TIÊU TRỪ NHẤT THIẾT THIỂM ĐIỆN CHƯỚNG NẠN TÙY CẦU NHƯ Ý ĐÀ LA NI KINH
Hán dịch: Tây Thiên Bắc Ấn Độ_ Nước Ô Điền Nẵng, chùa Đế Thích Cung, Tam Tạng Truyền Pháp Đại Sư, Sa Môn được ban áo tía (kẻ bầy tôi là) THI HỘ phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật ngự trong Tịnh Xá tại nước Xá Vệ.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Tôn Giả A Nan Đà (Ānanda) rằng: “Nay ông hãy lắng nghe! Có Kinh Tiêu Trừ Nhất Thiết Thiểm Điện Chướng Nạn Tùy Cầu Như Ý Đà La Ni mà đấng Như Lai Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác đời quá khứ đã tuyên nói. Như Ta ngày nay thường thương xót, vì muốn lợi ích an vui cho tất cả Quần Sinh trong Nhân Gian và cõi Trời nên cũng lại tuyên nói”
A Nan Đà nói: “Như vậy Thế Tôn! Con xin vui nguyện muốn nghe”
Đức Thế Tôn bảo rằng: “A Nan Đà! phương đông có thiểm điện tên là A Già Nẵng (Agate: Đời Tống dịch là Vô Hậu), phương Nam có thiểm điện tên là Xá Đa Lỗ (Satadru: Đời Tống dịch là Thuận Lưu). phương Tây có thiểm điện tên là Phóng Quang Minh (Cyutaprabha), phương Bắc có thiểm điện tên là Táo Na Ma Ni (Sutamaṇi: Đời Tống dịch là Bách Sinh Thụ)
Này A Nan Đà! Nếu có tộc tính nam, tộc tính nữ biết danh hiệu của Minh này thì nơi người ấy cư trú không có sợ hãi tất cả sấm sét (lôi điện) này
Nếu nơi cư trú có sấm chớp (Thiểm Điện) như vậy chỉ cần viết Chân Ngôn này an trí nơi ấy thì tất cả sấm chớp chẳng thể phát tán
Khi ấy Đức Thế Tôn liền nói Nại-La Nhị Noa Chân Ngôn Chương Cú này là:
“Đát nễ-dã tha (1) nễ di, nễ mẫn đạt lệ (2) đát-lý lộ ca, lộ chỉ nễ (3) thú la bá nê nễ (4) la khất-xoa, la khất-xoa hàm (5) tát phộc vĩ nễ-dữu na-bà duệ tỳ-dược (6) sa-phộc hạ (7)”
*)TADYATHĀ: NIMI NIMINDRE TRAILOKA LOKANI
ŚULAPĀṆINE RAKṢA RAKṢA MĀṂ _ SARVA VIDYUDBHAYEBHYAḤ
SVĀHĀ
Lúc đó Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát (Āryāvalokiteśvarāyabodhisatvāya mahā-satvāya) cùng với nhóm Chúng của mình đều đến tập hội, ngồi ở một bên. Thời Quán Tự Tại Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy bạch rằng: “Thế Tôn! con cũng nói Chính Pháp Nại-La Nhị Noa Chân Ngôn Chương Cú này là:
“Đát nễ-dã tha (1) vĩ nẵng xá, bát-la đế-dã lý-thế kế (2) bát-la đế-dã di đát-lệ
(3) mạt đệ mục cật-đế (4) vĩ ma lễ (5) bát-la bà sa-ca lệ (6) át noa lệ (7) bán noa lệ (8) tất-phệ đế (9) bán noa la phộc tỷ nễ (10) ma đế ca la la (11) kiếp tất la, băng nga la (12) khất-sử na địa mục, khất-sử (13) la khất-xoa, la khất-xoa hàm (14) tát phộc ca la mật-lật đế-dữu bội duệ tỳ-dược (15) ma minh (16) bả xá diễn đổ (17) tát phộc ca la mật-lật đế-dã phộc (18) a lý-dã phộc lộ chỉ đế thấp-phộc la, đế nhạ, sa-phộc hạ (19)”
*)TADYATHĀ: VINĀŚA PRATYARṬHIKE PRATYA-MITRE ŚUDDHE
MUKTE VIMALE PRABHĀSVARE AṆḌARI PAṆḌARI ŚVETE PĀṆḌARAVĀSINI MĀTI KARA , KAPILA PIṄGALA_KṢI DADHI-MUKHE KṢI , RAKṢA RAKṢA MĀṂ _ SARVA AKĀLA-MṚTYU-BHAYEBHYAḤ MĀ ME PAŚYAṂTU SARVA AKĀLA-MṚTYA VA _ ĀRYA
AVALOKITE’SVARA TEJA SVĀHĀ
_Khi ấy Kim Cương Thủ Bí Mật Chủ (Vajra-pāṇi-guhyādhipati) hướng về Đức Phật, chắp tay cung kính, bạch Đức Thế Tôn rằng: “Con cũng nói Chính Pháp Đà La Ni Chân Ngôn Chương Cú này là:
“Đát nễ-dã tha (1) mẫu nễ mẫu nễ (2) mẫu nễ ma đế (3) ma đế, tố ma đế (4) ma hạ ma đế (5) hạ hạ hạ hạ (6) ma đái la-nẵng tất-đế bá băng (7) phộc nhật-la bá nê, la xá (8) nễ-lý trà, sa-phộc hạ (9)”
TADYATHĀ: MUṆI MUṆI, MUṆI-MATI MUṆI-MATI , SUMATI MAHĀMATI, HĀ HĀ HĀ HĀ, MAITRA INAṢṬHITE PĀPAṂ VAJRAPĀṆI-RĀJA DṚḌHA SVĀHĀ
Thế Tôn! Chương Cú này của con tên là Vô Năng Thắng. Nếu có người ghi nhớ, thọ trì, viết chép, cúng dường thì con thường che giúp liền được giải thoát tất cả sự sợ hãi, tất cả sự chết yểu
_Lúc đó Sa Ha Thế Giới Chủ Đại Phạm Thiên Vương (Sāhaṃpati) bạch rằng: “Thế Tôn! Con cũng nói Chính Pháp Đà La Ni Chương Cú này vì muốn lợi ích an vui cho các Hữu Tình”
Liền nói Đà La Ni là:
“Đát nễ-dã tha (1) hề lý mật lý (2) chỉ lý sa-phộc hạ (3) một-la hám-ma bố lệ (4) ma hạ một-la hám-ma nê (5) một-la hám-ma nghiệt bệ (6) bố sắt-băng tăng sa-đá lệ, sa-phộc hạ (7)”
TADYATHĀ: HILI MILI KILI SVĀHĀ _ BRAHMA-PURE, MAHĀ-
BRAHMAṆI, BRAHMA-GARBHE PUṢPA SAṂSTHIRE SVĀHĀ
Thế Tôn! Đây gọi là Phạm Thiên Nan Noa Đà La Ni hay cứu hộ, đối với tất cả sự chết yểu đạt được sự sống lâu, thảy đều tiêu diệt tất cả tội nghiệp
_Bấy giờ Đế Thích Thiên Chủ (Indra) hướng vễ chỗ của Đức Thế Tôn, chắp tay cung kính bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con cũng nói Chính Pháp Đà La Ni Chân Ngôn Chương Cú là:
“Đát nễ-dã tha (1) một đà ma đặng nị (2) ma nễ nễ (3) kiểu lý hiến đà lý (4) tán noa lý ma đặng nghĩ (5) bốc ca tỷ (6) sa la một-la đế (7) hứ nẵng ma đệ (8) đá la nê (9) ma cấu lý nễ kế (10) tác cật-la phộc chỉ (11) xá phộc lý, xả phộc lý, saphộc hạ (12)b”
*)TADYATHĀ: BUDDHAM-ADAṆḌE MAṆINE GAURI GANDHARI _
CAṆḌALI MATAṄGI PUKKASI SARA AMṚTE HĪNAMATYA UTTARANI
MAṂ DHĀRAṆIKE CAKRA-VĀKE ŚAVARI ŚAVARI SVĀHĀ
Thế Tôn! Minh Chú của con tên là Kim Cương Tọa. Hết thảy tất cả sợ kinh sợ với các sự chết yểu đều được giải thoát không có chướng ngại
Lúc đó Trì Quốc Thiên Vương (Dhṛta-rāṣṭra), Tăng Trưởng Thiên Vương
(Virūḍhaka), Quảng Mục Thiên Vương (Virūpakṣa), Đa Văn Thiên Vương (Vai1sravaṇa) chắp tay hướng Phật rồi bạch Phật rằng: “Chúng con cũng nói Chính Pháp Đà La Ni Chương Cú này là
“Đát nễ-dã tha (1) bố sắt-bế, tô bố sắt-bế (2) độ bả ba lý hạ lệ (3) a lý-dã bátla xá tất đế (4) phiến đế nễ mục cật-đế (5) mãng nghiệt lễ duệ (6) ích lan nê-dã nghiệt bệ (7) tốt- đổ nị sa-đa vĩ nị, sa-phộc hạ (8)”
*)TADYATHĀ: PUṢPE SUPUṢPE DHŪPA PARIHĀRE ĀRYA PRĀŚASIDDHE ŚĀNTI NIRMUKTE MAṂGALYE HIRAṆYA-GARBHE STUTE SĀDHA-VĪTI SVĀHĀ
Thế Tôn! Bốn Thiên Vương chúng con như tên của Chân Ngôn Chương Cú ở trên không có sợ hãi, mà tác che giúp cho các nơi sợ hãi, khiến cho tất cả thọ mệnh không bị chết yểu
_Khi ấy nhóm Sa Nga Lỗ Long Vương, Ma Nẵng Tất-Phệ Long Vương, Điện Quang Long Vương, Vô Nhiệt Não Trì Long Vương, Điện Thiệt Long Vương, Bác Quang Long Vương cũng hướng trước mặt Đức Thế Tôn, chắp tay cung kính rồi đứng ở một bên
Đức Thế Tôn bảo rằng: “Nơi nào có Như Ý Chương Cú này sẽ che giúp tất cả chướng nạn của sấm chớp. Cũng hay cứu hộ tất cả sự chết yểu, trừ các độc. Thảy đều phá hoại tất cả hàng Yết Khư Na, Phệ Đá Noa, loài gây ra việc chẳng lành. Các ông hãy lắng nghe ! Nên phát tâm hiền lành. Trong nẻo Rồng của các ông đều sinh tâm giận dữ, ngã mạn, cống cao cho nên phải hàng phục”
Các Rồng bạch rằng: “ Làm sao mà hàng phục được?”
Đức Thế Tôn đáp rằng: “Ta có Đà La Ni khiến cho tâm ngã mạn cống cao của loài Rồng các ông liền ngưng ngay. Chân Ngôn là:
Đát nễ-dã tha (1) A nhạ lệ (2) ma ma lệ (3) a mật-lật đế (4) a khất-xoa duệ (5) a vĩ-dã duệ (6) bôn nê-dã bả lý-dã duệ (7) tát phộc bá bả (8) bát-la xá ma nễ, sa-phộc hạ (9) a lý-dã bán noa (10) táo bá chỉ duệ, sa-phộc hạ (11) Ấn nại-la thiết ninh duệ, sa-phộc hạ (12) minh già thiết ninh, sa-phộc hạ (13)
*)TADYATHĀ: ACALE AMALE AMṚTE AKṢAYE ABHAYE PUṆYA PARYĀYE _ SARVA PĀPA PRAŚAMANE SVĀHĀ_ ĀRYA-PUṆYA ŚUBHAKIYE SVĀHĀ _ INDRĀŚANĪYE SVĀHĀ _ MEGHĀŚANĪYE SVĀHĀ
Đức Thế Tôn bảo rằng: “Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện đối với Chân Ngôn Chương Cú này mà thọ trì, đọc tụng, viết chép, cúng dường thì các hàng Long Thần, Thiểm Điện đáng sợ ấy chẳng thể gây hại. Lại nữa chất độc không có gốc (vô căn độc) với chất độc do hòa hợp (hòa hợp độc), các chất độc do chế tạo (sở tác độc) chẳng thể hại chúng ta với tất cả chúng sinh
Bấy giờ Đại Phạm Thiên Vương với Thiên Đế Thích, Hộ Thế Tứ Vương, các Long Vương… khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Hiền Giả vì muốn lợi ích an vui cho đa số các Quần Sinh cho nên khéo nói Chính Pháp Nại-La Di Noa Chân Ngôn Chương Cú này. Chúng con xin một lòng thọ trì”.
Đức Phật nói Kinh này thời tất cả Thế Gian, Trời, Người, A Tô Lạc, Kiền Thát Bà … với các Đại Chúng nghe điều Phật nói đều vui vẻ phụng hành
TIÊU TRỪ NHẤT THIẾT THIỂM ĐIỆN TÙY CẦU NHƯ Ý ĐÀ LA NI KINH
_Hết_
Hiệu chỉnh xong vào ngày 14/02/2013