Luận A Tỳ Đạt Ma Tạng Hiển Tông Quyển 05

Luận A Tỳ Đạt Ma Tạng Hiển Tông Quyển 05
1563-2

LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 5

Phẩm thứ 3: BIỆN VỀ SAI BIỆT, phần 1

Như thế nhân nơi giới đã nêu ra các căn. Nay, ở trong đây nên lại xét chọn.

Đức Thế Tôn vì sao đã nói riêng tên căn, hoàn toàn ở nơi nội giới và một phần của pháp? Do nghĩa tăng thượng nên nói riêng là căn. Vì trong các sự kia được tăng thượng, tuy nghĩa tăng thượng nơi các pháp đều có, nhưng tăng thượng tột cùng thì mới lập tên căn.

Cái gì đối với cái gì làm tăng thượng tột cùng?

Tụng nêu:

Năm căn nơi bốn sự

Bốn căn đối hai thứ

Năm, tám trong nhiễm, tịnh

Đều riêng làm tăng thượng.

Luận nói: Không phải tất cả căn gồm chung nơi một sự là tăng thượng tột cùng. Năm căn như nhãn v.v… đều ở nơi bốn sự có công dụng tăng thượng: (1) Trang nghiêm thân. (2) Dẫn dắt nuôi dưỡng thân. (3) Sinh thức v.v… (4) Sự không chung.

Trang nghiêm thân: Nghĩa là trong năm căn theo đấy thiếu một căn thì thân sẽ xấu xí.

Dẫn dắt nuôi dưỡng thân: Nghĩa là nhân nơi thấy, nghe, khiến tránh được các thứ hiểm nạn. Và đối với đoạn thực có khả năng thọ dụng. Nên ba thứ hương, vị, xúc đều thành đoạn thực. Như có tụng nêu:

Ví như người mắt sáng

Có thể tránh hiểm nạn

Đời có người thông minh

Hay lìa hiện khổ ác.

Đa văn hay biết pháp

Đa văn hay lìa tội

Đa văn bỏ vô nghĩa

Đa văn được Niết-bàn.

Thân do ăn trụ

Mạng nhờ ăn còn

Ăn xong khiến tâm

Vui vẻ thư thái.

Sinh thức v.v…: Nghĩa là phát khởi năm thức và pháp tương ưng. Vì tùy theo căn của đối tượng nương dựa có sáng tối.

Sự không chung: Nghĩa là nhận lấy thấy, nghe, ngửi, nếm của tự cảnh, nhận biết về cảnh riêng khác.

Có thuyết nói: Mắt, tai đối với sinh thân, pháp thân có thể bảo hộ. Như thứ lớp ấy luôn có công dụng tăng thượng. Hai tụng trước tức là chứng cứ của sự việc này.

Có thuyết cho: Mắt, tai đều cùng có công năng giữ gìn hai thứ sinh thân và pháp thân, gần gũi bậc thiện sĩ, lắng nghe chánh pháp, nên mắt, tai đều làm một tăng thượng.

Nữ, nam, mạng, ý căn đều ở nơi hai sự có công dụng tăng thượng. Lại, hai thứ tăng thượng của nữ căn, nam căn: (1) Hữu tình khác. (2) Phân biệt khác.

Hữu tình khác: Tức các hữu tình nơi kiếp đầu tiên, hình loại đều như nhau. Hai căn sinh xong, liền có hình loại nữ, nam có sai biệt. Phân biệt khác: Đi đứng, tiến dừng, nói năng, bầu vú, búi tóc v.v…

được nêu đặt có sai biệt.

Có thuyết nêu: Vì mạnh yếu có sai biệt nên gọi là hữu tình khác. Do y phục trang nghiêm có sai biệt, nên gọi là phân biệt khác.

Có thuyết biện: Căn này đối với hai phẩm nhiễm, tịnh có sức tăng thượng. Nên nói ở nơi hai phẩm thọ không luật nghi, khởi nghiệp vô gián đoạn dứt căn thiện, nên gọi là đối với phẩm nhiễm có sức tăng thượng. Có thể thọ luật nghi, nhập đạo được quả và vì lìa dục nên gọi là đối với phẩm tịnh có sức tăng thượng. Hạng Bán trạch ca v.v… thì không có sự như thế. Mạng căn đối với hai sự có tăng thượng. Nghĩa là do mạng nên thiết lập các căn và căn sai biệt. Do đây có nên kia có, đây không có nên kia không có. Hoặc đối với chúng đồng phần có thể cùng nối tiếp và có thể giữ gìn. Ở nơi cõi vô sắc chủ yếu là có mạng căn mới có xứ đã sinh quyết định. Hữu tình kia khởi tâm thiện nhiễm ô của tự địa. Hoặc khởi tâm khác, vì không phải là mạng chung. Ý căn đối với hai sự có tăng thượng. Nghĩa là có thể cùng nối tiếp hữu sau, cùng tùy hành tự tại. Có thể cùng nối tiếp hữu sau: Nghĩa là như Đức Thế Tôn nói với Tôn giả A-nan-đà: Nếu thức không vào trong thai mẹ, thì tinh huyết có được hình thành yết-la-lam không?

Không, bạch Đức Thế Tôn! Cho đến nói rộng.

Tùy hành tự tại: Như Khế kinh nói:

Tâm dẫn dắt thế gian

Tâm hay thâu nhận khắp

Một pháp tâm như thế

Đều tùy hành tự tại.

Có thuyết nói: Vì ý căn ở nơi phẩm nhiễm, tịnh có sức tăng thượng, nên nói đối với hai sự, như Khế kinh nói: Vì tâm tạp nhiễm nên hữu tình tạp nhiễm. Vì tâm thanh tịnh nên hữu tình thanh tịnh.

Năm thọ như lạc v.v…, tám căn như tín v.v…, ở trong phẩm nhiễm, tịnh có sức tăng thượng. Nghĩa là năm căn như lạc v.v… ở nơi sự của tùy miên như tham v.v… đã nương dựa, là tăng thượng đối với nhiễm.

Có thuyết cho: Đây là đối với hai phẩm nhiễm, tịnh, đều cùng có tăng thượng.

Nói là chỗ dựa của tham đắm và xuất ly, vì vui thích nên tâm định, khổ vì tín dựa. Sáu căn nương dựa nơi xuất ly là hỷ và ưu, xả, vì Khế kinh nói. Tám căn như tín v.v… đối với tịnh là tăng thượng. Như Khế kinh nói: Thánh đệ tử của Ta đủ tin nơi tường, hào, đủ uy lực siêng năng, đủ nhớ nghĩ, phòng vệ, tâm định giải thoát, tuệ làm đao kiếm, cho đến nói rộng. Trong đây, tức gồm thâu ba căn sau, nên ba căn kia đối với phẩm tịnh nhất định có tăng thượng.

Nếu vì tăng thượng nên lập làm căn, thì hai pháp thọ, tưởng ở trong các phiền não của phẩm ái, kiến là có dụng tăng thượng, tức tưởng nên như thọ cũng lập làm căn. Lại, các phiền não ở trong phẩm thiện v.v… có thể làm tổn hoại, có dụng tăng thượng, nên thành thể của căn. Lại vì hơn hết, nên kiến lập các căn.

Trong tất cả pháp, Niết-bàn là tối thắng, do đâu không lập Niếtbàn làm căn? Lại Ca tỉ la ngữ gồm đủ tay chân và xứ đại tiện, cũng lập làm căn?

Đối với ngữ chấp hành và có thể từ bỏ, vì có tăng thượng. Những sự như thế v.v… không nên lập làm căn, do đã thừa nhận căn có tướng như vậy. Tụng nêu:

Tâm sở dựa đấy khác

Trụ ấy tạp nhiễm ấy

Tư lương ấy, tịnh ấy

Do lượng ấy lập căn.

Luận nói: Tâm sở dựa: Nghĩa là sáu căn như mắt v.v… Sáu xứ nội ấy là gốc của hữu tình. Tướng này có sai biệt là do nam căn, nữ căn. Lại do một kỳ hạn trụ ấy của mạng căn, căn này thành tạp nhiễm. Do năm thọ căn là tư lương tịnh ấy. Do năm căn như tín v.v…, nên căn này thành thanh tịnh. Vì ba căn sau, do đấy sự việc lập căn đều cứu cánh. Tức không nên lại lập tưởng v.v… làm căn. Trong các phiền não thì lỗi của ái là rất nặng, nên chỉ lập thọ cùng với năm pháp kia làm căn.

Lỗi của ái nặng: Là do Khế kinh nói: Vì ái cùng với sáu xứ làm nhân sinh. Lại, tưởng không phải là nhân sinh của phiền não kiến. Nhân khác phát sinh kiến điên đảo xong, tưởng vọng phân biệt giữ gìn khiến cùng nối tiếp. Vì lìa chánh đối trị thì không thể đoạn hoại, nên nói tưởng này cùng với thọ kia làm nhân. Thọ là nhân của ái, đều cùng chung nơi hai thứ, thọ là lỗi nặng, vì là nhân của phiền não, vì chung nơi hai nhân, nên lập riêng làm căn.

Có Sư khác cho: Tưởng vì bị pháp khác lấn át, nên không lập làm căn. Nghĩa là các tưởng thiện thì bị chánh tuệ lấn át. Các tưởng nhiễm ô thì bị điên đảo lấn át. Do không phải là tăng thượng nên không lập làm căn. Lại, các phiền não cũng không phải là tăng thượng. Vì thọ ở trong đó thành tăng thượng nên chỉ thọ đối với các pháp kia có thể lập làm căn. Hoặc làm tổn hại phẩm thiện, hủy hoại sự việc của quả vui. Thấp kém, thô bỉ, cấu uế, làm sao lập căn? Căn là pháp tăng thượng của thế gian. Lại, đối với các pháp, Niết-bàn tuy là thu , nhưng vì diệt các căn nên không lập làm căn. Như đập vỡ các chiếc bình, thì mảnh vỡ không phải là thể của bình. Lại ngữ cụ v.v…

cũng không gọi là căn, vì lỗi không nhất định, tạp loạn, thái quá.

Lỗi không nhất định: Những gì là ngữ cụ lập làm ngữ căn? Khả năng phát sinh ngôn âm, gọi là ngữ cụ, đây tức là lưỡi.

Nếu như vậy tức nên các pháp như tầm, tứ v.v… và khả năng dẫn khởi ngữ nghiệp, các gió cũng nên lập làm căn, vì có thể phát ngữ. Nghĩa là tầm, tứ v.v… dựa vào các duyên như môi, lợi răng, yết hầu v.v… để phát khởi ngôn âm, vì không phải chỉ dựa vào lưỡi, nên không có nhân khác. Lại, tầm, tứ v.v… đối với sự việc phát ngôn âm, là nhân thù thắng. Lại, các tay, nách, ống sáo, dây đàn, hơi thở v.v… đều có thể làm nhân phát ra ngôn âm, tức không nên chỉ lập lưỡi làm ngữ căn.

Nếu cho thấy rõ sắc cũng do lời nói, tức không nên lập riêng mắt làm căn, về lý tất không đúng. Vì các người mù bẩm sinh tuy nghe nói về sắc, nhưng không hiểu rõ về tướng như màu xanh v.v… có sai biệt. Tay đối với việc cầm lấy không nên gọi là căn, vì miệng v.v… cũng có thể cầm lấy vật. Chân đối với hành động không nên gọi là căn, vì các loài rắn, cá v.v… không do nơi chân mà cũng có hành động. Xứ sinh ra đại tiện, là ở nơi khả năng dứt bỏ, không nên gọi là căn, vì miệng v.v… cũng có khả năng dứt bỏ.

Lỗi tạp loạn: Là các thứ kia nếu đã lập căn tức nên thành tạp loạn. Vì miệng có thể cầm lấy và dứt bỏ. Tay chân đều cùng có công dụng chấp hành, nên có lỗi tạp loạn như thế.

Lỗi thái quá: Các thứ kia nếu đã lập căn tức nên thành không hạn lượng. Nếu thiệt căn khác, ngữ căn khác, thì phải thừa nhận tỷ căn so với căn hơi thở là khác. Như 1ưỡi có thể nói, mũi thì chung nơi hơi thở. Nếu đây đối với kia có ít tác dụng, tức lập làm căn, thế thì yết hầu, răng, môi, dạ dày v.v… đối với các sự việc nuốt, nhai, thâu giữ v.v… vì có tăng thượng nên lập làm căn. Hoặc tất cả nhân đối với việc sinh tự quả, vì đều tăng thượng, tức nên cùng lập làm căn. Vì Ca-tỷ-la, như đồng tử đùa cợt, không nên thừa nhận ngữ cụ v.v… kia là căn.

Đã nêu bày về nghĩa của căn và nhân kiến lập. Nay sẽ nói về mỗi mỗi tự thể của các căn. Trong đây, mắt v.v… cho đến nam căn, phần trước trong phẩm này đã biện về tướng của chúng. Nghĩa là thức kia đã đưa vào năm thứ sắc tịnh, gọi là căn như mắt v.v… Hai căn nam, nữ, từ một phần thân có sai biệt mà lập. Thể của mạng căn là không tương ưng, nên trong phần không tương ưng đến lúc ấy sẽ biện. Thể của tín v.v… là tâm sở pháp, nên trong phần tâm sở pháp đến lúc ấy sẽ biện. Về năm thọ như lạc v.v…, ba căn vô lậu, lại không có xứ biện, tức nay nên giải thích.

Tụng nêu:

Thân không vui gọi khổ

Tức vui ấy gọi lạc

Cùng ba định tâm vui

Xứ khác đây gọi hỷ.

Tâm không vui gọi ưu

Giữa xả hai không khác

Đạo kiến, tu vô học

Dựa chín, lập ba căn.

Luận nói: Thân, nghĩa là thân thọ. Vì dựa vào sắc căn, tức thọ tương ưng với năm thức.

Nói không vui: Là nghĩa tổn não. Đối với năm thức đều cùng lãnh nhận xúc, thọ bên trong. Có thể tạo tổn não, gọi là khổ căn.

Nói vui: Là nghĩa gồm thâu lợi ích, tức năm thức đều cùng lãnh nhận xúc, thọ bên trong. Có thể gồm thâu lợi ích, gọi là lạc căn.

Trong tĩnh lự đầu ba thức đều cùng có lạc, cũng là đồng chủng loại thuộc về tĩnh lự này. Nơi tĩnh lự thứ ba thì ý thức đều cùng thọ, có thể gồm thâu lợi ích, cũng gọi là lạc căn. Vì nơi địa kia là không có thân thức khác, tức ý đều cùng vui, lập làm lạc căn, ý thức đều cùng sinh vui, thọ nhận có hai. Ở nơi định thứ ba, gọi là lạc, do trong địa này đã lìa hỷ tham.

Trừ định thứ ba trong ba địa dưới, gọi là hỷ căn, vì có hỷ tham. Hai tâm vui này nghĩa gồm thâu lợi ích là đồng, hành tướng đâu có khác mà phân làm hỷ, lạc, là do hành tướng chuyển biến có sai biệt. Nếu có tâm vui theo hành an tĩnh chuyển, thì gọi là lạc căn. Nếu có tâm vui theo hành thô động chuyển, thì gọi là hỷ căn. Hoặc lại lạc căn thì sức gồm thâu lợi ích là hơn. Hỷ căn tức gồm thâu lợi ích thì không như thế.

Do lạc của địa thuộc tĩnh lự thứ ba này, các Thánh nói là xứ sở tham đắm, cùng với ý thức đều cùng có thể tổn não thọ. Tâm này không vui, gọi là ưu căn.

Đã căn cứ theo thân tâm thọ nhận vui, không vui, do hành tướng có sai biệt, nên lập ra bốn thọ căn.

Đã nói giữa xả hai không khác: Giữa là nghĩa không phải vui, không phải không vui, tức không khổ lạc, gọi là xả căn.

Thân tâm thọ nhận ở giữa, định này thọ nhận gì?

Nên nói định này thọ nhận chung ở nơi thân tâm.

Khổ lạc do đâu đều phân làm hai, còn không khổ không lạc thì chỉ lập một căn. Đây là vì ở nơi thân tâm không có sai biệt. Nghĩa là tâm khổ lạc thì nhiều phần vội vã, dao động. Khổ, lạc ở thân thì khiến an trụ. Không khổ không lạc ở thân, ở tâm, thì hành tướng không có khác vì chỉ an trụ. Lại, tâm khổ, lạc thì sinh nhiều phân biệt. Ở nơi thân không như vậy, vì tùy theo sức của cảnh.

A-la-hán v.v… cũng sinh như thế. Xả ở nơi thân tâm đều cùng không có phân biệt, hành tướng ở giữa tự nhiên mà khởi. Lại, khổ lạc thọ ở thân ở tâm, đối với oán, đối với thân hành tướng chuyển biến khác. Không khổ không lạc ở thân, ở tâm, đối với cảnh ở giữa, hành tướng không có khác. Thế nên khổ, lạc đều phân làm hai, không khổ không lạc thì chỉ lập một căn.

Đã giải thích về thể của các thọ căn như lạc v.v… Ba căn vô lậu nay tiếp theo nên giải thích.

Không thể mỗi mỗi nói riêng về thể của chúng, nên căn cứ theo ba đạo, dựa vào chín căn để lập chung ba căn vô lậu. Chín căn là ý, lạc, hỷ, xả và năm căn như tín v.v…

Trong ba đạo của chín căn này tức là ba căn vô lậu. Nghĩa là chín pháp như ý v.v… ở nơi kiến đạo, tức là thể của vị tri đương tri căn, vì chuyển biến theo hành tướng của vị tri đương tri. Nếu chín pháp như ý v.v… ở nơi tu đao, tức là thể của dĩ tri căn thứ hai. Vì nhằm đoạn trừ tùy miên còn lại, nên đối với cảnh đã nhận biết (dĩ tri) thường lại nhận biết rõ.

Chín pháp như ý v.v… ở nơi đạo vô học, tức là thể của cụ tri căn thứ ba. Vì nhận biết về tự mình nhận biết, nên gọi là nhận biết, vì huân tập nhận biết thành tánh, hoặc vì có khả năng giữ gìn nhận biết, nên gọi là cụ tri.

Vì chín căn tương ưng hợp thành sự việc này, nên ý cùng tám căn cũng được mang tên ấy.

Như vậy, tên căn tuy là hai mươi hai, nhưng thể của các căn chỉ có mười bảy. Hai căn nam, nữ thuộc về thân căn. Ba căn vô lậu thuộc về chín căn.

Như thế là đã giải thích về thể của căn không đồng. Nay sẽ biện về nghĩa loại của các môn có sai biệt.

Trong hai mươi hai căn này, có bao nhiêu thứ là hữu lậu, bao nhiêu thứ là vô lậu?

Tụng nêu:

Chỉ vô lậu ba sau

Có sắc mạng, ưu, khổ

Nên biết chỉ hữu lậu

Chín căn khác chung hai.

Luận nói: Tiếp theo phần trước đã nói về ba căn sau cùng, thể của chúng chỉ là vô lậu, là nghĩa vô cấu. Cấu cùng với lậu, tên khác nhưng thể đồng. Bảy căn có sắc thuộc về sắc uẩn, nên gọi là có sắc. Các căn có sắc này cùng mạng và ưu, khổ, hoàn toàn là hữu lậu.

Chín căn chung nơi hai: Tức trước đã nói là thuộc về ba căn vô lậu. Chín căn như ý v.v… gọi là vô lậu. Chín căn như ý v.v… còn lại đó gọi là hữu lậu.

Có thuyết nói: Năm căn như tín v.v… cũng chỉ là vô lậu. Giải thích này không hợp lý. Như Đức Thế Tôn đã nói: Ta nếu đối với năm căn như tín v.v… này, chưa nhận biết như thật là tập, là ẩn mất, là vị, là lỗi lầm tai hại, là xuất ly, thì chưa có thể vượt quá hàng trời, người này nơi thế gian, cho đến nói rộng. Nên không phải là pháp vô lậu. Tức hành quan sát theo thứ lớp như thế. Lại, khi Phật chưa chuyển chánh pháp luân, trước hết là dùng Phật nhãn để quán xét khắp thế gian, các loài hữu tình có các căn lợi, trung bình, yếu kém có sai biệt. Đây là quyết định lựa chọn rộng, như nơi Luận Thuận Chánh Lý.

Như thế là đã nói về hữu lậu, vô lậu. Trong hai mươi hai căn, có bao nhiêu thứ là dị thục, bao nhiêu thứ không phải là dị thục?

Tụng nêu:

Mạng chỉ là dị thục

Ưu và tám sau không

Sắc ý, bốn thọ khác

Mỗi mỗi đều thông hai.

Luận nói: Lại không phân biệt tức trong các căn này, chỉ một mạng căn nhất định là dị thục. Vì sao mạng căn ấy có thể không phân biệt? Vì mạng căn của quả nhất định, không phải là dị thục.

Như thế mạng căn cũng là dị thục. Đạt được định biên vực, nên quả Bí-sô, ở trong chúng Tăng, hoặc người riêng khác đã thí cho, tức tư duy về quả. Các thứ ấy đối với ta có thể chiêu cảm nghiệp dị thục giàu có, nguyện đều chuyển đổi, chiêu cảm quả dị thục thọ mạng, vì Thánh đã nói.

Có thuyết cho: Mạng căn kia do sức của định biên vực, dẫn dắt nhận lấy đời trước, thuận với nghiệp thọ bất định, đã chiêu cảm thọ mạng khiến hiện thọ dụng. Lại có người muốn khiến sức của định biên vực, dẫn sinh quả dị thục còn lại của nghiệp nơi đời trước.

Ưu căn và tám căn sau như tín v.v… đều không phải là dị thục, vì tánh hữu ký.

Kinh nói có nghiệp thuận với ưu thọ. Là dựa vào thọ tương ưng để nói thuận là không có lỗi. Như nói: Có xúc thuận với lạc thọ v.v…

Do đâu nhất định nhận biết ưu căn không phải là dị thục?

Vì người lìa dục tham thì không tùy chuyển. Dị thục thì không như vậy, nên ưu căn không phải là dị thục.

Vì sao nhất định nhận biết người lìa dục tham thì ưu căn không tùy chuyển? Vì ưu căn là quả đẳng lưu của vô tri.

Vì A-la-hán v.v… thì tất cả vô tri đều đã đoạn, vì các tướng oán ghét nơi A-la-hán kia là không có. Các A-la-hán lìa dục tham, vì đã đoạn các thứ tai họa nơi cõi dục, nên các tướng oán ghét cũng đều không có. Lại, A-la-hán kia cùng nối tiếp, phần nhiều là vui thích. Người lìa dục tham vì ưu không tùy chuyển, nên biết là ưu căn vượt quá pháp dị thục. Căn còn lại chung cho hai, nghĩa căn cứ theo là đã thành. Nghĩa là bảy sắc căn, ý căn, trừ ưu, bốn thọ còn lại, là mười hai căn, mỗi mỗi đều chung cho hai loại. Bảy căn có sắc, nếu đã được nuôi lớn thì không phải dị thục. Số còn lại đều là dị thục.

Ý căn và bốn thọ, hoặc thiện, nhiễm ô, hoặc đường oai nghi và xứ công xảo cùng khả năng biến hóa, tùy theo đối tượng ứng hợp của chúng, cũng không phải là dị thục. Số còn lại đều là dị thục.

Như thế là đã nói về dị thục v.v… Trong hai mươi hai căn, bao nhiêu thứ là có dị thục, bao nhiêu thứ là không có dị thục?

Tụng nêu:

Ưu định có dị thục

Tám trước, ba sau: không

Ý và thọ, tín khác.

Mỗi mỗi đều chung hai.

Luận nói: Như trước đã nêu: Ưu căn nên biết nhất định là có dị thục. Nói nhất định ý là hiển bày chỉ có không phải là không có, là ngăn chận cho không phải là nhân dị thục, vì nhân là vô lậu vô ký. Tám căn trước như nhãn v.v… và ba căn sau cùng, mười một căn này nhất định là không có dị thục, vì tám là vô ký, vì ba là vô lậu. Các căn còn lại đều chung cho hai.

Nghĩa căn cứ theo đấy là đã thành. Tức là ý căn cùng bốn thọ còn lại và năm căn như tín v.v… Nói v.v… là nhận lấy bốn căn như tinh tấn v.v… Mười căn này, mỗi mỗi căn đều chung nơi hai loại. Ý, lạc, hỷ, xả, nếu bất thiện, thiện hữu lậu, thì có dị thục. Nếu vô ký, vô lậu, thì không có dị thục. Khổ căn nếu thiện, bất thiện, thì có dị thục, nếu vô ký thì không có dị thục. Năm căn như tín v.v… nếu hữu lậu thì có dị thục, nếu vô lậu thì không có dị thục.

Như vậy là đã nói về phần có dị thục v.v… Trong hai mươi hai căn, có bao nhiêu thứ là thiện, bao nhiêu thứ là bất thiện, bao nhiêu thứ là vô ký?

Tụng nêu:

Chỉ thiện, tám căn sau

Ưu chung thiện, bất thiện

Ý, thọ khác: ba thứ

Tám trước chỉ vô ký.

Luận nói: Năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu hoàn toàn là thiện. Ưu căn chỉ chung nơi tánh thiện, bất thiện. Ý căn và bốn thọ (lạc khổ hỷ xả) đều chung cho ba tánh. Tám căn như nhãn v.v… chỉ là vô ký.

Như vậy là đã nêu rõ về thiện, bất thiện v.v… Trong hai mươi hai căn, có bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi dục, bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi sắc và cõi vô sắc?

Tụng nêu:

Cõi dục, sắc, vô sắc

Thứ lớp trừ ba sau

Gồm nữ, nam, ưu, khổ

Và sắc khác, hỷ, lạc.

Luận nói: Cõi dục, trừ ba căn vô lậu sau, do ba căn kia chỉ là không hệ thuộc. Căn cứ theo đấy nên biết, hệ thuộc cõi dục có mười chín căn còn lại. Cõi sắc như trước đã nói, trừ ba căn vô lậu, cũng trừ bốn căn nam, nữ, ưu, khổ. Căn cứ theo đấy nên biết mười lăm căn cũng hệ thuộc chung nơi cõi sắc.

Trừ căn nam, nữ v.v…: Do cõi sắc đã lìa pháp dâm dục, vì trừ dâm dục này nên không có nhân cần thọ dụng.

Có thuyết cho: Do thân này xấu xí. Thuyết này là không đúng, vì âm tàng ẩn giấu kín không phải là xấu xí. Tuy nhiên, Đức Phật đã gác lại sự việc ấy ở trong phẩm Nam. Như Khế kinh nói: Không xứ không chấp nhận thân nữ làm phạm hạnh. Có xứ có chấp nhận thân nam làm phạm hạnh. Nghĩa là lìa dục thì uy nghi dũng mãnh, giống như công dụng của nam. Như có lời xưng tán Đại Phạm vương:

Đại Phạm như trượng phu

Sở đắc đều đã được

Đạo lìa dục uy dũng

Nên gọi là trượng phu.

Trừ khổ căn: Tức trong cõi sắc không có sự việc tổn hại, vì khổ là dị thục của nghiệp tổn hại.

Có thuyết nói: Vì thân nơi cõi sắc kia là rất tịnh diệu

Trừ ưu căn: Vì xứ kia không có tướng oán ghét. Lại, vì Xa-matha (Chỉ) đã làm thấm nhuần sự tương tục.

Có thuyết cho: Cõi sắc có đủ trí lìa dục, vì ưu căn là quả đẳng lưu của vô tri. Cõi vô sắc như trước đã nói, trừ nữ, nam, ưu, khổ, ba căn vô lậu, cùng trừ hỷ, lạc và năm sắc căn. Căn cứ theo đấy nên biết tám căn còn lại là hệ thuộc chung nơi cõi vô sắc.

Như thế là đã nói về hệ thuộc cõi dục v.v… Trong hai mươi hai căn, có bao nhiêu thứ do kiến đạo đoạn, do tu đạo đoạn và không đoạn?

Tụng nêu:

Ý, ba thọ chung ba

Ưu do kiến, tu đoạn

Chín chỉ do tu đoạn

Năm tu, phi ba phi.

Luận nói: Ý, hỷ, lạc, xả, mỗi mỗi là chung nơi ba. Ưu căn chỉ chung do kiến đạo, tu đạo đoạn, vì không phải là vô lậu. Bảy sắc căn, mạng căn, khổ căn, chỉ do tu đạo đoạn. Có sắc không nhiễm, vì không phải là sáu sinh, vì không phải là vô lậu.

Năm căn như tín v.v… hoặc do tu đạo đoạn, hoặc không phải đoạn, vì chung cho thiện hữu lậu và vô lậu. Ba căn sau cùng chỉ là không đoạn, vì đều là vô lậu, là pháp không có lỗi lầm. Nhưng Khế kinh nói: Nên biết Thánh đạo cũng như thuyền bè, pháp hãy còn nên đoạn, huống chi là phi pháp. Pháp này không phải do hai đạo kiến tu đoạn. Nhập nơi quả vị Niết-bàn vô dư y, vì xả nên gọi là đoạn.

Đã nói về loại nghĩa có sai biệt của các môn. Sẽ nói về các căn đầu tiên được dị thục. Có bao nhiêu căn đầu tiên được dị thục ở nơi cõi nào? Cần hỏi về căn đầu tiên được dị thục là nhằm ngăn chận tâm không nhiễm, có thể nối tiếp sinh.

Tụng nêu:

Thai, noãn, thấp sinh dục

Đầu được hai di thục

Hóa sinh sáu, bảy, tám

Sắc sáu, trên chỉ mạng.

Luận nói: Thai, noãn, thấp, sinh của cõi dục nơi phần vị thọ sinh đầu tiên chỉ được hai căn, thân cùng với mạng là có dị thục. Nên thai, noãn, thấp là làm rõ trừ hóa sinh, vì sắc căn của hóa sinh không có khởi dần dần.

Đây là biện về dị thục, không nói về ý xả. Lúc này hóa sinh kia nhất định là nhiễm, không phải là dị thục. Bấy giờ, cũng được các căn như tín v.v…, vì không phải là dị thục, nên trong đây không nói. Ở đây nhân nơi hóa sinh để nói, không biện về phần vị Yết-lạtlam của ba đời, tuy được pháp dị thục sinh như sắc v.v…, nhưng thể không phải căn, nên ở đây không nói. Vị đầu tiên của hóa sinh được sáu, bảy, tám căn, không có hình, được sáu, như thời kỳ đầu của kiếp. Sáu, nghĩa là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, mạng. Một hình được bảy, như chư thiên v.v… Hai hình được tám. Nẻo ác cùng có hai hình hóa sinh. Cõi sắc đầu tiên được sáu, như hóa sinh của cõi dục.

Không có hình, nói trên chỉ là mạng. Nghĩa là cõi vô sắc, vì định sinh đều cùng hơn hẳn, nên gọi là trên. Ở cõi vô sắc kia, đầu tiên chỉ được dị thục là mạng căn. Do đấy chứng biết mạng căn là có thật. Mạng căn này nếu không phải có, thì được căn gì gọi là sinh nơi cõi vô sắc, không phải thiện, nhiễm ô, gọi là quả của nghiệp sinh, chưa thọ sinh cõi kia, vì khách hiện khởi. Lại, tâm dị thục không có lý nối tiếp sinh, vì chỉ thừa nhận tâm nhiễm là có thể nối tiếp sinh. Lại, Luận giả cho quá khứ, vị lai không phải là có, bấy giờ, dị thục của ba đời đều không có, thì sự sinh dựa vào gì để nói là nên thừa nhận mạng thật? Vì sinh kia dựa vào căn để nói dị thục.

Đầu tiên được rồi, sẽ nói về các căn đã diệt sau cùng.

Khi chết ở nơi cõi nào, có bao nhiêu căn diệt sau?

Tụng nêu:

Đang chết, các căn diệt

Vô sắc ba, sắc tám

Dục liền mười, chín, tám

Dần bốn thiện tăng năm.

Luận nói: Lại nói về nhiễm ô và vô ký, khi tâm đang mạng chung, căn diệt nhiều ít. Nghĩa là khi ở cõi vô sắc sắp mạng chung, thì ba căn mạng, ý, xả diệt ở sau cùng. Vì cõi vô sắc chỉ có xả thọ, không phải thứ khác. Lại nói vô sắc là nhằm ngăn chận cho cõi kia là có sắc.

Có Sư khác nói: Cõi kia có sắc. Nếu không nói có vật thật là mạng căn, thì dị thục nào đoạn, gọi là ở nơi vô sắc chết? Nếu nói dị thục là bốn uẩn đoạn, nên ở nơi vô sắc kia gọi là chết, thì tâm thiện, tâm nhiễm ô ở phần vị hiện tiền, tức nên cũng gọi là chết chăng? Nếu nói địa vô sắc kia đã thọ dị thục cũng chưa hết, thì vì sao không thọ mà có kỳ hạn hết? Tâm thiện nhiễm ô ở phần vị hiện tiền, nên nói địa vô sắc kia đã thọ dị thục của nghiệp nào? Không phải không hiện tiền mà có thể gọi là thọ chăng?

Phần quyết định lựa chọn rộng còn lại như nơi Luận Thuận Chánh Lý.

Khi ở cõi sắc chết, tám căn diệt sau. Nghĩa là năm căn như mắt v.v… và ba căn trước đã nêu. Hóa sinh sống chết, vì căn không thiếu, nên khi sắp chết tức thì có mười, chín, tám căn diệt. Hai hình thì mười căn diệt, nghĩa là căn nữ, nam và tám căn trước đã nói. Một hình, chín căn diệt. Vô hình, tám căn diệt. Nếu khi chết dần thì bốn căn thân, mạng, ý, xả là diệt sau.

Bốn căn này tất không có nghĩa diệt trước sau. Nếu tâm thiện ở ba cõi, khi chết thì trong tất cả vị luôn đều tăng năm. Tâm thiện tất có đủ các căn như tín v.v… Nghĩa là ở cõi vô sắc tăng tới tám căn, cho đến cõi dục tăng dần, sau cùng đến chín. Nay lại nên suy xét.

Có bao nhiêu căn có thể được quả Sa-môn gì? Tuy quả Sa-môn không phải là căn cũng đạt được. Đây là biện về căn, nên chỉ hỏi các căn. Tụng nêu:

Chín được hai quả biên

Bảy, tám, chín trong hai

A-la-hán mười một

Dựa một cùng có nói.

Luận nói: Biên, nghĩa là quả Dự lưu, quả A-la-hán. Trong, nghĩa là quả Nhất lai và quả Bất hoàn. Lại quả Dự lưu do chín căn được. Nghĩa là ý, xả, năm căn như tín v.v… và hai căn vô lậu đầu. Quả này cùng với hướng là thuộc về địa vị chí, nên chỉ có xả.

Vì sao quả này do dĩ tri căn được?

Do lìa trói buộc đắc cùng với đạo giải thoát đều cùng lúc khởi.

Tuy đạo giải thoát đối với quả Sa-môn không phải là nhân đồng loại mà là nhân tương ưng, nhân câu hữu, nên gọi là được không có lỗi. Hoặc dĩ tri căn cũng là nhân đồng loại, có thể được quả Dự lưu. Nghĩa là khi chuyển y. Như A-la-hán căn cứ theo cùng có để nói cũng không có lỗi.

Quả A-la-hán cũng do chín căn được. Nghĩa là ý, năm căn như tín v.v…, hai căn vô lậu sau và trong lạc hỷ xả theo đấy lấy một thứ. Quả này cùng hướng thuộc về chung nơi chín địa. Nên ở nơi ba thọ theo đấy nhận lấy một thứ. Hai quả trung gian, mỗi mỗi quả đều chung nơi bảy, tám, chín căn, được đạo thế gian, xuất thế gian, vì thứ lớp và siêu việt chứng có sai biệt. Lại, quả Nhất lai chứng theo thứ lớp. Nghĩa là dựa nơi đạo thế gian do bảy căn được. Tức là ý và xả, năm căn như tín v.v… Dựa vào đạo xuất thế, do tám căn được. Nghĩa là bảy căn nêu trước và dĩ tri căn. Lìa dục tham gấp bội, siêu việt chứng, như quả Dự lưu do chín căn. Chứng tỏ quả Bất hoàn, nên biết cũng như vậy. So sánh chung tuy đã rõ nhưng vẫn có sai biệt.

Hoàn toàn lìa dục tham, siêu việt chứng: Là dựa vào địa riêng, nên ba thọ tùy theo một. Thứ lớp chứng: Nếu ở trong đạo giải thoát thứ chín, nhập địa căn bản, dựa vào đạo thế gian, do tám căn được. Tức bảy căn nêu trước, hỷ là thứ tám. Dựa vào đạo xuất thế gian, do chín căn được. Dĩ tri căn là thứ chín. Nếu là A-la-hán cũng do chín căn được, tức trái với Luận Phát Trí.

Luận kia nêu câu hỏi: Có bao nhiêu căn được A-la-hán?

Có mười một. Vì ba thọ nhất định là không cùng thời khởi, nên chỉ do chín được. Nói mười một căn là dựa vào chỗ cùng có để nói. Nghĩa là cùng có một Bổ-đặc-già-la, từ quả vị vô học, thường thường thoái chuyển xong, do hỷ, lạc, xả, nên thường chứng đắc trở lại. Không phải quả Bất hoàn có đồng với lỗi này. Vì thứ lớp không cùng với lạc căn đạt được. Vì siêu việt không cùng có thoái mất.

Nay nên xét chọn về căn nào thành tựu? Trong các căn kia, có bao nhiêu thứ nhất định thành tựu? Tụng nêu:

Thành tựu mạng, ý, xả

Đều định thành tựu ba

Nếu thành tựu lạc thân

Đều định thành tựu bốn.

Thành tựu mắt v.v… cùng hỷ

Đều định thành năm căn

Nếu thành tựu khổ căn

Kia định thành tựu bảy.

Nếu thành nữ, nam, ưu

Như tín v.v… đều thành tám

Hai vô lậu mười một

Vô lậu đầu: mười ba.

Luận nói: Trong ba căn mạng, ý, xả, theo đấy thành tựu một, thì hành giả kia nhất định thành tựu ba căn như thế. Không phải trong ba căn này có thiếu mà được thành tựu, vì cùng dựa nơi khắp tất cả địa. Năm căn như tín v.v… hiện có khắp tất cả địa, không phải nương dựa nơi tất cả. Mười bốn căn còn lại thì cả hai cùng không phải hiện bày nương dựa khắp. Nên thành tựu xả v.v…, chỉ nhất định thành tựu ba. Số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Thế nào là thành tựu bốn căn như mắt v.v…? Sinh nơi cõi sắc hoàn toàn và phần ít của cõi dục. Thân căn sinh ở cõi dục, cõi sắc hoàn toàn. Nữ căn, nam căn sinh ở phần ít của cõi dục. Lạc căn sinh nơi cõi dục và ba định dưới, cùng Thánh sinh lên địa trên. Hỷ căn sinh tại cõi dục và hai định dưới. Khổ căn sinh nơi cõi dục hoàn toàn, vì dục tham của ưu chưa lìa. Năm căn như tín v.v… nếu không đoạn thiện. Ba căn vô lậu đã được chưa bỏ. Các phần vị như thế đều nhất định thành tựu. Trừ đây, các phần vị còn lại thì nhất định không thành tựu.

Nếu đã thành tựu lạc căn thì nhất định thành tựu bốn, là mạng, ý, xả, lạc. Nếu đã thành tựu thân căn, thì cũng nhất định thành tựu bốn, là mạng, ý, xả, thân. Căn còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu. Nếu đã thành tựu nhãn căn thì nhất định thành tựu năm, là mạng, ý, xả, thân và nhãn căn. Các căn nhĩ, tỷ, thiệt nên biết cũng thành tựu năm. Bốn căn trước như nhãn, tự căn là thứ năm. Nếu đã thành hỷ căn thì cũng nhất định thành tựu năm, là mạng, ý, xả, lạc và hỷ căn.

Sinh nơi định thứ hai, chưa lìa tham của định ấy, thì chỉ thành tựu lạc thọ nhiễm ô thứ ba.

Nếu đã thành tựu khổ căn thì nhất định thành tựu bảy, là thân, mạng, ý và bốn thọ căn trừ ưu. Nếu đã thành tựu nữ căn thì nhất định thành tựu tám: bảy căn như nói về khổ căn, nữ căn là thứ tám. Nam căn, ưu căn cũng tám: bảy như nói về khổ căn và tự căn là thứ tám. Tín v.v… cũng tám, là mạng, ý, xả và năm căn như tín v.v…

Nếu nữ, nam đều cùng thành thì người kia nhất định thành tựu mười lăm căn. Nếu đã thành tựu cụ tri căn thì nhất định thành tựu mười một, là lạc, hỷ, xả, mạng căn, ý căn, năm căn như tín v.v… và cụ tri căn. Dĩ tri căn cũng như vậy. Tự căn là thứ mười một.

Nếu đã thành tựu vị tri căn thì nhất định thành tựu mười ba, là thân, mạng, ý, bốn thọ trừ ưu, năm căn như tín v.v… và vị tri căn. Nơi phần vị mạng chung dần, truyền thuyết cho thâm tâm chán lìa sinh tử, nên có thể nhập kiến đạo.

Như thế là đã nói về vị nhất định thành tựu. Bổ-đặc-già-la nhất định thành tựu. Sẽ nói về các trường hợp ít nhất đã thành tựu bao nhiêu căn?

Tụng nêu:

Ít nhất tám không thiện

Thành thọ, thân, ý, mạng

Ngu sinh cõi vô sắc

Thành thiện, mạng, ý, xả.

Luận nói: Đã đoạn căn thiện gọi là không có thiện. Người ngu kia thành tựu ít nhất là tám căn, tức là năm thọ căn và thân, mạng, ý. Căn cứ theo xả bỏ mạng dần, chỉ còn lại thân căn. Ngu, nghĩa là hàng phàm phu, vì chưa kiến đế. Phàm phu kia sinh nơi cõi vô sắc cũng thành tựu tám căn, là năm căn như tín v.v… và mạng, ý, xả. Do số lượng của định và nói là ngu. Nói thiện là không lẫn lộn với ba căn vô lậu.

Các trường hợp nhiều nhất là thành tựu bao nhiêu căn?

Tụng nêu:

Nhiều nhất thành mười chín

Hai hình trừ ba tịnh

Thánh giả chưa lìa dục

Trừ hai tịnh, một hình.

Luận nói: Những người hai hình, đủ căn như mắt v.v…, trừ ba căn vô lậu, thì thành tựu mười chín căn còn lại. Vô lậu gọi là tịnh, vì lìa hai thứ phược. Nếu Thánh hữu học chưa lìa dục tham thì thành tựu nhiều nhất cũng đủ mười chín, trừ hai căn vô lậu và trừ một hình. Hai căn vô lậu là cụ tri căn và trong hai căn nêu trước tùy theo một.

Nói một hình: Là không có hai hình và cùng với không đạt được pháp Thánh.

Nhân nơi phần phân biệt giới đã biện rộng về căn. Các hành câu sinh nay nên xét chọn.

Trong đây, các hành tóm lược có hai thứ: hữu sắc, vô sắc. Vô sắc có ba là tâm tâm sở, bất tương ưng hành. Hữu sắc có hai là cực vi và phi cực vi.

Cực vi có hai: (1) Hệ thuộc cõi dục. (2) Hệ thuộc cõi sắc.

Cực vi của cõi dục lại có hai thứ: (a) Tụ không căn. (b) Tụ có căn.

Trong đây lại biện về sắc của tụ cực vi. Tụng nêu:

Dục tụ vi không thanh

Không căn, có tám sự

Có thân căn, chín sự

Mười sự, có căn khác.

Luận nói: Trong sắc có đối phần vi tế sau cùng lại không thể phân tích, gọi là cực vi. Nghĩa là cực vi này lại không thể dùng tuệ giác về sắc còn lại phân tích thành nhiều. Đây tức nói là biên vực tận cùng của sắc. Lại vì không có phần, nên lập danh xưng biên vực. Như một sát-na, gọi là biên vực tận cùng của thời gian. Lại không thể phân tích làm một nửa sát-na. Ở đây cũng như thế. Các cực vi hòa hợp, không thể phân lìa, nói là tụ vi. Tụ vi này ở nơi cõi dục, không có thanh, không có căn, tám sự đều cùng khởi. Nghĩa là bốn đại chủng và sắc, hương, vị, xúc. Tụ vi này nếu có thanh, tức thành chín sự, là thanh và tám thứ trước. Nhưng không nói là nhằm làm rõ nhân nơi tướng của đại chủng. Do đánh, gõ nên sinh, không phải như sắc v.v…, là lúc nào cũng có.

Không có thanh, có căn, hoặc chín, hoặc mười. Nghĩa là chín sự của tụ thân căn đều cùng khởi, tám như trước đã nói, thân căn là thứ chín. Trong tụ căn khác mười sự đều cùng khởi. Chín như tụ thân, thêm mắt v.v… là một. Mắt, tai, mũi, lưỡi tất không lìa thân, vì dựa vào thân chuyển, nên bốn căn lần lượt cùng lìa nhau mà sinh, vì xứ đều riêng khác. Xứ này có tụ căn, nếu có thanh sinh, thêm vào thanh của đối tượng sinh thành mười một. Vì thanh này có đại chủng chấp thọ làm nhân, nên cùng với các căn không lìa nhau khởi. Không nói về lý do như trước nên biết.

Cõi sắc chỉ trừ hai sự hương, vị, các sự còn lại là đồng với cõi dục, nên không nói riêng.

Đã nêu bày về sự nên nói dựa nơi thể, dựa nơi xứ, đều không có lỗi. Đối tượng nương dựa, chủ thể nương dựa, dựa nơi thể, dựa nơi xứ có sai biệt để nói. Hoặc chỉ dựa nơi thể, cũng không có lỗi. Vì quyết định đều cùng sinh mới nói là có. Thể của hình sắc v.v… không phải là quyết định có, vì trong ánh sáng thì không có. Hoặc chỉ dựa nơi xứ cũng không có lỗi.

Vì nhằm ngăn chận nhiều thứ hủy báng nên nói riêng về đại chủng. Nghĩa là hoặc có hủy báng nói: Đại chủng tạo sắc không có tánh riêng. Hoặc lại hủy báng cho: Thể của sắc được tạo không có xúc xứ riêng. Hoặc lại hủy báng nói: Không phải tất cả tụ gồm đủ bốn đại chủng. Nói riêng về đại chủng thì những thứ hủy báng ấy đều trừ. Tuy nhiên không thành nhiều, vì căn cứ theo loại để nói.

Đã nói về hành hữu sắc, quyết định đều cùng sinh. Hành vô sắc đều cùng sinh, nay tiếp theo sẽ nói. Tụng nêu:

Tâm tâm sở tất cùng

Các hành tướng hoặc đắc.

Luận nói: Tâm cùng với tâm sở tất định đều cùng sinh, theo đấy thiếu một thì số còn lại chưa từng khởi. Các hành tức là tất cả hữu vi, đó là các hành có sắc, không sắc. Trước tất đều cùng nói, nên lưu chuyển đến đây. Nghĩa là các hành có sắc v.v… khi sinh tất cùng với bốn tướng như sinh v.v… đều cùng khởi.

Nói hoặc đắc: Nghĩa là chỉ pháp của hữu tình cùng với đắc là đều cùng sinh. Hoặc nói làm rõ đắc này không hiện khắp các hành. Ở trước đã nói trong bốn tướng hữu vi.

Biện rộng về sắc, tâm, như nơi phẩm trước đã nêu. Các pháp tâm sở v.v… cũng chưa biện rộng. Nay trước hết là biện rộng về các tâm sở pháp.

Tụng nêu:

Tâm sở lại có năm

Pháp đại địa cùng khác.

Luận nói: Các tâm sở pháp lại có năm phẩm, vì pháp đại địa có dị biệt. Năm phẩm đó là: (1) Pháp đại địa. (2) Pháp đại thiện địa. (3) Pháp đại phiền não địa. (4) Pháp đại bất thiện địa. (5) Pháp tiểu phiền não địa.

Địa, nghĩa là xứ dung nạp, dừng lại, hoặc gọi là xứ của đối tượng hành. Nếu xứ này là đối tượng hành, dung nạp, dừng lại của pháp kia, tức nói pháp này là địa của pháp kia, vì địa tức là địa nơi pháp đại của tâm, gọi là đại địa.

Trong đây, nếu pháp đại địa hiện có gọi là pháp đại địa. Nghĩa là pháp hiện khắp cùng với tất cả phẩm loại, tất cả tâm đều cùng sinh.

Do đấy, nên tâm không phải là pháp đại địa, vì không phải tâm đều cùng sinh. Pháp kia là gì? Tụng nêu:

Thọ, tưởng, tư, xúc, dục

Tuệ, niệm cùng tác ý

Thắng giải, Tam-ma-địa

Khắp nơi tất cả tâm.

Luận nói: Ở nơi thân của đối tượng nương dựa, có thể tăng ích, có thể tổn giảm, hoặc cùng trái nhau, lãnh nhận xúc ái phi ái đều cùng trái nhau, gọi là thọ. An lập, giữ lấy cảnh của nữ, nam v.v…, là nhân của tướng sai biệt, gọi là tưởng. Khiến tâm tạo tác thiện, bất thiện, vô ký, thành tánh tốt đẹp, trung bình, xấu kém, gọi là tư. Do có tư, nên khiến tâm đối với cảnh có tác dụng động. Cũng như sức hút của nam châm, có thể khiến cho sắt có tác dụng chuyển động. Do căn, cảnh, thức hòa hợp mà sinh, có thể làm nhân cho thọ, có đối tượng xúc đối, gọi là xúc. Mong cầu nhận lấy cảnh, gọi là dục.

Vì phân biệt, lựa chọn về đối tượng duyên có các tướng tà, chánh v.v…, gọi là tuệ. Đối với cảnh đã ghi nhận rõ là nhân không quên mất, gọi là niệm. Dẫn dắt tâm tâm sở khiến ở nơi đối tương duyên có chỗ cảnh giác, gọi là tác ý. Đây tức thế gian nói là lưu ý. Đối nơi cảnh đã ấn chứng thừa nhận, gọi là thắng giải. Thắng nghĩa là tăng hơn, giải nghĩa là giải thoát. Thắng giải này có khả năng khiến tâm đối với cảnh không có ngăn ngại, tự tại mà chuyển. Như giới tăng thượng, định tăng thượng v.v… khiến tâm không loạn nhận lấy cảnh của đối tượng duyên, nhân không lưu tán, gọi là Tam-ma-địa. Biện dựa theo tự tướng, như nơi năm sự đã giải thích.

Như vậy là đã nói về mười pháp đại địa. Địa của pháp đại thiện gọi là đại thiện địa.

Trong đây, nếu pháp nơi địa đại thiện hiện có, thì gọi là pháp đại thiện địa. Nghĩa là pháp luôn có nơi các tâm thiện. Pháp đó là gì? Tụng nêu:

Tín và không phóng dật

Khinh an, xả, tàm, quý

Hai căn cùng bất hại

Cần chỉ khắp tâm thiện.

Luận nói: Tâm hiện tiền cùng trái với ô trược đã thừa nhận, nhân quả không có điên đảo, đều cùng hệ thuộc riêng, vì muốn khiến đối tượng nương dựa có thể hỗ trợ thắng giải, gọi là tín. Chuyên đối với lợi mình, phòng hộ thân, ngữ, ý, cùng trái với phóng dật, gọi là không phóng dật.

Chánh tác ý chuyển, thân tâm nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, nhân của an ổn, thích hợp, tánh có thể nhận giữ của tâm, gọi là khinh an. Tánh bình đẳng của tâm gọi là xả. Cùng trái với trạo cử, như lý đã dẫn dắt, khiến tâm không vượt quá, là nghĩa của xả.

Hướng đến hai thứ tự pháp như lý, tăng thượng đã sinh, trái với đẳng lưu ái, tánh tự tại của tâm, gọi là tàm (Hổ). Yêu thích tu tập công đức làm ưu tiên, trái với đẳng lưu si, nhàm chán pháp xấu kém, gọi là quý (Thẹn).

Có thuyết nói: Sợ hãi, trách cứ nẻo ác, là nhân hủy báng tự tha, gọi là quý.

Hai căn: Là không tham, không sân. Cùng trái với mong cầu tham vướng nơi cảnh giới đã được, chưa được, tánh không ái nhiễm, gọi là không tham. Đối với hữu tình, phi hữu tình không có ý giận dữ, có chủng tử thương xót, gọi là không sân.

Tánh hiền thiện của tâm, cùng trái với việc ưa thích tổn não hữu tình, gọi là bất hại.

Đối với các thứ công đức, lỗi lầm đã sinh, thì gìn giừ, từ bỏ. Đối với các thứ công đức, lỗi lầm chưa sinh, thì khiến cho sinh, không sinh, là tánh không biếng trễ của tâm, gọi là cần.

Do có cần này, nên tâm đối với sự việc đã tạo tác như lý, thì kiên cố tiến tới không ngừng.

Nói hai cùng cả câu là gồm thâu ưa thích và nhàm chán. Nhàm chán, nghĩa là tâm thiện, suy xét đúng thật, quan sát về vô lượng lỗi lầm tai hại. Vì tánh của thật pháp, nên khởi thuận với tánh chán bỏ của tâm không tham. Tương ưng với tánh này gọi là tác ý nhàm chán. Vui thích, nghĩa là tâm thiện, vui thích mong cầu xuất ly đối trị các lỗi lầm tai hại. Sức tăng thượng này khởi, thuận với tu tâm chứng đắc, là tánh ưa chuộng. Vì tánh này đối với các địa vị chí lìa hỷ cũng có hiện hành, nên không phải là hỷ thọ. Tương ưng với tánh này gọi là tác ý vui thích.

Trong các Khế kinh thì hỷ và vui thích đã nói riêng, từ vui thích sinh hỷ, vì như Khế kinh đã nói. Có các thuyết nói, hỷ thua kém gọi là vui thích.

Khinh an v.v… kia tức nên đồng với thuyết này, vì không có nhân khác. Nhân gì chỉ có hỷ nói là có hơn kém, không phải là khinh an v.v…, nên lý là không đúng. Hành tướng vui thích, nhàm chán lại cùng trái nhau, ở trong một tâm, không cùng có đều khởi. Thế nên ở đây không chính thức nêu rõ.

Pháp đại thiện địa, vì tánh không thành, nên cũng có hỷ căn, theo hành nhàm chán cùng chuyển, nhất định không có hành vui thích, nhàm chán đều cùng chuyển.

Vì hai tâm sở tiêu biểu này nhất định không cùng hiện hành, nên nói hai cùng nói về hành tướng trái nhau.

HẾT – QUYỂN 5

Bài Viết Liên Quan

1563-2

Luận A Tỳ Đạt Ma Tạng Hiển Tông Quyển 29

LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ   QUYỂN 29 Phẩm thứ 7: BIỆN VỀ HIỀN THÁNH, phần 1 Đã biện về...
1563-2

Luận A Tỳ Đạt Ma Tạng Hiển Tông Quyển 09

LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ   QUYỂN 9 Phẩm thứ 3: BIỆN VỀ SAI BIỆT, phần 5 Đã biện về...
1563-2

Luận A Tỳ Đạt Ma Tạng Hiển Tông Quyển 25

LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ   QUYỂN 25 Phẩm thứ 6: BIỆN VỀ TÙY MIÊN, phần 1 Đã biện về...
1563-2

Luận A Tỳ Đạt Ma Tạng Hiển Tông Quyển 21

LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ   QUYỂN 21 Phẩm thứ 5: BIỆN VỀ NGHIỆP, phần 4 Như thế là đã...
1563-2

Luận A Tỳ Đạt Ma Tạng Hiển Tông Quyển 38

LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ   QUYỂN 38 Phẩm thứ 9: BIỆN VỀ ĐỊNH, phần 1 Như thế là đã...
1563-2

Luận A Tỳ Đạt Ma Tạng Hiển Tông Quyển 14

LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ   QUYỂN 14 Phẩm thứ 4: BIỆN VỀ DUYÊN KHỞI, phần 3 Đã biện về...