PHẬT NÓI KINH CÂU CHỈ LA ĐÀ LA NI

Hán dịch: Minh Giáo Đại Sư PHÁP HIỀN phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH

 

Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật ngự tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc thuộc nước Xá Vệ cùng vời chúng Đại Tỳ Khưu đến dự. Lại có Trời, Người, A Tu La, Ca Lâu La… cùng đến hội tọa.

Bấy giờ Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan rằng: “Ông hãy lắng nghe! Ta có Đà La Ni tên là Câu Chỉ La. Đà La Ni này có uy đức lớn, hay làm cho tốt lành, hay phá sự chấp giữ của hàng Bộ Đa với nhóm ác Diệu và hay trừ khỏi các bệnh: Trúng thực, nóng lạnh, đau đầu, đau nửa đầu, hói đầu, hen suyễn, cho đến bệnh trĩ, bạch lậu với mọi thứ mụn nhọt, rôm sẩy…Này A Nan! đối với chúng sinh sắp chết cũng có thể làm cho sống lại. Do đó, Ta vì ông mà diễn nói.

A Nan! Nếu có người nghe Đà La Ni này, phát tâm kiên cố đọc tụng thọ trì thì người đó sẽ gặt được vô lượng vô biên lợi ích tốt lành (thiện lợi).

Lúc đó Đức Thế Tôn liền nói Đà La Ni là:

1_ Đát nãnh tha

2_ Án_ Ế lý mật lý

3_ Tức lý, di

4_ Phộc la, cổ kế lệ , thất-lị, mạt để

5_ Côn noa lê

6_ Nông nạp tỳ

7_ Nông nạp tỳ

8_ Ấn nại-la phộc nhật-la nghĩ-nễ

9_ Tát lị-phộc phộc nhật-la nghĩ-nễ

10_ Một-la hạ-ma, sá-lị, sa-phộc hạ

11_ Dã tha cơ-lỗ một đà

12_ Tát đỏa nẵng, vĩ la nga, thất-lị sắt-tra

13_ Tát lị-phộc đạt lị-ma noản

14_ Nga noa, bát-la phộc la

15_ Thương già, tát tía phộc kế-duệ na

16_ Yết nễ na tía phộc kế-duệ na

17 _ Ma ma, tát lị-phộc tát đỏa nẵng

18_ Yết tất đương

19_ Kha nễ đương

20_ A sá nễ đa nễ

21_ Tam miệu cổ đột khế na

22_ Ba lị noa mãng nga tha đổ, sa-phộc hạ

Đức Thế Tôn nói Đà La Ni này xong, liền bảo A Nan rằng: “Đà La Ni này ở chốn nào thì Ta chẳng thấy có tất cả hàng Phạm Ma, Sa Môn, Bà La Môn nào trong nhân gian hoặc trên Trời dám có hành động trái ngược. Ông nên thọ trì, vì người khác nói khiến cho nhiều người được lợi ích lớn”

Tôn Giả A Nan cùng với hàng Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà… trong Hội nghe lời Phật nói đều vui vẻ tin nhận, làm lễ rồi lui ra.

PHẬT NÓI KINH CÂU CHỈ LA ĐÀ LA NI

_Hết_

15/03/1998