LUẬN HIỂN DƯƠNG THÁNH GIÁO
Vô Trước Bồ-tát tạo luận
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 12

Phẩm 2- 8: NHIẾP TỊNH NGHĨA

Giải thích về phải biết nhiều thứ, Ôn-đà-nam nói:

Thể thích văn nghĩa pháp,

Khởi nghĩa nan thứ sư,

Thuyết chúng thính tán Phật,

Lược rộng học thắng lợi.

Luận nói: Thể, là thể tính các kinh, sơ lược có 2 thứ là văn và nghĩa. Phải biết văn là sở y, nghĩa là năng y. Như vậy 2 thứ gọi chung là cảnh giới sở tri.

Thích, là phải biết sơ lược có 5 thứ: 1. Pháp. 2. Đẳng khởi. 3. Nghĩa. 4. Thích nạn. 5. Thứ tự.

Văn, là sơ lược có 6 thứ: 1. Danh thân. 2. Cú thân. 3. Tự thân. 4. Ngữ. 5. Tướng. 6. Cơ thỉnh.

Danh thân, nghĩa là cộng liễu tăng ngữ. Đây sơ lược nói lại có 1ư thứ: 1. Giả danh. 2. Thật danh. 3. Tổng danh. 4. Biệt danh. 5. Tùy nghĩa danh. 6. Hý luận danh. 7. Dị danh. 8. Nan danh. 9. Hiển danh. 10. Ẩn danh. 11. Lược danh. 12. Quảng danh.

Giả danh là ở trong các uẩn lập các tên như ngã, hữu tình, mạng

v.v…, ở ngoài các sắc lập các tên như cái bình, cái áo, xe cộ v.v… Thật danh là nơi nhãn v.v…sắc v.v…lập tên căn nghĩa. Tổng danh là các tên như hữu tình, sắc, thụ, đại chủng v.v…Biệt danh là các tên Phật hữu, Đức hữu, xanh, vàng v.v… Tùy nghĩa danh là chất ngại nên gọi là sắc, lãnh nạp nên gọi là thụ, có thể chiếu sáng có thể thiêu đốt gọi là mặt trời v.v… những tên như vậy. Hý luận danh, là như gọi nghèo là giàu, những loại như vậy lập tên không xem nghĩa. Dị danh, là chung dễ biết. Nan danh, là nghịch lại với dị danh kia. Hiển danh, là nghĩa của nó dễ hiểu. Ẩn danh, là nghĩa nó khó hiểu, như Đạt-la-nhĩ-trà minh chú. Lược danh, là tên một chữ. Quảng danh, là tên nhiều chữ.

Cú thân, nghĩa là căn cứ vào danh tự thích nghĩa đầy đủ. Đây lại có 6 thứ: 1. Câu không đầy đủ. 2.Câu đầy đủ. 3. Câu sở thành. 4. Câu năng thành. 5. Câu tựa. 6. Câu giải thích.

Câu không đầy đủ, là câu văn không rốt ráo, nghĩa không rốt ráo, lại phải thêm câu khác mới được đầy đủ. Như nói “ Chớ làm các ác. Vâng làm các thiện. Khéo điều phục tâm mình. Đó là thánh giáo chư Phật.” Nhưng chỉ nói “các ác” thì văn chưa đầy đủ. Nếu lại nói “các ác” thì với nghĩa cũng chưa đầy đủ. Nếu nói “ Chớ làm các ác” thì cả hai đều đầy đủ. Đó gọi là thứ 2. Câu đầy đủ. Câu sở thành, là câu trước chờ câu sau mới thành. Như nói “Các hành vô thường, pháp có khởi tận, vì sinh ăt phải diệt, vắng lặng là lạc.” Trong đây “Các hành vô thường” là câu sở thành do câu “pháp có khởi tận” được thành lập. Câu năng thành, là câu thứ 2 năng thành lập câu thứ nhất. Câu tựa, là như nói người thiện. Câu giải thích, là như nói thú chính trượng phu.

Tự thân, nghĩa là hoặc rốt ráo hoặc không rốt ráo, tên và câu 2 thứ căn cứ vào 49 chữ. Trong đây muốn làm tên hiển rõ tên làm câu, hiển rõ câu ắt có tên. Nếu chỉ 1 chữ thì không thành câu. Lại nữa nếu có chữ mà không có tên thì chỉ có chữ mà không tên.

Hỏi: Vì nhân duyên gì lập danh v.v… 3 thứ thân?

Đáp: Vì lãnh tăng ngữ xúc sinh thụ.

Hỏi: Danh, tức tên, là nghĩa thế nào?

Đáp: Nêu các thứ sự việc khiến thế gian cùng biết. Lại có thể khiến ý tạo tác các tướng. Lại do ngôn ngữ truyền thuật, nên gọi là danh.

Hỏi: Cú, tức câu, là nghĩa thế nào?

Đáp: Nhiếp thụ trong tên, rốt ráo hiển rõ nghĩa không hiện thấy, nên gọi là cú.

Hỏi: Văn là nghĩa thế nào?

Đáp: Làm hiển phát danh và cú, nên gọi là văn.

Như Bạc-già-phạm nói tăng ngữ, tăng ngữ lộ, như vậy nói rộng.

Tăng ngữ, nghĩa là tất cả chúng loại đều có chung tên là tăng ngữ. Lộ, nghĩa là vì cái dục của chúng loại có thể khởi lên. Từ, nghĩa là tương ưng ngữ kia cùng với các phương ngôn riêng biệt, vì sở y của nó nên gọi là bỉ lộ, là con đường của nó. Thi thiết, nghĩa là phân tích một pháp thiết lập ra nhiều thứ. Chỗ sở y của nó gọi là bỉ lộ, tức con đường của nó. Dục tức là từ, chứ không có dục nào khác. Từ này tức là tăng ngữ, là con đường thi thiết. Danh thân v.v… của nó sơ lược có 6 thứ y xứ: 1. Pháp. 2. Nghĩa. 3. Bổ-đặc-già-la. 4. Thời. 5. Số. 6. Xứ sở. Kia phân biệt rộng như văn sở thành địa.

Ngữ, là phải biết sơ lược có 8 phần là thượng thủ, mỹ diệu v.v…do những lời nói kia đầy đủ phù hợp, cho đến có đức thường tùy thuận phần tư lương v.v…cho nên có thể nói chính pháp. Thượng thủ ngữ, là lấy việc đến cung Niết-bàn làm trước tiên. Mỹ diệu ngữ, là tiếng nói thanh tao đẹp đẽ. Hiển liễu ngữ, là văn từ hay. Dị giải ngữ, là lời nói dễ hiểu, biện thuyết khéo léo. Lạc văn ngữ, là lời nói khiến người ưa muốn nghe vì dẫn pháp nghĩa. Vô y ngữ, là lời nói không dựa vào sự hi vọng người ta tin mình. Bất nghịch ngữ, là nói biết lượng, không nghịch. Vô biên ngữ, là lời nói nhiều khéo léo. Phải biết 8 thứ ngữ này, sơ lược có đủ 3 đức: 1. Thú xứ đức, là cái thứ nhất. 2. Tự thể đức, là cái thứ hai. 3. Gia hành đức, là cái còn lại. Tương ưng, tức phù hợp, nghĩa là khéo an lập thứ tự danh cú văn thân. Lại nữa dựa vào 4 thứ đạo lý cùng tương ưng. Trợ bạn, nghĩa là có thể làm thành thứ tự. Tùy thuận, nghĩa là giải thích thứ tự. Thanh lượng, nghĩa là trong sáng vì câu văn hiển thị rõ ràng thanh tịnh. Hữu dụng, nghĩa là khéo nhập vào chúng tâm. Tương xứng, nghĩa là như chúng hội. Ưng thuận, nghĩa là vì xứng hợp với pháp, dẫn nghĩa, thuận thời. Thường ủy phần tư lương, nghĩa là thường tu, thuận tu nên gọi là thường ủy. Bỉ phần, nghĩa là chính kiến v.v… Tư lương là tư lương của nó.

Tương, nghĩa là các uẩn tương ưng, các giới tương ưng, các xứ tương ưng, duyên khởi tương ưng, xứ phi xứ tương ưng, niệm trụ tương ưng v.v… như vậy các ngôn thuyết tương ưng, như Thanh Văn thuyết, hoặc Bồ-tát thuyết, hoặc Như Lai thuyết, gọi là tương. Cơ thỉnh, nghĩa là nhân cơ mà mở lời xin hỏi. Đây lại do sai biệt căn v.v…nên có 27 thứ Bổ-đặc-già-la. Nên biết rằng trong đây do căn sai biệt nên chia thành 2 thứ là độn căn lợi căn. Hành sai biệt có 7 thứ, là tham hành v.v…như nói trong Thanh Văn địa. Phẩm loại sai biệt có 2 thứ là tại gia xuất gia. Nguyện sai biệt có 3 thứ là Thanh Vắn, Độc Giác và Bồ-tát. Sai biệt về có thể cứu không thể cứu có 2 thứ là Niếtbàn pháp và bất Niết-bàn pháp. Phương tiện sai biệt có 9 thứ là đã vào chính pháp, chưa vào chính pháp, có chướng ngại, không chướng ngại, đã chín muồi, chưa chín muồi, đủ trói buộc, không đủ trói buộc. Sai biệt về chủng loại không trói buộc có 2 thứ là người và phi nhân.

Như vậy 6 văn gồm chung làm 4: 1. Sở thuyết, nghĩa là danh, thân và một phần của tương. 2. Sở vi, nghĩa là cơ thỉnh gồm 27 Bổđặc-già-la. 3. Năng thuyết, nghĩa là ngữ ngôn. 4. Người nói, là Phật, Bồ-tát và Thanh Văn. Như vậy tất cả 6 thứ tướng mạo cùng hiển rõ nơi văn. Nếu giảm một thứ nghĩa thì không hiển rõ. Do có thể làm rõ nghĩa nên gọi là văn.

Nghĩa, sơ lược có 10 thứ: 1. Nghĩa về địa. 2. Nghĩa của tướng. 3. Nghĩa tác ý. 4. Nghĩa xứ sở. 5. Nghĩa về lỗi lầm. 6. Nghĩa thắng lợi. 7. Nghĩa sở trị. 8. Nghĩa năng trị. 9. Nghĩa sơ lược. 10. Nghĩa rộng.

Nghĩa về địa, sơ lược có 5 địa là tư lương địa, phương tiện địa, kiến địa, tu địa, cứu cánh địa. Lại nữa, phân biệt rộng có 17 địa là ngũ thức thân tương ưng địa, ý địa, hữu tầm hữu tứ địa, vô tầm duy tứ địa, vô tầm vô tứ địa, Ta-ma-hứ-đa địa, phi Tam-ma-hứ-đa địa, hữu tâm địa, vô tâm địa, văn sở thành địa, tư sở thành địa, tu sở thành địa, Thanh Văn địa, Độc Giác địa, Bồ-tát địa, hữu dư y địa, vô dư y địa.

Tướng nghĩa, có 5 thứ: 1. Tự tướng. . Cộng tướng. 3. Giả lập tướng. 4. Nhân tướng. 5. Quả tướng. Như vậy 5 tướng đó nếu phân biệt rộng như tư sở thành địa lại có 5 tướng: 1. Sai biệt tướng. 2. Dugià tướng. 3. Chuyển dị tướng. 4. Nhiễm ô tướng. 5. Thanh tịnh tướng. Phải biết 5 tướng này, như trước xứ xứ phân biệt lại có 5 tướng: 1. Sở thuyên tướng. 2. Năng thuyên tướng. 3. Tướng thuộc vào nhau của 2 tướng này. 4. Chấp trước tướng. 5. Tướng không chấp trước.

Sở thuyên tướng nghĩa là tướng v.v… 5 pháp như nói trong ngũ pháp tạng. Năng thuyên tướng nghĩa là y chỉ danh v.v…nơi pháp kia để làm rõ tự thể sai biệt của các pháp nên có ngôn thuyết. Đây cũng có công năng hiển thị tự thể của biến kế sở chấp. Tự thể của biến kế sở chấp này có nhiều tên, như có chỗ gọi tên là biến phân biệt sở kế, cũng gọi là hòa hợp sở thành, cũng gọi là sở tăng ích tướng, cũng gọi là hư vọng sở chấp, cũng gọi là ngôn thuyết sở hiển, cũng gọi là danh văn tự phương tiện, cũng gọi là duy hữu âm thanh, cũng gọi là vô hữu thể tướng. Nên biết những loại sai biệt như vậy. Hai tướng này huộc vào nhau, nghĩa là năng thuyên sở thuyên thuộc vào nhau bám dính nhau, tự thể của biến kế sở chấp, chấp chỗ y chỉ. Tướng chấp trước, nghĩa là vô thủy lưu chuyển, tất cả ngu phu biến kế sở chấp tự thể và tùy miên này. Tướng không chấp trước, nghĩa là người kiến đế hiểu biết như thật, giải thoát khỏi tướng biến kế sở chấp và tập khí của nó, biết phân biệt đúng tùy theo chỗ nên phân biệt, như tư sở thành địa v.v…

Nghĩa của tác ý, có 7 thứ tác ý, nghĩa là liễu tướng v.v…như trước đã nói. Nếu rộng phân biệt như Thanh Văn địa thì lại có 10 trí là khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, pháp trí, chủng loại trí, tha tâm trí, thế tục trí, tân trí, vô sinh trí. Nếu rông phan biệt như Thanh Văn địa thì lại có 6 thức thân, tức nhãn thức cho đến ý thức, như trước đã giải thích sơ lược. Nếu rộng phân biệt như ngũ thức thân tương ưng địa và ý địa thì lại có 9 thứ biến tri. Nghĩa là hệ Dục giới, kiến khổ tập sở đoạn thì đoạn biến tri đầu tiên. Hệ Sắc, Vô sắc, kiến khổ tập sở đoạn thì đoạn 2 biến tri. Hệ Dục giới kiến diệt sở đoạn thì đoạn 3 biến tri. Hệ Sắc, Vô sắc giới kiến diệt sở đoạn thì đoạn 4 biến tri. Hệ Dục giới kiến đạo sở đoạn thì đoạn 5 biến tri. Hệ Sắc, Vô sắc kiến đạo sở đoạn thì đoạn 6 biến tri. Thuận hạ phần kết đoạn 7 biến tri. Sắc ái hết 8 biến tri. Vô sắc ái hết 9 biến tri. Nếu rộng phân biệt như Tam-mahứ-đa địa thì lại có 3 môn giải thoát là không, vô nguyện, vô tướng. Đây cũng nói rộng như Tam-ma-hứ-đa địa. Trong đó các pháp cần phải quan sát bao nhiêu tác ý phải tư duy, bao nhiêu trí phải biết, bao nhiêu thức phải rõ, bao nhiêu biến tri phải biến tri, bao nhiêu môn giải thoát phải giải thoát. Như vậy có vô lượng quán môn phải quán các pháp.

Nghĩa của xứ sở, sơ lược có 3 thứ: 1. Sự y xứ. 2. Thời y xứ. 3. Bổ-đặc-già-la y xứ.

Sự y xứ lại có 3 thứ: 1. Căn bản sự y xứ. 2. Được phương tiện sự y xứ. 3. Mẫn tha sự y xứ.

Căn bản sự y xứ có 6 thứ: 1. Thiện thú. 2. Ác thú. 3. Thoái đọa. 4. Thăng tiến. 5. Lưu chuyển. 6. Tịch diệt.

Được phương tiện y xứ có 12 thứ, nghĩa là 12 thứ hành: 1. Dục hành. 2. Ly hành. 3. Thiện hành. 4. Bất thiện hành. 5. Khổ hành. 6.

Phi khổ hành. 7. Thuận thoái phần hành. 8. Thuận tiến phần hành. 9. Nhiễm ô hành. 10. Thanh tịnh hành. 11. Tự nghĩa hành. 12. Tha nghĩa hành.

Mẫn tha sự y xứ có 5 thứ: 1. Khiến ly dục. 2. Thị hiện. 3. Dạy dỗ dắt dẫn. 4. Khen ngợi khích lệ. 4. Vui mừng thăm hỏi.

Trong đây thiện thú, là cõi trời cõi người. Ác thú là Na-lạc-ca v.v…Thoái đọa có 2 thứ là không phương hại người khác và phương hại người khác. Không liên hệ người khác nghĩa là tự nhiên thọ mạng thoái giảm. Giống như thọ mạng, sắc tướng, sức lực, sự an vui, sự làm việc cũng vậy. Liên hệ người khác, nghĩa là tộc tính thoái giảm, tự tại tăng thượng thoái giảm, thiểu chi thuộc ngôn không thanh trừ tệ ác tuệ không thể chứng được vi diệu rộng lớn sắc hương vị xúc. Đối với các thụ dụng thắng diệu tâm không hoàn toàn vui mừng. Những loại như vậy gọi là thoái đọa. Ngược lại các thoái đọa này là tương ứng với thăng tiến. Tịch diệt là cõi tịch diệt hữu dư y và vô dư y.

Dục hành, là như 10 thứ dục đã được nói. Ly hành, là trong việc thụ dụng, biết vô thường, đã chán dục xuất gia, thụ trì cấm giới, thủ hộ căn môn v.v… Thiện hành, là thí, giới, tu hữu lậu thiện hạnh. Bất thiện hành, là 3 thứ ác hạnh. Khổ hạnh, là lõa thể không mặc áo v.v… cho đến nói rộng. Phi khổ hạnh, là thụ dụng như pháp được các thứ cần dùng, lìa bỏ lạc hạnh, xa lìa 2 cực đoan như thụ dụng lạc hạnh và tự chịu khổ hạnh. Cần hành trung đạo y chỉ nơi pháp cầu y bát v.v… và thụ dụng chân chính. Thuận thoái phần hành, là nếu thực hành thì có thể chướng ngại phần thăng tiến v.v… Thuận tiến phần hành, là trái lại với trên. Nhiễm ô hành, là như Kinh Anh Vũ nói sơ lược có 3 thứ là nghiệp tạp nhiễm, phiền não tạp nhiễm, lưu chuyển tạp nhiễm. Nên biết rằng những thứ này có 9 câu căn bản. Nghĩa là nghiệp tạp nhiễm có 3 câu: một tham, hai sân, ba si. Phiền não tạp nhiễm có 4 câu là 4 điên đảo. Lưu chuyển tạp nhiễm có 2 câu là vô minh và hữu ái. Bởi vì sao? Vì do 3 bất thiện căn sinh khởi các thứ tạp nhiễm, do 4 điên đảo hay phát sinh các thứ phiền não tạp nhiễm, do vô minh môn dẫn sinh các thứ lưu chuyển tạp nhiễm của người xuất gia, do hữu ái môn dẫn sinh các thứ lưu chuyển tạp nhiễm của người tại gia. Thanh tịnh hành, là sơ lược có 3 học 5 địa. Phải biết 3 học này cũng có 9 câu căn bản. Nghĩa là tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học nhiếp giữ không tham, không sân, không si ở tư lương địa và phương tiện địa. Tăng thượng tuệ học nhiếp giữ 4 không điên đảo, minh và giải thoát ở kiến địa, tu địa và cứu cánh địa. Tự nghĩa hành, là hạnh tự lợi như Thanh Văn, Độc Giác. Tuy họ có khi khởi hạnh lợi tha. Nhưng vốn kỳ nguyện của họ là tự lợi, cho nên cũng gọi là tự nghĩa. Tha nghĩa hành, là hạnh lợi tha như Phật Bồ-tát, cứu cánh lợi ích vô lượng chúng sinh, cho đến nói rộng. Khiến ly dục, là chê trách 6 thứ ác pháp, các hạnh thị hiện tội lỗi khiến lìa ái dục. Thị hiện, là khiến thụ học thiện pháp nên thị hiện 4 thứ đạo lý chân thật. Dạy dỗ dắt dẫn, nghĩa là thị hiện đã được. Tin hiểu, là khiến đối với học xứ chính thụ chính hành. Do đã được tự tại rồi nên bảo rằng: Các người nay đối với việc như vậy như vậy nên làm đúng, nên theo học. Khen ngợi khích lệ, là các hữu tình kia nếu chỗ hiểu biết, chỗ thực hành, chỗ đạt được tâm sinh thoái khuất chán nản, bấy giờ khen ngợi khích kệ chúng cho chúng được thêm sức mạnh trong hiểu biết, thực hành và đạt được. Vui mừng thăm hỏi, nghĩa là các hữu tình kia đối với pháp theo pháp dũng mãnh chân chính thực hành thì nên như thật nói lời khen ngợi khiến chúng vui mừng.

Lại nữa, khiến lìa dục thị hiện, hoặc có khiến lìa dục mà không thị hiện. Như dạy dỗ dắt dẫn người khiến lìa dục mà bảo chúng rằng: “Như ta đã nói không nên làm, thì nay người không nên làm nữa.” Hoặc làm cho chúng sợ mà nói rằng: “Nếu ngươi làm thì ta sẽ giải trừ việc làm của ngươi.” Hoặc đòi hỏi chúng rằng: “Nếu ngươi là bạn thân ái của ta thì phải không được làm.” Hoặc lại thị hiện không khiến lìa dục. Như ở trong đó thì thị hiện công đức hoặc tội lỗi của hữu tình, mà không ngăn chúng khiến không tạo tội. Hoặc cũng thị hiện cũng lìa dục. Như thị hiện tội lỗi kia khiến chúng xa lìa. Dạy dỗ dắt dẫn, là ban đầu chưa thụ học thì khiến chúng thụ học. Khen ngợi khích lệ, là đã học rồi chưa tiến thì khiến thăng tiến. Vui mừng thăm hỏi có 5 thứ thắng lợi: 1. Khiến chúng đối với chỗ đã chứng, tâm được quyết định. 2. Khiến chúng đối với thắng đức sở chứng khác thì khởi tâm cầu được. 3. Khiến kẻ phỉ báng trụ tâm trong đó. 4. Khiến kẻ không tin sinh tâm tịnh tín. 5. Khiến kẻ đã tin tăng trưởng hơn lên. Nếu có vui mừng thăm hỏi những việc thiện của người, nên biết rằng người ấy tạo tác tăng trưởng có thể cảm nghiệp đẹp ý chúng trời. Nếu mạng chung chúng sinh nơi kia thường nghe các âm thanh hay đẹp thích ý, không có âm thanh nào không thế.

Lại nữa, muốn làm hoặc có thể cảm đến nẻo thiện, như muốn tạo nghiệp thiện về sau, hoặc có thể cảm đến nẻo ác, như dùng phi pháp nhiếp thụ các hạnh dục ly, nếu hủy phạm có thể cảm nẻo ác, nếu không hủy phạm có thể cảm nẻo thiện, và tịch diệt tư lương hạnh thiện có thể cảm đến nẻo thiện, và vì tịch diệt tư lương hạnh bất thiện có thể cảm đến khổ hạnh nẻo ác. Do dựa vào tà kiến khổ tự thân nên có thể cảm đến nẻo ác, chứ khong phải khổ hạnh có thể làm tịch diệt tư lương và cảm nẻo thiện. Thuận thoái phần hành, có thể cảm thoái đọa. Thuận tiến phần hành, có thể cảm thăng tiến. Hạnh nhiễm ô có thể cảm lưu chuyển. Hạnh thanh tịnh có thể chứng tịch diệt. Tự nghĩa hành, chỉ khiến tự mình cảm nẻo thiện, dẫn thăng tiến, chứng tịch diệt. Tha nghĩa hành, đều có thể khiến mình và người sinh nẻo thiện, dẫn thăng tiến, chứng tịch diệt.

Như vậy 3 việc căn bản sự có 6 thứ. Đó là nẻo thiện cho đến Niết-bàn. Được phương tiện sự có 12 thứ, tức 12 hạnh. Bi mẫn tha sự có 5 thứ. Đó là 5 thứ thương xót chúng sinh.

Trong đây do sức tăng thượng của căn bản sự nên dựa vào 12 hạnh, nếu thích hợp thì khiến chúng lìa dục, cho đến vui mừng thăm hỏi.

Thời y xứ, là sơ lược có 3 thứ: 1. Quá khứ nói y. 2. Vị lai nói y. 3. Hiện tại nói y. Như kinh có nói rộng.

Bổ-đặc-già-la y xứ, là độn căn v.v… có 27thứ số thủ thú.

Như trên đã nói sự, thời, Bổ-đặc-già-la, Phật bạc-già-phạm dựa vào 3 xứ này lưu bố thánh giáo. Cho nên gọi là y xứ.

Quá hoạn nghĩa, nghĩa là đối với nghĩa đáng chán chê mà khởi chán chê, hoặc pháp hoặc chúng sinh.

Thắng lợi nghĩa, sơ lược mà nói là đối với nghĩa đáng khen ngợi mà khởi ken ngợi, hoặc pháp hoặc chúng sinh.

Sở trị nghĩa, sơ lược mà nói là tất cả hạnh tạp nhiễm.

Năng trị nghĩa, nghĩa là tất cả hạnh thanh tịnh. Như tham là sở trị, bất tịnh là năng trị. Sán là sở trị, từ là năng trị. Như vậy tất cả đều phải biết nghĩa sơ lược, gọi là nói nghĩa chủng loại chung các pháp.

Quảng nghĩa, tức nghĩa rộng, nghĩa là nói nghĩa từng chủng loại riêng của các pháp.

Lại nữa, vì nói kinh không liễu nghĩa, nên nói kinh liễu nghĩa.

Lại nữa, lược nghĩa, tức nghĩa sơ lược, có 2 thứ: 1.Danh lược. 2. Nghĩa lược. Quảng nghĩa cũng có 2 là danh quảng và nghĩa quảng. Như Bạc-già-phạm nói: ”Xá-lợi tử ! Ta có thể nói rộng hoặc sơ lược chính pháp.” Nhưng thật khó có được người hiểu ngộ. Trong kinh, trường hàng thì văn rộng nghĩa lược, Già-tha thì nghĩa rộng văn lược.

Để tóm thâu 10 nghĩa nên nói trung gian.

Ôn-đà-nam nói:

Các địa, tướng, tác ý,

Y xứ, đức, phi đức,

Sở đối trị năng trị,

Phải biết nghĩa lược, rộng.

Lại nữa, như vậy đã nói sơ lược 10 thứ nghĩa của thể tính Phật dạy. Người thuyết pháp phải dựa vào thánh giáo tìm kiếm 10 thứ. Hoặc đủ hoặc không đủ, tự mình tìm được rồi phải nói vì người khác.

Như vậy là thiết lập thể tính văn nghĩa xong. Những người thuyết pháp nên lấy 5 tướng tùy thuận giải thích tất cả kinh Phật. Nghĩa là trước tiên lược nói pháp yếu, tiếp đến nói đẳng khởi, tiếp đến phải giải thích nghĩa, tiếp đến giải thích vấn nạn, sau lập thứ tự. Pháp sơ lược có 12 thứ. Tức là khế kinh v.v… 12 phần giáo.

Khế kinh, nghĩa như may vá chế tác, đa phần là trường hàng, tức văn xuôi, nói thẳng vào sự việc các pháp thể. Ứng tụng, nghĩa là sau phần trường hàng có phúng tụng lược nói kinh không liễu nghĩa. Ký biệt, nghĩa là rộng phân biệt các nghĩa lược nêu và ghi nhận nơi các đệ tử sau sẽ sinh về. Phúng tụng, nghĩa là chỉ dùng một câu hoặc một bài tụng 2, 3, 4, 5, 6 câu v.v…để nói. Tự thuyết , là tự nói chứ không có người hỏi. Vì muốn đệ tử được hiểu rõ, vì muốn chúng sinh được hóa độ thượng phẩm an trụ lý thù thắng, nên tự nhiên nói, gọi là tự thuyết. Như kinh nói: “Thế Tôn hôm nay tự nhiên tuyên thuyết”. Nhân duyên, nghĩa là nhân có người xin hỏi nên nói. Như kinh nói: “Thế Tôn một thuở nọ nhân Một-lực Già-la tử, vì các Bísô nói rõ pháp yếu.” Lại nữa, căn cứ biệt giải thoát tăng thượng đạo Tì-nại-da có nói “căn cứ nhân duyên như vậy như vậy”, “căn cứ sự việc như vậy như vậy”, “Thế Tôn nói như vậy như vậy”. Đó gọi là nhân duyên. Thí dụ, nghĩa là có Kinh Thí Dụ, do thí dụ nên rõ ẩn nghĩa. Bản sự, nghĩa là nói các việc đời trước, trừ bản sinh. Bản sinh, nghĩa là nói rõ bản thân làm các việc khi thực hành Bồ-tát hạnh trong các đời quá khứ. Phương quảng, nghĩa là nói Bồ-tát đạo, như nói 10 địa, 4 Bồ-tát hạnh v.v…và nói 140 bất công Phật pháp của Như Lai. Nghĩa là 4 nhất thiết chủng thanh tịnh cho đến nhất thiết chủng diệu trí, như nói rộng trong Bồ-tát địa. Lại nữa, pháp có vô lượng, nghĩa sâu rộng, thời gian dài lâu, nghĩa là hết sức dũng mãnh trải 3 Đại kiếp a-tăng-xí-da mới được trọn đủ, cho nên gọi là Phương quảng. Hy pháp, nghĩa là Phật vả đệ tử thuyết pháp kỳ diệu hiếm có. Như trong các kinh, nhân việc hiếm có nên mới nói. Luận nghị, nghĩa là các kinh gồm có Ma-đát-lí-ca. Vả lại như các kinh liễu nghĩa đều gọi là Ma-đát-lí-ca. Nghĩa là Như Lai tự phân biệt rộng thể tướng các pháp. Lại nữa các đệ tử đã thấy thánh tích, căn cứ chỗ mình chứng, không điên đảo hiển thị thể tướng các pháp cũng gọi là Ma-đát-lí-ca. Mađát-lí-ca cũng gọi là A-tì-đạt-ma. Cũng như thế gian tất cả sách toán thơ luận đều có bản mẫu. Phải biết trong kinh nghiên cứu pháp tướng mọi ngôn thuyết cũng như vậy. Lại nữa, như thế gian nếu không có bản mẫu các chữ thì chữ không hiển rõ. Như vậy trong 12 phần giáo nếu không kiến lập thể tướng các pháp thì pháp không rõ ràng. Nếu kiến lập rồi các pháp tự tướng cộng tướng đều được hiển hiện. Lại nữa lại có thể hiển thị pháp tướng không lộn xộn. Tức Ma-đát-lí-ca này gọi là A-tì-đạt-ma. Căn cứ Ma-đát-lí-ca này, ngoài ra giải thích nghĩa các kinh đều gọi là Ô-ba-đệ-thước.

Đẳng khởi, nghĩa là sơ lược có 3 thứ là sự, thời, Bổ-đặc-già-la. Y xứ biệt cho nên như trong kinh nói: “Thời như vậy là Bổ-đặcgià-la như vậy. Dựa vào hành như vậy khiến kia ly dục, cho đến vui mừng thăm hỏi.”

Nghĩa, sơ lược có 2 thứ: 1. Nghĩ chung. 2. Nghĩa riêng. Phải biết nghĩa chung lại có 4 thứ: 1. Dẫn kinh liễu nghĩa. 2. Phân biệt sự cứu cánh. 3. Hành. 4. Quả. Hành lại có 2 thứ là tà hạnh và chính hạnh. Quả cũng có 2 thứ là tà hạnh quả và chính hạnh quả. Phải biết nghĩa riêng cũng có 4 thứ: 1. Phân biệt sai biệt danh. 2. Phân biệt tự thể tướng. 3. Huấn thích danh ngôn. 4. Nghĩa môn sai biệt. Huấn thích danh ngôn lại do 5 thứ phương tiện: 1. Do tướng. 2. Do tự thể. 3. Do nghiệp. 4. Do pháp. 5. Do nhân quả. Nghĩa môn sai biệt cũng có 5 thứ: 1. Tự thế sai biệt. 2. Giới sai biệt. 3. Thời sai biệt. 4. Vị sai biệt. 5. Bổ-đặc-già-la sai biệt.

Tự thể sai biệt, nghĩa là tự thể của sắc có 10 sắc xứ sai biệt. Tự thể của thụ có 3 thụ sai biệt. Tự thể của tưởng có 6 tưởng sai biệt. Tự thể của hành có 3 hành sai biệt. Tự thể của thức có 6 thức sai biệt. Phải biết tự thể của các loại sai biệt như vậy. Giới sai biệt, là Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Thời sai biệt, là thời đã qua, thời sắp đến và thời hiện nay. Vị sai biệt, là phải biết 25 thứ sai biệt. Nghĩa là 3 vị hạ trung thượng, 3 vị khổ vui không khổ không vui, 3 vị thiện bất thiện vô ký, 3 vị văn tư tu, 3 vị tăng thượng giới tăng thượng tâm tăng thượng tuệ, 2 vị trong ngoài, 2 vị sở thủ năng thủ, 2 vị sở trị năng trị, 2 vị hiện tiền bất hiện tiền, và 2 vị nhân quả. Bổ-đặc-gìa-la, là như trước nói 27 thứ.

Giải thích vấn nạn, là tự mình đặc ra câu hỏi hoặc người khác, đều phải giải thích. Phải biết lập câu hỏi , đại lược có 5 nhân: 1. Để rõ nghĩa chưa rõ. Như nói: Câu này có nghĩa thế nào? 2. Vì câu nói có mâu thuẫn. Như nói: Vì sao Bạc-già-phạm trước sau nói khác nhau? 3. Vì lý có mâu thuẫn. Như có hiển thị. 4. Nghĩa đạo lý trái nhau, vì hiển thị 4 bất định. Như nói: Vì sao Bạc-già-phạm đối với một thứ nghĩa hiển thị nhiều môn sai biệt? 5. Vì không thấy được cứu cánh. Như nói cái thể của nội ngã có tướng mạo gì mà thường hằng trụ nơi tự tính bất biến? v.v.. những loại như vậy.

Năm câu hỏi vấn nạn này nên giải thích theo thứ lớp. Nghĩa là đối với câu hỏi không liễu nghĩa thì phương tiện hiển thị liễu nghĩa. Đối với câu nói mâu thuẫn thì tùy thuận làm cho thông. Giống như đối với câu nói mâu thuẫn tùy thuận khai thông thì đối với câu hỏi bất định hiển thị, câu hỏi không thấy được cứu cánh cũng vậy. Đối với câu hỏi về lý mâu thuẫn thì hoặc dùng đạo lý hắc giáo mà phán quyết, hoặc lại hiển thị 4 thứ đạo lý, hoặc làm rõ đạo lý nhân quả tương ưng. Nghĩa là đây nói hiển quả, hoặc lại hiển nhân. Lại nữa, đối với vấn nạn phải lập 4 ký: Quyết định ký, nghĩa là vì như lý người hỏi không điên đảo kiến lập thể tướng các pháp. Phân biệt ký, nghĩa là người hỏi như lý không như lý khai thị tướng sai biệt. Phản cật ký, nghĩa là vì chấm dứt tranh luận vô nghĩa. Mặc trí ký, có 4 thứ nhân, nghĩa là không thể tính, cho đến pháp tướng đó là tự nhiên, như trước đã nói. Nếu rộng phân biệt như tư sở thành địa. Lại như hỏi: Như Lai sau khi diệt độ là có hay không v.v…Đièu này đối với thế tục đế và thắng nghĩa đế, lý thú đều không thể ghi nhận. Cho nên để im. Nếu đứng về thắng nghĩa thì không có Như Lai nên không ký biệt. Nếu đứng về thế tục thì trái đạo lý sở y năng y, và quả đoạn diệt là phi chân thật nên cũng không thể ghi nhận là Như Lai sau khi diệt độ là có hay không v.v…

Thứ đệ, là sơ lược có 3 thứ: 1.Viên mãn thứ đệ. 2. Giải thích thứ đệ. 3. Năng thành thứ đệ. Sơ lược dẫn thánh giáo để làm rõ 3 thứ đệ này. Như Thế Tôn nói: “Thuở ta xuất gia là lúc tuổi xuân thịnh mỹ, thịnh mỹ nhất, thịnh mỹ cùng cực”. Câu nói thịnh mỹ này là hiển thị viên mãn thứ đệ. Lại nữa, nói: “Từng ở nơi vương cung của Tịnh Phạn cha ta dung nhan đoan chính”. Cho đến nói rộng. Câu này tức hiển thị thịnh mỹ là giải thích thứ đệ. Lại nói: “Vì nghĩa gì trong lúc tuổi xuân tươi đẹp mà xuất gia? Vì thấy pháp lão bệnh tử v.v…”. Câu nói này là hiển thị năng thành thứ đệ. Lại nữa trong kinh lược nói các pháp, như nói 3 thụ là khổ, vui, không khổ không vui v.v…Trong đó chỉ hiển thị viên mãn thứ đệ. Vì các câu khác làm viên mãn nghĩa của thụ này, nên gọi là viên mãn. Như thụ, phải biết trong 4 thánh đế, trước hết nói câu đầu tiên, rồi sau tùy thuận phân tích cũng vậy.

Năng thành thứ đệ , có 2 thứ: Hoặc lấy câu trước thành lập câu sau. Hoặc dùng câu sau thành lập câu trước. Phải biết, giải thích thứ đệ cũng làm như vậy.

Sư, nghĩa là thành tựu 10 pháp gọi là thầy thuyết pháp viên mãn chúng tướng: 1. Giỏi pháp nghĩa, nghĩa là hiểu rõ 6 thứ pháp, 10 thứ nghĩa. 2. Có khả năng tuyên thuyết rộng rãi. Nghĩa là học hỏi nhiều và tích lũy nhiều học hỏi. 3. Đầy đủ đức vô úy. Nghĩa là trong hàng đại chúng ưu thắng như Sát-đế-lị v.v…tuyên thuyết chính pháp không sợ sệt. Lại nhân do đó tiếng nói không lạc giọng, không toát mồ hôi nách, không nhớ đầu quên đuôi. 4. Nói năng khéo léo. Nghĩa là nói năng rành rẽ viên mãn 8 phần thành tựu, ở trong chúng nói pháp ngôn từ đầy đủ. Nói năng khéo léo, nghĩa là câu văn tương ứng trợ giúp lẫn nhau, cho đến nói rộng. Tám phần thành tựu, nghĩa là hay đẹp nhất v.v…, cho đến nói rộng. 5. Khéo nói phương tiện, nghĩa là 20 thứ phương tiện khéo nói, như tùy thời hiện tướng ân cần trang trọng v.v… 6. Đầy đủ thành tựu pháp tùy pháp hành, nghĩa là không chỉ lắng nghe lời nói mà hết sức phải làm như đã nói. 7. Oai nghi đầy đủ, nghĩa là khi nói chính pháp không hoa tay múa chân, không lắc đầu chớp mắt, mặt mày tự nhiên, đi đứng nghiêm nghị. 8. Dũng mãnh tinh tiến, nghĩa là thường ưa lắng nghe các pháp chưa được nghe. Pháp đã nghe rồi thì càng thêm sáng tỏ. Không bỏ Dugià, không bỏ tâm tác ý, không lìa bỏ nội Xa-ma-tha. 9. Không chán mệt, nghĩa là vì 4 chúng rộng nói diệu pháp, thân tâm không mệt mỏi. 10. Đầy đủ sức nhẫn, nghĩa là dù bị mắng nhiếc trêu ghẹo quở trách, nhất thiết không đáp lại, nếu bị khinh miệt không sinh buồn giận, cho đến nói rộng.

Nói chúng, nghĩa là ở trong 5 chúng nói 8 thứ lời nói. Những gì là 8? 1. Lời nói làm đẹp lòng. 2. Khéo khai phát. 3. Khéo giải thích câu vấn nạn. 4. Khéo phân tích. 5. Khéo thuận nhập. 6. Khéo dẫn chứng những cái khác. 7.Giỏi tài biện luận. 8. Tùy tông thú mà nói.

Năm chúng là: 1. Chúng tại gia. 2. Chúng xuất gia. 3. Chúng thanh tịnh tín. 4. Chúng tà oán. 5. Chúng trung bình.

Lời nói đẹp lòng có 5 thứ: 1. Có chứng nhân. 2. Có thí dụ. 3. Ngữ nghiệp đầy đủ. 4. Câu văn hay đẹp. 5. Ngôn từ rõ ràng. Khéo khai phát, là khai mở làm hiển nghĩa sâu kín. Biện giải nghĩa thô hiển khiến thâm thúy. Khéo giải thích câu vấn nạn, là khéo giải thích 5 thứ vấn nạn, như trước đã nói. Khéo phân tích, là phan tích mỗi một pháp dựa vào tăng nhất đạo lý, cho đến 10 thứ. Hoặc lại khéo phân biệt hơn đây, như dựa vào một pháp kiến lập 2 lớp, 3 lớp tứ niệm trụ v.v…, cho đến nói rộng. Khéo thuận nhập, nghĩa là khéo giải thích rõ ràng khế kinh, ứng tụng v.v…12 phần giáo, hoàn toàn không dẫn tà đạo dị luận. Dẫn các chứng khác, nghĩa là dẫn các thuyết đã thành lập trong các kinh khác. Khéo tài biện luận, là tùy tự sở nhẫn, khéo phân biệt nghĩa. Tùy tông thú, nghĩa là dựa vào Ma-đát-lí-ca mà phân biệt hiển thị. Hoặc dựa vào các thuyết không điên đảo khác nói về ngôn giáo mà giải thích như lý.

Lại nữa ở trong chúng tại gia, nên hiện tiền thuyết pháp chê các ác hạnh khen ngợi thiện hạnh, khiến chúng chấm dứt ác hạnh tiến tu thiện hạnh. Ở trong chúng xuất gia thì dựa vào tăng thượng giới v.v… 3 học mà hiện tiền thuyết pháp, khiến chúng mau chóng tu hành viên mãn. Ở trong chúng thanh tịnh v.v…thì dựa vào thánh giáo mở rộng oai đức hiện tiền thuyết pháp như thứ tự khiển thêm tăng trưởng, khiến trụ trong đó, khiến sinh tịnh tín.

QUYỂN 12 HẾT