LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 29

Phẩm thứ 7: BIỆN VỀ HIỀN THÁNH, phần 1

Đã biện về phiền não, tùy theo các phẩm loại, tuy có vô lượng, nhưng lập chung làm năm bộ của ba cõi. Các phiền não được đoạn, tùy nơi sự của đối tượng trói buộc, tuy cũng là vô lượng, nhưng căn cứ ở phần vị hơn hẳn để lập chín thứ nhận biết khắp. Nhưng đoạn trừ tất do sức của đạo nên được.

Lý do của đạo đoạn này, tướng ấy như thế nào? Tụng nêu:

Đã nói phiền não đoạn

Do kiến đạo, tu đạo

Kiến đạo, kiến Thánh đế

Tu đạo, tu chín phẩm.

Luận nói: Đức Thế Tôn chỉ nói có hai phiền não: kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn có sai biệt. Nhưng trong các luận đã chia hai làm năm, tức năm đối tượng đoạn, như trước đã nói.

Nay căn cứ theo chỗ lược gồm thâu chỉ hai. Như kinh nói đoạn phiền não kia chỉ do kiến đạo, tu đạo.

Kiến đạo, nghĩa là kiến lý của bốn Thánh đế. Tu đạo, nghĩa là tu chín phẩm có sai biệt. Kiến đạo chỉ là vô lậu. Tu đạo thì chung cho hai thứ hữu lậu, vô lậu.

Căn cứ theo trước đã hiển bày, nên tụng không nói. Về kiến Thánh đế, tướng ấy như thế nào? Tụng nêu:

Bốn đế tên đã nêu

Tức khổ, tập, diệt, đạo

Tự thể kia cũng vậy

Thứ lớp theo hiện quán.

Luận nói: Đức Phật ở trong kinh nói đế có bốn: (1) Khổ. (2) Tập. (3) Diệt. (4) Đạo.

Trong Luận này trước cũng đã nói. Nghĩa là pháp hữu vi, trừ các Thánh đạo, là biên của tánh quả, đều gọi là khổ đế. Là biên của tánh nhân đều gọi là tập đế. Vật tuy không khác, nhưng số phần không mất. Dựa nơi số phần đó để kiến lập phần vị hiện quán, trong ấy các hành tướng như các nhẫn, trí v.v… có riêng khác, như bốn chánh đoạn, tầm xuất ly v.v… Trạch diệt vô vi gọi là diệt đế. Pháp học, vô học đều gọi là đạo đế. Nhân trước, quả sau, lý luôn tất nhiên. Do đấy, quyết định nên nêu ra danh, xứ của đế: Khổ ở sau tập, đạo ở trước diệt.

Vì sao trong đây, quả trước, nhân sau? Vì tùy theo phần vị hiện quán, như thứ lớp mà nói. Nghĩa là tùy nơi hành giả, trong phần vị hiện quán, quán trước nói trước, quán sau nói sau. Nhưng hoặc có pháp nói về thứ lớp theo sinh, như niệm trụ v.v… Hoặc lại có pháp nói về thứ lớp theo phương tiện như chánh thắng.

Do đâu hiện quán theo thứ lớp tất như thế?

Vì trong phần vị gia hạnh đã quán như vậy.

Do đâu gia hạnh tất quán như vậy?

Nghĩa là nếu có pháp hết sức khổ não bức bách, thì nơi phần vị tu gia hạnh, lý nên quán trước. Tiếp theo tìm cầu nhân của khổ bức kia. Thứ đến là mong cầu thoát khỏi khổ ấy. Sau tức nên tìm phương tiện giải thoát khỏi khổ. Ví như lương y, trước hết xem xét người bệnh, tình trạng bị bệnh. Tiếp theo tìm ra nhân của bệnh. Thứ đến là tư duy về bệnh được chữa khỏi. Sau là tìm kiếm thuốc hay. Nên Khế kinh nói: Phàm là y vương, nghĩa là gồm đủ bốn đức, có thể nhổ mũi tên độc: (1) Khéo nhận biết về bệnh trạng. (2) Khéo nhận biết về nguyên nhân của bệnh. (3) Khéo nhận biết cách chữa bệnh. (4) Khéo nhận biết về thuốc hay để chữa bệnh.

Đức Như Lai cũng như vậy. Là Đại y vương nhận biết rõ như thật về khổ, tập, diệt, đạo. Nên nơi phần vị gia hạnh đã dựa theo thứ lớp ấy để quán. Trong phần vị hiện quán, quán thứ lớp cũng như vậy. Do sức của gia hạnh đã dẫn phát. Như mở tâm đọc tụng văn đã tụng trước, nên nêu bày danh xưng của Thánh đế là theo hiện quán. Vì nhận biết như thứ lớp hiện bày v.v…, nên lập tên hiện quán. Vì là đối tượng duyên của chánh giác, nên chỉ là vô lậu. Vì là chân tịnh của nhận biết (giác) này, nên được tên chánh.

Danh xưng của Thánh đế này là nói về nghĩa gì?

Thánh là đế nên được mang tên Thánh đế. Nghĩa là chỉ Thánh giả đối với bốn đế này có thể dùng hành Thánh trí thánh để quán thật, phàm phu thì không như vậy, nên gọi Thánh đế.

Chỉ thọ nhận một phần là tự thể của khổ, phần còn lại đều không phải. Vì sao có thể nói các hành hữu lậu đều là khổ đế?

Tụng nêu:

Khổ do ba khổ hợp

Như chỗ ứng hợp khắp

Vừa ý, không vừa ý

Khác, pháp hành hữu lậu.

Luận nói: Có tánh của ba khổ: (1) Tánh khổ khổ. (2) Tánh hành khổ. (3) Tánh hoại khổ.

Các hành hữu lậu như đối tượng ứng hợp của chúng, cùng với ba thứ tánh khổ này là hợp nên đều là khổ đế, cũng không có lỗi. Vì sao? Vì các hành hữu lậu có ba thứ là vừa ý, không vừa ý và câu phi.

Vừa ý là thế nào?

Nghĩa là các lạc thọ và các vật dụng hỗ trợ. Hai thứ còn lại so sánh theo đấy.

Ở đây, pháp hành hữu lậu vừa ý, do cùng với hoại khổ hợp, nên gọi là khổ. Người chưa lìa nhiễm, khi đối với hoại khổ kia, tất định nên sinh ưu sầu v.v… Do trong Khế kinh, Đức Bạc-già-phạm nói: Các lạc thọ khi sinh thì lạc khi trụ thì lạc, khi hoại thì khổ. Các hành thuận với lạc thọ, tức như lạc thọ. Nên biết các pháp hành hữu lậu không vừa ý, do cùng với khổ hợp, nên gọi là khổ. Tự thể của khổ thọ cùng thuận với pháp khổ hiện tiền, tất có thể xúc não thân tâm. Do trong Khế kinh, Đức Bạc-già-phạm nói: Các khổ thọ khi sinh thì khổ khi trụ, thì khổ khi hoại thì vui. Các hành thuận với khổ thọ tức như khổ thọ. Nên biết trừ hai thứ này, pháp hành hữu lậu còn lại, do cùng với hành khổ hợp, nên gọi là khổ. Do nhân duyên đã tạo đều là vô thường, vì hữu lậu vô thường nên đều là khổ, tức pháp hữu lậu đều là tánh khổ.

Há không phải là tất cả pháp hành hữu lậu căn cứ theo đây đều cùng là tánh của hành khổ?

Không nên chỉ nói không phải khổ lạc thọ và tư lương của các thứ kia là tánh của hành khổ. Tuy có lý này, nhưng ở trong đây, vì dựa vào phần không chung, nên nói như thế. Tánh của ba khổ này, thể của chúng là gì? Nên nhất định ghi nhận ba thọ là thể. Do ba thọ ấy, nên pháp thuận với ba thọ, như chỗ ứng hợp cũng được tên tánh của ba khổ. Vì đạo là vô lậu, nên không phải thuộc về tánh khổ.

Như trên đã biện trong bốn Thánh đế có bao nhiêu thứ là thế tục, bao nhiêu thứ là thắng nghĩa? Hai đế như thế tướng của chúng là thế nào? Tụng nêu:

Giác kia phá nên không

Tuệ phân khác cũng vậy

Như bình, nước: Thế tục

Khác đây, gọi thắng nghĩa.

Luận nói: Các vật hòa hợp, tùy theo đối tượng ứng hợp của chúng gồm chung có hai thứ loại tánh sai biệt: 1) Có thể dùng vật phá vỡ làm phần vi tế. (2) Có thể dùng tuệ phân tích trừ pháp khác.

Nghĩa là lại đối với các tụ hòa hợp của sắc phá vỡ làm phần vi tế, nhận biết tụ kia là không, gọi là thế tục đế. Cũng như chiếc bình v.v…, không phải khi phá vỡ chiếc bình thành ngói gốm v.v…, lại có thể ở trong đó sinh khởi nhận biết về bình v.v… là có tụ hòa hợp. Tuy mãnh vỡ là nhiều, nhưng nhận biết về mãnh vỡ kia không phải là không có. Cũng như nước v.v…, nếu dùng tuệ thù thắng để phân tích, trừ pháp khác, thì nhận biết về nước kia mới không có. Cũng là thế tục đế. Không phải nước v.v… Khi được tuệ kia phân tích, trừ sắc v.v…, lại có thể ở trong ấy sinh nhận biết về nước v.v… Nên đối với vật kia, khi chưa phá vỡ phân tích, dùng danh, tưởng của thế gian nêu đặt ra là vật kia, vì nêu đặt là có, nên gọi là thế tục. Dựa nơi lý của thế tục, nói là có chiếc bình v.v… là thật, không phải giả, gọi là thế tục đế. Như lý của thế tục, nói là có. Nếu vật khác với thế tục này, gọi là thắng nghĩa đế. Nghĩa là nhận biết về vật kia, vật kia đã vỡ chẳng phải không có. Cùng tuệ phân tích trừ pháp khác, thì nhận biết kia vẫn có, gọi là thắng nghĩa đế. Cũng như sắc v.v… Vật như sắc v.v… phá vỡ nát thành phần vi tế, dần dần phân tích phần vỡ nát, cho đến cực vi. Hoặc dùng tuệ thù thắng phân tích trừ bỏ hương vị v.v… thì nhận biết sắc v.v… kia như gốc luôn còn. Thọ v.v… cũng vậy. Chỉ không phải là pháp sắc, nên không có phần tế. Không thể làm vỡ nát thọ v.v… kia để làm phần vi tế, cho đến cực vi.

Nhưng có thể dùng tuệ phân tích đến sát-na. Hoặc có thể phân tích, trừ các pháp v.v… như tưởng v.v… khác. Nhận biết về thọ v.v… kia như gốc luôn còn. Vì ở đây là chân thật có, nên gọi là thắng nghĩa. Do nơi tất cả thời thể luôn có. Dựa nơi lý của thắng nghĩa để nói là có sắc v.v… Là thật, không phải hư giả, gọi là thắng nghĩa đế. Như lý của thắng nghĩa nên nói là có.

Do bốn Thánh đế này đều thuộc về thắng nghĩa đế. Khi phân biệt vi tế thì sự nhận biết không bỏ. Các thế tục đế dựa vào lý của thắng nghĩa. Tự thể của thế tục là có hay là không? Nếu nói là có thì đế nên chỉ một. Nếu nói là không thì đế nên không hai. Ở đây, nên quyết định ghi nhận là có. Do Tôn giả Thế Hữu kia nói: Nghĩa hiển bày không có đảo lộn, gọi là thế tục đế. Ở đây gọi nghĩa của đối tượng hiển bày là thắng nghĩa đế, gọi là vật thật, như trước đã biện.

Há không phải là đã nói đế tức nên chỉ một. Lý thật phải như vậy. Vì không phải là thắng nghĩa không để có thể gọi là đế.

Vì sao lập hai?

Tức trong thắng nghĩa, dựa vào một ít lý riêng để lập là thế tục, không phải do thể khác. Vì sao như thế? Vì danh là ngôn y, tùy theo tánh lưu truyền khắp của tình thế tục, nên nương dựa nơi, nương dựa là nghĩa, nên nói lời này: Những gì là thế tục tất là thắng nghĩa? Có khi là thắng nghĩa mà không phải là thế tục. Nghĩa là chỉ trừ danh, còn lại là nghĩa thật có. Tức dựa nơi thắng nghĩa là trong nghĩa có, căn cứ theo phần ít lý gọi là thế tục đế.

Căn cứ theo phần ít lý, gọi là thắng nghĩa đế. Nghĩa là không có phân biệt về đối tượng nhận lấy của tướng chung, lý hợp một tướng, gọi là thế tục đế. Nếu có phân biệt về đối tượng nhận lấy của tướng riêng, hoặc là loại, hoặc là vật, gọi là thắng nghĩa đế. Như ở trong sự hữu lậu của một thể đã nhận lấy nghĩa của quả, gọi là khổ đế. Đã nhận lấy nghĩa của nhân, gọi là tập đế.

Hoặc như tâm tâm sở pháp của một thể, có đủ tánh của sáu nhân và bốn duyên. Do lý như thế, ở trong đế của Đức Đại Tiên Tôn đã giảng nói không hề có trái hại. Như nói một đế, lại không có đế thứ hai. Chỉ có một đạo, lại không có đạo khác.

Thể chung của bốn Thánh đế này là thế nào?

Là tất cả hữu vi và các trạch diệt. Do phiền não này là cảnh của Thánh đạo. Vì tánh của nhân quả nhiễm tịnh có sai biệt. Vì không, phi trạch diệt có tự thể. Vì là cảnh của chánh kiến nên cũng là thuộc về đế. Nhưng vì không phải phiền não là cảnh của Thánh đạo. Cũng không phải là tánh của nhân quả nhiễm tịnh. Cũng không phải là cảnh nơi đối tượng hành ưa thích, nhàm chán. Không phải là giác ngộ về cảnh kia mà được thành Thánh. Nên ở đây đã không tham dự để thuộc về Thánh đế.

Do đâu phiền não không duyên nơi pháp kia sinh?

Vì hai pháp kia là vô lậu, không thể trái hại pháp hữu lậu. Nghĩa là ái chỉ duyên nơi hữu lậu làm cảnh. Ưa thích pháp vô lâụ là trái với các hữu, nên không gọi là ái, vì là dục của pháp thiện. Nếu cảnh rất có thể thuận sinh tham ái, thì cảnh này hiện có khắp là đối tượng duyên của phiền não. Do là đối tượng duyên của ái, tức đối với diệt kia và diệt đạo kia, không muốn khởi nghi, hủy báng về không, phi trạch diệt. Cùng với đây trái nhau, nên quyết định không là cảnh giới của phiền não.

Há không phải là đối với các Sư như hai phái Thí dụ v.v… duyên nơi đấy, cũng sinh không muốn khởi nghi, hủy báng?

Đâu thể nói duyên nơi phiền não kia thì không sinh. Không phải duyên nơi phiền não kia sinh khởi vô trí, nghi, kiến, làm chướng ngại nơi việc chứng khổ diệt và khổ diệt đạo.

Như duyên nơi khổ v.v… thành tánh nhiễm ô. Vì sao A-la-hán đối với đường đạo v.v… cũng có vô trí, nghi, hủy báng hiện hành? Đâu có thể nói là phiền não nhiễm ô, thế nên đều là tánh không nhiễm ô. Do đấy nói là không duyên nơi phiền não kia.

Có thuyết cho: Không phải hủy báng về không, phi trạch diệt. Chỉ hủy báng về danh kia, không duyên nơi thể kia. Hai pháp này chỉ là cảnh giới của tục trí thiện.

Đối với các đế như khổ v.v…, vì sao không cũng như vậy?

Vì thế nên biết, trước đã nói là không có lỗi. Nay nên xét chọn.

Ở trong Thánh đế người cầu chân kiến đầu tiên tu nơi hành gì để cầu kiến Thánh đế?

Trong địa của nghiệp đầu đã tập hành nghi rất là nhiều rộng. Người muốn hiểu biết khắp, nên ở trong các Luận nơi hành quán đã tập của chúng Thánh, cầu học. Nói tóm lại, người mới tu hành, nên đối với giải thoát có đủ ý lạc sâu xa, quán đức của Niết-bàn, từ bỏ lỗi của sinh tử. Trước hết nên dùng phương tiện gần gũi bạn lành, vì bạn lành có thể làm gốc của chúng hành. Vì gồm sức như hiểu biết v.v… mới được mang tên bạn lành. Có khả năng đối với nhiều thứ căn cơ, như chỗ ứng hợp trao pháp, nên thân cận với bạn lành, được gọi là phạm hạnh hoàn toàn.

Hành giả đã được bạn lành thâu giữ có thể giảng nói chánh pháp nên tu hành nào? Tụng nêu:

Sắp hướng đạo kiến đế

Nên trụ giới siêng tu

Văn, tư, tu đã thành

Tức gọi cùng cảnh nghĩa.

Luận nói: Các hữu tình phát tâm, sắp hướng kiến đế, nên trước là an trụ nơi thi la thanh tịnh, sau đó siêng tu văn tạo thành v.v… Nên Đức Thế Tôn nói: Dựa trụ nơi thi la, ở trong hai pháp có thể siêng năng tu tập. Nghĩa là trước hết an trụ nơi giới thanh tịnh rồi, lại thường gần gũi các sư Du Già, thuận theo lời khuyên răn, truyền dạy của sư Du Già, tinh tấn, siêng năng, thâu nhận, thuận nghe kiến đế.

Nghe xong, siêng cầu được nghe nghĩa của pháp, khiến cho theo lời khuyên dạy của sư phát sinh trí tuệ tăng trưởng dần hơn, dần sáng, cho đến thuần thục. Không phải chỉ ở nơi đây sinh tâm biết đủ. Lại, đối với nghĩa của pháp, tự chuyên tư duy lựa chọn.

Như thế, như thế quyết định tuệ sinh. Tư tư duy làm nhân quyết định tuệ sinh rồi, có thể siêng tu tập hai thứ đối trị tự tướng, cộng tướng của các phiền não v.v…

Nay ở trong đây lược thâu tóm nghĩa. Nghĩa là người tu hành trụ nơi giới siêng tu, nương dựa nơi tuệ do văn tạo thành, khởi tuệ do tư tạo thành, dựa vào tuệ do tư tạo thành, khởi tuệ do tu tạo thành.

Tướng của ba tuệ này có sai biệt như thế nào?

Nghĩa là như thứ lớp duyên nơi danh đều cùng có cảnh của nghĩa. Lý thật thì ba tuệ nơi thời thành mãn, tất cả đều chỉ duyên nơi nghĩa làm cảnh. Bấy giờ, khó biện về tướng của ba tuệ có riêng khác, nên nay lại căn cứ theo phần vị gia hạnh để biện. Nói là văn, tư, tu duyên nơi danh đều cùng có nghĩa, không phải chỉ duyên nơi cảnh của danh. Vì có tuệ quyết định sinh, nên tuệ do văn tạo thành không chỉ duyên nơi cảnh của danh. Nhưng vì tùy thuận nơi sức của danh, cú, văn do sư đã nói, nên đối với nghĩa có sai biệt, tức có tuệ quyết định sinh. Tuệ này gọi là tuệ do văn tạo thành. Căn cứ theo phương tiện nhập để nói chỉ duyên nơi danh. Văn tuệ đã thành xong là nhận biết về nghĩa riêng.

Lại thêm tinh tấn, siêng năng, tự xét kỹ, tư duy, lựa chọn. Vì muốn cho sự việc xét chọn không có lỗi lầm, nên lại nhớ nghĩ đến danh, cú, văn thân do sư đã giảng dạy. Do đấy, nơi thời gian sau, đối với nghĩa sai biệt, sinh tuệ quyết định, gọi là tuệ do tư tạo thành. Nơi thời gia hạnh này, do sức của tư duy nghĩa, dẫn đến nhớ nghĩ về danh, nên nói duyên nơi cảnh đều cùng có. Tư tuệ thành xong, đẳng dẫn hiện tiền, không đợi danh ngôn chứng nghĩa sai biệt. Tuệ quyết định này gọi là tuệ do tu tạo thành. Nên Tỳ-bà-sa biện về tướng của ba tuệ, cho là nếu khi có tuệ ở nơi gia hạnh, do sức duyên nơi danh, dẫn sinh hiểu nghĩa, thì tuệ được dẫn này, gọi là tuệ do văn tạo thành. Nếu khi gia hạnh do sức của tư duy về nghĩa, dẫn nhớ nghĩ hiểu danh, do đấy về sau sinh tuệ quyết định, gọi là tuệ do tư tạo thành. Nếu không chờ đợi danh, chỉ quán nơi nghĩa, khởi tuệ nội chứng, gọi là tuệ do tu tạo thành.

Trong đây hai tuệ gọi là đã tạo thành, là nhân nơi sức của văn, tư, đã sinh khởi nghĩa. Tu tuệ thứ ba gọi là đã tạo thành, tức là dùng tu làm nghĩa của tự tánh. Như nói: Mạng khí là do thức ăn thật tạo thành.

Các hữu tình muốn đối với tu tinh tấn, siêng năng học, làm sao để thân khí tịnh, khiến tu chóng thành? Tụng nêu:

Đủ thân, tâm xa lìa

Không chẳng đủ dục lớn

Tức đã được, chưa được

Nhiều cầu danh, không có.

Trị cõi trái nhau ba

Vô lậu tánh không tham

Bốn Thánh chủng cũng vậy

Ba trước chỉ biết đủ

Ba sinh đủ nghiệp sau

Vì trị bốn ái sinh

Ngã sở, ngã sự, dục

Tạm dứt, đoạn trừ hẳn.

Luận nói: Thân khí thanh tịnh lược do ba nhân. Ba nhân đó là: (1) Thân tâm xa lìa. (2) Biết đủ, ít ham muốn. (3) Trụ nơi bốn Thánh chủng.

Nghĩa là người nếu muốn khiến tu chóng thành, chủ yếu trước hết là tinh tấn siêng năng làm thanh tịnh thân khí. Muốn khiến thân khí được thanh tịnh, thì chính là trước hết nên tu tập thân tâm xa lìa. Thân xa lìa nghĩa là tránh xa bạn xấu ác. Tâm xa lìa nghĩa là lìa tầm ác. Do thân, tâm vì xa lìa bạn ác, tầm ác, nên thân khí thanh tịnh, tâm dễ được định.

Hai thứ này do đâu dễ có thể thành?

Do đối với các thứ như y phục v.v… có hỷ túc (biết đủ), thiểu dục (ít ham muốn). Nói hỷ túc, nghĩa là không gì là không biết đủ. Thiểu dục, nghĩa là không có dục lớn. Các hữu tình nhiều mong cầu vật dụng hỗ trợ đời sống, ban ngày gần gũi bạn bè xấu ác, ban đêm khởi tâm tư ác, do đấy không sao khiến tâm được định.

Hai thứ đã không có sai biệt như thế nào?

Nghĩa là đối với các thứ y phục đẹp nhiều v.v… đã có được, giận không được gấp bội số lượng này là đẹp gấp bội. Tức ở trong đây đã hiển bày về cùng hơn gấp bội. Lại vì vui thích mong muốn, nên gọi là không biết đủ. Nếu đối với các thứ y phục v.v… đẹp nhiều chưa có được, mong cầu có được nên gọi là dục lớn. Các vật hiện có, đủ có thể đối trị khổ, nếu lại mong cầu nhiều, là vượt quá phẩm thiện. Là nghĩa trong đây, như Khế kinh nói: Tùy theo thân an vui đã có được, khiến tâm dễ định và có thể thuyết pháp. Do đấy, người mong cầu vật để đối trị khổ, là vì để hỗ trợ đạo, không phải là tạo lỗi lầm. Nên đối với duyên đã được có thể đối trị khổ, lại mong cầu đẹp nhiều, gọi là không biết đủ. Đối với các thứ như trên hoàn toàn chưa được lại mong cầu quá lượng, gọi là dục lớn. Là hai tướng riêng khác. Biết đủ, ít ham muốn có thể đối trị những thứ này, cùng với đây là trái nhau, nên biết là cùng dị biệt. Nghĩa là đối trị không biết đủ là trái nhau với không biết đủ, là tướng biết đủ có thể đối trị dục lớn. Trái nhau với dục lớn, là tướng ít ham muốn (thiểu dục). Là đối với các vật đã được có thể đối trị khổ, không mong cầu nữa, gọi là biết đủ. Đối với trường hợp chưa được các vật, có thể đối trị khổ, mong cầu không quá lượng, gọi là nghĩa ít ham muốn. Biết đủ, ít ham muốn, hệ thuộc cõi là chung nơi ba. Cũng có vượt qua ba.

Thuộc về vô lậu: Nghĩa là biết đủ, ít ham muốn tương ưng với tâm thiện thuộc cõi dục, thì chúng là hệ thuộc cõi dục. Vô lậu của hai cõi so sánh với đây nên nói. Vì hai thứ đối tượng đối trị chỉ hệ thuộc cõi dục.

Lấy gì để chứng biết?

Vì nơi cõi sắc, cõi vô sắc cũng có biết đủ, ít ham muốn, là chủ thể đối trị?

Vì hiện thấy có kẻ sinh tại cõi dục, khi từ cõi sắc, vô sắc cùng dẫn khởi, hai thứ đối tượng đối trị thì hiện hành xa, hai thứ chủ thể đối trị thì hiện hành tăng.

Đã nói về tướng riêng của biết đủ, ít ham muốn. Tướng chung của hai thứ đó là không tham, do cả hai đều cùng có thể đối trị tham. Tướng chung của đối tượng đối trị đó là dục tham. Thánh chủng nên biết, như nói về chủ thể đối trị. Nghĩa là cũng chung cho vô lậu của ba cõi là không tham. Như trong vô sắc, tuy không có cảnh oán đối, nhưng cũng có được căn thiện không sân. Nên trong vô sắc, tuy không có y phục v.v…, nhưng cũng có được căn thiện không tham. Như người kia không tham thân thì cũng không tham của cải, vật dụng. Nên nơi cõi vô sắc có đủ bốn Thánh chủng. Thánh giả thọ dục ở trong Thánh chủng, có ý lạc mà không có gia hạnh. Vì là chủng của chúng Thánh, nên gọi là Thánh chủng. Vì chúng Thánh đều từ bốn thứ này sinh, lần lượt kế thừa theo thứ lớp không dứt. Trước là chủng của sau, tức thế gian đã cực thành. Pháp thân của chúng Thánh đều từ nơi sức như đối với y phục v.v… sinh biết đủ v.v… đã dẫn khởi. Là tộc họ của Thánh nên được danh xưng Thánh chủng. Thể của ba thứ trước trong bốn thứ chỉ là hỷ túc (biết đủ). Nghĩa là đối với các thứ y phục, thức ăn uống, giường nằm, tùy trong chỗ đã có được đều sinh biết đủ. Ba thứ biết đủ này tức là ba Thánh chủng. Căn thiện không tham có nhiều phẩm loại, trong đó, nếu đối trị tham của không biết đủ thì điều này mới gọi là ba Thánh chủng trước.

Thánh chủng thứ tư nghĩa là lạc đoạn, tu đoạn, tức là tu ly hệ, gọi là lạc của Thánh đạo. Nghĩa là đối với Thánh đạo kia tình vui thích ngưỡng mộ sâu đậm, do vui đoạn dứt cùng tu tập, nên gọi là vui thích đoạn tu, tức là nghĩa vui mừng, ngưỡng mộ nơi diệt và đạo. Hoặc là tu tập của vui thích đoạn trừ, gọi là vui đoạn tu. Tức nghĩa vui mừng, hâm mộ đạo của diệt, vì chứng diệt trừ Hoặc, vui thích tu đạo. Do đấy, chủ thể đối trị có mà không có tham, nên ở đây cũng dùng không tham làm tánh.

Há không phải là loại thứ tư cũng có thể đối trị sân v.v…, tức nên cũng dùng không sân v.v… làm tánh?

Không phải là không có nghĩa này. Nhưng do ba thứ trước là tư lương, nên ba thứ ấy chỉ là tánh không tham. Đây cũng có thể đối trị tham, nên theo chỗ đã hiển bày để nói riêng.

Do đâu chỉ lập biết đủ làm Thánh chủng mà không phải là ít ham muốn?

Vì người ít ham muốn cùng ở nơi các vật dụng như y phục v.v… có mong cầu. Nghĩa là có tánh của ý lạc không kém, đối với cảnh chưa có được, không dám mong cầu nhiều. Nếu như đã được nhiều, thì cùng cầu cho đến hết. Người thấy biết đủ, chỗ đạt được có ít, hãy còn không mong cầu nữa, huống chi lại được nhiều. Nên chỉ biết đủ được kiến lập là Thánh chủng. Hoặc vì nhằm ngăn chận tâm dục của kẻ khổ hạnh, nên không nói ít ham muốn, dùng làm Thánh chủng. Không phải tâm của ngoại đạo kia có dục hơn hẳn mà thường có dục kém huân tập cùng nối tiếp.

Hoặc tùy theo chỗ đạt được, sinh tâm hoan hỷ, không còn vui thích mong cầu nữa, gọi là biết đủ. Đoạn trừ lạc của dục lạc, đấy là hơn hết. Hữu tình của cõi dục đa số ưa thích dục lạc. Ưa thích dục lạc này là trái với tâm xuất gia. Ở trong sự việc lìa dứt Hoặc, khiến tâm ám độn, có thể làm chướng ngại phạm hạnh, tĩnh lự hiện tiền, vì lỗi rất sâu. Do biết đủ có thể đối trị, nên chỉ biết đủ được kiến lập làm Thánh chủng. Không phải đối với các thứ như y phục v.v… chưa được nhiều, khi khởi tâm mong cầu sinh hoan hỷ, huống chi đối với ít. Thế nên ít ham muốn ở trong khả năng đối trị ưa thích dục lạc, không phải là hơn hết, nên không lập làm Thánh chủng.

Vì duyên nơi y phục v.v… đã sinh ra biết đủ, vì sao có thể nói đấy là vô lậu? Người nào nói biết đủ như thế là vô lậu? Nếu như vậy thì Thánh chủng đâu thể đều chung nơi vô lậu?

Do biết đủ kia tăng thượng đã sinh khởi Thánh đạo, vì được dẫn sinh do biết đủ kia, nên theo biết đủ ấy làm tên. Nên nói Thánh chủng đều chung nơi vô lậu. Không nói lời này: Biết đủ hiện có do duyên nơi y phục v.v… đều chung nơi vô lậu. Vô lậu nơi ít ham muốn căn cứ theo đấy nên giải thích. Nghĩa là ít ham muốn kia tăng thượng đã sinh khởi Thánh đạo. Vì ít ham muốn kia đã dẫn sinh, nên theo ít ham muốn ấy làm tên. Không phải Thánh đạo sinh do duyên nơi cảnh như y phục v.v…

Vì sao Đức Thế Tôn nói bốn Thánh chủng?

Do các đệ tử đã từ bỏ các thứ vật dụng sinh hoạt và sự nghiệp thế tục, quy Phật xuất gia. Vì Thánh chủng kia đã hiển bày chỉ rõ ở trong Thánh pháp, Tỳ-nại-da của Phật, có khả năng hỗ trợ sự nghiệp, vật dụng sinh của đạo. Nghĩa là có người ở nơi gia đình chán lìa sinh tử, xuất gia cầu giải thoát, thì cần có những vật dụng sinh sống nào. Ở trong các thứ như y phục v.v…, tùy chỗ đã có được sinh biết đủ sâu xa? Tạo nên sự nghiệp gì để cũng hết sức vui thích đoạn tu? Khác với đây thì không thể chứng đắc Niết-bàn.

Do đâu Thánh chủng chỉ có bốn, không thêm không bớt?

Vì ngang với đây là đầy đủ nhân sinh Thánh. Nghĩa là nhân sinh khởi Thánh lược có hai thứ: (1) Trừ bỏ lỗi lầm. (2) Gồm thâu tiếp đãi công đức.

Như thứ lớp tức là ba thứ trước và thứ tư. Thế nên chỉ có bốn, không thêm không bớt. Hoặc các thiện được thành tựu do văn, tư, tu, đều là Thánh chủng, vì là chỗ dựa của giải thoát. Nhưng vì nhằm đối trị bốn thứ ái sinh, thế nên Đức Thế Tôn lược nói bốn thứ, do Khế kinh nói có bốn ái sinh. Tức như Khế kinh nói: Bí-sô nên lắng nghe! Ái nhân nơi y phục, lúc nên sinh thì sinh, lúc nên trụ thì trụ, lúc nên nắm giữ thì nắm giữ. Ái như thế nhân nơi thức ăn uống, giường nằm và có không có đều nói như vậy.

Vì nhằm đối trị bốn thứ này, nên chỉ nói bốn Thánh chủng.

Biết đủ về thuốc men, vì sao không phải là Thánh chủng?

Vì không nói ở nơi thuốc men kia có ái sinh. Vì đối trị ái sinh nên kiến lập Thánh chủng. Vì kinh chỉ nói có bốn thứ ái sinh, thế nên đối với thuốc men không lập Thánh chủng. Hoặc tức gồm thâu trong ba thứ trước. Nghĩa là thuốc men có khi được gồm thâu trong y phục, có khi được gồm thâu ở trong thức ăn uống, có khi được gồm ở trong giường nằm, tọa cụ. Nên biết đủ về thuốc men, không lập riêng Thánh chủng. Hoặc nếu ở trong ấy, dẫn sinh các lỗi lầm như kiêu mạn v.v…, vì đối trị chúng, nên kiến lập Thánh chủng. Đối với thuốc men không có dẫn sinh các lỗi như kiêu mạn v.v…, nên Thánh chủng không có ở nơi biết đủ về thuốc men. Hoặc tất cả người đều thọ dụng, thì đối với biết đủ về thuốc men kia, có thể lập Thánh chủng. Không phải như Tôn giả Phược-củ-la v.v… kia, vì từng không có bệnh, nên không thọ dụng thuốc. Hoặc nơi tất cả thời gian nên thọ dụng, thì đối với biết đủ về thuốc men kia, có thể lập Thánh chủng. Do không phải tất cả thời đều thọ dụng thuốc. Hoặc nơi Y phương luận cũng thấy nói có. Đối với biết đủ về thuốc men, trong Tỳ-nại-da mới thấy nói có biết đủ về y phục v.v… Vì Thánh chủng chỉ có ở nơi pháp nội.

Có người nói: Tuy có biết đủ về thuốc men, nhưng không kiến lập làm Thánh chủng, vì các thứ thuốc đều có khả năng thuận với phạm hạnh. Nghĩa là thế gian hiện thấy người ưa thích học giới, vì biết đủ về thuốc men đã làm chướng ngại phạm hạnh. Hoặc Đức Phật vì nhằm tạm dứt cùng vĩnh viễn trừ các sự dục của ngã, ngã sở, nên nói bốn Thánh chủng. Nghĩa là vì tạm thời dứt các sự dục của ngã sở, nên nói ba Thánh chủng trước. Vì diệt trừ vĩnh viễn phần trước cùng sự dục của ngã, nên nói Thánh chủng thứ tư.

Ngã chấp ngã sở chấp được lập do tên dục. Nghĩa là vì tạm thời dứt trừ ngã sở chấp, nên Đức Thế Tôn nói ba Thánh chủng trước. Tức đối với các thứ như y phục v.v… đã sinh khởi biết đủ và biết đủ kia tăng thượng đã dẫn sinh Thánh đạo. Vì diệt trừ vĩnh viễn phần trước và sự ngã chấp, nên Đức Thế Tôn nói Thánh chủng thứ tư. Tức ưa thích đoạn tu và ưa thích đoạn tu kia tăng thượng đã dẫn đến Thánh đạo, đều gọi là Thánh chủng. Ý của môn này là làm rõ vì khiến hữu thân kiến tạm thời dứt cùng vĩnh viễn trừ bỏ, nên giảng nói bốn Thánh chủng.

Như thế là đã nói về đối tượng ứng hợp của hành giả sắp hướng đến kiến đế, cần tu hành và tu hành xong.

Vì tu chóng thành đối trị làm thanh tịnh thân khí nên đã tập hợp tư lương của Thánh đạo như vậy. Muốn chính thức nhập tu thì do môn nào để nhập? Tụng nêu:

Nhập tu, chính hai môn

Quán bất tịnh, tức niệm

Kẻ tham tầm tăng thượng

Như thứ lớp nên tu.

Luận nói: Vì hành riêng khác của các loài hữu tình là rất nhiều, nên nhập nơi môn tu cũng có nhiều thứ. Nhưng các hữu tình kia phần nhiều dựa vào hai môn để nhập: (1) Quán bất tịnh. (2) Trì tức niệm (Quán sổ tức).

Nên chỉ hai pháp này gọi là môn chủ yếu. Là các hữu tình khi nhập tu đều do hai môn ấy chăng? Không phải vậy. Như thứ lớp những người tham tầm tăng. Vì người tham tăng thì nhập dựa vào môn đầu.

Người tầm tăng thượng thì nhập dựa vào tức niệm. Như không phải một chứng bệnh, một thứ thuốc có thể dứt trừ. Căn cứ ở môn đối trị gần nói quán bất tịnh, có thể đối trị bệnh tham, không phải là không đối trị bệnh khác. Trì tức niệm đối trị tầm nên biết cũng như vậy. Nhưng trì tức niệm vì duyên nơi cảnh vi tế không có sai biệt. Vì đối tượng duyên hệ thuộc nơi sự cùng nối tiếp của chính mình, nên không phải như quán bất tịnh, vì duyên nhiều nơi cảnh ngoài, nên quán ấy có thể dứt trừ tầm loạn.

Đã nói chung về những hữu tình tham tầm tăng nhập tu như thứ lớp, do hai môn trước. Trong đây, trước hết nên biện về quán bất tịnh. Tướng của quán như thế là thế nào? Tụng nêu:

Vì trị chung bốn tham

Lại biện quán xương kết

Rộng đến biển lại lược

Gọi vị mới tập nghiệp.

Trừ chân đến nửa đầu

Gọi tu đã thành thục

 Buộc tâm giữa chân mày

Gọi vượt vị tác ý.

Luận nói: Tu quán bất tịnh chính là đối trị tham. Nhưng tham có sai biệt lược có bốn thứ: (1) Tham hiển sắc. (2) Tham hình sắc. (3) Tham xúc diệu. (4) Tham được cung phụng.

Đối trị bốn thứ tham, dựa nơi hai xét chọn: (1) Quán tử thi bên trong. (2) Quán tử thi bên ngoài.

Người lợi căn đầu tiên dựa vào quán trước. Người độn căn đầu tiên dựa vào quán sau. Nghĩa là người lợi căn, trước ở nơi da của thân bên trong làm biên vực. Trên chân dưới đỉnh đầu, quán xét trọn khắp khiến tâm chán bỏ. Nếu là người độn căn do căn chậm, nên đối với phiền não mãnh liệt, khó có thể điều phục, phải nhờ sức của duyên bên ngoài mới có thể đối . Nên trước phải quán xét rõ ràng về tử thi bên ngoài, dần dần khiến phiền não của tự tâm được điều phục. Nghĩa là người kia, đầu tiên khi muốn quán tử thi bên ngoài, trước khởi tâm từ đi đến xứ bỏ thân, quán tướng của tử thi bên ngoài để so sánh với thân trong. Tướng kia đã như vậy, thì tướng đây cũng như vậy. Nên tu tám tưởng để điều phục đối trị bốn tham.

Vì điều phục đối trị tham hiển sắc, nên tu tưởng xanh bầm và tưởng đỏ sậm.

Vì nhằm điều phục đối trị tham hình sắc, nên tu tưởng bị cắn xé và tưởng phân lìa.

Vì điều phục đối trị tham xúc diệu, nên tu tưởng vỡ nát hủy hoại và tưởng hài cốt.

Vì nhằm điều phục đối trị tham được cung phụng, nên tu tưởng sình trướng và tưởng mủ máu tan rữa.

Thừa nhận duyên nơi vòng xích xương để tu quán bất tịnh, tức có thể điều phục đối trị chung bốn thứ tham như thế, vì trong một vòng xích xương đủ để lìa cảnh của bốn tham. Nên lại biện về tu quán vòng xích xương. Nhưng vào lúc dẫn phát các căn thiện, Bổđặc-già-la, căn cứ theo đối tượng tu hành nói có ba phần vị: (1) Đầu tiên tập nghiệp. (2) Tu đã thành thục. (3) Vượt quá tác ý.

Lại, người hành quán khi muốn tu quán bất tịnh như thế, trước nên buộc tâm nơi phần thân mình, hoặc ở nơi ngón chân, hoặc ở giữa chân mày, hoặc ở giữa sống mũi, hoặc ở nơi trán v.v…, tùy nơi xứ được ưa thích, chuyên chú không dời, vì khiến cho đẳng trì được vững chắc. Theo nhập rồi bỏ, gọi là đầu tiên tập nghiệp.

Nói nhập là làm rõ về việc buộc tâm đầu tiên. Giả tưởng từ các xứ như thân, chân, ngón tay v.v…, dưới đến có thể thấy xương trắng lượng như đồng tiền. Do sức của thắng giải khiến rộng dần, tăng dần, cho đến thấy đủ bộ xương của toàn thân. Nghĩa là ở nơi phần vị này, các Sư Du Già giả tưởng tư duy về da thịt rữa nát, rơi rụng, dần dần khiến thành xương sạch, lượng đầu tiên như đồng tiền, cho đến khắp thân, đều thành xương trắng. Sư Du Già kia ở nơi phần vị này có nhiều tưởng chuyển.

Nói tưởng chuyển là hiển bày về việc không bỏ đối tượng duyên, thường thường chuyển sinh tưởng thắng giải khác.

Có Sư khác cho: Hành quán chưa thành, tác ý chỉ do sức của tưởng nên chuyển. Hành quán thành rồi, tức do sức của tuệ. Vì ở phần vị này chưa thành, nên do tưởng chuyển. Nên biết trong đây đã nói tác ý, là làm rõ chung về tất cả tâm tâm sở pháp, đều do sức của tưởng cùng nối tiếp mà chuyển. Thấy toàn thân xong, lại dùng phương tiện nhập nơi môn quán bất tịnh duyên vào xương trắng bên ngoài. Nghĩa là vì dần dần khiến thắng giải tăng. Quán vòng xích xương bên ngoài tại biên tự thân, dần khắp một giường nằm, một phòng, một chùa, một vườn, một ấp, một giới, một nước, cho đến khắp đại địa, dùng biển làm biên vực, ở trong khoảng rộng ấy, bộ xương kia đều đầy khắp. Vì khiến thắng giải lại tăng dần, đối với sự đã mở rộng, lược dần mà quán, cho đến chỉ quán bộ xương của thân mình.

Ngang với đây thì quán bất tịnh theo lược dần đã thành, gọi là phần vị đầu tiên tập nghiệp của Sư Du Già. Vì khiến thắng giải theo lược quán tăng dần, nên ở trong xương trắng, lại bỏ xương chân, tư duy về xương khác, buộc giữ tâm mà trụ. Dần dần cho đến bỏ phần nửa xương đầu, tư duy về một nửa xương, buộc giữ tâm mà trụ.

Ngang tới đây thì quán bất tịnh lược chuyển là thành, gọi là phần vị tu đã thành thục của Sư Du Già.

Vì khiến lược quán có thắng giải tự tại, lại bỏ nửa xương đầu, buộc giữ tâm ở khoảng giữa chân mày, chuyên chú nơi một duyên, yên lặng mà trụ.

Đến đây thì lược quán bất tịnh là cực thành, gọi là phần vị vượt quá tác ý của Sư Du Già. Nên biết đến đây tức quán bất tịnh hoàn thành, các sự việc nên làm đều đạt cứu cánh. Nên đối tượng duyên tự tại, hoặc nhỏ, hoặc lớn, nên tạo ra bốn trường hợp, như lý nên tư duy. Tùy thuận dục mà quán, vì để điều phục phiền não, nên không gọi là điên đảo, được gọi là thiện.

Quán bất tịnh này lấy gì làm tánh? Bao nhiêu địa duyên nơi cảnh nào? Nơi xứ nào sinh khởi hành tướng nào? Duyên nơi đời nào, là hữu lậu hay là vô lậu? Là lìa nhiễm đắc hay là gia hạnh đắc? Tụng nêu:

Tánh không tham mười địa

Duyên dục, sắc, người sinh

Bất tịnh tự đời duyên

Hữu lậu, chung hai đắc.

Luận nói: Như trước đã hỏi, nay theo thứ lớp mà đáp. Nghĩa là quán bất tịnh này dùng không tham làm tánh. Tác ý trái ngược làm nhân dẫn khởi. Chán ghét trừ bỏ cùng với tham là trái nhau. Nên biết trong đây gọi là quán bất tịnh, tức nên là tuệ, thì lý cũng không hợp.

Vì quán nơi đối tượng thuận. Nghĩa là quán bất tịnh có thể đối trị gần tham, nên chính là dùng không tham làm tánh. Tham nhân nơi tướng tịnh, do sức của quán dứt trừ, nên nói không tham là đối tượng thuận của quán. Các quán bất tịnh đều là không tham, nhưng không phải các thứ không tham đều là quán bất tịnh. Chỉ có thể điều phục đối trị các tham như tham hiển sắc v.v… mới gọi là Thể của quán này.

Đây là căn cứ theo tự tánh, nếu gồm luôn tùy hành, thì dùng đủ bốn uẩn, năm uẩn làm tánh. Dựa chung nơi mười địa, nghĩa là bốn tĩnh lự và bốn cận phần, trung gian cùng cõi dục. Chỉ từng ấy địa thì quán ấy cùng có. Nên quán này chỉ duyên nơi cảnh của sắc xứ thuộc cõi dục, vì hiển hình nơi cõi dục là cảnh của quán này.

Nếu như vậy thì vì sao trong Khế kinh nói: Luật nghi của nhĩ căn đã phòng hộ thì trụ nơi quán bất tịnh, cho đến nói rộng. Lời nói này là nói về những người bị sắc tham điều phục. Những người ấy tất do vì duyên nơi tham về âm thanh v.v… bị khuất phục. Nên người muốn điều phục duyên tham sắc, tất trước nên trụ nơi luật nghi của nhĩ căn, do đấy mới có thể trụ nơi quán bất tịnh.

Có thuyết nói: Quán này chỉ dựa vào ý thức, có thể dẫn phát hành tướng trái ngược khác. Nên nếu có trụ nơi luật nghi của nhĩ căn, thì người ấy tất nên trước trụ nơi quán bất tịnh. Do sức của quán bất tịnh này có khả năng duyên khắp nơi tất cả sắc xứ thuộc về cõi dục.

Nếu cho Tôn giả A-nê-luật-đà không thể quán về các thiên nữ để tạo bất tịnh. Tôn giả Xá-lợi-tử v.v… đối với sắc thân của Phật cũng không thể quán để cho là bất tịnh, thì vì sao nói quán này duyên khắp sắc của cõi dục?

Vấn nạn này là không hợp. Vì Tôn giả Thắng Vô Diệt có thể quán sắc của trời là bất tịnh. Đức Phật có thể quán sắc thân vi diệu của Phật là bất tịnh. Do đấy, quán này nhất định có thể duyên khắp sắc của cõi làm cảnh.

Do đấy, đã làm rõ duyên nơi nghĩa không phải danh. Cũng đã hiển bày thành duyên chung nơi ba tánh.

Người đầu tiên tập nghiệp: Chỉ dựa nơi nẻo người tức có thể sinh quán này. Không phải nơi châu Bắc câu lô và trong nẻo trời, vì không có các thứ như sắc xanh bầm v.v… Không thể đầu tiên khởi, trước ở đây khởi, sau sinh nơi xứ kia, cũng được hành tướng của quán này hiện tiền. Chỉ vì bất tịnh chuyển là tánh thiện, tức thể nên là tịnh. Vì căn cứ theo hành tướng, nên nói là bất tịnh, là thuộc về thân niệm trụ, là gia hạnh không phải căn bản. Tuy cùng với ba căn thiện lạc, xả tương ưng, nhưng nhàm chán đều cùng hành, như khổ tập nhẫn trí . Tùy thuận ở đời nào? Duyên nơi cảnh của đời mình.

Nếu pháp không sinh thì duyên chung nơi ba đời. Hành tướng của quán này không thuộc về mười sáu hành như vô thường v.v…, nên chỉ là hữu lậu. Chung nơi gia hạnh đắc và lìa nhiễm đắc. Do khi lìa nhiễm của địa kia, được các định kia, cũng tức đạt được quán này của địa kia. Lìa nhiễm đắc rồi, vào thời gian càng về sau, cũng do gia hạnh khiến được hiện khởi. Người chưa lìa nhiễm thì chỉ do gia hạnh đắc. Ở đây tất cả Thánh và phàm phu của hữu sau cùng đều chung cho chưa từng được. Số còn lại chỉ là từng được.

Nói về tướng của quán bất tịnh có sai biệt xong. Tiếp theo nên biện về trì tức niệm. Tướng này có sai biệt như thế nào? Tụng nêu:

Tức niệm, tuệ năm địa

Duyên gió, dựa thân dục

Hai đắc thật ngoài không

Có sáu, nghĩa là số.

Luận nói: Nói tức niệm: Tức trong Khế kinh đã nói là niệm A na A ba na.

Nói A na: Nghĩa là giữ hơi thở vào (trì tức nhập), là nghĩa dẫn gió bên ngoài khiến đi vào thân. A ba na: Nghĩa là giữ hơi thở ra (trì tức xuất), là nghĩa dẫn gió bên trong khiến ra khỏi thân. Như Khế kinh nói: Bí-sô nên biết! Giữ hơi thở vào là uống hớp gió bên ngoài khiến đi vào trong thân. Giữ hơi thở ra là xua đẩy gió bên trong khiến ra ngoài thân. Tuệ do sức của niệm quán hơi thở này làm cảnh, nên gọi là niệm A na A ba na.

Có Sư khác cho: Nói A na: Nghĩa là có thể mang đến. A ba na: Nghĩa là có thể mang đi. Ý của lời nói này là nêu rõ về hơi thở vào, hơi thở ra có nghĩa có thể mang giữ. Tuệ do niệm về hơi thở này nên được mang tên niệm ấy.

Biện về gió hệ thuộc thân lược có sáu thứ: (1) Gió của hơi thở vào. (2) Gió của hơi thở ra. (3) Gió phát ngữ. (4) Gió trừ bỏ. (5) Gió tùy chuyển. (6) Gió động thân.

Nghĩa là phần vị ở nơi thai, noãn của các hữu tình, trước hết ở chỗ rốn, theo nghiệp sinh gió khởi, xuyên suốt thân, thành lỗ, như cộng rễ ngó sen. Đầu tiên có gió đi đến vào trong thân, nhân nơi miệng mũi ở đây, gió khác nối tiếp vào. Khởi đầu này và sau, gọi là gió của hơi thở vào. Gió của hơi thở vào này, vừa đến trong thân, thì có gió nối tiếp đi ra, gọi là gió của hơi thở ra. Như thợ rèn mở miệng lò bễ thì tự nhiên gió ập vào. Tánh của gió theo pháp như thế, chỉ có lỗ hổng, tất theo đấy mà vào. Vào rồi thì dừng lại, khiến gió kia trở lại đi ra. Hơi thở vào, hơi thở ra, theo thứ lớp cũng như vậy. Về lý thật thì gió này không có vào, không có ra, chỉ chuyển động như thế, là có thể làm tổn ích thân. Trong đạo cùng nối tiếp, giả gọi là vào ra. Ở phần vị chuyển của hơi thở vào, có khả năng xua đuổi các vật xú uế, cấu nhiễm, hư nát từ trong thân ra, tăng trưởng giới lửa, khiến thân cử động nhẹ nhàng. Khi chuyển hơi thở ra, thì có thể trừ bỏ các thứ hơi nóng dồn tụ làm giảm giới lửa, khiến thân thêm nặng nề.

Gió phát ngữ: Nghĩa là có gió riêng, tức dục là ưu tiên, lần lượt dẫn phát ngữ, tâm khởi đã khiến tăng thịnh, sinh từ nơi rốn, lưu chuyển, xông lên yết hầu, kích động dị thục sinh, nuôi lớn đại chủng, dẫn tánh đẳng lưu, khiến đại chủng của gió sinh, cổ động nơi môi, lưỡi, lợi răng có sai biệt. Do thế mạnh này đã dẫn khởi vị lai, làm sáng rõ danh, cú, văn, tạo ra tự tánh của sắc. Gió này ở trong miệng gọi là ngữ, cũng là nghiệp. Lúc chuyển ra ngoài chỉ gọi là ngữ. Tâm sinh đại chủng, lý ấy cực thành. Nghĩa là thấy tâm tham sân si khởi, mặt có sắc lẫn lộn ướt khô khác thường. Lại, cũng truyền nghe kẻ ôm giữ sân độc, khuôn mặt sinh lửa cháy, không có tâm từ, vì tham dẫn lửa sinh thiêu đốt thân v.v…

Gió trừ bỏ: Nghĩa là có gió riêng, tùy tiện đi đường, có thể loại trừ hai thứ cấu uế, do cấu uế bức bách bên trong có khổ thọ sinh. Do khổ thọ sinh đã phát khởi trừ bỏ dục. Vì trừ bỏ dục nên dẫn khởi tâm gió. Tâm này khởi gió, thành nghiệp trừ bỏ. Lại, sức của gió này khiến thân an ổn.

Gió tùy chuyển: Nghĩa là có gió riêng, thuận theo khắp các lỗ chân lông nơi chi thân chuyển. Do đấy nên được mang tên gió tùy chuyển. Gió này không dựa nơi tâm, chỉ dựa nơi sức của nghiệp, theo lỗ hổng của thân, tự nhiên lưu hành. Do gió này có thể trừ bỏ các vật xú uế, cấu nhiễm, mục nát đã bám dính nơi các lỗ trống kia.

Gió động thân: Nghĩa là có gió riêng, có thể kích động thân, dẫn khởi biểu nghiệp. Nên biết gió này khởi, lấy tâm làm nhân, khắp các thân chi có thể tạo kích động. Vì hiển bày về nghĩa của gió, nhân đấy đã biện về sáu thứ gió. Nhưng ở trong đây, chính nêu rõ về hai thứ hơi thở, ý ở đây là biện về trì tức niệm. Tự tánh của niệm này là tuệ, không phải pháp khác, do trong Khế kinh nói từ nhận biết rõ. Phẩm này vì niệm là hơn, nên được mang tên niệm. Do sức của niệm ghi nhận giữ gìn lượng hơi thở vào ra. Vì làm rõ duyên nơi hơi thở mà định, tuệ được thành. Do công năng của niệm, nên nói là niệm, và tùy theo tánh hành, nên căn cứ ở môn trước, đối tượng nương dựa của niệm này, chỉ chung nơi năm địa. Nghĩa là dựa nơi cõi dục, tĩnh lự trung gian và cận phần của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ ba.

Do đấy chỉ cùng với xả căn tương ưng. Vì đối trị tầm, nên tu niệm này. Các thọ như khổ, lạc v.v… có thể thuận để dẫn phát các tầm như thân thuộc v.v…, nên đối trị tầm, chủ yếu là tự nhiên thọ phần vị hiện ở trước.

Có thuyết nói: Ba tĩnh lự căn bản dưới đang ở tại phần vị định cũng có xả thọ.

Thuyết kia nói niệm này nương dựa chung nơi tám địa, vì hơi thở hiện tiền của định trên thì không có. Niệm này chỉ duyên nơi gió của hơi thở làm cảnh, không phải duyên chung nơi sáu gió như ở trên đã nói. Niệm này đầu tiên dựa nơi thân của cõi dục khởi, chỉ nơi nẻo người, trời, trừ châu Bắc câu lô. Chỉ do gia hạnh đắc, không phải lìa nhiễm đắc.

Người chưa lìa nhiễm, quyết định là do gia hạnh nên hiện ở trước, không phải thuộc về địa lìa nhiễm đắc.

Đã nói đều là thuộc về địa cận phần, không phải là căn bản. Lại, niệm này chỉ là gia hạnh thù thắng dẫn khởi, không nên nói niệm này có lìa nhiễm đắc. Niệm này chỉ tương ưng với tác ý chân thật.

Có thuyết cho: Cũng chung cho tác ý thắng giải. Hữu tình trong chánh pháp mới có thể tu tập. Ngoại đạo thì không có.

Vì không có người giảng nói, nên ngoại đạo kia không thể nhận biết về pháp vi tế. Niệm này cùng với ngã chấp là hoàn toàn trái nhau. Vì ngã chấp kia có nên niệm này không có.

Do đủ sáu nhân nên tướng của niệm này viên mãn. Sáu nhân đó là: (1) Đếm. (2) Tùy. (3) Chỉ. (4) Quán. (5) Chuyển. (6) Tịnh.

Đếm: Nghĩa là buộc giữ tâm để đếm hơi thở ra vào, từ một đến mười, không giảm, không tăng, do e ngại tâm ở nơi cảnh là rất tụ tán. Nhưng ở trong đây cùng có ba lỗi: (a) Lỗi đếm giảm. (b) Lỗi đếm tăng. (c) Lỗi đếm lẫn lộn.

Lại có ba lỗi: (a) Lỗi rất chậm. (b) Lỗi rất gấp. (c) Lỗi tán loạn.

Nếu trong khoảng mười số mà tâm tán loạn, lại nên từ một, theo thứ lớp đếm đến cuối cùng rồi lại bắt đầu đếm, cho đến khi được định. Phàm khi đếm hơi thở, nên trước là đếm hơi thở vào, vì nơi phần vị mới sinh, thì hơi thở vào ở trước. Cho đến khi chết thì hơi thở ra là sau cùng.

Vì xét biết về phần vị sống chết như thế, nên ở nơi tưởng vô thường có thể tu tập dần.

Tùy: Nghĩa là buộc giữ tâm theo hơi thở vào ra, niệm hơi thở vào ra là ngắn hay là dài, là xa, đến đâu thì lại quay trở lại? Lại niệm hơi thở vào là vận hành khắp thân hay là vận hành một phần? Theo hơi thở vào kia vận hành đến yết hầu, tim, rốn, đùi vế, đầu gối, ống chân, gót chân, ngón chân, ngón tay, niệm luôn gắn liền.

Chỉ: Nghĩa là buộc giữ niệm chỉ ở nơi đầu mũi, hoặc ở khoảng giữa chân mày, cho đến ngón chân. Tùy thuận nơi xứ được ưa thích, dừng yên ở nơi tâm. Quán hơi thở trụ tại thân, như sợi chỉ trong chuỗi ngọc. Là lạnh, là ấm, là tổn giảm, là tăng ích.

Quán: Nghĩa là quán sát gió hơi thở này rồi, gồm luôn việc quán hơi thở đều cùng có sắc được tạo của đại chủng và dựa vào sắc trụ ở tâm cùng tâm sở. Quán đủ năm uẩn dùng làm cảnh giới.

Chuyển: Nghĩa là di chuyển, là duyên nơi chỗ nhận biết gió hơi thở, đặt yên, càng về sau, trong căn thiện hơn hẳn. Nghĩa là niệm trụ là đầu đến pháp thế đệ nhất.

Tịnh: Nghĩa là thăng tiến, nhập kiến đạo v.v…

Có Sư khác nói: Niệm trụ là đầu, định kim cang dụ là sau, gọi là chuyển. Đạt được tận trí v.v… mới gọi là tịnh. Tướng của hơi thở có sai biệt như thế nào, nên biết. Tụng nêu:

Thở vào ra theo thân

Dựa hai, sai bịêt chuyển

Số tình, không chấp thọ

Đẳng lưu không duyên dưới.

Luận nói: Tùy theo thân sinh nơi địa hơi thở tức thuộc về địa kia, do hơi thở là thuộc về một phần của thân. Hơi thở vào ra này chuyển là dựa nơi thân, tâm có sai biệt. Nên Bản luận nói hơi thở dựa nơi thân chuyển, cũng dựa nơi tâm chuyển. Tùy nơi đối tượng ứng hợp kia gồm đủ bốn duyên, nên hơi thở mới được chuyển. Dựa vào lý này để nói câu tùy nơi đối tượng ứng hợp, là làm rõ hơi thở tất dựa vào thân tâm nên có sai biệt.

Nói bốn duyên: (1) Hơi thở vào ra đã nương dựa nơi thân. (2) Lỗ chân lông mở ra. (3) Đường gió thông suốt. (4) Địa của hơi thở vào ra là tâm thô hiện tiền.

Trong bốn duyên này, theo đấy có thiếu thì hơi thở liền không chuyển. Hơi thở vào ra này thuộc về số hữu tình. Trong thân không có giác thì hơi thở không có. Là tuy từ bên ngoài đến mà hệ thuộc nơi nghĩa bên trong. Hơi thở vào ra này không có chấp thọ, vì hơi thở thiếu giảm tướng chấp thọ. Trong thân tuy có gió có chấp thọ, nhưng gió của hơi thở này chỉ là không chấp thọ. Thể của hơi thở vào ra này là đẳng lưu, là quả được sinh ra do nhân đồng loại. Trong thân tuy có gió dị thục nuôi lớn, nhưng gió của hơi thở này chỉ là tánh đẳng lưu. Ở phần vị thân tăng trưởng, thì hơi thở liền tổn giảm. Khi thân tổn giảm thì hơi thở tăng trưởng. Không phải là được nuôi lớn. Vì đoạn rồi thì về sau lại cùng nối tiếp. Không phải là dị thục sinh, vì sắc của dị thục khác không có tướng này. Chỉ tự địa và địa trên là đối tượng quán của tâm, không phải là cảnh nơi đối tượng duyên của tâm thuộc địa dưới. Nghĩa là sinh nơi cõi dục, khởi tâm của cõi dục. Hơi thở của cõi dục nơi thân cõi dục kia dựa vào tâm nơi cõi dục chuyển, tức cõi kia là đối tượng quán của tâm. Nếu sinh nơi cõi dục, khởi tâm của định thứ nhất, thì hơi thở của cõi dục nơi thân của cõi dục kia dựa vào tâm của định thứ nhất chuyển. Tức định kia là đối tượng quán của tâm. Khởi tâm của định hai, ba đều căn cứ theo trước. Nên nói sinh nơi tĩnh lự thứ nhất, khởi tâm của ba địa. Sinh hai, sinh ba thì khởi hai, khởi tự. Căn cứ theo sinh nơi cõi dục, như lý nên nêu rõ. Nếu sinh ở địa trên, khởi tâm của địa dưới, thì hơi thở của địa trên nơi thân của địa trên kia dựa vào tâm của địa dưới chuyển, không phải địa kia là đối tượng quán của tâm.

Như thế, hơi thở của cõi dục là đối tượng quán của tâm nơi bốn địa. Hơi thở của định một, hai, ba, như thứ lớp đó, là đối tượng quán của tâm nơi tự địa và địa ba hai. Có hơi thở nơi địa bốn, không có hơi thở nơi địa năm. Trụ nơi địa có hơi thở, khởi tâm của địa không có hơi thở, hơi thở tất không chuyển. Trụ nơi địa không có hơi thở, khởi tâm của địa có hơi thở, hơi thở cũng không chuyển. Trụ nơi địa có hơi thở, khởi tâm của địa có hơi thở, tùy nơi đối tượng ứng hợp kia thì có hơi thở vào ra chuyển.

Đã biện về tướng thành mãn của trì tức niệm.

Vì sao? Tức nên nói lời này: Nếu người hành quán, trụ nơi tưởng quán hơi thở vi tế, lưu chuyển từ từ. Nghĩa là tưởng khắp thân, như ống sáo một lỗ, gió của hơi thở liên tục như xâu báu Mạt ni, không thể chuyển động thân, thì không phát khởi thân thức. Ngang với đây nên nói trì tức niệm là thành.

Có Sư khác nói: Các sự việc đã làm xong tăng trưởng tự tại, gọi là niệm này thành tựu. Chữ tăng trưởng đầu tiên là làm rõ về ba phẩm hạ trung thượng của trì tức niệm theo thứ lớp thành lập, cho đến khi hoặc tùy theo chỗ ưa thích có thể thở vào, có thể thở ra, gọi là tự tại. Nếu ở nơi phần vị này có thể thâu giữ tăng ích cho thân, xa lìa tham đắm, nương dựa vào tầm, thì gọi là các sự việc đã làm xong.

Có Sư khác cho: Nếu gồm đủ sáu tướng, xa lìa ba lỗi. Hoặc nếu tu đầy đủ mười sáu thứ hành tướng thù thắng. Đến mức này nên nói là trì tức niệm đã thành tựu.

Kinh nói: Trì tức niệm có mười bảy thứ. Nghĩa là niệm hơi thở vào ra, nhận biết rõ là ta đã niệm hơi thở vào ra. Hơi thở vào ra ngắn dài, nhận biết khắp thân. Dừng nơi thân hành, nhận biết hỷ, nhận biết lạc, nhận biết tâm hành. Dừng nơi tâm hành, nhận biết tâm, khiến tâm hoan hỷ, khiến tâm thâu giữ, khiến tâm giải thoát. Tùy quán vô thường, tùy quán đoạn, tùy quán lìa, tùy quán diệt.

Như thế, mỗi mỗi đều tự nhận biết rõ. Trong mười bảy thứ này, đầu tiên là quán chung, mười sáu thứ sau là quán sai biệt.

Căn cứ theo bốn niệm trụ, như thứ lớp nên biết, đều có bốn môn, thành mười sáu thứ.

Vì sao nhận biết tâm hành có thể thuộc về thọ niệm trụ? Vì nhân thọ nhận tên của quả, nên không có lỗi. Không phải trong đây nói tâm hành nghĩa là tư. Nên biết trong đây thọ gọi là tâm hành. Nghĩa là do tham vướng nơi hương vị của lạc thọ, tức đối với cảnh giới kia, hoặc sinh tâm tư duy tạo tác gọi là tâm hành. Vì thọ là nhân của tứ, nên gọi tâm hành không có lỗi. Hoặc chỉ có thể nhận biết tự thể của thọ. Về nghĩa căn cứ theo đấy cũng ở nơi tự thể như tư v.v…, theo thứ lớp có thể nhận biết tướng sinh, trụ, hoại. Như nếm một giọt nước mặn của biển cả, tức cũng nhận biết khắp vị nước của biển cả. Nên chỉ nhận biết thì thọ gọi là nhận biết tâm hành. Giải thích rộng về mỗi mỗi tướng, như trong phần giải thích kinh đã biện.

HẾT – QUYỂN 29