KINH PHỔ BIẾN QUANG MINH THANH TĨNH XÍ THỊNH
NHƯ Ý BẢO ẤN TÂM VÔ NĂNG THẮNG ĐẠI MINH VƯƠNG
ĐẠI TÙY CẦU ĐÀ LA NI

Hán dịch: Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty_ Đặc Tiến Thí Hồng Lô Khanh_ Túc Quốc Công, thực ấp gồm ba ngàn hộ_ Ban áo tía tặng Tư Không, tên thụy là Đại Giám, tên hiệu chính là Đại Quảng Trí_Chùa Đại Hưng Thiện_ Tam Tạng Sa Môn BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH

 

QUYỂN THƯỢNG

TỰA PHẨM THỨ NHẤT

Như vậy tôi nghe, một thời Đức Bạc Già Phạm (Bhagavam: Thế Tôn) ngự tại lầu gác trên đỉnh Đại Kim Cương Tu Di Lô (Mahā-vajra-sumeru), an trụ trong Đại Kim Cương Tam Ma Địa (Mahā-vajra-samādhi), dùng cây Kiếp Thọ Đại Kim Cương Trang Nghiêm (Kalpa-vṛkṣa-mahā-vajra-pramaṇḍita), nơi ánh sáng của hoa sen báu trong cái ao Đại Kim Cương chiếu soi cát Kim Cương mà rải bày trên mặt đất. Ở cung điện Đế Thích (Indra-pura) trong Đạo Trường Kim Cương (Vajra-maṇḍala) của Đại Kim Cương gia trì (Mahā-vajrādhiṣṭhana), dùng câu đê (Koṭi) na dữu đa (Nayuta) trăm ngàn tòa Đại Kim Cương Sư Tử (Mahā-vajra-siṃhāsana) trang nghiêm, nói Thần Thông Xứ của Pháp, là nơi mà Thần Lực của tất cả Như Lai đã gia trì, nhập vào Nhất Thiết Pháp Bình Đẳng Xuất Sinh Tát Bà Nhã Trí cùng với 84 câu đê na dữu đa Bồ Tát Chúng đến dự. Các Vị này đều là Bậc Nhất Sinh Bổ Xứ (Eka-jaṭipratibaddha) đối với A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttarāsamyaksaṃbuddhi: Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác) được Bất Thoái Chuyển (Avaivartika), được thế lực lớn, thảy đều thị hiện Đại Kim Cương Giải Thoát Tam Ma Địa (Mahā-vajra-mokṣa-samādhi), thần thông của cõi Phật, trong khoảng sát na tùy tiện vào Tâm Hạnh của tất cả Hữu Tình, thành tựu mọi thứ đẹp đẽ màu nhiệm rộng lớn thâm sâu, khéo nói các Pháp, biện tài không ngăn ngại, được Đại Thần Thông đều hay cúng dường vô lượng Như Lai trong thế giới của Phật, Thần Thông tự tại của Đại cúng dường vân hải giải thoát Tam Ma Địa (Mahā-pūja-megha-samudra-mokṣa-samādhi), Bất Cộng Giác Phần Đạo Chi, tất cả Địa Ba La Mật (Pāramitā-bhūmi), bốn Nhiếp (Catvāri saṃgraha-vastūni) khéo léo, sức của Từ (Maitra) Bi (Kāruṇa) Hỷ (Pramoda) Xả (Upekṣa), xa lìa trong sự nối tiếp của Tâm thanh tĩnh.

Các vị ấy tên là: Kim Cương Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajra-ākāśa-garbha), Kim Cương Nhãn Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajra-netre), Kim Cương Thân Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajra-kāya), Kim Cương Tuệ Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajra-mati), Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajra-pāṇi), Kim Cương Tương Kích Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajrapraharaṇa), Kim Cương Na La Diên Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajra-nārāyaṇa), Kim Cương Du Hý Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cương Tích Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajra-kuṭa), Kim Cương Kế Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajra-jaṭa), Kim Cương Diệu Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cương Tràng Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajra-ketu)…Các bậc Thượng Thủ (Pramukha) như vậy cùng với chúng Bồ Tát Ma Ha Tát đều đến dự.

_ Lại có Chúng Đại Thanh Văn (Mahatā-śrāvaka-saṃgha) đều là Bậc Đại A La Hán đã đoạn trừ Hữu Kết (quả báo của sinh tử), chấm dứt tất cả các Lậu (Āsrava), được Thiện Giải Thoát của Tâm Thiện Chính Tri, đều hay thị hiện Du Hý Thần Cảnh Thông của sức Thần Thông chẳng thể nghĩ bàn, đều được thế lực lớn, không dính mắc vào sự thấy (Kiến vô trước), xa lìa tất cả cấu nhiễm, thiêu đốt hạt giống Tập Khí.

Các vị ấy tên là: Cụ Thọ (Àyusmata:Trưởng lão, Tôn Giả, Đại Đức…Lại xưng là Tuệ Mệnh) Xá Lợi Tử (Śāriputra), Cụ Thọ Mãn Từ Tử (Pūrṇa-maitrāyaṇī-putra), Cụ Thọ Kiếp Tân Na (Mahā-kaphilena), Cụ Thọ Ca Diệp Ba (Kāśyapa), Cụ Thọ Đại Ca Diệp Ba (Mahā-kāśyapa), Cụ Thọ Ưu Lâu Tần Loa Ca Diệp Ba (Urubilvākāśyapa)…Các bậc Thượng Thủ như vậy cùng với chúng Đại Thanh Văn đều đến dự.

_ Lại có Đại Tự Tại Thiên Tử (Maheśvara-devaputra) là bậc Thượng Thủ cùng với vô lượng vô biên bất khả thuyết a tăng kỳ chúng Tĩnh Cư Thiên Tử (Śuddhāvāsadevaputra) đều đến dự.

_ Lại có Sa Ha Thế Giới Chủ Đại Phạm Thiên Vương (Sāhaṃpati) là bậc Thượng Thủ cùng với Phạm Chúng Thiên Tử (Brāhma-Parsādyā-devaputra) đều đến dự .

_ Lại có Tô Dạ Ma Thiên Tử (Suyama-devaputra), Hóa Lạc Thiên Tử (Nirmāṇarati-devaputra), Tha Hóa Tự Tại Thiên Tử (Para-nirmita-vaśa-vartindevaputra), Thiên Đế Thích (Indra, hay Śakra) cùng với các Thiên Tử (Devaputra) dùng làm quyến thuộc (Parivāra) đều đến dự.

_ Lại có Tỳ Ma Chất Đa La A Tô La Vương (Vemacitra-asura-rāja), Mạt La A Tô La Vương (Vali-asura-rāja), Linh Hoan Hỷ A Tô La Vương, Chiếu Diệu A Tô La Vương, La Hầu A Tô La Vương (Rahu-asura-rāja). Các A Tô La Vương thượng thủ như vậy cùng với vô lượng vô biên A Tô La Vương (Asura-rāja) dùng làm quyến thuộc đều đến dự.

_ Lại có Sa Già La Long Vương (Sāgara-nāga-rāja), Đức Xoa Ca Long Vương (Takṣaka-nāga-rāja), Tô Phộc Chỉ Long Vương (Vāṣuki-nāga-rāja), Thương Khư Ba La Long Vương (Śaṅkha-pāla-nāga-rāja), Yết Cú Tra Ca Long Vương (Karkoṭaka-nāga-rāja), Liên Hoa Long Vương (Padma-nāga-rāja), Đại Liên Hoa Long Vương (Mahā-padma-nāga-rāja). Nhóm Long Vương thượng thủ như vậy cùng với vô lượng vô biên a câu đê chúng Long Vương (Nāga-rāja) đều đến dự.

_ Lại có Thọ Khẩn Na La Vương (Druma-kiṃnara-rāja) cùng với vô lượng vô biên Khẩn Na La Vương (Kiṃnara-rāja) quyến thuộc đều đến dự.

_ Lại có Nhất Thiết Nghĩa Thành Tựu Trì Minh Tiên Vương (Sarvārthasiddhi-vidya-dhāra-ṛṣī-rāja) cùng với vô lượng vô biên Trì Minh Tiên Vương (Vidyadhāra-ṛṣī-rāja) quyến thuộc đều đến dự.

_ Lại có Ngũ Kế Càn Thát Bà Vương (Paṃca-jaṭa-gandharva-rāja) cùng với vô lượng vô biên Càn Thát Bà Vương (Gandharva-rāja) quyến thuộc đều đến dự.

_ Lại có Kim Ngân Nghiệt Lộ Trà Vương cùng với vô lượng vô biên Nghiệt Lộ Trà Vương (Garuḍa-rāja) quyến thuộc đều đến dự.

_ Lại có Đa Văn Dược Xoa Vương (Vaiśravaṇa-yakṣa-rāja), Bảo Hiền Dược Xoa Vương (Maṇi-bhadra-yakṣa-rāja), Mãn Hiền Dược Xoa Vương (Pūrṇa-bhadra yakṣa-rāja), Bán Chi Ca Dược Xoa Vương (Pañcika- yakṣa-rāja) cùng với vô lượng vô biên Dược Xoa Vương (Yakṣa-rāja) quyến thuộc đều đến dự.

_ Lại có Ha Lợi Đế Mẫu (Hāṛtye Mātṛ) cùng với 500 người con dùng làm quyến thuộc đều đến dự.

_ Lại có 7 vị Hộ Thế Mẫu Thiên , 7 vị Đại La Sát Mẫu, 7 vị Tiên Thiên dạo chơi trên hư không, 9 vị Chấp Diệu Thiên, Phương Ngung Địa Thiên, Biện Tài Thiên Nữ (Sarasvati-devi) cùng với quyến thuộc đều đến dự.

_ Lại có loài gây chướng, Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka), Tất Lệ Đa (Preta), Bộ Đa (Bhūta). Tất cả đều là bậc có Đại uy đức cùng với quyến thuộc đều đến dự.

_ Lại có tất cả Sơn Vương (Parvata-rāja), tất cả Hải Vương (Sāgara-rāja), Hộ Thế Vương (Loka-pāla-rāja), Thủy Thiên (Varuṇa-deva), Trì Quốc Thiên Vương (Dhṛta-rāṣṭra-devarāja), Tăng Trưởng Thiên Vương (Virūḍhaka-devarāja), Ác Mục Thiên Vương (Virūpakṣa-devarāja), Trì Bổng La Sát Chủ (Daṇḍa-dhāra- rākṣasādhipati), 7 vị Phong Thiên (Vāyu-deva), Y Xá Na Thiên (Īśāna-deva) với các bà vợ cùng với 1000 câu đê na dữu đa quyến thuộc đều đến dự .

_ Lại có Na La Diên Thiên (Nārāyaṇa-deva) cùng với quyến thuộc đều đến dự.

_ Lại có Nại Đa Ca Na Ma Ca, Lỗ Hạ Ca, Đại Già Na Bát Để, Di Cù La Ca…. Tỳ Na Dạ Ca Vương (Vināyaka-rāja) của nhóm như vậy cùng với vô lượng vô biên Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka) dùng làm quyến thuộc đều đến dự .

_ Lại có 60 vị Du Hành chư Thành Bảo Vương với quyến thuộc đều đến dự.

_ Lại có bốn chị em Thần Nữ (Caturbhagiṇī) với người anh là quyến thuộc đều đến dự.

_ Lại có Kim Cương Thương Yết La Nữ (Vajra-śaṃkaranī) cùng với 64 vị Kim Cương Nữ (Vajriṇī) dùng làm quyến thuộc đều đến dự.

_ Lại có Kim Cương Quân Đồng Tử (Vajra-sena-kumāra), Tô Ma Hô Đồng Tử (Subāhu-kumāra), Đỉnh Hạnh Đồng Tử cùng với vô lượng vô biên Kim Cương Tộc (Vajra-kuāàya) dùng làm quyến thuộc đều đến dự.

_ Lại có hàng tin tưởng trong sạch nơi Phật (Buddha), Pháp (Dharma), Tăng (Saṃgha) là: Trời (Deva), Rồng (Nàga), Dược Xoa (Yaksa), Càn Thát Bà

(Gandharva), A Tô La (Asura), Nghiệt Lộ Trà (Garuḍa), Khẩn Na La (Kiṃnara), Ma

Hộ La Già (Mahoraga), Bộ Đa (Bhūta), Tất Xá Già (Piśāca), A Bát Sa Ma La,

(Apasmāra), Ốt Ma Na (Unmāda), Sa Đình Sa, Tứ Lý Ca, Ô Tát Đa La Ca (Ostakara), Nhật Nguyệt Thiên Tử, Thần Triêu Thiên, Nhật Ngọ Thiên, Hoàng Hôn Thiên, Trung Dạ Thiên, Nhất Thiết Thời Thiên cùng với vô lượng vô biên a tăng kỳ quyến thuộc đều đến dự.

Bấy giờ Đức Thế Tôn khéo chuyển bánh xe Pháp, làm xong việc Phật, viên mãn Phước Đức Trí Tuệ cứu cánh, khéo nhiếp thọ Nhất Thiết Trí Đại Bồ Đề, đắc được

Xí Thịnh Địa Ba La Mật, dùng 32 tướng Đại Trượng Phu trang nghiêm Pháp Thân

(Dharma-kāya), dùng 84 vẻ đẹp trang nghiêm tất cả chi phần, Tướng mà tất cả Hữu Tình không có chỗ Quán Đỉnh (Abhiṣeka), vượt hơn hẳn tất cả Ma La (Māra), thông đạt Nhất Thiết Trí Trí (Sarva-jña-jñāna), đầy đủ năm loại mắt, thành tựu tất cả Tướng, thành tựu Nhất Thiết Trí Trí, thành tựu tất cả Phật Pháp, đập nát dị luận của tất cả Ma (Māra), hiển cao danh xưng Đại Hùng Mãnh Sư Tử Hống, phá hoại vô minh hắc ám. Dùng chỗ đã gom chứa các Ba La Mật (Pāramiāà): Thí (Dāna), Giới (Śīla), Nhẫn

(Kṣānti), Cần Dũng (Vīrya), Tĩnh Lự (Dhyāna), Bát Nhã (Prajña), Phương Tiện (Upāya), Nguyện (Praṇidhana), Lực (Bala), Trí (Jñāna), Khổ Hạnh (Duṣkara, hay Tapas) khó hành trong vô lượng vô biên a tăng kỳ trăm ngàn câu đê na dữu đa kiếp, chuyển được 32 tướng Đại Nhân, 84 vẻ đẹp trang nghiêm.

Thân ấy ngồi trên Tòa Đại Bảo Kim Cương Liên Hoa Tạng Sư Tử (Mahāratna-vajra-padma-garbha-siṃhāsana). Tòa ngồi đó được trang nghiêm bằng vô lượng Kim Cương, võng lưới ngọc báu… khi gió nhẹ thổi qua đều phát ra âm thanh màu nhiệm. Dùng vô lượng Kim Cương Giới (Vajra-dhātu) an trụ Thần Túc. Dùng vô lượng báu Kim Cương trang nghiêm cho viên ngọc đỏ do con cá Ma Kiệt (Makāra) phun ra và dùng miệng ngậm lại. Dùng vô lượng báu trang sức nhuỵ hoa sen. Dùng Hổ Phách (?Lohita-mukta:Xích chu), Đại Hổ Phách (Mahā-lohita-mukta), Đế Thanh (Indra-nīla-muktā), Đại Đế Thanh (Mahendra-nīla-muktā), Bổ Sa La Già…trang nghiêm cái lưới ánh sáng rộng khắp đoan nghiêm. Dùng vô lượng báu Kim Cương trang nghiêm cái cán của cây phan cây lọng. Dùng bóng mát của vô lượng câu đê na dữu đa trăm ngàn cây Kiếp Thọ (Kalpa-vṛkṣa) trang nghiêm

Tòa ngồi ấy rộng lớn như Tu Di (Sumeru) giống như ngọn núi vàng tỏa ánh hào quang rực rỡ sáng chói tốt lành vượt hẳn một ngàn mặt trời.

Mặt đất của nơi ấy tròn đầy giống như mặt trăng trong sạch khiến cho các Hữu Tình vui thích ngắm nhìn Pháp của Như Lai, như hoa hé nở của cây Đại Kiếp Thọ (Mahā-kalpa-vṛkṣa) ấy. Pháp màu nhiệm đã nói: Ban đầu, khoảng giữa, chặng cuối đều tốt lành. Lời nói về nghĩa thâm sâu của Pháp ấy rất khéo léo, thanh tĩnh, tinh khiết, thuần nhất không pha tạp.

Khi ấy từ Đỉnh đầu (Uṣṇīṣa) và Hào Tướng (Ūrṇa) của Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng lớn. Ánh sáng này chiếu khắp ba ngàn Đại Thiên Thế Giới cho đến như hằng hà sa số Thế Giới của Phật. Hết thảy Như Lai ở Thế Giới đó ngồi trên Tòa Sư Tử được trang nghiêm bằng vô lượng báu, ngự bên trong lầu gác đại trang nghiêm, nói Pháp cùng với tất cả Bồ Tát, Đại Thanh Văn, Bật Sô, Bật Sô Ni, Tịnh Tín Nam, Tịnh Tín Nữ, Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tô La, Nghiệt Lộ Trà, Khẩn Na La, Ma Hộ La Già…thảy đều được chiếu diệu mà hiển hiện rõ ràng.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vì khắp tất cả mà nói Già Đà (Gāthā: Kệ Tụng) là :

_ Nay Ta nói Tuỳ Cầu (Pratisāra)

Thương nhớ các Hữu Tình

Đại Đà La Ni (Mahā-dhāraṇī) này

Hay đập kẻ khó phục

Các tội nặng cực ác

_ Nếu mới được nghe qua

Tuỳ Cầu Đà La Ni (Pratisāra-dhāraṇī)

Tất cả tội tiêu diệt

An vui các Hữu Tình

Giải thoát tất cả bệnh

Đại Bi vì chúng sinh

Nên Đức Thế Tôn nói

Làm cho được giải thoát

Xa lìa các nẻo ác

_ Nếu vào cung Tu La (Asura-pura)

Cung Dược Xoa (Yakṣa), La Sát (Rākṣasa)

Bộ Đa (Bhūta), Rồng (Nāga), Quỷ (Preta), Thần (Devatā)

Các cung điện như vậy

Tùy ý vào được cả

Đều dùng Đại Minh (Mahā-vidya) này

Mà làm nơi gia hộ

_ Nơi chiến đấu hiểm nguy

Chẳng bị oán trớ hại

Với các hàng Quỷ Mỵ

Do xưng Đà La Ni (Dhāraṇī)

Các Mỵ đều hoại diệt

_ Sa Kiển (Skandha), Ốt Mạt Na (Unmāda)

Tất Xá (Piśāca), Noa Cát Nễ (Ḍākiṇī)

Mãnh ác hút Tinh Khí

Thường hại loài Hữu Tình

Thảy đều bị diệt hết

Do Đức Tùy Cầu diệt

Địch đều bị diệt hoại

_ Đã làm Pháp Chú Trớ

Yểm Đảo đều vô hiệu

Định nghiệp chẳng thọ báo

Chẳng bị trúng Cổ Độc

Nước, lửa với đao, gậy

Sấm sét, sương, mưa đá

Gió bão, mưa bạo ác

Các nạn đều được thoát

Oán địch đều giáng phục

_ Nếu người trì Minh (Vidya) này

Hoặc đeo cổ, đeo tay

Mọi nguyện cầu đều thành

Tất cả điều mong ước

Thảy đều được như ý

Thiên Vương (Deva-rāja) đều gia hộ

Với các Đại Long Vương (Mahā-nāga-rāja)

Bồ Tát (Bodhisatva), Đại Cần Dũng (Mahā-vīra)

Duyên Giác (Pratyeka-buddha) và Thanh Văn (Śrāvaka)

Tất cả các Như Lai (Tathāgata)

Minh Phi (Vidya-rājñī), Đại Uy Đức (Mahā-teja)

Thảy đều cùng ủng hộ

_ Người thọ trì Tùy Cầu (Pratisāra)

Kim Cương Bí Mật Chủ (Vajra-guhyakādhipati)

Bốn Thiên Vương (Catvāsraḥ-mahā-rājikāḥ) Hộ Thế (Loka-pāla)

Đối với người Trì tụng

Ngày đêm thường gia hộ

Chúng Đế Thích (Indra), Đao Lợi (Trāyastriṃśa)

Phạm Vương (Brahma-rāja), Tỳ Nữu Thiên (Viṣṇu)

Với Ma Hê Thủ La (Maheśvara)

Chúng sinh Câu Ma La (Kumàra)

Đại Hắc (Mahà-kàla), Hỷ Tự Tại (Nāndikeśvara)

Tất cả chúng Thiên Mẫu (Mātṛ-gaṇa)

Với các Ma Chúng (Māra-gaṇa) khác

Khổ Hạnh Uy Đức Tiên

Cùng với Mật Ngữ Thiên (Guhya-vāk-deva)

Thảy đều đến ủng hộ

_ Người trì Tùy Cầu này

Minh Phi (Vidya-rājñī), Đại Bi Tôn (Mahā-kāruṇa-nātha)

Dũng mãnh đủ thần lực

Ma Ma (Māmaki), Tỳ Câu Đê (Bhṛkuṭi)

Đa La (Tārā), Ương Câu Thi (Aṃkuśe)

Cùng với Kim Cương Tỏa (Vajra-śaṃkhara)

Bạch Y (Paṇḍara-vāsini), Đại Bạch Y (Mahā-paṇḍara-vāsini)

Thánh Ma Ha Ca Ly (Mahā-kāli)

Sứ Giả (Ceṭa), Kim Cương Sứ (Vajra-ceṭa)

Diệu Sách (Su-pāśa), Kim Cương Sách (Vajra-pāśa)

Chấp Luân (Cakra-dhāra) Đại Lực Giả (Mahā-bala)

Kim Cương Man Đại Minh (Vajra-māle-mahā-vidya)

Cam Lộ Quân Trà Lợi (Amṛta-kuṇḍali)

Vô Năng Thắng Minh Phi (Apārajita-vidya-rājñī)

Hắc Nhĩ (Kṛṣṇa-karna), Cát Tường Thiên (Śrī-devī)

Đại Phước Uy Đức Tôn (Mahā-puṇya-teja-nātha)

Liên Hoa Quân Trà Lợi (Padma-kuṇḍali)

Hoa Xỉ (Puṣpa-danti) với Châu Kế

Kim Man, Chất Nghiệt La

Đại Uy Đức Cát Tường

Với Điện Trang Nghiêm Thiên

Nhất Kế Đại La Sát (Eka-jaṭa-mahā-rākṣasa)

Với Phật Địa Hộ Tôn (Buddha-dhara-pālaṇi)

Ca Ba Lợi Minh Nữ

Lăng Già Tự Tại Tôn (Laṅkeśvara)

Với nhiều loại Chúng khác

Nhóm ấy đều ủng hộ

_ Do Đại Minh tại tay

Ha Lợi Đế (Hāṛtye) với con

Đại Tướng Bán Chi Ca (Pañcika)

Thương Khí Ni (Saṃkhini), Tích Xỉ (Kuṭa-danti)

Cát Tường (Śrī) và Biện Tài (Sarasvatī)

Do trì Mật Ngôn này

Ngày đêm thường đi theo

_ Nếu có các người nữ

Trì Đà La Ni này

Kẻ ấy đều thành tựu

Trai Gái ở trong thai

Thai an ổn tăng trưởng

Sinh nở đều an vui

Tất cả bệnh đều trừ

Các tội đều tiêu diệt

Phước lực thường đầy đủ

Lúa gạo với tài bảo

Thảy đều được tăng trưởng

Lời nói khiến vui nghe

Nơi đến, được cung kính

Nam tử với nữ nhân

Thanh tịnh hay thọ trì

Thường ôm Tâm Từ Bi

Cứu giúp các Hữu Tình

Nguyện họ được an vui

Khiến họ lìa bệnh tật

Quốc Vương và Hậu Cung

Đều sinh Tâm cung kính

Cát Tường thường xí thịnh

Nhóm Phước đều tăng trưởng

Tất cả Pháp Chân Ngôn

Thảy đều được thành tựu

Thành nhập tất cả Đàn (Maṇḍala)

Được thành Tam Muội Gia (Samaya)

_ Như Lai thành thật nói

Chẳng hay gặp mộng ác

Đều diệt trừ các tội

Phiền não và oán địch

Diệt tai họa Chấp Diệu

Đại Trí Tự Tại nói

Hay mãn nguyện ước khác

Vì thế nay Ta nói

Đại Chúng đều nghe kỹ

“Nẵng mô tát phộc đát tha nga đa nam (NAMO SARVA TATHĀGATĀNĀṂ)

Nẵng mô nẵng mạc tát phộc một đà mạo địa tát đa-phộc _ Một đà, đạt ma, tăng khế tỳ dược (NAMO NAMAḤ SARVA BUDDHA BODHISATVA_BUDDHA, DHARMA, SAṂGHEBHYAḤ )

Án (OṂ)

Vĩ bổ la nghiệt bệ (VIPULA GARBHE)

Vĩ bổ la, vĩ ma lê, nhạ dã nghiệt bệ (VIPULA VIMALE JAYA GARBHE)

Phộc nhật-la, nhập-phộc la, nghiệt bệ (VAJRA JVALA GARBHE)

Nga để, nga hạ nãnh (GATI GAHANE)

Nga nga nẵng, vĩ thú đà ninh (GAGANA VIŚODHANE)

Tát phộc bá bả, vĩ thú đà ninh (SARVA PĀPA VIŚODHANE)

Án (OṂ)

Ngu noa, phộc để ( GUṆA VATI )

Nga nga lị ni (GAGARIṆI)

Nghĩ lị, nghị lị (GIRI GIRI)

Nga ma lị, nga ma lị (GAMĀRI GAMĀRI)

Ngược hạ, ngược hạ (GAHA GAHA)

Nghiệt nga lị, nghiệt nga lị (GARGĀRI GARGĀRI)

Nga nga lị, nga nga lị (GAGARI GAGARI)

Nghiêm bà lị, nghiêm bà lị (GAMBHARI GAMBHARI)

Nga để, nga để (GATI GATI)

Nga ma nãnh, nga lệ (GAMANI GARE)

Ngu lỗ, ngu lỗ, ngu lỗ ni (GŪRU GŪRU GŪRUṆE)

Tả lệ, a tả lệ, mẫu tả lệ (CALE ACALE MUCALE)

Nhạ duệ, vĩ nhạ duệ (JAYA VIJAYA)

Tát phộc bà dã, vĩ nga đế (SARVA PĀPA VIGATE)

Nghiệt bà, tam bà la ni (GARBHA SAMBHARANI)

Tất lị, tất lị (SIRI SIRI)

Nhĩ lị, nhĩ lị (MIRI MIRI)

Chi lị, chi lị (GHIRI GHIRI)

Tam mãn đá, ca la-sái ni (SAMANTA AKARṢAṆI)

Tát phộc thiết đốt-lỗ, bát-la ma tha nãnh (SARVA ŚATRŪ PRAMATHANI)

La khất-sái, la khất-sái (RAKṢA RAKṢA)

Ma ma (Tôi, họ tên…. ) (MAMA …..)

Tát phộc tát đa-phộc nan tả (SARVA SATVANĀṂCA)

Vĩ lị, vĩ lị (VIRI VIRI)

Vĩ nga đá (VIGATA)

Phộc la noa bà dã nẵng xả nãnh (AVARAṆI BHAYA NĀŚANI)

Tô lị, tô lị (SURI SURI)

Tức lị (CILI)

Kiếm ma lê, vĩ ma lê, nhạ duệ (KAMALE VIMALE JAYE)

Nhạ dã, phộc hề (JAYA VAHE)

Nhạ dã phộc để, bà nga phộc để (JAYA VATI BHAGAVATI)

La đát-nẵng ma củ tra, ma la đà lị (RATNA MAKUṬA MĀLĀ-DHĀRI)

Ma hộ, vĩ vĩ đa , vĩ tức đát-la, phệ sái, lỗ bạt, đà lị ni (BAHU VIVIDHA VICITRA VEṢA RŪPA DHĀRAṆĪ)

Bà nga phộc để (BHAGAVATI)

Ma hạ vĩ nễ-dã, nê vĩ (MAHĀ VIDYA DEVI)

La khất-sái, la khất-sái (RAKṢA RAKṢA)

Ma ma (Tôi, tên là…..) (MAMA…….)

Tát phộc tát đa-phộc nan tả (SARVA SATVANĀṂCA)

Tam mãn đá, tát phộc đát-la (SAMANTA SARVATRĀ)

Tát phộc bá bả, vĩ thú đà nãnh (SARVA PĀPA VIŚODHANE)

Hộ lỗ, hộ lỗ (HULU HULU)

Nhược khất-sát đát-la, ma la, đà lị ni (NAKSATRA MÀLÀ-DHÀRANÌ)

La khất-sái hàm (RAKṢA MĀM)

Ma ma (Tôi, tên là…. ) (MAMA……)

A nẵng tha tả (ANĀTHAṢYA)

Đát-la noa, bả la gia noa tả (ATRĀṆA PARĀYAṆAṢYA)

Bả lị mô tả, dã minh (PARIMOCA YĀ ME)

Tát phộc nậu khế tỳ dược (SARVA DUḤKHEBHYAḤ)

Chiến ni, chiến ni, tán nị nãnh (CAṆḌI CAṆḌI CAṆḌINI)

Phệ nga phộc để (VEGA VATI)

Tát phộc nột sắt-tra, nãnh phộc la ni (SARVA DUṢṬA NIVĀRAṆI)

Thiết đốt-lỗ, bạc khất-xoa (ŚATRŪ PAKṢA)

Bát-la mạt tha nãnh (PRAMATHANI)

Vĩ nhạ dã, phộc tứ nãnh (VIJAYA VĀHINI)

Hộ lỗ, hộ lỗ (HURU HURU)

Mẫu lỗ, mẫu lỗ (MURU MURU)

Tổ lỗ, tổ lỗ (CURU CURU)

A dục, bá la nãnh, tô la (AYUḤ PĀLANI SURA)

Phộc la, mạt tha nãnh (VARA MATHANI)

Tát phộc, nê phộc đá (SARVA DEVATĀ)

Bố tỉ đế (PŪJITE)

Địa lị, địa lị (DHIRI DHIRI)

Tam mãn đá phộc lộ chỉ đế, bát la bệ (SAMANTA AVALOKITE PRABHE)

Bát-la bệ, tô bát-la bà (PRABHE SUPRABHA)

Vĩ truật đệ (VIŚUDDHE)

Tát phộc bá bả, vĩ thú đà ninh (SARVA PĀPA VIŚODHANE)

Đạt la, đạt la, đạt la ni ( DHARA DHARA DHARAṆI )

La la đạt lệ (RARA DHARE)

Tô mẫu, tô mẫu (SUMU SUMU)

Lỗ lỗ tả lê (RURU CALE)

Tả la gia, nô sắt-lãng (CALĀYA DUṢṬA)

Bố la dã mính, a thiêm, thất-lị (PŪRAYA ME ĀŚAṂ ŚRĪ)

Phộc bổ đà nam (VAPUDHANAṂ)

Nhạ dã, kiếm ma lê (JAYA KAMALE)

Khất-sử ni, khất-sử ni (KṢIṆI KṢIṆI)

Tát la ni, tát la năng củ thế (VARADE VARADA AṄKUŚE)

Án (OṂ)

Bát nột-ma, vĩ truật đệ (PADMA VIŚUDDHE)

Thú đà dã, thú đà dã (ŚODHAYA ŚODHAYA)

Thuấn đệ (ŚUDDHE)

Bạt la, bạt la (BHARA BHARA)

Tỷ lị, tỷ lị (BHIRI BHIRI)

Bộ lỗ, bộ lỗ (BHURU BHURU)

Mộng nga la, vĩ thuấn đệ (MAṂGALA VIŚUDDHE)

Bạt vĩ đát-la, mục khế (PAVITRA MUKHE)

Khát nghĩ ni, khát nghĩ ni (KHARGAṆI KHARGAṆI)

Khư la, khư la (KHARA KHARA)

Nhập-phộc lý đa, thủy lệ (JVALITA ŚIRE)

Tam mãn đa, bát-la sa lị đá, phộc bà tất đa, truật đệ (SAMANTA PRASARITA AVABHAṢITA ŚUDDHE)

Nhập-phộc la, nhập-phộc la (JVALA JVALA)

Tát phộc, nê phộc nga noa, tam ma đa, ca la-sái ni (SARVA DEVAGAṆA SAMATĀ AKARṢAṆI)

Tát để-dã phộc đế (SATYA VATI)

La hộ, la hộ (LAHU LAHU)

Hộ nộ, hộ nộ (HUNU HUNU)

Khất-sử ni, khất-sử ni (KṢIṆI KṢIṆI)

Tát phộc nghĩ-la hạ, bạc khất-sái ni (SARVA GRAHA BHAKṢAṆI)

Vĩnh nga lý, vĩnh nga lý (PIṂGALI PIṂGALI)

Tổ mẫu, tổ mẫu (CUMU CUMU)

Tô mẫu, tô mẫu (SUMU SUMU)

Tổ mẫu tả lệ (CUVI CARE)

Đa la, đa la (TĀRA TĀRA)

Nẵng nga, vĩ lộ chỉ nãnh, đa la dã, đổ hàm (NĀGA VILOKITE TĀRĀYA TUMAṂ)

Bà nga phộc để (BHAGAVATI)

A sắt-tra ma hạ bà duệ tỳ dược (AṢṬA MAHĀ BHAYEBHYAḤ)

Tam muộn nại-la (SAMUDRA)

Sa nga la (SĀGARA)

Bát lị-dần đảm, bá đá la, nga nga nẵng, đát lãm (PRATYANTĀṂ PĀTĀLA GAGANA TALAṂ)

Tát phộc đát la (SARVATRĀ)

Tam mãn đế nẵng (SAMANTENA)

Nễ xả, mãn đệ nẵng (DIŚA BANDHENA)

Phộc nhật-la, bát-la ca la (VAJRA PRĀKĀRA)

Phộc nhật-la, bá xả, mãn đà mật nẵng (VAJRA PĀŚA BANDHANE)

Phộc nhật-la,nhập phộc-la, vĩ truật đệ (VAJRA JVALA VIŚUDDHE)

Bộ lị, bộ lị (BHURI BHURI)

Nghiệt bà, phộc để (GARBHA VATI)

Nghiệt bà, vĩ thú đà nãnh (GARBHA VIŚODHANE)

Câu khất-sử, tam bố la ni (KUKṢI SAṂPŪRAṆI)

Nhập phộc-la, nhập phộc-la (JVALA JVALA)

Tả la, tả la (CALA CALA)

Nhập phộc-lý nãnh (JVALAṆI)

Bát-la vạt sát đổ, nê phộc (PRAVAṢATU DEVA)

Tam mãn đế nãnh (SAMANTENA)

Nễ miểu ná kế nãnh (DIDHYODAKENA)

A mật-lật đa, phộc la-sái ni (AMṚTA VARṢAṆI)

Nê phộc đá phộc đá la ni (DEVA DEVA-DHĀRAṆĪ)

A tỵ tru giả mính (ABHIṢIṂCA TUME)

Tô nga đa (SUGATA)

Phộc tả nẵng, mật-lật đa (VACANA AMṚTA)

Phộc la, phộc bổ sái (VARA VAPUṢPE)

La khất-sái, la khất-sái (RAKṢA RAKṢA)

Ma ma (Tôi tên là….. ) (MAMA……..)

Tát phộc tát đa-phộc nan tả (SARVA SATVĀNĀṂCA)

Tát phộc đát-la (SARVATRĀ)

Tát phộc ná (SARVADĀ)

Tát phộc bà duệ tỳ-dược (SARVA BHAYEBHYAḤ)

Tát mạo bát nại-la phệ tỳ-dược (SARVOPADRAVEBHYAḤ)

Tát mạo bả tăng nghê tỳ-dược (SARVOPASAGREBHYAḤ)

Tát phộc nột sắt-tra, bà dã, tỵ đát tả (SARVA DUṢṬA BHAYA BHĪTAṢYA)

Tát phộc ca lị, ca la hạ, vĩ nghiệt la hạ (SARVA KĀLI KALAHA VIGRAHA)

Vĩ phộc ná (VIVĀDA)

Nậu tát-phộc bả-nan nột nãnh nhĩ đá (DUḤSVAPNĀṂ DURNI MINTA)

Mộng nga la (AMAṂGALLYA)

Bá bả (PĀPA)

Vĩ nẵng xả nãnh ( VINĀŚANI)

Tát phộc dược khất-xoa (SARVA YAKṢA)

La khất-sái sa (RĀKṢASA)

Nẵng nga (NĀGA)

Nãnh phộc la ni (NIVĀRAṆI)

Tát la ni, sa lệ (SARAṆI SARE)

Ma la, ma la, ma la phộc để (BALA BALA _ BALA VATI)

Nhạ dã, nhạ dã (JAYA JAYA)

Nhạ dã đổ hàm (JAYA TUMAṂ)

Tát phộc tát-la (SARVATRĀ)

Tát phộc la lam (SARVA KĀRAṂ)

Tất đệ đổ mính (SIDDHE TUME)

Ế hàm, ma hạ vĩ niệm, sa đà dã (IMĀṂ MAHĀ-VIDYA SĀDHAYAT)

Sa đà dã, tát phộc mạn noa la (SĀDHAYAT SARVA MAṆḌALA)

Sa đà nãnh già đa dã (SĀDHANI GHĀTAYA)

Tát phộc vĩ cận-nãnh (SARVA VIGHNAṂ)

Nhạ dã, nhạ dã (JAYA JAYA)

Tất đệ, tất đệ (SIDDHE SIDDHE)

Tô tất đệ (SUSIDDHI)

Tất địa-dã, tất địa-dã (SIDDHYA SIDDHYA)

Một địa-dã, một địa-dã (BUDDHYA BUDDHYA)

Bố la dã, bố la dã (PŪRAYA PŪRAYA)

Bố la ni, bố la ni (PŪRAṆI PŪRAṆI)

Bố la dã, mính, a thiêm ( PŪRAYA ME ĀŚAṂ)

Tát phộc vĩ nễ dã (SARVA VIDYA)

Địa nga đa (ADHIGATA)

Một lật-đế (MŪRTTE)

Nhạ dụ đa lị (JAYOTTARI)

Nhạ dạ phộc để (JAYA VATI)

Để sắt-xá, để sắt-xá (TIṢṬA TIṢṬA)

Tam ma dã ma nỗ bá la dã (SAMAYAM ANUPĀLAYA)

Đát tha nghiệt đa, ngật-lị nãi dã (TATHĀGATA HṚDAYA)

Thuấn đệ (ŚUDDHE)

Nhĩ-dã phộc lộ ca dã hàm (VYĀVALOKAYA MĀṂ)

A sắt-tra tỵ, ma hạ ná lỗ noa bà (AṢṬA MAHĀ DĀRUṆA BHAYE)

Tát la, tát la (SARA SARA)

Bát-la sa la, bát-la sa la (PRASARA PRASARA)

Tát phộc phộc la noa, tỵ thú đà nãnh (SARVA AVARAṆA VIŚODHANE)

Tam mãn đá, ca la, man noa la, vĩ thuấn đệ (SAMANTA KĀRA MAṆḌALA VIŚUDDHE)

Vĩ nga đế, vĩ nga đế, vĩ nga đa, ma la, vĩ thú đà nãnh (VIGATE VIGATE VIGATA MĀRA VIŚODHANE)

Khất-sử ni, khất-sử ni (KṢIṆI KṢIṆI)

Tát phộc bá bả, vĩ thuấn đệ (SARVA PĀPA VIŚUDDHE)

Ma la, vĩ nghiệt đế (MĀRA VIGATE)

Đế nhạ phộc để (TEJA VATI)

Phộc nhật-la phộc để (VAJRA VATI)

Tát-lạt lộ chỉ-dã, địa sắt-xỉ đế, sa-phộc hạ (TRAILOKYA ADHIṢṬITE _SVĀHĀ)

Tát phộc đát tha, một đà, vĩ sắt cật-đế, sa-phộc hạ (SARVA TATHĀ BUDDHA ABHIṢIKTE _ SVĀHĀ)

Tát phộc mạo địa tát đa-phộc, vĩ sắt cật-đế, sa-phộc hạ (SARVA BODHISATVA ABHIṢIKTE _ SVĀHĀ)

Tát phộc nê phộc đa, vĩ sắt cật-đế, sa-phộc hạ (SARVA DEVATĀ ABHIṢIKTE _ SVĀHĀ)

Tát phộc đát tha nga đa, cật-lị nãi dạ, địa sắt xỉ đa, hột-lị nãi duệ, sa-phộc hạ (SARVA TATHĀGATA HṚDAYA ADHIṢṬITA HṚDAYE _ SVĀHĀ)

Tát phộc đát tha nga đa, tam ma dã, tất đệ, sa-phộc hạ (SARVA TATHĀGATA SAMAYA SIDDHE_ SVĀHĀ)

Ấn nại-lệ, ấn nại-la phộc để, ấn nại-la, nhĩ-dã phộc lộ chỉ đế, sa-phộc hạ (INDRE INDRAVATI INDRA VYĀVALOKITE _ SVĀHĀ)

Một-la hám-mính, một-la hám-ma, để-dữu sử đế, sa-phộc hạ (BRAHME BRAHMA ADHYUṢṬE _ SVÀHÀ)

Vĩ sắt-nỗ, nẵng mạc tắc cật-lị đế, sa-phộc hạ (VIṢṆU NAMASKṚTE_SVĀHĀ)

Ma hệ thấp-phộc la, mãn nễ đa, bố nhĩ đá duệ, sa-phộc hạ (MAHEŚVARA VANDITA PŪJITAYE_ SVĀHĀ)

Phộc nhật-la đà la, phộc nhật-la bá ni, ma la vĩ lị-dã, địa sắt-xỉ đế, sa-phộc hạ (VAJRADHĀRA VAJRAPĀṆI BALA VĪRYA ADHIṢṬITE_ SVĀHĀ)

Địa-lã đa la sắt-tra-la dã, tát-phộc hạ ( DHṚTARĀṢṬRĀYA_ SVĀHĀ)

Vĩ lỗ trà ca dã, tát-phộc hạ (VIRŪḌHAKĀYA_ SVĀHĀ)

Phệ thất-la ma noa dã, tát-phộc hạ (VAIŚRAVAṆĀYA_ SVĀHĀ)

Tạt đốt ma hạ la nhạ nẵng mạc tắc-cật-lị đá dã, tát-phộc hạ (CATUR MAHĀ RĀJA NAMASKṚTĀYA_ SVĀHĀ)

Diễm ma dã, tát-phộc hạ (YAMĀYA_ SVĀHĀ)

Diễm ma bố nhĩ đa, nẵng mạc tắc-cật-lị đá dã_ tát-phộc hạ (YAMA PŪJITA NAMASKṚTĀYA_ SVĀHĀ)

Phộc lỗ noa dã_ Tát-phộc hạ (VARUṆĀYA _ SVĀHĀ)

Ma lỗ đá dã _ Tát-phộc hạ (MARŪTĀYA_ SVĀHĀ)

Ma ha ma lỗ đá dã_ Tát-phộc hạ (MAHĀ MARŪTĀYA_ SVĀHĀ)

A ngân-nẵng duệ_ Tát-phộc hạ (AGNAYE_ SVĀHĀ)

Nẵng nga vĩ lộ chỉ đá dã_ Tát-phộc hạ (NĀGAVILOKITĀYA_ SVĀHĀ)

Nê phộc, nga nãi tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (DEVA GAṆEBHYAḤ_ SVĀHĀ)

Nẵng nga, nga nãi tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (NĀGA GAṆEBHYAḤ_ SVĀHĀ)

Dược khất-sái, nga nãi tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (YAKṢA GAṆEBHYAḤ_SVĀHĀ)

La kất-sái sa nga nãi tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (RĀKṢASA GAṆEBHYAḤ_SVĀHĀ)

Ngạn đạt phộc tát nãi tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (GANDHARVA GAṆEBHYAḤ_ SVĀHĀ)

A tô la nga nãi tỳ-dược_Tát-phộc hạ (ASURA GANṆBHYAḤ_ SVĀHĀ)

Nga lỗ noa nga nãi tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (GARUḌA GAṆEBHYAḤ_SVĀHĀ)

Khẩn na la nga nãi tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (KIṂNARA GAṆEBHYAḤ_SVĀHĀ)

Ma hộ la nga nễ tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (MAHORAGA GAṆEBHYAḤ_SVĀHĀ)

Ma nộ sái tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (MANUṢYEBHYAḤ_ SVĀHĀ)

A ma nộ sái tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (AMANUṢYEBHYAḤ_ SVĀHĀ)

Tát phộc nghiệt-la hệ tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (SARVA GRAHEBHYAḤ_SVĀHĀ)

Tát phộc bộ đế tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (SARVA BHŪTEBHYAḤ_ SVĀHĀ)

Bật lị đế tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (PRETEBHYAḤ_ SVĀHĀ)

Tỳ xả tế tỳ-dược_ Tát-phộc hạ ( PIŚĀCEBHYAḤ_ SVĀHĀ )

A bả sa-ma lệ tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (APASMĀREBHYAḤ_ SVĀHĀ)

Cấm bạn nễ tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (KUṂBHĀṆḌEBHYAḤ_ SVĀHĀ)

Án _ Độ lỗ, độ lỗ_ Tát-phộc hạ (OṂ_ DHURU DHURU_ SVĀHĀ)

Án _ Đổ lỗ, đổ lỗ_ Tát-phộc hạ (OṂ_ TURU TURU_ SVĀHĀ)

Án_ Mẫu lỗ, mẫu mẫu_ Tát-phộc hạ (OṂ_ MURU MURU_ SVĀHĀ)

Hạ nẵng, hạ nẵng, tát phộc thiết đổ-lỗ nẫm_ Tát-phộc hạ (HANA HANA SARVA ŚATRŪNĀṂ_ SVĀHĀ)

Ná hạ, ná hạ tát phộc nột sắt-tra, bát-la nột sắt-tra nẫm_ Tát-phộc hạ (DAHA DAHA SARVA DUṢṬA _ PRADUṢṬANĀṂ_ SVĀHĀ)

Bát tá, bát tá tát phộc bát-la để dã dịch ca, bát-la để-dã nhĩ đát-la nẫm (PACA PACA SARVA PRATYARTHIKA PRATYĀMITRAṆĀṂ)

Duệ ma ma (YE MAMA)

A tứ đế sử noa (AHITEṢINA)

Đế sam, tát phệ sam, xả lị lãm, nhập-phộc la dã , nột sắt-tra tức đá nẫm_

Tát-phộc hạ (TEṢAṂ SARVESĀṂ ŚARIRAṂ JVALĀYA _ ADUṢṬA CITTĀNĀṂ_ SVĀHĀ)

Nhập-phộc lý đá dã _ Tát-phộc hạ (JVALITĀYA_ SVĀHĀ)

Bát-la nhập-phộc lý đá dã_ Tát-phộc hạ (PRAJVALITĀYA_ SVĀHĀ)

Nễ bát-đá nhập-phộc la dã_ Tát-phộc hạ (DĪPTA JVALĀYA_ SVĀHĀ)

Tam mãn đa nhập-phộc la dã_ Tát-phộc hạ (SAMANTA JVALĀYA_SVĀHĀ)

Ma ni bạt nại-la dã_ Tát-phộc hạ (MAṆIBHADRĀYA _ SVĀHĀ)

Bố la-noa bả nại-la dã_ Tát-phộc hạ (PŪRṆABHADRĀYA_ SVĀHĀ) Ma hạ ca la dã_ Tát-phộc hạ (MAHĀ KĀLĀYA_ SVĀHĀ)

Ma để-lị nga noa dã_ Tát-phộc hạ (MĀTṚ-GAṆĀYA SVĀHĀ)

Dã khất-sử ni nẫm_ Tát-phộc hạ (YAKṢAṆĪṆĀṂ_ SVĀHĀ)

La khất-ma tỷ nẫm_ Tát-phộc hạ (RĀKṢASĪṆĀṂ_ SVĀHĀ)

A ca xả ma để-lị nẫm_ Tát-phộc hạ (ĀKĀŚA MĀTṚNĀṂ_ SVĀHĀ)

Tam mẫu nại-la phộc tỷ nãnh nẫm_ Tát-phộc hạ (SAMUDRA VĀSINĪṆĀṂ_ SVĀHĀ)

La để-lị, tả la nẫm_ Tát-phộc hạ (RĀTṚ- CARĀNĀṂ_ SVĀHĀ)

Nễ phộc sa, tạt la nẫm_ Tát-phộc hạ (DIVASA CARĀNĀṂ_ SVĀHĀ)

Để-lị tán-đình, tạt la nẫm_ Tát-phộc hạ (TRISANTYA CARĀNĀṂ_SVĀHĀ)

Vĩ la, tạt la nẫm_ Tát-phộc hạ (VELA CARĀNĀṂ_ SVĀHĀ)

A vĩ la, tạt la nẫm_ Tát-phộc hạ (AVELA CARĀNĀṂ_ SVĀHĀ)

Nghiệt bà ha lệ tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (GARBHA HĀREBHYAḤ_ SVĀHĀ)

Nghiệt bà tán đá la ni. Hộ lỗ, hộ lỗ_ Tát-phộc hạ (GARBHA SANDHĀRAṆI_HURU HURU_ SVĀHĀ)

Án_ Tát-phộc hạ (OṂ_ SVĀHĀ)

Tát phộc_ Tát-phộc hạ (SVĀḤ_ SVĀHĀ)

Bộc_ Tát-phộc hạ (BHŪḤ_ SVĀHĀ)

Bộ phộc_ Tát-phộc hạ (BHŪVĀḤ_ SVĀHĀ)

Án, bộ la-bộ phộc, tát-phộc_ Tát-phộc hạ (OṂ_ BHŪR-BHŪVĀḤ SVĀḤ_SVĀHĀ)

Tức trưng, tức trưng_ Tát-phộc hạ (CITI CITI_ SVĀHĀ)

Vĩ trưng, vĩ trưng_ Tát-phộc hạ (VITI VITI_ SVĀHĀ)

Đà la ni_ Tát-phộc hạ (DHĀRAṆĪ_ SVĀHĀ)

Đà la ni_ Tát-phộc hạ (DHARAṆI_ SVĀHĀ)

A ngận-nãnh_ Tát-phộc hạ (AGNI_ SVĀHĀ)

Đế tổ, phộc bổ_ Tát-phộc hạ (TEJO VAPU_ SVĀHĀ)

Tức lị, tức lị _ Tát-phộc hạ (CILI CILI_ SVĀHĀ)

Tất lý, tất lý_ Tát-phộc hạ (SILI SILI_ SVĀHĀ)

Một đình, một đình_ Tát-phộc hạ (BUDDHYA BUDDHYA_ SVĀHĀ)

Tất đình, tất đình_ Tát-phộc hạ (SIDDHYA SIDDHYA_ SVĀHĀ)

Mạn noa la tất đệ_ Tát-phộc hạ (MAṆḌALA SIDDHE_ SVĀHĀ)

Man noa la mãn đệ_ Tát-phộc hạ (MAṆḌALA BANDHE_ SVĀHĀ)

Tỷ ma mãn đà nãnh_ Tát-phộc ha (ŚĪMA BANDHANI_ SVĀHĀ)

Tát phộc thiết đốt-lỗ nẫm, tiệm bà tiệm bà_ Tát-phộc hạ (SARVA ŚATRŪNĀṂ_ JAMBHA JAMBHA_ SVĀHĀ)

Sa đảm-bà dã, sa đảm-bà dã _ Tát-phộc hạ (STAMBHĀYA STAMBHĀYA_SVĀHĀ)

Thân ná, thân ná_ Tát-phộc hạ (CCHINDA CCHINDA_ SVĀHĀ) Tẫn ná, tẫn ná_ Tát-phộc hạ (BHINDA BHINDA_ SVĀHĀ)

Bạn nhạ, bạn nhạ_ Tát-phộc hạ (BHAÑJA BHAÑJA_ SVĀHĀ)

Mãn đà, mãn đà_ Tát-phộc hạ (BANDHA BANDHA_ SVĀHĀ)

Mãng hạ dã, mãng hạ dã_ Tát-phộc hạ ( MOHAYA MOHAYA_ SVĀHĀ)

Ma nĩ , vĩ thuấn đệ_ Tát-phộc hạ (MAṆI VIŚUDDHE _ SVĀHĀ)

Tố lị-duệ, tố lị-duệ, tố lị-dã, vĩ thuấn đệ, vĩ thú đà nãnh_ Sa-phộc hạ (SŪRYE_ SŪRYE_ SŪRYA_ VIŚUDDHE VIŚODHANE_ SVĀHĀ)

Chiến niết-lệ, chiến niết-lệ, bố la-noa chiến niết-lệ_ Tát-phộc hạ (CANDRE CANDRE PŪRṆA CANDRE_ SVĀHĀ)

Nghiệt-la nễ tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (GRAHEBHYAḤ_ SVĀHĀ)

Nhược khất-sát để-lệ tỳ-dược_ Tát-phộc hạ (NAKṢATREBHYAḤ_ SVĀHĀ)

Thủy phệ_ Tát-phộc hạ (ŚIVE_ SVĀHĀ)

Phiến để_ Tát-phộc hạ (ŚĀNTI_ SVĀHĀ)

Tát phộc sa để-dã dã nãnh_ Tát-phộc hạ (SVASTYA YANE _ SVĀHĀ)

Thủy noan yết-lị. phiến để yết lị, bổ sắt-trí yết lị, ma la mạt đạt nãnh_ Tát-phộc hạ (ŚIVAṂ KARI_ ŚĀNTI KARI_ PUṢṬI KARI_ BALA VARDHANI_ SVĀHĀ)

Thất-lị yết lị_ Tát-phộc hạ (ŚRĪ-KARI_ SVĀHĀ)

Thất-lị dã mạt đạt nãnh_ Tát-phộc hạ (ŚRĪYA VARDHANI_ SVĀHĀ)

Thất-lị dã nhập-phộc la nãnh_ Tát-phộc hạ (ŚRĪYA JVALAṆI_ SVĀHĀ)

Nẵng mẫu tỷ_ Tát-phộc hạ (NAMUCI_ SVĀHĀ)

Ma lỗ tỷ_ Tát-phộc hạ (MARUCI_ SVĀHĀ)

Phệ nga phộc để_ Tát-phộc hạ (VEGA VATI_ SVĀHĀ)

Án_ tát phộc đát tha nga đa một lị-đế (OṂ_ SARVA TATHĀGATA MŪRTTE)

Bát-la phộc la vĩ nga đa (PRAVARA VIGATI)

Bà duệ xả ma dã (BHAYE ŚAMAYA)

Tát-phộc mính (SVAME)

Bà nga phộc để (BHAGAVATI)

Tát phộc bá bế tỳ-dụ sa-phộc sa-để bà phộc đổ (SARVA PĀPEBHYAḤ SVĀSTIRBHAVATU)

Mẫu nãnh, mẫu nãnh, vĩ mẫu nãnh (MUṆI MUṆI VIMUṆI)

Tả lệ tả la ninh (CARE CALANE)

Bà dã vĩ nga đế (BHAYA VIGATE) Bà dã ha la ni (BHAYA HĀRAṆI) Mạo địa, mạo địa (BODHI BODHI)

Mạo đà dã, mạo đà dã (BODHIYA BODHIYA)

Một địa lý, một địa lý (BUDHILI BUDHILI)

Tát phộc đát tha nga đa hột-lã nãi dã, túc sắt tai- Tát-phộc hạ (SARVA TATHĀGATA HṚDAYA JUṢṬAI_ SVĀHĀ)

Án_ phộc nhật-la phộc để (OṂ_ VAJRA VATI)

Phộc nhật-la bát-la đề sắt-xỉ đế (VAJRA PRATIṢṬITE)

Thuấn đệ (ŚUDDHE)

Đát tha nga đa mẫu nại-la, địa sắt xá-nẵng, địa sắt xỉ-đế (TATHĀGATA MUDRA ADHIṢṬANA ADHIṢṬITE)

Tát-phộc hạ (SVĀHĀ)

Án_ mẫu nãnh, mẫu nãnh, mẫu nãnh phộc lệ (OṂ_ MUṆI MUṆI MUṆI VARE)

A tị tru tá đổ hàm (ABHIṢIṂCA TUMAṂ)

Tát phộc đát tha nghiệt đa (SARVA TATHĀGATA)

Tát phộc vĩ nễ-dã tị sái kế (SARVA VIDYA ABHIṢEKAI)

Ma hạ phộc nhật-la ca phộc tá mẫu nại-la (MAHĀ VAJRA KAVACA MUDRA)

Mẫu nại-lị đới (MUDRITEḤ)

Tát phộc đát tha nga đa khất-lã nãi dạ, địa sắt-xỉ đa (SARVA TATHĀGATA HṚDAYA ADHIṢṬITA)

Phộc nhật-lê_ Sa-phộc hạ (VAJRE _ SVĀHĀ)

Bấy giờ Đức Bạc Già Phạm nói Phổ Biến Quang Minh Thanh Tĩnh Xí Thịnh Như Ý Bảo Ấn Tâm Vô Năng Thắng Đại Minh Vương Tuỳ Cầu Đại Đà La Ni này xong, lại bảo nhóm Đại Phạm rằng: “Này Đại Phạm! Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện nào vừa mới nghe qua Đà La Ni này thì hết thảy tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt. Nếu hay đọc tụng thọ trì tại Tâm, nên biết người đó là thân kiên cố của Kim Cương, lửa chẳng thể đốt, đao chẳng thể hại, độc chẳng bị trúng.

_ Này Đại Phạm! Vì sao biết là Lửa chẳng thể thiêu đốt được? Ở đại thành Ca Tỳ La (Kapilavastu), lúc La Hầu La Đồng Tử (Rāhula-kumāra) còn nằm trong thai mẹ.

Mẹ Ngài tên là Gia Du Đà La (Yaśodhara), vốn là người nữ thuộc dòng Thích Ca (Śākya), bà bị ném vào hầm lửa. Lúc đó La Hầu La nằm trong thai mẹ nhớ niệm Đà La Ni này nên hầm lửa ấy liền tự trong mát, biến thành ao sen. Tại sao thế? Vì Đà La Ni này là lực gia trì của tất cả Như Lai vậy. Đại Phạm nên biết, do nhân duyên đấy mà lửa chẳng thể thiêu đốt được.

_ Lại nữa Đại Phạm! Chất độc chẳng thể gây hại. Như cái thành Thiện Du có người con của vị Trưởng Giả Phong Tài (Bhogavatī), trì tụng Mật Ngôn do Thế Thiên nói. Người đó dùng sức Trì Minh câu triệu Long Vương Đức Xoa Ca (Takṣaka) mà quên Kết Giới (Śīma-bandhana) Hộ Thân. Vị Long Vương ấy giận dữ nghiến răng làm cho người kia chịu nỗi đau khổ nặng nề và sắp sửa mất mạng. Rất nhiều người Trì Minh trợ giúp nhưng chẳng thể cứu hộ được. Ở trong cái thành ấy, có một vị Ưu Bà Di (Upāsika: Cận Sự Nữ) tên là Vô Cấu Thanh Tĩnh (Amala-viśuddhe) thường trì Tùy Cầu Đại Minh Đà La Ni này. Vị Ưu Bà Di đó đã thành tựu Đại Bi, khởi lòng thương xót đi đến nơi ấy dùng Đà La Ni này gia trì cho. Vừa mới tụng một biến thì chất độc kia liền bị tiêu diệt và người kia được bình phục như cũ. Khi đó người con của vị Trưởng Giả ở chỗ của vị Vô Cấu Thanh Tĩnh thọ nhận Đà La Ni này và ghi nhớ tại Tâm. Đại Phạm nên biết đó là chất độc chẳng thể gây hại được.

_ Lại nữa Đại Phạm! Ở thành Phiệt La Nại Tư (Vāraṇasī) có vị vua tên là Phạm Thí. Vua nước lân cận là kẻ có thế lực lớn nên đã khởi bốn loại binh đến chinh phạt Phạm Thí. Thời vị cân thần liền tâu với vua Phạm Thí rằng: “Đại Vương! Nay quân địch đi đến chiếm đoạt thành ấp của chúng ta. Mong Đại Vương ban lệnh cho chúng tôi phải dùng kế sách nào để đẩy lui quân địch ấy?”

Lúc đó, Phạm Thí bảo quần thần rằng: “Nay các ngươi đừng vội chống cự. Ta có Tùy Cầu Đại Minh Vương Đà La Ni. Do uy lực của Đà La Ni này hay đập tan quân địch khiến cho chúng giống như đám tro tàn vậy”

Các quần thần liền cúi đầu tâu rằng: “Đại Vương! Bọn hạ thần chúng tôi chưa từng nghe qua điều này”

Đức vua lại bảo rằng: “Nay các ngươi sẽ thấy sự hiệu nghiệm ngay lập tức”.

Khi ấy, Phạm Thí liền dùng nước thơm tắm gội, mặc áo mới sạch, y theo Pháp viết chép Đà La Ni này, bỏ vào trong cái hộp rồi đặt ở trong búi tóc trên đầu. Nhà vua dùng Đại Tuỳ Cầu Đà La Ni này hộ thân, mặc áo giáp rồi đi ngay vào quân trận. Một mình nhà vua đánh nhau với bốn loại binh, giáng phục và khiến chúng quy hàng.

_ Đại Phạm nên biết Đại Tùy Cầu Vô Năng Thắng Đà La Ni này là nơi gia trì của tất cả Như Lai Tâm Ấn nên có sự thần nghiệm to lớn. Ông nên thọ trì và phải biết Đà La Ni này ngang bằng với chư Phật. Sau này vào thời Mạt Pháp sẽ vì những Hữu Tình: đoản mệnh, kém phước, không có phước, chẳng chịu tu phước…. mà làm lợi ích cho họ vậy.

_ Này Đại Phạm! Đại Tùy Cầu Đà La Ni này, y theo Pháp viết chép rồi cột trên cánh tay hoặc đeo dưới cổ. Nên biết người đó là nơi gia trì của tất cả Như Lai. Nên biết người đó ngang đồng với Thân của tất cả Như Lai. Nên biết người đó là thân bền chắc của Kim Cương. Nên biết người đó là Thân của tất cả Như Lai Tạng. Nên biết người đó là con mắt của tất cả Như Lai, nên biết người đó là Thân ánh sáng rực rỡ của tất cả Như Lai. Nên biết người đó là giáp trụ bất hoại. Nên biết người đó hay đập nát tất cả oán địch. Nên biết người đó hay thiêu đốt tất cả tội chướng. Nên biết người đó hay làm cho nẻo Địa Ngục được thanh tịnh.

Này Đại Phạm! Vì sao lại biết được như thế ? Khi xưa có một vị Bật Sô (Bhikṣu: Tỳ Khưu) mang Tâm hoại niềm tin trong sạch (Tĩnh Tín), làm nhiều điều vi phạm Chế Giới của Như Lai, ăn trộm tài vật của Tăng hiện tiền với vật của Tăng Kỳ Chúng, vật của Tứ Phương Tăng đem dùng làm của riêng. Sau đó bị bệnh nặng phải chịu sự khổ não lớn lao. Thời vị Bật Sô ấy không có người cứu tế nên kêu gào to tiếng.

Tức ở xứ đó có một vị Ưu Bà Tắc (Upāsaka: Cận Sự Nam) thuộc dòng Bà La Môn (Brāhmaṇa) nghe tiếng kêu gào liền đi đến chỗ vị Bật Sô bị bệnh kia, khởi Tâm xót thương rộng lớn, liền vì vị Tăng ấy viết chép Tùy Cầu Đại Minh Vương Đà La Ni này rồi đeo dưới cổ vị Tăng. Vị Bật Sô ấy đều dứt hết mọi sự khổ não, chết ngay và bị đọa vào Địa Ngục Vô Gián. Thi hài của vị Bật Sô ấy được đưa vào trong cái Tháp nhưng trên thân vẫn đeo Đà La Ni đó. Do nhân ấy, khi vị Bật Sô vừa mới đọa vào Địa Ngục thì bao nhiêu sự đau khổ của kẻ thọ tội đều được chận đứng, thảy đều được an vui. Bao nhiêu ngọn lửa mạnh mẽ của Địa Ngục A Tỳ (Avīci) do sức Uy Đức của Đà La Ni này thảy đều tiêu diệt.

Bấy giờ Ngục Tốt Diêm Ma (Yamapāla-purūṣā) nhìn thấy hiện tượng đó thì rất kinh ngạc, liền đến trình báo với vua Diêm Ma (Yama-rāja) và nói Già Đà (Gātāà: Kệ Tụng) rằng:

“Nay Đại Vương nên biết

Việc này rất đặc biệt

Ở nơi hiểm ách lớn

Khổ não đều ngưng nghỉ

Nghiệp ác của chúng sinh

Ngọn lửa mạnh đều diệt

Cưa cắt tự dừng đứng

Đao kiếm chẳng thể hại

Cây đao và rừng kiếm

Các nỗi khổ giết mổ

Nồi nước nóng, ngục khác

Khổ não đều ngưng trừ

Diêm Ma (Yama) là Pháp Vương (Dharma-rāja)

Dùng Pháp trị Hữu Tình

Nhân duyên này chẳng nhỏ

Xin giúp tôi trừ nghi”

 

_ Thời Đức vua Diêm La

Từ Vô Bi Ngục Tốt

Nghe việc như vậy xong

Liền nói lời như vầy :

“ Việc này thật kỳ lạ!

Đều do nghiệp sở cảm

Ngươi đến thành Mãn Túc

Xét xem việc thế nào?”

 

_Ngục tốt nhận sắc lệnh

Ngay vào lúc đầu đêm

Phía Nam thành Mãn Túc

Nhìn Tháp của Bật Sô

Liền thấy trên thi hài

Đeo Chú Đại Minh Vương

Tuỳ Cầu Đà La Ni

Tỏa ánh hào quang lớn

Rực rỡ như đám lửa

Trời, Rồng với Dược Xoa

Chúng Tám Bộ vây quanh

Cung kính mà cúng dường

Thời Ngục Tốt Diêm Ma

Đặt hiệu Tháp Tuỳ Cầu (Pratisāraḥ: Đây là tên cái Tháp chứa thi hài của vị Tăng)

Khi ấy Ngục Tốt Diêm Ma (Yamapāla-purūṣā) quay về nơi vua ngự, trình bày đầy đủ sự việc trên với vua Diêm Ma: “Vị Bật Sô kia nương theo uy lực của Đà La Ni này mà tội chướng đều được tiêu diệt và được sinh về cõi Tam Thập Tam Thiên (Trāyastriṃśa-deva). Nhân vì thân trước, mà vị Trời này có hiệu là Tuỳ Cầu Thiên Tử (Pratisāra-devaputra)

_ Đại Phạm nên biết Đà La Ni này có uy lực to lớn. Ông nên thọ trì, viết chép, đọc tụng, y theo Pháp mà đội đeo ắt thường được xa lìa tất cả khổ não, tất cả nẻo ác và chẳng bị sấm sét gây thương hại.

Làm sao mà biết được?

Này Đại Phạm! Ở thành Hình Ngu Mật Đàn có vị Trưởng Giả tên là Vĩ Ma La Thương Khư (Vimala-śaṅkha). Ông là nhà cự phú, kho tàng cất chứa đầy dẫy vàng bạc với rất nhiều tiền gạo. Khi ấy Vị Trưởng giả đó là một vị thương chủ, ông dùng chiếc thuyền lớn đi vào biển để tìm kiếm báu vật. Lúc ở giữa biển lớn, ông gặp con cá Đề Di muốn phá nát thuyền. Vị Long Vương trong biển ấy lại sinh tâm giận dữ, khởi sấm sét lớn, gào thét tạo ra mây sấm và mưa đá Kim Cương.

Thời các thương nhân nhìn thấy cơn mưa đá sấm sét này đều buồn rầu phiền não và rất sợ hãi liền gấp rút kêu gọi cầu cứu nhưng vẫn không có ai đến cứu giúp. Bấy giờ chúng thương nhân đến gặp vị thương chủ, khóc lóc bi than và nói rằng: “Nhân Giả có kế sách nào cứu giúp cho chúng tôi xa lià khỏi nỗi lo âu sợ hãi này chăng?!…”

Lúc đó vị thương chủ không hề sợ hãi. Nhờ chí tính kiên cố, có đại Trí tuệ nên khi thấy các thương nhân bị sợ hãi bức bách .Ông liền bảo rằng: ”Này các thương nhân! Các ông đừng sợ mà hãy khởi tâm mạnh mẽ cứng cáp. Nay tôi sẽ giúp các ông miễn trừ sự sợ hãi này”

Các thương nhân ấy sinh tâm cứng mạnh, lại nói rằng: “Đại thương chủ! Nguyện xin mau chóng nói phương cách trừ tai nạn, khiến cho chúng tôi bảo tồn được mạng sống “

Vị thương chủ ấy liền bảo các thương nhân rằng: “Tôi có Đại Minh Vương tên là Tùy Cầu Đà La Ni, có thần thông to lớn hay giáng phục các điều khó điều phục. Nay tôi giúp các ông thoát khỏi sự ưu não này”

Vị thương chủ liền viết chép Tùy Cầu Đà La Ni này đặt trên đầu cây phướng. Tức thời con cá Đê Di nhìn thấy chiếc thuyền này tỏa ánh sáng rực rỡ như đám lửa mạnh mẽ. Do Đại Uy Lực Trí Hỏa của Đà La Ni này thiêu đốt, con cá Đê Di liền tiêu tan. Các hàng Long Vương ấy nhìn thấy tướng này đều khởi Tâm từ, liền bay từ trên hư không xuống, rộng làm cúng dường và đưa chiếc thuyền này đến bãi chứa vật báu.

Này Đại Phạm ! Điều này đều do Đại Trí Đại Minh Đại Tùy Cầu dùng nơi gia trì Thần Lực của tất cả Như Lai cho nên có tên là Đại Minh Vương (Mahā-vidya-rāja).

Nếu có người viết chép Đà La Ni này, đặt ở đầu cây phướng trên thuyền thì hay chận đứng tất cả gió ác, mưa đá, nóng lạnh không đúng thời tiết, sấm chớp, sét đánh. Hay chận đứng sự kiện cáo tranh đấu của tất cả chư Thiên. Hay trừ tất cả muỗi mòng, Hoàng Trùng (loài sâu ăn lúa mạ) với các loài ăn lúa mạ khác…thảy đều lui tan. Hay làm cho tất cả loài thú mạnh ác có móng vuốt sắc bén chẳng thể gây hại. Hay khiến cho tất cả lúa mạ, hoa quả, cỏ thuốc thảy đều tăng trưởng hương vị và có thân thể tốt đẹp trơn láng. Nếu đất nước bị nạn khô hạn chẳng thể điều phục, do uy lực của Đà La Ni này thì Long Vương vui vẻ tuôn mưa đúng thời tiết.

Lại nữa Đại Phạm! Nếu có nơi lưu bố Đại Tùy Cầu Đà La Ni này thì các Hữu Tình đã biết điều này, nên dùng hương hoa, phướng, lọng, mọi thứ cúng dường thượng diệu. Phải dùng vải lụa thù thắng bao bọc Kinh lại, đặt ở trong cái Tháp, hoặc đặt trên đầu cây phướng. Dùng mọi loại âm nhạc ca vịnh tán thán, nhiễu quanh cúng dường, chân thành lễ bái. Ắt mọi việc suy tư, ước vọng mong cầu trong Tâm của các Hữu Tình ấy đều được mãn túc.

_ Nếu có thể y theo Pháp viết chép rồi đeo giữ trên thân thì mọi mong cầu đều được . Cầu con trai được con trai, cầu con gái được con gái. Thai nhi an ổn lớn dần tròn đủ và sinh nở an vui.

Này Đại Phạm ! Làm sao mà biết được ? Xưa kia ở nước Ma Già Đà (Magadha) có vị vua tên là Thí Nguyện Thủ (? Pratisāra-pāṇi). Do nhân duyên gì mà có tên là Thí Nguyện Thủ? Lúc vị vua ấy sinh ra, liền giơ tay nắm bầu vú của mẹ. Do bàn tay chạm vào vú mẹ thì bầu vú mẹ biến thành màu vàng, vú mẹ tăng trưởng tự nhiên và tuôn chảy sữa. Nếu có chúng nhân đi đến cầu xin thì nhà vua duỗi bàn tay phải, khởi niềm tin trong sạch nơi Phật Bồ Tát thì chư Thiên nghiêng rót mọi thứ trân bảo màu nhiệm đều nhập vào bàn tay của nhà vua mà ban cho người cầu xin. Tùy theo sự tu hành của người ấy mà đều được đầy đủ và đều thành tựu mọi sự an vui. Do nhân duyên ấy nên có tên là Thí Nguyện Thủ.

Vị vua ấy vì cầu con nên cúng dường chư Phật với các Tháp Miếu nhưng cầu con chẳng được. Nhà vua giữ gìn Trai Giới, rộng bày Vô Già Thí Hội, rộng tu phước nghiệp hộ trì Tam Bảo, tu sửa chùa chiền bị phá hoại trong tương lai, làm một kho cất chứa.

Tại sao thế? Này Đại Phạm! Ta nhớ về thời quá khứ, ở quốc cảnh Ma Già Đà này trong thành Câu Thi Na (Kuśinagara), phần lớn tụ lạc Đại Lực Sĩ đều theo giáo Pháp của Như Lai. Khi ấy có một vị Trưởng Giả tên là Pháp Tuệ (Dharma-mati) đối với tất cả chúng sinh khởi Tâm Đại Bi, vì các Hữu Tình nói Pháp yếu của Đại Tùy Cầu Đà La Ni này.

Ngay thời ấy, ở trong nhà Trưởng Giả có một người nghèo nghe được Pháp màu nhiệm này thì nói với Trưởng Giả Tử rằng: “Trưởng Giả Tử! Tôi ở trong nhà của ông làm việc, thường vui nghe Pháp. Tôi sẽ cúng dường Pháp này”

Người nghèo túng ấy ở nhà của vị Trưởng Giả, làm đủ mọi việc, lại cúng dường Pháp. Về sau, lúc Trưởng Giả Tử ấy trao cho một đồng tiền vàng. Nhận xong, người ấy phát Tâm Bồ Đề muốn cứu giúp chúng sinh, rồi dùng Phước này hồi thí cho tất cả Hữu Tình. Người ấy liền đem đồng tiền vàng có được, cúng dường Đại Tùy Cầu Đà La Ni này và phát nguyện rằng: “Dùng Phước xả thí này, nguyện cho tất cả Hữu Tình cắt đứt được nghiệp nghèo túng”.

Do nhân duyên này mà Phước xả thí ấy không hề chấm dứt. Như vậy phần lớn nhân duyên gieo trồng Phước là cúng dường chư Phật Bồ Tát.

Vì phước nghiệp này, Tĩnh Cư Thiên Tử hiện ở trong mộng báo cho nhà vua rằng: “Nay Đại Vương có thể y theo Pháp, viết chép Tùy Cầu Đà La Ni này, khiến cho Đại Phu Nhân giữ Trai Giới và đeo giữ, ắt có con cái”.

Khi tỉnh giấc, nhà vua cho triệu thỉnh một người xem tướng với chúng Bà La Môn có Trí, chọn ngày trực của Tú Diệu tốt, y theo Pháp giữ Trai Giới, viết chép Đà La Ni này khiến cho Phu Nhân đeo dưới cổ. Lại liền cúng dường Tháp Tốt Đổ Ba (Stūpa:Tháp nhiều tầng), chư Phật Bồ Tát, rộng hành xả thí… Ứng thời có mang, đầy đủ ngày tháng sinh ra một đứa con đầy đủ sắc tướng đoan nghiêm thù thắng, người nhìn thấy đều vui vẻ.

Đại Phạm nên biết đây là uy lực của Vô Năng Thắng Vô Ngại Đại Tùy Cầu Bảo Ấn Tâm Đại Minh Vương Đà La Ni, là nơi cúng dường của tất cả Như Lai. Ai có mong cầu đều được vừa ý”

Lại bảo Đại Phạm: “Người nghèo làm công cho nhà Trưởng Giả Tử Pháp Tuệ lúc ấy chẳng phải ai xa lạ mà chính là Vua Thí Nguyện Thủ vậy. Do đời quá khứ xả thí một đồng tiền vàng, cúng dường Đại Tùy Cầu Đà La Ni này rồi hồi thí cho tất cả Hữu Tình. Do nhân duyên ấy mà được Phước vô tận, nên thân đời sau được làm quốc vương, tin tưởng trong sạch nơi Tam Bảo, Tâm chẳng thoái lui, rộng hành xả thí, thành tựu Đàn Ba La Mật (Dāna-pāramitā: Bố Thí Ba La Mật)”

 

 

QUYỂN HẠ

(Bách Thiên Ấn Đà La Ni Kinh, đồng quyển, dịch khác)

Lại nữa Đại Phạm! Lúc Thiên Đế Thích (Śakra) đánh nhau với A Tô La (Asura) thì Thiên Đế Thích thường đem Đà La Ni này đeo giữ ở trong búi tóc trên đỉnh đầu nên chúng của Trời Đế Thích chẳng bị thương tổn, thường đắc thắng và an ổn quay về Cung.

Bồ Tát mới phát Tâm cho đến Bồ Tát ở Cứu Cánh Địa, đeo giữ thì hay xa lìa mọi thứ chướng nạn, nghiệp Ma.

Nếu có người đeo Đà La Ni này tức là nơi gia trì của tất cả Như Lai, là nơi hộ niệm của tất cả Bồ Tát. Tất cả người, Trời, quốc vương, vương tử, đại thần, Bà La Môn, trưởng giả thường luôn cung kính lễ bái thừa sự. Tất cả hàng Trời (Deva), Rồng

(Nāga), A Tô La (Asura), Nghiệt Lộ Trà (Garuḍa), Khẩn Na La (Kiṃnara), Ma Hầu La Gia (Mahoraga), Nhân (Manuṣya), Phi Nhân (Amanuṣya) đều cung kính người đeo giữ ấy.Tám Bộ Trời Rồng của nhóm ấy đều nói người đó là bậc Đại Trượng Phu (Mahā-puruṣa)

Đức Như Lai lại nói: “Kẻ trai lành, người nữ thiện ấy đều hay đập nát tất cả Ma Chướng, xa lìa tất cả bệnh tật, xa lìa tất cả tai hoạnh, trừ tất cả ưu não, luôn là nơi thủ hộ của tất cả Trời Rồng “.

_ Đức Phật bảo: “Này Đại Phạm! Lại có bốn Đà La Ni gọi là Vô Năng Thắng Phi Đại Tâm Chân Ngôn. Nếu có ai viết chép, đeo móc trên thân thì thường nên tụng trì, thâm tâm suy tư Quán Hạnh ắt hay trừ bỏ mộng ác, việc chẳng lành, đều được thành tựu tất cả sự an vui.

_ “Án, A mật-lị đa, phộc lệ, phộc la phộc la, bát-la phộc la, vĩ thú đệ, hồng hồng, phả tra phả tra, sa-phộc hạ”

OṂ_ AMṚTA VARE_ VARA VARA PRAVARA VIŚUDDHE_ HŪṂ HŪṂ _ PHAṬ PHAṬ_ SVĀHĀ

_“Án, A mật-lị đa, vĩ lô chỉ nãnh, nghiệt bà, tăng la khất-sái ni, a yết lị-sái ni, hồng hồng, phả tra phả tra, sa-phộc hạ”

OṂ_ AMṚTA VILOKINI GARBHA_ SAṂRAKṢAṆI ĀKARṢAṆI_ HŪṂ HŪṂ _ PHAṬ PHAṬ_ SVĀHĀ

_“Án, vĩ ma lê, nhạ dã, phộc lệ, a mật-lị đế, hồng hồng hồng hồng, phả tra phả tra phả tra phả tra, sa-phộc hạ”

OṂ_ VIMALE JAYA VARE AMṚTE_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ HŪṂ _ PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ_ SVĀHĀ

_“Án, bả la, bả la, tam bả la tam bả la, ấn nại-lị dã, vĩ thú đà nãnh, hồng hồng, lỗ lỗ tả lệ, sa-phộc hạ”

OṂ_ BHARA BHARA _ SAMBHARA SAMBHARA_ INDRIYA VIŚODHANE_ RURU CALE_ SVĀHĀ

Vừa mới nói bốn Đại Đà La Ni này xong thì tất cả chư Phật, chư Đại Bồ Tát, Thanh Văn khác miệng cùng lời nói Đại Tùy Cầu Đại Minh Vương Vô Năng Thắng Đà La Ni Giáp Trụ Mật Ngôn Cú này. Dùng Ấn của tất cả Như Lai, ấn lên. Đà La Ni này rất khó được nghe huống chi là viết chép, thọ trì, đọc tụng, vì người khác diễn nói. Chính vì thế cho nên biết đó là Đại Phật sự.

Đức Như Lai khen ngợi khôn cùng, nói lời tùy hỷ, rất khó được nghe tên của Đại Tùy Cầu Đại Vô Năng Thắng Đà La Ni này, rất khó được nghe, rất ư khó được, hay diệt hết các tội. Đại lực dũng kiện, đủ đại Uy Đức Thần Lực, hay sinh vô lượng Công Đức, hay đập nát tất cả Ma chúng, hay cắt đứt tất cả nhóm tập khí với Ma chướng. Hay trừ tất cả Chân Ngôn khác, chất độc, yểm đảo, Dược Pháp (Pháp về thuốc men), Tướng Tăng Pháp (Pháp trợ nhau oán ghét), Giáng Phục Pháp. Hay khiến cho chúng sinh có Tâm ác khởi Tâm Đại Bi. Hay giúp đỡ yêu thích người cúng dường chư Phật Bồ Tát Thánh chúng. Hay hộ giúp kẻ viết chép thọ trì đọc tụng, lắng nghe Kinh Điển Đại Thừa (Mahā-yāna), lại hay mãn túc việc tu Phật Bồ Đề.

Này Đại Phạm! Trì Đại Tùy Cầu Vô Năng Thắng Đại Minh này chẳng bị hoại nát, ở tất cả nơi được đại cúng dường giống như Phật Đại Sư Lưỡng Túc Tôn. Làm sao biết được Minh Vương này hay nghiền nát tất cả Ma?

Đại Phạm! Vào thời quá khứ có Đức Phật tên là Quảng Bác Vi Tiếu Diện Ma Ni Kim Bảo Quang diễm Chiếu Diệu Cao Dũng Vương (Vipūla-pratita-vadana-sūktvamaṇi-kanaka-ratna-jvala-raśmi-prabha-abhyuṅgata-rāja) Như Lai Ứng Chính Giác, lúc mới thành Đạo đi đến Bồ Đề Trường (Bodhi-maṇḍa, hay Bodhi-gayā) muốn chuyển Pháp Luân (Dharma-cakra), tất cả Như Lai xưng tán.

Bấy giờ tất cả Ma với vô lượng câu chi na dữu đa quyến thuộc vây quanh, hiện mọi loại hình, phát ra âm thanh đáng sợ, bày ra mọi loại Ma cảnh, hiện làm Thần Thông, tuôn mưa đủ loại khí trượng tràn khắp bốn phương để gây chướng nạn. Khi ấy Quảng Bác Vi Tiếu Diện Ma Ni Kim Bảo Quang Diễm Chiếu Diệu Cao Dũng Vương Như Lai trong phút chốc tịch nhiên an trú, ý tụng Đại Tùy Cầu Đại Minh Vương Vô Năng Thắng Đại Đà La Ni này bảy biến.

Vừa tụng Đà La Ni này xong, trong khoảng sát na thì tất cả Ma Ba Tuần (Mārapāpman, hay Māra-pāpīyān) nhìn thấy từ mỗi một lỗ chân lông của Đức Như Lai ấy tuôn ra vô lượng câu chi trăm ngàn na dữu đa Kim Cương sứ giả (Vajra-ce.ca), thân mặc giáp trụ tỏa ánh hào quang lớn, đều cầm đao kiếm, búa, dây, gậy, côn, Tam Kích Xoa…. đều phát ra lời nói như vầy: “Bắt trói Ác Ma, nghiền nát loài có Tâm ác, chém đứt mạng của chúng, tán nát chư Ma đã gây chướng nạn cho Đức Như Lai, tức là tất cả ác Ma khó điều phục ấy”

Dùng Đại Uy Lực của Như Lai, ở trong lỗ chân lông hiện ra vị Đại Trượng Phu (Puruṣa). Các Chúng Ma ấy buồn thảm té lăn ra đất, đều bị mất: Tự Tính, Thần Thông, Biện Tài…. bỏ chạy tứ tán. Đức Như Lai dùng cây kiếm Đại Từ (Mahā-maitrakhaḍga) thắng được Ma cảnh thành Vô Thượng Bồ Đề (Agra-bodhi), liền chuyển bánh xe Pháp của tất cả Như Lai (Sarva-tathāgata-dharma-cakra) giống như tất cả Phật. Tất cả loài gây chướng, Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka), các Ma ác… thảy đều bị tồi hoại. Đức Như Lai liền chuyển bánh xe Pháp (Dharma-cakra) vượt khỏi biển lớn sinh tử đến được bờ bên kia (Pāramita: ý nói là bờ giải thoát).

Như vậy Đại Phạm! Đà La Ni này có thế lực lớn, hay được Thần Thông đi đến bờ bên kia. Nếu vừa mới nghĩ nhớ thì ở nơi hiểm nguy đều được giải thoát, vui thích thanh tịnh, Hữu Tình có Tâm Ác (Duṣṭa-citta)liền khởi Tâm Đại Từ (Mahā-maitracitta). Chính vì thế cho nên, Đại Phạm thường nên ghi nhớ, tác ý như lý, y theo Pháp viết chép mà thường đeo giữ.

_ Lại nữa Đại Phạm! Tại thành Ô Thiền Na (Ujayanī) có vị vua tên là Phạm Thí. Thời ấy có một người phạm vào tội nặng, nhà vua ra lệnh giết chết kẻ ấy. Người nhận lệnh đem tội nhân ấy vào trong núi giết chết. Khi vào hang núi, người áp giải tội nhân liền vung đao tính chém chết thì Tội nhân kia, lúc trước có đeo Tùy Cầu Vô Năng Thắng Đà La Ni này ở cánh tay phải, nay Tâm lại ghi nhớ. Do uy lực của Đại Minh này nên cây đao ấy lóe ra ánh sáng giống như đám lửa rồi gãy ra từng mảnh giống như bụi nhỏ.

Khi nhìn thấy hiện tượng này, người đao phủ kinh ngạc chưa từng có. Liền trình báo đầy đủ cho nhà vua hay. Đức vua nghe xong, rất tức giận lại sai đao phủ đem tội nhân ấy đẩy vào hang Dược Xoa, ở trong hang ấy có rất nhiều Dược Xoa (Yakṣa) khiến cho chúng ăn thịt tội nhân này. Người áp lãnh nhận sắc của vua xong, liền đem tội nhân đẩy vào hang Dược Xoa. Khi tội nhân mới vào hang thì chúng Dược Xoa vui vẻ thích thú chạy vội đến phía trước muốn ăn thịt tội nhân ngay. Do tội nhân ấy đeo Đại Tùy Cầu, vì sức Uy Đức cho nên chúng Dược Xoa nhìn thấy trên thân thể của tội nhân ấy có ánh hào quang rực rỡ chiếu soi. Các chúng Dược Xoa rất sợ hãi đều nghĩ rằng: “Lửa này muốn thiêu cháy chúng ta”. Chúng Dược Xoa ấy thấy việc đấy xong thì rất kinh sợ, liền đẩy tội nhân ra ngoài của hang rồi vây quanh lễ bái.

Khi ấy, Sứ giả lại trình báo đầy đủ cho vua hay. Nghe xong, nhà vua càng giận dữ hơn nữa, lại sai sứ giả cột tội nhân lại ném xuống sông sâu. Sứ giả vâng lệnh thi hành. Lúc tội nhân ấy vừa rơi xuống sông thì nước sông liền khô cạn giống như đất bằng (lục địa) và tội nhân kia liền đứng trên bờ, sợi dây cột trói tội nhân mỗi mỗi đứt đoạn từng mảnh.

Nhà vua nghe qua việc này thì rất kinh ngạc, vui vẻ mỉm cười, sinh đại kỳ đặc liền kêu tội nhân đến hỏi duyên cớ: “Vì sao ngươi lại thoát được nạn?”

Tội nhân đáp: “Tâu Đại Vương! Tôi không có thể tự giải thoát được (Sở dĩ tôi được thoát nạn) vì trên thân của tôi có đeo Đại Tùy Cầu Vô Năng Thắng Đại Minh Vương Đà La Ni

Vua liền khen ngợi: “Thật là lạ lùng! Đại Minh này quả là vi diệu hay dẹp tan tội chết”. Rồi nói Già Đà (Gāthā) rằng :

Đại Minh thật vi diệu !

Hay phá tan tội chết

Nơi chư Phật gia trì

Cứu giúp các Hữu Tình

Hay giải thoát bệnh khổ

Uy Đức của Đại Minh

Giải thoát sự chết yểu

Đại Bi Tôn đã nói

Hay chận bệnh tật lớn

Mau chứng Đại Bồ Đề (Mahā-bodhi)”

Bấy giờ nhà vua vui mừng hớn hở liền lấy Tùy Cầu đó cúng dường lễ bái và đem vải lụa cột trên đầu người bị tội, ban cho dây lụa Quán Đỉnh và xưng là Thành Chủ (Pháp của 5 nước Thiên Trúc. Nếu nhận vinh dự của chức quan (quan vinh) đều dùng vải lụa cột trên đầu, Quán Đỉnh, sau đó mới nhận chức)

Như vậy Đại Phạm! Đại Tùy Cầu Vô Năng Thắng Đại Đà La Ni này. Nếu có người đeo cột thì ở tất cả nơi chốn đều được đại cúng dường. Nếu chúng sinh có Tâm ác khó điều phục, đều khởi Tâm Từ và cùng nhau thuận phục. Vì thế nên thường đeo giữ Đại Đà La Ni này.

_ Lại nữa Đại Phạm! Nếu muốn đeo Đà La Ni này thì nên lựa ngày tốt, Tú tốt, giờ tốt… y theo Pháp viết Đà La Ni này

Thời Đại Phạm Vương nghe lời dạy đó xong thì rất vui vẻ, cúi năm vóc sát đất, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật rồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Dùng phương pháp nào

để viết chép Đại Tùy Cầu Vô Năng Thắng Đà La Ni này?”

Bấy giờ Đức Như Lai liền nói Già Đà bảo Đại Phạm rằng:

“_ Đại Phạm! Ông nên biết

Nay Ta vì ông nói

Thương nhớ các Hữu Tình

Khiến được an vui lớn

Mau lìa nghiệp bức bách

Giải thoát các bệnh tật

Phụ nữ được mang thai (người cầu con được như ý)

Hữu Tình lìa nghèo túng

Nghiệp khốn khó đều trừ

_ Nên vào giờ cát Tú (Sao Tú trực tốt)

Bày sa tú (Tinh tú làm bằng cát) tương ứng

Cần phải giữ Trai Giới

Mà cúng dường chư Phật

Phát Tâm Đại Bồ Đề

Lại sinh Tâm Bi Mẫn

Với khởi Tâm Đại Bi

Nghĩ lợi ích cho người

Khắp các loại Hữu Tình

Hương Long Não, Chiên Đàn (Candana)

Dùng nước hương này tắm

Mặc quần áo mới sạch

Liền đốt hương xông ướp

Nên dùng Cù Ma Di (Komayī: phân bò)

Mạn Trà La (Maṇḍala) nhỏ

Nên lấy năm Hiền Bình

Đều chứa đầy nước thơm

Cắm các loại hoa quả

Đặt ở bốn góc Đàn

Còn một cái giữa Đàn

Vòng hoa với hương đốt

Với hương xoa màu nhiệm

Nên đốt Ngũ Vị Hương

Đàn hương, Táp Tất Ca

Tô Hợp, Trầm, Thạch Mật

Hòa hợp rồi thiêu đốt

Đủ mọi thứ diệu hoa

Các hoa quả, hạt giống

Tùy thời đem cúng dường

Hương xoa dùng nghiêm sức

Tô, Mật với sữa, Lạc

Miến, Lúa và cháo sữa

Chứa đầy vật cúng dường

Ứng lượng đều tốt lành

Dùng chén bát sứ chứa

Bốn góc đầy mùi thơm

Cọc gỗ Khư Đà La (Khadira)

Đóng ở bốn góc Đàn

Dùng chỉ Ngũ Sắc cột

_ Ở ngoài bốn góc Đàn

Đại Phạm dùng Nghi này

Nếu cầu xin Tất Địa (Siddhi)

Nên ăn Tam Bạch Thực (3 thức ăn màu trắng)

Vẽ người Tùy Cầu này

Nên ngồi ở trong Đàn

Trải chiếu bằng tranh cói

Y Pháp mà tô vẽ

Hoặc lụa trắng, lụa màu

Hoặc dùng vỏ cây hoa

Hoặc lá hoặc vật khác

Viết Đà La Ni này

 

_ Người nữ cầu xin con

Nên dùng Ngưu Hoàng vẽ

Chính giữa đặt Đồng Tử (Kumāra)

Anh Lạc trang nghiêm thân

Bát chứa đầy trân bảo

Dùng tay trái cầm giữ

Ngồi ngay trên hoa sen

Lá sen đều nở rộng

Lại ở góc phía Tây

Tô vẽ bốn núi báu

Dùng vàng báu tô núi

Ân cần nên tô vẽ

Hay khiến thai an ổn

 

_ Trượng Phu cầu xin con

Nên dùng Uất Kim (màu vàng nghệ) vẽ

Ắt việc mong cầu ấy

Thảy đều được thành tựu

 

_ Ở bốn mặt Chân Ngôn

Nên vẽ mọi loại Ấn

Lại vẽ đóa hoa sen

Hoặc hai, hoặc ba, bốn

Cho đến năm hoa sen

Hoa ấy đều hé nở

Tám cánh đủ râu nhụy

Cuống hoa dùng lụa buộc

Trên hoa vẽ Tam Kích

Trên Kích lại buộc lụa

Lại vẽ cây búa lớn (Phủ việt)

Cũng ở trên hoa sen

Lại vẽ hoa sen trắng

Bên trên vẽ cây kiếm

Lại ngay trên hoa sen

Tô vẽ ngay Thương Khư (Śaṅkha: vỏ ốc)

Các hoa sen đã vẽ

Đều ở trong ao báu

 

_Nếu Trượng Phu đeo giữ

Chẳng nên vẽ Đồng Tử

Nên vẽ hình người Trời

Mọi thứ báu trang nghiêm

 

_ Nếu Đế Vương đeo giữ

Chính giữa nên tô vẽ

Quán Tự Tại Bồ Tát (Avalokiteśvara)

Lại ở nơi bốn mặt

Vẽ mọi loại Ấn Khế

 

_ Nếu là Bật Sô (Bhikṣu: Tỳ khưu) đeo

Nên vẽ Trì Kim Cương (Vajra-dhāra)

Phải: cầm chày Kim Cương

Quyền trái dựng ngón trỏ

Nghĩ loài khó điều phục

Lại nên ở bốn góc

Vẽ bốn vị Thiên Vương

 

_ Bà La Môn (Brāhmaṇa) đeo giữ

Tô vẽ Y Xá Na (Īśana: Tự Tại Thiên)

 

_ Nếu Sát Lợi (Kṣatriya) đeo giữ

Vẽ Ma Hê Thủ La (Maheśvara: Đại Tự Tại Thiên)

 

_ Nếu Tỳ Xá (Vaiśya) đeo giữ Tô vẽ Thiên Đế Thích (Indra)

Hoặc vẽ Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa)

 

_ Nếu Thủ Đà (Śūdra) đeo giữ

Nên vẽ Na La Diên (Nārāyaṇa)

 

_ Đồng nam hoặc đồng nữ

Vẽ Ba Xà Ba Đề (Prajāpati: Sinh Chủ, tên của vị Phạm Thiên)

 

_Người nữ sắc xanh, đeo

Vẽ Lô Đà La Thiên (Rudra)

 

_ Người nữ sắc trắng, đeo

Nên vẽ Danh Xưng Thiên

 

_ Nếu người nữ mập béo

Nên vẽ Bảo Hiền Tướng (Maṇi-bhadra)

 

_Người nữ gầy ốm, đeo

Vẽ Mãn Hiền Dược Xoa (Pūrṇa-bhadra-yakṣa)

 

_ Nếu phụ nữ mang thai

Nên vẽ Đại Hắc Thiên (Mahā-kāla)

Hoặc vẽ Phạm Thiên Vương (Brahma-deva-rāja)

 

_ Như vậy các loại người

Đều vẽ Bản Sở Tôn

Y Pháp mà vẽ chép

Thường đeo ở trên thân

Mong cầu đều như ý

 

_ Vàng, đồng làm Hoa Sen

Ở trên đặt Bảo Châu

Như Ý (Cintā-maṇi), hình rực lửa

Đặt trên đầu cây phướng

Ở trong viên ngọc này

An trí Đại Tùy Cầu

Ở trong Tùy Cầu đấy

Vẽ vị Chủ Ấp Thành

 

_ Nếu nhà cửa của mình

Dựng Tùy Cầu Sát (cây cột Tùy Cầu) này

Thì vẽ Bản gia chủ (chủ nhà)

Ở bốn mặt Tùy Cầu

Chung quanh vẽ hoa sen

Ở trên nhụy thai hoa

Vẽ một sợi dây lụa (Pāśa)

Chày Kim Cương (Vajra), bánh xe (Cakra)

Cây bổng (Daṇḍa), Xước Khất Để (Śakti )

Các Khế Ấn như vậy

Đều ngay trên hoa sen

Trên Sát (cây cột) treo phan lụa

Nên như Pháp cúng dường

Do Tùy Cầu Sát (cây cột Tuỳ Cầu) này

Hay hộ nước, thành, ấp

Với hộ giúp gia tộc

Trừ diệt hết tai hoạ

Ôn dịch, các bệnh tật

Đói khát chẳng lưu hành

Kẻ địch khó xâm hại

Quốc thổ đều an vui

 

_ Nếu gặp trời quá nắng

Hoặc lúc mưa ứ trệ

Nên vẽ Rồng chín đầu

Trên đầu có bảo châu

Tỏa ra ánh lửa mạnh

Ngay trên tim của Rồng

Vẽ một chày Kim Cương

Ở bốn mặt thân Rồng

Vẽ Đại Tùy Cầu này

Đặt ở trong cái rương

Cũng đặt trên cột phướng

Ứng thời tuôn mưa ngọt (Cam Vũ)

Mưa ứ trệ liền tạnh

 

_Thương Chủ dẫn mọi người

Hoặc dưới nước trên bờ

Các thương nhân đeo giữ

Nên vẽ hình Thương Chủ

Như trước đặt trên cột

Lìa giặc cướp, sợ hãi

Thảy đều đến bờ kia

Vì thế nên siêng năng

Đeo giữ và đọc tụng

Cát tường diệt các tội

 

_ Nếu là người niệm tụng

Nên vẽ Tôn của mình

 

_ Nếu Nhật (Sūrya), Nguyệt (Soma), Huỳnh Hoặc (Aṅgāraka: Hỏa Tinh)

Thần Tinh (Budha: Thuỷ Tinh) với Tuế Tinh (Vṛhaspati: Mộc Tinh)

Thái Bạch (Śukra:Kim Tinh) và Trấn Tinh (Śanaiścara: Thổ Tinh)

Tue (Ketu: Sao chổi) và La Hầu Diệu (Rāhu: Hoàng Phan Tinh, Thực Thần)

Nhóm Cửu Chấp (Nava-graha) như vậy

Lấn bức Bản Mệnh Tú

Gây ra các tai họa

Thảy đều được giải thoát

 

_ Hoặc có người Thạch Nữ (Phụ nữ không thể sinh con)

Phiến Xá Bán Xá Ca

Các loại người như vậy

Do đeo Đại Tùy Cầu

Liền có thể có con

Nếu loại này đeo giữ

Nên vẽ Cửu Chấp Diệu (Nava-graha)

Hai mươi tám Tú Thiên (Aṣa-viṃśatīnāṃ-nakṣatrānāṃ)

Giữa vẽ hình người đó

Mong cầu đều như ý

Như Thế Tôn đã nói

Đắc được nơi tối thắng

Đời này và đời khác

Thường được vui thù thắng

Ba mươi ba cung Trời

Tùy ý liền sinh vào

Vui thích Thiểm Bộ Châu (Jaṃbu-dvīpa)

Nhà Tộc Tính tối thắng

Được sinh vào Tộc ấy

Hoặc sinh Sát Lợi Thiên Hoặc nhà Bà La Môn

Do đeo Đại Tùy Cầu

Sinh nơi thù thắng này

_ Viết chép, giữ, đọc tụng

Y Pháp mà đeo giữ

Sinh về cõi An Lạc (Sukhavatī: Cực Lạc)

Hóa sinh trong hoa sen

Quyết định chẳng nghi ngờ

Tất cả chư Như Lai

Khen ngợi công đức này

Xưng dương không cùng tận

Đóng chặt cửa Địa Ngục

Hay mở các lối Trời (Thiên thú)

An vui đều thành tựu

Trí Tuệ đều viên mãn

Chư Phật và Bồ Tát

Thường an ủi người ấy

Thân thường nhận khoái lạc

Mạnh khỏe có Đại lực

Như Lai thành thật nói

Sẽ được Chuyển Luân Vị (Địa vị Chuyển Luân Thánh Vương)

An ủi chúng Trời người

Loài Tâm ác kinh sợ

 

_Tu Đà La Ni này

Chẳng lâu sẽ đắc được

Chẳng bị đao gây thương

Thuốc độc và nước, lửa

Thảy đều chẳng thể hại

Phi mệnh và chết yểu

Các tội đều xa lìa

Thấy, nghe và chạm thân

Ở tất cả thời xứ

Quỷ Mỵ với đấu tranh

Sợ hãi… đều tiêu diệt

Trùng ác với rắn độc

Ngục tù đều giải thoát

Mọi loại tật bệnh nặng

Thảy đều trừ diệt hết

 

_ Do tu trì Minh này

Ở các chúng Ma La (Māra: chướng ngại, loài Ma)

Không ngại, được thông đạt

Hay ở tất cả chốn

Đều được cúng dường lớn

Trong người được tối thắng

Gia hộ tu Chân Ngôn

 

TU HÀNH TÙY CẦU ĐẠI HỘ MINH VƯƠNG ĐÀ LA NI PHẨM THỨ HAI 

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Đại Phạm, nói Già Đà (Gāthā: Kệ Tụng) rằng:

“_ Nay Ta vì ông nói

Người tu hành Trì Minh

Nói nghi tắc gia hộ

Thương nhớ các Hữu Tình

Do sự ủng hộ này

Đắc được thành tựu lớn

Các phương xứ cư ngụ

Dùng làm Gia Trì này

Đắc được Vô Chướng Ngại (không có chướng ngại)

Tâm quyết định không nghi

Không sợ không nhiệt não

Trừ diệt tất cả Mỵ

Tùy thuận nơi (Nakṣatra) Diệu (Grahā)

Hay đoạn Nghiệp câu tỏa (xiềng xích cột trói)

Ác thực (thức ăn ác), ác khiêu mạch (việc ác đột ngột xảy ra)

Yếm Thư… đều tiêu diệt

Chẳng bị các oan gia (Śatrū)

Lấn hiếp gây thương tích

Ác thị (mắt nhìn lộ vẻ hung ác) với áp đảo

Chú, thuốc với Cổ Độc

Nơi nguy hiểm, địch quân

Nơi oán địch đáng sợ

Tất cả đều tiêu dung

 

_ Do sức Đại Tùy Cầu

Chư Phật đều ủng hộ

Nhất Thiết Trí Bồ Tát

Thảy đều làm gia hộ

Duyên Giác và Thanh Văn

Với nhiều chủng loại khác

Trời Rồng đại uy đức

Đều cùng nhau ủng hộ

 

_ Người tụng Mật Ngôn này

Do mới nghe điều này

Minh Vương Tối Thắng Tôn

Tất cả nơi Vô úy (không sợ hãi)

Mâu Ni (Muṇi) nói điều này

Mộng ác, việc làm ác

Sự bức bách cực ác

Bệnh tật vây quấn thân

Bệnh gầy tiêu xương thịt

Với nhiều loại bệnh khác

Đinh sang (Ung nhọt) các độc thũng (Gân thịt sưng vù lên)

Ác chú (bệnh về mùa Hè) với tai họa

Cắn nhai các Hữu Tình

Làm Hữu tình tổn hại

Việc đáng sợ, hại lớn

Thảy đều được trừ diệt

Do gia hộ Đại Minh

Dùng Minh này gia hộ

Sắp chết, được giải thoát

 

_Nếu dùng dây lụa đen

Đem đến cung Diêm Ma (Yama-pura)

Mệnh lại tăng tuổi thọ

Do viết đeo Đại Hộ

 

_ Nếu người hết tuổi thọ

Sau bảy ngày sẽ chết

Vừa vẽ đeo Minh này

Vô Thượng Đại Gia Hộ

 

_ Hoặc nếu vừa nghe qua

Y theo Pháp gia trì

Nơi nơi được an ổn

Tùy ý nhận an vui

 

_Sáu mươi tám Câu Chi

Một trăm Na Dữu Đa

Ba mươi ba chư Thiên

Trợ giúp cho Đế Thích

Đến hộ giúp người này

Tùy đi theo gia hộ

_Bốn Đại Hộ Thế Vương (Mahā-loka-pāla-rāja)

Kim Cương Thủ (Vajra-pāṇi), Đại Lực (Mahā-bala)

Một trăm Minh Tộc Chúng (Vidya-kulāya-gaṇa)

Thường gia hộ người ấy

_Nhật Thiên (Āditya-deva) và Nguyệt Thiên (Candra-deva)

Phạm Vương (Brahma-rāja) và Tỳ Nữu (Viṣṇu)

Tự Tại (Īśana), Dạ Ma Thiên (Yama-deva)

Bảo Hiền (Maṇi-bhadra) với Lực Thiên (Bala-deva)

Mãn Hiền (Pūrṇa-bhadra), Đại Dũng mãnh (Maha-vira)

Ha Lị Đế (Hāṛtye) cùng Con

Bán Già La (Pañcala), Bán Chi (Pañcika)

Câu Ma La Chúng Chủ (Kumāra-gaṇapati)

Cát Tường Đại Minh Phi (Śrī-mahā-vidya-rājñī)

Đa Văn (Vaiśravaṇa) và Biện Tài (Sarasvatī)

Thương Khí Ni (Śaṃkhini), Hoa Xỉ (Puṣpa-danti)

Nhất Kế (Eka-jaṭa), Đại Uy Đức (Mahā-teja)

Đại Dược Xoa (Mahā-yakṣa) như vậy

Thường thường sẽ ủng hộ

 

_ Thạch nữ ngưng sinh con

Mang thai đều tăng trưởng

Thường gia hộ người ấy

Cho đến giữ thọ mệnh

 

_ Trượng Phu thường được thắng

Nơi chiến đấu sợ hãi

Do mãn các nguyện này

Do y Tịnh Tín Thiên

Các tội đều tiêu diệt

 

_ Do viết Đại Minh này

Chư Phật thường quán sát

Đại uy đức Bồ Tát

Danh xưng ấy tăng trưởng

Phước thọ cũng như thế

Tài cốc (tiền của lúa gạo) đều phong thịnh

Đắc được thảy không nghi

Ngủ nghỉ và thức tỉnh Thảy đều được an vui

Oan gia và Quỷ Thần

Đều chẳng dám hủy hoại

Lúc đang ở chiến trường

Thường đều được đắc thắng

 

_ Nếu lúc tu Mật Ngôn

Hộ này là tối thắng

An vui tu các Minh

Đều được không chướng ngại

Tất cả Mật Ngôn Giáo

Thảy đều được thành tựu

Thâm nhập tất cả Đàn (Maṇḍala)

Mau thành Tam Muội Gia (Samaya)

Cho đến ở đời sau

Chư Phật đều ủy ký (giao phó việc)

 

_ Do trì Đại Hộ này

Các Cát tường đều mãn

Ý nguyện đều thành tựu

 

_ Do mới viết Minh này

Tất cả vui (lạc) phong thịnh

An vui buông tuổi thọ

Ắt sinh về nẻo lành (Thiện Thú)

 

_ Muốn sinh cực lạc quốc

Trì đeo Minh Vương này

Quyết định không nghi hoặc

 

_ Đấu tranh nơi kiện cáo

Trong chiến trận đáng sợ

Đều xa lìa sợ hãi

Như Phật thành thật nói

Thường được Túc Mệnh Trí

Đời đời đều không nghi

Quốc vương đều vui vẻ

Quyến thuộc với Hậu Cung

Hết thảy thường cung kính

Thường hoà cùng người thiện

Thảy đều sinh thương xót

Người cùng với chư Thiên

Khiến chở che giúp đỡ

Suốt cả ngày lẫn đêm

Đại Hộ Thành Tựu Minh

Đẳng Chính Giác đã nói

 

Bấy giờ Đức Bạc Già Phạm liền nói Tuỳ Cầu Đại Hộ Minh Vương Đại Tâm Đà La Ni là:

Nẵng mô mẫu đà gia (NAMO BUDDHĀYA )

Nẵng mô đạt ma dã (NAMO DHARMĀYA)

Ná mạc tăng già dã (NAMAḤ SAṂGHĀYA)

Nẵng mô Bà nga phộc đế, xả chỉ-dã mẫu nẵng duệ, ma ha ca lỗ ni ca dã, đát tha nghiệt đá dạ la-ha đế, tam miệu tam mẫu đà dã (NAMO BHAGAVATE ‘ŚĀKYAMUṆĀYE MAHĀ-KĀRUṆIKĀYA TATHĀGATĀYA ARHATE SAMYAKSAṂBUDDHĀYA)

Ná mạc táp đáp tỳ-dược tam miệu tam một đệ tỳ-dược (NAMAḤ SAPTEBHYAḤ_ SAMYAKSAṂBUDDHEBHYAḤ)

Ế sam, ná mạc sa khất-lị đát-phộc (EṢĀṂ NAMAḤ SKṚTVA)

Mẫu đà xả bà nẵng vật-lã đà duệ (BUDDHA ŚASANA VṚDHAYE)

A hạ nhĩ ná nãnh-dần (AHAMIDĀNYĀṂ)

Tam bát-la phộc khất-sái mính (SAṂPRAVA KṢA ME)

Tát phộc tát đát-phộc nộ kiếm bả dạ (SARVA SATVĀ DAKAṂPAYA)

I hàm vĩ niệm, ma hạ đế nghệ (IMĀṂ VIDYA MAHĀ TEJĪ)

Ma hạ ma la bả la khất-la hàm (MAHĀ MĀLA PARĀKRA MĀṂ)

Duệ thấp bà sử đam ma đát-la diễm (YE ṢYAṂ BHIṢITAṂ MĀTRĀYAṂ)

Phộc nhật-la sa nẵng ma nãnh sử tị (VAJRĀSANA MANĪṢIBHI)

Cật-la hạ tát phệ vĩ nẵng dã ca (GRAHA SARVE VINĀYAKA)

Thất-chế phộc đắc khất-sái noa, vĩ la dựng tát đá (ŚCA VATA KṢAṆA VIRAYAM GATA)

Đát nễ dã tha (TADYATHĀ)

Nghi lị, nghi lị, nghi lị ni (GIRI GIRI GIRIṆI)

Nghi lị phộc để (GIRI VATI)

Ngu noa phộc để (GUṆA VATI)

A ca xả phộc để (ĀKĀŚA VATI)

A ca xả truật đệ (ĀKĀŚA ŚUDDHE)

Bá bả vĩ nga đế (PĀPA VIGATE)

A ca thế nga nga nẵng đát lê (ĀKĀŚE GAGANA TALE)

A ca xả vĩ tá lị ni (ĀKĀŚA VICĀRIṆI)

Nhập-phộc lý đa thất lệ (JVALITA ŚIRE)

Ma ni mục khất-để khư (MAṆI MUKTI KHA)

Tức đa mạo lý đà lệ (CITTA BOLI DHARE)

Tô kế thế (SUKEŚE)

Tô phộc khất-đát-lê (SOVAKTRA)

Tô mật đát-lệ (SUNĪTRĪ)

Tô vạt la-noa mạo lý (SUVARṆA BOLI)

A để đế , a nỗ đáp-bán ninh ma nẵng nghiệt đế (ATĪTE AṆATMAṂNI MANA GATE)

Bát-la để-luật đáp-bán ninh (PRATYUTMAṂNI)

Nẵng mạc tát phệ sam mẫu đà nam (NAMAḤ SARVAṢĀṂ BUDDHĀNĀṂ)

Nhập-phộc lý đa đế nhạ tam mẫu đệ (JVALITA TEJA SAṂBUDDHE)

Tố mẫu đế (SUBUDDHE)

Bà nga phộc để (BHAGAVATE)

Tố la khất-sái mính (SURA KṢAṆI)

Tố khất-sái mính (SUKṢA ME)

Tố bát-la bệ (SUPRABHE)

Tố ná mính (SUDAME)

Tố nan đế (SUNĀṂTE)

Tả lệ (CARE)

Bà nga phộc để (BHAGAVATE)

Bả nại-la phộc để (BHADRA VATI)

Bả nại-lệ , tố bả nại-lệ (BHADRE SUBHADRE)

Vĩ ma lê nhạ dã bạt nại-lệ (VIMALE JAYA BHADRE)

Bát-la tán noa tán nị (PRACAṆḌA CAṆḌI)

Phộc nhật-la tán nị (VAJRA CAṆḌI)

Ma hạ tán nị (MAHĀ-CAṆḌI)

Kiểu lị (GAURI)

Hiến đà lị (GANDHĀRI)

Chế tán noa lý ( CERI CAṆḌALI )

Ma đặng nghĩ (MATAṂGI)

Phó yết tư xả phộc lị nại-la nhĩ nị (PUKAṢI ŚAVARI DRAMIṆḌI)

Lao nại-lị ni (RAUDRIṆI)

Tát phộc la-tha sa đà nãnh (SARVĀRTHA SĀDHANE)

Hạ nẵng hạ nẵng, tát phộc thiết đốt-lỗ nẫm (HANA HANA _ SARVA ŚATRŪNĀṂ)

Nhược hạ nhược ha (DAHA DAHA)

Tát phộc nột sắt-tra nam (SARVA DUṢṬANĀṂ)

Tất lệ đa (PRETA )

Tỷ xá tả ( PIŚĀCA )

Noa chỉ nãnh nam ( ḌĀKIṆĪNĀṂ )

Ma nộ sái (MANUṢYA)

Ma nộ sái nẫm (AMANUṢYANĀṂ)

Bả tả bả tả (PACA PACA)

Hột-lị nãi diêm vĩ đà-võng sa dã nhĩ vĩ đam (HṚDAYA VIDHVAṂSAYA JĪVITAṂ)

Tát phộc nột sắt-tra ngật-la hạ nẫm (SARVA DUṢṬA GRAHĀNĀṂ)

Nẵng xả dã nẵng xả dã (NĀŚAYA NĀŚAYA)

Tát phộc bá bả nãnh mính (SARVA PĀPAN IME)

La khất-sái, la khất-sái hàm (RAKṢA RAKṢA MĀṂ)

Tát phộc tát đát-phộc nan tả (SARVA SATVĀNĀṂCA)

Tát phộc bà dữu bát nại-la phệ tỳ-dược (SARVA BHAYOPADRAVEBHYAḤ)

Tát phộc nột sắt-tra nam (SARVA DUṢṬANĀṂ)

Mãn đà năng củ lỗ (BANDHANAṂ KURU)

Tát phộc chỉ lý-vĩ sái nẵng xả nãnh (SARVA KILIṢA NĀŚANI)

Mạt đa nan nị ma nãnh nãnh, tả lê để trí để trí nãnh (MĀTA NAṆḌI MĀNINI CALE TIṬI TIṬINI)

Đốt lai cụ la ni vị la ni (TUṬAI GHORAṆI VĪRAṆI)

Bát-la vạt la tam ma lệ (PRAVARA SAṂMARE)

Tán noa lý (CAṆḌALI)

Ma đặng kỳ (MATAṂGI)

Vạt tạt tư, tố mẫu lỗ yết tư xả phộc lị hướng ca lị nại-la vĩ nị (VACASI SUMURU PUKAṢI ŚĀVARI ŚAṂKARI DRAVIṆḌI)

Nhược hạ nãnh bả tả nãnh mạt ná nãnh (DAHANI PACANI MADANI)

Tát la tát la lê (SARA SARALE)

Tát la lãm bệ tứ nẵng (SARALAṂBHE HĪNA)

Mạt địa-dữu đắc-khất sắt-tra (MADHYOKṚṢṬA)

Vĩ ná lị ni vĩ đà lị ni ma tứ lý ( VIDĀRIṆI VIDHĀRIṆI MAHĪLI )

Ma hộ ma hộ lý nãnh (MAHO MAHOLINI)

Nghiệt nãi nãnh, nghiệt noa bạn tể (GAṆENI GAṆA PACE)

Mãn đế mãn đế nãnh (BATI BATINI)

Mãn đế chước khất-la chỉ nãnh (BATI CAKRA KINI)

Nhạ lê tổ lê (JALE CULE)

Xả phộc lị xả ma lị xả phộc lị (ŚAVARI ŚAMARI ŚĀVARI)

Tát phộc nhĩ-dã địa hạ la ni (SARVA VYADHI HĀRAṆI)

Tổ nị tổ nị nãnh (COṆḌI COṆḌINI)

Nãnh nhĩ nãnh nhĩ nãnh một (NIMI NIMINI NIMIṂ)

Đà lị để-lị lộ ca nhạ hạ nãnh ( DHARI TRILOKA JAHANI)

Để-lị lộ ca lộ ca yết lị (TRILOKA LOKA KARI)

Đát-lạt đà đổ ca (TRAIDHĀTUKA)

Nhĩ-dã Phộc lộ chỉ nãnh (VYĀVALOKINI)

Phộc nhật-la bả la thú bả xả khát nga chước khất-la để-lị thú la chấn đá ma ni (VAJRA PARAŚŪ PĀŚA KHAḌGA CAKRA TRIŚŪLA CINTĀMAṆI)

Ma hạ vĩ nễ-dã đà la ni (MAHĀ-VIDYA-DHĀRAṆĪ)

La khất-sái, la khất-sái hàm (RAKṢA RAKṢA MĀṂ)

Tát phộc tát đát-phộc nan tả (SARVA SATVĀNĀṂCA)

Tát phộc đát-la , tát phộc sa-tha nẵng nghiệt đát tả (SARVATRĀ SARVA STHANA GATAṢYA)

Tát phộc nột sắt-tra bà duệ tỳ-dược (SARVA DUṢṬA BHAYEBHYAḤ)

Tát phộc ma nộ sái ma nộ sái bà duệ tỳ-dược (SARVA MANUṢYA AMANUṢYA BHAYEBHYAḤ)

Tát phộc vĩ-dã địa tỳ-dược (SARVA VYĀDHIBHYAḤ)

Phộc nhật-lệ phộc nhật-la phộc để (VAJRE VAJRA VATI)

Phộc nhật-la bá ni đà lệ (VAJRAPĀṆI DHĀRE)

Tứ lý tứ lý (HILI HILI)

Nhĩ lý nhĩ lý (MILI MILI)

Tức lý tức lý (CILI CILI)

Tất lý (SILI)

Phộc la phộc la phộc la nễ (VARA VARA VARANI)

Tát phộc đát-la nhạ dã lạp đệ_ Sa-phộc hạ (SARVATRĀ JAYA LAṂDHI _SVĀHĀ)

Bá bả vĩ ná la ni (PĀPA VIDĀRAṆI)

Tát phộc nhĩ-dã địa ha la ni_ Sa-phộc hạ (SARVA VYĀDHI HĀRAṆI_ SVĀHĀ)

Tát phộc đát-la bà dã hạ la ni_ sa-phộc hạ (SARVATRĀ BHAYA HĀRAṆI _ SVĀHĀ)

Bổ sắt-trí sa-phộc sa-để bà phộc đổ ma ma (….) Sa-phộc hạ [PUṢṬI SVASASTIRBHAVATU MAMA (…….. ) SVĀHĀ]

Phiến để_ Sa-phộc hạ (ŚĀNTI SVĀHĀ)

Bổ sắt-trí_Sa-phộc hạ (PUṢṬI SVĀHĀ )

Nhạ dã đô nhạ duệ nhạ dã phộc để (JAYA TUJAYE JAYAVATI)

Nhạ dã vĩ bổ la vĩ ma lê_Sa-phộc hạ (JAYA VIPULA VIMALE_SVĀHĀ)

Tát phộc đát tha nghiệt đa, địa sắt-xá nẵng, bố la-để_Sa-phộc hạ (SARVA TATHĀGATA ADHIṢṬANA PURTI_SVĀHĀ)

Án_Bộ lị bộ lị phộc nhật-la phộc để (OṂ_ BHURI BHURI VAJRAVATI)

Đát tha nghiệt đa hột-lị nãi dã bố la ni tán đà la ni (TATHĀGATA HṚDAYA PURAṆI SANDHĀRANI )

Mạt la mạt la nhạ dã vĩ nễ-duệ (BALA BALA JAYA VIDYE)

Hồng hồng (HŪṂ HŪṂ)

Phát tra phát tra (PHAṬ PHAṬ)

Sa-phộc hạ (SVĀHĀ)

Đức Phật bảo Đại Phạm: “Nếu có người dùng câu cú của Như Lai Thân Minh Đà La Ni làm cứu tế nhiếp thọ gia hộ, hay làm Pháp Tức Tai, làm Pháp Cát Tường che chận sự trách phạt, thành Đại Gia Hộ.

_ Nếu có người sắp hết thọ mệnh, tụng Chân Ngôn này lại được diên mệnh tăng thọ, mạng sống kéo dài rất lâu, thường được an vui, được Đại Niệm Trì.

_ Nếu dùng chày Kim Cương vừa tụng niệm gia trì, giả sử có bị tai họa, đại tật phi mệnh đều được giải thoát. Tất cả bệnh tật đều được trừ diệt.

_ Người bị bệnh hoạn lâu ngày, tụng Chân Ngôn này gia trì vào góc áo Cà Sa rồi đem phủi phất lên người đó thì bệnh liền được trừ khỏi.

_ Người trì tung hàng ngày sẽ được Đại Thông Tuệ. Thành tựu được uy lực, đại cần dũng, biện tài. Tất cả tội chướng đã định theo nghiệp báo thảy đều trừ diệt. Tất cả Phật, Bồ Tát, Trời, Rồng, Dược Xoa… đối với người thọ trì Đà La Ni này sẽ khiến cho Tinh Khí nhập vào thân để tăng thêm uy lực, làm cho Thân Tâm thường được vui thích.

Này Đại Phạm ! Đại Minh Vương Đại Hộ Đà La Ni này. Nếu có người cho đến loài bàng sinh, cầm thú được nghe qua tai thì hết thảy nhóm ấy vĩnh viễn chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề (Agra-bodhi) huống chi là kẻ trai lành người nữ thiện có tịnh tín (niềm tin trong sạch). Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Bà Sách Ca, Ô Bà Tư Ca, Quốc Vương, Vương Tử, Bà La Môn, Sát Lợi với các loại khác … một lần nghe qua Đại Tùy Cầu Đại Hộ Đà La Ni này. Nghe xong, Thân Tâm tịnh tín, cung kính viết chép, đọc tụng, sinh Tâm ân trọng tu tập, vì người khác rộng diễn lưu bố.

Đại Phạm nên biết người này thảy đều mau chóng xa lìa tám loại Phi Mệnh (chết chẳng đúng mạng). Trong thân người đó chẳng sinh bệnh tật. Người đó chẳng bị lửa, chất độc, đao, gậy, Cổ Độc, áp đảo, Chú Trớ, các pháp thuốc ác gây tổn hoại đồng thời chẳng bị đau nhức thân thể, đau nhức đầu, các bệnh sốt rét phát theo chu kỳ 1 ngày, 2 ngày, 3 ngày, 4 ngày cho đến 7 ngày phát ra một lần và cũng chẳng bị các bệnh điên cuồng, thần kinh.

Do người này chính niệm ngủ nghỉ, chính niệm giác ngộ nên mau chóng chứng Đại Niết Bàn. Đời này được đại phú quý tự tại. Khi sinh ra, ở khắp mọi nơi thường được Túc Mệnh. Tất cả Người, Trời thảy đều yêu kính. Dung nghi đoan chính, đều được thoát khỏi tất cả nẻo Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Bàng Sinh giống như mặt trời tỏa sáng chiếu soi tất cả Hữu Tình, ví như mặt trăng đem Cam Lộ (Amṛta) rưới vẩy lên thân của tất cả Hữu Tình khiến cho yêu thích người đó. Dùng Cam Lộ của Pháp nhập vào trong sự tương tục trong Tâm của tất cả Hữu Tình… khiến cho tươi tốt, sáng bóng, vui vẻ. Tất cả hàng Dược Xoa (Yakṣa), La Sát (Rākṣasa), Bộ Đa (Bhūta), Tất Lệ Đa (Preta), Tất Xá Già (Piśāca), Điên Giản Quỷ (Unmāda: Quỷ điên cuồng), Noa Chỉ Ninh (Ḍākiṇī), chư Mỵ, Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka) hung ác … thảy đều dùng uy lực Đại Hộ của Đại Tùy Cầu khiến cho chúng chẳng dám xâm não. Nếu đến vùng lân cận, nghĩ nhớ Đại Hộ Minh Vương này thì tất cả loài có Tâm ác đối với người trì tụng sẽ phát sinh lòng vui vẻ, thọ giáo rồi bỏ đi.

Do uy lực của Đại Tùy Cầu Đại Hộ Minh Vương này, cuối cùng không có oán địch sợ hãi vì các oán địch đó chẳng dám lấn bức.

_ Hoặc nếu có người lỡ bị phạm tội với Quốc Vương, Đại Thần, Bà La Môn, Trưởng Giả…mà bị xử tội chết. Vào lúc thọ hình sắp bị đao kiếm chặt chém, nếu vừa nghĩ nhớ đến Đại Hộ Minh Vương này thì cây đao ấy sẽ gẫy nát từng đoạn giống như bụi nhỏ. Người thọ tội ấy liền được tỏ ngộ sự bình đẳng của tất cả Pháp và được sức Đại Niệm.

Bấy giờ Đức Như Lai nói Già Đà (Gāthā) rằng:

“_ Đại Hộ gia trì này

Thanh Tĩnh diệt các tội

Hay tác Tuệ Cát Tường

Tăng trưởng các Công Đức

Hay mãn các Cát Khánh (điều may mắn tốt lành)

Hay gặp mộng tươi đẹp

Hay tịnh các mộng ác

_Đại Minh Đại Hộ này

Giúp Trượng Phu, người nữ

Trong khoảng khắc giải thoát

Nơi trống vắng hiểm nguy

Được các nguyện mong ước

Như Chính Đẳng Giác nói

_ Nếu bị mất lối đi

Niệm Đại Minh Vương này

Mau chóng được đường chính

Được ăn uống thù thắng

_ Dùng Nghiệp thân khẩu ý

Thời trước gây các tội

Chẳng hề làm nghiệp lành

Vừa nhớ đến Minh này

Thảy đều được tiêu diệt

_ Viết chép và thọ trì

Chuyển đọc và niệm tụng

Vì người khác tuyên nói

Các Pháp đều thông đạt

Như vậy được Pháp Vị

Các tội liền tiêu diệt

Tâm Ý cầu niềm vui

Các việc đều thành tựu

Trong cái chết, sợ hãi

Thảy đều được cứu hộ

_ Vua, Quan với nước, lửa

Sương, mưa đá, trộm cướp

Chiến đấu và kiện cáo

Nạn thú nanh vuốt bén

Tất cả đều tiêu dung

_ Do tụng lạc xoa biến (Lakṣa: một trăm ngàn lần)

Mau thành tựu Minh này

Tất cả chư Phật nói

Xưng tụng khiến vui vẻ

Mãn tư lương (Sambhāra: lương thực, hành trang cá nhân) Bồ Đề (Bodhi)

_ Tất cả nơi trú ngụ

Nếu dùng Đại Minh này

Tạo làm nơi gia trì

Muốn làm các sự nghiệp

Việc lợi ích Ta, Người

Nhậm vận được thành tựu

Dùng Đại Hộ không nghi

 

_ Đại Phạm ! Ông nên biết

Nay Ta lại tuyên nói

Vì người bị bệnh nặng

Nên làm Tứ Phương Đàn (Đàn vuông vức)

Cù Ma (Gomayī: phân bò) hòa bùn đất

Dùng phấn ngũ sắc vẽ

Mà làm Mạn Trà La (Maṇḍala)

Đặt bốn bình bốn góc

Bậc Trí y Nghi Quỹ

Rải các hoa trên Đàn

Nên đốt hương thù thắng

Dâng mọi thức ăn uống

Khiến người thấy tịnh tín

Như vậy dùng hương hoa

Y theo Pháp phụng hiến

Bốn góc cắm bốn tiễn (4 mũi tên)

Dùng chỉ ngũ sắc quấn

Khiến người bệnh tắm gội

Mặc quần áo thanh tịnh

Toàn thân bôi dầu thơm

Dẫn vào chính giữa Đàn

Ngồi đối mặt phương Đông

_ Bấy giờ người Trì Minh

Tụng Đại Minh này trước

Khiến đầy đủ bảy biến

Tự gia trì thân mình

Tiếp tụng hăm mốt biến (21 lần)

Gia trì cho người bệnh

Do tụng Đại Hộ này

Các bệnh đều ngưng trừ

_ Liền lấy một bình nước

Đầy hương hoa ẩm thực

Tác gia hộ bảy lần

Ném xa về phương Đông

Tiếp lấy bình phương Nam

Hương, hoa, thực (thức ăn) như Giáo

Như trước tụng bảy biến

Ném xa về phương Nam

Tiếp dùng bình phương Tây

Hương, hoa , thức ăn uống

Y Pháp gia trì trước

Phương Bắc cũng như thế

Bấy giờ người trì tụng

Ngửa mặt hướng phương trên

Tụng Minh này một biến

Thành gia trì thù thắng

_ Đại Phạm ! Làm xong rồi

Tất cả khổ đều trừ

Pháp gia trì như vậy

Thích Sư Tử (Śākya-siṃha) đã nói

Trong tất cả các Pháp

Không có gì sánh bằng

Thắng Hộ (hộ giúp hơn hẳn) trong ba cõi (Tam Giới)

Người đó không chết yểu

Không già cũng không bệnh

Khổ: Oán ghét, Ly Biệt

_ Nếu hay tại Lý Quán

Tâm xa lìa buồn khổ

Với lìa khổ Thọ Uẩn

Chúng Diêm Ma cúng dường

Pháp Vương cõi Diêm Ma

Cung kính mà thừa sự

Bảo người Trì Minh ấy

Mau qua nơi Thiên Thú (cõi Trời)

Do Đại Minh này nên

Địa Ngục đều hết sạch

Ắt ngự Cung Điện diệu

Đủ uy lên trên Trời

Tất cả Người và Trời

Chúng Dược Xoa, La Sát

Hết thảy đều cúng dường

Thường sẽ được Phước này

Thế nên thường Thọ Trì

_ Kim Cương Thủ Bồ Tát (Vajra-pāṇi-bodhisatva)

Bí Mật Dược Xoa Tướng

Đế Thích (‘Sakra), Xá Chi Hậu (Śaci: vợ của Đế Thích)

Chúng Ha Lị Đế Mẫu (Hāṛtye-mātṛ)

Bán Chi Ca Dược Xoa (Pañcika-yakṣa)

Hộ Thế Đại Uy Đức

Nhật (Āditya: mặt trời), Nguyệt (Candra: mặt trăng) và Tinh Tú (Nakṣatra) Chấp Diệu (Grahā), loài mãnh ác

Tất cả Đại Long Vương (Mahā-nāga-rāja)

Chư Thiên (Devānāṃ) và Tiên Chúng (Ṛṣī-gaṇa)

A Tu La (Asura) với Rồng (Nāga)

Kim Xí (Garuḍa), Càn Thát Bà (Gandharva)

Khẩn Na (Kiṃnara), Ma Hầu La (Mahoraga)

Do viết đeo Minh này

Luôn luôn theo bên cạnh

Do y Pháp tụng trì

Đắc được đại vinh thịnh (hiển đạt hưng thịnh lớn lao)”

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói Kinh này xong thời các Đại Bồ tát, chúng Đại Thanh Văn với Phạm Thiên Vương, tất cả hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, A Tô La, Càn Thát Bà, Nghiệt Lộ Trà, Khẩn Na La, Ma Hô La Già, Người, Phi Nhân … đều rất vui vẻ, tin nhận phụng hành.

 

KINH PHỔ BIẾN QUANG MINH THANH TĨNH XÍ THỊNH NHƯ Ý BẢO ẤN

TÂM VÔ NĂNG THẮNG ĐẠI MINH VƯƠNG ĐẠI TÙY CẦU ĐÀ LA NI

_Hết_

 

TÙY CẦU ĐẠI HỘ MINH VƯƠNG ĐẠI TÂM ĐÀ LA NI

(Bản này y theo Bản đời Minh cf.P.626)

  1. Nẵng mô mẫu đà dã (NAMO BUDDHĀYA)
  2. Nẵng mô đạt ma dã (NAMO DHARMĀYA)
  3. Ná mạc tăng già dã (NAMAḤ SAṂGHĀYA)
  4. Nẵng mô bà nga phộc đế (NAMO BHAGAVATE)
  5. Xá chỉ-dã mẫu nẵng duệ (ŚĀKYAMUṆĀYE)
  6. Ma hạ ca lỗ ni ca dã (MAHĀ KĀRUṆIKĀYA)
  7. Đát tha nghiệt đá dạ (TATHĀGATĀYA)
  8. La-hạ đế, Tam muội tam mẫu đà dã (ARHATE SAMYAKSAṂBUDDHĀYA)
  9. Ná mạc táp đáp Tỳ-dược Tam miệu tam một đề tỳ-dược (NAMAḤ SAPTEBHYAḤ SAMYAKSAṂBUDDHEBHYAḤ )
  10. Ê sam ná mạc sa cật-lị đát-phộc (EṢĀṂ NAMAḤ SKṚTVĀ)
  11. Mẫu đà xá sa nẵng vật-lã đà duệ (BUDDHA ŚASANA VṚDHAYE)
  12. A hạ A ná nãnh-dần (AHAM ADĀNYĀṂ)
  13. Bát-la phộc khất-sái mính ( PRAVAKṢA ME)
  14. Tát phộc tát đát-phộc nỗ kiến bả dạ (SARVA SATVA ANUKAṂPAYĀ)
  15. I hàm _ vĩ niệm _ ma hạ đế cữu (IMĀṂ VIDYA MAHĀ-TEJĪ)
  16. Ma hạ ma la bả la cật-la hàm (MAHĀ-MĀLA PARĀKRAMĀṂ)
  17. Duệ xiêm bà sử đam ma tị đát-la diễm (YE ṢYAṂ BHAṢITAṂ MĀTRĀYAṂ)
  18. Phộc nhật-la sa nẵng ma nãnh sử lị (VAJRĀSANA MAṆI SIRI)
  19. Ngật-la hạ _ Tát phộc vĩ nẵng dã ca (GRAHA SARVA VINĀYAKA)
  20. Thất-chế tát đát đắc-vĩ-sái noa vĩ la dựng nghiệt đá (ŚCA VATA KṢAṆA VĪRAYAṂ GATA)
  21. Đát nễ dã tha (TADYATHĀ)
  22. Nghĩ lị, nghĩ lị, nghĩ lị ni (GIRI GIRI GIRIṆI)
  23. Nghĩ lị phộc để (GIRI VATI )
  24. Ngu noa phộc để (GUṆA VATI)
  25. A ca xả phộc để (ĀKĀŚA VATI)
  26. A ca xả la truật đệ _ Bá bả vĩ nga đế (ĀKĀŚA ŚUDDHE_ PĀPA VIGATE)
  27. A ca thế nga nga nẵng đát lê (ĀKĀŚE GAGANA TALE)
  28. A ca xả vĩ tá lị ni (ĀKĀŚA VICĀRIṆI)
  29. Nhập-phộc lý đa thất-lê (JVALITA ŚIRE)
  30. Ma ni mục cật-để khư, tức đa mạo lý đà lê (MAṆI MUKTI KHA CITTA BOLI DHARE)
  31. Tô kế thế (SUKEŚE)
  32. Tô phộc cật đát lê (SUVAKTRĪ)
  33. Tô mật đát lê (SUNĪTRĪ)
  34. Tô vạt la-noa mạo lý (SUVARṆA BOLI)
  35. A để đế, A noa đáp-bán ninh, ma nẵng nghiệt đế (ATĪTE AṆĀTMAṂNI MANA GATE)
  36. Bát la để-luật đáp-bán ninh (PRATYUTMAṂNI)
  37. Nẵng mô tát phệ sam mẫu đà nam (NAMO SARVEṢĀṂ BUDDHĀNĀṂ)
  38. Nhập-phộc lý đa đế nhạ tam mẫu đệ (JVALITA TEJA SAṂBUDDHE)
  39. Tố mẫu đệ (SUBUDDHE)
  40. Bà nga phộc để (BHAGAVATE)
  41. Tố la khất-sái ni (SURA KṢAṆI)
  42. Tố khất-sái mính (SUKṢA ME)
  43. Tố bát-la bệ (SUPRABHE)
  44. Tố ná mính (SUDAME)
  45. Tố nam đế (SUNĀṂTE)
  46. Ca lê (CALE)
  47. Bà nga phộc để (BHAGAVATE)
  48. Bạt nại-la Phộc-để (BHADRA VATI)
  49. Bạt nại-lê (BHADRE)
  50. Tố bạt nại-lê (SUBHADRE)
  51. Vĩ ma lê nhạ dã bạt nại lê (VIMALE JAYA BHADRE)
  52. Bát-la tán noa tán nị (PRACAṆḌA CAṆḌI)
  53. Phộc nhật-la tán nị (VAJRA CAṆḌI)
  54. Ma hạ tán nị (MAHĀ-CAṆḌI)
  55. Kiểu lị (GAURI)
  56. Hiến đà lị (GANDHĀRI)
  57. Lai lý tán noa lý (CERI CAṆḌALI)
  58. Ma đặng nghĩ (MATAṄGI)
  59. Phú yết tư xả phộc lị nại-la nhĩ lị (PUKASI ŚĀVARI DRAMIṆḌI)
  60. Lao nại-lị ni (RAUDRIṆI)
  61. Tát phộc la-tha sa đà nãnh (SARVĀRTHA SĀDHANE)
  62. Hạ nẵng Hạ nẵng (HANA HANA)
  63. Tát phộc thiết đốt-lỗ nẫm, nhược hạ nhược hạ (SARVA ŚATRŪNĀṂ DAHA DAHA)
  64. Tát phộc nột sắt-tra nam (SARVA DUṢṬANĀṂ)
  65. Tất-lệ đa, Tỳ xá tả noa chỉ nãnh nam (PRETA PIŚĀCA ḌĀKIṆĪNĀṂ)
  66. Ma nỗ sái ma nỗ sái nẫm (MANUṢYA AMANUṢYANĀṂ)
  67. Bả tả Bả tả (PACA PACA)
  68. Hột-lị nãi diêm, vĩ đà-võng sa dã nhĩ vĩ đam (HṚDAYAṂ VIDHVAṂSAYA JĪVITAṂ)
  69. Tát phộc nột sắt-tra ngật-la hạ nẫm (SARVA DUṢṬA GRAHANĀṂ)
  70. Nẵng xả dã, nẵng xả dã (NĀŚAYA NĀŚAYA)
  71. Tát phộc bá bả nãnh mính la khất-sái la khất-sái hàm (SARVA PĀPA NIME RAKṢA RAKṢA MĀṂ)
  72. Tát phộc tát đát-phộc nam tả (SAVA SATVĀNAṂCA)
  73. Tát phộc bà dữu bát nại-la phệ tỳ-dược (SARVA BHAYOPADRAVEBHYAḤ)
  74. Tát phộc nột sắt-tra nam mãn đà năng củ lỗ (SARVA DUṢṬANĀṂ BANDHANAṂ KURU)
  75. Tát phộc chỉ lý-vĩ sái nẵng xả nãnh (SARVA KILIṢA NĀŚANI)
  76. Mạt đa nam nị ma nãnh nãnh tả lê để trí để trí nãnh (MĀTA NAṆḌI MĀNINI CALE TIṬI TIṬINI)
  77. Đốt tại cụ la ni vị la ni (TUṬAI GHORAṆI VĪRAṆI)
  78. Bát-la vạt la, tam ma le (PRAVAVA SAṂMALE)
  79. Tán noa lý (CAṆḌALI)
  80. Ma đăng kỳ (MATAṄGI)
  81. Vạt tạt tư tố lỗ phó yết tư xả phộc lý hướng ca lị nạo-la vĩ lị (VACASI SURU PUKASI ŚĀVARI ŚAṂKĀRI DRAVAṆḌI)
  82. Nhược hạ nãnh bả tả nãnh mạt ná nãnh (DAHANI PACANI MADAṆI)
  83. Tát la la, tát la lê (SARALA SARALE)
  84. Tát la lãm bệ tứ nẵng (SARALAṂBHE HĪNA)
  85. Mạt địa-dữu đắc-cật-lị sắt-tra (MADHYOKṚṢṬA)
  86. Vĩ ná lị ni (VIDĀRIṆI)
  87. Vĩ đà lị ni (VIDHĀRIṆI)
  88. Ma tứ lý (MAHĪLI)
  89. Ma hộ ma hộ lý nãnh (MAHO MAHO LINI)
  90. Tát nãi nãnh tát noa bạn tễ (GAṆENI GAṆA PACE)
  91. Mãn đế mãn để nãnh (VATI VATINI)
  92. Mãn đế chước cật-la phộc chỉ nãnh (VATI CAKRA VĀSINI)
  93. Nhạ lê tổ lê (JALE CULE)
  94. Xả phộc lị xả ma lị xả phộc lị (ŚĀVARI ŚAMARI ŚĀVARI)
  95. Tát phộc nhĩ -dã địa hạ la ni (SARVA VYĀDHI HĀRAṆI)
  96. Tổ nị tổ nị nãnh (COṆḌI COṆḌINI)
  97. Nãnh nhĩ nãnh nhĩ ( NIMI NIMI )
  98. Nãnh mẫn đà lị để lị lộ ca nhạ hạ nãnh (NIMIṂ DHARI TRILOKA JAHANI)
  99. Đệ-lị lộ ca lộ ca yết lị (TRILOKA LOKA KARI)
  100. Đát-lạt đà đổ ca nhĩ-dã phộc lộ chỉ nãnh (TRAIDHĀTUKA VYĀVALOKINI)
  101. Phộc nhật-la bả la thú bá xả Khát nga chước cật-la để lị thú la đá ma ni (VAJRA PRAŚŪ PĀŚA KHAḌGA CAKRA TRIŚŪLA CINTĀMAṆI)
  102. Ma hạ vĩ nễ-dã đà la ni (MAHĀ-VIDYA-DHĀRAṆĪ)
  103. La khất-sái la khất-sái Hàm _ Ma ma tát phộc tát đát-phộc nam tả (RAKṢA RAKṢA MĀṂ MAMA SARVA SATVĀNĀṂCA)
  104. Tát phộc tát-la tất phộc sa-tha nẵng nghiệt đát tả (SARVATRĀ SARVA STHANA GATASYA)
  105. Tát phộc nột sắt-tra bà duệ tỳ-dược (SARVA DUṢṬA BHAYEBHYAḤ)
  106. Tát phộc ma nỗ sái, ma nỗ sái bà duệ tỳ-dược (SARVA MANUṢYA AMANUṢYA BHAYEBHYAḤ)
  107. Tát phộc vĩ-dã địa tỳ-dược ( SARVA VYĀDHIBHYAḤ)
  108. Phộc nhật-lê phộc nhật-la phộc để (VAJRE VAJRA-VATI)
  109. Phộc nhật-la bá ni đà lê (VAJRA-PĀṆI DHĀRE)
  110. Tứ lý tứ lý (HILI HILI)
  111. Nhĩ lý nhĩ lý (MILI MILI)
  112. Tức lị tức lị (CILI CILI)
  113. Tất lý tất lý (SILI SILI)
  114. Phộc la phộc la phộc la nễ (VARA VARA VARANI)
  115. Tát phộc đát-la nhạ dã lạp đệ _ Sa-phộc hạ (SARVATRĀ JAYA LAṂVI SVĀHĀ)
  116. Bá bả vĩ ná la ni (PĀPA VIDĀRAṆI)
  117. Tất phộc nhĩ-dã địa hạ la ni _ Sa-phộc hạ (SARVA VYĀDHI HĀRAṆI SVĀHĀ)
  118. Tát phộc đát-la bà dã, hạ la ni _ Sa-phộc hạ (SARVATRĀ BHAYA HĀRAṆI SVĀHĀ)
  119. Sa-phộc Sa-để bà phộc đô ma ma (……), sa-phộc hạ (SVASTIRBHAVATU MAMA….)
  120. Phiến để _ Sa-phộc hạ (ŚĀNTI SVĀHĀ)
  121. Bổ sắt-trí_ Sa-phộc hạ (PUṢṬI SVĀHĀ)
  122. Nhạ dã đô nhạ duệ nhạ dã phộc để (JAYA TUJAYE JAYA-VATI)
  123. Nhạ dã vĩ bổ la vĩ ma lê_ Sa-phộc hạ (JAYA VIPULA VIMALE SVĀHĀ)
  124. Tát phộc đát tha nghiệt đa, địa sắt-xá nẵng bố la-để_ Sa-phộc hạ (SARVA TATHĀGATA ADHIṢṬANA PURTI SVĀHĀ)
  125. Án _ Bộ lị, bộ lị _ Phộc nhật la phộc để (OṂ_ BHURI BHURI VAJRAVATI)
  126. Đát tha nghiệt đa hột lị nãi dã _ Bố la ni Tán đà la ni (TATHĀGATA HṚDAYA PURAṆI SANDHARAṆI)
  127. Mạt la mạt la nhạ dã vĩ nễ-duệ, hồng hồng, phát tra, phát tra, sa-phộc hạ (BALA BALA JAYA VIDYE _ HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ_ SVĀHĀ)

Hiệu chỉnh xong một Bộ gồm hai quyển vào ngày 15/04/2013

 

_ Trời, Rồng, A Tu La, Dạ Xoa
Đến nghe Phật Pháp nên chí Tâm
Ủng hộ Phật Pháp mãi trường tồn
Mỗi mỗi siêng tu lời Phật dạy
Bao nhiêu Hữu Tình đến chốn này
Hoặc trên đất bằng, hoặc hư không
Thường đối người đời khởi Tâm Từ
Ngày đêm tự mình nương Pháp ở

_ Nguyện các Thế Giới thường an ổn
Vô biên Phước Trí lợi quần sinh
Bao nhiêu tội nghiệp thảy tiêu trừ
Xa lìa các khổ về Viên Tịch
Hằng dùng Hương Giới xoa vóc sáng
Thường khoác áo Định để an thân
Hoa Diệu Bồ Đề trang nghiêm khắp
Tùy theo chỗ ở thường an lạc