ĐỊA TẠNG
CHIÊM SÁT SÁM NGHI

(CHIÊM SÁT HÀNH PHÁP DIỆT CHƯỚNG TRỪ NGHI)

Bản Thuần Thục
Thị phạm: Định Hoằng Pháp Sư.
Chuyển ngữ: Hạnh Chơn

 

 

(Nghi thức: Cúng nước, Dâng hương, Đỉnh lễ Phật ba lạy, Xá)

* Nhất thiết cung kính! Nhất tâm kính lễ

Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo! (3 lễ)

(Quỳ đọc)

Nghiêm trì hương hoa,
Cúng dàng như Pháp.
Nguyện khói hương thơm này,
Biến mãn khắp mười phương.
Cúng dàng tất cả Phật,
Tôn Pháp các Hiền Thánh.
Vô biên trong cõi Phật,
Lợi ích làm Phật sự.
Tất cả Phật, Pháp, Tăng Bảo,
Thể thường biến mãn,
Đều hiện hữu khắp nơi.
Nguyện khiến hương hoa này,
Đồng như các Pháp tính,
Phổ huân tất cả các cõi Phật,
Cúng dàng làm Phật sự.
Dụng cụ cúng dàng tất cả mười phương
Lúc nào cũng có.

Hôm nay con xin đem tất cả hương hoa anh lạc, tràng phan, bảo cái, các trang sức quý báu vi diệu, vô số âm nhạc, ánh sáng đèn nến, ẩm thực, y phục, ngọa cụ, thuốc men trong mười phương. Cho đến hết tất cả những dụng cụ trang nghiêm trong mười phương có để cúng dàng, suy nghĩ đặt ra để phụng hiến cúng dàng cho khắp cả chúng sinh; Trong các thế giới có người tu cúng dàng, hôm nay con tùy hỷ; Nếu người chưa tu cúng dàng, nguyện được dẫn dắt khiến họ tu cúng dàng.

Lại nguyện thân con nhanh chóng có thể biến khắp đến các cõi nước, đối trước Phật, Pháp, Tăng, cúng dàng các loại dụng cụ trang nghiêm cho tất cả. Cùng tất cả chúng sinh chấp trì hiến cúng; Cúng dàng tất cả Pháp thân, sắc thân của chư Phật, xá lợi hình tượng, phù đồ tháp miếu và tất cả các Phật sự. Cúng dàng tất cả Pháp tạng và nơi thuyết Pháp. Cúng dàng tất cả các Hiền Thánh Tăng chúng.

Nguyện cúng dàng như vậy đến với tất cả chúng sinh tu hành, dần dần được thành Lục sáu Ba la mật, Tứ vô lượng tâm. Hiểu sâu tất cả Pháp vốn tịch tịnh, không sinh không diệt, một vị bình đẳng, rời niệm thanh tịnh, cứu kính viên mãn. Cúng dàng xong, tất cả cung kính.(lễ)

– Khởi thỉnh Tam Bảo Chư Thiên:

– Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! (đọc 3 lần, 1 lễ).

– Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Tỳ Bà Thi Đẳng Quá Khứ Thất Phật! (đọc 3 lần,1 lễ).

– Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Phổ Quang Phật Đẳng Ngũ Thập Tam Phật! (đọc 3 lần, 1 lễ).

– Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Nhất Thiết Chư Phật Sở Hữu Sắc Thân Xá Lợi Hình Tượng, Phù Đồ Miếu Tháp Nhất Thiết Phật Sự! (đọc 3 lần, 1 lễ).

– Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Thập Phương Tam Thế Nhất Thiết Chư Phật!( đọc 3 lần, 1 lễ).

– Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh Vi Diệu Pháp Tạng! (đọc 3 lần, 1 lễ).

– Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Thập Phương Nhất Thiết Pháp Tạng! (đọc 3 lần,1 lễ).

– Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Thập Phương Nhất Thiết Hiền Thánh! (đọc 3 lần, 1 lễ).

– Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát! (đọc 3 lần, 1 lễ).

– Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Biên Kiết Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát! (đọc 3 lần, 1 lễ).

– Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát! (đọc 3 lần, 3 lễ).

– Nhất tâm phụng thỉnh Phạm Thích Tứ Vương Thiên Long Bát Bộ Tăng Già Lam Nội, Hộ Chính Pháp Giả Nhất Thiết Thánh Chúng! (đọc 3 lần, 1 xá).

(Quỳ đọc)

Duy nguyện Đức Thích Ca Từ Phụ, thất Phật Thế Tôn, ngũ thập tam Phật, tất cả các bậc giác ngộ, tha tâm đạo nhãn, thấy nghe vô ngại, thần thông tự tại, quang lâm đạo tràng, nhiếp thủ chúng con, khiến thành tịnh tín. (đọc 3 lần,1 lễ).

Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Tôn Kinh, tất cả mười phương, Pháp Tạng thanh tịnh, cùng chân Pháp tính, sung mãn  hư không, hiển hiện đạo tràng, nhận con cúng dường. (đọc 3 lần,1 lễ).

Kiên Tịnh Tín Bồ Tát, Biến Kiết Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đẳng Thập Phương Nhất Thiết Hiền Thánh, không xả từ bi, quang lâm Pháp tọa, thương xót ủng hộ, chứng minh hành Pháp của con. (đọc 3 lần,1 lễ).

Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, là bậc cứu thế, là bậc đại trí, luôn dùng lời nhẹ nhàng an ủi, khiến cho con mau trừ chướng ngại, tăng trưởng lòng tin hiểu sâu chắc. Đại từ đại bi, không trái thệ nguyện, phóng đại quang minh, tròn đầy sở nguyện cho con.( đọc 3 lần,1 lễ).

(Đứng) Hộ Pháp Thiên Long, Già Lam Chân Tể, tùy thuận lời thỉnh của con, giữ vững đạo tràng, khiếp sợ các ma chướng, thị hiện kiết tường, khiến sở tu của con, tự tại thành tựu. (đọc 3 lần,1 xá).

Tán Lễ Tam Bảo

Con nghe khắp mười phương, công đức chân thật vô biên, độ thoát các hữu tình, tâm hoan hỷ kính lễ. Từng tu vô lượng phước, nay được lễ Thế Tôn, nguyện trong vô lượng kiếp, thường tu Pháp cúng dàng.

– Nhất tâm đỉnh lễ Quá Khứ Tỳ Bà Thi Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Thi Khí Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Tỳ Xá Phù Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Câu Lưu Tôn Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Câu Na Hàm Mâu Ni Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Ca Diếp Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Phổ Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Phổ Minh Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Phổ Tịnh Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Chiên Đàn Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Ma Ni Tràng Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Ma Ni Tràng Đăng Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Huệ Cự Chiếu Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Hải Đức Quang Minh Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Kim Cang Lao Cường Phổ Tán Kim Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Đại Cường Tinh Tấn Dõng Mãnh Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Đại Bi Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Từ Lực Vương Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Từ Tạng Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Chiên Đàn Khốt Trang Nghiêm Thắng Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Hiền Thiện Thủ Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Thiện Ý Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Quảng Trang Nghiêm Vương Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Kim Hoa Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Hư không Bảo Hoa Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Bất Động Trí Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Hàng Phục Chủng Ma Vương Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Tài Quang Minh Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Trí Huệ Thắng Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Di Lặc Tiên Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Thế Tịnh Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Nhật Nguyệt Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Nhật Nguyệt Châu Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Huệ Tràng Thắng Vương Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Sư Tử Hẩu Tự Tại Lực Vương Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Diệu Âm Thắng Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Thường Quang Tràng Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Quan Thế Đăng Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Huệ Oai Đăng Vương Phật

– Nhất tâm đỉnh lễ Pháp Thắng Vương Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Tu Di Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Tu Ma Na Hoa Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Ưu Đàm Bát La Hoa Thù Thắng Vương Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Đại Huệ Lực Vương Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ A Súc Tỳ Hoan Hỷ Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Vô Lượng Âm Thanh Vương Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Tài Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Kim Hải Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Đại Thông Quang Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Nhất Thiết Pháp Tràng Mãn Vương Phật.

– Nhất tâm đỉnh lễ Đông Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi hình tượng, phù đồ miếu tháp, nhất thiết Phật sự.

– Nhất tâm đỉnh lễ Đông Nam Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi hình tượng, phù đồ miếu tháp, nhất thiết Phật sự.

– Nhất tâm đỉnh lễ Nam Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi hình tượng, phù đồ miếu tháp, nhất thiết Phật sự.

– Nhất tâm đỉnh lễ Tây Nam Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi hình tượng, phù đồ miếu tháp, nhất thiết Phật sự.

– Nhất tâm đỉnh lễ Tây Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi  hình tượng, phù đồ miếu tháp, nhất thiết Phật sự.

– Nhất tâm đỉnh lễ Tây Bắc Phương Nhất Thiêt Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi hình tượng, phù đồ miếu tháp, nhất thiết Phật sự.

– Nhất tâm đỉnh lễ Bắc Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi hình tượng, phù đồ miếu tháp, nhất thiết Phật sự.

– Nhất tâm đỉnh lễ Đông Bắc Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi hình tượng, phù đồ miếu tháp, nhất thiết Phật sự.

– Nhất tâm đỉnh lễ Hạ Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi hình tượng, phù đồ miếu tháp, nhất thiết Phật sự.

– Nhất tâm đỉnh lễ Thượng Phương Nhất Thiết Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi hình tượng, phù đồ miếu tháp, nhất thiết Phật sự.

– Nhất tâm đỉnh lễ Thập Phương Tam Thế Nhất Thiết Chư Phật. (3 lễ).

– Nhất tâm đỉnh lễ Thập Phương Nhất Thiết Pháp Tạng. (3 lễ).

– Nhất tâm đỉnh lễ Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh Vi Diệu Pháp Tạng.

– Nhất tâm đỉnh lễ Thập Phương Nhất Thiết Hiền Thánh. (3 lễ).

– Nhất tâm đỉnh lễ Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát.

– Nhất tâm đỉnh lễ Biên Kiết Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.

– Nhất tâm đỉnh lễ Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lễ). (Quỳ đọc)

Tu Hành Sám Hối

Con cùng chúng sinh, từ vô thủy đến nay, thường vì ba nghiệp, sáu căn và trọng tội làm chướng ngại, nên không thấy được chư  Phật, không biết xuất ly sinh tử. Thuận theo sinh tử, không biết giáo lý vi diệu. Ngày nay tuy đã biết, nhưng do con và chúng sinh, đều bị tất cả tội nặng làm chướng ngại. Hôm nay xin đối trước Bồ Tát Địa Tạng, thập phương chư Phật, rộng vì tất cả chúng sinh mà quy y sám hối. Duy nguyện chư Phật từ bi gia hộ, khiến chúng con tội chướng tiêu diệt. (lễ)

Rộng vì tất cả chúng sinh khắp Pháp giới, đều nguyện đoạn trừ ba chướng, quy y sám hối. (lễ)

Con cùng chúng sinh, từ vô thủy đến nay, đều do tham ái kiến chấp, trong lòng suy tính ngã nhân:

  1. Ngoài thêm bạn xấu,
  2. Không tùy hỷ người, không có chút thiện niệm,
  3. Duy chỉ có ba nghiệp, tạo ra nhiều tội chướng,
  4. Việc tuy không rộng, nhưng ác tâm lan tràn,
  5. Ngày đêm liên tục, không hề gián đoạn,
  6. Lại phạm lỗi lầm, không muốn người biết,
  7. Không sợ ác đạo,
  8. Không tàm không quý,
  9.  Không biết nhân quả.

Vì thế ngày nay:

  1. Thâm tín nhân quả,
  2. Sinh lòng hổ thẹn,
  3. Luôn luôn sợ hãi,
  4. Phát lộ sám hối,
  5. Đoạn tâm tương tục,
  6. Phát tâm Bồ Đề, đoạn ác tu thiện,
  7. Tinh cần sách tấn ba nghiệp, sửa đổi tội nặng trong quá khứ,
  8. Tùy hỷ phàm Thánh, dù chút thiện nhỏ,
  9. Nguyện mười phương Phật, có đại trí tuệ, có thể cứu bạt cho con, cùng tất cả chúng sinh, từ trong biển sinh tử vô tận, đến bờ của Tam đức.

Từ vô thủy đến nay, không biết tính của các Pháp vốn không tịch, nên tạo nhiều tội ác. Nay biết không tịch, cầu đạo Bồ Đề, nguyện độ chúng sinh, rộng tu các điều thiện, đoạn tất cả điều ác. Duy nguyện hết thảy Tam Bảo, Địa Tạng Bồ Tát, từ bi nhiếp thọ, nghe con sám hối! (lễ)

Con đệ tử………………………….chí tâm sám hối, con cùng chúng sinh, tự tính thanh tịnh, cảnh giới chân thật, đồng thể chư Phật. Vô minh si ám, huân tập nhân duyên, hiện cảnh giới vọng, khiến sinh tham trước, so tính ta và của ta; Huân tập các ác pháp, sáu căn ba nghiệp, tạo nhiều tội chướng, thập ác ngũ nghịch, trọng nan khinh giá; Chướng tuệ chướng định, chướng chư giới phẩm, dẫn đến luân hồi khổ ải, mãi không có ngày ra khỏi.

Giả như muốn tu hành, nhưng quá nhiều nghi chướng, hoặc bị ngoại ma quấy nhiễu, hoặc gặp tà kiến, không đủ trợ duyên, tín tâm không thành. Nay gặp Địa Tạng Bồ Tát  Ma Ha Tát, dùng lời nhẹ nhàng an ủi, khai phá mê mờ cho con, rửa sạch tâm con, cầu ai sám hối. Duy nguyện thập phương chư Đại Từ Tôn chứng tri hộ niệm!

Nay con sám hối, thề không tái phạm, nguyện con cùng hết thảy chúng sinh, nhanh được trừ diệt, từ vô lượng kiếp đến nay, mười ác bốn trọng, ngũ nghịch điên đảo, hủy báng Tam Bảo, tội nhất xiển đề. Tội tính như vậy, vốn là không tịch. Nhưng từ hư vọng, khởi tâm điên đảo, chưa có định thật, mà có thể chứng đắc. Nguyện tất cả chúng sinh, mau đạt bản tâm, vĩnh viễn diệt trừ tội căn.

Sám hối xong, quy mạng lễ Tam Bảo. (lễ)

Phát Khuyến Thỉnh Nguyện

Con đệ tử………………………………………..chí tâm khuyến thỉnh, nguyện khiến hết thảy Bồ Tát trong mười phương chưa thành Chính giác, nguyện mau thành Chính giác. Nếu đã thành Chính giác, nguyện thường trú tại thế, vận chuyển bánh xe Pháp, không nhập Niết Bàn.

Khuyến thỉnh xong, quy mạng lễ Tam Bảo.(lễ)

Phát Nguyện Tùy Hỷ

Con đệ tử………………………………………..chí tâm tùy hỷ, nguyện cho con và tất cả chúng sinh, xả bỏ rốt ráo vĩnh viễn tâm đố kỵ. Đối với tất cả công đức tu học và thành tựu của các cõi nước trong ba đời, thảy đều tùy hỷ.

Tùy hỷ xong, quy mạng lễ Tam Bảo.(lễ)

Phát Nguyện Hồi Hướng

Con đệ tử……………………………………………. chí tâm hồi hướng, nguyện đem tất cả công đức mà con tu được, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, đồng hướng đến trí Phật, đến thành Niết Bàn.

Hồi hướng xong, quy mạng lễ Tam Bảo. (lễ)

(Phát nguyện thêm và đoan tọa tịnh thất, xưng niệm danh hiệu Pháp môn ngũ hối:

Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát!)

Con đệ tử………………………………………chí tâm phát nguyện, nguyện mười phương Tam Bảo, Địa Tạng Từ Tôn, thương xót hộ trì, cứu bạt chẩn tế. Khiến đất nước này, tiêu trừ thiên tai động loạn, chính Pháp lưu thông, khắp cả đều sinh tịnh tín. Không có các chướng ngại, vĩnh viễn đoạn trừ tà ma. Con và chúng sinh, mau chóng diệt trừ trọng tội, hiện đời ra khỏi sầu bi khổ não, cuộc sống sung túc. Tam tụ giới căn, rốt ráo thanh tịnh. Hai loại quán đạo, ưng niệm hiện tiền, tam muội tổng trì, thần thông phương tiện, tứ nhiếp lục độ, tất cả đều viên thành. Liễu ngộ tự tâm, cảnh giới chân thật, xả thân vào thế giới khác, sinh tại Phật tiền, đối diện Di Đà, thị giả chư Phật, được Phật thọ ký. Trở lại trần lao, phổ độ quần mê, đồng quy mật tạng.

Phát nguyện xong, quy mạng lễ Tam Bảo! (lễ)

Tam Quy Y

Tự quy y Phật,
Đương nguyện chúng sinh,
Thể giải đại đạo,
Phát vô thượng tâm. (lễ)
Tự quy y Pháp,
Đương nguyện chúng sinh,
Thâm nhập Kinh Tạng,
Trí tuệ như Hải. (lễ) Tự quy y Tăng,
Đương nguyện chúng sinh,
Thống lý đại chúng, Nhất thiết vô ngại.
Hòa Nam Thánh Chúng. (lễ)

 

Kệ Hồi Hướng

Nguyện đem công đức này,
Trang nghiêm Phật Tịnh Độ.
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ ba đường.
Nếu có ai thấy nghe,
Đều phát tâm Bồ Đề.
Hết một báo thân này,
Đồng sinh Cực Lạc Quốc.

*********

CHIÊM SÁT HÀNH PHÁP DIỆT CHƯỚNG TRỪ NGHI

Phổ khuyến Tịnh Tông đồng tu kiêm tu Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi.

Chủ Giảng: Pháp Sư Định Hoằng
Chuyển Ngữ: Hạnh Chơn
Thời gian: ngày 09/02/2014
Địa điểm: Địa Tạng Tịnh Tông Học Hội Hiếu – Giảng Đường Đài Bắc.

Từ chỗ Hoàng Cảnh Quan vừa mới giới thiệu, chúng ta có thể biết được ông ta rất có nghiên cứu Chiêm Sát Sám, cũng là một người thành thạo, nên đôi ba lời đã nói lên được đại ý của Chiêm Sát với mọi người một cách rõ ràng.

Pháp môn này đích thực là một Pháp môn vô cùng thù thắng. Đại sư Ngẫu Ích khen ngợi Pháp môn này là thần đơn cứu mạng của thời kỳ mạt pháp. Lời này không thấy Ngài khen ngợi đối với các Kinh điển và các Pháp môn khác, đại khái là Ngài chỉ khen ngợi duy nhất Pháp môn niệm Phật và Pháp môn Chiêm Sát này.

Hoàng Cảnh Quan vô cùng từ bi, mời tôi đến đây giới thiệu cho mọi người Pháp môn thù thắng này. Pháp môn này có thể nói là một thực hành cụ thể về đại tâm, đại nguyện, đại hạnh của Bồ Tát Địa Tạng. Ở Địa Tạng Tịnh Tông Học Hội giảng giới thiệu về Pháp môn này vô cùng thích hợp. Hoàng Cảnh Quan cũng tuân theo tinh thần đại từ, đại bi của Bồ Tát Địa Tạng lưu thông, tuyên dương giáo dục nhân quả, giáo dục hiếu đạo và Pháp môn niệm Phật này tại Đài Loan cho đến toàn cầu. Nhân quả, hiếu đạo, niệm Phật, đúng như trong Kinh Địa Tạng nói là ba tôn chỉ lớn, Kinh Địa Tạng gọi là hiếu Kinh của Phật Giáo, lại đặc biệt đề cao nhân quả và xưng danh hiệu Phật.

Hôm nay, tôi giới thiệu với mọi người về một bộ Kinh khác của Địa Tạng Tam Kinh; Ngoài Kinh Địa Tạng còn có bộ Kinh Chiêm Sát này. Ngoài ra, còn có một bộ Kinh chính là “Thập Luận Kinh”, hợp lại thành Địa Tạng Tam Kinh. Bộ Kinh Chiêm Sát này cũng nói đến nhân quả, cũng nói đến niệm Phật, càng nổi bật hơn nữa là nói về sám hối, Pháp môn sám hối. Chúng ta cùng nhau học tập và hoằng dương Pháp môn này, nhất định được Bồ Tát Địa Tạng gia trì; Nếu Tâm và Hành của bản thân giống với Bồ Tát Địa Tạng thì Ngài nhất định gia trì chúng ta.

Quý vị xem Hoàng Cảnh Quan, chúng ta thấy tướng mạo của ông, quý vị có ai phát hiện chăng? Hình như có chút giống với tôn tượng Bồ Tát Địa Tạng ở đây. Vì sao tướng lại giống vậy? Vì tâm ông giống với tâm Bồ Tát, mà tướng là do tâm sinh. Như vậy, mỗi người chúng ta đều học tập Bồ Tát Địa Tạng, tâm giống Địa Tạng Bồ Tát thì tướng mạo cũng giống Địa Tạng Bồ Tát.

Bản thân tôi cảm thấy có nhân duyên rất thâm sâu với Bồ Tát Địa Tạng; Tôi học Phật cũng bắt đầu từ Pháp môn Địa Tạng; Khi chưa tiếp xúc với Kinh giáo của Hòa Thượng (Tịnh Không), mỗi ngày đều tụng Kinh Địa Tạng. Lúc đó, tuy không hiểu thấu suốt yếu nghĩa của Kinh Địa Tạng, chỉ tụng như vậy thôi, nhưng cảm thấy rất nhiếp thọ, mỗi lần tụng đều rơi nước mắt; Đặc biệt là tụng đến sự chí thành, hiếu đạo của Bồ Tát Địa Tạng, Bà La Môn Nữ cứu mẹ, Quang Mục cứu mẹ, thấy sự chí thành đó, đều là khóc than rơi lệ. Tự mình cũng sám hối, bản thân mình so với Bồ Tát Địa Tạng quả thật không thể nào sánh được;

Ở sau đọc đến Bồ Tát Địa Tạng được đức Thế Tôn xoa đỉnh phó chúc, đem chúng sinh trong thời mạt pháp phó chúc cho Bồ Tát Địa Tạng; Muốn Ngài trước khi Di Lặc Bồ Tát ra đời, chính là trong vòng khoảng 56 ức năm, gánh vác trọng trách cứu độ những chúng sinh đau khổ; Hay nói cách khác, Ngài chính là truyền nhân sau khi Phật diệt độ, là Giáo Chủ của thế giới Ta Bà của chúng ta hiện nay. Đây quả thực là đại bi đại nguyện!

Trong Hội Địa Tạng, đức Thế Tôn khen ngợi Bồ Tát Địa Tạng, ở Đao Lợi Thiên, cũng khen ngợi bốn việc lớn không thể nghĩ bàn của Ngài: “Này Địa Tạng! Địa Tạng! thần lực của ông không thể nghĩ bàn, từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí tuệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn!”.

Quả thật, đức Thế Tôn hiếm khi khen ngợi các vị Bồ Tát khác như vậy, như ở đây Hòa Thượng viết: “ba đời Như Lai đều tán thán, mười phương Bồ Tát cùng quy y, đây là một vị Bồ Tát vĩ đại nhất”. Chúng ta có thể tiếp xúc được giáo huấn của vị đại Bồ Tát này, cụ thể là trong Kinh Chiêm Sát này;

Lúc nãy, chúng ta vừa nói đến bốn điều không thể nghĩ bàn: Thần lực, Từ bi, Trí tuệ, Biện tài. Bản thân tôi lĩnh hội là tập trung thể hiện trong bộ Kinh Chiêm Sát này; Thế nên, chúng ta may mắn gặp được bộ Bảo Điển này phải sinh tâm cảm ân; Đây là trăm nghìn vạn kiếp khó gặp được; Có thể khiến chúng sinh trong thời mạt thế nhanh chóng diệt trừ ác nghiệp trọng tội, tiêu trừ tất cả chướng ngại để tu hành, buông bỏ tất cả nghi hoặc và có thể mau thành tựu trên con đường Bồ Đề. Mục tiêu của chúng ta là niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ, lấy Pháp môn Chiêm Sát này trợ duyên thêm cho chúng ta, như vậy nhất định sẽ thuận lợi.

Chúng ta cũng là hàng phàm phu ngu muội, nhưng nhân duyên rất thù thắng, gặp được ân sư là Tịnh Không Pháp Sư, theo Ngài học Kinh điển gần hai mươi năm; Trên thực tế, từ khi nghe Kinh đến nay là hai mươi hai năm; Do đó, về sau theo Hòa Thượng, từ bỏ công việc, xuất gia hoằng Pháp, cũng quyết tâm hoằng dương Pháp môn Tịnh Độ. Nhưng chính mình tập khí, nghiệp chướng phiền não cũng rất nặng, nên tu học lâu như vậy mà cảm thấy rất xấu hổ vì không có thành tựu gì.

Đầu năm ngoái, Hòa Thượng đưa tôi đến Tịnh xá Chánh Giác học giới, đây cũng là phước báo lớn của Định Hoằng. Được học giới dưới tòa của một vị giới đức cao cả là Hòa Thượng Luật sư Quả Thanh; Trong lúc học giới, đã gặp bộ Kinh Chiêm Sát này. Liên tục hơn nửa năm, năm ngoái, trước khi tôi đi kiết hạ an cư, bắt đầu gặp được bộ Kinh này, đến nay cũng hơn nửa năm, có thể nói là lợi ích vô cùng, nhờ từ bi nhiếp thọ của Bồ Tát Địa Tạng, được sự gia trì rất lớn. Lát sau tôi sẽ giới thiệu tường tận với mọi người về nhân duyên tôi gặp bộ Kinh này, cũng là giúp mọi người sinh khởi tín tâm với bộ Kinh này; Vì có thể mọi người ít tiếp xúc với bộ Kinh này, đặc biệt là các đồng học của Tịnh Tông; Như trước đây, tôi chưa từng tiếp xúc đến, chỉ nghe tên nhưng chưa từng đọc đến; Nay bản thân đã đạt được lợi ích lớn lao như vậy, nên có nghĩa vụ chia sẻ với mọi người, cũng là báo đáp thâm ân của Bồ Tát Địa Tạng.

Vì sao tôi học Pháp môn này? Điều này có liên quan đến việc học giới của tôi; Bản thân, vốn cũng không nghĩ đến học giới, chỉ nghĩ tới xuất gia thì phải chuyên tu, chuyên hoằng Pháp môn Tịnh Độ; Đã chọn Kinh Vô Lượng Thọ, đời này không thay đổi đề mục. Đương nhiên, đối với giới luật, cơ bản gọi là không biết gì, tuy đã thọ giới cụ túc, nhưng chưa từng đọc tụng tới giới bản; Vốn Đức Phật yêu cầu Tỳ Kheo chúng ta phải nửa tháng tụng giới một lần, thậm chí quý vị thọ năm giới, Bồ Tát giới, đều mỗi nửa tháng tụng giới một lần; Tôi không đụng đến giới bản, chỉ chuyên nghiên cứu Kinh Vô Lượng Thọ.

Thật ra, như vậy là tôi đã làm trái với giáo huấn của Phật. Vì Đức Phật chế Tỳ Kheo trong vòng năm Hạ phải tinh chuyên giới luật, sau năm hạ mới cho phép nghe giáo tham thiền; Năm hạ của tôi chính là năm năm, mỗi năm đều phải kiết hạ an cư đây gọi là năm hạ. Tôi thọ Cụ Túc Giới, Hạ an cư đầu tiên tôi không có, đến năm thứ hai, Sư Phụ thấy vấn đề của tôi, không thể trái với Phật chế, phải làm gương cho mọi người, nên đưa tôi đến học giới dưới tòa của Hòa Thượng Luật sư Quả Thanh.

Lúc đó, tôi vẫn không tình nguyện lắm, không phải học Tịnh Tông cũng được rồi sao? Học giới luật nữa để làm gì?

Đây đều là hiểu lầm và thiên kiến của mình; Vì sao vậy? Sau đó tôi đọc được của Đại Sư Ngẫu Ích, đây là vị Tổ đời thứ chín của Tịnh Độ Tông; Ngài là quyền uy của Tịnh Độ Tông, nhưng Ngài đã nói như thế nào?

Trong “Trọng Trị Tỳ Ni Sự Nghĩa Tập Yếu” Ngài nói: “Trì giới, niệm Phật vốn là một môn; Tịnh giới là nhân, Tịnh độ là quả”. Nên trì giới và niệm Phật không phải là hai môn mà là một Pháp môn; Vậy mà tôi lại phân nó thành hai, tôi niệm Phật được rồi không phải trì giới, như vậy là sai.

Nói thật! không trì giới, nhất định không niệm Phật tốt. Quý vị thử nghĩ xem, bản thân mình còn phạm giới, vừa tạo sát, đạo, dâm, vọng, miệng vừa niệm Phật A Di Đà; Quý vị có thể niệm tốt được chăng? Đó chính là Đại Sư Từ Vân Quán Đỉnh nói: “Người niệm Phật có một trăm loại quả báo, loại thứ nhất là đọa vào địa ngục A Tỳ, không phải vãng sinh Tây Phương; Miệng niệm Di Đà, tâm không tương ưng”.

Sau đó, thông qua học giới, dần dần đã coi trọng giới luật hơn; Mới biết, thì ra giới luật là đối trị tập khí phiền não của chúng ta, chúng ta không đoạn trừ tập khí phiền não, nó sẽ chướng ngại chúng ta niệm Phật. Quý vị thấy Bồ Tát Đại Thế Chí nói: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương tục”, hai câu này là cương lĩnh tu hành chung của Tịnh Tông. Bồ Tát Đại Thế Chí là Sơ tổ của niệm Phật Pháp giới;

Tổng kết tám chữ của hai câu nói này chính là: “trì giới, niệm Phật”; “Đô nhiếp lục căn” chính là trì giới; Năm căn là: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, là tượng trưng cho ba nghiệp: thân, khẩu, ý. Ý căn là ý nghiệp của chúng ta, đều phải dùng giới Pháp để thu nhiếp nó; Thân, khẩu không tạo nghiệp, ý cũng không nghĩ đến những điều vọng tưởng, đây gọi là: “đô nhiếp lục căn”. Sau đó quý vị mới có thể: “tịnh niệm tương tục”; Niệm Phật chính là “tịnh niệm tương tục”; Thế nên, Bồ Tát Đại Thế Chí dạy: tu hành chính là “trì giới, niệm Phật”.

Trì giới và niệm Phật là một, không phải hai; Lấy tịnh giới làm nhân, Tịnh độ làm quả; Trì giới đến lúc thanh tịnh, mới có thể vãng sinh Tịnh Độ. Tịnh giới là gì? Tâm cũng không phạm giới, thân khẩu đương nhiên cũng không phạm, gọi là “tâm tịnh tức cõi Phật tịnh”; Đây là nguyên lý của Pháp môn Tịnh Độ. Rốt cuộc, tôi cũng hiểu được nguyên lý này nên rất coi trọng giới luật không dám khinh xuất.

Điều đầu tiên của việc học giới là phải đắc giới mới được; Phải vậy chăng? Đều không đắc giới như vậy, học giống như “danh không chính, ngôn không thuận”; Phải đắc giới mới có thể học giới. Quý vị thọ ngũ giới mới có thể trì ngũ giới; Thọ giới Bồ Tát mới có thể trì giới Bồ Tát; Thọ giới Tỳ Kheo mới có thể trì giới Tỳ Kheo. Vậy, rốt cuộc bản thân tôi đã đắc giới rồi chăng? Trong lòng có nghi hoặc! Khi đọc cuốn sách: “Niên Phổ đời thường của Đại Sư Ngẫu Ích”, tôi thấy Ngài lúc đó cũng hoài ghi bản thân chưa đắc giới; Ngài đã tham phỏng như thế nào? Ngài liền làm mấy cái thăm để rút thăm, ở trước Phật rút thăm hỏi; Hỏi xem bản thân đắc giới gì? kết quả rút được một thăm chính là Sa Di Bồ Tát giới; Là Đức Phật nói cho Ngài biết Ngài đã đắc giới Sa Di Bồ Tát; Thế nên, về sau Ngài tự xưng là Sa Di Bồ Tát mà không xưng là Tỳ Kheo.

Tôi cũng học Đại Sư Ngẫu Ích, tôi rất ngưỡng mộ Ngài; Nên cũng làm một ít thăm, ở trước Phật rút thăm hỏi; Tôi làm thăm đầu tiên là Bồ Tát Tỳ Kheo giới, thăm thứ hai là Sa Di Bồ Tát, thứ ba là Bồ Tát xuất gia Ưu Bà Tắc; Không đắc giới Sa Di chỉ là giới Ưu bà Di, chính là chỉ có năm giới, như Đại sư Hoằng Nhất, Ngài tự xưng là xuất gia Ưu Bà Tắc, sau đó hỏi lại chỉ đắc ngũ giới, sau cùng chỉ có Tam quy y, đến ngũ giới cũng không có; Tôi đã làm mấy cây thăm, kiền thành lễ bái, lễ bái nghìn Phật, vạn Phật. Sau khi lễ lạy xong, đến trước Phật rút thăm; Làm điều này cần phải chí thành, không chí thành không cảm thông được. Lạy được một vạn lạy cũng đủ chí thành, liền rút thăm; Phát hiện, tất cả các giới đều không đắc! Lúc đó, tôi thật như trái bóng xì hơi vậy! Tôi cứ nghĩ rằng ít nhất tôi không được làm Sa Di Bồ Tát như Ngẫu Ích Đại Sư, thì cũng làm được Xuất gia Ưu Bà Tắc như Hoằng Nhất Đại Sư; Kết quả không đạt được giới nào! Thật hổ thẹn! Sau đó tự mình phản tỉnh! Vì sao không đắc giới?

Thứ nhất là: khi thọ giới không có lòng biết ơn! Nếu không có tâm chí thành cảm ơn, để như Lý như Pháp quán tưởng, nạp thọ mười phương hư không Thiện Pháp làm giới thể, nạp thọ thân tâm chính báo của chính mình, không như Lý để quán tưởng như vậy; Khi thọ giới cũng không đắc giới! Chỉ có hình thức, không có đắc giới.

Thứ hai là: không thực sự phát khởi tâm hộ giới chân thành! Như cổ đức nói: “Thà bỏ thân mạng cũng không phạm giới”; Có thể vứt bỏ thân mạng cũng không bỏ giới Pháp. Không có tâm dũng mãnh này nên tự nghĩ cũng không thể đắc giới.

Hiện nay, đã muốn học giới thì cần phải đắc giới; Như vậy, điều đầu tiên tôi phải cầu giới. Thế nên, tôi bắt đầu nghiên cứu phần trình bày của Đại Sư Ngẫu Ích về phương diện này. Sau đó thấy Đại Sư Ngẫu Ích nói: sau thời nhà Tấn Trung Quốc, không còn Tỳ Kheo.

Đại Sư Hoằng Nhất cũng rất kính ngưỡng Đại Sư Ngẫu Ích. Mọi người đều biết rất rõ về Đại Sư Hoằng Nhất đúng không? Là vị Luật sư vĩ đại trong thời cận đại, Ngài đã nói như thế nào? Ở trong “Luật Học Yếu Lược”, Đại Sư Hoằng Nhất nói: “Nếu thọ giới Sa Di phải hai Tỳ Kheo truyền thụ, giới Tỳ Kheo phải ít nhất năm vị Tỳ Kheo truyền thọ; Năm vị Tỳ Kheo truyền thọ! Nếu như tìm không được năm vị, không những không thọ được giới Tỳ Kheo mà đến giới Sa di cũng không thọ được.

Tôi có một câu nói rất thương tâm muốn nói với quý vị: từ Nam Tống đến nay là sáu bảy trăm năm, có thể nói Tăng chủng đã đoạn tuyệt! Trong mắt người bình thường cho rằng Trung Quốc rất nhiều Tăng chúng, đại khái có khoảng mấy trăm vị; Nhưng căn cứ trên thật sự mà nói, muốn tìm một vị Tỳ Kheo chân chính trong số mấy trăm vạn người này, chỉ sợ cũng không phải là chuyện dễ”.

Như vậy, làm sao có thể thọ giới Sa Di, thọ giới Tỳ Kheo? Đã không có người có thể thọ giới, như vậy làm sao có thể đắc giới được? Điều này, chúng tôi học giới Tỳ Kheo mới biết, thì ra muốn đắc giới Tỳ Kheo phải đầy đủ sáu duyên, chính là không thể thiếu một trong sáu điều kiện.

Đại Sư Hoằng Nhất đưa ra một trường hợp, chính là nói quý vị không tìm thấy một người có thể thọ giới Tỳ Kheo, nên quý vị nhất định không đắc giới được. Chỉ là một trong sáu duyên mà thôi, càng huống gì là trong sáu duyên, các duyên khác chưa chắc đầy đủ, trong đó cũng bao hàm bản thân phải rất thành tâm như Lý quán tưởng nạp thọ giới thể.

Vấn đề này, đích thực là một vấn đề rất nghiêm túc! Vì sao vậy? Nếu như không có Tỳ Kheo, chứng tỏ Tăng Bảo đã đoạn tuyệt ở thế gian. Vậy Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng; Phật thì đã diệt độ, chỉ còn Pháp bảo tồn tại; Điều tôi muốn nói đây là Trụ Trì Tam Bảo, Tự Tính Tam Bảo chúng ta không nói đến Tam Bảo trên mặt Lý, chỉ nói đến Trụ Trì Tam Bảo.

Pháp Bảo chính là Kinh sách! Pháp là nhờ Tăng truyền, phải có Tăng để hoằng dương Pháp này; Nếu như không có Tăng, thì Pháp Bảo cũng như hư không; Nên có thể nói, hiện nay, Tam Bảo đã suy tàn đến tận cùng, đã đến bước đường nguy hiểm nhất! Nếu không cứu vãn, coi như Tam Bảo đã vĩnh viễn diệt vong tại thế gian này.

Thế nên, Đại Sư Hoằng Nhất có một đoạn xuất phát từ đáy lòng, Ngài nói: “Chư vị à! Lời này là Ngài nói với giới tử thọ giới Tỳ Kheo trong giới trường, khuyến khích mọi người; Ngài nói: “Này chư vị! Nếu có người thật sự muốn Thiệu Long Tăng chúng, cần phải cầu đắc Sa Di và Tỳ Kheo giới”; Cũng có một phương pháp đặc biệt, tức là như Đại Sư Ngẫu Ích lễ Chiêm Sát Sám Nghi cầu đắc thanh tịnh luân tướng, tức có thể đắc Sa Di và Tỳ Kheo giới, về sau có thể xưng là Tỳ Kheo Bồ Tát; Hay nói cách khác, chúng ta lễ Chiêm Sát Sám Nghi, sau khi cầu được thanh tịnh luân tướng thì tất cả giới Sa Di, giới Tỳ Kheo, giới Bồ Tát đều đạt được.

Trong Kinh Chiêm Sát có nói một cách cụ thể như vậy. Đây là ba nghìn năm trước, Bồ Tát Địa Tạng ở trong Đại hội Chiêm Sát, Đại hội này mở ở đâu? Cùng địa điểm với Kinh Vô Lượng Thọ, trong Núi Kỳ Xà Quật, ở Thành Vương Xá, do Bồ Tát Kiên Tịnh Tín, đặc biệt thay đại chúng trong thời kỳ mạt pháp chúng ta, khởi thỉnh hỏi đức Thế Tôn: “Chúng sinh trong thời mạt pháp, đặc điểm chính là nghiệp chướng sâu nặng, phước bạc nhưng lại nhiều lòng nghi hoặc lo lắng, làm sao có thể giúp chúng sinh diệt trừ nghiệp chướng và nghi hoặc?” Đức Thế Tôn rất từ bi: vấn đề này, Tôi mời Bồ Tát Địa Tạng giải đáp cho quý vị.

Bởi vậy, Bồ Tát Địa Tạng đã làm việc đáng phải làm, liền nói ra đáp án này. Ngài liền giảng bộ Kinh Chiêm Sát này; Thế nên, Pháp môn này chuyên đối trị khuyết điểm của chúng sinh trong thời mạt pháp. Đương nhiên, vấn đề của chúng ta, chính là thời kỳ mạt pháp này, muốn đắc giới là rất khó.

Vậy Kinh Chiêm Sát này nói như thế nào? “Các chúng sinh trong đời sau, muốn cầu xuất gia hay đã xuất gia, nếu không thể được giới sư giỏi và Tăng chúng thanh tịnh, tâm họ sinh nghi hoặc, không thọ được giới cấm như Pháp, nhưng có thể học phát tâm Vô Thượng Đạo, cũng khiến thân khẩu ý được thanh tịnh; Còn người chưa xuất gia thì nên thế phát, mặc Pháp y như ở trên, lập nguyện tự thệ mà thọ ba loại giới tụ của Luật nghi Bồ Tát, tức gọi là đạt được đầy đủ giới Ba La Đề Mộc Xoa của người xuất gia, gọi là Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ni”.

Ý đoạn này nói, trong thời kỳ mạt pháp, nếu không có điều kiện thọ giới Tỳ Kheo ở chỗ giới sư, thì có thể dùng Pháp môn Chiêm Sát này, ngay cả hiện tại, quý vị chưa xuất gia. Quý vị nghĩ tôi xuất gia để được giới Tỳ Kheo? Phát tâm lớn như vậy thì trước tiên phải như thế nào? Phải phát tâm Vô Thượng Đạo! Chính là tâm Vô Thượng Bồ Đề! Tự mình phải thành tựu, đồng thời còn phải phổ độ chúng sinh, phổ độ bằng cách nào? Thiệu Long Tăng chúng, hoằng Pháp lợi sinh, cứu vãn Tăng Bảo, cứu sống Tam Bảo, đây chính là tâm Vô Thượng Đạo!

Lúc này quý vị có thể lễ Chiêm Sát sám, lễ đến mỗi ngày dùng Chiêm Sát môn này để chiêm sát xem Bồ Tát Địa Tạng có thể giám định cho chúng ta! Thân, khẩu, ý, chúng ta được thanh tịnh; Giả như ba bánh xe này, tôi đem theo bánh xe, ở đây có ba bánh xe tượng trưng cho: thân, khẩu, ý; Hai bên là màu đen, hai bên là màu đỏ, phân biệt tượng trưng cho: việc ác lớn và việc ác nhỏ, việc thiện lớn và việc thiện nhỏ; Bánh xe có bốn mặt, giả như thân, khẩu, ý, ba bánh xe này liên tục ném ba lần đều xuất hiện mầu đỏ; Chín màu đỏ, đây gọi là Thanh tịnh Luân tướng;

Bồ Tát Địa Tạng mượn Thanh tịnh Luân tướng này để hiển thị giám định cho quý vị, thân khẩu ý của quý vị đã thanh tịnh; Lúc này, có thể tự thệ, bản thân ở trước Phật phát thệ, cầu thọ giới Sa Di, giới Tỳ Kheo, giới Bồ Tát, làm một lần là đắc các giới. Kinh Chiêm Sát này đã mở ra cho chúng ta phương pháp cầu giới đặc biệt.

Đại Sư Ngẫu Ích cũng dùng phương pháp này để đắc giới. Hai mươi tư tuổi, Ngài xuất gia, ba mươi ba tuổi gặp được Kinh Chiêm Sát; Ngài nói vừa bi ai, vừa vui mừng. Quả thực tự than gặp được Kinh này quá trễ, hoan hỷ vô lượng! Đến năm ba mươi bảy tuổi, Ngài giảng bộ Kinh này. Lúc đó, Ngài còn muốn chú sớ cho bộ Kinh này; Nhưng vì thân thể có bệnh, nên kéo dài đến bốn mươi sáu tuổi.

Năm bốn mươi sáu tuổi, Ngài muốn cầu giới Tỳ Kheo, Ngài chưa bằng lòng với giới Sa Di Bồ Tát, phải làm sao? Ngài liền xả tất cả các giới mà Ngài vốn có như: giới Bồ Tát, giới Sa Di, làm người thọ Tam Quy; Tức giống như tôi vậy, không có giới nào cả. Sau đó, bắt đầu bái sám, lễ Chiêm Sát Sám, lạy thiên Phật, lạy vạn Phật, lạy Chiêm Sát Sám; Lạy đến nguyên đán thứ hai, mồng một đầu năm vừa Chiêm Sát, liền được thanh tịnh luân tướng;

Mới thấy từ lúc đó, sau năm bốn mươi bảy tuổi, Ngài có thể xưng là Tỳ Kheo Bồ Tát; Nên Chiêm Sát Sám Nghi này, quý vị xem nghĩa sớ của Ngài, Ngài nổi tiếng chính là Tỳ Kheo Trí Húc; Trước đó, Ngài chỉ xưng là Sa Di Bồ Tát, sau đó được thanh tịnh luân tướng liền gọi là Tỳ Kheo.

Ngài Ngẫu Ích nói: “Đời vị lai, muốn được tịnh giới, giới luật thanh tịnh, nếu bỏ Pháp Chiêm Sát luân tướng này, thì không còn con đường nào khác, bỏ phương pháp này thì không còn Pháp nào khác, duy có phương pháp này có thể đắc giới. Trong thời kỳ mạt pháp, duy chỉ có phương pháp này đắc giới Pháp. Không chỉ có giới Tỳ Kheo, xuất gia, Sa Di, Tỳ Kheo giới, cho đến người tại gia, quý vị muốn đắc năm giới, Bồ Tát giới cũng có thể dùng phương pháp này để đạt được; Chỉ cần đạt được thân khẩu ý thanh tịnh, Thanh tịnh Luân tướng hiển hiện, tức có thể nói là đắc giới”.

Giới là cơ sở của Định, nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ; Nếu như có giới thanh tịnh, như vậy là Bồ Tát Địa Tạng ấn chứng cho quý vị! Giới đã Thanh tịnh rồi, quý vị muốn tu Định sẽ rất dễ dàng, không còn chướng ngại.

Đại Sư Hoằng Nhất cũng đề xướng Pháp môn này, tuy Ngài không cầu Thanh tịnh Luân tướng, vì Ngài có sứ mệnh của mình; Ngài cần phải hoằng dương những Pháp của Nam Sơn Tam Đại Bộ trong Tỳ Kheo Giới, nên không có thời gian để cầu Thanh tịnh Luân tướng; Nhưng Ngài rất đề xướng, Ngài nói như thế nào? Về sau, khi được Thanh tịnh Luân tướng, tức có thể tổng thọ Bồ Tát Giới mà Sa Di và Tỳ Kheo giới đều bao hàm trong Bồ Tát giới, Tam tụ Tịnh giới, thứ nhất là Luật nghi giới, Luật nghi giới bao hàm Sa Di và Tỳ Kheo giới, cũng bao hàm tất cả Luật nghi giới của tại gia, như vậy về sau có thể xưng là Tỳ Kheo Bồ Tát.

Hoằng Nhất Đại Sư lại nói: “lễ Chiêm Sát Sám được Thanh tịnh Luân tướng, tuy không phải là việc quá đơn giản, nhưng nếu chư vị thực sự phát tâm lớn cũng có thể ra sức tiến hành; Đây là điều tôi hy vọng ở quý vị nhất!” Đây là lời của Hoằng Nhất Đại Sư. Đương nhiên, được Thanh tịnh Luân tướng theo cách nói của Đại Sư Hoằng Nhất quả thật không dễ; Nhưng khó hay dễ đều do mình, nếu quý vị quyết tâm làm, cho dù giống như trong Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Lấy đấu đo biển”, đều có thể xuyên tới đáy.

Nếu như quý vị không quyết tâm làm, có dễ như đưa tay ra là được, quý vị cũng không chịu làm; Bởi thế, vì sao cần phải phát tâm Vô Thượng Đạo? Tôi phải thực sự đắc giới mới có thể sinh Định khai trí Tuệ; Phải có tâm nguyện như vậy, chí tâm cầu đạo, tinh tấn không thôi, sẽ chiến thắng được! Không có nguyện nào không thành tựu.

Bởi thế, bản thân Định Hoằng học Pháp môn này cảm thấy rất thù thắng; Đại Sư Ngẫu Ích nói: “Ngoài Pháp môn này có thể đắc giới ra, thì không còn cách nào khác”, nên chỉ có thể cầu Pháp môn này. Nhưng mới bắt đầu vẫn có nghi hoặc, có thể rất nhiều người đều có cùng sự nghi hoặc này; Tôi là chuyên tu, chuyên hoằng dương Tịnh Độ vì sao còn phải học theo Chiêm Sát Sám? Tuy trước đây cũng biết trì giới và niệm Phật vốn là một, nhưng lễ sám và niệm Phật phải chăng cũng là một môn? Vẫn còn nghi hoặc về điều này!

Nhưng hiện nay vì muốn được đắc giới, nên trước phải đến hỏi Bồ Tát Địa Tạng. Vì vậy, nên dùng bánh xe thứ ba, ba loại Luân tướng, tổng cộng có ba loại bánh xe; Lúc này nói bánh xe thứ hai là cầu giới, bánh xe thứ ba có sáu bánh, trên một mặt đều là trống, ba mặt còn lại có số, tổng cộng lại từ một đến mười tám, là 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8,… đến 18; Sáu bánh xe này, quý vị y theo chỉ thị của Bồ Tát Địa Tạng có thể hỏi vấn đề. Tôi muốn hỏi vấn đề gì? Tôi muốn hỏi bản thân có thể không tu Chiêm Sát Sám này nhưng vẫn có thể đắc giới Tỳ Kheo chăng? Còn có con đường nào nhanh hơn chăng? Tuy Đại Sư Ngẫu Ích đã nói không còn con đường nào nhanh hơn, tôi vẫn muốn hỏi Bồ Tát Địa Tạng. Tôi có thể niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, như vậy có thể đắc giới chăng? Chúng ta hỏi, có vấn đề thì nên hỏi, đến hỏi Bồ Tát Địa Tạng, chính là dùng bánh xe thứ ba để hỏi.

Ném liên tục ba lần, trước tiên phải niệm một nghìn danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát. Quỳ ở đó niệm, sau đó liên tiếp ném ba lần, cộng tất cả các chữ số lại, sau đó kiểm tra trong Kinh Chiêm Sát, có tổng cộng 189 loại quả báo, chính là giống như tượng trưng của bói quẻ vậy. Đi kiểm tra thử, vừa tra tướng thứ 150 là gì vậy? “Quán sở khứ hữu chướng nạn”! Chính là nói quý vị muốn không lễ Chiêm Sát sám mà đắc giới Tỳ Kheo, đắc giới Bồ Tát, sẽ có chướng nạn, có chướng ngại, có khó khăn.

Hay nói cách khác, là cần phải lễ Chiêm Sát Sám. Điều này chứng tỏ Ngài Ngẫu Ích nói không sai, quả thực trừ Pháp Chiêm Sát này ra, những Pháp khác không thể. Nên bắt đầu thiết thực lễ Chiêm Sát Sám; Bồ Tát Địa Tạng muốn tôi lễ, nên tôi lễ;

Làm sao mới có thể đạt được Thanh tịnh Luân tướng? Trong Chiêm Sát Kinh Nghĩa Sớ, Đại Sư Ngẫu Ích nói: “Ngày nay, mặc dù từ lâu đã phế bỏ Tăng luân, nhưng thề tiếp tục nắm giữ, nên cần phải học phát tâm Vô Thượng Đạo mới có thể cảm ứng được Thanh tịnh Luân tướng”. Hay nói cách khác, là đưa tiêu chuẩn này ra cho quý vị. Đại Sư Ngẫu Ích đạt Thanh tịnh Luân tướng là như vậy.

Ngài nói quý vị làm sao có thể đạt được? Cần phải phát khởi tâm Vô Thượng Đạo! Vì sao vậy, vì hiện nay nhìn thấy Tăng luân đã phế bỏ từ lâu; Chính là Tăng Bảo không còn nữa, không còn Tỳ Kheo chân chính nữa. Quý vị muốn cứu Tam Bảo? Thề nguyện nắm giữ chính Pháp? Đặc biệt là hàng xuất gia như tôi, trên hình thức cũng thọ giới Tỳ Kheo, như vậy cũng không thể chỉ có hữu danh vô thực mà thôi; Phải có danh, mà danh phải đúng như sự thật, phải nắm lấy chính Pháp. Phải học phát tâm Vô Thượng Đạo, như vậy mới có điều kiện chiêu cảm Thanh tịnh Luân tướng. Điều này cần phải chí thành cảm thông, may mắn là điều không thể. Vì đây là nguyện lực của Bồ Tát Địa Tạng, quý vị không hành, Ngài sẽ không cho quý vị Thanh tịnh Luân tướng; Quý vị hành, Ngài mới cho. Trong các bánh xe này, đều có thần lực của Bồ Tát Địa Tạng gia trì, không sai chút nào!

Ngẫu Ích Đại Sư đề xướng Pháp môn này, lúc đó là dốc hết sức. Quý vị xem, Ngài viết bộ “Chiêm Sát Kinh Nghĩa Sớ” này có huyền nghĩa, có chú sớ, lúc viết như thế nào? Ngài viết lúc Ngài năm mươi hai tuổi; Lúc bốn mươi chín tuổi, Ngài viết “Di Đà Yếu Giải”. Đại Sư Ấn Quang từng tán thán “Di Đà Yếu Giải”: “dù cổ Phật tái sinh để chú giải Kinh Di Đà, cũng không hơn được Ngẫu Ích Đại Sư”. Hay nói cách khác, lúc Ngài Ngẫu Ích bốn mươi chín tuổi, đã đạt được cảnh giới của Cổ Phật, có thể Ngài chính là cổ Phật tái sinh.

Bộ Chiêm Sát Kinh Nghĩa Sớ này là ba năm sau mới viết, Ngài viết lúc năm mươi hai tuổi. Lúc đó, càng là cảnh giới của cổ Phật. Đây là một trong hai bộ chú sớ sau cùng của Ngài. Ngài không chỉ làm chú sớ này, Ngài còn sám nghi cho Pháp môn Chiêm Sát.

Còn có một Nghi là Chiêm Luân Tướng Pháp, chính là lúc nãy dùng Luân tướng thứ ba để hỏi vấn đề. Quý vị hỏi vấn đề gì đều được, hỏi bản thân nên học tập ở đâu tốt, cần đi làm việc chăng? Hay là ở nhà tu hành, bao gồm chúng ta có thể vãng sinh Thế giới Cực Lạc chăng? Đợi một chút, có vấn đề gì quý vị cứ hỏi.Nếu ngày mai, chúng ta có thời gian, khoảng 9h30 buổi sáng, các vị đồng tu phát tâm muốn học, đều có thể đến tham gia. Tôi hướng dẫn mọi người cùng nhau lễ Chiêm Sát Sám Nghi. Mới bắt đầu lễ khoảng một tiếng, bây giờ tôi đã làm thời khóa cố định là ba mươi lăm phút. Trong Tịnh Xá của tôi, có một Pháp sư lễ sám hơn hai mươi phút là xong, thời gian lễ sám không nhiều nhưng vô cùng thù thắng. Sám Nghi này do Đại Sư Ngẫu Ích biên soạn, căn cứ theo ý trong Kinh mà viết ra.

Có một Nghi thức cũng là Đại Sư Ngẫu Ích soạn. Nên có thể nói, Ngài đã làm cho Pháp môn Chiêm Sát Sám này trở nên rất toàn vẹn, chúng ta chỉ tu tập theo, trực tiếp học hành như vậy. Ngài giảng Pháp môn này không thể không lưu thông, phải nhanh chóng lưu thông, dốc toàn lực lưu thông Pháp môn này, Ngài giảng rất nhiều lần. Nói là Pháp môn này có thể cứu bệnh nặng cho tất cả chúng sinh trong thời mạt thế. Đáng tiếc, từ thời đại của Ngài đến chúng ta hiện nay đã hơn ba trăm năm, Pháp môn này vẫn chưa lưu thông rộng rãi, thật đáng tiếc! Quả là chúng sinh phước bạc!

Địa Tạng Tịnh Tông Học Hội của chúng ta đã có hai chữ “Địa Tạng” thì phải đưa cao cán cờ của Bồ Tát Địa Tạng. Chúng ta hoằng dương Pháp môn Địa Tạng. Bởi thế, vì sao tôi lại có nhân duyên với Địa Tạng Tịnh Tông Học Hội như vậy, đại khái là có sự sắp đặt âm thầm; Tôi và Hoàng Cảnh Quan lần đầu tiên gặp nhau mà giống như bạn tri giao lâu ngày gặp lại vậy. Đến khi hỏi, thì ra ông cũng lễ Chiêm Sát Sám, mà ông ta còn giảng Kinh Chiêm Sát, quả thực tâm đầu ý hợp! Thế nên, chúng tôi đều có sứ mạng phải phát dương quảng đại Chiêm Sát Sám Nghi, Chiêm Sát hành Pháp này. Đây cũng là kế thừa di chí của Đại Sư Ngẫu Ích, chính là vị Tổ sư đời thứ chín của Tịnh Độ Tông. Có thể nói, trong mười ba Tổ sư Tông Tịnh Độ, đối với việc hoằng dương Tịnh độ mà nói, Ngài là người có cống hiến lớn nhất. Di Đà Yếu Giải chính là một bộ trước tác được Tổ Sư Ấn Quang tán thán, dù cổ Phật tái sinh cũng không viết được hơn thế.

Đã muốn cầu Thanh tịnh Luân tướng, cần phải phát tâm Vô Thượng Đạo! Không được sợ khó, thà bỏ thân mạng cũng phải cầu giới hạnh, hy vọng có thể lấy chí nguyện của Tổ Sư làm chí nguyện của mình. Bản thân tôi rất ngưỡng mộ Đại Sư Ngẫu Ích! Tôi có hai vị Đại Sư, một vị đang tại thế, một vị đã qua đời là quá khứ, vị trong quá khứ chính là Đại Sư Ngẫu Ích; Còn vị Đại Sư hiện nay mọi người đều biết, chính là người chúng tôi tôn kính nhất, chính là Hòa Thượng Tịnh Không, hai vị Ân sư.

Về sau tôi hỏi Sư Phụ (PS Tịnh Không), con muốn hoằng dương Pháp môn này được chăng? Tôi đã viết bài tựa cho Chiêm Sát Kinh Nghĩa Sớ của Đại Sư Ngẫu Ích, vì ở Bắc Kinh có một vị Cư sỹ muốn phát tâm in bộ Kinh này; Ông mời tôi viết lời tựa, tôi cũng vì việc nghĩa không thể chối từ, nên đã viết lời tựa trình lên Sư Phụ xem có thể lưu thông được chăng? Sư Phụ xem xong nói: có thể lưu thông! Sau đó, Sư phụ còn nói với tôi: “Trước đây tôi cũng từng làm việc này”, mà càng khiến tôi kinh ngạc hơn là gì, Ngài nói, Ngài cũng đã từng làm ba mươi bộ bánh xe gỗ tặng cho người khác. Tôi nói: “Vậy là Hòa thượng quả thật quá tuyệt vời”.

Hòa Thượng nói phương pháp này có thể giúp người khác đoạn nghi hoặc; Đặc biệt là đối với hàng sơ học chúng ta, có nghi hoặc, có lo ngại, không đoạn nghi, tín tâm sẽ không sinh khởi được, thậm trí trở thành chướng ngại lớn cho việc tu học Tịnh Độ của chúng ta; Vì Tịnh Độ đáng quý nhất là niềm tin, tín nguyện hạnh. Nếu như không đủ tín tâm, có nghi hoặc, đó chính là chướng ngại! Pháp môn này là hóa giải nghi ngờ. Bởi thế, Thiệu Long Tăng Chúng, gánh vác sự nghiệp của Như Lai, không phải chúng ta thì là ai? Bởi thế, cần phải phát tâm lễ sám! Lễ Sám như thế nào? Y theo phương thức của Chiêm Sát Sám Nghi này.

Bước đầu tiên phải dùng Luân tướng thứ nhất, Luân tướng thứ nhất có tất cả mười bánh xe, tượng trưng thân khẩu ý, thập ác và thập thiện nghiệp của chúng ta; Sát sinh hay không sát sinh? Trộm cắp hay không trộm cắp? Tà dâm hay không tà dâm? .v.v. là tượng trưng mười ác nghiệp, mười thiện nghiệp; Mỗi bánh xe có bốn mặt, một mặt mầu đỏ tượng trưng cho thiện, một mặt mầu đen tượng trưng cho ác, hai mặt khác là trống không.

Đầu tiên là y theo cách thức của Bồ Tát Địa Tạng, trong Kinh này Bồ Tát Địa Tạng nói một cách rất tinh tế, tỉ mỉ, nên làm như thế nào? Đầu tiên phải chiêm bánh xe thứ nhất, bánh xe thứ nhất dùng để làm gì? Chính là kiểm tra tư liệu đời trước của mình, xem đời trước chúng ta là nghiệp thiện nhiều hay nghiệp ác nhiều, đâu là thiện nghiệp, đâu là ác nghiệp, chúng ta đều có thể nhận ra;

Cũng y theo chiêm Luân tướng Pháp, chí thành lễ bái cúng dường, quán tưởng cúng dường, sau đó niệm một nghìn biến Thánh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, rồi cầm ngửa bàn tay, ném ra như vậy; Bánh xe lăn tròn là tượng trưng cho nghiệp đang chuyển, sau đó nó dừng lại, liền xem thử. Bây giờ quý vị sẽ quan sát được đời trước, thậm chí là thiện ác nghiệp trong đời này.

Sau khi chiêm xong, còn phải dùng bánh xe thứ hai, bánh xe thứ hai là để kiểm nghiệm xem chúng ta ném bánh xe thứ nhất có tương ưng chăng và còn xem nghiệp của chúng ta mạnh hay yếu; Bởi thế, ném bánh xe thứ nhất trước.

Bánh xe thứ hai đây là thân khẩu ý; Có ba bánh xe nên quý vị phân biệt bói, ví dụ quý vị nhìn thấy một người sát sinh, sát sinh là chứng minh đời trước hoặc đời này chúng ta có nghiệp sát, chúng ta thử xem có tương ưng chăng? Nên dùng thân này, bánh xe này là Thân nghiệp, tôi liền cầm một bánh xe, sau đó tác ý. Bây giờ tôi muốn xem sát nghiệp của tôi mạnh hay yếu, hoặc là tương ưng hay không, sau đó cũng ném như vậy rồi xem thử; Nếu là màu đen, chứng tỏ đời này và đời trước tạo sát nghiệp rất nặng; Tương ưng, vì sát nghiệp là ác, mà bánh xe thứ hai cũng hiển thị là ác, như vậy là tương ưng; Giả như bánh xe thứ hai hiện lên màu đỏ, không tương ưng với màu đen của bánh xe thứ nhất, coi như là lần này không tính. Có thể chúng ta chưa đủ thành tâm nên bói không ra, giả như tương ưng, vậy nhất định là đúng; Trong Kinh, Bồ Tát Địa Tạng nói rất rõ, nếu là chấm đen nhỏ chính là có sát nghiệp, nhưng không nặng lắm, dễ sám hối hơn, còn như nặng thì phải cố gắng sám hối.

Bây giờ tôi sẽ bói chính mình trước, sau khi ném bánh xe thứ nhất xong, xem thử, sau đó dùng bánh xe thứ hai bói, tương ưng, chỉ có hai cái; Một cái là không vọng ngữ, một cái là không tham dục, ngoài ra nếu như không hiển thị là trống không, nếu không là không tương ưng; Mà khi dùng bánh xe thứ hai để bói hai cái này đều là không tham dục, không vọng ngữ đều là màu đỏ, chứng tỏ đều là tốt; Có thể đời trước ít vọng ngữ, ngoài ra không tham dục, cần phải quan sát tập quán của đời này, cũng rất chính xác. Trong Kinh cũng có nói, nếu chúng ta bói mà không tương ưng với tập khí trong đời này; Ví dụ, trong đời này chúng ta rất thích ăn, rất tham lam, nhưng khi bói lại ứng với không tham dục, như vậy là không tương ưng; Tôi suy nghĩ lại, trong đời này coi như là không tham lắm, cũng coi là tương ưng.

Sau khi đạt được Luân tướng như vậy, trong lòng liền sinh khởi chút tín tâm, thật ra nghiệp chướng có thể là có nhưng không nặng lắm, không phải là nghiệp sát, đạo, dâm, vọng; Nếu hoàn toàn là mầu đen, như vậy là rất nặng, nhưng nặng cũng có thể sám hối, còn như nhẹ thì phải cầu giới, cầu thân khẩu ý thanh tịnh, điều này vẫn còn có hy vọng;

Bởi thế nên y theo Sám Nghi này nói, bắt đầu lễ sám, nên lễ sám như thế nào? Bảy ngày đầu tiên phải ngày đêm sáu thời lễ bái; Như vậy, mỗi ngày chúng ta lễ bảy bộ Sám; Mới bắt đầu, lễ sám một bộ khoảng một tiếng, hay nói cách khác bảy ngày đầu, mỗi ngày được bảy tiếng, còn phải niệm một nghìn tiếng danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng.

Đến ngày thứ tám, bắt đầu dùng bánh xe thứ hai, bánh xe thứ hai là ba bánh xe thân khẩu ý; Bắt đầu cầu Thanh tịnh Luân tướng, ba bánh xe phải ném cùng một lúc, không phải ném từng cái một, ba bánh xe này cũng cùng một lúc, không cần niệm một nghìn biến danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng; Sáng sớm, vừa đánh răng, rửa mặt xong, sau đó liền ném ba bánh xe này một lúc, ném liên tục ba lần như vậy, vừa đúng cả ba cái đều là mầu đỏ; Nếu như chín cái màu đỏ, bất luận là mầu đỏ lớn hay nhỏ đây gọi là Thanh tịnh Luân tướng.

Chúng ta sẽ ném mỗi ngày, sám hối mỗi ngày, ném mỗi ngày, lạy đến lúc được Thanh tịnh Luân tướng làm thời hạn; Vì trong Kinh Chiêm Sát Bồ Tát Địa Tạng nói rất rõ, giả như tâm quý vị chí thành, sơ tâm không thối chuyển, cho dù nghiệp chướng nặng đến đâu, lễ một nghìn ngày nhất định được Thanh tịnh Luân tướng, nghìn ngày chính là ba năm.

Điều này cần có tâm kiên trì, có nghị lực, sơ tâm không thối chuyển, thế nên tôi đã quyết tâm để lễ lạy, kết quả không ngờ, lễ sám được một tháng, ngày 8/8 được Thanh tịnh Luân tướng. Lúc đó cảm thấy buồn vui lẫn lộn, nên lập tức phải tạ ơn, quả thực là cảm ơn Thế Tôn, cảm ơn Bồ Tát Địa Tạng, cảm ơn Sư Phụ, Hòa Thượng Quả Thanh, còn có Pháp Sư Thiên Nhân, Pháp Sư Quả Lương, giới thiệu Pháp môn này cho tôi, tôi đi đến chỗ họ để cảm ơn; Hay nói cách khác, nếu quý vị được Thanh tịnh Luân tướng theo như trong Kinh nói, là quý vị có thể đắc Bồ Tát giới, Sa Di giới, Tỳ Kheo giới.

Suốt đời của Đại Sư Ngẫu Ích chí cầu năm Tỳ Kheo trụ thế, sống cùng nhau hòa hợp là có thể hình thành Tăng đoàn, có thể khiến chính Pháp phục hưng. Suốt đời Ngài Ngẫu Ích chưa thực hiện được ước mơ này. Nên biết rằng năm vị Tỳ Kheo này muốn hòa hợp ở một nơi cũng không phải là dễ, nếu được Thanh tịnh Luân tướng, còn phải tinh chuyên giới Pháp, mọi người sống với nhau hòa hợp, như Lý như Pháp.

Có Tăng đoàn này xuất hiện, đó chính là Tăng đoàn Lục hòa mà Hòa Thượng hay nói. Tăng đoàn hòa hợp này vừa xuất hiện, thì thiên tai ở thế gian này đều được hóa giải, nhất định được chư Phật gia hộ, Thiên Long hộ trì, không có thiên tai, mà chính Pháp có thể phục hưng. Điều này chính mình phải nỗ lực!

Tuy Bồ Tát Địa Tạng quan tâm đến chúng ta như thế, cho chúng ta Thanh tịnh Luân tướng, nhưng phải cần có bốn người ý chí tương đồng cùng sống với chúng ta; Khi hình thành Tăng đoàn đầy đủ năm vị Tỳ Kheo, chúng ta có thể thực hiện ước mơ của Đại Sư Ngẫu Ích, có thể làm được chăng? Chúng ta có tâm nguyện này, nỗ lực cầy cấy không hỏi đến thu hoạch. Sư Phụ chúng tôi cũng nói, muốn phục hưng Phật Pháp, cần phải khôi phục chế độ Tùng Lâm, chính là khôi phục Tăng đoàn.

Trong đời Hòa Thượng hình như vẫn chưa nhìn thấy, nên đời sau của chúng ta cần phải kế thừa di chí của tiên nhân, tiên hiền, tiếp tục nỗ lực; Ngài Ngẫu Ích rất hy vọng như vậy, Đại Sư Hoằng Nhất cũng hy vọng như vậy, Sư Phụ chúng tôi cũng hy vọng như vậy, nên chúng ta phải nỗ lực tiến hành, bất luận thành tựu hay không cũng cần phải nỗ lực. Như Khổng Tử nói “Trì kỳ bất khả di nhi di trí” (Biết điều này không dễ làm mà vẫn cứ làm).

Thế nên, bản thân gặp được Pháp môn Chiêm Sát này, một nhân duyên khi học giới. Hiện nay hồi tưởng lại, cảm ứng không thể nghĩ bàn. Bản thân giống như trong Kinh nói: “Nhờ Bồ Tát Địa Tạng nhiếp thọ, Bồ Tát dùng lời nhẹ nhàng an ủi nói, mở đám mây mờ cho tôi và rửa sạch tâm tư, phá mê trừ chướng, phá trừ nghi ngờ lo lắng cho chúng ta, đoạn tận chướng ngại cho chúng ta, xa dời khiếp nhược, tăng trưởng tịnh tín”. Hiện tại bản thân tôi lĩnh hội một cách sâu sắc, Pháp môn này gọi là tăng trưởng tịnh tín, tín tâm của chúng ta có thể tăng trưởng, có thể thanh tịnh.

Trong Kinh này, Bồ Tát Địa Tạng nói với chúng ta rằng: “Khi học nên chí tâm, khiến thân khẩu ý được thanh tịnh tướng, tôi cũng hộ niệm, khiến chúng sinh này nhanh chóng tiêu trừ chủng chủng chướng ngại, Thiên Ma Ba Tuần không đến phá hoại, cho đến 95 loại ngoại đạo tà sư, tất cả quỷ thần cũng không đến làm não loạn; Tất cả ngũ cái uyển chuyển nhẹ nhàng và có thể tu tập thiền trí tuệ”. Trong lời nguyện của Bồ Tát Địa Tạng, Ngài đã phát nguyện: chỉ cần chúng ta có thể phát khởi chí tâm, cầu đắc Thanh tịnh Luân tướng, thân khẩu ý được thanh tịnh, thì Bồ Tát Địa Tạng sẽ hộ niệm, có thể khiến chúng ta nhanh chóng tiêu diệt các chướng nghiệp.

Thiên Ma Ba Tuần đều không dám đến nhiễu loạn, thậm chí 95 loại ngoại đạo tà sư và tất cả quỷ thần, chính là nói tất cả những oán thân trái chủ của chúng ta, những oan hồn ma quỷ cũng đều không đến quấy nhiễu. Nên đạo Bồ Đề của chúng ta vô cùng thuận lợi và tất cả ngũ cái của bản thân, như tham dục, sân uế, thùy miên, nghi pháp, trạo hối, uyển chuyển nhẹ nhàng, dần dần ít đi, có thể tu tập các thiền trí tuệ, dần dần có thể được định, có thể được tam muội, có thể khai trí tuệ;

Tôi thấy Bồ Tát Địa Tạng nói điều này trong lòng rất hoan hỷ, quả thật cảm thấy Pháp môn này rất thù thắng. Bản thân tín tâm tăng trưởng rất nhanh, thì ra chính là khiếp nhược trong Kinh nói, không dám gánh vác. Muốn cứu Phật Pháp, cứu chúng sinh, chúng ta làm sao dám gánh vác? Trước đây không dám gánh vác, đây là khiếp nhược, hiện nay xa rời khiếp nhược nên dám trực tiếp gánh vác.

Mặc dù Phật, Bồ Tát tuyển chọn chúng ta, vậy chúng ta phải: nghĩa bất dung từ tiếp nối huệ mạng Phật, thiệu long tăng chúng, hoằng Pháp lợi sinh, tận hết sức lực của mình mà tu hành, bản thân phải nhắc nhở mình phải tinh tấn, tinh tấn cũng đừng sợ chướng ngại, vì có Bồ Tát Địa Tạng hộ niệm;

Bởi thế, quý vị xem tôi ở Tịnh Xá Chánh Giác tu Phật thất và ngay đó phối hợp với Địa Tạng Học Hội niệm Phật một ngày đêm vào tết nguyên đán. Chúng ta tuy thân ở hai nơi nhưng tâm ở một nơi; Tôi nói với Hoàng Cảnh Quan, chúng ta cùng nhau, tôi cũng đến phối hợp với mọi người niệm Phật một ngày một đêm; Tôi niệm Phật một ngày một đêm đó, niệm như thế nào?

Chính mình phải thử nghiệm, dùng phương pháp Bát châu; Tức là chỉ đi, không ngồi cũng không nằm, đương nhiên cũng không ngủ và không ăn; Vì không ăn là để ít đi nhà vệ sinh, uống nước cũng rất ít, để tập trung thời gian niệm Phật A Di Đà; Đi như vậy suốt một ngày một đêm, thân thể rất mệt, nhưng trong lòng cảm thấy rất nhẹ nhàng. Tu tập như thế, cũng không có ma chướng nào xuất hiện, tinh tấn như vậy nếu như có chướng ngại thì oán thân trái chủ sẽ đến quẫy nhiễu chúng ta.

Quý vị xem, Cư sỹ Lý Bỉnh Nam, trước đây cũng tu tinh tấn Phật thất đúng không? Trong đó có hai học viên xảy ra vấn đề, Lý Bỉnh Nam Ngài hướng dẫn mười tháng mới bình phục, nên về sau không dám tu tinh tấn Phật thất nữa. Sư Phụ kể chuyện này rất nhiều lần, vì sao họ xảy ra vấn đề? Chính vì có chướng ngại, nếu tinh tấn dụng công, chướng ngại này liền xuất hiện, quý vị không tinh tấn thì không sao, Ma không nhọc công xuất hiện, không cần động đến; Nhưng quý vị tinh tấn, chúng bắt đầu lo lắng, liền đến phá hoại, đến chướng ngại quý vị;

Nhưng nếu quý vị giống như ở đây nói, đạt được Thanh tịnh Luân tướng, Bồ Tát Địa Tạng phát nguyện đến hộ trì quý vị, Thiên Ma Ba Tuần đều không dám đến nhiễu loạn, các loại ma nhỏ khác lại càng không dám đến; Ma Vương đều không đến, ma nhỏ càng không dám đến; Quý vị thấy, trong lòng phải chăng cảm thấy rất thiết thực? Gọi là tăng tín an ổn, trong lòng rất an ổn, chúng ta chỉ sợ mình không siêng năng mà thôi, nếu tinh tấn thì đừng có sợ ma chướng.

Bản thân đương nhiên cũng rất hổ thẹn, không đủ siêng năng, thật ra siêng năng tinh tấn, thành công sẽ rất nhanh. Bởi có Ngài Địa Tạng hộ trì chúng ta, thế nên, Pháp môn này rất hay, chính mình được lợi ích rất lớn. Nên cảm thấy cần phải chia sẻ với mọi người, không chia sẻ quả thật rất có lỗi với mọi người, hy vọng rằng mọi người dùng Pháp môn này trợ duyên thêm cho Pháp môn Tịnh Độ;

Pháp này không phải là Pháp môn chính, Pháp môn chính vẫn là Tín, Nguyện, Trì Danh; Không thể thay đổi được điều này, nhưng phải có phụ trợ, nếu không có phụ trợ, chỉ sợ Pháp môn chính này sẽ có ma chướng. Lý của Pháp môn Chiêm Sát này rất thâm sâu, lúc nãy là giới thiệu sơ với mọi người về nhân duyên tôi học Pháp môn này, bây giờ bắt đầu chính thức nói với mọi người.

Đầu tiên nói về Lý của Pháp môn này, Lý này là gì? Là y theo tự tính thanh tịnh Nhất thật cảnh giới mà nói, Nhất thật cảnh giới chính là tự tính, Hoa Nghiêm gọi là Nhất chân Pháp giới, cõi Thường Tịch Quang ở Thế giới Cực Lạc. Tất cả vạn Pháp đều sinh ra từ tự tính, tự tính mê thì gọi là phàm phu, chính là chúng sinh, tự tính ngộ chính là chư Phật. Chúng ta hiện nay là tự tính đang mê, bởi thế nên khởi hoặc tạo nghiệp, nhất niệm bất giác liền khởi hoặc tạo nghiệp; Mà khởi hoặc, tạo nghiệp lại không thể quán chiếu, không thể quay đầu, khi đã mê là mê luôn, vô lượng kiếp cũng không quay đầu lại được; Mà tội chướng này, càng tạo càng nhiều, ngày càng dầy, chướng ngại này ngày càng lớn, nên ngày càng khó quay đầu; Tội chướng này sẽ chướng ngại chúng ta;

Pháp môn này giúp chúng ta diệt trừ tội chướng, khiến chúng ta dùng phương pháp Chiêm Sát này dần dần đi vào Nhất thật Pháp giới của chính mình; Nên Pháp môn này là Pháp môn đại thừa, không phải kiểu bói tướng như thế gian nói, không phải như vậy. Đây là Bồ Tát Địa Tạng dùng phương tiện thiện xảo, dùng trí tuệ lớn lao, dùng từ bi vô lượng, giúp hàng chúng sinh căn tính như chúng ta. Chúng sinh trong đời mạt pháp căn tính kém cỏi, nói lý thâm sâu họ không hiểu, nên dùng quyền xảo này để tiếp dẫn chúng ta, dần dần đi vào Nhất thật Pháp giới;

Từ đầu dùng bánh xe gỗ để Chiêm Sát, dần dần lĩnh hội hai loại quán đạo; Toàn bộ Kinh, Đại Sư Ngẫu Ích tán thán: tông của nó chính là cương lĩnh tu hành, chính là hai loại quán đạo. Loại thứ nhất là: Duy Tâm Thức Biến, loại thứ hai là: Chân Như Thật Quán.

Duy Tâm Thức quán là gì? Chính là quán tất cả hiện tượng vạn vật trong vũ trụ, đều là duy tâm sở hiện, duy thức sở biến. Điều này hoàn toàn giống như trong Hoa Nghiêm nói, đó gọi là Duy Tâm Thức Quán. Bây giờ chúng ta chưa hiểu cái lý này, muốn quán rất khó; Bồ Tát Địa Tạng dùng phương tiện, đầu tiên là dùng Luân tướng để quán, Luân tướng này là một loại tướng mà tâm của quý vị hiện ra, dùng tướng này để quán tâm chúng ta.

Tâm chúng ta tạo nghiệp là thiện hay ác, dùng Luân tướng này là có thể hiển hiện ra, tướng do tâm sinh, tướng tùy tâm chuyển; Tâm chúng ta đã chuyển, vốn là ác bây giờ chuyển thành thiện, quý vị đi bói lại nó đã biến thành thiện, tướng này đã chuyển, tùy theo tâm quý vị mà chuyển, giúp quý vị lĩnh hội duy tâm thức quán. Sau đó, quý vị dần phát hiện, không chỉ là bánh xe gỗ chuyển, mà tất cả cảnh giới như hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật chất, thì ra là giống với Luân tướng, chuyển theo tâm chúng ta.

Bởi thế, vì sao bánh xe này gọi là bánh xe gỗ, bánh xe này có nghĩa là chuyển, mỗi niệm đều đang chuyển. Bồ Tát Di Lặc nói, một khẩy móng tay có ba mươi hai ức một trăm nghìn niệm, mỗi niệm đều có tướng, thế nên bánh xe gỗ tướng của một giây trước, không giống tướng của một giây sau, nó đều đang thể hiện tâm của quý vị, đây chính là duy tâm thức quán; Sau đó, quý vị sẽ dần dần phát hiện, thì ra thế giới Ta Bà cũng là duy tâm thức, Thế giới Cực Lạc cũng là duy tâm thức.

Vậy tại sao chúng ta không tạo Thế giới Cực Lạc? Vì sao chúng ta khởi tham sân si tạo ra thế giới Ta Bà, để ở trong đó luân hồi thọ khổ, chính là duy tâm thức quán. Chúng ta bắt đầu từ Luân tướng, sau đó chúng ta còn có Chân như Thật quán, Chân như Thật quán là trực tiếp quán Pháp thân mình, tức quán Tự Tính, không bắt đầu từ chân tướng, trực tiếp bắt đầu từ thể, quán bản thể của chúng ta. Tự tính thanh tịnh, vốn tự thanh tịnh, vốn không dao động, vốn tự đầy đủ, năng sinh vạn Pháp, chính là quán điều này.

Quý vị xem, đây là thu nhiếp hết tất cả Pháp môn của Đại thừa, sau đó đưa nó nhập vào Nhất thật cảnh giới, Nhất thật cảnh giới là Nhất chân Pháp giới. Lý của Pháp môn này hoàn toàn giống với Hoa Nghiêm và Pháp Hoa mà nó còn có một loại công năng diệt trừ chướng ngại; Phàm phu cũng đều có thể thọ trì, tuy không hiểu về lý, nhưng khi lễ lạy, khi bói, đều đạt hiệu quả giống nhau.

Thế nên, trong Chiêm Sát Sám Nghi, Đại Sư Ngẫu Ích ở phần khuyên tu là khuyên mười hai hạng người tu Sám Pháp này đều bao hàm ở trong đó, tôi sẽ đọc qua cho mọi người nghe sẽ hiểu hơn. Đại Sư Ngẫu Ích nói: “Nếu đệ tử Phật, muốn tu chính Pháp xuất thế, muốn hiện tại không có các chướng duyên, muốn trừ diệt ngũ nghịch thập ác và trọng nghiệp vô gián, muốn cầu tư sinh chúng cụ đều được sung mãn nhiêu ích”.

Quý vị muốn đạt được cuộc sống sung túc đều được, muốn khiến trọng nạn khinh giá đều được tiêu diệt, chính là quý vị phải cầu giới, có trọng nạn khinh giá làm chướng ngại giới của quý vị, nếu quý vị muốn đoạn tận, muốn được Ưu Bà Tắc, Sa Di, Tỳ Kheo, thanh tịnh Luật nghi, đây là cầu tại gia Bồ Tát, giới tại gia, Tỳ Kheo giới và các giới xuất gia. Muốn được Bồ Tát Tam tụ Tịnh giới, muốn đạt được chư thiền tam muội, đây là cầu định, muốn đạt trí tuệ vô tướng, đây là cầu trí tuệ, cầu giới, cầu định, cầu tuệ đều được.

Muốn cầu hiện đời chứng được quả vị tam thừa, cầu chứng quả tam thừa bao gồm tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, muốn tùy ý vãng sinh về cõi nước Tịnh Độ. Đây là điều chúng ta thích nhất, muốn vãng sinh Tây Phương, muốn ngộ Vô Sinh Pháp Nhẫn, viên mãn chứng nhập Nhất thật cảnh giới. Tức là Quý vị muốn thành Phật, đều nên thọ trì, tu hành Pháp Sám hối này, tức là đều phải thọ trì Pháp Sám hối này, vì sao vậy?

Đây là Đức Thế Tôn đặc biệt hoằng từ, từ bi vô lượng. Địa Tạng Bồ Tát xưng cơ bi nguyện khế hợp với căn cơ của chúng ta; Pháp môn dùng đại bi nguyện lực để truyền lại, nhổ sạch các khổ và ban vui cho tất cả, nương theo đây tu hành, tịnh tín kiên cố, không có khổ nào không thể bạt trừ, không có niềm vui nào không thể đạt được, thậm chí nghĩ đến Thế giới Cực Lạc, muốn thành Phật, Pháp môn này đều có thể giúp chúng ta.

Đại Sư Ngẫu Ích đã khen ngợi Pháp môn này đến cực điểm, nên chúng ta phải cố gắng tu tập, đây là điều đầu tiên; Có thể có người vẫn còn nghi hoặc, chúng ta tu Tịnh Độ, sao phải tu lễ sám này? Ở đây tôi dùng Kinh Vô Lượng Thọ để nói rõ với quý vị phải lễ sám, phải sám hối, không sám hối không thể vãng sinh.

Ai dạy chúng ta sám hối? Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Phật A Di Đà dạy chúng ta sám hối, không biết quý vị có nghĩ đến chăng? Phật A Di Đà Phát bốn mươi tám nguyện đúng không? Trong đó, nguyện thứ hai mươi mốt nói gì? “Hối quá đắc sinh nguyện”, Kinh văn nói rằng: “nếu có ác nghiệp từ đời trước, nghe danh hiệu của Tôi, tức tự sám hối, vì đạo mà làm thiện, thọ trì Kinh giới, nguyện sinh nước Tôi, mạng chung không đọa trong ba đường ác, tức sinh nước tôi”. Đoạn Kinh văn này chắc mọi người rất quen thuộc, không chỉ được đọc qua loa, đây là Phật A Di Đà dạy chúng ta.

Nếu như có nghiệp ác trong đời quá khứ, chính là túc thế, tức là ác nghiệp tạo ra từ xưa đến nay, ai không có ác nghiệp trong nhiều đời? Ai dám nói không có ác nghiệp trong nhiều đời? Quý vị xem, Bồ Tát Phổ Hiền nói, những ác nghiệp của Ngài trong nhiều đời trước, nếu như có hình tướng, có thể tướng, tận hư không giới đều không dung nạp hết. Bồ Tát Đẳng Giác mà ác nghiệp trong quá khứ còn nhiều đến thế, nên Thập đại Nguyện Vương của Ngài phải tu sám hối nghiệp chướng.

Chúng ta so với Bồ Tát Phổ Hiền thì sao? Quý vị dám nói không có ác nghiệp trong quá khứ ư? Nếu có thì như thế nào? Nghe danh hiệu Tôi liền tự sám hối, nghe danh hiệu Phật A Di Đà để cầu sinh Tịnh Độ thì cần phải sám hối, không sám hối làm sao được. Thế nên, Phật A Di Đà dạy chúng ta tu sám hối.

Trong sám hối, Ngài Ngẫu Ích khen ngợi nhất là Chiêm Sát Sám, đây chính là trợ hạnh của Tịnh Độ chúng ta. Sám hối xong, vì đạo làm thiện, nên cố gắng tu đạo, tín nguyện trì danh, chuyên tu thiện nghiệp, còn phải trì Kinh trì giới. Trì giới rất quan trọng, trì giới sẽ không còn tạo nghiệp. Trì Kinh, chúng ta chuyên trì Kinh Vô Lượng Thọ, nhất môn huân tập, trường thời huân tu, nguyện sinh vào nước Tôi, sau khi mạng chung không bị đọa vào ba đường ác, mà lập tức sinh vào Thế giới Cực Lạc. Thế nên, chúng ta coi trọng Pháp môn Sám hối.

Ở Hồng Kông, tôi cũng giới thiệu về Pháp môn này, giới thiệu ở đâu? Cô Hà Mỹ Tuệ mời tôi đến nhóm sám hối của cô, tôi nói tôi giới thiệu Pháp môn Sám hối đến nhóm sám hối của quý vị, giới thiệu rất thích hợp; Tôi nói với mọi người: quý vị đồng tu, tôi xem bản thảo nghi thức sám hối của quý vị rất cảm động, nào là phát lồ, sám hối những việc như bản thân ngày xưa có nạo phá thai, tà dâm, hủy báng Tam Bảo, còn có sát nghiệp rất nặng, ở trước đại chúng phát lồ những trọng tội này, đây là điều rất khó được, nhưng có tác dụng chăng?

Tội của quý vị chưa chắc tiêu hoàn toàn mà chỉ gọi là phát lộ, chưa hoàn toàn gọi là sám hối, đương nhiên phát lộ là phương tiện của sám hối, ta không phát lộ làm sao sám hối; Đầu tiên là phát lộ, nhưng tội có diệt được chăng? Phải dùng cách sám hối.

Tội nhẹ đối đầu sám hối là được, tìm một người sám hối là được, tội nặng phải thủ tướng sám hối. Thủ tướng sám chính là một trong các phương pháp sám của Chiêm Sát Sám, chẳng qua nó không giống với một số thủ tướng sám khác; Các thủ tướng sám thông thường khác ví như Pháp Hoa sám, Đại Bi sám, phải thấy hảo tướng; Trong Phạm Võng Bồ Tát giới, cũng có Phạm Võng sám, nó cần thấy hảo tướng;

Như thế nào gọi là hảo tướng: như thấy Phật, thấy ánh sáng, thấy hoa, thấy trong định hoặc thấy trong mộng đều được, đây gọi là thấy hảo tướng; Nếu như không thấy những hảo tướng này, vậy thì tội không tiêu diệt được, nhưng điều này không dễ. Quý vị thấy Phật được mấy lần? Thấy hoa sen được mấy lần? Rất khó!

Vậy Chiêm Sát Sám thì sao? Lấy thân khẩu ý, Tam Luân Thanh tịnh Luân tướng, đây gọi là thấy tướng hảo. Điều này rất đúng, đây chính là thủ tướng sám; Nếu dùng thủ tướng sám được Thanh tịnh Luân tướng thì những trọng tội đó có thể diệt trừ; Mà cách sám hối này có thể diệt trừ được nghịch tội; Nghịch tội còn nặng hơn phạm trọng giới, phạm trọng giới là gì? Trọng giới sát sinh như giết người gọi là giới nặng, giới trộm cắp như ăn trộm ngũ tiền trở lên, có một cách tính là khoảng một nghìn đài tệ trở lên, điều này rất dễ phạm, phải cẩn thận;

Quý vị đã thọ năm giới, phạm năm giới này chính là phạm trọng giới. Thứ ba là phạm giới dâm, thật sự phạm tà dâm.Thứ tư là đại vọng ngữ, đại vọng ngữ này là “vị chứng ngôn chứng, vị đắc ngôn đắc”. Chúng ta chưa chứng quả mà nói đã chứng, chưa thấy Phật mà nói thấy Phật. Đây đều là đại vọng ngữ; Bốn loại trọng tội này, các Pháp sám hối khác không sám trừ được, cần phải dùng phương pháp thủ tướng sám hối.

Còn nghịch tội thì quá nặng, như giết cha, giết mẹ, làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp Tăng, giết A La Hán, đây là tội ngũ nghịch, nhất định đọa địa ngục A Tỳ; Nhưng dùng Chiêm Sát sám có thể diệt tội, Chiêm Sát sám này quả thật là không tội gì không diệt, không có khổ nào không nhổ sạch; Người niệm Phật chúng ta, đặc biệt là người niệm Phật trong thời kỳ mạt pháp, trên cơ bản đều thuộc vào loại nghiệp chướng sâu nặng.

Bản thân Định Hoằng cũng cảm thấy nghiệp chướng sâu nặng, quý vị xem học Phật hơn hai mươi năm vẫn chưa thành tựu. Ngài Ngẫu Ích vừa xuất gia nửa năm đã đại ngộ, chính là người kiến tánh trong Thiền tông; Chúng tôi theo Sư Phụ hơn hai mươi năm, nhưng không có chút thành tựu nào, mà còn tạo không ít tội nghiệp, người giống như chúng tôi nhất định cũng rất nhiều, có thể có người còn tạo nghiệp nặng hơn tôi; Họ đều có thiện căn, đều muốn cầu sinh Tịnh độ, chúng ta có nghĩa vụ giúp đỡ họ, giới thiệu Chiêm Sát Sám này, phải sám tội, trì giới, niệm Phật. Sám tội, trì giới là trợ hạnh, niệm Phật là chính hạnh, nếu như không có trợ hạnh, chính hạnh cũng khó mà thành tựu được.

Trước đây, Cư sĩ Lý Bỉnh Nam và một vị cao túc khác chính là Cư sĩ Chu Gia Lân, chắc mọi người đều biết Cư sĩ Chu Gia Lân, suốt đời cực lực hoằng dương Chiêm Sát Kinh. Ông có một bộ giảng về Kinh Chiêm Sát; Trước đây, ông giảng rồi học trò biên tập lại, trong bài giảng của ông nói như thế nào? Đây là lời nói nguyên văn của ông, tôi đọc để mọi người nghe: “Đây giống như là bình bát đựng nước uống, giống như cái bát này đem đựng nước uống, nếu bát không thanh tịnh, cho dù là thuốc tiên cũng sẽ biến chất. Do đó muốn niệm Phật được nhất tâm, đầu tiên phải gột sạch chướng ngại trong lòng, muốn gột sạch chướng ngại trong lòng, cần phải tìm cầu sức trợ duyên để đoạn trừ chướng ngại, Kinh này tức là Kinh Chiêm Sát”. Về phương diệt tiêu trừ nghiệp chướng, chú ý sám hối cả hai mặt Lý và Sự, Tri và Hành đều kiêm toàn, dùng phương tiện quán Pháp có thể khiến quý vị thấy đạo rất nhanh, chính là thấy đạo thật, tức là đắc đạo, dùng sám hối chân thành khẩn thiết có thể giúp niệm Phật nhất tâm.

Trong giảng ký của Cư sĩ Chu Gia Lân đã nói như vậy. Điều này chứng minh tính quan trọng của chính trợ song tu. Quý vị không phải là Pháp khí, nên trong tâm rất nhiều ô nhiễm, tội nghiệp chướng ngại, nếu không thanh trừ nó thì niệm Phật không thể thành tựu. Hoàng Cảnh Quan từng nói với tôi, ông ta quen một người cũng là người niệm Phật, niệm rất lâu nhưng vẫn không thành công;

Kết quả có một cặp mắt âm dương nhìn thấy, nói trên cổ ông ta toàn bộ cá mà ông câu được, số cá mà trước đây ông đã giết ăn đều đến tìm ông; Bởi thế, ông ta niệm Phật mãi không thành công, vì chướng chưa trừ, tội chưa tiêu, nên muốn tinh tấn cũng không được. Tôi không biết mọi người có cảm giác gì chăng, tôi trước đây cũng vậy, muốn niệm Phật, muốn cố gắng nhưng chướng duyên quá nhiều, nếu không phải ngoại duyên nhiễu loại như điện thoại reo không ngừng, hay là thường có người gõ cửa, lúc thực sự muốn nỗ lực thì bên ngoài có người đến tìm, khiến tâm không định lại được, hoặc là tập khí phiền não của bản thân khởi hiện hành nên khó định được, đây đều thuộc về chướng ngại, phải dùng Chiêm Sát Sám giúp quý vị diệt trừ, sau khi diệt trừ rồi, thân tâm thanh tịnh, niệm Phật hoàn toàn thuận lợi.

Hòa Thượng cũng khuyên chúng ta như vậy, vì sao Hòa Thượng muốn chúng ta nắm chắc ba căn bản trước? Thậm chí Hòa Thượng nói phải dùng một đến ba năm để đặt vững ba nền móng, sau đó mới thâm nhập Kinh Vô Lượng Thọ, Hòa Thượng từng nói như vậy, vì sao phải làm như vậy?

Quý vị muốn thâm nhập Kinh Vô Lượng Thọ, nếu có chướng ngại sẽ không thể vào được; Nhất môn huân tập, trường kỳ huân tu, không sai! Nhưng không thâm nhập được, vì có chướng ngại, chướng ngại vì ba nền móng không vững, làm người cũng không làm tốt, như vậy là do tội nghiệp sâu nặng, nên Hòa Thượng khuyên chúng ta nên nắm vững ba cái gốc, nhiều người cũng rất nghe lời bao gồm tôi trong đó.

Người ta từ năm 2004, bắt đầu khởi xướng Đệ Tử Quy, đến nay đã mười năm, đúng vậy chăng? Tôi cũng tu Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp, cần cù bù khả năng, bản thân thực hành hàng ngày, sau đó giảng. Có thể nói là rất nỗ lực học tập những căn bản này, tôi luôn nghi hoặc, những thứ căn bản này phải học đến khi nào mới tốt?

Khi nào mới có thể thâm nhập một môn Kinh Vô Lượng Thọ? Rất nhiều người hỏi tôi vấn đề này, Tôi cũng không biết trả lời sao? Thôi thì hỏi Bồ Tát Địa Tạng vậy. Quý vị thử đến bói xem, hỏi Bồ Tát Địa Tạng hiện nay chúng ta đã học tốt ba thứ căn bản chưa? Có thể thâm nhập Kinh Vô Lượng Thọ rồi chăng? Bồ Tát Địa Tạng sẽ trả lời quý vị.

Hoặc dứt khoát dùng ba loại Luân tướng này cầu Thanh tịnh Luân tướng; Nếu đạt được Thanh tịnh Luân tướng như vậy thì căn bản đã vững; Quý vị nghĩ Thập thiện Nghiệp đạo đây là gốc rễ thứ ba, thân ba, khẩu bốn, ý ba đều đã thanh tịnh, như vậy thì căn bản của Thập thiện Nghiệp đạo đã rất vững vàng, đã thông qua, cơ sở Thập thiện Nghiệp đạo là Cảm ứng thiên, cơ sở của Cảm ứng thiên là Đệ Tử Quy; Thập Thiện Nghiệp Đạo coi như đã xong thì hai điều ở trước không có gì để nói, vì Bồ Tát Địa Tạng đã giám định cho chúng ta, nên chúng ta mới có thể an ổn, mới có tín tâm, thì ra bây giờ là lúc thâm nhập KinhVô Lượng Thọ.

Nếu không bản thân chúng ta cũng không biết phải như thế nào? Có thể học suốt đời cũng cảm thấy chưa học được tốt đúng chăng? Bởi thế, phương pháp này chính là giải quyết nghi ngờ, nói với quý vị một cách rất chính xác, bây giờ quý vị nên làm như thế nào, hiện nay quý vị làm đến mức độ nào, nói rất chuẩn xác.

Trong Kinh Chiêm Sát, Bồ Tát Địa Tạng đặc biệt nhắc nhở chúng ta, đặc biệt là người nghiệp nặng, như tôi thuộc người nghiệp nặng, không biết ở dưới tòa có ai hơn tôi chút nào chăng? Người nghiệp nặng thì như thế nào? Bồ Tát Địa Tạng khuyên chúng ta, không thể lập tức tu định tuệ, nên y theo Sám Pháp để được thanh tịnh trước; Trong Kinh văn nói: mới bắt đầu học, nên phát tâm tu học kiên định Vô tướng trí tuệ; Như chúng ta hiện nay, muốn thâm nhập một môn Kinh Vô Lượng Thọ, cầu niệm Phật tam muội, thậm chí cầu Lý nhất tâm bất loạn, đây chính là cầu tu tập thiền định!

Thiền định là niệm Phật tam muội, Vô tướng trí tuệ là Lý nhất tâm bất loạn, hiện lên như thế nào? Đầu tiên nên quán xem, nghiệp ác đời trước làm bao nhiêu? Chính là dùng Chiêm Sát sám là nặng hay nhẹ, xem nghiệp ác đời trước của mình là nhẹ hay nặng, nếu ác nghiệp nhiều sâu dày, không được lập tức học thiền định, trí tuệ, đầu tiên nên tu Pháp Sám hối;

Ý này chính là nói, lúc nãy quý vị dùng bánh xe thứ nhất, nếu bói đến chính mình trong mười nghiệp có trọng nghiệp, dùng bánh xe thứ hai để kiểm nghiệm bánh xe thứ nhất, nếu là mầu đen lớn lại tương ưng, đó chính là ác nghiệp rất nặng, vậy quý vị tốt nhất không nên lập tức gấp gáp thâm nhập một môn, có thể có chướng ngại, quý vị phải tiêu nghiệp trước.

Đây là Bồ Tát Địa Tạng nhắc nhở chúng ta, Ngài nói: “sở dĩ giả hà” tại sao như vậy? Người này tập khí, ác tâm đời trước rất mãnh liệt sắc bén, nên đời này phải tạo nhiều ác nghiệp, hủy phạm cấm giới, nên phạm tội rất nặng, nếu không sám hối khiến cho thanh tịnh mà tu thiền định trí tuệ, nên có nhiều chướng ngại, không có lợi ích; Hoặc thất tâm toán loạn, hoặc ngoại tà não loạn, hoặc nạp thọ tà pháp, tăng trưởng ác kiến, đây đều thuộc bị tẩu hỏa nhập ma, nên phải tu Pháp sám hối trước.

Bồ Tát Địa Tạng nhắc nhở chúng ta, khuyến cáo chúng ta, nếu ác nghiệp nặng, có thể có người không dùng bói, nhưng biết được bản thân nghiệp ác nặng. Ví dụ, người từng nạo phá thai, hoặc từng phạm tội tà dâm, thậm trí là hủy báng chính Pháp, đây đều thuộc về ác nghiệp nặng; Hoặc là đại nghịch bất đạo, ngỗ nghịch cha mẹ, hạng người này, tốt nhất là tu Pháp sám hối trước.

Nếu không, quý vị tu tinh tấn, vì tập khí ác nghiệp của quý vị rất nặng, ác tâm rất mãnh liệt, sẽ như thế nào? Rất dễ phạm trọng giới, mà còn thất tâm sai trái, như phát thần kinh; Bệnh thần kinh, quả thực có hạng người này, đang tu như vậy tự nhiên nhẩy lầu, đây là do mắc bệnh thần kinh, hoặc tà ma bên ngoài nhiễu loạn, chính mình tiếp nhận tà pháp, tin lời những tà pháp đó, làm tăng trưởng tà kiến không thể quay đầu. Hạng người này tốt nhất khoan tu tinh tấn, phải tu Pháp sám hối trước, tinh tấn sám hối, được thân khẩu ý Thanh tịnh Luân tướng, sau đó mới tu Pháp môn của mình, như vậy sẽ không có vấn đề.

Đây là giới thiệu sơ lược cho mọi người về Pháp Sám hối này. Sám Pháp này có thể như trong Kinh nói, là lấy bổn thệ nguyện lực của Bồ Tát, nhanh chóng đầy đủ sở cầu cho tất cả chúng sinh, có thể diệt trừ tất cả trọng tội của chúng sinh, trừ các chướng ngại, hiện đời được an ổn; Bất luận quý vị có sở cầu gì, cầu hiện đời an lạc, ví dụ nói quý vị rất nghèo muốn được phú quý, có thể đạt được, tiểu quả, quý vị muốn ra khỏi Tam giới, ra khỏi luân hồi cũng có thể được; Muốn vãng sinh Tây Phương cũng có thể được; Muốn tức thân thành Phật cũng có thể đạt được, vì quý vị đã diệt trừ tất cả tội nặng của ác nghiệp, đoạn trừ tất cả chướng ngại, như vậy quý vị sẽ đạt;

Vì tự tính đã đầy đủ, tự tính của quý vị vốn đã đầy đủ, tất cả phước báo, tất cả trí tuệ, công năng đều vốn có trong tự tính. Vì sao hiện nay không có, chính là vì có chướng ngại, hiện nay đoạn trừ tất cả các chướng ngại đó nó liền hiện tiền. Bởi thế, Đại Sư Ngẫu Ích nói, sự thành tâm này là thuốc thần đối trị bệnh nan y cho đời mạt thế, là Pháp phương tiện thù thắng trong các Pháp phương tiện. Tôi thấy Ngài Ngẫu Ích chỉ khen ngợi thứ nhất là niệm Phật, thứ hai là Pháp môn Chiêm Sát, gọi là Pháp phương tiện thù thắng trong các Pháp phương tiện; Hai Pháp môn này cũng là một không phải hai;

Vì Phật A Di Đà dạy chúng ta biết sám hối sẽ được vãng sinh, đúng vậy chăng? Làm gì có phân thành hai, đặc biệt nó giúp chúng ta tăng trưởng tịnh tín, chúng ta không thể vãng sinh, vấn đề chủ yếu chính là chưa đủ tín tâm. Mọi người đều có nguyện, đều muốn vãng sinh đúng chăng? Nhưng chưa đủ tín tâm! Ngài Ngẫu Ích đã nói về sáu niềm tin: Tin mình, tin người, tin nhân, tin quả, tin Sự, tin Lý. Chưa đủ chữ tín này nên không thể vãng sinh, cho dù quý vị niệm Phật rất dụng công, coi như quý vị may mắn lắm, thì cao nhất chỉ vãng sinh về Biên Địa Nghi Thành; Đây đã là đỉnh điểm, nếu như không dụng công niệm Phật, thì đến Biên Địa Nghi Thành cũng khó đến được, mà đi vào trong luân hồi lục đạo. Đây gọi là Pháp môn Kiên Tịnh Tín do Bồ Tát Kiên Tịn Tính khởi thỉnh, nếu tu theo Pháp môn này có thể chứng Kiên Tín Tịnh.

Chúng ta vừa mới giới thiệu chủ yếu là dùng pháp môn Chiêm Sát Sám này, tiếp theo là giới thiệu với mọi người cũng giống như điều này, cũng là trong Kinh Chiêm Sát nói, chính là Chiêm Luân Tướng Pháp để hỏi vấn đề, cũng là giải quyết nghi ngờ, nếu chúng ta muốn niệm Phật vãng sinh phải buông bỏ tất cả đúng chăng? Phải chân thành niệm Phật, tức không có tham cầu gì nữa cả, như vậy là rất đúng! Nhưng chúng sinh trong thời mạt pháp, không dễ làm được đến chỗ vô cầu;

Có người nói với tôi, bây giờ tôi không nghĩ đến bất cứ điều gì, không cầu bất cứ điều gì, không biết khi nào Phật A Di Đà mới đến? Quý vị xem, không phải quý vị vẫn đang cầu ư? Quý vị vẫn đang còn nghi ư? Quý vị vẫn lo lắng không biết khi nào Phật A Di Đà đến? Quý vị không thể nói quý vị vô cầu, không thể nói quý vị không có nghi hoặc, bởi quý vị vẫn còn nghi, vẫn chưa đủ tín tâm, không đủ tín tâm, Pháp môn này có thể giúp quý vị.

Vậy bản thân có thể vãng sinh Tây Phương Cực Lạc chăng? Mọi người có nắm chắc được chăng? Ai nắm chắc xin giơ tay? Tốt! Chúng ta vỗ tay chúc mừng những vị này! Nhưng đại đa số đều chưa nắm chắc. Vì sao không nắm chắc? Vấn đề chủ yếu chính là nghi. Pháp môn này gọi là con đường dễ hành, Pháp môn này mà quý vị không dễ thành công, chứng tỏ quý vị không thể thành công. Đạo dễ hành là dựa vào bổn thệ nguyện lực của Phật A Di Đà tiếp dẫn quý vị. Đây là Pháp môn tha lực, chỉ cần quý vị tin chân thật, thật sự phát nguyện nhất định sẽ được vãng sinh.

Vì sao quý vị vẫn còn hoài nghi? Có người nghe, năm trước, trong buổi tọa đàm về Tu hành và cuộc sống, tôi trả lời vấn đề trong buổi tọa đàm đó chính là nói đến vấn đề này, chí tâm tin tưởng an vui cho đến mười niệm đều có thể vãng sinh. Cần phải tin, chẳng hạn nói hiện nay tôi rất chí tâm tín nguyện nhưng không biết Phật A Di Đà lúc nào đến, lỡ khi tôi lâm chung nghiệp chướng hiện tiền, phải làm sao? Hôn mê thì phải làm sao? Bị bệnh suy ngốc của người già phải làm sao? Bệnh tim đột phát phải làm sao? Sợ không kịp niệm Phật, lại không có ai trợ niệm phải làm sao? Quá nhiều sự lo ngại.

Tôi nói đây không phải là chí thành tin tưởng an vui, chí tâm là hoàn toàn không có nghi ngờ, chỉ có một niềm tin kiên cố là bây giờ phải niệm Phật A Di Đà để vãng sinh, ngoài ra đều buông bỏ hết tất cả. Phật A Di Đà nhất định đến lúc chúng ta lâm chung sẽ không bị bệnh ngốc của người già, không bị hôn mê bất tỉnh, thậm chí không có ai trợ niệm chúng ta đều có thể niệm Phật A Di Đà cho đến mười niệm, nhất định về Cực Lạc.

Quý vị còn lo lắng nói chẳng may thì làm sao? Không có chuyện chẳng may, có chẳng may chứng tỏ quý vị còn nghi hoặc, không phải là tịnh tín kiên cố, không phải chí tâm tín nhạo, sau khi mọi người nghe như thế trong lòng cảm thấy an ổn hơn, nên họ đã đem những lời tôi nói cắt ra hình như khoảng hai mươi phút đặt tựa đề gọi là: “Vô Thượng Đề Hồ”; Khen ngợi hơi quá đáng, nhưng nói thật thì quả đúng như vậy.

Pháp môn này chính là vô thượng đề hồ, rất nhiều người nghe xong sinh khởi tín tâm, niệm Phật A Di Đà cảm thấy an ổn hơn. Nhưng yên ổn được bao lâu? Khó nói! Khi nghiệp chướng hiện tiền, họ lại không tin nữa, vậy phải làm sao? Phải dựa vào Pháp môn này!

Nếu bây giờ chúng ta không nắm chắc được việc vãng sinh của mình, muốn hỏi thử rốt cuộc có được vãng sinh Cực Lạc chăng? Bồ Tát Địa Tạng có thể trả lời quý vị, nếu không ngại quý vị có thể lấy bánh xe thứ ba; Lúc nãy có nói là bánh xe thứ ba, tức hỏi Bồ Tát Địa Tạng, như trình độ của con hiện nay, có thể vãng sinh Thế giới Tây Phương Cực Lạc chăng? Ném bánh xe liên tục ba lần, cộng các chữ số lại, kiểm tra thử.

Nếu đáp án khẳng định có thể vãng sinh, như vậy quý vị sẽ có tín tâm, nhưng cũng không nên, lần lần nhẹ nhàng, vì sao vậy? Trong Kinh Chiêm Sát nói, trước khi chưa chứng quả vị bất thoái, nó sẽ lúc lên lúc xuống. Quý vị vừa hoan hỷ vừa khởi tâm ngã mạn là tôi có thể vãng sinh, liền bắt đầu phóng dật, lúc này sợ không thể tiếp tục bói được, nên không được nâng nâng bay bổng, phải cố gắng lỗ lực duy trì; Công phu phải tăng tiến, tín nguyện hạnh không ngừng tăng trưởng, ngày càng vững vàng. Đúng vậy chăng? Thậm chí hy vọng có thể tự tại vãng sinh, đứng vãng sinh, ngồi vãng sinh, làm gương tốt cho mọi người.

Giả như quý vị bói là không thể vãng sinh. Tôi cũng từng bói cho mọi người có thể vãng sinh chăng? Hiện nay có chướng ngại hoặc có thể không vãng sinh được, phải làm sao? Quý vị cũng đừng nản chí, tướng này chính là phơi bầy trạng thái tâm của chúng ta ngay lúc này, tâm hiện nay không tương ưng với vãng sinh, đây là Bồ Tát Địa Tạng nhắc nhở; Chúng ta nên cố gắng phản tỉnh, chắc chắn chưa đủ Tín Nguyện. Trong Di Đà Yếu Giải, Ngài Ngẫu Ích nói: được vãng sinh hay không hoàn toàn dựa vào có Tín, Nguyện hay không, nếu khẳng định không quý vị sẽ không tin, có nghi hoặc, nếu không là nguyện chưa đủ, không buông được;

Tín nguyện đầy đủ nhất định vãng sinh, không thể vãng sinh là vì Tín Nguyện chưa đủ. Nếu như niềm tin chưa đủ vào Pháp môn này, phải làm sao thâm nhập giáo lý? Nên nghe nhiều Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú của Hòa Thượng giảng, hiểu rõ giáo lý, niềm tin sẽ sâu sắc. Nguyện thiết thì hành sẽ tinh chuyên, thật sự phát nguyện vãng sinh, phải buông bỏ tất cả những gì ở thế gian này còn vướng mắc, chứng tỏ nguyện chưa khẩn thiết. Câu Phật hiệu này phải liên tục suốt ngày không hề gián đoạn, chứng minh nguyện của quý vị rất khẩn thiết; Nguyện thiết thì hành sẽ chuyên, còn như chưa đạt được chính là chưa đủ tín nguyện, cần phải tinh tấn nỗ lực hơn.

Sau đó dụng công khoảng nửa năm, Chiêm Sát lại thử xem, có thể Bồ Tát Địa Tạng ấn khả cho quý vị, lúc đó cũng đừng nên hoan hỷ mà vẫn phải tiếp tục nỗ lực chân thành niệm Phật. Chiêm Sát này có thể vãng sinh chăng? Cũng không phải tôi đề xuất, mà do Hòa Thượng Mộng Tham đề xuất, Hòa Thượng là học trò của Đại sư Hoằng Nhất. Ngày xưa từng làm thị giả cho Đại sư Hoằng Nhất. Bộ bánh xe gỗ này là đương thời Đại sư Hoằng Nhất tự tay làm cho Hòa Thượng Mộng Tham, còn dặn dò Hòa thượng Mộng Tham phải hoằng dương Pháp môn Chiêm Sát này.

Đại Sư Hoằng Nhất hoàn toàn dựa theo kích thước trong Kinh Chiêm Sát để làm, chúng ta tin rằng Ngài làm rất chuẩn xác; Vì Đại sư là nhà điêu khắc, nhà nghệ thuật, vô cùng cẩn thận, nghiên cứu học vấn cũng rất nghiêm cẩn, thế nên kích cỡ Ngài làm bánh xe gỗ rất là chính xác. Hòa Thượng Mộng Tham đem bộ bánh xe duy nhất này làm ra thật nhiều, nên bộ bánh xe gỗ của tôi cũng từ đó mà ra rất nhiều, hiện nay lưu thông rất rộng. Nhưng đồng tu Tịnh Tông chúng ta rất ít người có được, tôi cũng có nguyện này, hy vọng lưu thông thật rộng rãi;

Hiện nay ở Bắc Kinh cũng có người đang làm, cảm ứng của vị đồng tu ở Bắc Kinh cũng không thể nghĩ bàn. Ông vừa phát tâm muốn lưu bố Chiêm Sát Sám, lưu thông Chiêm Sát Nghĩa Sớ, mời tôi viết lời tựa, còn tìm nhà xưởng để làm bánh xe gỗ này; Ông có cảm ứng như thế nào? Vợ của ông khi ông còn trẻ, vợ ông mang thai, sau khi mang thai năm tháng, gần đây không may bị lưu sản, trong lòng ông cảm thấy rất buồn bã đến hỏi tôi; Tôi bèn kể ông ta nghe một câu chuyện; Thời nhà Thanh có môt đôi vợ chồng, đây là câu chuyện thật, cặp vợ chồng này tu thiện tích đức làm rất nhiều việc tốt, nhưng chín đứa con trai của ông chết liên tục, ông ta không sao hiểu được, tôi làm nhiều việc tốt như vậy, sao con tôi đều chết hết vậy? Kết quả tối hôm đó, mộng thấy Bồ Tát Quán Thế Âm, Ngài đến an ủi ông ta, nói vì ông làm việc tốt nên ông trời cho ông báo ứng tốt, chín đứa con trai của ông vốn là đến đòi nợ, đều là oán thân trái chủ của ông hiện nay, chúng đều đi hết; Ông còn có năm người con trai, năm người này đều đến để báo ân, sau đó quả nhiên ông sinh năm đứa con trai đều rất tốt, đạt được công danh.

Tôi kể câu chuyện này cho vị đồng tu nghe, ông nghe xong đương nhiên trong lòng dễ chịu hơn một chút, mấy năm gần đây ông ta in ấn không ít Pháp bảo; Nhưng trong lòng luôn cảm thấy có chút gì đó rất khó chịu, dù sao cũng là cốt nhục của mình, lại là song thai, sắp làm cha rồi, không ngờ hai đứa con đã ra đi; Phải cứu độ hai đứa trẻ này, cảm thấy chúng hiện nay rất khổ, nên đã chiêm sát; Ông chiêm sát hai đứa trẻ này, xem hiện nay như thế nào? Muốn hỏi thử nhưng trong bói nói, nơi chúng đến có ách nạn, quẻ tượng nói chúng đi đến chỗ có ách nạn, có thể đã đọa vào ba đường ác; Trong lòng ông ấy rất khủng hoảng, đến hỏi tôi, tôi nói ông nên lập tức lễ Chiêm Sát Sám, niệm Phật A Di Đà cầu Bồ Tát Địa Tạng gia trì, ông đã phát tâm in ấn Kinh Chiêm Sát Sám này, tức là cầu Bồ Tát Địa Tạng, quả thật ông ta rất nghe lời lễ sám, niệm Phật A Di Đà, phát nguyện niệm hai mươi bốn tiếng đồng hồ, làm như vậy suốt hai mươi ba ngày. Đột nhiên, có một hôm ông cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng, còn vợ ông vốn đang sốt nặng liền lập tức hạ sốt, chính ông cảm thấy anh linh của hai đứa con đã vãng sinh Tây Phương; Chắc là cha con đồng cảm, nên ông có cảm giác này. Ông chiêm sát lại xem linh hồn của hai đứa con, rốt cuộc hiện nay đã đi về đâu? Phải chăng đã vãng sinh? Vừa chiêm sát quả thực không sai, giống như những gì ông cảm nhận được, kết quả nói linh hồn hai đứa con ông đã vãng sinh Cực Lạc; Ông cảm thấy quả thực không thể nghĩ bàn, nên đến hỏi tôi. Tôi nói chiêm sát Luân tướng này là Bồ Tát Địa Tạng dùng thần lực hộ trì, chỉ cần tương ưng nhất định chính xác không nên hoài nghi;

Thật ra tôi nói như vậy trong lòng cũng có chút hồi hộp, tôi nói với mọi người không nên hoài nghi nhưng trong lòng cảm thấy hơi lo, nếu có thể có nhiều điều chứng minh tôi càng yên tâm hơn; Tôi liền nói với ông ta, ông có thể y theo cách trong Kinh Địa Tạng, trong Kinh Địa Tạng có nói: nếu muốn biết quyến thuộc sinh vào chốn nào? Có thể niệm một vạn danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng là có thể biết được. Tôi khuyên ông ta như vậy và cũng lấy ông ta làm thực nghiệm và tôi muốn hoằng dương Pháp Chiêm Sát cần phải có chứng cứ để chứng minh; Kết quả, ông ta rất nghe lời nên đã niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng một vạn biến; Tối đến, ông mộng thấy Bồ Tát hiện thân cầm đến cho ông một trang giấy, trong đó có viết một ít văn tự để ông ta xem, văn tự đó nói gì vậy? Nói anh linh hai đứa con đã vãng sinh Thế giới Cực Lạc, chúng được thần lực của Bồ Tát Địa Tạng gia hộ; Còn nói với ông ta, bản thân ông còn rất nhiều nghiệp chướng, cần phải lễ Chiêm Sát Sám cho tiêu nghiệp; Trong mộng ông ta thấy tờ giấy này hai lần, rất chân thật, khi tỉnh lại, ông nói với tôi, tôi nói rằng ông xem, việc này đâu có sai, không sai! Kết quả chiêm sát nhất định là đúng, Bồ Tát Địa Tạng sẽ chứng minh cho quý vị;

Nhưng không chỉ như thế, đến tối thứ bảy, sau khi hai anh linh này đã vãng sinh, ông lại thấy một giấc mộng thần kỳ, thấy anh linh hai đứa con ông đến, hai đứa con đã chết của ông đã là A Duy Việt Trí Bồ Tát, đến nói với ông, hai người họ là Hạ bối vãng sinh, nói cho ông ta biết phẩm vị là hạ bối vãng sinh. Hòa Thượng cũng từng nói, quý vị có thể xác định họ có vãng sinh chăng? Có hai chứng cứ, thứ nhất là khi họ còn sống nói với chúng ta: bây giờ tôi đi theo Phật A Di Đà, thứ hai là họ trở về báo mộng, nói cho chúng ta biết họ đã vãng sinh. Hai anh linh này trở về báo mộng cho ông ta, quý vị thấy lại kết quả của chiêm sát, ông ta còn nhờ tôi giúp ông chiêm sát; Ông sợ mình làm không đúng nên nhờ tôi bói giúp thêm lần nữa;

Kết quả giống như ông ta vậy, kết quả hai lần chiêm sát và hai giấc mộng đủ để chứng minh Pháp Chiêm Sát này quả thật không thể nghĩ bàn; Cũng chứng minh thần lực Ngài Địa Tạng không thể nghĩ bàn; Thiện xảo phương tiện không thể nghĩ bàn, có thể diệt trừ tất cả chướng ngại, tăng trưởng tịnh tín của chúng ta.

Quý vị xem, Pháp môn Chiêm Sát trước khi chưa phổ biến rộng đã có cảm ứng như vậy, đây là Bồ Tát Địa Tạng đã sắp xếp sẵn cho chúng ta. Hoàng Cảnh Quan cũng có tâm hoằng dương Pháp môn này. Tôi tin rằng phàm những ai tham gia hoằng dương Pháp môn Chiêm Sát, nhất định được thần lực của Ngài Địa Tạng gia trì, nhất định có cảm ứng không thể nghĩ bàn.

Tôi vừa đưa ra trường hợp này cũng đã nghiệm chứng tư tưởng của Ngài Địa Tạng trong Kinh Chiêm Sát, Bồ Tát Địa Tạng nói như thế nào? “Nếu các chúng sinh trong đời vị lai, tất cả những gì bói được mà không được kết quả tốt, không đạt sở cầu, chủng chủng lo ngại, khiến cho phiền não sợ hãi, vậy nên ngày đêm thường tinh cần tụng niệm danh hiệu của ta, nếu có thể chí tâm, những gì bói được đều tốt, sở cầu đều có kết quả, hiện đời ra khỏi sầu bi khổ não”.

Tôi vừa nói đến trường hợp của một người, ông ta chính là như vậy, lần đầu tiên bói nơi chúng đến có ách nạn, không lành, phải như thế nào? Rất nhiều lo lắng, bản thân rất đau khổ khó chịu, khiến phiền não sợ hãi, nên như thế nào? Nên ngày đêm niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, ông niệm một vạn biến, tức là niệm suốt một ngày, hình như cũng lễ được mấy bộ Chiêm Sát sám, nhưng tâm ông ta rất chí thành. Kết quả đã thay đổi được vận mệnh, hiệu quả thay đổi vận mệnh quả là rất thù thắng, còn thù thắng hơn cả ông Liễu Phàm, hay là ông Vũ Tịnh Ý. Vì sao vậy?

Đây là Bồ Tát Địa Tạng gia trì, là nhị lực Pháp môn, giống như Tịnh Độ vậy, cũng là nhị lực Pháp môn, do thần lực Ngài Địa Tạng giúp chúng ta, kết quả thì sao? Bói lại, những gì bói đều tốt, sở cầu đều đạt được, ông ta cầu linh hồn hai đứa con vãng sinh Tây Phương cuối cùng đã đạt được, hiện đời xa rời khổ não ưu sầu, lập tức chỉ trong vòng bảy ngày; Suy não chính là ưu não, sợ hãi của ông ta được giải trừ hoàn toàn, giải trừ thực sự, chứ không phải chỉ trong tâm được an ổn mà thôi. Quả thực linh hồn hai đứa con đã được vãng sinh.

Quý vị xem, đến quyến thuộc của mình, Bồ Tát Địa Tạng đều có thể giúp họ được vãng sinh; Vậy thì những việc khác như cầu được công việc, được người chồng như ý, được đứa cháu, đây đều là những việc nhỏ nhặt, những điều này quý vị đều có thể cầu. Nhưng tốt nhất là đừng cầu, chỉ nên cầu vãng sinh Tây Phương.

Bởi thế, chúng ta có những nghi vấn, không nên đi bói toán, không nên làm những điều của thế gian, những thứ đó ảnh hưởng tâm thanh tịnh của chúng ta, càng không nên đến cái gì là thần thông, đến quỷ, thần linh .v.v. đều không cần. Muốn hỏi thì hỏi Bồ Tát Địa Tạng, quý vị không hỏi Bồ Tát Địa Tạng vậy thì hỏi ai? Vấn đề mà Ngài Địa Tạng không giải đáp được quý vị hỏi ai khác nhất định cũng không đạt được. Nhưng có vấn đề nếu như quý vị niệm một nghìn danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát mà không phải dùng tâm chí thành để niệm, vừa niệm vừa vọng tưởng, như vậy kết quả sẽ không tương ưng; Chẳng hạn quý vị hỏi về sức khỏe bản thân, bệnh nặng hay không, nhưng quý vị lại nhận được đáp án là một vị quân dân tốt, làm đất nước hưng thịnh an lạc, không liên quan gì đến bệnh của quý vị, đáp án không đúng với câu hỏi, vấn đề chính là bản thân quý vị không chí tâm.

Như vậy, nên làm sao? Niệm lại một lần nữa, bói lại từ đầu, nghi thức này từ đầu đến cuối có ba mươi lăm phút, làm lại lần nữa xem có tương ưng chăng? Nếu không tương ưng thì bói tiếp, bói đến lúc tương ưng mới thôi, khi đã tương ưng nhất định là Bồ Tát Địa Tạng trả lời quý vị, bất luận trả lời tốt hay là xấu, là lành hay không lành, đều phải nên chấp nhận.

Có người đồng tu hỏi tôi, ông ta biết tôi học Pháp này, ông nói mình có một vấn đề nan giải chưa giải quyết được, vì ông di dân đến Hồng Kông, nên hai đứa con trai của ông cũng muốn đến Hồng Kông học, trường ở Hồng Kông tốt hơn ở Đại Lục; Ông hỏi tôi có thể bói thử chăng? Được! Tôi liền bói cho ông, bói như thế nào? Hai người con trai này nên đến Hồng Kông chăng? Kết quả có sở cầu nhưng không đạt lắm, tức là những gì quý vị cầu rất khó đạt được, vì ông ta hy vọng hai người con được giáo dục tốt, nhưng bói nói rằng không kết quả lắm. Ông ta cảm thấy Bồ Tát Địa Tạng rất tương ưng, tuy là điều không lành những rất tương ưng, quý vị nên tin tưởng, vì vậy mà ông ta không đi Hồng Kông nữa và tìm trường học ở Thẩm Quyến; Một thời gian sau ông gọi điện cho tôi lòng đầy hoan hỷ, cũng may nghe lời Bồ Tát Địa Tạng, bây giờ tôi đã tìm được trường học tốt nhất ở Thẩm Quyến, tốt hơn rất nhiều so với trường ở Hồng Kông mà học phí lại rẻ. Tôi nói, ông xem đây chính là Bồ Tát Địa Tạng nói ông biết, bây giờ đã tin đúng vậy chăng? Trường hợp này chứng minh kết quả quý vị bói được, mặc dù là vượt ra ngoài dự liệu, nên tin tưởng Bồ Tát Địa Tạng cũng đang hộ trì quý vị, sắp xếp tốt nhất cho quý vị, quý vị nên tiếp nhận.

Bây giờ thời gian cũng sắp hết, tôi sẽ tổng kết vấn đề này lại. Ở trước nói qua với mọi người tâm đắc thô thiển của bản thân khi học Pháp môn này. Tôi cũng lấy điều này để khuyên tất cả người tu Tịnh Độ nên chuyên tu Chiêm Sát Hành Pháp này, bao gồm Sám Nghi và Chiêm Luân Tướng Pháp để hỗ trợ thêm cho chúng ta tu hành; Diệt trừ tội chướng, tăng trưởng tịnh tín, đoạn nghi sinh tín.

Trong Kinh, Đức Phật nói, có thể tin những gì Bồ Tát Địa Tạng nói: “Đương tri thị nhân tức năng đắc ly nhất thiết sở hữu chư chướng ngại sự, tận chí vô thượng đạo”. Nếu tin tưởng Bồ Tát Địa Tạng, có thể thọ trì Chiêm Sát Hành Pháp này, nhất định nhanh chóng diệt trừ mọi chướng ngại, rất nhanh chóng đạt đến đạo Vô thượng; Chúng ta vãng sinh Tịnh Độ chính là đạo Vô Thượng, nó là tận chí Vô Thượng Đạo. “Tận” nghĩa là nhanh chóng, nhanh chóng đạt đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc;

Pháp môn này gọi là “Thậm vi năng trị đắc đại lợi ích” rất khó gặp được, có thể được lợi ích lớn, quý vị đến đây đều là người có phước báo lớn, là người có nhân duyên thâm hậu với Bồ Tát Địa Tạng; Quý vị xem hôm qua có rất nhiều người không đến, chỉ đến khoảng một nửa mà thôi, đúng vậy chăng? Chứng tỏ rất khó gặp, chúng ta gặp được phải sinh lòng cảm ơn sâu sắc, bản thân nên cố gắng học, cũng có thể lưu bố, lưu thông rộng rãi Pháp môn này, cùng nhau diệt trừ nghiệp chướng, tăng tín an ổn, sau cùng niệm Phật, tự tại vãng sinh.

Hôm nay chia sẻ với mọi người đến đây, có chỗ nào nói chưa thỏa đáng xin mọi người phê bình chỉ giáo. A Di Đà Phật!

Con và chúng sinh từ vô thủy, thường vì tội nặng của ba nghiệp, sáu căn làm chướng ngại, nên không thấy được chư Phật, không biết vượt thoát luân hồi, thuận theo sinh tử, không biết diệu lý. Nay con đã biết, nên vì tất cả chúng sinh nghiệp chướng trọng tội. Hôm nay đối trước mười phương chư Phật, Đức Địa Tạng Bồ Tát, vì hết thảy chúng sinh mà quy y sám hối, xin mười phương chư Phật, Địa Tạng Bồ Tát gia hộ, khiến chúng con tội chướng tiêu trừ!

Con đệ tử Định Hoằng! chí tâm phát nguyện, nguyện mười phương Tam Bảo, Địa Tạng Từ Tôn, thương xót hộ trì, cứu bạt chẩn tế, khiến đất nước này, thiên tai động loạn tiêu trừ, chính Pháp lưu thông, hàm sinh tịnh tín, không còn các chướng ngại, vĩnh viễn đoạn trừ ma chướng. Con cùng chúng sinh, nhanh chóng diệt trừ trọng tội, hiện đời ra khỏi sầu bi khổ não, cuộc sống sung mãn, tam tụ giới căn, rốt ráo thanh tịnh, hai loại quán đạo, ứng niệm hiện tiền, tam muội tổng trì, thần thông phương tiện, tứ nhiếp lục độ, tất cả đều viên thành; Giác ngộ tự tâm, nhất thật cảnh giới, bỏ thân ở thế giới này, được sinh về Tây Phương Cực Lạc, đối diện Di Dà, thị giả chư Phật, được Phật thọ ký, trở lại trần lao, phổ độ quần mê, đồng quy mật tạng! Nam Mô A Di Đà Phật!