùng nghiệp sinh: Như cùng tâm sinh không cùng tâm sinh, trừ tâm cùng với suy nghĩ là khác.
Không phải nghiệp báo của đời trước, trừ báo của nhân, có thể tu tập, nên khéo nhận biết, nên dùng thân chứng, tuệ chứng.
Hoặc có thể đoạn trừ, hoặc không thể đoạn trừ: Hữu lậu thì có thể đoạn trừ, vô lậu thì không thể đoạn trừ. Có thể thấy biết cũng như vậy.
Lìa bỏ trộm cướp, lìa bỏ tà dâm, lìa bỏ nói dối, lìa bỏ nói hai lưỡi, lìa bỏ nói lời thô ác: Cũng đều như vậy.
Lìa bỏ nói lời tán loạn hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc, hoặc không hệ thuộc ba cõi: Hệ thuộc cõi Dục là vì thân tâm ở cõi Dục lìa bỏ nói lời tán loạn. Hệ thuộc cõi Sắc cũng như vậy. Không hệ thuộc ba cõi, như trong phần không sát sinh đã nói. Hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu: Hữu lậu là hệ thuộc, vô lậu là không hệ thuộc. Ngoài ra, như trong phần lìa bỏ nói dối đã nói.
Không tham lấy là tánh thiện. Hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc không hệ thuộc ba cõi: Hệ thuộc cõi Dục là phàm phu ở cõi Dục không tham lấy và Hiền Thánh không tham lấy, là hành thiện, là hệ thuộc cõi Dục. Không hệ thuộc ba cõi là các Hiền Thánh không tham lấy, là hành thiện vô lậu. Hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu: Hệ thuộc cõi Dục là hữu lậu, không hệ thuộc ba cõi là vô lậu.
Là tâm số pháp, tâm tương ưng, tùy tâm hành, cùng tâm sinh, không sắc, không tạo tác, có duyên, không phải nghiệp, nghiệp tương ưng, tùy nghiệp hành, cùng nghiệp sinh, không phải nghiệp báo của đời trước, trừ báo của nhân, có thể tu tập, nên khéo nhận biết, nên dùng thân chứng, tuệ chứng.
Hoặc có thể đoạn trừ, hoặc không thể đoạn trừ: Hữu lậu là có thể đoạn trừ, vô lậu là không thể đoạn trừ. Có thể thấy biết cũng như vậy.
Lìa bỏ giận dữ gây não hại là tánh thiện. Hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc, hoặc hệ thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc ba cõi: Hệ thuộc cõi Dục là căn thiện không giận dữ gây não hại ở cõi Dục. Hai cõi kia cũng như vậy. Không hệ thuộc ba cõi là phần còn lại không hệ thuộc.
Hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu: Hệ thuộc ba cõi là hữu lậu, phần còn lại là vô lậu. Tâm số pháp, hoặc tâm tương ưng hoặc tâm không tương ưng. Cùng trái ngược với triền là căn thiện không giận dữ tương ưng với tâm. Cùng trái ngược với sử là căn thiện không giận dữ không tương ưng với tâm. Tùy tâm hành, cùng tâm sinh, cũng đều như vậy. Không sắc, không tạo tác, hoặc có duyên hoặc không có duyên: Tâm tương ưng là có duyên, tâm không tương ưng là không có duyên.
Không phải nghiệp, hoặc nghiệp tương ưng hoặc nghiệp không tương ưng, hoặc tùy nghiệp hành hoặc không tùy nghiệp hành, hoặc cùng nghiệp sinh hoặc không cùng nghiệp sinh, cũng như nói về tâm. Không phải nghiệp báo của đời trước, trừ báo của nhân, nên dùng thân chứng, tuệ chứng. Hoặc có thể đoạn trừ hoặc không thể đoạn trừ: Hữu lậu thì có thể đoạn trừ, vô lậu thì không thể đoạn trừ. Có thể thấy biết cũng như vậy.
Chánh kiến là tánh thiện. Hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc, hoặc hệ thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc ba cõi: Hệ thuộc cõi Dục là phàm phu hay Hiền Thánh ở cõi Dục có niệm tương ưng với chánh kiến. Cõi Sắc và Vô sắc cũng như vậy. Không hệ thuộc ba cõi là chánh kiến vô lậu của các Hiền Thánh.
Hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu: Hệ thuộc ba cõi là hữu lậu, không hệ thuộc là vô lậu.
Là tâm số pháp, tâm tương ưng, tùy tâm hành, cùng tâm sinh, không sắc, không tạo tác, có duyên, không phải nghiệp, nghiệp tương ưng, tùy nghiệp hành, cùng nghiệp sinh, không phải nghiệp báo của đời trước, trừ báo của nhân, có thể dùng thân chứng, tuệ chứng.
Hoặc có thể đoạn trừ, hoặc không thể đoạn trừ: Hữu lậu thì có thể đoạn trừ, vô lậu thì không thể đoạn trừ. Có thể thấy biết cũng như vậy.
Đó gọi là hai mươi thứ phân biệt của đạo thiện. Từ xứ nào khởi mười hai thứ phân biệt, gồm:
- Từ xứ nào phát khởi?
- Từ những gì phát khởi?
- Từ nhân gì phát khởi?
- Cùng với cái gì làm nhân?
- Từ duyên gì phát khởi?
- Cùng với cái gì làm duyên?
- Cái gì là đối tượng duyên?
- Cùng với cái gì làm đối tượng duyên?
- Tăng thượng như thế nào?
- Cùng với cái gì làm tăng thượng?
- Mất cái gì?
- Tội giết hại có quả gì?
Ở đây: Tội giết hại mạng sống kẻ khác: Từ xứ nào phát khởi? Là từ ba căn bất thiện phát khởi. Lại từ niệm tà phát khởi. Lại còn tùy vào chỗ dùng tâm nào giết hại chúng sinh, từ tâm đó khởi.
Từ những gì phát khởi? Là từ các pháp hiện có của biên tội giết hại, đã sinh, đang sinh, sẽ sinh.
Về phần Nhân, Duyên (3, 4, 5, 6): Cũng như vậy.
Cái gì là đối tượng duyên? Là duyên nơi chúng sinh. Lại nhân nơi tâm nào để giết hại chúng sinh, cũng là duyên nơi tâm ấy.
Cùng với cái gì làm đối tượng duyên? Là nhân nơi các pháp hiện có của biên tội sát sinh, hoặc đã sinh, đang sinh, sẽ sinh. Pháp này duyên nơi tội sát sinh.
Mất cái gì? Là tên xấu lan truyền trong đời này, không ai tin cậy.
Tội giết hại có quả gì? Là bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la v.v… và các xứ ác khác, chịu báo khổ não.
Phần tăng thượng và cùng với cái gì làm tăng thượng như nói trong phần: Từ xứ nào phát khởi.
Trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời tán loạn, tham lấy, giận dữ gây não hại, tà kiến cũng đều như vậy. Chỉ nơi đối tượng duyên là có khác. Duyên của tội trộm cướp là các thứ vật dụng. Duyên của tà dâm là chúng sinh. Duyên của nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời tán loạn là danh tự. Duyên của tham lấy là các thứ vật dụng. Duyên của giận dữ gây não hại là chúng sinh. Duyên của tà kiến là danh tự. Những phần còn lại đều cũng như trên.
Không sát sinh: Từ xứ nào phát khởi? Là từ ba căn thiện phát khởi. Lại từ chánh niệm phát khởi. Lại nữa, tùy vào việc dùng tâm nào lìa bỏ sát sinh, cũng từ tâm ấy phát khởi.
Từ những gì phát khởi? Là từ các pháp hiện có của pháp này, hoặc đã sinh, hoặc đang sinh, hoặc sẽ sinh.
Về phần Nhân, Duyên cũng như vậy.
Cái gì là đối tượng duyên? Là duyên nơi chúng sinh.
Cùng với cái gì làm đối tượng duyên? Là nhân nơi các pháp hiện có của biên không sát sinh ấy, hoặc đã sinh, hoặc đang sinh, hoặc sẽ sinh, duyên nơi không sát sinh.
Tăng thượng như thế nào? Là các căn thiện tăng thượng. Chánh niệm cũng tăng thượng. Tùy theo chỗ dùng tâm nào không sát sinh, tâm ấy cũng tăng thượng.
Cùng với cái gì làm tăng thượng? Là các pháp hiện có của biên không sát sinh ấy, hoặc đã sinh, hoặc đang sinh, hoặc sẽ sinh.
Được lợi ích gì? Cùng trái ngược với tội sát sinh, đó gọi là lợi ích.
Được quả gì? Cùng trái ngược với tội sát sinh, đó gọi là quả.
Không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói lời thô ác, không nói lời tán loạn, không tham lấy, không giận dữ gây não hại, chánh kiến cũng đều như vậy. Chỉ nơi đối tượng duyên là có khác. Duyên của không trộm cướp là các vật dụng. Không tà dâm, đối tượng duyên là chúng sinh. Không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói lời thô ác, không nói lời tán loạn, đối tượng duyên là danh tự.
Không tham lấy, đối tượng duyên là các vật dụng. Không giận dữ gây não hại, đối tượng duyên là chúng sinh. Chánh kiến hoặc là duyên nơi danh tự, hoặc duyên nơi nghĩa: Hữu lậu tức duyên nơi danh tự. Vô lậu thì duyên nơi nghĩa.
Bồ-tát này đối với những luận như điều thiện v.v… cùng mười hai luận như phát khởi v.v…, hành mười đạo thiện, nên nhận biết là đã phân biệt như vậy.
Lại nhận biết:
Bảy thứ xứ bất thiện
Do tham sân si sinh
Cùng bốn môn phân biệt
Nghiệp, chúng sinh đều hai.
Bồ-tát này nhận biết bảy nghiệp đạo bất thiện do tham sân si sinh, dựa vào đó phân biệt những chuyện nơi thế gian.
Lại, nhận biết trong bảy thứ nghiệp bất thiện ấy, có bốn môn phân biệt, là tội sát sinh này, hoặc từ tham sinh, hoặc từ sân sinh, hoặc từ si sinh.
Từ tham sinh: Là nếu người thấy chúng sinh, khởi tâm tham đắm, theo nhân duyên ấy muốn thọ dụng các thứ sắc thanh hương vị xúc tốt đẹp. Hoặc vì cần đến răng, sừng, lông, da, gân, thịt, xương, tủy v.v… mà người ấy sinh tâm tham như vậy, nên đoạt mạng sống người khác. Đó gọi là tội sát sinh từ tham sinh. Nếu người giết hại chúng sinh do tâm giận dữ không vui, đó gọi là tội sát sinh từ giận dữ sinh. Hoặc người tà kiến không biết nghiệp thiện, ác của đời sau nên giết hại chúng sinh, đó gọi là tội sát sinh từ si sinh. Lại có người cho: Hoặc vì tạo phước đức, hoặc muốn thoát khỏi khổ nên sát sinh, như nước An Tức v.v… ở phương Tây. Lại có người nêu nhân duyên cầu phước đức nên sát sinh và cho: Do nhân duyên của nghiệp sát ấy mà được sinh lên cõi trời, như người ở phía Đông Thiên Trúc, trong các đền thờ Trời đều sát sinh, cho là làm như vậy để được sinh lên trời. Đó gọi là tội sát sinh từ si sinh.
Lại có người do tâm tham nên lấy vật dụng của người khác. Nghĩ như vầy: Ta nên theo ý thích để có được các thứ tốt đẹp về sắc thanh hương vị xúc. Đó gọi là trộm cướp từ tham sinh. Lại có người do tâm giận dữ, không vui, nên trộm cướp của cải vật dụng thuộc người khác, ý muốn gây khổ não cho người kia. Đó gọi là trộm cướp từ giận dữ sinh. Lại có người theo tà kiến, không hiểu biết về quả báo, nên trộm cướp vật dụng của kẻ khác. Đó gọi là trộm cướp từ si sinh. Như các Bà-la-môn nói: Vật báu nơi thế gian đều là của ta, do sức của ta yếu nên các tiểu nhân chiếm lấy thọ dụng phi pháp. Do đó, nếu ta lấy, là lấy lại chính vật của ta, không có tội lỗi gì cả. Tâm trộm cướp như vậy cũng là từ si sinh.
Như người từ nhân duyên tham đắm sắc nên hành tà dâm, đó gọi là từ tham sinh. Hoặc có người giận dữ không vui, suy nghĩ như vầy:
Kẻ kia đã xúc phạm mẹ, vợ, chị em gái ta, ta cũng đáp trả lại bằng chuyện dâm dục để làm nhục mẹ, vợ, chị em gái nó, đó gọi là tà dâm từ giận dữ sinh. Nếu kẻ theo tà kiến không hiểu biết về quả báo nên phạm, đó gọi là từ si sinh. Như có người nói: Trong loài người không có sự việc tà dâm. Vì sao? Vì người nữ đều vì người nam nên sinh. Như các vật cần dùng khác, nên có điều kiện hành dâm với họ thì không có tội tà dâm. Do tâm như vậy mà tạo dâm dục, đó gọi là từ si sinh.
Như tội trộm cướp, nói dối cũng như vậy. Vì tham của cải nên nói dối, đó gọi là từ tham sinh. Vì muốn dối gạt người khác khiến họ khổ não, đó gọi là từ giận dữ sinh. Người theo tà kiến không biết quả báo của nghiệp nên nói dối, đó gọi là từ si sinh.
Nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời tán loạn cũng như vậy.
Ba đạo bất thiện tức là căn bản. Từ đó phân biệt sinh bảy thứ quả của nghiệp thân, miệng.
Hỏi: Không lìa bỏ sát sinh đều là tội sát sinh chăng? Nếu là tội sát sinh thì đều là không lìa bỏ sát sinh chăng?
Đáp: Có khi không lìa bỏ sát sinh cũng là tội sát sinh. Có khi không lìa bỏ sát sinh không phải là tội sát sinh.
Những gì là không lìa bỏ sát sinh cũng là tội sát sinh? Như có người nhận biết đó là chúng sinh mà vẫn khởi thân nghiệp cố giết chết. Đó gọi là không lìa bỏ sát sinh cũng là tội sát sinh.
Những gì là không lìa bỏ sát sinh không phải là tội sát sinh? Như người này, trước có tạo nhân duyên giết hại, nhưng chúng sinh kia không chết. Lại, thân không hành, miệng không nói, chỉ tâm niệm: Ta nay sẽ giết hại chúng sinh kia. Đó gọi là không lìa bỏ sát sinh không phải là tội sát sinh.
Hai môn này, phân biệt ra thành bốn thứ, đó là thiện và bất thiện, mỗi thứ đều có hai.
Không chỉ thiện, bất thiện
Hai thứ nghiệp thân, tâm
Cũng lại cần nên biết
Lại có phân biệt khác.
Ngoại trừ thân sát sinh, trộm cướp, tà dâm, các sự việc khác như: đánh đập, trói nhốt, đánh bằng roi, gậy, lôi kéo, nhưng không gây chết chóc, thân hành nghiệp bất thiện như vậy thì không thuộc về tội đoạt mạng sống.
Trong các hành nghiệp thiện của thân như đón đưa, chấp tay, lễ bái, cung kính, hỏi han, tắm gội, xoa nắn, bố thí v.v…, thì đấy chẳng phải là thuộc về không sát sinh v.v…
Trong ý nghiệp, trừ tham lấy, giận dữ gây não hại, tà kiến, những kiết sử còn lại hiện có, không thâu giữ tâm, đều là pháp bất thiện.
Lại, trong ý nghiệp, trừ không tham lấy, không giận dữ gây não hại, chánh kiến, những thứ còn lại khéo thâu giữ tâm, như tín, giới, văn, định, xả, tuệ, đều là pháp thiện.
Bảy nghiệp cũng nghiệp đạo
Ba nghiệp đạo chẳng nghiệp.
Trong hành bất thiện: Sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời tán loạn, đó là bảy nghiệp, nghiệp này tức là nghiệp đạo.
Còn tham lấy, giận dữ gây não hại, tà kiến, đó là ba nghiệp đạo không phải là nghiệp. Ba sự này tương ưng với tư duy là nghiệp.
Hỏi: Vì sao bảy sự việc trước là nghiệp, cũng là nghiệp đạo?
Đáp: Do bảy sự việc ấy được hành tập quen, chuyển tăng, đưa đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, do đó gọi là nghiệp đạo. Bảy sự việc này có khả năng tạo tác nên gọi là nghiệp. Ba nghiệp đạo sau không phải là nghiệp, vì chúng là gốc của nghiệp bất thiện, do vậy nên gọi là ba nghiệp đạo, không phải là nghiệp.
Trong hành thiện cũng như vậy. Lìa bỏ sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời tán loạn, cũng là nghiệp, cũng là nghiệp đạo.
Ba thứ còn lại là không tham lấy, không giận dữ gây não hại, chánh kiến, là nghiệp đạo, không phải là nghiệp. Ba thứ này tương ưng với tư duy là nghiệp.
Hỏi: Vì sao bảy sự việc trước là nghiệp, cũng là nghiệp đạo?
Đáp: Do thường tu tập chúng, có khả năng đưa tới xứ tốt đẹp của cõi trời, người nên gọi là đạo. Bảy sự việc này có khả năng tạo tác nên gọi là nghiệp.
Hỏi: Vì sao ba sự việc còn lại chỉ gọi là nghiệp đạo, không phải là nghiệp?
Đáp: Ba sự việc này là gốc của các nghiệp thiện. Các nghiệp thiện từ trong đó mà hành, nên gọi là nghiệp đạo, không phải là nghiệp.
Lại nữa:
Giới pháp tức là nghiệp
Nghiệp hoặc giới, không giới
Nghiệp cùng nơi nghiệp đạo
Có bốn thứ phân biệt.
Nghiệp của thân, miệng là giới. Ý nghiệp là nghiệp, không phải là giới. Nghiệp và nghiệp đạo có bốn thứ phân biệt là:
- Có nghiệp không phải là nghiệp đạo.
- Có nghiệp đạo không phải là nghiệp.
- Có nghiệp cũng là nghiệp đạo.
- Có không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp đạo.
Nghiệp không phải là nghiệp đạo: Là ba thứ nghiệp bất thiện của thân, chúng không thuộc về nghiệp đạo. Như tay nắm roi gậy v.v… Ba thứ nghiệp thiện của thân cũng không thuộc về nghiệp đạo, như là đón, đưa, lễ bái v.v… Ba nghiệp thiện và bất thiện này, không thuộc về nghiệp đạo. Hoặc có người nói: Chúng cũng là nghiệp đạo. Vì sao? Vì ba nghiệp này hoặc có khi đưa đến xứ thiện, hoặc có khi đưa đến xứ ác, nên gọi là nghiệp đạo. Do chúng không định nên không nói là nghiệp đạo.
Nghiệp đạo không phải là nghiệp: Ba thứ bất thiện và ba thứ thiện sau tánh là phiền não, nên không phải là nghiệp. Do có khả năng khởi nghiệp nên gọi là nghiệp đạo. Ba thứ thiện là tánh của căn thiện, nên không phải là nghiệp. Do có khả năng khởi nghiệp thiện nên gọi là nghiệp đạo.
Cũng là nghiệp cũng là nghiệp đạo: Đó là bảy sự việc như sát sinh, không sát sinh v.v…
Không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp đạo: Là pháp còn lại.
Lại nữa:
Bồ-tát biên Địa một
Dùng ba thứ thanh tịnh
An trụ mười đạo thiện
Tức sinh tâm quyết định.
Bồ-tát này ở trong Địa thứ hai, phân biệt rõ, nhận biết mười đạo thiện và mười đạo bất thiện. Biết rồi, dùng ba thứ thanh tịnh trụ nơi mười đạo thiện. Đó là tự mình không giết hại, không dạy bảo kẻ khác giết hại, đối với tội sát sinh tâm không vui mừng. Cho đến chánh kiến, cũng như vậy.
Hỏi: Bồ-tát trong Địa thứ nhất đã trụ nơi mười đạo thiện. Vì sao ở đây còn nói lại?
Đáp: Trong Địa thứ nhất, không phải là không trụ nơi mười đạo thiện, nhưng ở đây là nói chuyển thắng, tăng trưởng, do ba thứ thanh tịnh. Trước, trong Địa thứ nhất, tuy làm vua châu Diêm-phùđề, nhưng không có khả năng hành ba thứ thanh tịnh ấy, thế nên ở đây đã nói đến ba thứ thanh tịnh. Bồ-tát an trụ nơi Địa thứ hai này, nhận biết phân biệt các nghiệp như vậy nên sinh tâm quyết định.
Đạo ác có trên đời
Sinh từ mười bất thiện
Đạo thiện có trên đời
Nhân nơi mười thiện sinh.
Đạo ác hiện có nơi thế gian: Là ba thứ đạo địa ngục: Địa ngục nóng bức, địa ngục lạnh buốt, địa ngục đen. Ba thứ đạo súc sinh: Súc sinh đi dưới nước, súc sinh đi trên đất liền, súc sinh bay trên trời. Có nhiều thứ đạo quỷ: Có quỷ đói khát, quỷ ăn đồ bất tịnh, quỷ miệng bốc lửa, A-tu-la, Dạ-xoa, đều do hành mười đạo bất thiện có nhân duyên thượng trung hạ.
Hết thảy đạo thiện xuất thế gian hiện có: Hoặc nơi trời, hoặc nơi người, đều do hành mười đạo thiện sinh. Thuộc về ba cõi: Trời có hai mươi tám. Người là người nơi bốn châu thiên hạ. Quyết định nhận biết như vậy rồi, khởi suy nghĩ: Ta muốn tự sinh vào xứ thiện, cũng khiến chúng sinh sinh vào xứ thiện.
Do đấy ta tự nên
Trụ nơi mười đạo thiện
Cùng khiến chúng sinh khác
Tức trụ đạo thiện này.
Sinh vào xứ thiện hay sinh vào xứ ác đều do mười đạo thiện hay mười đạo bất thiện. Ta nhận biết nhân duyên của các nghiệp nơi thế gian này, có, không có định chủ. Thế nên, ta phải trước tự mình hành mười đạo thiện, sau đấy khiến các chúng sinh cũng trụ nơi mười đạo thiện.
Hỏi: Vì sao trước cần tự trụ nơi mười đạo thiện, sau mới khiến người khác trụ?
Đáp:
Người hành nơi nghiệp ác
Dạy được ai hành thiện?
Tự mình không hành thiện
Người khác không tin nhận.
Nếu kẻ ác tự không hành thiện, muốn khiến người khác hành thiện thì rất khó. Vì sao? Vì người này tự không hành thiện nên người khác không thể tin, nhận lời người ấy nói. Như kệ nêu:
Nếu người tự bất thiện
Không khiến người khác thiện
Nếu tự không vắng lặng
Không khiến người vắng lặng.
Do đấy nên ông phải
Trước tự hành thiện tịch
Sau đấy chỉ dạy người
Khiến hành thiện vắng lặng.
Bồ-tát này nên hành pháp thiện như thế.
Từ địa ngục A-tỳ
Cho đến xứ Hữu đảnh
Phân biệt mười nghiệp quả
Và xứ thọ nhận báo.
Nên nhận biết đúng đắn như vầy: Dưới, từ địa ngục A-tỳ, trên đến xứ Phi hữu tưởng phi vô tưởng, đều là những xứ thọ nhận quả báo của vô số nghiệp thiện và bất thiện. Trong ấy: Vì hành tập quen nơi mười đạo bất thiện hạng thượng nên sinh vào địa ngục A-tỳ. Giảm bớt thì sinh vào địa ngục Đại chích. Giảm nữa thì sinh vào địa ngục Tiểu chích. Giảm nữa thì sinh vào địa ngục Đại khiếu hoán. Giảm nữa thì sinh vào địa ngục Tiểu khiếu hoán. Giảm nữa thì sinh vào địa ngục Tăng-già-đà. Giảm nữa thì sinh vào địa ngục Đại mạch. Giảm nữa thì sinh vào địa ngục Hắc thằng. Giảm nữa thì sinh vào địa ngục Đẳng hoạt. Giảm nữa thì sinh vào những địa ngục quyến thuộc nhỏ, như rừng kiếm v.v… Cũng nên chuyển nơi phân biệt nhỏ như thế. Do hành mười đạo bất thiện hạng trung nên sinh vào nẻo súc sinh. Trong súc sinh cũng nên chuyển phân biệt ít. Do hành mười đạo bất thiện ở hạng thấp nên sinh trong loài ngạ quỷ.
Như thế là nói về tướng chung. Ở đây, nên phân biệt rộng về sự sai khác. Có các A-tu-la, Dạ-xoa sinh trong nẻo quỷ. Có các Long vương sinh trong nẻo súc sinh, những hoan lạc thọ hưởng giống như chư Thiên. Những chúng sinh ấy, do nhân duyên bất thiện nên sinh trong các loài kia. Sinh rồi thì thọ nhận quả báo của nghiệp thiện, do đã hành mười đạo thiện ở mức rất thấp. Nếu sinh trong nẻo người nơi châu Diêm-phù-đề, thì sinh nơi nhà bần cùng, thấp kém. Đó là hạng Chiên-đà-la, ở vùng biên địa, hạng tiểu nhân sống tạm bợ v.v… Chuyển hơn thì sinh vào nhà Cư sĩ. Chuyển hơn thì sinh vào nhà Bà-la-môn. Chuyển hơn thì sinh vào nhà Sát-đế-lợi. Chuyển hơn thì sinh vào nhà đại thần. Chuyển hơn nữa thì sinh vào nhà quốc vương. Tu tập chuyển hơn về mười đạo thiện thì sinh vào châu Cù-đà-ni, Phất-bà-đề, Uất-đơn-việt. Chuyển hơn nữa thì sinh vào trời Tứ Thiên vương. Chuyển hơn nữa thì sinh vào trời Đao-lợi, trời Diệm-ma, trời Đâu-suất-đà, trời Hóa-lạc.
Tu tập mười đạo thiện thuộc bậc thượng thì sinh lên trời Thahóa-tự-tại. Trong đó, cũng nên phân biệt có vô số thứ nhỏ lớn sai biệt. Như trong loài người có vua nhỏ, vua lớn, vua châu Diêmphù-đề, Chuyển luân Thánh vương. Trời Tứ Thiên vương có bốn Thiên vương. Trong trời Đao-lợi có Thích-đề-hoàn-nhân. Trên trời Diệm-ma có Thiên vương Tu-diệm-ma. Ở trời Đâu-suất-đà có Thiên vương San-đâu-suất-đà. Ở trời Hóa-lạc có Thiên vương Thiện-hóa. Trên trời Tha-hóa-tự-tại có Thiên vương Tha-hóa-tự-tại. Vượt quá những trời này, cần phải hành thiền định, tư duy mới được sinh lên xứ ấy.
Hỏi: Nếu do thiền định, tư duy nên được sinh nơi xứ trên đó, thì vì sao nói: Cho đến xứ Phi hữu tưởng phi vô tưởng đều do tu hành mười đạo thiện nên được sinh?
Đáp: Tuy tu thiền định, được sinh lên cõi Sắc, cõi Vô sắc, nhưng chính yếu là trước phải trụ vững nơi mười đạo thiện, sau đấy mới tu được thiền định. Do vậy, các xứ kia đều dùng mười đạo nghiệp thiện làm lợi ích lớn. Vì thế, nên nói: Cho đến xứ Phi hữu tưởng phi vô tưởng cũng đều do tu mười đạo thiện mà được sinh đến. Vì sao? Vì trước phải hành mười đạo thiện thanh tịnh, lìa dục.
Tu thiền thứ nhất tư duy bậc hạ được sinh vào trời Phạm chúng. Tu thiền thứ nhất tư duy bậc trung được sinh vào trời Phạm phụ. Tu thiền thứ nhất tư duy bậc thượng được sinh vào trời Đại phạm.
Tu thiền thứ hai tư duy bậc hạ được sinh vào trời Thiểu quang. Tu thiền thứ hai tư duy bậc trung được sinh vào trời Vô lượng quang. Tu thiền thứ hai tư duy bậc thượng được sinh vào trời Diệu quang.
Tu thiền thứ ba tư duy bậc hạ được sinh vào trời Tiểu tịnh. Tu thiền thứ ba tư duy bậc trung được sinh vào trời Vô lượng tịnh. Tu thiền thứ ba tư duy bậc thượng được sinh vào trời Biến tịnh.
Tu thiền thứ tư tư duy bậc hạ được sinh vào trời A-na-bà-già. Tu thiền thứ tư tư duy bậc trung được sinh vào trời Phước sinh. Tu thiền thứ tư tư duy bậc thượng được sinh vào trời Quảng quả.
Tu định vô tưởng tư duy bậc trung được sinh vào trời Vô tưởng. Dùng vô lậu huân tu bốn thiền tư duy bậc hạ được sinh vào trời Bất quảng.
Dùng vô lậu huân tu bốn thiền tư duy thù thắng được sinh vào trời Bất nhiệt. Dùng vô lậu huân tu bốn thiền tư duy thù thắng được sinh vào trời Hỷ kiến. Dùng vô lậu huân tu bốn thiền tư duy thù thắng được sinh vào trời Diệu kiến. Dùng vô lậu huân tu bốn thiền tư duy tối thượng được sinh vào trời A-ca-nị-trá.
Tu định Hư không xứ tương ưng với tư duy được sinh vào trời Không xứ. Tu định Thức xứ tương ưng với tư duy được sinh vào trời Thức xứ. Tu định Vô sở hữu xứ tương ưng với tư duy được sinh vào trời Vô sở hữu xứ. Tu định Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ tương ưng với tư duy được sinh vào trời Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ.
Đó gọi là nơi chốn qua lại của chúng sinh trong thế gian sinh tử.
***
Phẩm 29: PHÂN BIỆT THANH VĂN VÀ PHẬT BÍCH CHI, phần 1
Hỏi: Mười đạo nghiệp thiện này chỉ là nhân duyên để sinh vào cõi trời, người, hay còn có những lợi ích nào khác?
Đáp: Có:
Hiện có thừa Thanh văn
Phật-bích-chi, Đại thừa
Đều do mười đạo thiện
Mà tạo lợi ích lớn.
Về nhân duyên ra khỏi sinh tử chỉ có ba Thừa: Thừa Thanh văn, thừa Phật-bích-chi và Đại thừa. Ba Thừa này đều dùng mười đạo thiện tạo lợi ích lớn. Vì sao? Vì mười đạo thiện này có thể khiến người tu hành đạt đến địa Thanh văn, cũng có thể khiến đạt tới địa Phật-bích-chi, cũng có khả năng khiến hành giả đạt đến Phật địa.
Mười đạo thiện này có thể khiến những chúng sinh nào đạt đến địa Thanh văn?
Đáp:
Theo người không đại bi
Sợ hãi nơi ba cõi
Ưa phần công đức ít
Ý chí rất yếu kém.
Tâm ưa nẻo chán lìa
Thường quán đời vô thường
Cùng biết tất cả pháp
Đều cũng không có ngã.
Cho đến trong một niệm
Không vui thích thọ sinh
Thường không tin thế gian
Mà có pháp an lạc.
Quán đại như rắn độc
Ấm như giặc cầm đao
Sáu nhập như xóm vắng
Không ưa đời giàu vui.
Trọng nơi kiên trì giới
Nên vì được thiền định
Thường thích nơi an thiền
Tu tập các pháp thiện.
Chỉ nhắm tới Niết-bàn
Là cứu hộ bậc nhất
Thường cầu tuệ diệt khổ
Vui chứa hành giải thoát.
Chỉ quý nơi tự lợi
Mỗi mỗi tới thắng xứ
Đạo thiện khiến người này
Đến được địa Thanh văn.
Theo âm thanh của người khác là nghe người khác giảng nói rồi tùy thuận hành trì, không thể tự phát sinh trí tuệ.
Hỏi: Mười đạo thiện này có khả năng khiến hết thảy những người nghe người khác giảng nói đều thành Thanh văn chăng?
Đáp: Không phải. Nếu người không có tâm đại bi thì mười đạo thiện này có thể khiến họ đạt đến địa Thanh văn. Nếu có Bồ-tát từ chư Phật nghe pháp, do có tâm đại bi nên mười đạo thiện không thể khiến đạt địa Thanh văn.
Hỏi: Người hoàn toàn không có tâm đại bi, thì mười đạo thiện này đều có thể khiến họ đạt được địa Thanh văn chăng?
Đáp: Không phải. Người sợ hãi ba cõi thì mười đạo nghiệp thiện này có thể khiến họ tới địa Thanh văn. Còn những người không sợ hãi ba cõi thì mười đạo thiện này có thể khiến họ sinh vào xứ thiện nơi cõi trời, người, do ưa thích ba cõi.
Hỏi: Người hoàn toàn sợ hãi ba cõi, thì mười đạo thiện này đều có thể khiến họ đến địa Thanh văn chăng? Nếu như thế thì Bồ-tát cũng sợ hãi thọ thân trong ba cõi, lại vì chúng sinh nên siêng hành tinh tấn cầu Niết-bàn. Như vậy, mười đạo thiện này cũng đã khiến họ tới địa Thanh văn?
Đáp: Không hẳn là tất cả những người sợ hãi ba cõi đều hoàn toàn rơi vào địa Thanh văn. Những gì là rơi vào? Là ưa hành tập phần công đức ít. Chỉ nhận hành phần ít của sáu pháp Ba-la-mật do Phật đã chỉ dạy. Người như vậy là rơi vào địa Thanh văn. Nếu người có khả năng giữ lấy công đức của chư Phật, rồi đem trí tuệ học khắp, thì mười đạo thiện tất khiến người đó đi thẳng đến Phật đạo. Theo người khác nghe giảng nói mà sợ hãi ba cõi chỉ nhận lấy một ít phần công đức của Phật, thì người này có hai thứ mười đạo thiện: hoặc có thể khiến đạt đến địa Thanh văn. Hoặc có thể khiến đạt đến địa Phậtbích-chi.
Vì sao người này cùng từ người khác nghe giảng nói, sợ hãi ba cõi, nhận một phần nhỏ công đức mà mười đạo thiện có thể khiến tới địa Thanh văn, tới địa Phật-bích-chi?
Đáp: Người có ý chí yếu kém thì làm A-la-hán. Người có chí bền chắc nhỏ thì làm Phật-bích-chi.
Hỏi: Mười đạo thiện này khiến tất cả người có chí yếu kém đến địa Thanh văn chăng?
Đáp: Không phải vậy. Vì sao? Gọi là chí yếu kém là chỉ cho người chán lìa sinh tử, chứ không phải chỉ là người yếu kém không chán lìa.
Hỏi: Xem xét những sự việc gì để nhận biết tâm người ưa thích chán lìa?
Đáp: Quán pháp hữu vi là vô thường, hết thảy pháp là vô ngã, nên biết đó tất là người ưa thích chán lìa.
Hỏi: Đã biết về sự ưa thích chán lìa, Bồ-tát cũng quán xét pháp hữu vi là vô thường, hết thảy pháp là vô ngã như thế, nhưng vì sao mười đạo thiện không khiến vị ấy rơi vào địa Thanh văn?
Đáp: Người ấy có tâm chán lìa sâu xa, lại lìa bỏ tâm đại bi, cho đến trong một niệm cũng không ưa thích thọ sinh. Không tin thế gian có tướng an ổn. Như trong kinh nói: Phật bảo các Tỳkheo: Ví như một chút phân hãy còn hôi thối, bất thiện, huống gì là nhiều. Như thế, trong một niệm thọ sinh hãy còn là khổ, huống chi là nhiều. Này các Tỳ-kheo! Nên tu học, đoạn trừ sinh tử, chớ khiến thọ sinh nữa. Người Thanh văn tin nhận lời ấy, nên cho đến trong một niệm cũng không ưa thích thọ sinh. Người này lại nghĩ như vầy: Thế gian là vô thường. Sự việc hành tác và đời sống đều không có tướng an ổn. Chết chóc luôn theo người, ai có thể nhận biết lúc nào mình chết! Không biết khi chết nhận lãnh quả báo của nghiệp gì, là sinh tâm gì? Do sự việc không an ổn như thế, nên không thể tin, nên mau cầu dứt hết khổ v.v… Bồ-tát thì không như vậy, đối với Hằng hà sa vô lượng A-tăng-kỳ kiếp thọ sinh, vì cầu chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, hóa độ các chúng sinh, nên trong kệ nói:
Cho đến trong một niệm
Không vui thích thọ sinh
Đạo thiện khiến người này
Đến được địa Thanh văn.
Hỏi: Người này ưa thích tu tập những pháp gì mà không thích thọ sinh?
Đáp: Người này quán xét bốn đại: Đất, nước, gió, lửa, thích sinh sân hận, chúng là bất tịnh, xú uế, không biết ân nghĩa, sinh tưởng là rắn độc. Năm ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức có thể đoạt lấy mạng sống trí tuệ, sinh tưởng như giặc oán. Các nhập: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, lìa thường, lìa bất động, bất biến, bất hoại, là vô ngã, vô ngã sở, sinh khởi tưởng xóm làng trống vắng. Nếu người đối với tất cả sự thọ sinh, tiền của và vật dụng cần cho đời sống, các thứ vui hưởng nơi thế gian đều là vô thường, hư dối, không đứng yên trong chốc lát, nên không sinh tâm vui thích. Người như thế, đối với hết thảy xứ sinh đều sinh tưởng không an ổn, chỉ một pháp Niết-bàn mới có thể làm sự cứu hộ. Như trong kinh nói: “Này các Tỳ-kheo! Thế gian đều là lửa đang bốc cháy, đó là mắt bốc cháy, sắc bốc cháy, nhãn thức bốc cháy, nhãn xúc bốc cháy, cùng do mắt tiếp xúc sinh thọ, đều cũng là bốc cháy. Do sự việc gì nên cháy? Đó là lửa tham dục bốc cháy, là lửa giận dữ bốc cháy, là lửa ngu si bốc cháy, là lửa sinh lão bệnh tử ưu bi khổ não bốc cháy. Tai mũi lưỡi thân ý cũng bốc cháy như vậy. Quán xét hết thảy pháp hữu vi đều bốc cháy như vậy. Chỉ có pháp Niết-bàn vắng lặng mới có thể cứu hộ. Tôn quý một pháp Niết-bàn, nên bỏ hết tất cả sự việc chỉ chuyên cần tu tập tọa thiền”.
Nếu quán xét hết thảy pháp hữu vi đều là đang bốc cháy,
chỉ Niết-bàn vắng lặng mới có thể làm người cứu hộ, thì mười đạo thiện này đều khiến đạt tới địa Thanh văn chăng?
Đáp: Không phải vậy. Phật đã kiết giới vì thiền định, nên quý trọng giới này, có tâm quyết định, không hủy phạm, bỏ tất cả sự việc, chỉ vui thích tọa thiền, trí cầu dứt hết khổ, luôn siêng năng tu tập nhân duyên giải thoát. Ở trong đời trước, hoặc từ một thắng xứ lại, hai thắng xứ lại, thì mười đạo thiện có thể khiến người này đạt tới địa Thanh văn. Vì sao? Vì trì giới thanh tịnh thì tâm không hối tiếc. Tâm không hối tiếc nên được hoan hỷ. Được hoan hỷ nên thân nhẹ nhàng. Thân nhẹ nhàng nên tâm an lạc. Tâm an lạc nên thâu giữ tâm được định. Thâu giữ tâm được định nên sinh trí tuệ như thật. Sinh trí tuệ như thật tức nên sinh chán. Từ chán sinh lìa. Từ lìa nên được giải thoát.
Hoặc một, hoặc hai thắng xứ lại: Nghĩa là như Tôn giả La-hầula từ thắng xứ đế đến. Như Tôn giả Thi-viết-la từ thắng xứ xả đến. Như Tôn giả Ly-bạt-đa từ thắng xứ tịch diệt đến. Như Tôn giả Xálợi-phất từ thắng xứ tuệ đến. Hoặc từ hai thắng xứ đế, xả đến. Hoặc từ hai thắng xứ đế, tịch diệt đến. Hoặc từ hai thắng xứ đế, tuệ đến. Hoặc từ hai thắng xứ xả, tịch diệt đến. Hoặc từ hai thắng xứ xả, tuệ đến. Hoặc từ hai thắng xứ tịch diệt, tuệ đến. Như vậy mười đạo thiện này có khả năng khiến đạt tới địa Thanh văn.
HẾT – QUYỂN 14