Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA

QUYỂN 3

Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2567 -2023

 

TAM BỐI VÃNG SINH ĐỆ NHỊ THẬP TỨ

KINH VĂN:

Phật cáo A Nan: – Thập phương thế giới chư thiên nhân dân, kỳ hữu chí tâm nguyện sinh bỉ quốc, phàm hữu tam bối. 

VIỆT DỊCH:

Phật bảo A Nan: – Chư thiên nhân dân trong mười phương thế giới, những ai chí tâm nguyện sinh về cõi kia, thì gồm có ba bậc. 

GIẢNG:

Phẩm này bàn về các loại nhân hạnh để vãng sinh. Phàm phu sau khi nghe danh hiệu Phật liền phát tâm. Do tín nguyện có sâu – cạn nên phát tâm có lớn – nhỏ, tu tập có siêng – lười, trì tụng có nhiều – ít. Túc căn chúng sinh có vô lượng sai biệt, nên phước đức, nhân duyên cũng vô lượng sai khác. Do có vô lượng chúng sinh trong mười phương vãng sinh về thế giới Cực Lạc nên phẩm loại của họ cũng phải vô lượng.

Ðối với vô lượng phẩm loại sai khác như thế, Thế Tôn chỉ tạm phân chia thành ba bậc: Thượng, trung và hạ. Mỗi bậc lại phân ra làm ba loại, nên thành có chín loại; Quán kinh gọi là chín phẩm. Mỗi phẩm trong chín phẩm lại có chín phẩm, thành ra tám mươi mốt phẩm. Cứ lần lượt khai triển như thế đến vô lượng.

Trong vô lượng phẩm như thế, nói một cách tổng quát thì gồm có ba bậc. Dẫu phẩm loại có ngàn sai muôn khác, nhưng khi bàn đến cái nhân chủ yếu để vãng sinh thì đều như nhau là “phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng  chuyên niệm A Di Ðà Phật”. Ðấy chính là cương tông của toàn bộ kinh nầy, là chìa khóa để vãng sinh Tây Phương Cực Lạc.

Nên nhớ: Tịnh tông được xưng là “Dị hành đạo” (đạo dễ hành), vì so với tám vạn bốn ngàn pháp môn, chỉ có pháp môn nầy  là dễ dàng nhất, nên mới gọi là “dị hành đạo”. Thật ra, nếu xét theo những điều được dạy trong kinh nầy, ta thấy vãng sinh cũng chẳng phải là việc dễ. Nếu chẳng “thật vì sinh tử phát tâm Bồ Ðề, dùng tín nguyện sâu nhất hướng chuyên niệm” thì không thể nào thành tựu. Mong rằng các liên hữu, chớ vội nghe qua Tịnh tông là pháp dễ hành mà sinh lòng khinh mạn, tín tâm hời hợt, chí nguyện lơ là, miệng bàn Tịnh nghiệp, tâm tiếc trần duyên thì biết đến bao giờ mới được vãng sinh!

“Kỳ hữu chí tâm nguyện sinh bỉ quốc, phàm hữu tam bối” (Những ai chí tâm nguyện sinh về cõi kia thì gồm có ba bậc). Khi phán định chín phẩm trong Quán Kinh có tương đương với ba bậc trong kinh này không, Cổ đức đã lập ra nhiều thuyết bất nhất:

1. – Những vị như đại sư Ðàm Loan, Cảnh Hưng, Gia Tường, Liên Trì, Thiên Thai… xem những phẩm loại được nói trong hai kinh là giống nhau. Như trong Lược Luận An Lạc Tịnh Ðộ Nghĩa, ngài Ðàm Loan nói: “Kinh Vô Lượng Thọ nói người sinh về An Lạc chỉ có ba bậc thượng, trung, hạ; kinh Quán Vô Lượng Thọ nói mỗi phẩm lại chia ra làm thượng, trung, hạ. Ba lần ba thành chín, hợp thành chín phẩm”.

Tịnh Ảnh Sớ viết: “Phàm các nhân dân trong mười phương thế giới nguyện sinh cõi ấy thì có ba bậc. Gộp chung lại để nói thì như trong Quán kinh, nếu chia sơ lược thì có ba bậc, chia tỉ mỉ thì thành ra chín”.

Ngài Gia Tường cũng viết trong Quán Kinh Sớ như sau:

“Kinh Vô Lượng Thọ chỉ nói ba bậc, còn trong kinh đây (chỉ kinh Quán Vô Lượng Thọ) chia ba bậc thành chín bậc. Ba bậc là thượng, trung, hạ. Chín bậc là thượng phẩm có ba; trung, hạ cũng có ba nên thành chín bậc” v.v.

2. – Các vị như Linh Chi, Cô Sơn v.v. chủ trương các bậc, phẩm nói trong hai kinh là khác nhau. Ngài Linh Chi bảo: Ðại kinh chỉ tương ứng với Thượng Phẩm của Quán kinh, chớ không dính dáng gì đến sáu phẩm kia, vì trong Trung Phẩm và Hạ Phẩm không nói đến việc phát Bồ Ðề tâm.

Quan điểm của ngài Cô Sơn thoáng hơn: Ngài cho rằng ba bậc trong kinh này chỉ tương ứng với Thượng Phẩm và Trung Phẩm, chứ chẳng thuộc ba phẩm Hạ, vì người vãng sinh thuộc ba bậc trong kinh này đều là thiện nhân; còn người thuộc ba phẩm Hạ trong Quán kinh đều là ác nhân, lúc lâm chung sám hối niệm Phật nên được vãng sinh.

Trong tác phẩm Sớ Sao, Liên Trì đại sư đã dung hội các thuyết trên như sau:

“Sách Thảo Am Phụ Chánh Giải bảo: ‘Ngài Thiên Thai coi chín phẩm giống với ba bậc là vì xét theo thứ bậc mà nói, chớ chẳng xét trên nhân hạnh mà bàn. Ý các vị như Cô Sơn, Linh Chi chẳng trái nghịch ý ngài Thiên Thai. Vì sao vậy? Do ngài Thiên Thai phán định trên phương diện thứ bậc, nên ba bậc và chín phẩm tương đồng. Hai vị đại sư lại chỉ xét trên nhân hạnh nên ba bậc chỉ tương ưng với trung, thượng phẩm. Mỗi bên có cơ sở lập luận riêng, nên giáo nghĩa chẳng đồng. Do vậy, ý kiến các Ngài chẳng trái nghịch nhau’.

Dựa trên Thật Ðế mà luận, thì phiền não khác gì Bồ Ðề, sự ác lúc ban đầu nào trở ngại sự lành lúc chung cuộc. Ác nhân đã thành thiện thì lẽ đâu chẳng xếp vào hàng hiền thánh. Ba bậc chín phẩm thật phù hợp khít khao với nhau, há còn ngờ chi”.

Trong đoạn văn trên của ngài Liên Trì, nói “Sự ác lúc ban đầu nào trở ngại sự lành lúc chung cuộc” khế hợp thánh tâm rất sâu xa. Bởi kẻ ác lúc lâm chung nếu có thể sám hối phát tâm, chí tâm niệm Phật, thì kẻ ác đã thành người thiện, nên cũng được Phật nhiếp thọ, tùy nguyện vãng sinh. Do vậy, Liên Trì Đại Sư mới bảo: “Lẽ đâu chẳng xếp vào hàng hiền thánh”, đồng lên Cực Lạc.

Sách Báo Ân Luận cũng nói: “Bậc Thượng trong kinh nầy tương ứng với người xuất gia. Hai bậc Trung, Hạ tương ứng với người tại gia. Do có quá nhiều phẩm loại, nên chỉ đại lược nêu lên một cách tổng quát:Phàm hữu tam bối’ (gồm có ba bậc). Với ba bậc ấy, Quán Kinh cũng tạm tách sơ lược thành chín phẩm. Kinh lại nêu hạng cực ưu và cực giáng để bao quát vô lượng nhân hạnh sai khác”.

Lời bàn này cực hay! Trong Quán Kinh, bậc Thượng Thượng Phẩm, chỉ trong khoảng khảy ngón tay, liền được vãng sinh, gặp Phật nghe pháp, liền ngộ Vô Sinh Pháp Nhẫn, trong khoảnh khắc đến phụng sự khắp các chư Phật, lần lượt được thọ ký, trở về nước mình, đắc vô lượng trăm ngàn đà-ra-ni môn. Ðấy chính là hạng cực ưu (ưu thắng nhất) trong ba phẩm.

Kẻ Hạ Hạ Phẩm là hàng Ngũ Nghịch, Thập Ác. Khi tướng địa ngục hiện, lâm chung sám hối, mười niệm được vãng sinh là hạng cực giáng (thấp nhất) trong bậc Hạ.

Quán kinh nêu lên bậc tối ưu và tối hạ nên Luận mới nói: “Nêu lên hạng cực ưu và cực giáng”. Thoạt nhìn, dường như hai kinh khác nhau, nhưng thật ra ý chỉ đều tương đồng.

KINH VĂN:

Kỳ thượng bối giả, xả gia khí dục, nhi tác sa-môn, phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, tu chư công đức, nguyện sinh bỉ quốc. Thử đẳng chúng sinh, lâm thọ chung thời, A Di Đà Phật, dữ chư thánh chúng, hiện tại kỳ tiền. Kinh tu du gian, tức tùy bỉ Phật, vãng sinh kỳ quốc, tiện ư thất bảo hoa trung, tự nhiên hóa sinh, trí tuệ dũng mãnh, thần thông tự tại. 

Thị cố A Nan! Kỳ hữu chúng sinh, dục ư kim thế, kiến A Di Đà Phật giả, ưng phát Vô Thượng Bồ Đề chi tâm. Phục đương chuyên niệm Cực Lạc quốc độ, tích tập thiện căn, ưng trì hồi hướng. Do thử kiến Phật, sinh bỉ quốc trung, đắc Bất Thoái Chuyển, nãi chí Vô Thượng Bồ Đề. 

VIỆT DỊCH:

Bậc Thượng là người xuất gia, lìa dục, làm sa-môn, phát

Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm A Di Ðà Phật, tu các công đức nguyện sinh sang cõi kia. Những chúng sinh này, khi mạng chung, A Di Ðà Phật và các thánh chúng hiện ra trước mặt. Trong khoảnh khắc liền theo đức Phật ấy sinh về cõi kia, tự nhiên hóa sinh trong hoa sen bảy báu, trí tuệ dũng mãnh, thần thông tự tại. 

A Nan! Nếu có chúng sinh, muốn trong đời này được thấy Phật A Di Ðà, thì phải phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, lại nên chuyên nghĩ đến cõi nước Cực Lạc, thiện căn đã tích tập nên đem hồi hướng. Do đó, được thấy Phật, sinh trong cõi kia, đắc Bất Thoái Chuyển cho đến thành Vô Thượng Bồ Ðề. 

GIẢNG:

“Kỳ thượng bối giả, xả gia khí dục, nhi tác sa-môn”.(Bậc Thượng là người xuất gia, lìa dục, làm sa-môn) Theo sách chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ: Phàm phu có được dự phần vào bậc Thượng vãng sinh hay không? Đây là một vấn nạn lớn trong Tịnh tông.

Cổ đức có vị bảo, đây là hạnh Bồ Tát (như có thuyết bảo Thượng Thượng Phẩm phải là Bồ Tát từ Tứ Ðịa đến Thất Ðịa, Thượng Trung Phẩm phải từ Sơ Ðịa đến Tứ Ðịa Bồ Tát; các phẩm khác cứ theo đó mà suy. Phàm phu chỉ có thể đạt từ Trung Phẩm Trung Sinh trở xuống mà thôi!). Nếu thật sự là như vậy thì đại nguyện vô thượng của Phật Di Ðà, cõi sen Tây Phương độc diệu, pháp môn trì danh dễ hành, diệu pháp vãng sinh thù thắng đều thành hí luận! Khiến cho diệu pháp Tịnh tông chẳng thể nghĩ bàn lại thành ra pháp có thể nghĩ bàn ư?! Cho nên, đây chính là điều cốt lõi của Tịnh Tông.

Trong phần chú giải khái yếu này, cụ Hoàng Niệm Tổ đã tạm bàn đôi điều, nhưng chưa thể giải bày hết ý chỉ, nên ở đây cụ lại thử trình bày rõ hơn.

Đối với những sai lầm của cổ thuyết, chúng ta may mắn có được đại sư Thiện Ðạo đời Ðường. Ngài đã dẫn đủ các kinh luận để cực lực đả phá cựu thuyết. Trong Tứ Thiếp Sớ, Đại Sư đã luận như sau:

“Lại xem phần Ðịnh Thiện trong Quán kinh và ý nghĩa kinh văn ba bậc Thượng, Trung, Hạ thì toàn là sau khi đức Phật nhập diệt, phàm phu ngũ trược chỉ do gặp duyên sai khác, nên đến nỗi có chín phẩm sai biệt.

Vì sao? Người trong ba phẩm Thượng là phàm phu gặp duyên Ðại Thừa. Người trong ba phẩm Trung là phàm phu gặp duyên Tiểu Thừa. Người trong ba phẩm Hạ là phàm phu ngu ác, tạo ác nghiệp, lúc lâm chung nhờ bạn lành, nương nguyện lực của Phật bèn được vãng sinh; đến khi hoa kia nở thì mới phát tâm, chớ  phải đâu là người mới học Ðại Thừa (cổ đức bảo bậc Hạ là người mới học Ðại Thừa). Nếu hiểu như thế thì mình lầm, làm người khác lầm, tai hại quá sức!”

Theo Hòa thượng Tịnh Không: Tứ độ, tam bối, cửu phẩm, phàm phu đều có phần, nên Đại sư mới nói: “Ba bậc, chín phẩm đều ở tại gặp duyên khác nhau”. Lời nói này là thật!

– Duyên ở đây là gì?

– Là “Tứ duyên” sinh pháp:

– Một là “Thân nhân duyên”: Trong nhiều kiếp quá khứ, ta đã kết duyên với pháp môn Tịnh Độ, kết duyên với Phật A Di Đà. Nay gặp lại, nghe được pháp môn Tịnh Độ thì sinh tâm hoan hỉ.

– Hai là “Sở duyên duyên”: Đây là vấn đề lớn! Tuy quá khứ có trồng thiện căn Tịnh Độ, nhưng đời này lại không muốn tu pháp môn này. Vậy là “Sở duyên duyên” của ta không có!

– Ba là “Vô gián duyên”: Cái duyên này không thể gián đoạn, điều này rất quan trọng!

– Bốn là “Tăng thượng duyên”: “Tăng thượng duyên” là ngoại duyên. Chúng ta ngày nay gặp được pháp môn Tịnh Độ cũng là“tăng thượng duyên”. Có rất nhiều người học Phật mà không gặp được! Họ tu pháp môn khác.

Trưa nay, hội trưởng Lăng Tư ở Hồng Kông, điện thoại nói với tôi (tức Hòa thượng Tịnh Không): Ở Tây Tạng có Phật Học Viện Ngũ Minh, một Lạt Ma nổi tiếng ở Trung Quốc đã vãng sinh hai hôm rồi, là niệm Phật vãng sinh. Cách làm của Lạt Ma này đã độ rất nhiều người niệm Phật, đặc biệt là những người từ trước đến nay theo ông học Mật, nay thấy ông hồi đầu niệm Phật, cũng noi theo mà chí tâm niệm Phật. Đây không phải người thông thường mà là Bồ tát thị hiện làm “tăng thượng duyên”cho chúng ta.

Cho nên, gặp pháp môn Tịnh Độ là được duyên vô cùng thù thắng. Nhưng, vẫn chưa thù thắng bằng gặp được Kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ là Pháp Bảo Vô Thượng trong Tịnh tông. Đối với kinh điển này, chúng ta phải vô cùng trân quý, phải hiểu rõ tường tận, thâm tín thọ trì, nương vào đây mà kiến lập tín tâm, nguyện tâm, khơi lại thiện căn trong nhiều kiếp quá khứ, đời này chắc chắc được vãng sinh.

Trong Phật pháp không nói “nhân sinh” mà nói “duyên sinh”, tất cả pháp đều do duyên sinh. “Nhân” là quá khứ đã tạo thì không có cách chi khống chế. “Duyên” là hiện đời ta gặp được, có thể giúp ta chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành Thánh. Phật pháp là sư đạo, vừa mới học Phật, “tăng thượng duyên” thù thắng là gặp được thầy tốt, chân thật tu hành, hướng dẫn ta đi đúng chánh pháp, chắc chắn sẽ đạt đến thành tựu.

Trong bản sớ giải, Ngài Thiện Đạo còn dẫn mười đoạn trong Quán Kinh để chứng minh luận thuyết của Ngài. Ở đây, cụ Hoàng Niệm Tổ không trích dẫn đủ.

Tịnh tông là giáo pháp tối cực viên đốn. Nếu phàm phu thuộc căn khí Ðại Thừa, có thể tin nhận được nổi thì sẽ giải ngộ , tu chứng trọn vẹn, sẽ vượt xa thường nhân cả kiếp (người căn cơ viên đốn tu một ngày bằng thường nhân tu một kiếp). Do đó, họ có thể ngay trong một đời công hạnh viên mãn, chứng ngay Thượng Phẩm.

Để làm sáng tỏ thêm vấn đề “ba bậc vãng sinh thật sự là vì phàm phu, kiêm cả thánh nhân”, cụ Hoàng Niệm Tổ đã nêu ra các luận khác như sau:

* Phẩm “Tất Thành Chánh Giác” (Ắt thành Chánh Giác) trong kinh Vô Lượng Thọ có những câu kệ như: “Linh bỉ chư quần sinh, trường dạ vô ưu não, xuất sinh chúng thiện căn, thành tựu Bồ Đề quả. Ngã nhược thành Chánh Giác, lập danh Vô Lượng Thọ. Chúng sinh văn thử hiệu, câu lai ngã sát trung, như Phật kim sắc thân, diệu tướng tất viên mãn” (Khiến các quần sinh ấy, đêm dài không ưu não, xuất sinh các thiện căn, thành tựu quả Bồ Ðề. Nếu tôi thành Chánh Giác, lập hiệu Vô Lượng Thọ. Chúng sinh nghe hiệu ấy, đều sinh trong nước tôi, thân sắc vàng như Phật, diệu tướng đều viên mãn).

Bốn câu đầu nói lên nguyên do phát khởi đại nguyện của Pháp Tạng tỳ-kheo là muốn tất cả chúng sinh trong đêm dài tăm tối, được lìa các ưu bi khổ não, xuất sinh các căn lành, thành tựu quả Bồ Ðề.

Bốn câu kệ kế tiếp, nói đến Pháp Tạng tỳ-kheo dùng phương cách “văn danh” để phổ độ chúng sinh như: “Chúng sinh văn thử hiệu, câu lai ngã sát trung” (Chúng sinh nghe danh hiệu này, đều sinh trong nước ta). Cho nên, Thiện Ðạo Đại sư mới bảo: “Ba bậc, chín phẩm toàn là vì bọn phàm phu ngũ trược sau khi Phật nhập diệt”.

Hai câu kệ cuối: “Như Phật kim sắc thân, diệu tướng tất viên mãn” cho thấy: Phàm phu ưu não một khi đã sinh về Tây Phương Cực Lạc đều được thân sắc vàng như Phật, diệu tướng cũng viên mãn đầy đủ như Phật.

Kế đến, kinh nói: “Diệc dĩ đại bi tâm, lợi ích chư quần phẩm, ly dục thâm chánh niệm, tịnh tuệ tu phạm hạnh” (Cũng dùng tâm đại bi, lợi ích các quần phẩm, ly dục, chánh niệm sâu, tịnh tuệ tu phạm hạnh), ý nói: Người vãng sinh Tây phương Cực Lạc, khi hoa nở thấy Phật, thân tâm liền thanh tịnh, trí tuệ vô biên, đại bi vô lượng, tự giác, giác tha thành tựu Bồ Ðề. Ðấy đều do sức oai thần bổn nguyện của A Di Ðà Phật mới có thể khiến phàm phu trong đêm dài ưu não, đắc trí tuệ thanh tịnh, thân tâm như Phật.  Rõ ràng phàm phu mang tâm Ðại Thừa trong cõi này được Phật gia bị, bèn vãng sinh trong Thượng phẩm, đắc Vô Sinh Nhẫn cũng không có chi là lạ? Ngay câu đầu trong bài kệ phát nguyện, tỳ-kheo Pháp Tạng đã nói: “Ngã lập siêu thế chí” (Tôi lập chí siêu thế); những sự việc đã nêu trên chính là chỗ siêu thế, lẽ nào đem thói thường của phàm phu để luận bàn phẩm vị cõi Cực Lạc ư?!

– “Sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao” bảo : “Ngài Cảnh Hưng bảo rõ ba bậc, chín phẩm là phàm phu vãng sinh, nên ngài giảng rằng: ‘Một là phàm tiểu vãng sinh, hai là đại thánh vãng sinh’. Chữ ‘phàm tiểu’ chỉ ba bậc (vãng sinh)”.

– Sách Du Tâm An Lạc Ðạo cũng viết: “Lại nữa, bốn mươi tám nguyện, trước hết là vì hết thảy pháp phàm phu, rồi mới kiêm vì tam thừa thánh nhân. Do vậy, phải biết ý chỉ của tông Tịnh Ðộ là ‘vốn vì phàm phu, kiêm vì thánh nhân”.

Hơn nữa, ngay trong câu đầu của phẩm này có nói: “Thập phương thế giới chư thiên nhân dân, kỳ hữu chí tâm, nguyện sinh bỉ quốc, phàm hữu tam bối” (Chư thiên nhân dân trong mười phương thế giới, chí tâm nguyện sinh cõi kia thì gồm có ba bậc). Như vậy, kinh nói cả ba bậc (tam bối) chỉ là chư thiên, nhân dân trong mười phương, không hề nói họ là Bồ Tát hay Thanh Văn, chứng tỏ ba bậc được nêu trong kinh này trước hết là nhắm đến phàm phu. Nhưng, trong kinh cũng đề cập đến thánh nhân, như phẩm thứ bốn mươi hai  “Bồ Tát Vãng Sinh” có nói hàng Bồ Tát trong mười phương thế giới “đương vãng sinh giả, đản thuyết kỳ danh, cùng kiếp bất tận” (Người sẽ vãng sinh, nếu chỉ nói tên thôi thì mãn kiếp cũng không nói hết).   “Xả gia, khí dục, nhi tác sa-môn” (Xuất gia, lìa dục, làm samôn): “xả gia” là xuất gia; “khí dục” là ly dục; “tác sa-môn” là trở thành Tăng. Tỳ Bà Sa Luận nói: “Nhà là nhân duyên phiền não. Xuất gia là để diệt cấu lụy, nên phải xa lìa (nhà cửa)”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không, “xuất gia” không phải lìa nhà đến tự viện tìm sư phụ để cạo tóc, gọi là xuất gia, mà phải hiểu “xuất gia” là loại “gia” nào? Trong Phật pháp nói đến bốn loại “gia”. 

1. – Điền trạch gia: Hiện nay, người xuất gia là đã xuất “điền trạch gia”. Trong cái “gia” này có nhà cửa, tài sản, đất đai v.v, họ rời những thứ nầy vào chùa, đây gọi là xuất gia. Loại xuất gia nầy có tác dụng không? Không có tác dụng! Đây là hình thức xuất gia không phải thực chất! Thực chất là gì?-là “phiền não gia”.

2. – Phiền não gia (Nhà phiền não). Họ có rời được phiền não này chăng?

3. – Tam giới gia: Tam giới là Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới, cũng chính là sáu nẻo luân hồi. Sáu nẻo luân hồi này là đại gia đình của chúng ta, họ có thể xuất được không?

4. – Ngũ ấm gia, trong Tâm Kinh nói: “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, đó là xuất “Ngũ Ấm gia”.

Ba cái: Phiền não gia, Tam giới gia, Ngũ Ấm gia gọi chung là “Sinh tử gia”. Họ có thể rời khỏi “điền trạch gia”, nhưng không ra khỏi “sinh tử gia”! 

bốn loại “xuất”:

*Một thân xuất mà tâm chẳng xuất;

*Haitâm xuất mà thân không xuất: Đây là cư sĩ tại gia, tuy trên phương diện hình thức, họ chưa thể xuất gia, nhưng tâm họ thật sự đã xuất gia rồi. Tuy chưa thể rời nhà, nhưng tâm họ không đắm nhiễm, không chấp trước, luôn hướng đến sự tu tập.

*Bathân tâm đều xuất: Đây là chỉ những bậc Tôn sư, đại đức trong Phật môn.

*Bốnthân tâm đều không xuất: Không phải chỉ cho người thông thường, mà chỉ cư sĩ học Phật, thân tâm họ đều không xuất.

Trong bốn loại trên:

Tâm xuất, thân không xuất là tại gia thành tựu; – Thân tâm đều xuất là xuất gia thành tựu.

Chúng ta phải hiểu cho tường tận ý nghĩa của chữ “xuất gia” này. Nên nhớ: “xả gia khí dục” là chú trọng ở nơi tâm. Nếu nghe qua “xả gia khí dục” liền nghĩ: Cư sĩ tại gia không có phần là sai rồi! Cư sĩ tại gia, tâm xuất mà thân chưa xuất, cũng có thể vãng sinh Thượng Thượng Phẩm, cũng có thể viên thành Phật đạo.

Thời đức Phật Thích Ca có hai vị Phật: Thích Ca Mâu Ni Phật là thị hiện Phật xuất gia; Ngài Duy Ma Cật là thị hiện Phật tại gia. Trong kinh Duy Ma có nói: Các A La Hán, đại đệ tử của Đức Phật như Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên v.v…, khi thấy cư sĩ Duy Ma Cật đều đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu phía hữu ba vòng, hoàn toàn giống như khi hành lễ với Phật Thích Ca.Cho nên phải biết: Đức Thích Ca Mâu Ni Phật là tấm gương cho người xuất gia; cư sĩ Duy Ma Cật là tấm gương cho người học Phật tại gia.

Hiện nay, tự viện cũng thuộc về “Điền trạch gia”. Tự viện càng xây cất lớn, có cúng dường nhiều thì dễ khởi tham, sân, si, mạn. Thật đáng sợ! Đại sư Ấn Quang thường dạy: Thời đại nầy nên làm chùa nhỏ, chúng ở không nên quá hai mươi người, chỉ cần vài cư sĩ đắc lực hộ trì, không làm pháp hội, không làm kinh sám Phật sự, không nhận xuất gia cho đệ tử, không cần truyền giới, cứ thật lòng mà niệm Phật.

Có người nói với tôi: “Thưa Pháp sư, đối với thế hệ bây giờ, không thể chỉ có niệm Phật là đủ mà cần phải nghe kinh. Bởi không nghe kinh, họ không hiểu giáo lý, tâm còn hoài nghi, sẽ sinh tâm thoái chuyển”. Tôi nghĩ cũng có lý, nên hiện giờ chúng ta đề xuất, mỗi ngày nên nghe kinh khoảng từ hai đến bốn tiếng đồng hồ; phần niệm Phật có thể từ tám đến mười tiếng.

“Khí dục” là lìa dục. Điều quan trọng nhất phải bỏ ý niệm phan duyên, ý niệm chiếm hữu, khống chế người khác; đấy là ý niệm luân hồi. “Nhi tác sa-môn”: Chữ “sa-môn” là cần tức, có nghĩa là cần tu Giới, Định, Tuệ tức diệt tham, sân, si. Ngày xưa, người xuất gia rất khó tạo nghiệp ác. Vì sao vậy? Vì họ không có cơ hội. Ngày xưa, tự viện đều xây dựng trên núi cao, xa cách dân cư, ít người lui tới, không có âm thanh tạp loạn. Ngày nay thì phiền phức rồi! Có thể nói, chùa chiền bây giờ không còn thích hợp cho người tu hành. Việc giảng kinh thuyết pháp đâu cần giảng đường lớn. Hiện nay, lợi dụng khoa học kỹ thuật, có thể giảng kinh trong phòng ghi hình, phát lên truyền hình vệ tinh, tại nhà cũng có thể nghe được.

Pháp sư Huyền Uẩn bảo: “Xuất gia tạo ác rất khó, như thuyền lướt trên đất; tại gia gây lỗi thật dễ, như thuyền buồm trôi trên biển. Lại nữa, xuất gia tu đạo dễ dàng như thuyền buồm lướt trên biển; tại gia tu phước thật khó như thuyền đi trên cạn. Nhưng, có kẻ tâm xuất gia mà thân chẳng xuất gia; có kẻ thân xuất gia tâm chẳng xuất gia. Nay cả thân lẫn tâm đều phải xuất gia nên mới bảo bỏ nhà, lìa dục”.

Sách Vô Lượng Thọ Khởi Tín Luận bảo: “Hết thảy chúng sinh do khát ái nên có huyễn thân. Do huyễn thân, nên có cõi nước. Bỏ nhà lìa dục thì khát ái thanh tịnh, nên cõi nước cũng thanh tịnh. Kinh Ðại Bát Nhã nói: ‘Bồ Tát Ma Ha Tát chí tánh háo du chư Phật quốc độ, ưng viễn ly xuất gia’. (Bồ Tát Ma Ha Tát có lòng ham muốn sẽ đến được các cõi nước chư Phật, phải nên viễn ly hạnh tại gia).

Như vậy, xuất gia là chánh nhân Tịnh Ðộ vì viễn ly bất tịnh”.

“Phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, tu chư công đức, nguyện sinh bỉ quốc”. Trong sách Du Tâm An Lạc Ðạo, đại sư Hải Ðông Nguyên Hiểu đời Ðường có viết:

“Kinh Vô Lượng Thọ nói đến nhân (vãng sinh) của ba bậc. Bậc thượng gồm năm câu:

– Một là ‘bỏ nhà lìa dục trở thành sa-môn’. Câu nầy chỉ rõ phương tiện phát khởi chánh nhân.

– Hai là ‘phát Bồ Ðề tâm’, đấy chính là chánh nhân.

– Ba là ‘chuyên niệm đức Phật kia’, đấy là tu Quán.

– Bốn là ‘làm các công đức’, đấy là khởi hạnh. Quán và Hạnh để trợ giúp cho nghiệp được viên mãn (Đây là Sư Nguyên Hiểu xem Niệm Phật là trợ nghiệp; thuyết này chưa ổn!).

Đại sư Liên Trì nói: “Niệm Phật là chánh nhân, trợ tu cũng là niệm Phật. Chánh, trợ đều là niệm Phật mới gọi là “nhất hướng chuyên niệm”.

– Năm là ‘nguyện sinh cõi kia’. Ðây chính là nguyện, bốn điều trên là hạnh. Hạnh nguyện hòa hợp mới được vãng sinh”.

Trong phần trên, Khởi Tín Luận xem xuất gia là chánh nhân của Tịnh Ðộ, Nguyên Hiểu đại sư lại coi xuất gia chỉ là phương tiện để phát khởi chánh nhân. Hai thuyết hơi khác nhau, nhưng xét ra thuyết của ngài Nguyên Hiểu thích đáng hơn.

Trong Quán kinh, trong cả ba phẩm Thượng chẳng thấy nói phải xuất gia ; riêng trong phần Trung Phẩm Thượng Sinh có nói “tu hành chư giới” (tu hành các giới); Trung Phẩm Trung Sinh nói: “Nhược nhất nhật nhất dạ trì Sa Di Giới, nhược nhất nhật nhất dạ trì Cụ Túc Giới” (Nếu một ngày một đêm trì giới Sa Di, hoặc một ngày một đêm trì giới Cụ Túc). Trong cả chín phẩm của kinh ấy, chỉ mỗi hai phẩm trên nói rõ là xuất gia. Riêng kinh Vô Lượng Thọ thì khác hẳn, trong bậc Thượng bảo là xuất gia, trong bậc Trung lại bảo “bất năng hành tác sa-môn” (chẳng thể hành hạnh sa-môn).

Theo cụ Hoàng Niệm Tổ, ấy là do chúng sinh cơ duyên vô lượng sai khác, sự tu hành lúc còn tu nhân cũng thiên sai ngàn biệt, nên kinh chỉ phân chia phẩm vị một cách sơ lược để giảng về thứ bậc; đó chỉ là tùy bệnh cho thuốc, tùy cơ nói pháp, chúng ta chẳng nên câu nệ một chiều, chấp chết cứng vào văn tự. Rồi cụ trộm nghĩ: Trong pháp hội Vô Lượng Thọ, ngài A-Nan là đương cơ, lại có một vạn hai ngàn vị đại tỳ-kheo, năm trăm vị tỳ-kheo-ni hiện diện. Các bậc đại đức xuất gia như vậy đều đáng dự vào hạng vãng sinh bậc Thượng. Vả lại, kinh Vô Lượng Thọ là bộ kinh đệ nhất của Tịnh tông, nên những điều dạy trong kinh này đều là khuôn phép chánh tông. Bậc xuất gia tu được vãng sinh bậc Thượng là chuyện hợp lẽ thường tình nên đức Phật thuận theo nhân duyên ấy mà nói người vãng sinh bậc Thượng là bậc xuất gia, tu hạnh sa-môn.

Quán kinh thì khác hẳn: Ðương cơ trong pháp hội nầy là Vi Ðề Hi phu nhân; A Nan và Mục Liên chỉ đứng hầu hai bên đức Phật. Trong khi đó Thích, Phạm chư thiên trên không rải mưa hoa cúng dường. Ngoài A Nan và Mục Liên là bậc tỳ-kheo đại quyền thị hiện, không có bậc xuất gia nào khác, nên Phật ứng theo cơ duyên này, chẳng nói đến chuyện xuất gia trong phần giảng về Thượng Phẩm vãng sinh.

Quán kinh cũng dạy: “Vi Đề Hi dữ ngũ bách thị nữ, văn Phật sở thuyết, ứng thời tức kiến Cực Lạc thế giới quảng trường chi tướng, đắc kiến Phật thân cập bỉ nhị Bồ Tát, tâm sinh hoan hỉ, thán vị tằng hữu, hoát nhiên đại ngộ, đãi Vô Sinh Nhẫn. Ngũ bách thị nữ, phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, nguyện sinh bỉ quốc. Thế Tôn tất ký, giai đương vãng sinh. Sinh bỉ quốc dĩ, hoạch đắc Chư Phật Hiện Tiền tam-muội, vô lượng chư thiên, phát Vô Thượng Đạo Tâm” (Vi Ðề Hi và năm trăm thị nữ nghe lời Phật dạy, ngay lập tức thấy được tướng rộng lớn của thế giới Cực Lạc, được thấy thân Phật và thân hai vị Bồ Tát, tâm sinh hoan hỉ, khen là chưa từng có, hoát nhiên đại ngộ, đạt Vô Sinh Nhẫn. Năm trăm thị nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện sinh cõi kia. Ðức Thế Tôn thọ ký họ sẽ đều được vãng sinh. Sinh trong nước ấy rồi sẽ đắc Chư Phật Hiện Tiền tam-muội. Vô lượng chư thiên phát Vô Thượng Ðạo tâm).

Chúng ta thấy trong pháp hội Quán kinh, bậc đương cơ toàn là căn khí Ðại Thừa, lại là hạng tại gia phát tâm. Những người như thế chắc chắn là vãng sinh trong bậc Thượng. Hơn nữa, Vi Ðề Hi phu nhân chứng Vô Sinh Pháp Nhẫn ngay trong hiện đời nên ắt phải thuộc bậc Thượng Phẩm Thượng Sinh nơi cõi Cực Lạc. Đủ chứng minh, người vãng sinh bậc Thượng chẳng phải chỉ hạn cuộc trong hàng xuất gia, cũng chứng minh diệu pháp Tịnh tông thật chí viên, cực đốn,  phá tan mọi quy cách, thật chẳng thể nghĩ bàn!

Sách Báo Ân Luận nói: “Ông Lưu Di Dân ba lần thấy Phật, (được Phật) dùng áo phủ lên, (được) tay Ngài xoa đầu, tự thấy mình thuộc về Thượng Phẩm, nhưng ông chẳng phải là bậc xuất gia. Với chư tổ của Liên Tông và các vị Duy Ma, Hiền Hộ v.v… hết thảy các bậc vãng sinh danh đức tăng lẫn tục, ta đều có thể dựa theo đó mà suy vậy”.

Ðời Tấn, ông Lưu Di Dân hợp cùng ngài Huệ Viễn niệm Phật ở Lô Sơn, được vãng sinh trước cả ngài Huệ Viễn. Ngài Huệ Viễn lúc sắp tịch, vừa xuất định thấy A Di Ðà Phật thân chật cả hư không. Trong viên quang của Ngài có các hóa Phật, Quán Âm, Thế Chí đứng hầu hai bên. Lại thấy dòng nước tỏa quang minh chia làm mười bốn nhánh, cùng chảy lên rót xuống, diễn thuyết các âm Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã. Phật bảo ngài Huệ Viễn: “Ta do bổn nguyện lực nên đến an ủi ông: Sau bảy ngày nữa, ông sẽ sinh về cõi Ta”. Tổ lại thấy những vị trong Liên Xã đã vãng sinh trước, như các vị Phật Ðà Da Xá, Huệ Trì, Huệ Vĩnh, Lưu Di Dân v.v. đều đứng hầu bên Phật, bước đến bảo: “Sư phát tâm sớm nhưng sao về muộn thế?” Lúc còn sống, ông Lưu Di Dân ba lần thấy Phật; sau khi tịch theo Phật đến đón ngài Huệ Viễn. Ðây là chứng minh cư sĩ cũng có thể vãng sinh trong Thượng Phẩm.

Tóm lại, kinh Vô Lượng Thọ bảo Thượng Phẩm vãng sinh là hạng xuất gia, lìa dục; Quán Kinh chẳng nói Thượng Phẩm vãng sanh phải là xuất gia, như Vi Ðề Hi phu nhân là nữ nhân tại gia lại được Thượng Phẩm vãng sinh; năm trăm thị nữ cũng Thượng Phẩm vãng sinh.

Thật ra, hai kinh chẳng hề mâu thuẩn, bởi Vi Đề Hi phu nhân đã mang tâm xuất gia. Người tại gia mang tâm xuất gia cũng có thể sinh trong Thượng Phẩm. Nếu hiểu câu “xả gia, khí dục” (bỏ nhà, lìa dục) là chú trọng tại tâm xuất gia, thì ý chỉ cả hai kinh thật chẳng sai khác.

“Phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật”: Đây chính là cương lĩnh của toàn bộ kinh Vô Lượng Thọ.

Sách A Di Đà Yếu Giải xem “tín, nguyện, trì danh” là tông của kinh Tiểu Bổn; bản chú giải nầy lại dùng “phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm” làm Tông, nhưng vẫn cùng một ý chỉ. “Tín – nguyện” chính là một trong ba tâm nói trong Quán kinh: Một là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Theo Tứ Thiếp Sớ:

1. – Chí thành tâm là chân thật tâm, là tâm chân thành đến cùng cực.

2. – Thâm tâm là thâm tín tâm. Thâm tín tâm có hai điều:

– Một là tin quyết định một cách sâu xa rằng thân mình hiện tại là phàm phu tội ác, từ vô lượng kiếp đến nay thường chìm đắm, lưu chuyển trong lục đạo chẳng thể xuất ly.

– Hai là tin quyết định một cách sâu xa rằng bốn mươi tám đại nguyện của đức Phật A Di Ðà nhiếp thọ chúng sinh, không còn lo âu, ngờ vực gì. Nương theo nguyện lực của Ngài, quyết định được vãng sinh.

3. – Hồi hướng phát nguyện tâm là từ trong tâm tin sâu chân thật, đem hết thảy thiện căn đã tu hồi hướng nguyện sinh cõi Cực Lạc.

Chúng ta thấy rằng “tín nguyện” của sách Yếu Giải nói, đó chính là ba tâm của Quán Kinh; mà ba tâm của Quán kinh lại chính là Bồ Ðề tâm nói trong kinh Vô Lượng Thọ. Do vậy mà “Phát Bồ Ðề tâm” chính là “tín nguyện”. Hơn nữa, “nhất hướng chuyên niệm” cũng chính là “trì Danh”. Tông chỉ của cả hai kinh Ðại, Tiểu A Di Ðà đều đồng nhất.

Sau đây là trích vài đoạn trong phần luận về Bồ Ðề tâm của sách An Lạc Tập để chúng ta tham khảo thêm. An Lạc Tập do Đại sư Ðạo Xước soạn, bàn luận những điểm rất tinh yếu, trong đó Ngài lập ra bốn điều nghị luận quanh việc phát Bồ Ðề tâm:

* Một là bàn về công dụng của Bồ Ðề tâm.

Sách An Lạc Tập viết:

“Thứ nhất là nêu lên công dụng của Bồ Ðề tâm. Ðại Kinh bảo, phàm muốn vãng sinh Tịnh Ðộ phải lấy Bồ Ðề tâm làm gốc. Vì sao? Bồ Ðề chính là tên gọi của Vô Thượng Phật Ðạo. Nếu muốn phát tâm làm Phật thì tâm ấy phải rộng lớn trùm khắp pháp giới. Tâm ấy rốt ráo, ngang với hư không. Tâm ấy lâu xa đến cùng tận đời vị lai. Tâm ấy trọn khắp, lìa nhị thừa chướng. Nếu phát được tâm ấy thì khuynh đảo được sinh tử vô thỉ và trầm luân trong các cõi. Ðem tất cả công đức hồi hướng Bồ Ðề thì đều có thể đạt tới Phật quả, chẳng bị diệt mất”.

Chữ “Ðại kinh” trên đây chính là kinh Vô Lượng Thọ. Các Ngài Tịnh Ảnh, Ðạo Xước, Thiện Ðạo đều gọi kinh Vô Lượng Thọ là Ðại kinh; ngài Thiên Thai gọi là Ðại Bổn.

Câu “Phàm muốn vãng sinh Tịnh độ phải lấy Bồ Đề tâm làm gốc”. Ý nói nếu chẳng phát được tâm nầy, cho dù có siêng tu thế mấy, chẳng khác nào như cây chẳng có gốc, chắc chắn không thể vãng sinh.

“Bồ Đề chính là tên gọi của Vô Thượng Phật Đạo”. Bồ Ðề nghĩa là Giác. Vô Thượng Giác chính là Phật. Vì vậy, Bồ Ðề là danh xưng khác của Vô Thượng Phật Ðạo. “Phát tâm làm Phật” nghĩa là phát khởi cái tâm “tâm nầy làm Phật, tâm nầy là Phật”. Cái tâm “làm Phật” này vốn sẵn đã “là Phật”, nên Luận nói tiếp: Tâm này “rộng lớn trùm khắp pháp giới”; có nghĩa là xuyên suốt cả ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) và trọn khắp hư không. “Tâm ấy rốt ráo”, đấy là chân thật rốt ráo, tột cùng của nguồn pháp. “Tâm ấy lâu xa”: Chữ “lâu xa” ở đây diễn tả tâm chân thật sáng suốt, lặng lẽ, thường hằng, vĩnh thoát sinh diệt. “Tâm ấy trọn khắp” là đầy đủ hết thảy, không thiếu, không dư. “Nếu phát được tâm ấy” sẽ dứt sạch mối sinh tử từ vô thỉ đến nay, trầm luân trong các cõi. Nếu lại có thể “đem công đức hồi hướng Bồ Ðề” thì quyết định chứng được Phật quả. Tất cả công đức đã tu tập ấy nhất định không luống uổng, “chẳng bị diệt mất”.

Trong Bồ Ðề Tâm Luận của Mật tông có nói: “Tâm Bồ Ðề nầy dung chứa hết thảy công đức của Bồ Tát. Nếu tu chứng xuất hiện thì làm đạo sư cho hết thảy. Nếu quay trở về gốc, đó chính là cõi nước Mật Nghiêm. Chưa rời khỏi tòa mà có thể thành tựu hết thảy Phật sự”.

“Nếu tu chứng xuất hiện”: – Tu như thế nào? – Trong cuộc sống hằng ngày không dùng vọng tâm mà phải dùng chân tâm, dùng tâm chân thành, tâm thật thà trong đối nhân xử thế tiếp vật. Người tu chứng được tâm Bồ Đề, có thể làm gương cho đại chúng xã hội, hướng dẫn mọi người đoạn ác tu thiện, lìa khổ được vui, nên nói “làm đạo sư cho hết thảy”.

“Cõi Mật Nghiêm” trong Mật tông chính là thế giới Cực Lạc. “Đại Nhật Như Lai” trong Mật tông chính là Phật A Di Đà. Danh xưng tuy khác, nhưng chỉ là một vị Phật.

“Chưa rời khỏi tòa mà có thể thành tựu hết thảy Phật sự” (Bất khởi ư tọa, năng thành nhất thiết Phật sự): Phải hiểu “Phật sự” ở đây không phải là kinh sám Phật sự hay siêu độ vong linh, mà là đại sự giáo hóa chúng sinh. Phật sự là giáo dục, là dạy học. “Phật” là trí tuệ, là Giác ngộ. “Sự” là sự việc chúng sinh mong cầu. Chư Phật, Bồ tát trong tất cả mọi sự, mọi việc đều thị hiện, nêu gương cho chúng sinh noi theo, đó cũng  là Phật sự.

* Hai là nêu Danh và Thể của Bồ Ðề, nhưng Bồ Ðề có ba thứ: Một là Pháp Thân Bồ Ðề, hai là Báo Thân Bồ Ðề, ba là Hóa Thân Bồ Ðề.  

1. – Pháp Thân Bồ Ðề chính là Chân Như, Thật Tướng, Ðệ Nhất Nghĩa Không. Tự tánh thanh tịnh, Thể không uế nhiễm, lý xuất thiên chân, chẳng cần phải tu thành, nên gọi là Pháp Thân; là bản thể của Phật đạo nên gọi là Bồ Ðề.

2. – Báo thân Bồ Ðề là tu đủ vạn hạnh, cảm được cái quả báo thân Phật. Do quả tương ứng cái nhân nên gọi là Báo Thân. Viên thông vô ngại nên gọi là Bồ Ðề.

3. – Hóa Thân Bồ Ðề là từ Báo khởi Dụng, hướng đến muôn vàn căn cơ nên gọi là Hóa Thân, lợi ích chúng sinh một cách viên thông nên gọi là Bồ Ðề”.

Theo sách chú giải của cụ Hoàng: “Pháp Thân Bồ Ðề chính là Chân Như, Thật Tướng, Ðệ Nhất Nghĩa Không”. Gọi là “Đệ Nhất Nghĩa Không” vì trong “Đệ Nhất Nghĩa” không có bất cứ hiện tượng nào, đó chính là tự tánh.

Câu “tự tánh thanh tịnh, thể không uế nhiễm” đồng nghĩa với câu nói của Lục Tổ Huệ Năng trong Thiền Tông, khi Ngài mới khai ngộ: “Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh”.

Câu “lý xuất thiên chân, chẳng cần phải tu thành” giống như câu của Huệ Năng: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự đầy đủ”. “Lý xuất thiên chân” nghĩa là lý tự nhiên như vậy, khác nào những chân lý hiển nhiên trong trời đất. Do “vốn tự đầy đủ” nên “chẳng cần phải tu thành”. Ngài Huệ Năng đích thật là “lý xuất thiên chân, bất giả tu thành”. Ngũ Tổ nghe Huệ Năng nói như thế biết ngài đã khai ngộ, bèn trao y bát, lập Huệ Năng làm Tổ thứ sáu. Ngũ tổ bèn ấn chứng cho Huệ Năng: “Chẳng biết bản tâm thì học pháp vô ích. Nếu biết rõ bản tâm của chính mình, thấy tự tánh của chính mình thì đáng gọi là trượng phu, thiên nhân sư, Phật”.

Câu “Bất thức bổn tâm, học pháp vô ích” có nghĩa là không nhận ra chân tâm vốn có của mình, thì học pháp cũng chỉ là vô ích sẽ không khởi tác dụng, không thể minh tâm kiến tánh, không thể chứng đắc Phật quả; có chăng, chỉ là phước báo của nhân thiên trong luân hồi lục đạo. Đó là cái lợi hư vọng, không thật! Lúc ấy, đại sư Huệ Năng còn chưa xuống tóc, vẫn còn là người làm việc nặng nhọc trong chùa; một phen giác ngộ tâm bèn thẳng ngay lên bậc tổ sư. Ðây chính là như Bồ Ðề Tâm Luận nói: “Nếu tu chứng xuất hiện thì làm đạo sư cho hết thảy… chưa rời khỏi tòa mà có thể thành tựu hết thảy Phật sự”.

Tâm Bồ Ðề vượt thoát phàm tình, công dụng của tâm Bồ Đề  rất khó nghĩ tưởng. Tâm tánh như vậy được gọi là Pháp Thân. Tâm tánh ấy là bản thể của Phật đạo nên gọi là Bồ Ðề.

Pháp Thân vốn trọn đủ Tánh Đức. Có công Tu Đức thì Tánh Đức mới hiển lộ. Vì vậy, phải “tu đủ vạn hạnh” công đức trang nghiêm mới đắc “Báo Thân Bồ Đề”. Báo Thân viên mãn trọn đức, thông đạt vô ngại, nên bảo là “viên thông vô ngại”, cũng gọi là “Báo Thân Bồ Ðề”.

Câu “ Từ Báo khởi Dụng” có nghĩa là từ Báo Thân mà khởi tác dụng. Từ Báo Thân có thể tùy căn cơ chúng sinh mà hóa hiện, gọi là Hóa Thân. Diệu dụng của Hóa Thân vô cùng, nên bảo là “lợi ích chúng sinh một cách viên thông”, đây gọi là Hóa Thân Bồ Ðề.

* Ba là chỉ rõ phát tâm Bồ Đề có sai khác. Nay nói về hành giả tu nhân phát tâm thì phải có đủ ba điều:

– Một là cần phải hiểu thấu hữu, vô, tự tánh thanh tịnh từ xưa đến giờ.

– Hai là duyên tu vạn hạnh, tám vạn bốn ngàn Ba La Mật môn v.v.

– Ba là đại từ bi làm gốc, luôn lấy việc độ sinh làm bản hoài

Ba nhân ấy tương ứng với Ðại Bồ Ðề nên gọi là phát tâm Bồ Ðề.

Lại như Tịnh Ðộ Luận (tức Vãng Sinh Luận) bảo: “Nay phát Bồ Ðề tâm, chính là tâm nguyện làm Phật. Tâm nguyện làm Phật chính là tâm độ chúng sinh. Tâm độ chúng sinh chính là tâm nhiếp thủ chúng sinh sinh vào cõi có Phật. Nay nguyện sinh Tịnh Ðộ, trước hết cần phải phát Bồ Ðề tâm”.

Câu “hiểu thấu Hữu, Vô” chính là mấu chốt để giải ngộ tâm.

– Điều gì là “Hữu”?

– Tự tánh thanh tịnh là “Hữu”.

Ngoài tự tánh thanh tịnh tâm, tất cả vạn pháp đều là “vô”. Kinh Đại Thừa nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Ý nghĩa quan trọng ở đây là dạy chúng ta phải nắm chắc “Hữu”, phải buông “Vô”. Không buông bỏ “Vô” sẽ chướng ngại tự tánh thanh tịnh tâm, sẽ vĩnh viễn không thể nào kiến tánh. “Vô” chính là trong Tâm Kinh nói: “Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới v.v…” Đây chính là “thập pháp giới”, sáu căn, sáu trần, sáu thức đều “Vô”; cho đến sau cùng là “vô trí diệc vô đắc” (không có trí cũng không có sở đắc).

Giống như Kinh Đại Niết Bàn dạy: “Như thị nghịch thuận nhập siêu thiền dĩ, phục cáo đại chúng, ngã dĩ Phật nhãn, biến quán tam giới nhất thiết chư pháp, vô minh bổn tế, tánh bổn giải thoát,  ư thập phương cầu, liễu bất khả đắc, suy bổn vô cố, sở nhân chi diệp, giai tất giải thoát. Vô minh giải thoát cố, nãi chí lão tử, giai đắc giải thoát. Dĩ thị nhân duyên, ngã kim an trụ Thường Tịch Diệt Quang, danh Đại Niết Bàn” (Lần lượt thuận, nghịch nhập siêu Thiền Định như thế xong, lại bảo đại chúng: ‘Ta dùng Phật nhãn xem khắp hết thảy các pháp trong tam giới, tánh của vô minh bổn tế vốn là giải thoát, tìm khắp mười phương trọn chẳng thể được. Do gốc là không, nên đối với cành lá đều được giải thoát. Do giải thoát khỏi vô minh nên cho đến  lão tử đều được giải thoát. Do nhân duyên ấy, ta nay an trụ trong Thường Tịch Diệt Quang, gọi là Ðại Niết Bàn). Ðây chính là lời dạy từ bi tha thiết tối hậu của đức Thế Tôn. Ðại sư Vĩnh Minh đã nguyện trong vô lượng kiếp sẽ lột da làm giấy, chẻ xương làm bút, lấy máu làm mực biên chép đoạn văn trên để báo đáp từ ân.

“Vô minh bổn tể”: “bổn tế” chính là bổn thể. “Tánh bổn giải thoát”: Tự tánh các pháp vốn giải thoát nên không có tập khí phiền não, cũng không có Ngã hay Ngã sở.

“Vô minh” vốn là “không” thì làm gì có cành lá; hiểu “vọng” vốn là “không”, nên chân tánh tự hiển lộ. Ðó là ý nghĩa cốt yếu của chữ “biết Vô”. Đoạn từ cành lá, đoạn từ kiến tư phiền não, trần sa phiền não, tập khí phiền não, là biện pháp của phàm phu không có trí tuệ. “Biết Hữu”, như nhà Thiền thường nói: “Cần phải biết Hữu thì mới đắc”.

Trong Tâm Vương Minh, ngài Phó Ðại Sĩ cũng bảo: “Muối hòa trong nước, nước vẫn trong veo, quyết định là có, nhưng chẳng thấy hình dáng. Tâm vương cũng thế: Ngụ trong thân thể, ứng dụng ra ngoài, thích ứng theo từng tình huống tự tại vô ngại, hoàn thành các việc”.

Kinh Niết Bàn dạy: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh” (Hết thảy chúng sinh đều có Phật tánh). “Biết Hữu” là biết có Phật Tánh vậy.

Sách Tâm Ðăng Lục bảo: “Do đó, cổ đức đều muốn ai cũng phải biết Hữu. Nếu chẳng biết Hữu thì toàn là hư vọng”. Chữ “hiểu thấu” trong “hiểu thấu Hữu, Vô” có nghĩa là hiểu rõ cái tâm, thấu đạt cái gốc, hiểu rõ tự tánh vốn sẵn thanh tịnh từ xưa đến nay. Tánh ấy giống như “trực tâm” được nói trong Ðại Thừa Khởi Tín Luận, là chánh niệm pháp Chân Như.

“Duyên tu vạn hạnh”, điều này tương đương với “thâm tâm” trong bộ luận trên là thích tu hết thảy các hạnh lành. Hòa Thượng Tịnh Không thường nói: Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn phải viên tu: “nhất tu nhất thiết tu”, “nhất thiết tu nhất tu”. Chữ “vạn hạnh”quy nạp lại chính là sáu Ba La Mật. Triển khai Lục Độ, chính là “vạn hạnh”, hoặc tu Thập thiện cũng như nhau: Thập thiện chính là Bố thí,  Trì giới, Nhẫn nhục v.v. cho đến Bát Nhã; nương vào Lục Độ làm cương lĩnh, lấy Thập thiện làm mục tiêu.

“Đại từ bi làm gốc” tương đương với đại bi tâm trong luận Khởi Tín: Muốn dẹp tan hết nỗi khổ của chúng sinh.

Đầy đủ ba nhân: Hiểu thấu Hữu Vô, duyên tu vạn hạnh, lấy Đại từ bi làm gốc “tương ưng với Đại Bồ Đề nên gọi là phát tâm Bồ Đề”. “Phát tâm Bồ Đề” ở đây không giống với thiện tâm của thế gian là hành thiện tích đức. Vì sao? – Vì họ cầu phước báo, họ có “Sở cầu”. Trong Phật pháp cũng có “Sở cầu”. nhưng “cầu” “vô cầu”, cần phải hiểu ý nghĩa này. Trong tâm nếu có ý niệm muốn cầu Vô Thượng Bồ Đề, ý niệm đó là “vọng”, làm sao có thể cầu được “Chân”?! Vậy phải làm sao? – Phải làm gương cho người khác, phải tiếp dẫn sơ cơ, trong tâm hoàn toàn không có ý niệm vì mình, đó mới gọi là “phát tâm Bồ Đề”. Dùng phương pháp nầy để đưa chúng sinh vào cửa. Khi họ thật sự giác ngộ, mới thấy được: Bồ Đề xưa nay tự tâm mình vốn có; vốn có mà cầu, chẳng phải là dư thừa ư? Làm gì có đạo lý này!

– Thế Tôn năm xưa giảng kinh thuyết pháp, Ngài có nói chăng?

– Không có nói! Nói mà không nói; không nói mà nói. Đấy mới là tuyệt diệu!

Tóm lại, trong cuộc sống hàng ngày, đem nhận thức “Hữu, Vô” mà áp dụng trong đối nhân xử thế tiếp vật, ấy gọi là “diệu”. Người thông thường không thể hiểu, chỉ có người thấu triệt mới nhận ra.

Để kết luận và xác quyết thêm về ‘Phát Bồ Đề tâm”, Đại sư Ðạo Xước đã nêu trích dẫn trong Tịnh Độ Luận (tức Vãng Sinh Luận) như sau: “Bồ Ðề tâm chính là tâm nguyện thành Phật độ sinh, tâm nhiếp thủ chúng sinh sinh về Tịnh Độ”.

Theo cụ Hoàng Niệm Tổ: Thoạt nhìn, nếu so với tâm trước thì tâm nầy dễ phát khởi hơn. Nhưng, thật ra chẳng phải như vậy. Bởi pháp môn Vãng Sinh Tịnh Ðộ quả thật là pháp khó tin. Tín tâm chưa sinh làm sao có thể phát tâm! Trong kinh A Di Ðà, mười phương chư Phật xưng tán đức Bổn Sư ở trong đời Ngũ Trược “vị chư chúng sinh thuyết thị nhất thiết thế gian nan tín chi pháp” (vì các chúng sinh nói pháp mà hết thảy thế gian khó thể tin được).

Phẩm “Độc Lưu Thử Kinh” (Riêng lưu lại kinh nầy) của kinh Vô Lượng Thọ cũng bảo: “Nhược văn tư kinh, tín nhạo thọ trì, nan trung chi nan, vô quá thử nan” (Nếu nghe kinh nầy mà tin ưa, thọ trì được, đó là điều khó nhất trong các điều khó, không có gì khó hơn điều nầy). Rõ ràng, có thể tin nổi pháp môn Tịnh Ðộ, đó là điều khó nhất trong các điều khó của thế gian.

Tin được pháp khó tin nầy, đó chính là đại trí. Thuận theo tín tâm nầy, phát khởi chí nguyện thành Phật độ sinh, cùng chứng Tịnh Ðộ; đó chính là Bồ Ðề tâm. Chỉ cần chân thật tin nhận thì tự nhiên phát được những tâm trên. Ðây cũng chính là phương tiện thù thắng của Tịnh Tông.

Sách Di Ðà Yếu Giải bảo: “Tin sâu, phát nguyện chính là Vô Thượng Bồ Ðề”. Cho nên, người niệm Phật cần phải sớm sinh tín, nguyện; vì đó chính là phát tâm Bồ Ðề vậy.

* Bốn là vấn đáp, giải thích. 

Hỏi: Nếu tu đủ muôn hạnh cảm được Bồ Ðề, được thành Phật quả, thì sao kinh Chư Pháp Vô Hành lại bảo: ‘Nhược nhân cầu Bồ Đề, tức vô hữu Bồ Đề, thị nhân viễn Bồ Đề, do như thiên dữ địa’ (Nếu ai cầu Bồ Ðề thì chẳng có Bồ Ðề. Người ấy cách xa Bồ Ðề như trời với đất)”

Dưới đây là lời đáp của Tổ:

“Chánh thể của Bồ Ðề là lý cầu vô tướng. Nay dùng tướng để cầu thì chẳng đúng với Thật Lý, nên bảo là người ấy xa cách. Vì vậy, kinh dạy chẳng thể dùng tâm, chẳng thể dùng thân để đắc Bồ Ðề”.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích: Bồ Đề là Chánh Giác; Chánh Đẳng Chánh Giác Là Bồ Đề của Bồ tát; Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là Phật Bồ Đề. Chánh Giác, Chánh Đẳng Chánh Giác, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đều vốn có trong tự tánh mỗi người chúng ta. Trên mặt lý, nếu chúng ta có ý mong cầu là sai! Bồ Đề đã vốn có,còn đến đâu vọng cầu?! Đây là chúng ta chấp tướng Bồ Đề! Có ý mong cầu quả Bồ Đề và pháp để cầu Bồ Đề, đều là pháp chấp, đều là vọng tâm, nên tự xa lìa Thật Tế lý thể, “chẳng đúng với Thật lý, nên bảo là người ấy xa cách” Bồ Đề. Cổ đức nói với chúng ta: Chỉ cần buông xả vọng tâm thì chân tâm hiện tiền, không cần phải mong cầu, có mong cầu là hỏng!

“Lại nói: Nay tuy biết tu hành cầu vãng sinh, hiểu biết rõ ràng Lý Thể là vô cầu, nhưng chẳng hoại giả danh nên tu đủ các hạnh. Do đó, sẽ cảm được Bồ Ðề. Vì vậy, Trí Ðộ Luận bảo: ‘Nếu ai thấy Bát Nhã là bị trói buộc. Nếu ai chẳng thấy Bát Nhã cũng bị trói buộc. Nếu ai thấy Bát Nhã thì được giải thoát, nếu ai chẳng thấy Bát Nhã cũng được giải thoát’. Long Thọ Bồ Tát giảng: ‘Nếu ở trong ấy mà chẳng lìa được tứ cú thì bị trói buộc. Lìa tứ cú thì được giải thoát’. Nay muốn cầu Bồ Ðề  chỉ nên tu hành như thế, ấy chính là chẳng hành mà hành. Chẳng hành mà hành là chẳng trái nghịch đại đạo lý Nhị Ðế”.

Câu “hiểu biết rõ ràng lý thể là vô cầu”, có nghĩa là biết được trên mặt lý là không có cầu. Bởi, tự tánh xưa nay vốn tự đầy đủ, nào có được mất; không có mong cầu, không tu cũng không đắc … nhưng vì “chẳng hoại giả danh nên tu đủ các hạnh”.

Trong kinh Phạm Võng, đức Phật nói: Ngài đến thế gian lần này là lần thứ tám ngàn. Thật sự Ngài đã thành Phật từ rất lâu xa. Như người diễn trên sân khấu, Ngài đã diễn “Bát tướng thành đạo”, giống hệt như phàm phu ra đời, mới tu hành chứng quả. Biểu diễn nầy đã tám ngàn lần, để chúng ta xem mà giác ngộ noi theo.

Thử nghĩ: Phật là đấng Giác Ngộ viên mãn, có cần phải tu khổ hạnh chăng? Có cần phải trì giới, ngày ăn một bữa, ngủ dưới gốc cây, chỉ ba y, một bình bát chăng? – Tất cả đều là ân đức giáo hóa của Phật đối với chúng ta, cũng là thị hiện “chẳng hoại giả danh nên tu đủ các hạnh”, trong “vô tu vẫn có thể tu”; “vẫn có thể tu”, đây là Phật thị hiện.

Chúng ta noi gương Phật tu hành sẽ “Cố năng cảm dã” (Sẽ cảm được Bồ Đề).

– Ai đến ứng?

– Tự tánh đến ứng! Thông thường chúng ta nói là Phật, Bồ tát đến ứng. Chúng ta niệm Phật là có “cảm”, đức Phật hiện đến là có “ứng”, cũng là tự tánh đến ứng. “Ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có tâm”. Tự tánh Di Đà, tự tánh Quán Âm, tự tánh Địa Tạng, tự tánh địa ngục v.v. tất cả đều không lìa tự tánh. Nếu lìa tự tánh thì tất cả pháp đều không có.

Đối với người minh bạch, tâm họ luôn an định, có thể trì giới, tu định, lâu dần sẽ hồi quy tự tánh. Người mê hoặc, tâm trôi nổi, không thể trì giới, tu định, không thể quay đầu, sẽ trôi lăn trong luân hồi lục đạo. Vì vậy, Trí Độ Luận bảo: “Nếu ai thấy Bát Nhã là bị trói buộc. Nếu ai chẳng thấy Bát Nhã thì cũng bị trói buộc”. Vì sao? Vì họ có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Những thứ này là phiền não trói chặt, nên dù thấy hay không thấy Bát Nhã, họ đều bị câu thúc.

“Nếu ai thấy Bát Nhã được giải thoát. Nếu ai chẳng thấy Bát Nhã thì cũng được giải thoát”: “Giải thoát” là được đại tự tại, thoát ly mười pháp giới, liễu thoát sinh tử.

Nguyên nhân vì sao: “Thấy Bát Nhã, không thấy Bát Nhã, thảy đều bị phiền não câu thúc”; lại “thấy Bát Nhã và không thấy Bát Nhã, thảy đều giải thoát”? – Vì một bên có chấp trước và một bên không có chấp trước. Chỉ cần lục căn tiếp xúc với lục trần, không khởi tâm động niệm, không phân biệt, không chấp trước là Bát Nhã đã hiện tiền, người này đã minh tâm kiến tánh, kiến thánh thành Phật.

– Có “Bát Nhã” chăng?

– “Bát Nhã” là giả danh!

Trong tự tánh thanh tịnh tâm, “bổn lai vô nhất vật”, không lập một pháp nào thì làm sao có “Bát Nhã”?! Bát Nhã” là khi Phật giảng kinh, bất đắc dĩ phải phương tiện dùng giả danh; nhưng chúng ta thì không được chấp trước danh tự!

Long Thọ Bồ tát giảng: “Nếu ở trong ấy mà chẳng lìa được tứ cú thì bị trói buộc, lìa tứ cú thì được giải thoát”.

– “Tứ cú” là gì?

Là bốn thứ chấp trước, dùng “Có” “Không” để phân biệt các pháp:

– Thứ nhất là chấp “Có” (tức chấp “Hữu”);

– Thứ hai là chấp “Không” (tức chấp “Vô”);

– Thứ ba là chấp “Cũng Có, cũng Không”;

*Thứ tư là chấp “Chẳng Có, chẳng Không” (Tức Phi Hữu, phi Vô).

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Nếu nói “Có” đó là “Tăng ích báng”. Vì sao?  – Vì tự tánh vốn viên mãn,lại thêm vào “Có”, như vậy là sai, là hủy báng, là “tăng ích báng”. Nếu nói “Không”, đó là “Tổn giảm báng”. Vì sao? – Tự tánh viên mãn, cũng không thể bớt. Tóm lại: Tự tánh vốn là thanh tịnh viên minh thể nên tuyệt đối không thể thêm hay bớt.

Căn bản của “Tứ cú” đều là chấp trước, nên cần phải đoạn tuyệt. Việc này chỉ có Phật mới làm được viên mãn. Tam thừa đối với điều này vẫn chưa đoạn sạch, vẫn chưa rõ ràng. Đây là vấn đề về mặt tri kiến của người học Phật.

Nên nhớ: Không thể nơi tri kiến thêm vào tri kiến; hoặc nơi tri kiến làm tổn giảm tri kiến, như vậy là sai lầm, là vẽ rắn thêm chân! Tri kiến là khởi tác dụng của tự tánh Bát Nhã, là tự nhiên, không thông qua tư duy, như vậy là chính xác. Nếu có tư duy là có biến chất, có sai lầm! Chỉ cần có một chút ý nghĩ trong đó là sai, trở thành “tứ cú, bách phi”, nên nói “chẳng lìa được ‘tứ cú’ thì bị trói buộc. Lìa tứ cú thì được giải thoát”.

“Nay muốn cầu Bồ Ðề chỉ nên tu hành như thế, ấy chính là chẳng hành mà hành. Chẳng hành mà hành là chẳng trái nghịch đại đạo lý Nhị Ðế”. 

“Không hành mà hành” tức là “vô cầu mà cầu”. Tuy biết Lý Thể là Vô Cầu, Bồ Ðề vô đắc, nhưng vẫn tu đủ vạn hạnh để cảm Bồ Ðề, khéo khế hợp với Trung Ðạo nên có thể cảm ứng, khế nhập; khế nhập chính là chứng đắc.

Sách An Lạc Tập dựa vào Tịnh Ðộ Luận đề xướng: Phàm những ai muốn phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề trước hết phải xa lìa ba pháp trái nghịch Bồ Ðề môn:

“Một là môn nương vào trí tuệ, chẳng cầu tự vui do xa lìa Ngã tâm, tham chấp tự thân.

Hai là môn nương vào từ bi, dẹp khổ cho hết thảy chúng sinh do xa lìa tâm chẳng an lạc chúng sinh. 

Ba là môn nương vào phương tiện, tâm thương xót hết thảy chúng sinh do xa lìa tâm cung kính, cúng dường thân mình.

Ðó gọi là xa lìa ba pháp trái nghịch Bồ Ðề môn”.

Cũng có thể nói: Ba pháp trái nghịch Bồ Đề Môn được nói trong Luận trên chính là:

-Một là “ngã tâm, tham chấp tự thân”.

-Hai là “tâm không an lạc chúng sinh”.

-Ba là “tâm cung kính cúng dường tự thân”. Cần phải xa lìa ba tâm này.

Sách An Lạc Tập viết tiếp: “Bồ Tát xa lìa ba pháp trái nghịch

Bồ Ðề môn như thế, liền đắc ba pháp tùy thuận Bồ Ðề môn. Những gì là ba?

– Một là Vô Nhiễm Thanh Tịnh tâm, do chẳng vì thân mình cầu các sự vui. Bồ Ðề là chốn thanh tịnh vô nhiễm, nếu vì tự thân cầu sự vui thì trái nghịch với Bồ Ðề môn. Do đó, tâm vô nhiễm thanh tịnh là tùy thuận Bồ Ðề môn.

– Hai là An Thanh Tịnh tâm, vì dẹp trừ hết thảy khổ cho chúng sinh. Bồ Ðề là chốn thanh tịnh an ổn hết thảy chúng sinh; nếu chẳng khởi tâm làm cho hết thảy chúng sinh được lìa cái khổ sinh tử thì trái nghịch với Bồ Ðề môn. Do vậy, dẹp hết thảy nỗi khổ của chúng sinh là tùy thuận Bồ Ðề môn.

– Ba là Lạc Thanh Tịnh tâm vì muốn cho hết thảy chúng sinh đắc đại Bồ Ðề, vì để nhiếp thủ chúng sinh sinh về cõi Phật ấy. Bồ Ðề là chốn thường vui một cách rốt ráo. Nếu chẳng làm cho hết thảy chúng sinh được hưởng cái vui rốt ráo thì trái nghịch với Bồ Ðề môn.

Nương vào đâu để đạt được sự vui rốt ráo ấy? Cần phải nương vào Ðại Nghĩa Môn. Ðại Nghĩa Môn chính là cõi Phật An Lạc. Vì vậy, ta phải làm cho hết thảy chúng sinh chuyên dốc chí nguyện sinh cõi kia, muốn làm cho họ chóng chứng Vô Thượng Bồ Ðề”.

Những lời luận trên đây về pháp trái nghịch và tùy thuận Bồ Ðề môn của ngài Ðạo Xước, đã chỉ rõ sự sai khác giữa những pháp tùy thuận và trái nghịch với phát tâm. Nếu đã phát tâm thì phải tu Tịnh nghiệp, luôn để tâm cứu xét, tự vấn tâm mình có đi ngược với tâm Bồ Đề chăng? Phải nên lãnh hội rốt ráo, chớ tự trái nghịch Bồ Ðề môn, trái nghịch bổn nguyện, tự mình chướng ngại việc vãng sinh của chính mình.

Với tông chỉ “nhất hướng chuyên niệm Phật A Di Ðà”, sách Di Ðà Yếu Giải bảo: “Trong hết thảy phương tiện, tìm lấy pháp thẳng chóng nhất, viên đốn nhất, không gì bằng pháp niệm Phật cầu sinh Tịnh Ðộ. Lại trong hết thảy pháp niệm Phật, tìm lấy pháp giản dị nhất, ổn thỏa nhất, thích đáng nhất, không gì bằng tín nguyện trì danh”.

Sách còn viết: “A Di Ðà Phật là vạn đức hồng danh. Dùng danh hiệu để chiêu cảm vạn đức, thì không công đức nào mà chẳng đạt được. Do đó, chấp trì danh hiệu là Chánh Hạnh, chẳng cần phải tu các hạnh: Quán tưởng, tham cứu v.v. thật rất giản dị, thật rất thẳng chóng”.

Sách Viên Trung Sao nói: “Kinh nầy dạy kẻ phàm phu sơ tâm, chỉ cần có miệng xưng danh, có tâm để tưởng niệm được thì đều tu được. Vì vậy, kinh nầy dạy ra pháp môn hết sức đơn giản, hết sức dễ dàng vậy”, “nếu chấp trì danh hiệu thì chẳng luận bận, rảnh, chẳng kể động, tịnh, đi, đứng, nằm, ngồi, đều tu được cả. Mới biết kinh nầy dạy ra pháp môn hết sức thẳng tắt vậy” và: “Pháp xưng danh chẳng lựa hiền, ngu, chẳng phân biệt nam, nữ, dù sang hay hèn cũng đều tu được, mới biết kinh này chỉ ra pháp môn nhiếp trọn các căn cơ hết sức rộng lớn vậy”.

Sách Du Tâm An Lạc Ðạo cũng nói:

“Danh hiệu chư Phật do vạn đức chung đúc thành. Chỉ cần niệm danh hiệu một đức Phật, thì trong niệm ấy đã niệm đủ vạn đức” và: “Vô thỉ ác nghiệp từ vọng tâm sinh, công đức niệm Phật từ chân tâm khởi. Chân tâm như mặt trời, vọng tâm như bóng tối. Chân tâm vừa khởi, vọng tâm liền mất; như mặt trời vừa mọc, bóng tối liền tiêu mất”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Danh hiệu Phật là “tánh đức” có đầy đủ trong mọi chúng sinh. Danh hiệu Bồ tát là “tu đức”. Nếu không tu tập làm sao thấy tánh, “tánh đức” là phương hướng, mục tiêu của chúng ta. Tu hành: Chữ “tu” là tu tập, tu sửa, chỉnh đốn lại tư tưởng, hành vi sai trái của chính mình thì gọi là tu, “hành” là hành vi: Khởi tâm động niệm là hành vi của ý, lời nói là hành vi của miệng, những gì thân thể tạo tác là hành vi của thân. Từ “tu đức” ta hiểu được “tánh đức”. “Tu đức” đi đôi với “tánh đức” gọi là chứng quả. Kinh Hoa Nghiêm nói rất cụ thể:  Nhất tức thị đa, đa tức thị nhất” (một tức là nhiều, nhiều tức là một), đồng nghĩa với câu “chỉ cần niệm danh hiệu một đức Phật, thì trong một niệm ấy, đã niệm đủ vạn đức”. “Niệm đủ vạn đức” ở đây có thể hiểu là “niệm đủ các đức Phật”, không thiếu một vị Phật nào.

Trong Ấn Quang Đại Sư Văn Sao có nêu câu chuyện: Một thiền sư tham thiền mấy mươi năm, có lần ông viết thư nhờ Đại sư Ấn Quang dạy bảo. Ông kể: Đã tham học hết một ngàn bảy trăm công án, đó là Ngũ Đăng Hội Nguyên, chỉ còn lại mấy công án là không thông suốt. Đại sư Ấn Quang viết thư trả lời: Chỉ cần thông suốt một công án thì tất cả những công án còn lại đều thông suốt. Nếu ông nói còn mấy công án không hiểu , cũng đồng nghĩa với ông không hiểu một công án nào! Cho thấy: “Một kinh thông thì tất cả kinh đều thông”. “Thông” kiến tánh; chưa kiến tánh thì chưa gọi là “thông”.

Dùng một niệm A Di Đà Phật để đánh tan tất cả những niệm khác, đây là dùng một pháp để trị tất cả pháp. Đến lúc nào trong tâm thuần tịnh, tuyệt đối không còn tạp niệm thì “một niệm” đó cũng không cần. Chân lý niệm Phật là ở chỗ nầy. Nếu không còn tạp niệm, tâm đã thuần thiện, thì niệm Phật nữa để làm gì? Đó là sai! Niệm Phật là uống thuốc chữa bệnh, lành rồi thì phải ngưng.

“Dùng một niệm để ngăn dứt tất cả niệm” cũng như dùng “công đức niệm Phật từ chân tâm” để ngăn dứt tất cả “vô thỉ ác nghiệp từ vọng tâm sinh”.

Dùng thí dụ: “chân tâm như mặt trời”, có thể xua tan bóng tối của vô số “vô thỉ ác nghiệp từ vọng tâm sinh” đã minh chứng “dùng một pháp để trị tất cả pháp”. Đây là sự thật!

Sách An Lạc Tập còn dẫn kinh Quán Phật Tam Muội như sau:

“Phật khuyến phụ vương hành Niệm Phật Tam Muội, phụ vương bạch Phật:

– Phật địa quả đức, Chân Như Thật Tướng, Đệ Nhất Nghĩa Không, hà nhân bất di đệ tử hành chi?

Phật cáo phụ vương: 

– Chư Phật quả đức, hữu vô lượng thâm diệu cảnh giới, thần thông, giải thoát, phi thị phàm phu sở hành cảnh giới, cố khuyến phụ vương hành Niệm Phật tam-muội.

Phụ vương bạch Phật: 

– Niệm Phật chi công, kỳ trạng vân hà?

Phật cáo phụ vương: 

– Như Y Lan lâm, phương tứ thập do-tuần, hữu nhất khỏa Ngưu Đầu Chiên Đàn, tuy hữu căn nha, do vị xuất thổ. Kỳ Y Lan lâm, duy xú vô hương. Nhược hữu đạm kỳ hoa quả, phát cuồng nhi tử. Hậu thời Chiên Đàn căn nha, tiệm tiệm sinh trưởng, tài dục thành thụ, hương khí mạo thịnh, toại năng cải biến thử lâm, phổ giai hương mỹ. Chúng sinh kiến giả, giai sinh hi hữu tâm.

Phật cáo phụ vương: 

– Nhất thiết chúng sinh, tại sinh tử trung, niệm Phật chi tâm, diệc phục như thị. Đản năng hệ niệm bất chỉ, định sinh Phật tiền. Nhất đắc vãng sinh, tức năng cải biến nhất thiết chư ác thành đại từ bi. Như bỉ hương thụ, cải Y Lan lâm” (Phật khuyên phụ vương hành Niệm Phật tam-muội. Phụ vương bạch Phật:

– Quả đức của Phật địa là Chân Như Thật Tướng, Ðệ Nhất Nghĩa Không, sao Phật chẳng dạy đệ tử hành theo?

Phật bảo phụ vương:

– Quả đức của chư Phật có vô lượng cảnh giới thâm diệu, thần thông, giải thoát, chẳng phải là cảnh giới của phàm phu hành được, nên Phật khuyên phụ vương hành Niệm Phật tam-muội.

Phụ vương bạch Phật:

– Công năng của niệm Phật ra sao?

Phật bảo phụ vương:

– Như cánh rừng Y Lan vuông đến bốn mươi do-tuần, có một cây Ngưu Đầu Chiên Đàn, tuy có bén rễ, nảy mầm, nhưng chưa trồi lên mặt đất. Rừng Y Lan ấy chỉ có mùi thối không thơm tho gì. Nếu có kẻ nào ăn phải hoa quả của cây Y Lan sẽ phát cuồng mà chết. Lúc sau, mầm cây Chiên Đàn dần dần tăng trưởng, vừa sắp mọc thành cây thì mùi thơm đã ngào ngạt, đủ sức biến đổi cả khu rừng đó thành ra thơm ngát cả. Chúng sinh trông thấy sinh lòng hi hữu.

Phật bảo phụ vương:

– Tâm niệm Phật của hết thảy chúng sinh trong sinh tử cũng giống như thế. Chỉ cần hệ niệm chẳng ngơi thì quyết sẽ sinh ở trước Phật. Một phen đã vãng sinh, liền biến cải hết thảy các ác thành đại từ bi như cây có mùi thơm kia biến cải cả rừng Y Lan).

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích như sau: Câu “Phật địa quả đức, Chân Như Thật Tướng, Đệ Nhất Nghĩa Không” (Quả đức của Phật địa là Chân Như Thật Tướng, Đệ Nhất Nghĩa Không): Chữ “Chân Như Thật Tướng” chính là tự tánh, pháp tánh. “Đệ Nhất Nghĩa Không”, theo cách nói của Tịnh tông là Thường Tịch Quang

Tịnh Độ, cũng là tự tánh. – Sao gọi là “Đệ Nhất Nghĩa Không”? – Chữ “Không” ở đây không có nghĩa là không ngơ, không có gì cả; tuy không có hình tướng, nhưng nó tồn tại ở khắp mọi nơi, trong tất cả các thời gian. Bởi không có hình tướng nên lục căn không thể tiếp xúc được.

Do “quả đức của chư Phật vô cùng thâm diệu, không phải là cảnh giới mà phàm phu có thể hành được, nên đức Phật khuyên phụ vương nên thực hành Niệm Phật tam-muội”. Phụ vương bạch Phật: “Công năng của niệm Phật ra sao?” Đức Phật nêu ra thí dụ: “Như rừng Y Lan, rộng đến bốn mươi do-tuần”: “Y Lan” là tiếng Phạn, là loại thực vật có mùi hôi rất khó ngửi. “Do-tuần” là đơn vị đo chiều dài ở Ấn Độ thời xưa. Có nhiều cách giải thích khác nhau, chung quy: Một đại do-tuần bằng khoảng tám mươi dặm; trung do-tuần khoảng sáu mươi dặm; tiểu do-tuần khoảng bốn mươi dặm. “Rộng bốn mươi do-tuần” chắc độ khoảng bốn trăm dặm ngày nay. Cả khu rừng như thế toàn là cây Y Lan, duy nhất chỉ có một cây Ngưu Đầu Chiên Đàn, tuy có mầm nhưng chưa nhô lên mặt đất. Thời gian sau, nó phát triển thành cây. Mùi thơm của cây Chiên Đàn nầy ngào ngạt, đủ sức biến đổi cả khu rừng Y Lan thành ra thơm ngát cả.

Thử nghĩ: Chỉ một cây Chiên Đàn mà có thể cải thiện cả một khu rừng Y Lan rộng đến bốn mươi do-tuần. Đây cũng ngầm nói với chúng ta: “Tà không thắng chánh”. “Chiên Đàn căn nha”, tuy bén rễ nẩy mầm nhưng chưa trồi lên mặt đất. Thời gian sau, “tiệm tiệm sinh trưởng” (dần dần tăng trưởng) thành cây. Đây cũng ngầm bảo: phàm phu chúng sinh, chỉ cần “tích niệm” không ngưng nghỉ, cũng có thể thành tựu đạo nghiệp. “Tích niệm” ở đây là không gián đoạn, như Bồ tát Đại Thế Chí nói: “Thu nhiếp lục căn, tịnh niệm tương tục” thì công đức niệm Phật sẽ bất khả tư nghị.

Khoa học ngày nay đã cung cấp cho chúng ta một số liệu: Tổng dân số trên quả đất này khoảng sáu mươi lăm ức (bây giờ gần bảy mươi ức). Lấy căn bình phương của một phần trăm dân số, thì khoảng tám ngàn người. Nếu có tám ngàn người thật sự tỉnh ngộ, tu hành thì trái đất này sẽ được cứu vãn. Việc này cũng chứng minh “Tà không thắng chánh”.

Mặt khác, nếu vận dụng được phương pháp niệm Phật của Đại sư Ấn Quang, thì mức độ tiêu trừ tội lỗi càng nhanh hơn, mang lại hiệu quả rất cao. Nên nhớ: Khi niệm Phật thì dứt khoát không có hoài nghi, không có tạp niệm, đây chính là tiêu nghiệp chướng. Niệm danh hiệu Phật phải thật rõ ràng, nên chậm một chút, không cần nhanh quá. Niệm xong mười niệm lại trở về niệm thứ nhất; từ niệm thứ nhất đến niệm thứ mười, cứ tuần tự tiếp nối như vậy, không cần đếm số, không cần dùng tràng hạt. Niệm đến khi nào không còn vọng niệm, tâm thật thanh tịnh, mới thật sự là có công phu.

Trong sinh hoạt hàng ngày, khi gặp chuyện vừa ý liền sinh tâm tham luyến, lập tức niệm Phật để trấn giữ nó. Khi gặp chuyện phiền hà, oán hận, cũng lập tức niệm Phật; những bực tức, oán hận liền được hóa giải, đây là người biết niệm Phật.

Cho nên, chân thật niệm Phật, không phải đòi hỏi mỗi ngày cần niệm được bao nhiêu, mà quan trọng là phải chế ngự được phiền não. Đây là cách niệm Phật của Đại sư Ấn Quang đề xướng. Cách niệm Phật của cụ Hoàng Niệm Tổ lại khác, là “truy đảnh niệm Phật”, niệm rất nhanh, mỗi câu tiếp nối mỗi câu: A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật; cũng khiến phiền não không thể xen vào.

Trước khi vãng sinh, khoảng nửa năm, ông đã viết thư kể cho Hòa Thượng Tịnh Không: Mỗi ngày ông niệm mười bốn vạn câu “A Di Đà Phật”, ông đếm hẳn hoi, đếm số, truy đỉnh, đó cũng là một phương cách niệm Phật. Phương cách nào cũng tốt, nhưng phương pháp của tổ Ấn Quang dễ đắc định hơn, rất nhẹ nhàng, cứ khoan thai mà niệm, không cần hấp tấp. Phương pháp của cụ Hoàng giống như chiến đấu,xung phong quyết liệt, từng câu đuổi nhau. Tóm lại, cách niệm Phật rất đa dạng, nhưng chung quy vẫn là ở chỗ “nhiếp tâm”, đó mới là điều quan trọng.

Kinh Ðại Bi cũng dạy: “Nhất xưng Phật danh, dĩ thị thiện căn, nhập Niết Bàn giới, bất khả cùng tận” (Xưng danh hiệu Phật một tiếng, thì do căn lành ấy nhập vào Niết Bàn giới chẳng thể cùng tận). Ở đây nói “nhập Niết Bàn giới”, không nói Đại Bát Niết Bàn. Sinh đến Tây phương Cực Lạc là “nhập Niết Bàn giới”. Trong kinh Hoa Nghiêm: Viên giáo Sơ Trụ Bồ tát là “nhập Niết Bàn giới”. Từ Sơ Trụ đến Đẳng Giác đều là “Niết Bàn giới”, cũng như trong Đại Tạng kinh thường nói: Bốn mươi mốt ngôi vị Pháp Thân Đại Sĩ đều là Phật thật.

“Nhập Niết Bàn giới, bất khả cùng tận”. Ngài Huệ Năng nói: “Nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ”. Trong Kinh Hoa Nghiêm, đức  Phật nói: “Tất cả chúng sinh đều có đức tướng, trí tuệ của Như Lai”. Trí tuệ không cùng tận, đức năng không cùng tận, tướng hảo không cùng tận, thần thông đạo lực, mỗi mỗi đều không cùng tận. “Không cùng tận” chính là tự tánh. “Nhập Niết Bàn giới bất khả cùng tận”, chính là đã chứng được tự tánh viên mãn, điều này không đáng nể sao?

Pháp môn niệm Phật quả thật là “khó tin, dễ hành”, sao chúng ta không chịu niệm, không chịu phát tâm, không chịu buông bỏ?! Hiện nay, mọi người đều muốn lánh nạn, tránh xa địa cầu này, vậy phải về đâu? – Di dân đến thế giới Cực Lạc là an toàn, tốt đẹp nhất. Chỉ cần chí tâm tin ưa niệm Phật, cầu nguyện vãng sinh thì có thể hóa giải được mọi vấn đề.

Kinh Xưng Dương Chư Phật Công Ðức có nói: “Nhược hữu đắc văn Vô Lượng Thọ Như Lai danh giả, nhất tâm tín nhạo, trì phúng tụng niệm… kỳ nhân đương đắc vô lượng chi phước, vĩnh đương viễn ly tam đồ chi ách. Thọ chung chi hậu, giai đắc vãng sinh bỉ Phật sát độ” (Nếu có kẻ được nghe danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật Như Lai mà nhất tâm tin ưa, trì, phúng tụng niệm… kẻ ấy sẽ được vô lượng phước, sẽ vĩnh viễn xa lìa ách nạn tam đồ. Sau khi mạng chung đều được vãng sinh trong cõi đức Phật kia): Chữ Phúng là đọc tụng với giọng ngân nga. Xưa kia, mọi người thường phân biệt: “phúng” (諷) là dựa theo văn bản, tụng (誦) là đọc thuộc lòng.

Kinh Văn Thù Bát Nhã cũng nói: “Chúng sinh ngu độn, quán bất năng giải, đản linh niệm thanh tương tục, tự đắc vãng sinh” (Chúng sinh ngu độn, chẳng thể hiểu được Quán, chỉ nên dạy họ (giữ được) tiếng niệm liên tục, thì sẽ tự được vãng sinh).  – Vì sao phải duy trì tiếng niệm Phật liên tục?

– Vì để đoạn trừ tất cả vọng niệm!

Niệm Phật vãng sinh, nhất định phải “tịnh niệm tương tục”. Hiện nay, chúng ta đã tịnh chưa?

– Có niệm nhưng chưa tịnh! Tâm không tịnh thì không thể vãng sinh! Đại sư Ấn Quang đã chỉ dạy phương cách để chúng ta niệm Phật, được dứt trừ vọng tưởng thì tâm thanh tịnh. Chỉ cần chúng ta kiên trì, tiếp tục nổ lực, tuyệt đối không giải đãi, quyết định sẽ thành công.

Sách Tịnh Tu Tiệp Yếu là tác phẩm của Ngài Hạ Liên Cư, trong đó tán thán pháp môn Niệm Phật rất hay. “Tịnh tu tiệp yếu” là con đường tắt, trong đây ca ngợi: “Sáu chữ thống nhiếp vạn pháp, một môn chính là phổ môn. Toàn thể Sự là Lý, toàn thể vọng đều quy về chân, hoàn toàn từ tánh khởi tu, hoàn toàn tu nơi tánh. Học rộng vốn là thâm nhập, chuyên tu chính là tổng trì. Từng tiếng, từng tiếng đánh thức chính mình, từng niệm, từng niệm chẳng lìa Bổn Tôn”.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích như sau: “Sáu chữ thống nhiếp vạn pháp”; có nghĩa là: câu “Nam mô A Di Đà Phật” thu nhiếp tất cả vạn pháp, không những là tất cả pháp mà đức Thế Tôn giảng suốt bốn mươi chín năm đều quy nạp trong sáu chữ này, mà tất cả pháp của vô lượng chư Phật Như Lai trong mười phương ba đời đã nói, cũng không thể vượt qua sáu chữ này. Sáu chữ nầy là tổng cương lĩnh của tất cả Phật pháp. Thâm nghĩa của sáu chữ này ít ai hiểu được, nên rất nhiều người còn muốn học cái này, học cái kia!

Chữ “Nam mô”, có nghĩa là “quy”, là quy mạng. “A” dịch là vô, “Di Đà” dịch là lượng, “Phật” dịch là Giác. “Nam mô A Di Đà Phật” có nghĩa là quy mạng Vô Lượng Giác! Mỗi vị Phật đều là Vô Lượng Giác, mỗi pháp môn đều là Vô Lượng Giác, mỗi chúng sinh đều là Vô Lượng Giác, mỗi sự vật cũng là Vô Lượng Giác.

Trong “Tứ Hoằng Thệ Nguyện” nói: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Một môn chính là vô lượng pháp môn; vô lượng pháp môn cũng chính là một môn. Vì sao vậy? Vì chỉ cần một môn ta có thể kiến tánh. Khi kiến tánh thì vô lượng pháp môn đều có thể thông đạt. Một môn thông thì tất cả các pháp môn đều thông.

“Toàn sự tức lý”: Lý và Sự là một, không thể tách rời. Trong Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói rất thấu triệt. Tâm “tham” chiêu cảm thủy tai; “sân nhuế” chiêu cảm hỏa tai, núi lửa bộc phát, nhiệt độ địa cầu tăng cao,…; “ngu si” chiêu cảm phong tai; “ngạo mạn” chiêu cảm động đất. Hiện nay, chúng ta thấy được “nghi”“si” là chiêu cảm phong tai (nạn gió). Nghiệp lực “hoài nghi” cũng rất đáng sợ, khiến cho đại địa mềm nhũn, rời rạc, không vững chắc!

Thiên hạ ngày nay hoài nghi tất cả: Hoài nghi đối với chư Phật, hoài nghi đối với Thánh Hiền, hoài nghi tổ tông, ông bà cha mẹ, hoài nghi vợ con v.v. Không còn có  ai tin cậy! Không còn có việc đáng tin! Bệnh “hoài nghi” làm tổn lại đến chính mình, ngay cả hệ thống miễn dịch của chúng ta cũng hoàn toàn bị phá hoại, không đương đầu nổi với vi khuẩn. Thân tâm không mạnh mẽ, lây nhiễm đến sơn hà đại địa: Núi sẽ vỡ tung! Đại địa sẽ chìm sâu xuống đáy biển! Đây là tác hại của “Nghi”.

Thật sự, nếu mọi người đều có thể vứt bỏ được “ngũ độc” tham-sân-si-mạn-nghi thì thế giới này sẽ là thế giới Cực Lạc.

“Nhất môn tức thị phổ môn” (Một môn chính là phổ môn): “Một môn” ở đây chính là pháp môn Tịnh Độ. Pháp môn Tịnh Độ chính là phổ môn, thống nhiếp cả tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn.

“Toàn sự tức lý”: “toàn sự” ở đây là chỉ cho việc chúng ta phát tâm niệm Phật; “Lý” là lý tánh. Câu niệm Phật nầy là đức hiệu của tất cả chư Phật, là vô lượng giác của tánh đức nên tương ưng với tánh thể, chính là “Lý”.

“Toàn vọng quy chân” (Toàn thể vọng đều quy về Chân): “Vọng” là chỉ cho A Lại Da. Vạn sự, vạn pháp, y chánh trang nghiêm đều do A Lại Da thức biến hiện ra. Tất cả đều không rời tự tánh, nên “giáo môn” thường nói “vạn pháp quy tâm”; đức Phật nói: “Ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có tâm”, “tâm” nầy là tâm tánh, chính là tự tánh. Tâm tánh là Lý thể của vạn pháp, không có Lý thể là không có hiện tượng, nên hiện tượng là từ trong Lý thể hiển lộ ra.

“Toàn tánh khởi tu, toàn tu tại tánh” (Hoàn toàn từ tánh khởi tu, hoàn toàn tu nơi tánh): Tánh Tu là một; Tánh Tu không hai.

Khi nào chúng ta có thể thấy được chân tướng sự thật này, đó chính là chúng ta đã minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ. Kiến tánh tức là thành Phật. Đây là nói lên  sự liên quan giữa danh hiệu “Di Đà- Pháp môn Tịnh Độ” “Tánh-tướng” là một, không phải hai.

“Quảng học nguyên vi thâm nhập, chuyên tu tức thị tổng trì” (Học rộng vốn là thâm nhập, chuyên tu chính là tổng trì): Hai câu nầy nói rất hay!

– Mục đích của học rộng là gì?

– Là “minh tâm kiến tánh”! Đây mới gọi là “thâm nhập”. Nếu mục đích học rộng không phải để “minh tâm kiến tánh”, thì việc học đó chỉ là “tạp học”, càng học càng xa! Cho nên, Phật pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, nhưng mục đích cuối cùng chỉ có một, đó là “minh tâm kiến tánh”.

Nên nhớ: Học rộng chính là để “thâm nhập”. Việc này kẻ sơ cơ tuyệt đối không thể làm được! Sơ học mà học rộng sẽ dễ dàng sai lầm, biến thành “sở tri chướng” nghiêm trọng! Hàng sơ học nên chú trọng “chuyên tu tức là tổng trì”, nên dùng phương pháp “chuyên tu” nầy mãi cho đến khi khai ngộ, mới học rộng.

Trong kinh Bát Nhã nói: “Bát Nhã vô tri, vô sở bất tri”. “Căn bản trí” “vô tri”, là nhất tâm, là tâm rốt ráo thanh tịnh. Tâm thanh tịnh mới khởi tác dụng là “vô sở bất tri” (không gì không biết) gọi là “hậu đắc trí”. “Vô sở bất tri” là học rộng; “vô tri” là chuyên tu.

“Vô tri” “kiến tánh, “vô sở bất tri” là từ tánh khởi dụng. “Khởi dụng” ở đây không phải là “tự thọ dụng” mà là “tha thọ dụng”, vì tất cả chúng sinh. Pháp Thân  Bồ tát có năng lực nầy, có thể ứng hóa trong mười phương pháp giới độ hóa chúng sinh.

“Thanh thanh thức tĩnh chính mình, niệm niệm chẳng rời Bổn Tôn” (Từng tiếng, từng tiếng đánh thức chính mình, từng niệm, từng niệm chẳng lìa Bổn Tôn): Đây gọi là tương ưng. Cổ đức thường nói: “Một niệm tương ưng một niệm Phật; niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật”. “Bổn Tôn” chính là Phật A Di Đà, trong tâm thật có Phật A Di Đà,  đó là “chẳng rời Bổn Tôn”.

Người niệm Phật, quan trọng nhất là phải “đổi tâm”. Thay đổi bằng cách nào? – Phải buông bỏ tất cả vọng niệm trong tâm, rồi để Phật A Di Đà vào. Như Trung Phong Thiền sư nói: “Tâm ta tức là Phật A Di Đà; Phật A Di Đà tức là tâm ta”,  Tâm là Phật A Di Đà, miệng niệm Phật A Di Đà, mỗi tiếng đều thức tĩnh ta chính là Phật A Di Đà, điều nầy không phải giả.

Sách Tịnh Tu Tiệp Yếu còn nói: “Vô Lượng Thọ Quang là Bổn Giác của ta. Khởi tâm niệm Phật gọi là Thỉ Giác. Mượn y báo, chánh báo của Phật để hiển lộ tự tâm của chính mình. Thỉ Giác, Bổn Giác chẳng rời nhau, thẳng tiến trên con đường giác ngộ. Mới hơi trái nghịch đã đọa vào vô minh”.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích:

“Vô Lượng Quang Thọ, thị ngã bản giác, khởi tâm niệm Phật, phương danh thỉ giác” (Vô Lượng Quang Thọ là Bổn Giác của ta. Khởi tâm niệm Phật gọi là Thỉ Giác): “Quang” là trí tuệ, “Thọ” là phước báo. “Vô Lượng Quang Thọ” chính là Bổn Giác, là trí tuệ, phước đức cứu cánh viên mãn vốn có trong tự tánh ở mỗi người chúng ta. Chúng ta khởi tâm niệm Phật, đó gọi là Thỉ Giác. “Mượn y báo, chánh báo của Phật để hiển lộ tự tâm của chính mình”, đây là thật không phải giả. Y, chánh trang nghiêm đều do tự tâm biến hiện. Tâm ta và tâm Phật A Di Đà là một tâm, không phải hai tâm. Ta và người không hai, là nhất thể; ngay đến vô lượng, vô biên, vô số chư Phật Như Lai cùng với vạn pháp trong hư không giới với ta cũng là nhất thể. Quan hệ nầy thật mật thiết biết bao. Cách nói nầy rất thấu triệt, chỉ có trong Phật pháp Đại thừa; trong triết học, khoa học, tôn giáo thế gian đều không nói đến.

“Thỉ Bổn bất ly, trực xu giác lộ” (Thỉ Giác, Bổn Giác chẳng rời nhau, thẳng tiến trên con đường giác ngộ): “Giác lộ”, tiếng Phạn là “Tát Bà Nhược Hải”, đây chính là con đường giác ngộ trực hướng đến tự tánh. Tự tánh là giác chẳng phải mê, đích thật là “vô sở bất tri, vô sở bất năng”. Chúng ta đã mê thất tự tánh, đến khi nào hướng đến “Giác lộ”? Chỉ có Pháp Thân Bồ tát mới làm đến được “Thỉ, Bổn bất ly”. Ngày nay, chúng ta hiểu được: Tất cả Bồ tát vãng sinh đến thế giới Cực Lạc, ngay đến hạ hạ phẩm vãng sinh ở cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng đều làm được, nhờ oai thần bổn nguyện của Phật A Di Đà.

“Tạm nhĩ tướng vi, tiện đọa vô minh” (Mới hơi trái nghịch đã đọa vô minh): Chữ “tạm nhĩ” là không cẩn thận; không cẩn thận cho nên “mới hơi trái nghịch đã đọa vào vô minh”. Quả thật là “do một niệm bất giác mà có vô minh”. Vì vậy, chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, phải công phu miên mật, mới duy trì được Giác-Chánh-Tịnh. Giác là không mê, Chánh là không tà, Tịnh là không nhiễm. Đây là “Tam quy y”.

Sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận cũng nói: “Cần phải biết rằng một pháp Trì Danh thật là giản yếu nhất. Hành giả lúc sơ phát tâm phải chú trọng định khóa (thời khóa nhất định): Mỗi ngày niệm một ngàn tiếng hoặc một vạn tiếng, hoặc mười ức tiếng, từ ít đến nhiều, từ tán nhập định, tùy theo niệm lực đều được vãng sinh”. 

“Tu tri trì danh nhất pháp, tối vi giản yếu” (Cần phải biết, một pháp Trì Danh thật là giản yếu nhất): “Trì” là bảo trì, không được gián đoạn. “Danh” là danh hiệu của Phật A Di Đà, “tối vi giản yếu” là rất đơn giản, rất quan trọng; trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, không có pháp môn nào có thể so sánh được. Pháp môn niệm Phật tuy rất đơn giản, dễ dàng nhất, ổn định nhất, đáng tin cậy nhất mà thành tựu lại cao, điều này thật không thể nghĩ bàn!

“Hành giả niệm Phật, nhân sơ phát tâm thời, quý hữu định khóa” (Hành giả niệm Phật, lúc sơ phát tâm, phải chú trọng định khóa). Thông thường chúng sinh trong lục đạo, căn tánh hầu hết là trung, hạ căn, không phải hàng thượng căn lợi trí. Đối với trung, hạ căn, quan trọng nhất là phải thật thà, phải có định đoạt thời khóa. Mỗi ngày định một ngàn niệm hoặc một vạn niệm hay mười vạn niệmv.v. Tốt nhất là nên “tùng thiểu chí đa” (từ ít tới nhiều). Mới bắt đầu không nên niệm quá nhiều. Quý ở chỗ kiên trì, không gián đoạn. Niệm như vậy khoảng một đôi năm thì tăng dần lên. Tuyệt đối không nên trèo cao té nặng.

Ngoài thời khóa cố định, còn có tán khóa, tức là nhớ đến là niệm, bất luận ở đâu, chỉ cần không nhiễu loạn người khác. Nếu ở chỗ đông người, tự mình yên tĩnh mặc niệm, niệm Phật trong tâm không cần phát ra âm thanh.

Ấn Quang đại sư dạy chúng ta theo phương pháp thập niệm: Niệm thật  rõ ràng, chậm rãi từ niệm thứ nhất đến niệm thứ mười, biết rõ thứ tự của từng câu. Niệm xong mười câu, lại bắt đầu niệm từ câu thứ nhất đến câu thứ mười, cứ tuần tự như vậy mà niệm. Cách này dễ nhiếp tâm, tạp niệm không sinh khởi. Nếu khởi tạp niệm sẽ quên ngay thứ tự của câu, phải bắt đầu lại từ câu thứ nhất đến câu thứ mười. Phương pháp này rất tốt. Người mới thực tập, niệm mười câu cũng không dễ, niệm được sáu, bảy câu là đã quên rồi!

Ấn Quang Đại sư dạy chúng ta có thể chia mười niệm thành hai đoạn: Đoạn thứ nhất từ câu một đến câu thứ năm. Đoạn hai, từ câu thứ sáu đến câu thứ mười.

“Do tán nhập định” (Từ tán nhập định): Cứ tuần tự kiên trì niệm Phật như trên, từ từ chúng ta sẽ tự nhiên thành tựu niệm Phật tam-muội.

“Tùy kỳ niệm lực, câu hà vãng sinh” (tùy theo niệm lực, đều được vãng sinh): Niệm Phật chỉ có một mục đích duy nhất là cầu vãng sinh Cực Lạc, được thân cận Phật A Di Đà, nguyện vọng nầy nhất định sẽ được thành tựu.

Sách An Lạc Tập bảo: “Xưng danh cũng như vậy, chỉ nên chuyên chí liên tục chẳng dứt, thì quyết định sinh về trước Phật. Nay khuyên hàng hậu học, nếu muốn lãnh hội Nhị Ðế, thì chỉ cần hiểu, niệm niệm là bất khả đắc, đấy chính là Trí Tuệ Môn. (Tuy hiểu như vậy) nhưng vẫn hệ niệm liên tục chẳng ngơi, thì chính là Công Ðức Môn. Vì vậy, kinh nói Bồ Tát Ma Ha Tát luôn dùng công đức và trí tuệ để tu tâm mình. Nếu là kẻ mới học chưa thể phá được tướng, thì chỉ nên dựa theo tướng mà chuyên chí, thì không ai chẳng được vãng sinh, chẳng còn ngờ gì nữa”.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích:

“Nhược dục hội kỳ Nhị Đế, đản tri niệm niệm bất khả đắc tức thị Trí Tuệ Môn” (Nếu muốn lãnh hội Nhị Ðế, thì chỉ cần hiểu, niệm niệm là bất khả đắc, đấy chính là Trí Tuệ Môn): Đây là chư vị tổ sư khuyên người học Phật đời sau, nếu muốn lĩnh hội Nhị Đế (Nhị Đế là chân, tục, là không, hữu) thì “đản tri niệm niệm bất khả đắc”, đây là Trí Tuệ Môn. Ý này chính là nói “tuy niệm nhưng không chấp tướng”. Như vậy là sao? Đó là công phu quan trọng thứ hai. Quan trọng thứ nhất là niệm đến “tịnh niệm”. Phương pháp Niệm Phậtcủa Đại sư Ấn Quang giúp chúng ta được “tịnh niệm”. Khi “tịnh niệm” đã hiện tiền thì không cần phải ghi nhớ nữa. Mục đích của ghi nhớ là để ngăn dứt tạp niệm. Nếu không nhớ được thứ tự  của mười niệm thì tạp niệm liền sinh. Phương pháp này chính là “đô nhiếp lục căn” mà Bồ Tát Đại Thế Chí dạy.

Lục căn khi thật sự đã nhiếp được thì: Mắt sẽ buông sắc, tai sẽ buông âm thanh, mũi sẽ buông mùi vị v.v. tâm thanh tịnh liền hiện tiền. Đây không phải là việc của phàm phu mà của  Bồ Tát, mới có thể làm đến được. Bồ Tát hướng lên một bước là buông bỏ triệt để phiền não và sở tri chướng, trí tuệ liền khai.

“Nhi năng hệ niệm tương tục bất đoạn, tức thị Công Đức Môn” (Tuy hiểu như vậy) nhưng vẫn hệ niệm liên tục chẳng ngơi, thì chính là Công Đức Môn): Đây là thành tựu công đức tự lợi cho mình, đồng thời cũng thành tựu công đức lợi tha cho chúng sinh. Như chúng ta ở nơi đây niệm Phật, người chưa phát tâm nhìn thấy cũng phát tâm; người đã phát tâm nhìn thấy càng thêm tăng trưởng tín tâm; chúng sinh vô hình, nhân số càng nhiều, nhìn thấy, họ càng thêm cung kính, tán thán, noi theo học tập. Cho nên, công đức niệm Phật thành tựu chính mình cũng là thành tựu chúng sinh. Đây là “Công Đức Môn”.

“Thị cố kinh vân, Bồ tát Ma Ha Tát, hằng dĩ công đức trí tuệ, dĩ tu kỳ tâm” (Vì vậy, kinh nói Bồ tát Ma Ha Tát luôn dùng công đức và trí tuệ để tu tâm mình): Công đức và trí tuệ không thể tách rời. Bồ tát tu hành, trước là tu tâm, sau mới tu thân. Tâm có chánh thì ngôn, hành mới chánh.

“Nhược thỉ học giả, vị năng phá tướng” (Nếu là kẻ mới học, chưa thể phá tướng): “Phá tướng” đối với phàm phu là chuyện không phải dễ. Bồ tát đã “phá tướng”; “Ma Ha Tát” chẳng những “phá tướng” mà còn “phá kiến”. Trong kinh Kim Cang nói: “Phá tứ tướng” là phá ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng. ‘Phá tứ kiến” là nửa bộ sau của kinh Kim Cang bao gồm: Phá ngã kiến, phá nhân kiến, phá chúng sinh kiến và phá thọ giả kiến. Cảnh giới này rất sâu. Đối với hàng phàm phu “mới học chưa thể phá được tướng, thì chỉ nên dựa theo tướng mà chuyên chí”. “Chuyên chí” ở đây có nghĩa là tâm chí thành, chuyên nhất đến cực điểm, đã phát được Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, thì tự nhiên cảm ứng được chư Phật, Bồ tát, quyết định được vãng sinh. Đây là sự thật.

“Hiện thế hành nhân, thật ưng đế tín thử thuyết” (Hành nhân hiện tại, nên tin chắc lời dạy ấy): Chữ “đế tín” là tin chắc, là chân thật tin, chân thật hiểu rõ đạo lý, không phải miễn cưỡng tin theo, hoàn toàn không có chút chi nghi hoặc.

“Bất tất tiền cầu ly tướng (Chẳng cần trước hết phải ly tướng): Đây là sự việc vô cùng thù thắng của Tịnh tông.

“Đản đương lão thật trì danh” (Chỉ cần bền chắc, chăm chỉ, ròng rặc trì danh): Với tâm thành tha thiết tin lời Phật dạy, chẳng có hoài nghi, kiên trì niệm Phật, không hề gián đoạn.

“Y tướng chuyên chí, vô bất vãng sinh” (Nương theo tướng mà chuyên chí thì không ai chẳng được vãng sinh): Đây đích thật là kim chỉ nam dẫn dắt chúng sinh thoát biển sinh tử.

Trên đây đã dẫn rộng các kinh luận để chứng minh lợi ích thù thắng của pháp Trì Danh Niệm Phật.

Trì Danh phải chuyên chí, phải nhất hướng“nhất hướng chuyên niệm” như sách Quán Niệm Pháp Môn bảo: “Phật nói hết thảy chúng sinh căn tánh bất đồng, có Thượng, Trung, Hạ. Với mỗi căn tánh, Phật đều khuyên chuyên niệm danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật.

Hỏi: Năm thứ nhân duyên (chỉ Ngũ Niệm Môn) đều là Tịnh nghiệp, sao lại chỉ với pháp môn Niệm Phật bảo phải nhất hướng?

Ðáp: Có ba nghĩa:

– Một là do phế các hạnh (khác, chỉ) lập Niệm Phật mà nói như thế.

– Hai là để giúp cho chánh nghiệp Niệm Phật nên nói ra các hạnh trợ nghiệp.

– Ba là do Niệm Phật là chánh, các hạnh là phụ, nên bảo là nhất hướng”.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích như sau: “Ngũ Niệm Môn” là năm môn tu hành do Thiên Thân Bồ tát đề xướng, đó là: Lễ bái môn, tán thán môn, phát nguyện môn, quan sát môn và hồi hướng môn.

Có người đưa ra nghi vấn:

– “Năm thứ nhân duyên (chỉ Ngũ Niệm Môn) đều là Tịnh nghiệp, sao lại chỉ (đặc biệt) với pháp niệm Phật, bảo phải nhất hướng?

– Điều này có ba nghĩa:

“Một là do phế các hạnh (khác, chỉ) lập niệm Phật mà nói như thế”: Chữ “phế” là buông tất cả tám vạn bốn ngàn pháp môn, mà đức Thế Tôn đã nói, chỉ đề xướng một câu danh hiệu. Bởi niệm Phật là “vi lập nhi thuyết”, chỉ lập một môn, chỉ thâm nhập một môn huân tu lâu dài mà nói như vậy. Đây là nghĩa thứ nhất, cũng là con đường chúng ta đang đi.

“Hai là để giúp cho chánh nghiệp Niệm Phật, nên nói ra các hạnh trợ nghiệp”: “Trợ nghiệp”, chữ “trợ” là hiệp trợ, giúp đỡ. Niệm Phật là chánh nghiệp. Chánh, Trợ đều song tu, nhưng phải lấy niệm Phật làm mục tiêu chính. Còn “trợ tu” là sao? – Cũng là niệm Phật. Chánh, Trợ đều là niệm Phật. Điều này rất dễ thành công, nhưng phải xem căn tánh của người niệm Phật ấy như thế nào?

Đối với người hạ căn, tập khí phiền não rất nặng, học giáo lý không thể tiếp thu, không bằng bảo họ nhất tâm niệm Phật là tốt. Thậm chí, trì giới đối với họ cũng rất khó khăn, vậy thì không cần bảo họ phải trì giới, chỉ chuyên tâm niệm Phật. Trong chuyên tâm niệm Phật đã bao hàm trì giới, đầy đủ cả “Tam Học: Giới-Định-Tuệ”.

Xưa nay, chúng ta đã nhìn thấy có rất nhiều hàng hạ căn, khi lâm chung, thành tựu của họ còn vượt qua người thông minh, thông tông thông giáo.

Khi tôi (tức Hòa Thượng Tịnh Không) mới xuất gia, liền dạy tại Phật Học Viện. Tôi đã dạy ở Phật Quang Sơn mười tháng, có gặp một việc: Trong trấn nhỏ ở Đài Nam, có một cụ bà niệm Phật, tâm địa hiền lương, không hiểu Phật pháp nên gặp thần nào cũng lạy, miếu nào cũng đến thắp hương. Ba năm trước đó, bà cưới vợ cho con trai. Đứa con dâu nầy hiểu được Phật pháp, khuyên mẹ chồng không nên đến khắp nơi lễ lạy. Ở nhà, thiết lập bàn thờ Phật Tây phương Tam Thánh để bà chuyên tâm niệm Phật. Bà cụ rất có thiện căn, nghe lời con dâu, ở nhà niệm Phật, lạy Phật. Sau ba năm, bà đứng mà vãng sinh. Lúc lâm chung, buổi tối đêm đó bà bảo các con dùng cơm trước để bà đi tắm. Tắm xong, bà thay quần áo mới, vào Phật đường nhỏ trong nhà, chắp tay niệm Phật, đứng mà vãng sinh. Cả nhà đợi bà dùng cơm, đợi mãi không thấy bà ra. Sau cùng, mới phát hiện bà đứng trước Phật đường, xiêm y tề chỉnh, tay cầm xâu chuỗi, gọi bà không trả lời, đến gần xem kỹ mới hay bà đã vãng sinh. Chuyện này đã xảy ra cách đây khoảng bốn mươi năm. Rất nhiều người trong trấn đó đều biết câu chuyện này. Đây là thật không phải giả, cũng là biểu hiện thành tích “nhất hướng chuyên niệm”.

“Ba là do Niệm Phật là chánh, các hạnh là phụ, nên bảo là nhất hướng”: Do Chánh, Trợ đều là niệm Phật, nên chỉ cần đơn thuần một câu Phật hiệu, chỉ thâm nhập một môn, không xen tạp các môn khác, như bà cụ ở Đài Nam; pháp sư Tu Vô (người thợ vá nồi, đệ tử ngài Đế Nhàn đã đề cập trước đây) đều đã thành tựu.

Sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận đã giảng rõ ý chỉ ấy như sau: “Hành giả đã phát tâm Bồ Ðề thì nên tu vạn hạnh của Bồ Tát. Với tất cả điều thiện thế gian hay xuất thế gian, dù là nhỏ như mảy lông, cho đến vô biên công đức đều dùng thâm tâm, chí thành tâm hồi hướng Cực Lạc, cũng gọi là ‘nhất hướng chuyên niệm’. Do Phật tánh hiện diện trọn khắp hết thảy chỗ nếu còn có buông, có bỏ thì chẳng gọi là Niệm Phật”.

Sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận là trước tác của cư sĩ Bành Tế Thanh. Nếu nói như hiện nay, thì ông là con nhà cán bộ cao cấp. Phụ thân ông là Binh Bộ Thượng Thư của Hoàng Đế Càn Long, tương đương với Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng bây giờ. Ông rất thông minh, chưa đến hai mươi tuổi đã đậu Tiến Sĩ, đây là cuộc thi cấp quốc gia. Ông đã trúng tuyển, nhưng không ra làm quan mà nghiên cứu Phật pháp, chứng tỏ trình độ văn hóa của ông rất cao: thông tông, thông giáo, hiển mật viên dung, là người có đại trí tuệ trong nhà Phật. Trước tác của ông rất nhiều, trong đó có cuốn “Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận”.

Lời luận trên đây của ông thật là khế hợp với thời cơ hiện đại. Người bây giờ bận bịu lắm việc, khó lòng buông bỏ tất cả để suốt ngày niệm Phật, chỉ cần tin sâu nguyện thiết, cầu sinh Tịnh Độ; gặp việc cứ làm, xong việc lại niệm Phật. Điều này cũng không dễ!

Hiện nay, cư sĩ Hồ Tiểu Lâm đang làm, làm rất hay! Ông nói với tôi (tức Hòa Thượng Tịnh Không), suốt buổi sáng ông tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật, hoàn toàn không nghe, không hỏi chuyện của công ty. Sau cơm trưa, mới bắt đầu quản lý việc công ty. Ông có thể dành bốn tiếng đồng hồ vào buổi sáng mỗi ngày để tu tập, điều nầy người khác không thể làm được, nhưng ông làm được. Đây cũng là cơ duyên tu học của ông đã thuần thục, không phải ngẫu nhiên.

Bạn xem! Đầu tiên ông ta thực hành Đệ Tử Quy, cảm ứng thiên, Thập Thiện Nghiệp đạo, ông đã làm được. Kế đến, cả gia đình ông cũng làm được. Sau đó, ông tiếp tục mở rộng đến nhân công trên dưới của công ty, tất cả đều làm được. Mỗi nhân công tự động tự phát, không cần quản lý, không cần đốc thúc, mỗi người đều rất siêng năng, đều có trách nhiệm. Nhờ thế, ông không cần đi làm buổi sáng, không cần hỏi đến mọi việc, chỉ lo việc mình tụng kinh niệm Phật. Đây là tấm gương tốt cho người tu tại gia trong thời đại hiện nay.

Cho nên, thế pháp vốn không trở ngại Phật pháp. “Chẳng cần buông bỏ trăm việc, mới gọi là chuyên niệm”. Lại nữa, với tất cả hạnh lành thế và xuất thế gian, đều dùng tâm chí thành hồi hướng Cực Lạc. Làm được như vậy cũng gọi là “nhất hướng chuyên niệm”.

“Do Phật tánh hiện diện trọn khắp hết thảy chỗ, nếu còn có buông, có bỏ thì chẳng gọi là Niệm Phật”. Câu nói này rất hay! Vì “còn có buông, có bỏ” là còn có phân biệt, chấp trước. Chỉ cần có phân biệt, chấp trước là hoàn toàn sai lầm! Chúng ta dùng mười chữ để miêu tả tâm Bồ Đề là: “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi”. Có mười chữ này thì dù có xả bỏ hay không cũng đều khế hợp với tâm Bồ Đề. Nếu trái với mười chữ này là hoàn toàn sai!

Theo Khởi Tín Luận (“Khởi Tín Luận” ở đây là “Vô Lượng Thọ Khởi Tín Luận” của cư sĩ Bành Tế Thanh, không phải Đại thừa

Khởi Tín Luận) nói: Kiêm hành pháp thiện thế gian còn được gọi là “nhất hướng chuyên niệm”, huống là kiêm tu các pháp xuất thế. Như  trong cuốn Phạm Thất Ngẫu Ðàm, Ngẫu Ích đại sư có viết: “Lại nữa, Thiền giả muốn sinh về Tây Phương thì chẳng cần phải đổi sang niệm Phật, chỉ cần đầy đủ tín, nguyện thì tham thiền chính là hạnh Tịnh Ðộ”. Hơn nữa, đại sư từng bế quan kết đàn trì chú Vãng Sinh cầu sinh Tịnh Ðộ. Ngài còn viết những bài kệ để phát thệ như sau:

“Con dùng chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng tâm, đốt tay ba cây hương (dùng ba cây hương đốt cánh tay), kết một thất tịnh đàn (kết đàn nghiêm tịnh để tụng chú trong bảy ngày liền), chuyên trì chú Vãng Sinh, chỉ trừ lúc ăn ngủ. Nguyện đem công đức này, cầu quyết sinh An Dưỡng”.

Những việc như trên, chứng tỏ chỉ cần đủ tín, nguyện cầu vãng sinh thì dù tham thiền hay trì chú cũng đều là hạnh Tịnh Ðộ. Đây là tu theo pháp Đại thừa, chỉ cần đem công đức tu tập hồi hướng cầu sinh Tịnh Độ, tất cả đều được sinh. Cửa của Phật A Di Đà vô cùng rộng lớn. Nếu hiểu được đạo lý nầy thì học các tôn giáo khác có được hay chăng? Nhất định là được, không cần phải bỏ tôn giáo của mình, miễn sao khi lâm chung đem công đức tu hành đó cầu sinh Tịnh Độ, nhất định vãng sinh. Đây là đạo lý cơ bản của Tịnh tông: “Tâm tịnh tức Phật độ tịnh”. Vấn đề là họ phải chân thật tu hành, thì tu tôn giáo nào cũng không chướng ngại.

Tác giả của bộ Di Ðà Viên Trung Sao là U Khê Đại sư, cả đời tu các pháp: Sám Pháp Hoa, Ðại Bi, Kim Quang Minh, Di Ðà, Lăng Nghiêm không sót ngày nào. Lâm chung biết trước thời khắc, tay viết năm chữ “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”, rồi cao giọng xướng tựa đề kinh vài lần, an nhiên viên tịch.

Cho thấy, tu sám, trì kinh đều là hạnh Tịnh Ðộ. Cho nên, khi đã phát Bồ Ðề tâm, trì danh hiệu Phật thì dẫu có kiêm tu các pháp khác cũng được xem là “nhất hướng chuyên niệm”, đều được vãng sinh.

Nhưng, kiêm tu nhiều môn chẳng bằng thâm nhập một môn, nhất tâm chuyên chí xưng niệm Phật A Di Ðà. Vì vậy Thiện Ðạo Đại sư khai thị: “Ðại Thánh bi mẫn khuyên thẳng chuyên xưng danh hiệu, chính vì xưng danh dễ dàng. Xưng danh liên tục liền được vãng sinh. Nếu niệm được liên tục thì lấy cả đời làm hạn, mười người tu mười người được vãng sinh, trăm người tu trăm người được vãng sinh. Vì cớ sao? Vì không tạo nghiệp duyên nên được chánh niệm, vì được tương ứng với bổn nguyện của Phật, vì chẳng trái nghịch lời dạy, vì thuận theo lời Phật vậy. Nếu bỏ chuyên niệm đi tu tạp niệm, thì trong trăm người tu chỉ được một hai kẻ vãng sinh, trong ngàn người tu hiếm được ba bốn người vãng sinh”.

Tóm lại, Trì Danh Niệm Phật chính là bổn hoài của chư Phật, là phương tiện rốt ráo, là con đường tắt nhất trong các đường tắt. Bởi người lúc lâm chung bị muôn khổ bức bách, ngoại trừ trì danh ra, khó lòng khởi các hạnh khác.

Quán kinh nói: Kẻ Ngũ Nghịch Thập Ác đáng đọa ác đạo, lúc lâm chung gặp thiện tri thức “giáo linh niệm Phật, bỉ nhân khổ bức, bất hoảng niệm Phật, thiện hữu cáo ngôn: – Nhữ nhược bất năng niệm bỉ Phật giả, ưng xưng Vô Lượng Thọ Phật. Như thị chí tâm, linh thanh bất tuyệt, cụ túc thập niệm, xưng Nam Mô A Di Đà Phật. Xưng Phật danh cố, ư niệm niệm trung, trừ bát thập ức kiếp sinh tử chi tội, mạng chung chi thời, kiến kim liên hoa, do như nhật luân, trụ kỳ nhân tiền, như nhất niệm khoảnh, tức đắc vãng sinh Cực Lạc thế giới” (dạy cho niệm Phật nhưng người ấy bị khổ bức bách chẳng thể thanh thản niệm Phật nổi, thiện hữu bảo rằng: ‘Nếu ông chẳng niệm đức Phật ấy nổi (tức là chẳng thể niệm Phật theo phương pháp quán tưởng được) thì hãy nên xưng danh Vô Lượng Thọ Phật’. Chí tâm như thế chẳng để ngớt tiếng, đầy đủ mười niệm xưng ‘Nam Mô A Di Ðà Phật’, do xưng danh đức Phật ấy, trong mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Lúc lâm chung, thấy hoa sen vàng giống như vầng mặt trời ở trước mặt người ấy, như trong khoảng một niệm liền được sinh về thế giới Cực Lạc).

Rõ ràng là pháp Trì Danh rất dễ dàng, lâm chung dễ niệm nên được vãng sinh. Câu “Ư niệm niệm trung, trừ bát thập ức kiếp sinh tử chi tội” (Trong mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử) chỉ rõ pháp Niệm Phật rất là viên đốn. Kẻ Ngũ Nghịch Thập Ác, lúc lâm chung mười niệm liền được vãng sinh. Phàm phu mang theo nghiệp đi vãng sinh, được ngang bằng với bậc Bổ Xứ, nên được mười phương Như Lai khen ngợi, ngàn kinh muôn luận cũng đều nêu.

Kinh Vô Lượng Thọ lấy “phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm” làm tông. Hai điều trên chẳng thể tách rời, vì phát Bồ Ðề tâm là tín, nguyện; nhất hướng chuyên niệm là hạnh”. Ba thứ “tín, nguyện, hạnh” chẳng thể thiếu một thứ.

Sách Di Ðà Yếu Giải nói: “Tin sâu phát nguyện chính là Vô Thượng Bồ Ðề, tín nguyện hợp lại chính là kim chỉ nam cho Tịnh Ðộ. Do vậy, chấp trì danh hiệu mới là chánh hạnh”. Ý Đại sư Ngẫu Ích là: Tâm Vô Thượng Bồ Ðề là kim chỉ nam để tu Tịnh Ðộ. Nhà hàng hải dùng kim chỉ nam để xác định phương hướng. Nếu muốn vượt biển sinh tử, thẳng đến bờ kia Cực Lạc, phải dùng tâm Bồ Ðề để dẫn đường, nên người tu Tịnh nghiệp chẳng thể không phát Bồ Ðề tâm. Lại dùng Bồ Ðề tâm ấy để trì danh hiệu thì mới là chánh hạnh. Nói cách khác, không phát Bồ Ðề tâm thì dẫu có trì danh hiệu, cũng chưa phải là chánh hạnh.

Sách Di Ðà Yếu Giải còn bảo: “Nếu không có tín, nguyện thì dẫu có trì danh hiệu đến mức gió lay chẳng động, mưa chẳng thấm ướt, khác nào tường đồng, vách sắt, vẫn chẳng đắc cái lý vãng sinh. Kẻ tu Tịnh nghiệp chẳng thể không biết điều này”.

“Tu chư công đức” (Tu các công đức): Phần nói về Thượng Phẩm Thượng Sinh trong Quán Kinh có nói “cụ chư giới hạnh” (đầy đủ các giới hạnh), “đọc tụng Đại thừa” “tu hành lục niệm (lục niệm ở đây là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên), hồi hướng phát nguyện”. Thật ra, đó cũng chỉ là “hành sáu Ba La Mật”, đồng nghĩa với “tu chư công đức”.

“Nguyện sinh bỉ quốc” (Nguyện sinh cõi ấy): Kinh bảo: “Nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sinh A Di Đà Phật quốc giả, thị chư nhân đẳng, giai đắc Bất Thoái Chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Nếu có kẻ đã phát nguyện, nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sinh về cõi nước Phật A Di Ðà, những người ấy đều đắc bất thoái chuyển nơi

Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Rõ ràng “nguyện sinh bỉ quốc” (nguyện sinh về cõi ấy) là điều trọng yếu để được vãng sinh Cực Lạc.

“Thử đẳng chúng sinh, lâm thọ chung thời, A Di Đà Phật dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền” (Những chúng sinh nầy, lúc khi mạng chung, A Di Ðà Phật và các thánh chúng, hiện ra trước mặt): Đây chính là nguyện thứ hai mươi “lâm chung tiếp dẫn” được thành tựu.

“Kinh tu du gian, tức tùy bỉ Phật, vãng sinh kỳ quốc” (Trong khoảnh khắc, liền theo đức Phật ấy sinh về cõi kia). Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ nói: “Thị thiện nam tử, hoặc thiện nữ nhân, lâm mạng chung thời, Vô Lượng Thọ Phật, dữ kỳ vô lượng Thanh Văn đệ tử, Bồ Tát chúng câu, tiền hậu vi nhiễu, lai trụ kỳ tiền, từ bi gia hựu, linh tâm bất loạn. Ký xả mạng dĩ, tùy Phật chúng hội, sinh Vô Lượng Thọ Cực Lạc thế giới thanh tịnh Phật độ” (Lúc các thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân ấy lâm chung, Vô Lượng Thọ Phật và vô lượng Thanh Văn đệ tử của Ngài, các vị Bồ Tát cùng vây quanh trước sau, đến đứng trước mặt, từ bi gia hựu khiến tâm người ấy chẳng loạn. Ðã xả mạng rồi, liền theo chúng hội của Phật sinh trong thế giới Cực Lạc, là cõi Phật thanh tịnh của  Phật Vô Lượng Thọ).

Câu “từ bi gia hựu linh tâm bất loạn” là tâm tủy của Tịnh tông. Do Phật lực gia bị nên hành nhân mới được tâm chẳng loạn. Lúc đó, mười niệm liên tục liền được vãng sinh. Vì vậy, Tịnh tông được xưng tụng là Quả Giáo, là tha lực pháp môn, là đạo dễ hành, là thuyền từ độ khắp muôn loài. Những lời khen ngợi như trên đều bắt nguồn từ câu ấy.

Kinh nói: “Hạ bối giả lâm chung mộng kiến bỉ Phật, diệc đắc vãng sinh” (Kẻ trong bậc Hạ, lâm chung mộng thấy đức Phật ấy, cũng được vãng sinh) lại càng hiển thị rõ tha lực của A Di Đà Phật thật chẳng thể nghĩ bàn!

“Tiện ư thất bảo hoa trung, tự nhiên hóa sinh” (Tự nhiên hóa sinh trong hoa sen bảy báu): Kinh nói “tự nhiên hóa sinh” nhằm chỉ rõ chẳng phải là hóa sinh trong bốn cách sinh “noãn, thai, thấp, hóa”, như sách Pháp Hoa Văn Cú bảo: “Thai Kinh nói: ‘Liên hoa sinh giả, phi thai noãn thấp hóa chi hóa sinh dã; phi hóa nhi ngôn hóa dã’ (Sinh trong hoa sen chẳng phải là cách hóa sinh thuộc bốn cách sinh: noãn, thai, thấp, hóa. Chẳng phải là hóa mà nói là hóa); lại cũng chẳng phải là “thấp sinh” như kinh Niết Bàn nói: Cô gái Am La Thọ sinh từ bông hoa của cây Am La nên gọi là “thấp sinh”. Do thảo mộc trong uế độ thường có khí ẩm, những kẻ như cô Am La Thọ nương theo hơi ẩm đó mà sinh ra.

Trước đây tôi (tức Hòa Thượng Tịnh Không) ở Singapore giảng Kinh Hoa Nghiêm. Trước cửa chúng tôi có một cây “tiên nhân chưởng”, nở một trăm lẻ tám đóa hoa. Người thông minh thấy được trong mỗi đóa hoa đều có tiên nữ, đó là hóa sinh trong hoa; thuộc về “thai, noãn, thấp, hóa”. Khác hẳn “Liên hoa hóa sinh” ở thế giới Cực Lạc: Hoa sen và người đồng thời xuất hiện, chẳng nhờ đến khí ẩm mới sinh. Thân người hoàn toàn giống Phật A Di Đà, không phải hóa sinh từ trẻ mới dần dần lớn lên. Đây là do bổn nguyện của đức Phật A Di Đà gia trì mà được như vậy

“Trí tuệ dũng mãnh” là trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, phá tan được giặc phiền não, kiêu mạn nên bảo là “dũng mãnh”. Trí Ðộ Luận nói: “Mũi tên trí tuệ cứng bén phá các giặc kiêu mạn”. Kinh Duy

Ma cũng bảo: “Dĩ trí tuệ kiếm phá phiền não tặc” (Dùng gươm trí tuệ phá giặc phiền não). Kinh Tâm Ðịa Quán nói: “Pháp bảo do như trí tuệ lợi kiếm, cát đoạn sinh tử, ly hệ phược cố” (Pháp bảo ví như gươm trí tuệ bén nhọn, vì nó chặt đứt sinh tử, lìa khỏi hệ phược).

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Người vãng sinh đến thế giới Cực Lạc, do oai thần bổn nguyện lực của Phật A Di Đà gia trì, nên phiền não tập khí của họ không khởi tác dụng. Đặc biệt, trong nguyện thứ hai mươi nói: Tất cả chúng sinh sinh về Cực Lạc đều làm A Duy Việt Trí Bồ tát. Nguyện này quả thật là quá siêu tuyệt! A Duy Việt

Trí Bồ tát là phẩm vị ngang bằng với Viên giáo Sơ Trụ Bồ tát trong kinh Hoa Nghiêm; Phật Giáo Trung Quốc gọi là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật.

Sinh đến thế giới Cực Lạc, Thượng Bối là sinh vào Cõi Thật Báo; Trung Bối sinh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư; Hạ Bối sinh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Do nhân địa không tương đồng, nên quả báo có sai biệt, nhưng đại nguyện của Phật A Di Đà đều đãi ngộ như nhau, vẫn nâng tất cả đều là A Duy Việt Trí Bồ tát. Nói cách khác, Hạ hạ phẩm cũng là A Duy Việt Trí Bồ tát. Điều nầy chẳng đáng nể ư? Trong quốc độ mười phương thế giới chư Phật đều không có, chỉ có ở thế giới Cực Lạc. Thật không thể nghĩ bàn!  “Thần thông tự tại” là thần thông vô ngại như Kinh dạy: “Năng ư chưởng trung trì nhất thiết thế giới” (Có thể nắm trọn cả thế giới trong lòng bàn tay). Điều này cũng ngầm nói với chúng ta: Các Bồ Tát ở cõi Cực Lạc, tự tánh Bát Nhã vốn có trong họ đã hiện tiền. Họ thật đã kiến tánh, nên đối với tất cả pháp thế và xuất thế gian họ đều thấu triệt như thấy rõ trong lòng bàn tay.

Trong Quán Kinh Nghĩa Sớ của ngài Gia Tường nói:

“Thứ nhất là Thượng Phẩm Thượng Sinh: Tu hành suốt bảy ngày thì sinh về cõi ấy, thấy thân đức Phật ấy, nghe giảng diệu pháp liền ngộ Vô Sinh Pháp Nhẫn. Phải biết rằng đấy là mức Vô Sinh của bậc Thất Ðịa.

Thứ hai là Thượng Phẩm Trung Sinh: Chẳng nhất thiết phải đọc tụng kinh Ðại Thừa, chỉ khéo hiểu được nghĩa lý, tin sâu nhân quả, chẳng báng Ðại thừa, đem công đức ấy nguyện sinh về cõi kia thì sẽ được vãng sinh trong hoa sen lớn trong ao bảy báu nơi cõi đó. Qua một đêm hoa nở, trải qua một tiểu kiếp đắc Vô Sinh Pháp Nhẫn. Ðấy cũng là mức Vô Sinh của bậc Thất Ðịa. Trong Thượng Phẩm, thấy Phật nghe pháp, đắc ngay Vô Sinh, còn trong Trung Phẩm phải qua một tiểu kiếp mới đắc Vô Sinh.

Thứ ba là Thượng Phẩm Hạ Sinh. Hạng này cũng tin nhân quả, chẳng báng Ðại Thừa, ở trong hoa sen cõi ấy qua một ngày một đêm hoa sen mới nở. Lại phải qua ba tiểu kiếp mới đắc bách pháp minh môn, trụ Hoan Hỷ Ðịa. Do hạ phẩm đắc Vô Sinh của bậc Sơ Ðịa nên ta biết hai phẩm trên là Vô Sinh của Thất Ðịa ”.

Trong Quán Kinh nói Thượng Phẩm Thượng Sinh thì “A Di Ðà Như Lai và Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí, vô số hóa Phật, trăm ngàn tỳ-kheo Thanh Văn đại chúng, vô lượng chư thiên, cung điện bảy báu. Quán Thế Âm Bồ Tát tay cầm đài kim cang cùng Ðại Thế Chí đến trước hành giả. A Di Ðà Phật phóng đại quang minh chiếu thân hành giả, cùng với các đại Bồ Tát đưa tay nghênh tiếp. Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí và vô số Bồ Tát khen ngợi hành giả, khích lệ tâm hành giả. Hành giả nghe xong, hoan hỉ, hớn hở, tự thấy thân mình ngồi đài kim cang, theo sau chân Phật như trong khoảng khảy ngón tay liền vãng sinh cõi kia”.

Thượng Phẩm Trung Sinh thì “Lúc lâm chung, A Di Ðà Phật và Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí, vô lượng đại chúng, quyến thuộc vây quanh, cầm đài tử kim đến trước hành giả, khen rằng: ‘Ông hành Ðại thừa, hiểu Ðệ Nhất Nghĩa; vì vậy, ta nay đến nghênh tiếp ông’. Cùng với một ngàn vị hóa Phật đều đưa tay, hành giả tự thấy mình ngồi trên đài tử kim, chắp tay khen ngợi chư Phật, như trong khoảng một niệm liền sinh trong ao bảy báu nơi cõi nước kia”.

Còn Thượng Phẩm Hạ Sinh thì “hành giả lúc lâm chung, A Di Ðà Phật và Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí cùng các Bồ Tát cầm hoa sen vàng hóa ra năm trăm vị Phật đến đón người ấy. Năm trăm vị hóa Phật cùng lúc đưa tay khen rằng: ‘Pháp tử! Nay ông thanh tịnh phát Vô Thượng Ðạo tâm, ta đến đón ông’. Lúc thấy sự đó liền tự thấy thân mình ngồi trên hoa sen vàng. Ngồi xong, hoa sen khép lại, theo sau Thế Tôn, liền được vãng sinh trong ao bảy báu”. 

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích: Câu “ông hành Đại thừa, hiểu Đệ Nhất Nghĩa” trong phần Thượng Phẩm Trung Sinh ở trên, chữ “hành Đại thừa” là chỉ cho “niệm Phật”; dù niệm một niệm hay mười niệm cũng là Đại thừa, “hiểu Đệ Nhất Nghĩa” chính là minh tâm kiến tánh. Câu “nay ông thanh tịnh, phát Vô Thượng Đạo tâm”, câu này vô cùng quan trọng! Trong kinh thường nói: “Tâm tịnh tức Phật độ tịnh”. Nói cách khác, “tâm thanh tịnh” là nguyên nhân chính để được vãng sinh.

Những phương cách như: Trì danh niệm Phật, quán tưởng niệm Phật, quán tượng niệm Phật đều là kỹ xảo để đạt đến tâm thanh tịnh. Trên đề kinh Vô Lượng Thọ đã hiện thị minh bạch nhân của vãng sinh là: Tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm giác ngộ. Quả của vãng sinh là: Thượng Bối vãng sinh dành cho bậc đã giác ngộ; Trung Bối vãng sinh dành cho hành giả đã đạt đến tâm bình đẳng; Hạ Bối vãng sinh dành cho hành giả đã được tâm thanh tịnh.

– Làm thế nào để được tâm thanh tịnh?

– Then chốt là buông bỏ tạp niệm! Dùng câu Phật hiệu để xua tan tất cả vọng tưởng. Có khởi niệm, bất luận là niệm thiện hay niệm ác, đều là niệm luân hồi, phải buông bỏ để đạt đến nhất tâm. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta niệm Phật là luyện công phu, luyện chuyển đổi tất cả ý niệm thành niệm Phật A Di Đà. Đây là người chân thật niệm Phật, chân thật tu hành, chân thật tương ưng với thế giới Cực Lạc và Phật A Di Đà, người này nhất định vãng sinh.

Chúng ta thấy trong Quán Kinh cũng như kinh Vô Lượng Thọ nói: “Kỳ hữu chúng sinh, dục ư kim thế, kiến A Di Đà Phật giả” (Nếu có chúng sinh, muốn trong đời nầy thấy Phật A Di Ðà): Ðời ác Ngũ Trược như hiện nay là lúc không có Phật, mà muốn thấy A Di

Đà Phật, quả thật không dễ! Vậy phải làm sao? Kinh dạy:Ưng Phát

Vô Thượng Bồ Đề chi tâm, phục đương chuyên niệm Cực Lạc quốc độ(Phải phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, lại nên chuyên nghĩ đến cõi nước Cực Lạc). Ðấy chính là chánh nhân vãng sinh. Kinh còn dạy: “Tích tập thiện căn, ưng trì hồi hướng” (Thiện căn đã tích tập, nên đem hồi hướng). Do nhân thù thắng này, ắt được được quả báo vãng sinh. Cho nên, kinh bảo: “Do thử kiến Phật, sinh bỉ quốc trung, đắc Bất Thoái Chuyển, nãi chí Vô Thượng Bồ Đề” (Do đó, được thấy Phật, sinh trong cõi kia, được Bất Thoái Chuyển, cho đến thành Vô Thượng Bồ Ðề). 

Những dẫn chứng trên đây đều đề cao “tha Phật” tức là Phật A Di Đà, không phải “tự Phật” là Phật thiên chân sẵn có trong tự tánh chúng ta. Đến đây, cụ Hoàng Niệm Tổ e ngại có kẻ ngờ vực, hiểu lầm Tâm tông, nên cụ bèn nêu ra ba cuốn luận để chứng minh thêm:

1- Linh Phong đại sư viết trong sách Yếu Giải rằng:

Hỏi: Tâm này đã làm Phật, tâm này đã là Phật, sao lại chẳng nói đến tự Phật là rốt ráo mà cứ cho tha Phật hơn tự Phật là vì sao thế?

Ðáp: Pháp môn này thấu triệt hoàn toàn ở chỗ tha Phật chính là tự Phật. Nếu kiêng nói đến tha Phật thì chính là tha kiến (kiến chấp còn thấy có người khác, pháp khác) chưa hết. Nếu thiên trọng tự Phật lại là Ngã Kiến điên đảo.

Hơn nữa, trong bốn lợi ích Tất-đàn, ba thứ lợi ích cuối chẳng thể tự mình phát khởi. Nếu chẳng thể mừng tin sâu xa nơi thế giới (Cực Lạc) thì hai thứ lợi ích vui (Tịnh Ðộ), chán (Sa Bà) còn chẳng thể phát sinh nổi, huống là ngộ nhập được đức Phật nơi lý tánh. Chỉ có thể dùng sự trì để thấu đạt lý trì. Bởi vậy, Di Ðà và thánh chúng hiện tiền chính là bản tánh hiện rõ. Vãng sinh cõi kia, thấy Phật nghe pháp chính là thành tựu tuệ thân, chẳng do người khác mà ngộ.

Pháp môn này thâm diệu phá tan tất cả hí luận, tiêu sạch  tất cả ý kiến, chỉ bậc như Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả… mới có thể triệt để gánh vác, thực hiện nổi! Còn những kẻ thế trí biện thông, bọn tinh thông cả Thiền lẫn Nho, tận sức suy lường thì càng suy nghĩ càng xa vời vợi, chẳng bằng bọn ông già bà lão dốt nát siêng ròng niệm Phật lại ngầm thông được với Phật trí, thầm hợp đạo mầu”. 

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích phần vấn đáp trên đây và tán thán Ngẫu Ích Đại sư đáp rất hay: “Thử chi pháp môn, toàn tại liễu tha tức Phật” (Pháp môn này thấu triệt hoàn toàn ở chỗ tha Phật chính là tự Phật): Đây là thật! “Liễu” là thật sự thông đạt, thấu triệt được Phật A Di Đà tức là chính mình. Trung Phong Thiền sư trong Tam Thời Hệ Niệm Pháp Sự cũng có khai thị “Tâm tôi tức là Phật A Di Đà; Phật A Di Đà tức là tâm tôi”.

Kế đến, Ngẫu Ích Đại Sư nói: “Nhược húy ngôn tha Phật, tắc thị tha kiến vị vong” (Nếu kiêng nói đến tha Phật thì chính là tha kiến chưa hết). Chữ “tha kiến” ở đây chính là bốn tướng trong kinh Kim Cang nói. Chưa phá được tứ tướng nên còn có tự, có tha. “Tự” là ngã tướng, “tha” là nhân tướng.

“Nhược thiên trọng tự Phật, khước thành Phật, ngã kiến điên đảo” (Nếu thiên trọng tự Phật, lại là ngã kiến điên đảo), nói cách khác, tâm bạn chưa thanh tịnh, không phải là chánh tri chánh kiến. Đại sư nêu ra thí dụ:

“Hựu tất-đàn tứ ích, hậu tam ích sự bất qua khởi” (Hơn nữa, trong bốn lợi ích Tất-đàn, ba thứ lợi ích cuối chẳng thể tự mình phát khởi): “Tất-đàn”, nói đủ là “Tứ tất-đàn” (siddhànta), là bốn phương diện Phật dùng để hóa độ chúng sinh. Chữ “Đàn” là Bố thí; “tất” là tất cả. “Tất-đàn” là Bố thí viên mãn, Bố thí tất cả. Bồ tát tu bốn loại Bố thí này:

– Thứ nhất là “Thế giới tất-đàn”: Tùy thuận pháp thế gian mà nói nghĩa nhân duyên hòa hợp để thuyết minh chân lý duyên khởi; – Thứ hai là “Vị nhân tất-đàn”: “vị nhân” là vì người. Nhìn thấy người khác có khổ nạn, chúng ta toàn tâm, toàn lực giúp họ lìa khổ được vui, đây là “dữ lạc’ thiện ích. Cũng có thể, tùy căn cơ và năng lực của từng chúng sinh mà nói pháp xuất thế, khiến họ sinh khởi thiện căn.

– Thứ ba là “Đối trị tất-đàn”: Đây là tùy bệnh cho pháp dược để đối trị phiền não. Chữ “đối trị” cũng có nghĩa là “bạt khổ”. Trong kinh Phật thường nói “từ bi”, có nghĩa là “Từ năng dữ lạc, bi năng bạt khổ”.

Thứ tư là “Đệ Nhất Nghĩa tất-đàn”: Lợi ích của tất-đàn này là giúp chúng sinh “nhập lý ích”. Chữ “nhập lý” chính là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, sáng tỏ lý Thật Tướng của các pháp.

Ở đây, Đại sư nói: “Thường bất tùng thế giới thâm phát khánh tín” (Nếu chẳng thể mừng tin sâu xa nơi thế giới (Cực Lạc) thì “Hân yểm, vi nhân thị hân, đối trị thị yểm” (Hai thứ lợi ích vui (Tịnh Độ), chán (Sa Bà) không thể phát sinh). Như vậy, thì “ngộ nhập Phật lý” tức là “ngộ nhập được đức Phật nơi tự tánh” càng không thể làm được! Cho nên, “duy tức sự trì đạt lý trì”, có nghĩa là “chỉ có thể dùng sự trì để thấu đạt lý trì”. Chữ “trì” ở đây là nói “trì danh niệm Phật”. Bây giờ, chúng ta nhất tâm chuyên niệm Phật A Di Đà là “sự trì”. Niệm mãi cho đến khi tâm mình thuần thục, thuần tịnh, đó chính là “lý trì”. Đạt được “lý trì” thì vãng sinh Cực Lạc ở ngôi vị Thượng Phẩm Thượng Sinh.

“Bởi vậy, Di Đà và thánh chúng hiện tiền, chính là bản tánh hiện rõ”. Điều nầy, chúng ta dần dần có thể lĩnh hội được. Khi lâm chung thấy Phật A Di Đà, còn có rất nhiều hóa Phật. Chúng ta thấy: Thượng Phẩm Thượng Sinh có vô lượng hóa Phật; Thượng Phẩm Trung Sinh có ngàn hóa Phật; Thượng Phẩm Hạ Sinh có năm trăm hóa Phật, Quán Âm, Thế Chí, chư Đại Bồ tát đều đến nghênh tiếp.

– Cảnh giới nầy là “tha” hay “tự”?

– Nếu nói “tha” hay nói “tự” đều sai!

Ý niệm nầy vừa khời là chúng ta mê! Chúng ta đang dùng vọng tâm chớ không phải dùng chân tâm. Trong chân tâm không có “tha”, không có “tự”. Chân tâm ly niệm, có ý niệm là vọng tâm.

– Chúng ta niệm câu Phật hiệu nầy, có niệm chăng?

– Có niệm! Có niệm là “sự trì”. Niệm đến sau cùng quên đi “có niệm” nhập vào “lý niệm”, phân biệt, chấp trước không còn, đây là “nhập lý”. “Sự niệm” vãng sinh thế giới Cực Lạc ở cõi Đồng Cư và cõi Phương Tiện Hữu Dư. “Lý niệm” sinh cõi Thật Báo.

“Vãng sinh bỉ quốc, kiến Phật văn pháp, tức thị thành tựu tuệ thân, bất do tha ngộ” (Vãng sinh cõi kia, thấy Phật nghe pháp, chính là thành tựu tuệ thân, chẳng do người khác mà ngộ). Vì sao vậy? Vì trí tuệ Bát Nhã vốn sẵn có đầy đủ trong tự tánh, không phải từ bên ngoài đến.

“Pháp môn thâm diệu”: Đây là chỉ pháp môn Tịnh Độ thật là thậm thâm vi diệu.

“Phá tận nhất thiết hí luận” (Phá tan tất cả hí luận); “hí luận” là ngôn luận không thiết thục, không có lợi ích chân thật.

“Trảm tận nhất thiết ý kiến” (Chặt sạch tất cả ý kiến): Ý kiến nầy thuộc về phàm tình, nó tương ưng với phiền não, không tương ưng với tự tánh. “Trảm tận” là từ bỏ một cách sạch sẽ.

– Ai có thể làm được?

– Chỉ có các Ngài Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả, Vĩnh Minh v.v… là những bậc Đại Thánh mới có thể triệt để gánh vác được việc này. Ngài Trí Giả là đức Phật Thích Ca Mâu Ni tái sinh, Ngài Vĩnh Minh là đức Phật A Di Đà tái sinh.

“Kỳ dư thế trí biện thông, thông Nho thiền khách” (Còn như những kẻ thế trí biện thông, bọn tinh thông cả thiền lẫn Nho): Đây là chỉ người thông minh tài trí ở thế gian, nhà đại thông gia của Nho giáo, thiền khách trong Phật môn tham thiền chưa khai ngộ.

“Tận tư hộ lượng” (tận sức suy lường), vắt kiệt năng lực tư duy để đo lường, càng suy đoán lại càng xa! Vì sao vậy? – Vì việc này không thể tư duy, không thể nghĩ bàn. Đây là lời thật!

“Hựu bất nhược ngu phu phụ lão thật niệm Phật giả” (Chẳng bằng bọn ông già bà lão dốt nát siêng ròng niệm Phật): Các ông già, bà lão ở quê thường không biết chữ. Họ không có tri thức, cái gì cũng không hiểu, nhưng họ rất thật thà, rất khiêm tốn, tự biết mình không bằng ai; dạy họ niệm A Di Đà Phật, họ thật thà niệm. Được vài năm, họ vãng sinh đoan tướng rất hi hữu: Đứng mà vãng sinh, ngồi mà vãng sinh. Những phần tử tri thức không cách nào sánh được với họ. Họ thật sự đã thành tựu. Vì sao? Vì họ có thể “tiềm thông Phật trí, ám hợp diệu đạo” (Ngầm thông được Phật trí, thầm hợp đạo mầu). Hai câu này nói rất hay!

– Phật trí là gì?

– Là “căn bản trí”!

“Căn bản trí” là trong tâm hoàn toàn sạch sẽ, một niệm không sinh. Ngoài câu A Di Đà Phật ra, tất cả mọi ý niệm đều không có. Sau cùng niệm đến trình độ: Tuy vẫn niệm Phật A Di Đà, nhưng trong tâm, đến Phật A Di Đà cũng không chấp trước, đó chính là “căn bản trí” hiện tiền. Đây là cảnh giới “tiềm thông Phật trí, ám hợp diệu đạo”, nên niệm mà không niệm. Niệm Phật được như vậy là vãng sinh Thượng Bối. Cho nên, không thể xem thường các ông bà cụ. Trước đây, Thầy Lý thường nói với tôi: Thầy muốn học ngu, không học thông minh tài trí, mà học mãi cũng học không giống! Học ngu không dễ!

2- Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận chép:

Hỏi: Lâm chung thấy Phật thì Phật đó là Tự Phật hay là Tha Phật? Nếu là Tha Phật thì thành ra nghiệp ma; nếu là Tự Phật lại do tưởng lực tạo thành, hư vọng chẳng thật, làm sao vãng sinh được?

Ðáp: Tự Phật hay Tha Phật cũng đều là hí luận! Ta, người cùng mất, tự, tha nào khác. Pháp Thân của chư Phật trạm nhiên thường tịch. Do bổn nguyện nên cảm ứng đạo giao, là tự mà cũng chính là tha, chẳng hư, chẳng thật, chỉ là một Chân Như trọn khắp pháp giới.

Chúng sinh do nghiệp duyên nên có sinh tử phần đoạn một cách hư huyễn, giống như người ru rú trong nhà chẳng thấy mặt trời. Niệm lực chân thành, vững chắc thì huyễn duyên hết sạch như thể mái nhà bị thủng, mặt trời chiếu sáng lòa. Tùy ý vãng sinh nhưng vẫn thuộc trong cái vốn sẵn có”.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích:

Vấn, lâm chung kiến Phật, vi thị tự Phật, vi thị tha Phật?” (Hỏi: Lâm chung thấy Phật thì Phật đó là tự Phật hay tha Phật?): Câu này có nghĩa là lúc lâm chung thấy Phật đến tiếp dẫn, phải chăng là Phật trong tâm ta nghĩ ra? Hay là Phật ở thế giới Tây phương Cực Lạc? Khởi lên nghi vấn này, có thể họ không thể vãng sinh! Vì sao vậy, Vì công phu niệm Phật thành phiến của họ đã bị phá hỏng! Cho nên, điểm lưu ý: Khi lâm chung thấy Phật đến tiếp dẫn, chúng ta chỉ nên khởi tâm thành kính, không nên có chút nghi hoặc hay phân biệt nào, như vậy mới được vãng sinh.

“Nhược tha Phật giả, tâm ngoại thủ Phật, tức thành ma nghiệp. Nhược tự Phật giả, tưởng lực sở thành, hư vọng bất thật, vân hà vãng sinh”( Nếu là tha Phật thì thành nghiệp ma. Nếu là tự Phật, lại do tưởng lực tạo thành, hư vọng chẳng thật, làm sao vãng sinh được?): Câu hỏi nầy rất hay!

“Đáp, tự Phật tha Phật, tổng thành hí luận” (Tự Phật hay tha Phật đều là hí luận). Vì sao? – Vì đó là phân biệt, chấp trước! Nhân, ngã đều là vọng; tự và tha không khác. Điều nầy chẳng phải đợi đến lúc lâm chung mới nghĩ, mà ngay lúc bình thường vẫn phải giữ tâm không động niệm, không phân biệt, không chấp trước.

“Chư Phật pháp thân, trạm nhiên thường tịch” (Pháp thân của chư Phật trạm nhiên thường tịch): Pháp thân của chư Phật không có hiện tượng, giống như dòng nước phẳng lì, trong lặng, hoàn toàn không có ô nhiễm cũng hoàn toàn không có dao động. Đây là chân tâm. Có ô nhiễm, có dao động, đó là vọng tâm.

“Dĩ bổn nguyện cố, cảm ứng đạo giao” (Do bổn nguyện nên cảm ứng đạo giao): Phật A Di Đà có nguyện; người niệm Phật có “cảm”, chính là có cầu, thì Phật Bồ tát liền có “ứng”, cảm ứng đạo giao. Hiện tượng nầy “tức tự tức tha” (là tự mà cũng là tha): “Tức tự” là tự tánh biến hiện ra; “tức tha” là nguyện lực của Phật A Di Đà. “Vô hư vô thật” (Chẳng hư chẳng thật): “vô hư” là tự tánh; “vô thật” là hiện tướng. Tướng nầy không phải chân thật. Vì sao? – Vì tướng đó không tồn tại vĩnh viễn! Chỉ trong khoảng sát-na thì không còn, đã đến cõi Cực Lạc.

“Duy nhất chân như, chu biến pháp giới” (Chỉ là một Chân Như trọn khắp pháp giới): Câu này nói rất hay! Cả ba: Ý niệm lúc lâm chung cầu vãng sinh, tánh đức của chúng ta và bổn nguyện của Phật A Di Đà, đều là một Chân Như chu biến pháp giới. Hiểu rõ được đạo lý nầy thì tất cả mọi nghi hoặc trong ta đều quét sạch; tâm chân thành, cung kính liền sinh khởi, đây là tánh đức.

“Chúng sinh y ư nghiệp duyên, huyễn hữu phần đoạn” (Chúng sinh do nghiệp duyên nên có sinh tử phần đoạn một cách hư huyễn): Đây là lục đạo phàm phu có từ nghiệp duyên. Thiện nghiệp là ba đường lành; ác nghiệp là ba đường ác. Thọ sinh trong lục đạo đều là “huyễn hữu”, không phải thật có. “Phần đoạn” là phần đoạn sinh tử: sinh rồi chết, chết rồi sinh v.v. cứ thế tuần tự mãi từ vô lượng kiếp đến nay.

“Như cư ốc hạ, bất kiến thiên nhật” (Như người ru rú trong nhà chẳng thấy mặt trời)

“Niệm lực thành kiên, hoãn duyên tư tịnh” (Niệm lực chân thành, vững chắc thì huyễn duyên hết sạch): Đây chính là dùng tâm chân thành, kiên định niệm Phật đến công phu đắc lực thì vọng niệm, nghi hoặc thảy đều không còn.

“Như triệt ốc bộ”: “ốc bộ” là nhà tranh, “triệt ốc bộ” là phá mái nhà tranh, không có gì ngăn che, nên thấy được mặt trời sáng tỏ.

“Nhậm vận vãng sinh, hoàn đồng bổn đắc” (Tùy ý vãng sinh, nhưng vẫn thuộc trong cái vốn có). Hai câu nầy quá hay! “Nhậm vận” là tự tại, tự tại vãng sinh là hiện tượng tự nhiên; “hoàn đồng bổn đắc” là đã trở về nhà. Quả là như vậy! Thế giới Cực Lạc đích thật là quê nhà vốn có từ lâu của chúng ta.

Lời luận trên, quét sạch tất cả phân biệt; tự hay tha, chúng sinh hay Phật, đều thành hí luận. Vì sao vậy? Vì trong tự tánh thanh tịnh tâm, hoàn toàn không có một niệm nào, thì làm gì có tự, tha; có chúng sinh hay có Phật. Đấy toàn là giả danh, chỉ duy nhất có một Chân Như không lay động trọn khắp, đây là nhất thể. Toàn thể vũ trụ là một pháp tánh, là một pháp thân, một Thường Tịch Quang. Cho nên, tùy ý vãng sinh Cực Lạc nhưng vẫn không ngoài tự tâm.

3- Di Ðà Sớ Sao nói:

Chấp Sự mê Lý thì khác nào trẻ nít, kẻ u mê đọc sách của bậc thánh nhân đời xưa; mê muội, ấu trĩ nên chỉ đọc mà chẳng hiểu rõ nghĩa. Bởi vậy suốt ngày niệm Phật mà chẳng biết Phật niệm gì.

Chấp Lý mê Sự thì khác nào kẻ nghèo vớ được bằng khoán của người giàu có, liền tự bảo mình giàu to, chẳng biết là mình chỉ đếm của cải người ta, ăn nhằm gì đến mình!

Cũng thế, kẻ tuy biết ‘tâm chính là Phật, Phật chính là tâm’ lại đi phán đoán tâm chẳng phải là Phật. Vì thế, ước về Lý thì không có gì để niệm; ước theo Sự thì trong cái không có gì để niệm, ta cứ khăng khít niệm. Do niệm tức là vô niệm nên Sự Lý song tu, bổn trí trở lại thấu đạt Phật trí. Có như vậy mới gọi là đại trí”.  

Sách Sớ Sao còn nói: “Dẫu chấp Sự mà niệm liên tục vẫn chẳng mất công lao, vẫn đạt được các phẩm; ngược lại, chấp Lý mà tâm chưa tỏ ngộ thì bị mắc họa đọa lạc”.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích:

Người “Chấp sự mê lý” là chấp sự tướng bên ngoài mà không minh bạch về “lý”, như trẻ con đọc sách Thánh hiền, chúng có thể đọc thuộc nhưng không hiểu nghĩa, nên nói: “mê muội, ấu trĩ, chỉ đọc mà chẳng rõ nghĩa”. Vì vậy, “suốt ngày niệm Phật mà chẳng biết Phật niệm gì”. Người niệm Phật như vậy có rất nhiều.

Trong Tịnh Độ Tiệp yếu của Ngài Hạ Liên Cư có nói: “Tôi niệm Di Đà, Di Đà niệm tôi”, mỗi tiếng đều tương ưng. Có câu: “Một niệm tương ưng một niệm Phật; niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật”. Vì sao? Vì đã rõ lý, biết tự, tha không hai, nên không có phân biệt, chấp trước.

Tuy nhiên, đối với những ông cụ, bà lão, thật sự họ cũng “mê lý” (không rõ lý), không hiểu gì cả, họ chỉ niệm rốt ráo một câu A Di Đà Phật, vẫn được vãng sinh; có khi phẩm bị vãng sinh của họ còn rất cao. Đó là vì sao? Vì họ “tiềm thông Phật trí, ám hợp diệu đạo” (ngầm thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu) như phần trước đã nói qua. Họ đích thật nhất tâm niệm Phật, đoạn dứt được phiền não, chấp trước, trí tuệ họ liền khai.

Người “chấp Lý mê Sự có khác nào kẻ nghèo vớ được bằng khoán của người giàu, liền tự bảo mình giàu to, chẳng biết là mình chỉ đếm của cải người ta, ăn nhằm gì đến mình!” Họ dựa vào câu “Sinh, Phật không hai” để xác quyết “hà tất phải niệm Phật!” “Di Đà tức là tâm tôi; tâm tôi tức là Di Đà”, vậy thì không cần niệm nữa! Trên mặt lý, họ nói thông suốt, nhưng về mặt sự thì trở thành căn bệnh lớn! Vì sao? – Tuy mặt Lý, chúng ta là Phật A Di Đà, nhưng về mặt sự, chúng ta là phàm phu sáu cõi! Chúng ta vẫn còn có chấp trước thân này là ta, vẫn còn tự tư tự lợi, danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần… thì Phật A Di Đà không còn! Câu “Tâm ta là Phật A Di Đà, Phật A Di Đà là tâm ta” chỉ đúng khi tâm ta hoàn toàn thanh tịnh, không còn những tập khí phiền não.

Lại có “kẻ tuy biết ‘tâm chính là Phật, Phật chính là tâm’ lại đi phán đoán tâm chẳng phải là Phật”. Đây là đem chân tướng sự thật nói ra, “vì thế, ước về Lý thì không có gì để niệm; ước theo Sự thì trong cái không có gì để niệm, ta cứ khăng khít niệm. Do niệm tức là vô niệm”. “Vô niệm” là gì? Là không có khởi tâm động niệm, không phân biệt, không chấp trước. Cứ niệm “Nam mô A Di Đà Phật” hay “A Di Đà Phật”, niệm niệm tương tục, không chấp tướng, Lý Sự vô ngại, Lý Sự nhất như. Lý không chướng ngại Sự, Sự không chướng ngại Lý, như vậy là đúng. “Do niệm tức là vô niệm nên Sự Lý song tu, bổn trí trở lại thấu đạt Phật trí. Có như vậy mới gọi là đại trí”.

Tóm lại, khởi tâm động niệm là Vô minh phiền não; phân biệt là Trần Sa phiền não; chấp trước là Kiến Tư phiền não. Kiến Tư phiền não là nguyên nhân thứ nhất để tạo luân hồi lục đạo. Trần Sa phiền não là nguyên nhân tạo ra Tứ Thánh pháp giới. Có Trần Sa là có Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, Phật trong Thập pháp giới. Buông bỏ khởi tâm động niệm mới thoát ly Thập pháp giới, đi vào pháp giới Nhất Chân, cõi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai.

Cho nên, chư Phật Bồ tát, chư vị Tổ sư dạy chúng ta phải “Lý Sự song tu”: Về mặt Sự phải vô cùng nổ lực; về mặt Lý phải không chấp trước. Như trong Hoàn Nguyên Quán nói về tứ đức; đức thứ nhất là “Tùy duyên diệu dụng”. “Tùy duyên” chính là “tu Sự”; còn “diệu dụng” chính là “tu Lý”. “Diệu dụng” là không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước; dùng thái độ nầy để ‘tùy duyên”, hằng thuận chúng sinh, tùy hỉ công đức, đây gọi là “diệu”.

Phàm phu không “diệu”, vì có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; những thứ nầy là tạo nghiệp. Họ tạo tịnh nghiệp chính là Tứ thánh pháp giới; tạo nhiễm nghiệp chính là lục đạo luân hồi. Trong luân hồi lục đạo có thiện nghiệp và ác nghiệp. Thiện nghiệp chính là hai đường nhân, thiên; ác nghiệp chính là tam ác đạo: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Sách Sớ Sao còn nói: “Dẫu chấp Sự mà niệm liên tục vẫn chẳng mất công lao, vẫn đạt được các phẩm; ngược lại, chấp Lý mà tâm chưa tỏ ngộ thì mắc họa đọa lạc”: Lời nói này quá hay! “Chấp Sự”, chúng ta có thể tịnh niệm tương tục, nhất định được vãng sinh. Nếu “chấp Lý” mà tâm chưa khai ngộ, lại không có ý niệm cầu vãng sinh thì sẽ tiếp tục trôi lăn trong luân hồi lục đạo.

Nên nhớ: “Chấp Lý” là chấp trước Đệ Nhất Nghĩa Đế mà Đại thừa nói về Chân Đế như: “Vạn pháp giai không”, “niệm mà không niệm, không niệm mà niệm”. Họ liền chấp vào ý này nên liền không niệm! Tương lai họ sẽ đi về đâu? Nhất định là không thể vãng sinh! Tự mình bị hại, còn ảnh hưởng đến nhiều người khác, tội này rất nặng! Hạng người này rất nhiều! Họ chưa khai trí tuệ, chỉ là thế trí biện thông, hoàn toàn ngộ nhận nghĩa kinh Đại thừa, nên rơi vào đọa lạc!

Hai câu trên khuyên chúng ta phải thật thà niệm Phật, tuyệt đối không bỏ qua vô ích. Phải nhất định thật tin, thật phát nguyện vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, thân cận Phật A Di Đà, phải thật hành “trì danh niệm Phật” miên mật, chắc chắn được vãng sinh.

Sớ Sao còn viết: “Giả sử cuồng tuệ phóng túng, tham đắm ngoan hư (ngoan không), chưa từng tỏ ngộ bản tâm mà lại khinh Tịnh Ðộ, miệt thị vãng sinh thì cái hại ấy chẳng nhỏ; tức là mới hiểu loáng thoáng cái Không, mà đã bác bỏ nhân quả, vội vội vàng vàng chiêu cảm họa ương”: Cho thấy, đối với chính họ, đời này họ đã bỏ qua nhân duyên vô cùng thù thắng. Đây là bệnh thông thường của phần tử tri thức! Thế mới biết: Một môn thâm nhập so với quảng học đa văn, vượt trội hơn nhiều. Một môn thâm nhập có thể được Định, có thể khai trí tuệ. Quảng học đa văn chỉ là tri thức, tri thức là sở tri chướng khiến trí tuệ không khai mở.

Cuối cùng, cụ Hoàng Niệm Tổ tha thiết kết luận: Xin độc giả hãy đọc những lời nầy hai ba lượt, chớ nên chấp Lý bỏ Sự, kiêng nói tha Phật, khinh rẻ Tịnh Ðộ để tự chiêu cảm ương họa!

KINH VĂN: 

Kỳ trung bối giả, tuy bất năng hành tác sa-môn, đại tu công đức, đương phát vô thượng Bồ Đề chi tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, tùy kỷ tu hành, chư thiện công đức, phụng trì trai giới, khởi lập tháp tượng, phạn thực sa-môn, huyền tăng nhiên đăng, tán hoa thiêu hương. Dĩ thử hồi hướng, nguyện sinh bỉ quốc. Kỳ nhân lâm chung, A Di Đà Phật hóa hiện kỳ thân, quang minh tướng hảo, cụ như chân Phật, dữ chư đại chúng tiền hậu vi nhiễu, hiện kỳ nhân tiền, nhiếp thọ đạo dẫn, tức tùy hóa Phật vãng sinh kỳ quốc, trụ Bất Thoái Chuyển, vô thượng Bồ Đề, công đức trí tuệ thứ như thượng bối giả dã.

VIỆT DỊCH: 

Bậc trung là (những người) tuy chẳng thể thực hành hạnh sa-môn, tu các công đức lớn lao, phải phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, nhất hướng chuyên niệm A Di Ðà Phật. Tùy sức mình tu hành các công đức thiện, gìn giữ trai giới, tạo dựng tháp tượng, dâng cơm sa-môn, treo phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương. Đem những việc ấy hồi hướng nguyện sinh cõi kia. Lúc người ấy lâm chung, A Di Ðà Phật hóa ra thân có đủ quang minh, tướng hảo như đức Phật thật, cùng các đại chúng vây quanh trước sau, hiện ra trước người ấy, nhiếp thọ, tiếp dẫn. (Người ấy) liền theo hóa Phật vãng sinh nước kia, trụ Bất Thoái Chuyển, Vô Thượng Bồ Ðề; công đức, trí tuệ gần bằng Thượng bối.

GIẢNG:  

Sách Lược Luận nói: “Vãng sinh bậc Trung có bảy nhân duyên: Một là phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề; hai là nhất hướng  chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ; ba là tu các thiện nghiệp dù nhiều hay ít, phụng trì trai giới; bốn là tạo dựng tháp tượng; năm là dâng cơm cho sa-môn; sáu là treo phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương; bảy là đem công đức ấy hồi hướng nguyện sinh sang cõi kia”.

Sách Hội Sớ cũng nói giống như thế.

Hòa Thượng Tịnh Không giảng: Hai phẩm: “Tam Bối vãng sinh” “Vãng sinh chính nhân” vô cùng quan trọng, chuyên nói về phương pháp và những điều kiện phải đầy đủ để được vãng sinh. Nếu chúng ta thuần thục, tường tận hai phẩm này, có thể thực hành được tương đối, sẽ nắm chắc được phần vãng sinh. Bảy nhân duyên của Trung Bối vãng sinh, chính là bảy điều kiện sau đây chúng ta cần học:

– “Nhất giả, phát Vô Thượng Bồ Đề tâm”: Đây là điều kiện tiên quyết để được vãng sinh;

– “Nhị giả, nhất hướng chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật”  (tức là Phật A Di Đà)

– “Tam giả, đa thiểu tu thiện, phụng trì trai giới”:

“Đa thiểu tu thiện” là hoặc nhiều hoặc ít, đừng quên phải tu thiện, xa rời tất cả những bất thiện. Tiêu chuẩn “thiện” hay “bất thiện” đều nói trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo.

Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương, quyển mười hai giảng chữ “trai giới” như sau: “Ðề phòng, ngăn cấm nên gọi là Giới (戒), khiết tịnh nên gọi là Trai (齋)”.

 Sách Tứ Phần Luật Âm Nghĩa giảng chữ Giới như sau: “Giới là tên gọi khác của Luật. Tiếng Phạn là Tam-bà-la, Hán dịch là Cấm. Giới có nghĩa là ngăn cấm”. “Trai” có nghĩa là chẳng ăn quá ngọ. Hiện nay, ấn định từ mười một giờ đến mười một giờ rưỡi sáng, ăn đúng giờ nầy gọi là không ăn quá ngọ.  Chánh ngọ là chánh thời, những giờ khác đều không ăn, đây gọi là “trì trai”.

Sách Nam Sơn Nghiệp Lưu bảo: “Trai nghĩa là tề chỉnh, cũng có nghĩa là trong sạch cái tâm mình”. Như vậy, “trì Trai” chính là trừ sạch những gì bất tịnh trong tâm.

Sách Hội Sớ bảo: “Trai giới chính là Bát Quan Trai Giới và những giới thuộc Tiểu Thừa hay Ðại Thừa. Giới là thầy của con người, đạo lẫn tục đều phải tuân thủ. Tâm làm nghiệp chủ, phàm lẫn thánh đều phải chế ngự tâm. Chánh pháp trụ hay diệt toàn là nhờ vào Giới. Giới sáng ngời như mặt trời, mặt trăng, tôn quý tợ bảo châu. Thà chịu khát mà chết, chẳng đành uống nước có trùng (nước chưa lọc sạch còn có trùng nhỏ, mắt không thấy được). Thà bị trói đến chết, chẳng nỡ làm thương tổn lá cỏ”.

Lời Sớ trên đây đã bàn đến tột cùng điểm trọng yếu của trai giới. Chánh pháp có tồn tại được trong đời hay chăng, đều cậy vào hành nhân có giữ giới được hay không! Vì vậy, thà mất cả thân mạng, chẳng trái nghịch giới mình đã thọ. Cư sĩ Bành Tế Thanh nói: “Phải biết rằng tư lương Tịnh Ðộ, toàn cậy vào công đức. Nền móng của công đức, không gì hơn nổi trì giới. Ðó là vì giới tịnh ắt tâm tịnh, tâm tịnh thì quốc độ tịnh”. 

*“Tứ giả, khởi lập tháp tượng”: “Tháp” nói đủ là Tốt-đổba (Stūpa), dịch là Miếu (廟), hoặc là Phương Phần (方墳: là ngôi mộ vuông), nơi an trí xá-lợi Phật.

Sách Hội Sớ bảo: “Dựng tháp có ba nghĩa: Một là để biểu dương bậc thù thắng hơn người, hai là khiến cho người khác sinh lòng tin, ba là báo ân. Kinh Pháp Hoa dạy: Chư Phật đã diệt độ, để cúng dường xá-lợi, nên dựng vạn ức ngôi tháp bằng vàng, bạc, pha lê… Hoặc dựng miếu bằng đá, bằng chiên-đàn, trầm thủy, mộc mật, và những vật liệu khác, như ngói, gạch, hoặc bùn đất…Hoặc ở nơi đồng trống, đắp đất thành miếu Phật, cho đến trẻ nít giỡn, vun cát thành tháp Phật, những người như thế đều đã thành Phật đạo”.

Chữ “tượng” chỉ tượng Phật. Theo Kinh Tăng Nhất A Hàm: Phật thăng lên trời Đao Lợi, vua Ưu Điền ( Udayana) nhớ Phật nên dùng gỗ ngưu đầu chiên đàn khắc thành tượng Phật cao năm thước. Đấy là tượng Phật đầu tiên được khắc trong thế gian này.

Kinh Pháp Hoa nói: “Nhược nhân vị Phật cố, kiến lập chư hình tượng, khắc điêu thành chúng tướng, giai dĩ thành Phật đạo”  (Nếu ai vì Phật, kiến lập các hình tượng Phật, khắc trổ thành các tướng, thì đều đã thành Phật đạo).

Kinh Tạo Tượng Công Đức nói:

“Nếu ai lúc lâm chung sai người tạo tượng ( Phật), thậm chí chỉ nhỏ bằng hạt lúa mạch, sẽ trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử trong cả ba đời”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: “Khởi lập tháp tượng” ngầm nói lên chánh pháp cửu trụ. In kinh, bố thí, cúng dường là tu phước. Xây tháp cúng Phật, dựng chùa an Tăng, để người xuất gia có nơi tu học, đây là đại phước báo. Hơn nữa, nếu có thể hộ trì người xuất gia một đời thành tựu thì phước báo này thật vô cùng to lớn. Thành tựu của họ cũng chính là thành tựu của bạn, vì sao không làm? Công đức dựng tháp tạo tượng có thể gieo duyên với rất nhiều người, khiến họ thấy được tượng Phật, trong A Lại Da thức họ liền trồng được một chút thiện căn. Đời này họ chưa thể thành tựu thì đời sau, kiếp sau gặp được duyên, chủng tử này cũng sẽ khởi hiện hành.

* “Ngũ giả, phạn thực sa-môn” là cúng dường Trai Tăng, dâng cơm và thức ăn cúng dường chư Tăng.

Kinh Lục Ba La Mật Ða nói: “Đem thức ăn để thí, chính là thường thí năm sự. Những gì là năm? 

– Một là thí mạng: Nếu người không ăn, khó lòng giữ mạng được, nên bố thí thức ăn là cứu mạng người khác.

– Hai là thí sắc: Nhờ được ăn uống nên nhan sắc tươi vui.

– Ba là thí lực: Nhờ thức ăn nên tăng trưởng khí lực.

– Bốn là thí sự an vui: Nhờ thức ăn nên thân tâm an lạc.

– Năm là thí biện: Người bị đói khát thì thân tâm họ yếu ớt, nói năng lắp bắp, không thể biện luận. Ðược ăn uống đầy đủ, thân tâm mạnh mẽ, bén nhạy, được đại biện tài, trí tuệ vô ngại”.

Sách Hội Sớ nói: “Cho dù các báu đầy ắp cả tứ thiên hạ, vẫn không bằng thỉnh một vị sa-môn thanh tịnh đến nhà cúng dường, được lợi còn gấp mấy lần”. Câu này ý nói: Cúng dường tài vật không bằng cúng dường Pháp. Cúng dường Pháp là tối thượng! Thật vậy! Cho dù bạn có của báu đầy ắp cả tứ thiên hạ (Tứ thiên hạ ở đây là một đơn vị thế giới), cũng không bằng thỉnh một vị sa-môn thanh tịnh đến nhà để cúng dường. Họ thọ dụng cúng dường của bạn tức là thọ dụng cúng dường tài vật. Sau đó, họ sẽ thuyết pháp, ban cho bạn những lời pháp vô cùng trân quý, đây là cúng dường pháp. Như vậy, trong A Lại Da thức của bạn đã được gieo trồng thiện căn. Lợi ích này, bảy báu trong tam thiên đại thiên thế giới cũng không sánh bằng.

* “Lục giả, huyền tăng, nhiên đăng, tán hoa, thiêu hương” (Thứ sáu, treo phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương): Chữ “huyền tăng” (tạm dịch là “treo phan”. Chữ “Tăng” (繒) là hàng tơ lụa, dùng tơ lụa tạo thành các lá phan nhiều màu treo trên điện Phật; nhà Phật gọi là tràng phan.

“Nhiên đăng” là thắp đèn, chữ “Nhiên” (燃) là thắp, đốt; chữ “đăng” (燈) chỉ chung các loại đèn đuốc. Thời xưa là thắp đèn dầu.

Đèn tượng trưng cho trí tuệ, cũng biểu trưng cho sự phụng hiến: Thiêu đốt thân mình để soi sáng người khác; nói rõ hơn là xả thân vì người. Cúng dường ở đây là cúng dường ánh sáng. Phước báo của cúng dường ánh sáng là khai phát trí tuệ.

Kinh Thí Ðăng Công Ðức dạy: “Phật bảo Xá Lợi Phất: ‘Hoặc có người để cúng dường tháp miếu, các hình tượng Phật, nên dâng cúng đèn sáng, thậm chí một ngọn đèn, một cây đuốc nhỏ, hoặc dùng dầu tô thắp lên để cúng thí. Dẫu đèn chỉ tỏa ánh sáng được một lối đi, một bậc thềm (của tháp miếu), thì nầy Xá Lợi Phất! Công đức như vậy hết thảy Thanh Văn, Duyên Giác chẳng thể biết nổi, chỉ có đức Phật Như Lai mới biết rõ thôi!”.

“Tán hoa” (散 華) là rải rắc hoa tươi để cúng dường. “Hoa” tượng trưng cho nhân. Thực vật trước nở hoa, sau mới kết trái. Đây là biểu pháp: Thiện nhân thiện quả, ác nhân ác quả. Rải hoa tươi để cúng Phật; việc này ở nước ngoài rất phổ biến. Họ ngắt tường cánh hoa rồi tung rải lên không trung, trải khắp mặt đất để cúng Phật. Người Trung Quốc không rải hoa mà cúng hoa tươi. Tất cả đều là biểu pháp.

Kinh Ðà Ra Ni Tập nói: “Nếu bốn bộ chúng dùng các thứ hoa rải lên Phật A Di Ðà, phát nguyện, tụng chú thì được mười thứ công đức. Những gì là mười? Một là tự phát thiện tâm, hai là khiến cho người khác phát sinh thiện tâm, ba là chư thiên hoan hỉ, bốn là thân mình đoan chánh, sáu căn đầy đủ chẳng bị tổn hoại; năm là chết đi sinh trong ao báu, sáu là đời đời kiếp kiếp thường sinh nơi trung quốc, trong nhà quý tộc, được gặp Phật nghe pháp, chẳng sinh nơi biên địa hoặc sinh trong dòng hèn kém; bảy là thành Chuyển Luân Vương làm vua bốn cõi thiên hạ; tám là đời đời kiếp kiếp thường làm thân nam; chín là được sinh về cõi Phật A Di Ðà, ngồi xếp bằng trên hoa sen bảy báu, thành bậc A Bệ Bạt Trí; mười là thành Vô Thượng Chánh Giác, ngồi trên tòa sư tử bảy báu, phóng quang minh lớn giống như Phật A Di Ðà không khác”.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích: Câu “đời đời kiếp kiếp thường sinh nơi trung quốc”, đây là nói người không cầu vãng sinh thì đời đời kiếp kiếp, nhờ công đức rải hoa lên Phật A Di Đà mà họ được sinh tại trung quốc. Trung quốc ở đây là chỉ cho quốc gia có Phật pháp; quốc gia không có Phật pháp gọi là biên địa. Câu “Chuyển Luân Vương làm vua của bốn cõi thiên hạ”: Vị Chuyển Luân nầy là Đại quốc vương không phải trên địa cầu. Vì sao vậy? Vì phước báo của Ngài siêu việt trái đất. Luân Vương có bốn loại: Kim Luân Vương cai quản tứ thiên hạ, là một đơn vị thế giới tức là hệ ngân hà. Ngân Luân Vương cai quản ba châu, tức là ba phần tư của hệ ngân hà. Đồng Luân Vương cai quản một nửa hệ ngân hà. Thiết Luân Vương cai quản một phần tư hệ ngân hà. Trong hệ ngân hà nầy, họ bay đi tự tại. Họ dùng luân bảo rất giống đĩa bay, là công cụ giao thông cũng là vũ khí của họ. Công cụ nầy bay trong hư không với tốc độ rất nhanh, hơn hẳn tốc độ của ánh sáng, tức là hơn 300.000 cây số trên một giây. Chúng sinh trong tất cả tinh hệ nầy đều là nhân dân của họ.

“Thiêu hương” (燒 香) là đốt hương, thắp hương để cúng dường; tượng trưng cho đức tin và Giới, Định, nên còn gọi là Tín hương, Giới, Định chân hương. Khi thắp hương phải nhớ đến trì giới, tu định. Thắp hương trước Phật là xin Phật chứng minh tấm lòng tha thiết của mình muốn trì giới, tu định.

Sách Hội Sớ nói: “Nếu có ai đốt hương thơm, bọn ma sẽ bỏ chạy sang chỗ khác; Phật, thần hoan hỉ thủ hộ, tu việc lành ắt được thành tựu. Như đại vương nước Na Càn Ha La hướng vọng về cõi đức Phật đản sinh mà đốt hương, làm lễ. Khói hương bay thẳng đến tinh xá của Phật như mây lưu ly trắng, nhiễu quanh Phật bảy vòng, hóa thành đài vàng. Trong kinh Quán Phật có kể rõ chuyện nầy”. Đoạn kinh văn trên là nói cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn. Đại vương nước Na Càn Ha La, với tâm chí thành cung kính, thắp hương cúng Phật. Phật, Bồ tát liền biết được, phàm phu chúng ta thì không hay biết.

Lại nữa, Ðại Nhật Kinh Sớ cũng ghi: “Thiêu hương (để biểu thị) ý nghĩa trọn khắp pháp giới, như lúc thụ vương (cây chúa, tức cây Ba Lợi Chất Đa La) trên cõi trời nở hoa, mùi thơm thuận chiều gió hay ngược chiều gió tự nhiên tỏa khắp. Bồ Ðề hương cũng vậy, mỗi một công đức được lửa trí tuệ thiêu, được gió giải thoát thổi, theo sức bi nguyện tự tại lan truyền, thơm khắp hết thảy. Vì vậy bảo là thiêu hương”.

Đoạn trên ý nói: Đạt đến tự tánh là được đại tự tại, nên lập tức biến khắp mười phương, xuất sinh vô tận. Theo cách nói hiện nay là có sức ảnh hưởng vô tận. Cho nên, thắp hương, đốt đèn cúng dường, công đức thật chẳng thể nghĩ bàn!

*Thất giả, dĩ thử hồi hướng, nguyện sinh bỉ quốc” (Thứ bảy, đem những việc ấy hồi hướng nguyện sinh cõi kia).

Ngài Từ Chiếu Tông Chủ nói: “Trì giới không có tín, nguyện, thì không được sinh Tịnh Ðộ, chỉ hưởng phước trời, người. Phước hết chịu luân hồi… Do sức phát nguyện trì giới, hồi hướng, nên sinh Lạc quốc. Cùng hành trì như thế thì ngàn người chẳng mất một (ngàn người không sót người nào mà không được vãng sinh)”.

Sách Hội Sớ bảo: “Hồi hướng nguyện sinh là khéo hồi hướng các điều thiện như trên ắt sẽ tạo thành cái nhân được vãng sinh. Nếu chẳng hồi hướng thì chẳng thành cái nhân vãng sinh”. Những câu trên đây cùng chỉ rõ hồi hướng phát nguyện là điều không thể thiếu được.

“Kỳ nhân lâm chung, A Di Đà Phật hóa hiện kỳ thân, quang minh tướng hảo, cụ như chân Phật” (Lúc người ấy lâm chung, A Di Ðà Phật hóa ra thân có đủ tướng hảo, quang minh như đức Phật thật): Sách Viên Trung Sao nói: “Chữ ‘chân Phật’ chỉ Ứng Thân của Phật Di Ðà. Hóa Thân từ Ứng Thân biến ra, Ngài lại biến hóa ra thân ấy để đến tiếp dẫn”.

Nên nhớ: Từ Pháp thân biến thành Ứng thân; từ Ứng thân biến thành Hóa thân. Bất luận biến hóa như thế nào cũng đều giống với Chân thân, nên nói “quang minh tướng hảo, cụ như chân Phật”.

Phần trước đã nói qua: Thượng Bối thấy chân Phật; Trung Bối thấy Ứng thân; Hạ Bối thấy Hóa thân.

“Tức tùy hóa Phật, vãng sinh kỳ quốc, trụ Bất Thoái Chuyển, Vô Thượng Bồ Đề, công đức trí tuệ thứ như Thượng Bối giả dã” (Liền theo hóa Phật vãng sinh nước kia, trụ Bất Thoái Chuyển, Vô Thượng Bồ Đề; công đức, trí tuệ gần bằng Thượng Bối): Người bậc Trung, lúc lâm chung được thấy Hóa Phật, cũng nhất định được vãng sinh, vì các thân của Phật chẳng một, chẳng khác, nên người ấy theo Hóa Phật vãng sinh An Lạc, trụ Bất Thoái Chuyển, “công đức trí tuệ thứ như Thượng Bối giả dã” (công đức trí tuệ gần bằng Thượng Bối).

Chúng ta thấy trong Quán Kinh, đối với ba phẩm vãng sinh bậc Trung, chẳng nói là đã phát Bồ Ðề tâm. Sau khi sinh Cực Lạc, sở chứng của họ đều là quả vị Thanh Văn Thừa. Như Trung Phẩm Thượng Sinh, khi hoa nở liền đắc quả A La Hán; Trung Phẩm Trung Sinh, bảy ngày hoa nở, đắc Tu Ðà Hoàn, sau nửa kiếp thành A La Hán; Trung Phẩm Hạ Sinh cũng sau bảy ngày, đắc Tu Ðà Hoàn, phải hết một tiểu kiếp mới thành A La Hán. Ðấy đều là thánh quả Tiểu thừa.

Thiện Ðạo Đại sư bảo: Trung Phẩm Thượng Sinh là hạng phàm phu thượng thiện, căn tánh Tiểu Thừa; Trung Phẩm Trung Sinh là hạng phàm phu Tiểu Thừa hạ thiện; Trung Phẩm Hạ Sinh là hạng phàm phu làm điều lành thế gian, có phước lớn.

Các kinh, luận vừa dẫn dường như mâu thuẫn với kinh này, vì trong kinh Vô Lượng Thọ nói: Những người thuộc bậc Trung đều là hành nhân Ðại Thừa, đã phát Bồ Ðề tâm, hễ sinh về đó đều được Bất Thoái Chuyển Vô Thượng Bồ Ðề.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Nhìn chung người tu Tịnh Độ, căn tánh không tương đồng, tập khí tu hành từ vô thỉ kiếp đến nay cũng không tương đồng, nên chiêu cảm quả báo đương nhiên cũng không giống nhau. Nhưng, ở đây chúng ta nên chú ý đến cảm ứng tu nhân của mỗi người. Nếu đạt được bổn nguyện, oai thần của Phật A Di Đà gia trì thì lại khác. Bởi, trong nguyện thứ hai mươi của Phật A Di Đà có nói: Phàm là người vãng sinh đến thế giới Tây phương Cực Lạc, đều làm A Duy Việt Trí Bồ tát; không nói ngoại trừ Trung tam phẩm hay Hạ phẩm ra.

Thế giới Cực Lạc tuy có tam Bối cửu phẩm, trên lý thì có, nhưng trên Sự thì không nhìn thấy. Trên Sự, thế giới Cực Lạc là thế giới bình đẳng, tất cả đều bình đẳng. Tức là nói: Người Thượng Thượng Phẩm và người Hạ Hạ Phẩm cũng đều theo học chung một lớp, ngày ngày gặp mặt. Đây là điều không thể có trong tất cả quốc độ của chư Phật, chỉ có ở thế giới Cực Lạc. thật là không thể nghĩ bàn!

Sách Vãng Sinh Luận nói: “Nhị Thừa chủng chẳng sinh”, nghĩa là hạng chủng tánh Nhị Thừa chẳng thể vãng sinh, thật khế hợp với kinh này, nhưng lại mâu thuẫn những kinh, luận nói trên. Trước những mâu thuẫn ấy, ngài Tịnh Ảnh đã giải thích như sau:

“Ngài Thiên Thân viết trong Vãng Sinh Kệ rằng chủng tánh Nhị Thừa đều chẳng được vãng sinh, Quán kinh lại bảo chúng sinh Nhị Thừa cũng được vãng sinh, nghĩa là làm sao?  

Xin giải thích: Nói Nhị Thừa chẳng được vãng sinh là nói trong cõi này, nói về lúc vãng sinh. Chúng sinh Tiểu Thừa là (người) trước đã từng quen tu tập (Tiểu Thừa), nhưng đến khi lâm chung phải phát tâm Ðại Thừa thì mới được vãng sinh. Nếu dùng tâm Tiểu thừa cầu sinh cõi ấy thì không khi nào được vãng sinh. Vì vậy, ngài Thiên Thân bảo chủng tánh Nhị Thừa chẳng được vãng sinh!

Hỏi: Nếu bảo là đã dùng tâm Ðại Thừa để vãng sinh thì tại sao sinh qua cõi kia lại chứng Tiểu quả?

Ðáp: Do người ấy vốn đã tu tập Tiểu Thừa lâu ngày. Vốn ở cõi này quen học cách quán sát Khổ, Vô Thường v.v. nên sinh qua cõi kia, nghe nói Khổ, Vô Thường v.v. liền ngộ giải bèn chứng Tiểu quả. Vốn do lúc lâm chung phát tâm Ðại Thừa cầu vãng sinh cõi kia, nên sau khi đã đắc quả La Hán trong cõi kia sẽ liền cầu Ðại Thừa (hồi Tiểu hướng Ðại)”. 

KINH VĂN:

Kỳ hạ bối giả, giả sử bất năng tác chư công đức, đương phát

Vô Thượng Bồ Đề chi tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, hoan hỉ tín nhạo, bất sinh nghi hoặc. Dĩ chí thành tâm, nguyện sinh kỳ quốc. Thử nhân lâm chung, mộng kiến bỉ Phật, diệc đắc vãng sinh, công đức trí tuệ thứ như trung bối giả dã. 

VIỆT DỊCH: 

Bậc Hạ là (những người) giả sử chẳng thể làm các công đức thì nên phát tâm Bồ Ðề, một dạ chuyên niệm A Di Ðà Phật, hoan hỷ tin ưa, chẳng sinh ngờ vực, dùng tâm chí thành nguyện sinh cõi kia. Người ấy lâm chung mộng thấy đức Phật đó, cũng được vãng sinh, công đức trí tuệ kém hơn bậc trung.

GIẢNG:

Nên biết, nếu điều kiện vãng sinh Thượng Bối hoặc Trung Bối, chúng ta không thể đầy đủ thì Hạ Bối chắc chắn chúng ta phải làm được. Hạ Bối có ba nhân duyên, đơn giản hơn: Thứ nhất là phát Bồ Đề tâm, thứ hai là nhất hướng chuyên niệm, thứ ba là chí thành phát nguyện vãng sinh.

Kỳ hạ bối giả, giả sử bất năng tác chư công đức” ( bậc hạ là những người, giả sử không thể làm các công đức). “Công đức” là gì? “Công” là có công phu tu hành, tự nhiên sẽ có “đức”. Ví như trì giới có “công”, nhờ trì giới mà được Định tức là được tam-muội, cũng chính là “đức”. Nếu tu Định có “công”, sẽ khai trí tuệ chính là “đức”. Ngày nay chúng ta tu gì? – Chỉ là tu phước đức. Công đức có thể giúp chúng ta liễu sinh tử, thoát tam giới; phước đức thì không thể! Có chăng chỉ là cảm thọ phước báo trong năm cõi mà thôi (Trong sáu cõi, trừ địa ngục ra, năm cõi còn lại đều có hưởng phước).

“Đương phát Vô Thượng Bồ Đề chi tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật” (Nên phát tâm Bồ Đề, một dạ chuyên niệm Phật A Di Đà). Tịnh Ảnh Sớ viết: “Trong ba bậc này, địa vị tuy sai khác, nhưng muốn được vãng sinh đều phải phát tâm cầu Đại Bồ Đề, chuyên niệm Đức Phật ấy, hồi hướng phát nguyện thì mới được vãng sinh”.

“Hoan hỉ tín nhạo, bất sinh nghi hoặc” (Hoan hỉ tin ưa, chẳng sinh ngờ vực): Đây chính là “chí tâm tín nhạo” (chí tâm tin ưa) đã nói trong đại nguyện “mười niệm tất sinh”.

“Dĩ chí thành tâm, nguyện sinh kỳ quốc(Dùng tâm chí thành, nguyện sinh cõi kia) chính là “thâm tín, phát nguyện”, cũng chính là Bồ Đề tâm.

Thử nhân lâm chung, mộng kiến bỉ Phật” (Người này lâm chung, mộng thấy đức Phật ấy): Đây là điềm lành trước khi vãng sinh. Theo chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ, câu này có hai cách giải thích:

1. – Ngài Vọng Tây cho rằng trước hết là mộng thấy, đến lúc lâm chung thấy Phật đến tiếp dẫn là mắt thấy. Ngài viết: “Do vì ba bậc đều có mộng thấy, mắt thấy. Giác Kinh nói về bậc Thượng như sau: ‘Trong lúc ngủ nghỉ, mộng thấy Vô Lượng Thanh Tịnh Phật và các Bồ Tát, A La Hán. Người ấy lúc mạng sắp hết thì đích thân Vô Lượng Thanh Tịnh Phật và các Bồ Tát, A La Hán bay đến đón tiếp’”. Chữ “Giác Kinh” ở đây chính là “Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh”, Hán dịch là kinh Vô Lượng Thọ.

“Bậc Trung cũng mộng thấy đức Phật. (Ðó là) điềm báo trước được vãng sinh, lúc lâm chung (đức Phật sẽ) đến đón. Do bổn nguyện lợi ích thù thắng nên phải có đủ hết. Nếu Phật chẳng đến đón, hóa ra là bổn nguyện dối bày. Còn trong kinh văn chẳng nói đến đón là chỉ để phân biệt sự sai khác giữa ba bậc, nghĩa là: Bậc Thượng là Báo Phật (đến đón), bậc Trung là Hóa Phật, bậc Hạ là mộng Phật. Thật ra, sau khi mộng thấy Phật, ắt thấy Phật đến đón. Do đó, Quán Kinh nói ‘hóa Phật đến đón’. Ác nhân còn được như thế, huống là thiện nhân?”

2. -Hội Sớ bảo đích thật là có Phật đến đón, nhưng phảng phất như trong giấc mộng. Sách viết: “Mộng thấy đức Phật ấy: Quán Kinh nói người ở ba phẩm Hạ, trong khoảnh khắc lâm chung, lửa địa ngục hiện đến, tuy Phật có đến đón, nhưng thấy lờ mờ không rõ, tựa hồ như trong giấc mộng. Nếu chẳng phải vậy thì làm sao thần thức an nhàn vãng sinh nổi?”

Hai cách giải thích trên tuy hơi khác nhau, nhưng cùng chung một quan điểm: Người bậc Hạ vãng sinh cũng có Phật đến tiếp dẫn.

Người trong ba phẩm Hạ của Quán Kinh đều là kẻ ác. Thiện Ðạo đại sư bảo Hạ Phẩm Thượng Sinh là kẻ phàm phu tạo tội Thập

Ác nhẹ, Hạ Phẩm Trung Sinh là kẻ phá giới phạm tội bậc thứ, Hạ Phẩm Hạ Sinh là kẻ phàm phu trọng tội tạo đủ Ngũ Nghịch, Thập Ác v.v. Tóm lại, người thuộc Hạ Phẩm trong Quán Kinh đều là ác nhân, chẳng giống với người bậc Hạ nói trong kinh nầy. Vì sao vậy?

Ngài Vọng Tây giải thích: “Là vì trong bậc Hạ có nhiều loại. Quán Kinh nói về kẻ ác, kinh nầy bàn về người thiện”.

Hơn nữa, người vãng sinh thuộc Hạ phẩm của Quán Kinh, lúc sinh tiền tuy là người ác, nhưng sau khi hoa nở, lại đều là người Ðại Thừa. Hạ Phẩm Thượng Sinh sau bốn mươi chín ngày hoa sen mới nở, qua mười tiểu kiếp mới nhập Sơ Ðịa. Hạ Phẩm Trung Sinh phải sau sáu tiểu kiếp hoa sen mới nở, nghe kinh Ðại Thừa liền phát tâm Vô Thượng Ðạo. Hạ Phẩm Hạ Sinh phải mười hai đại kiếp hoa sen mới nở, nghe pháp hoan hỉ, lập tức phát tâm Bồ Ðề.

Ngài Gia Tường viết trong Quán Kinh Nghĩa Sớ như sau: “Do Thượng Phẩm tu nhân Ðại Thừa nên đắc quả Ðại Thừa. Trung Phẩm do tu nhân Tiểu Thừa nên đắc quả Tiểu Thừa. Hạ Phẩm tuy trong hiện tại chẳng tu điều thiện Ðại Thừa lẫn điều thiện Tiểu Thừa, nhưng lúc lâm chung gặp thiện tri thức giảng cho diệu pháp Ðại Thừa. Do nghe pháp Ðại Thừa nên đắc quả Ðại Thừa”. 

“Diệc đắc vãng sinh” (cũng được vãng sinh): Kinh A Di Ðà bảo những thiện nam tử, thiện nữ nhân chấp trì danh hiệu, được sinh về Tịnh Ðộ thì “kỳ nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền” (người ấy lúc lâm chung, A Di Ðà Phật cùng các thánh chúng hiện ở trước mặt) rất phù hợp với thuyết ba bậc vãng sinh đều được thấy Phật của kinh này.

Kinh Xưng Dương Chư Phật Công Ðức nói: “Nếu có kẻ được nghe danh hiệu của Vô Lượng Thọ Như Lai… lúc lâm chung nhất tâm tin ưa, chẳng quên bỏ niệm, thì A Di Ðà Phật dẫn chúng tăng đứng trước người ấy, ma trọn chẳng thể phá hoại nổi tâm Đẳng Chánh Giác của người đó”.

Câu nầy cũng chứng minh lúc lâm chung có Phật đến tiếp dẫn. Chúng ta làm thế nào để đối trị được ma cảnh đến quấy nhiễu? Ma cảnh có hữu tình, có vô tình, xưa nay chưa từng rời xa chúng ta. Trên thực tế, ma và Phật là một không phải hai. Trong giáo lý Đại thừa  thường nói: Một niệm Giác là Phật cảnh, một niệm mê là ma cảnh. Muốn duy trì Giác tánh tức là Phật tánh, phương pháp tốt nhất chính là niệm Phật, đọc kinh, nghe giảng, nghiên tầm giáo nghĩa Phật dạy. Tiếp cận với chư Phật càng nhiều, nhất là trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, toàn là tà tri tà kiến, đi ngược với nhân tính đạo đức con người! Cho nên, kinh không thể mỗi ngày không đọc, không thể mỗi ngày không nghe. Dùng phương pháp này để tiêu trừ tập khí phiền não là hiệu quả tốt nhất.

Kinh Cổ Âm Vương bảo: “Nhược hữu tứ chúng, năng chánh thọ trì, bỉ Phật danh hiệu, lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư đại chúng, trụ thử nhân sở, linh kỳ đắc kiến” (Nếu có tứ chúng có thể thọ trì danh hiệu đức Phật ấy một cách chân chánh, thì lúc lâm chung, A Di Ðà Phật cùng các đại chúng đến chỗ người ấy, khiến cho họ được thấy).

“Tứ chúng” là bốn chúng: Tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu bà tắc (cư sĩ nam) và ưu bà di (cư sĩ nữ).

Đoạn kinh trên đây cũng minh chứng người niệm Phật vãng sinh, phút lâm chung nhất định được Phật A Di Đà đến tiếp dẫn.

Thế nhưng Như Lai vốn chẳng đến đi, sao lại bảo Phật hiện trước mặt? Ba vị đại sư Liên Trì, U Khê, Ngẫu Ích đã giảng điều này rất sâu xa, rất tinh diệu, khế hợp bổn hoài đức Phật như sau:

*Trong quyển Sớ Sao, ngài Liên Trì bảo:

“Cổ đức bảo Phật chẳng đến đi thì làm sao lại có chuyện Phật hiện ở trước mặt?

Ðáp: Cảm ứng đạo giao chẳng trở ngại chuyện đến hay đi! Chẳng thấy mà lại thấy nên ngài Vĩnh Minh bảo: ‘Biết huyễn chẳng phải là thật thì tâm lẫn Phật đều mất. Chẳng phải là vô huyễn tướng nên chẳng hoại tâm và Phật’. Ngài lại bảo: ‘Pháp Thân chân Phật vốn chẳng sinh diệt, từ chân thật mà hóa hiện ra như vậy để tiếp dẫn căn cơ còn mê’.

Ðây chính là bổn nguyện công đức của Như Lai khiến cho chúng sinh hữu duyên chuyên tâm tưởng niệm, ngay trong tự tâm thấy được Phật đến đón, chẳng phải là chư Phật thật sự sai hóa thân đến đón tiếp. Thân Phật trạm nhiên thường tịch mà chúng sinh thấy có đến, đi như ảnh hiện trong gương, chẳng phải ở trong, chẳng phải là bên ngoài, như chuyện trong mộng chẳng có, chẳng không.

Lại như kinh dạy: ‘Ưng dĩ Phật thân đắc độ giả, tức hiện Phật thân nhi vị thuyết pháp” (Cần phải do Phật thân mới được độ thì Ngài liền hiện thân Phật để thuyết pháp)’ cũng chính là ý này. Vì vậy, nước trong thì trăng tự hiện, tâm tịnh thì Phật tự hiện, nên mới bảo cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn”.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích như sau: Câu “cảm ứng đạo giao chẳng trở ngại chuyện đến hay đi! Chẳng thấy mà lại thấy”. Thử hỏi: Lúc cảm ứng, Phật A Di Đà có thật sự là đến chăng? – Phàm phu chúng ta thấy là thật đến; nhưng thực tế “không đến mà đến”. Vì sao? – Vì “đương xứ xuất sinh, tùy xứ diệt tận” như kinh Lăng

Nghiêm nói. Trong tự tánh tâm thanh tịnh hoàn toàn không có không gian, không có khoảng cách thì làm gì có đến, có đi! Nên nói “không đến mà đến”, “không thấy mà thấy”.

Vĩnh Minh Đại sư nói: ‘Biết huyễn chẳng phải là thật thì tâm lẫn Phật đều mất”, ý nói: Biết hiện tướng là huyễn, “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” thì đâu còn chấp trước, khởi tâm động niệm, tâm và Phật đều quên, đây là chân tâm.

“Bất vô huyễn tướng” (chẳng phải là vô huyễn tướng). Thử hỏi: Lúc Phật hiện tướng, tướng đó là có hay không? – Có! Trong tâm có hiện, có diệt. Trong giáo lý Đại thừa  đức Phật dạy: Khi thấy Phật hiện tướng, chúng ta không nên chấp trước rồi nảy sinh phân biệt, yêu thích, ngạo mạn v.v. Đấy là tâm động rồi! Sẽ nghĩ rằng: Công phu ta khá lắm mới nhìn thấy Phật, còn người khác không thấy được! Đây là đã bị cảnh giới xoay chuyển!

Cũng thế, trong cuộc sống hàng ngày, tất cả mọi sự vật, hiện tượng mà chúng ta tiếp xúc cũng là như huyễn. Chúng ta phải dùng tâm bình thường, tâm thanh tịnh mà tiếp nhận. Vậy là chúng ta đã sống được đời sống của chư Phật, Bồ tát.

Lại nói: “Pháp thân Chân Phật, bổn vô sinh diệt, từ chân khởi hóa, tiếp dẫn mê căn” (Pháp thân Chân Phật vốn chẳng sinh diệt, từ Chân Phật mà hóa hiện ra Hóa Phật, tiếp dẫn mê căn (tức là phàm phu). Nói rõ hơn, mười phương thế giới, sáu nẻo chúng sinh, bất luận là hiện tiền hay lúc vãng sinh, đức Phật mà chúng ta thấy đều là Hoá Phật. Hoá Phật và Chân Phật không có sai khác.

“Thân Phật trạm nhiên thường tịch mà chúng sinh thấy có đến, đi như ảnh hiện trong gương, chẳng phải ở trong, chẳng phải là bên ngoài, như chuyện trong mộng chẳng có, chẳng không”. Lời này Vĩnh Minh Đại sư nói rất hay! Sự việc nầy giống như Đại Thế Chí Bồ tát nói: “Nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền tương lai nhất định thấy Phật”.  Phật mà chúng ta được nhìn thấy “là bổn nguyện công đức của Như Lai, khiến cho chúng sinh hữu duyên chuyên tâm tưởng niệm” mà sinh khởi tín tâm “thấy được Phật đến đón”.

“Thân Phật trạm nhiên thường tịch” không có đến đi, “như ảnh hiện trong gương” không rời cảnh vật, “chẳng phải ở trong, chẳng phải là bên ngoài, như chuyện trong mộng chẳng có, chẳng không”.

“Lại như kinh dạy: ‘Ưng dĩ Phật thân đắc độ giả, tức hiện Phật thân nhi vị thuyết pháp”: Đây là trong kinh Pháp Hoa, phẩm Quán Thế Âm Bồ tát Phổ Môn, nói về ba mươi hai Ứng Thân của Bồ tát Quán Thế Âm. Đáng dùng thân gì để độ, Ngài liền hiện thân đó. Nên nhớ: Phật và Pháp Thân Bồ tát “Cần ứng thân gì” là do ứng tâm chúng sinh chớ không phải là tâm các Ngài; đức Phật và Bồ tát không có khởi tâm động niệm. Thị hiện của các Ngài hoàn toàn là “tùy chúng sinh tâm, ứng sở tri lượng”, tùy tâm chúng sinh nghĩ thế nào, các Ngài liền hiện như thế ấy. “Vì vậy, nước trong thì trăng tự hiện, tâm tịnh thì Phật tự hiện, nên mới bảo cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn”. Trong cảnh giới nầy không có tư tưởng, không có nói năng. Thuần chân không vọng tưởng thì vạn đức, vạn năng.

* Trong tác phẩm Viên Trung Sao, đại sư U Khê viết:

“Phàm là thấy Phật thì phải bàn đến cảm ứng. Nếu bình thời tu tham Thiền hoặc tu Không Quán, đã chú trọng quét sạch tất cả, ngay cả Phật còn chẳng có; nếu bỗng thấy Phật thì ắt là cảnh ma hoặc do công dụng hiển hiện khiến cho đức Phật trong tâm tự hiện, nhưng cũng phải quán Không, chớ chấp vào tướng.

Còn nay đã niệm Phật cầu sinh Cực Lạc, lâm chung thấy Phật thì đó là do cái nhân này cảm ứng một cách nhiệm mầu. Lại do chúng sinh và Phật vốn cùng một Thể, cảm ứng đạo giao, pháp vốn là như vậy. Nếu chẳng hiểu rõ điều này lại vọng luận, tà đàm thì chẳng những tự chướng mà còn làm chướng người, sinh tội lỗi lớn đối với pháp môn này!”

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích: Nếu người thường tham Thiền hay tu quán Không, đã phá triệt mọi vọng tưởng, giữ tâm thanh tịnh, rỗng rang, ngay Phật cũng không lập; “nếu bỗng thấy Phật thì ắt là cảnh ma” vì không tương ưng với pháp mà họ tu. Đây là điều thường thức chúng ta cần phải biết.

– Vì sao đức Phật ít khi nào hiện tướng?

– Vì Phật từ bi nên không hiện tướng, nếu Phật thường hiện tướng, chúng ta nhất định sẽ không thể vãng sinh?!

– Vì sao vậy?

– Vì tâm ta sẽ chấp tướng, sẽ sinh tâm yêu thích, kính ngưỡng, hoặc kiêu mạn: Cho rằng công phu ta đắc lực mới thấy được Phật, sẽ dễ lạc vào đường ma, nên nói dù thấy Phật “cũng phải quán Không, chớ chấp vào tướng”. Điều này rất quan trọng! Vì vậy, lúc cần Phật mới hiện; lúc không cần Phật không hiện. Cho dù hiện hay không hiện, cũng đều xuất phát từ tâm đại từ đại bi của Phật.

Quan trọng nhất là lúc lâm chung, đây là thời khắc then chốt đối với người tu Tịnh Độ, nhất định đức Phật sẽ hiện tướng: Một lần trước lúc lâm chung, hiện cho ta thấy để củng cố niềm tin; lần thứ hai là lúc lâm chung Phật đến tiếp dẫn. Tướng trước và tướng sau hoàn toàn tương đồng. Chỗ này, Đại sư nói rất hay: Đối với “người đã niệm Phật cầu sinh Cực Lạc, lâm chung thấy Phật”, đấy là lẽ tất nhiên, do nhân niệm Phật mà được “cảm ứng một cách nhiệm mầu”. Lại nữa, “do chúng sinh và Phật vốn cùng một thể, cảm ứng đạo giao, pháp vốn là như vậy”, đây là chân tướng sự thật.

* Trong sách Yếu Giải, tổ Ngẫu Ích viết:

“Mười vạn ức cõi chẳng ra ngoài tánh của một niệm tâm hiện tiền của ta, vì tâm tánh vốn không từ bên ngoài. Lại nương nhờ vào sức tiếp dẫn của đức Phật ngay trong tự tâm nên khó gì mà chẳng được sinh ngay. Như tấm gương chiếu mấy mươi tầng núi, sông, lầu gác, tầng nào lớp nấy rành rành, thật chẳng có xa gần. Cứ một phen soi đến là đều hiện rõ cả, chẳng có trước, sau!

Câu ‘tùng thị Tây Phương quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực Lạc’ (từ đây  qua đến Tây phương hơn mười vạn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc) cũng có ý nghĩa giống như thế. 

Câu ‘kỳ độ hữu Phật hiệu A Di Đà, kim hiện tại thuyết pháp” (cõi ấy có Phật hiệu là A Di Ðà, nay hiện còn thuyết pháp) cũng có cùng ý nghĩa như thế. 

Câu ‘kỳ nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền, thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sinh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ” (người ấy lúc lâm chung, Phật A Di Ðà và các thánh chúng hiện ra trước mặt, người ấy lúc chết, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh cõi nước Phật A Di Ðà) cũng có cùng ý nghĩa như thế. Cần biết rằng, mỗi chữ đều là lời văn thiêng liêng về Hải Ấn tam-muội, Ðại Viên Kính Trí”. 

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích:

“Mười vạn ức Phật độ” chính là mười vạn ức đại thiên thế giới, khoảng cách giữa thế giới Sa Bà và thế giới Tây phương Cực Lạc của Phật A Di Đà, cự ly nầy quá xa! Nhưng từ phương diện tự tánh mà nói thì không xa, chẳng ra ngoài một niệm hiện tiền của tâm tánh chúng ta (bất xuất ngã hiện tiền nhất niệm tâm tánh chi ngoại). Một niệm đó chính là một niệm mà Bồ tát Di Lặc đã nói trước đây: “Trong một khảy móng tay có ba mươi hai ức một trăm ngàn niệm”. Niệm này quá nhanh như Hoàn Nguyên Quán nói “xuất sinh vô tận, chu biến pháp giới”. Một niệm nhỏ như vậy, ngắn ngủi như vậy, trong đó có cảnh giới vô cùng, vô lượng vô biên đại thiên thế giới cõi nước chư Phật.

Phía trước, chúng ta đã đọc qua, Bồ tát Phổ Hiền có thể nhập vào thế giới vi trần, mà thế giới vi trần này không phóng to, thế giới bên ngoài cũng không thu hẹp lại. Đây là nói rõ công đức của tự tánh không có tương đối, không có lớn nhỏ, không có trong ngoài (tức là không có không gian), không có trước sau (tức không có thời gian), chỉ ngay hiện tại. Nên nói ‘tâm tánh vốn không từ bên ngoài” (dĩ tâm tánh bổn vô ngoại cố). “Lại nương nhờ vào sức tiếp dẫn của đức Phật ngay trong tự tâm”. Vì sao vậy? –  Vì bản thân và Phật là một, chẳng phải hai! Như thiền sư Trung Phong nói: “tự tâm chính là Phật A Di Đà. Phật A Di Đà chính là tự tâm”.

Đã là Phật tự tâm tiếp dẫn, có lý gì lại không sinh, nên nói: “Khó gì mà chẳng được sinh ngay”. Vạn người tu, vạn người vãng sinh, một người cũng không sót lọt. Đây là sự thật! Một câu danh hiệu, nếu thật sự niệm, thật sự tin, tất cả mọi vọng niệm chấp trước nơi này, cõi kia đều không còn thì an nhiên tự tại, mới khế nhập được thật tướng: Phật A Di Đà không phải là người ngoài; thế giới Cực Lạc không phải là nhà của người khác mà là nhà của chính ta. Phải khẳng định như vậy!

“Như tấm gương chiếu mấy mươi tầng núi, sông, lầu gác, tầng nào lớp nấy rành rành, thật chẳng có xa gần. Cứ một phen soi đến là đều hiện rõ cả, chẳng có trước sau!”: Trên thực tế, toàn bộ vũ trụ phát sinh cũng là hiện tượng như vậy, cũng không có trước sau. Trong một niệm đồng thời phát sinh. Thật sự nhìn thấu sẽ hiểu được khắp pháp giới, hư không giới với ta là một thể, quan hệ rất mật thiết. Chúng ta khởi một niệm, bất luận là niệm thiện hay niệm ác, đều ảnh hướng đến biến pháp giới, hư không giới. Niệm lực càng kiên cố thì sức ảnh hưởng càng lớn. Đây là chân tướng sự thật. Thế giới Cực Lạc là do tịnh nghiệp biến hiện. Nguyện lực của Phật A Di Đà và nguyện lực của bản thân ta, tập hợp thành nguyện lực của thế giới Tây phương Cực Lạc.

“Tùng thị Tây phương quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực Lạc” (Từ đây qua Tây phương, khỏi mười vạn ức cõi, có thế giới tên là Cực Lạc), cũng là đạo lý như vậy, như cái gương soi chiếu cảnh bên ngoài, tầng thứ như thật, không có gần xa.

“Kỳ độ hữu Phật hiệu A Di Đà, kim hiện tại thuyết pháp” (Cõi ấy có Phật hiệu là A Di Đà nay hiện đang thuyết pháp), cũng cùng ý nghĩa như vậy. Tự tánh Di Đà đang thuyết pháp, chúng ta dùng tâm tự tánh tương ưng để nghe, liền hiểu được. Nếu dùng tâm vọng niệm, phiền não để nghe thì sẽ không hiểu.

“Kỳ nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền, thị nhân chung thời tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sinh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ” (Người ấy lúc lâm chung, A Di Đà Phật và các thánh chúng hiện ra trước mặt. Người ấy lúc chết, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh cõi nước Phật A Di Đà): Câu “hiện tại kỳ tiền” (hiện ra trước mặt), thuộc về hiện tiền thấy Phật. Lúc lâm chung, quan trọng nhất là tâm không điên đảo, tâm trí sáng suốt liền được vãng sinh.

Câu “cần biết rằng mỗi chữ đều là Hải Ấn tam-muội, Đại Viên Kính Trí”: Đây là Ngẫu Ích Đại sư tán thán đối với kinh A Di Đà. Bộ kinh nầy, chữ chữ đều là Hải Ấn tam-muội, vì tự tánh giống như biển lớn, tất cả những cảnh quan đều là ảnh hiện trong biển; giống như “Đại Viên Kính Trí”, kính lớn chiếu soi rõ ràng. “Tammuội” là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh chính là đại hải, sẽ sinh ra trí tuệ, thông suốt tất cả pháp thế và xuất thế gian. Trong “Đại Viên Kính Trí” xuất ra linh văn, chính là kinh A Di Đà.

Tóm lại, cả ba lời luận bàn trên đây cùng một quan điểm với các tổ Thiền lẫn Tịnh, chính là từ trong Ðại Quang Minh tạng tự nhiên biến hiện. “Ðại Quang Minh tạng” chính là Thường Tịch Quang, là tự tánh. Do Tự và Tha chẳng hai, nên Tự lẫn Tha đều hệt như nhau. Do Tự, Tha chẳng hai, nên vị Phật đến đón chính là  Phật trong tâm ta. Lại do Tự, Tha là một nên “Phật thật sự chẳng đến, người cũng chẳng đi ấy”, lúc lâm chung lại rành rành hiển hiện việc có Phật đến đón vãng sinh Cực Lạc. Hiện tượng nầy chúng ta có thể lĩnh hội được, như khi chúng ta mở màn hình ti vi, hiện tướng liền xuất hiện; chúng ta tắt truyền hình, ảnh tượng liền biến mất. Thử hỏi: Những sắc tướng trên truyền hình đó có đến hay đi chăng? – Không có! Sắc tướng đó chỉ là vọng; màn hình mới là chân. Chân và vọng không hai! Sự, Lý viên dung tự tại vô ngại, chỉ tin được nổi là đã đạt lợi ích vô lượng. Chân tướng sự thật nầy, nếu không biết được mà tùy tiện bàn luận, đó chỉ là hư vọng phân biệt!

Ngoài ba loại vãng sinh trên đây, đoạn kinh tiếp theo đây sẽ nói đến loại “nhất niệm tịnh tâm, thập niệm, nhất niệm vãng sinh”. Loại nầy còn được gọi là “nhất tâm tam bối”

Khái niệm “nhất tâm tam bối” do lão pháp sư Từ Châu, một đại đức bên Luật Tông ở chùa Tịnh Liên, Bắc Kinh, đề xướng trong tác phẩm “Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác Kinh Khoa Phán”. Pháp sư chính là một trong ba vị cao tăng hiện đại của miền Hoa Bắc. Ngài từng chuyên giảng kinh nầy ở Tế Nam và Bắc Kinh, cũng từng soạn khoa phán cho kinh này (tác phẩm khoa phán đó được ấn hành năm Kỷ Mão – 1939).

Pháp sư phán định “nhất tâm tam bối” của Ngài và của cụ Hạ Liên Cư hội tập kinh này có cùng một tâm nhãn, cùng một đường lối, nêu tỏ được những điều tinh vi, kín đáo mà người đời trước chưa từng nói ra, cũng hiển lộ chân lý mầu nhiệm của Tịnh tông đã bị ẩn kín bấy lâu nay. Ý chỉ Thiền Tịnh bất nhị cũng nhờ phán định của Ngài mà càng thêm sáng tỏ.

Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác Kinh Khoa Phán”, là tác phẩm dựa vào bộ kinh Vô Lượng Thọ do cụ Hạ Liên Cư hội tập lần đầu tiên, sau ba năm mới hoàn tất. Bộ nầy có ba mươi bảy phẩm. Sau đó, cụ dùng thời gian là bảy năm, mỗi năm đều chỉnh sửa, trở thành một định bản hội tập mà chúng ta đang dùng hiện nay. Định bản nầy gồm có bốn mươi tám phẩm. Đây là đại sự lớn nhất của Liên lão một đời trụ trong thế gian, một cống hiến vĩ đại nhất trong thời kỳ mạt pháp chín ngàn năm còn lại của đức Thế Tôn.

KINH VĂN: 

Nhược hữu chúng sinh trụ Đại Thừa giả, dĩ thanh tịnh tâm, hướng Vô Lượng Thọ, nãi chí thập niệm, nguyện sinh kỳ quốc, văn thậm thâm pháp, tức sinh tín giải, nãi chí hoạch đắc nhất niệm tịnh tâm, phát nhất niệm tâm niệm ư bỉ Phật. Thử nhân lâm mạng chung thời, như tại mộng trung, kiến A Di Đà Phật, định sinh bỉ quốc, đắc Bất Thoái Chuyển Vô Thượng Bồ Đề.

VIỆT DỊCH: 

Nếu có chúng sinh trụ trong Ðại Thừa, dùng tâm thanh tịnh, hướng về Vô Lượng Thọ Phật, dẫu chỉ mười niệm, nguyện sinh cõi kia, nghe pháp thậm thâm, liền sinh tin hiểu; thậm chí đạt được một niệm tịnh tâm, phát nhất niệm tâm niệm đức Phật kia, thì người ấy lúc mạng sắp dứt, giống như ở trong mộng, thấy A Di Ðà Phật, quyết định sinh trong cõi ấy, được chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Ðề. 

GIẢNG:

Đoạn kinh trên hoàn toàn trích từ bản Ðường dịch. Cả hai bản Ngụy dịch và Ðường dịch, dường như xuất phát từ cùng một Phạn bản, nhưng lời kinh trong bản Ðường dịch mạch lạc phân minh hơn, lời văn phong phú, ý nghĩa sâu sắc vượt xa bản Ngụy dịch.

Trong phần nói về bậc Thượng vãng sinh, bản Ngụy dịch chép: “Chư hữu chúng sinh văn kỳ danh hiệu, tín tâm hoan hỉ, nãi chí nhất niệm chí tâm hồi hướng, nguyện sinh kỳ quốc, tức đắc vãng sinh” (Có các chúng sinh nghe danh hiệu Ngài, lòng tin hoan hỉ, thậm chí một niệm chí tâm hồi hướng nguyện sinh cõi ấy, liền được vãng sinh). Kế đó, trong phần nói về bậc Hạ vãng sinh lại bảo:

“Kỳ hữu chí tâm, dục sinh bỉ quốc, giả sử bất năng tác chư công đức, đương phát vô thượng Bồ Đề chi tâm, nhất hướng chuyên niệm, nãi chí thập niệm, niệm Vô Lượng Thọ Phật, nguyện sinh kỳ quốc. Nhược văn thâm pháp, hoan hỉ tín nhạo, bất sinh nghi hoặc, nãi chí nhất niệm, niệm ư bỉ Phật, dĩ chí thành tâm nguyện sinh kỳ quốc. Thử nhân lâm chung, mộng kiến bỉ Phật, diệc đắc vãng sinh, công đức trí tuệ thứ ư trung bối giả dã” (Có kẻ chí tâm muốn sinh cõi ấy, nhưng giả sử chẳng thể làm các công đức, phải nên phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, nhất hướng chuyên niệm, dẫu chỉ mười niệm, niệm Vô Lượng Thọ Phật, nguyện sinh cõi Ngài. Nếu nghe pháp sâu mà hoan hỉ, tin ưa, chẳng sinh ngờ vực, thậm chí trong một niệm, niệm đức Phật ấy, dùng tâm chí thành, nguyện sinh về cõi Ngài, người ấy lúc lâm chung, mộng thấy đức Phật đó, cũng được vãng sinh. Công đức, trí tuệ kém hơn bậc trung).

Dựa theo bản Ngụy dịch, đại sư Hải Ðông Nguyên Hiểu đời

Ðường, đã viết trong tác phẩm Vô Lượng Thọ Kinh Tông Yếu như sau:

“Trong bậc Hạ, (kinh) nói đến hai hạng người. Trong hai hạng người đó, (với mỗi hạng) đều có ba câu. Ba câu của hạng đầu là:

1. – Một là giả sử chẳng thể làm các công đức, phải phát Vô Thượng Bồ Ðề tâm, đấy là chánh nhân.

2. – Hai là dẫu chỉ mười niệm chuyên niệm đức Phật kia, đấy là duyên để trợ giúp cho nghiệp được viên mãn.

3. – Ba là nguyện sinh cõi kia, nguyện nầy hợp với những hạnh trên tạo thành cái nhân.

Ðây là nói về hạng người Bất Định Tánh.

Ba câu của hạng thứ hai là:

1. – Một là nghe pháp thậm thâm, hoan hỉ tin ưa. Câu nầy nói rõ thêm về chánh nhân phát tâm, hạng nầy chỉ khác với hạng trên ở chỗ có lòng tin sâu xa.

2. – Hai là thậm chí trong một niệm, niệm đức Phật kia. Ðấy là duyên để trợ giúp cho nghiệp được viên mãn. Câu nầy chỉ rõ:

Hạng trên do không có lòng tin sâu xa nên cần phải có mười niệm, còn hạng nầy do lòng tin sâu xa nên chẳng cần phải đủ cả mười niệm

Đến đây, cụ Hoàng Niệm Tổ trộm nghĩ: Ngài Nguyên Hiểu đưa ra thuyết nầy vì chỉ dựa trên bản Ngụy dịch. Nếu xét theo hội bản, một niệm mà được vãng sinh đều do đạt được một niệm tịnh tâm. Từ trong nhất tâm, niệm danh hiệu Phật một tiếng thì ngay lập tức tương ứng với bổn nguyện của Phật Di Ðà; vì vậy, khi lâm chung liền được vãng sinh.

3. – Ba là dùng tâm chí thành nguyện sinh cõi kia. Nguyện nầy hợp với những hạnh trên tạo thành cái nhân. Ðây là nói về hạng người thuộc chủng tánh Bồ Tát.

Tóm lại, ý Ngài Nguyên Hiểu: Trong bậc Hạ vãng sinh có đến hai hạng: Một là hạng phát Bồ Ðề tâm, mười niệm thánh hiệu, nguyện sinh cõi kia liền được vãng sinh, đó là hạng Bất Ðịnh Tánh. Hai là nghe pháp sinh lòng tin sâu xa, thậm chí trong một niệm, nguyện sinh cõi kia, liền được vãng sinh, đấy là hạng chủng tánh Bồ Tát.

Thử hỏi “văn pháp thậm thâm, hoan hỉ tín nhạo, bất sinh nghi hoặc” (nghe pháp thậm thâm, hoan hỉ, tin ưa, chẳng sinh ngờ vực), trí tuệ thù thắng như thế phải là cảnh giới của hạng người nào? Ngài Nguyên Hiểu gọi họ là “hạng người chủng tánh Bồ Tát”. Phải là chủng tánh Bồ Tát mới có thể tin sâu, mới khởi tâm niệm Phật, “dĩ chí thành tâm, nguyện sinh kỳ quốc” (dùng tâm chí thành, nguyện sinh cõi kia), người như vậy chẳng thể xem là thuộc về bậc Hạ được.

Báo Ân Luận cũng bảo: “Xét kỹ ra, đoạn kinh nói về mười niệm vãng sinh, đây là chuyên bàn về hạng người trụ nơi Ðại Thừa. Xét trong Ðại Thừa, người giải ngộ trong Thiền Tông và người giải ngộ do đọc hết thảy kinh điển Ðại Thừa đều thuộc về hạng nầy (tức là hạng “trụ trong Ðại Thừa, mười niệm vãng sinh”). Những người ấy chẳng chuyên tu Tịnh Ðộ, chẳng hạn như các vị Trí Giả, Vĩnh Minh v.v.”

Kiến giải này so với lời bàn định của ngài Nguyên Hiểu càng cao hơn một bậc, chỉ tiếc là dùng Trí Giả,Vĩnh Minh đại sư làm thí dụ thì chưa thỏa đáng! Bởi Trí Giả Đại sư và Vĩnh Minh Đại sư đều là những bậc chân tu. Ngài Trí Giả y theo Thập Lục Quán Kinh tu hành, lúc Ngài vãng sinh dùng pháp Quán tưởng niệm Phật vãng sinh. Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ mỗi ngày trì danh niệm Phật đến mười vạn lần. Chứng tỏ hai Ngài thật sự tu Tịnh Độ, không phải tu pháp môn khác! Hơn nữa, kinh nói người trụ trong Ðại Thừa, tâm thanh tịnh, nghe pháp thậm thâm liền sinh tin hiểu. Người có trí tuệ nhạy bén, tín nguyện kiên cố như vậy, chỉ có các bậc Đại sư như Trí Giả, Vĩnh Minh, Trung Phong mới kham được mà thôi. Các Ngài chắc chắn vãng sinh Thượng Bối, lẽ đâu thuộc bậc Hạ?!

Do vậy, trong Hội Bản, sau phần nói về bậc Hạ, ngài Hạ Liên Cư đã chép nguyên bản Ðường dịch thành một đoạn riêng với thâm ý: Ngoài ba bậc vãng sinh thường được nhắc tới, còn có riêng một loại như pháp sư Từ Châu đã phán định là hạng “nhất tâm tam bối”.

Hòa Thượng Tịnh Không nhấn mạnh: “Nhất tâm tam bối không phải là nhất tâm hạ bối”, như vậy mới thích đáng và phù hợp với ý nghĩa trong kinh.

Hạng “nhất tâm tam bối” này có riêng cách tu giản lược của bậc đại nhân, vượt khỏi quy cách vãng sinh thông thường. Cách tu giản lược đó chính là “nhất tâm”. Chữ “nhất niệm tịnh tâm” nói trong phẩm này, chính là “nhất tâm tịnh tín” đã nói trong phẩm “Thập phương Phật tán”, đồng hiển thị “nhất tâm, nhất niệm”. Đây quả thật là diệu thể của pháp môn Tịnh Độ.

“Nhất tâm” “nhất niệm” tuy dùng chữ khác nhau, nhưng ý nghĩa chỉ là một. Theo Hòa Thượng Tịnh Không, trong giáo lý Đại thừa thường nói: “Chân tâm ly niệm”.

– Chân tâm không có khởi niệm, vậy “vô niệm” có phải chân tâm không?

– “Vô niệm” không phải là chân tâm!

– Vậy “vô niệm” là gì?

– Là “vô tưởng định”! Họ không có ý niệm, cái gì họ cũng không biết, đấy là vô minh! Khác hẳn với “nhất tâm”, “nhất niêm” ở đây, mọi thứ họ đều biết rõ. Đấy là “Bát Nhã vô tri”, “vô sở bất tri”, trước đây chúng ta đã từng học qua.

Sách Giáo Hạnh Tín Chứng nói:

“Nhất niệm là tín tâm không có nhị tâm, nên bảo là nhất niệm; đấy gọi là nhất tâm. Nhất tâm chính là cái nhân chân thật của cõi báo độ thanh tịnh”.

– Thế nào gọi là nhất tâm?

– Điều nầy đã nói rồi “Tín tâm vô nhị chi tâm” (tín tâm không có nhị tâm)

– “Vô nhị” là gì?

– Là không có vọng niệm nào!

Có một vọng niệm tức là “nhị tâm”. Chúng ta thường nói “ba tâm hai ý”. Hai ý là ý thức và Mạt -na thức. Mạt-na gọi là ý căn, thức thứ sáu gọi là ý thức, đó là hai ý. “Ba tâm hai ý” là vọng tâm, không phải chân tâm. Cho nên Kinh Di Đà rất xem trọng “nhất tâm”. Niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn thì vãng sinh Tịnh Độ, ít nhất cũng là Trung Bối vãng sinh.

Sách Tín Tâm Minh có câu: “Tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm. Ngôn ngữ bặt dứt, chẳng có quá khứ, vị lai, hiện tại”. Câu này cũng nhằm minh thị “tín tâm bất nhị chính là nhất tâm chẳng thể nghĩ bàn”. Vì vậy, một niệm tín tâm thì tùy nguyện được vãng sinh.

Sách Viên Trung Sao bảo: “Trì danh nhất tâm bất loạn là nhân. Ðắc nhất niệm là nói về hạnh được thành tựu. Sức của nhất niệm có công năng điều phục Hoặc chướng. Lâm chung chánh niệm tự nhiên hiện tiền, tất yếu được vãng sinh Tịnh Ðộ”. Do vậy, kinh nầy dạy: “Phát nhất niệm tâm, niệm ư bỉ Phật, định sinh bỉ quốc” (Phát nhất niệm tâm, niệm đức Phật ấy, quyết định sinh về cõi kia).  Trong “nhất tâm” lại có SựLý:

1. – Sự nhất tâm là như Di Ðà Sớ Sao nói: “Nghe danh hiệu Phật thường nhớ, thường niệm, tâm duyên theo từng chữ phân minh. Câu trước, câu sau liên tục chẳng dứt. Ði, đứng, nằm, ngồi chỉ có một niệm nầy, không có niệm thứ hai, chẳng bị tham, sân, si phiền não tạp loạn. Về mặt Sự đã đắc, nhưng chưa thấu triệt mặt Lý. Chỉ được tín lực nhưng chưa thấy đạo nên gọi là Sự nhất tâm”.

Sách Di Ðà Yếu Giải lại bảo: “Chẳng luận là Sự trì hay Lý trì, trì đến mức dẹp trừ được phiền não, thậm chí Kiến Hoặc lẫn Tư Hoặc đều hết sạch cả, thì gọi là Sự nhất tâm”. 

2. -Lý nhất tâm, như sách Di Ðà Sớ Sao nói: “Nghe danh hiệu Phật, chẳng những chỉ ức niệm mà ngay nơi niệm đó, quán trở lại soi xét tường tận, truy đến tận căn nguyên, suy xét đến cùng cực, đột nhiên khế hợp bản tâm của chính mình. Do thấy được Chân Ðế nên gọi là Lý nhất tâm”.

Sách Di Ðà Yếu Giải bảo: “Chẳng luận là Sự trì hay Lý trì, trì đến mức tâm khai ngộ thấy được vị Phật nơi bản tánh đều là Lý nhất tâm”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Chấp trì danh hiệu đều quay về nhất tâm, tức là Lý nhất tâm, điều nầy là khẳng định. Phật A Di Đà là tự tánh của chúng ta. “Nhân chi sơ tánh bổn thiện”, tánh người vốn thiện. Vô lượng giác chính là bổn thiện, mỗi niệm đều quay về vô lượng giác, mỗi niệm đều quay về chân tâm, quay về bổn thiện, đây là Lý nhất tâm, thì thấy tánh. Khi chưa thấy tánh, việc chấp trì danh hiệu chỉ là Sự Trì. Vì thế, chấp trì danh hiệu có Sự, Lý. Sự trì hay Lý trì đều có mục đích là đạt đến “nhất tâm”. Sự nhất tâm hay

Lý nhất tâm là do công phu sâu, cạn khác nhau. Trong hai thứ “nhất tâm”, Lý nhất tâm là tối thượng.

Sách Di Ðà Sớ Sao bảo: “Chấp trì danh hiệu, nhất tâm hướng đến vãng sinh chính là Sự nhất tâm. Chấp trì danh hiệu, trở về tự tâm chính là Lý nhất tâm”.

Kinh Na Tiên nói: “Trong các điều thiện chỉ có nhất tâm là cao tột nhất. Hễ nhất tâm rồi thì các điều thiện đều có”: Vì sao vậy? – Vì khi nhất tâm là bạn đã kiến tánh, đã khai ngộ, thì tâm thuần tịnh, vạn thiện đều quy.

Sách Di Ðà Sớ Sao nói: “Toàn thể của nhất tâm nầy là Phật. Nhất tâm này lại chính là Định bậc nhất trong các thứ Định, nó chính là Niệm Phật tam-muội của Bồ Tát, chính là Thiền Trực Chỉ của Ðạt Ma”: Điều nầy cũng nói lên Thiền-Tịnh là một. Mục tiêu của thiền là minh tâm kiến tánh; mục tiêu của Tịnh cũng là minh tâm kiến tánh. Phương pháp khác nhau, nhưng cứu cánh vẫn là một. Nhưng “chấp trì danh hiệu” đơn giản, dễ dàng hơn nhiều so với tham thiền.

Theo những kinh, luận vừa dẫn trên, nhất niệm chính là nhất tâm, hoàn toàn là nguyên vị, không thêm vào bất cứ thứ gì. Cái nhất niệm ấy lại chính là tự tánh bản giác linh tri, là chân như tự tánh, là Lý niệm không phải Sự niệm.

Ông Hạnh Tây Thị người Nhật bảo: “Nhất thừa chính là hoằng nguyện, hoằng nguyện chính là Phật trí, Phật trí chính là nhất niệm”. Ông Hạnh Tây lập ra nghĩa “nhất niệm” như sau: Nếu tín tâm phàm phu tương ứng được với nhất niệm Phật trí thì sự nghiệp vãng sinh tự nhiên thành tựu, chẳng cần phải luôn miệng xưng danh hiệu Phật cho nhiều.

Nên nhớ: Trí tuệ của Phật bao gồm cả cả “căn bản trí” “hậu đắc trí”. Câu “Tương ưng với Phật trí” ở đây là tương ưng với “căn bản trí”. “Căn bản trí” chính là “nhất tâm”. Phật trí là nhất tâm, tâm ta cũng là nhất tâm, thì tương ưng. Phàm phu niệm Phật đều dùng vọng tâm, không phải dùng chân tâm, đó là “Sự niệm” không phải là “Lý niệm”

– Sự niệm này có thể đạt “Lý nhất tâm” chăng? – Cũng có thể! Nhưng phải đạt đến “Sự nhất tâm bất loạn” trước, sau đó mới dần dần vươn đến “Lý nhất tâm”.

Thuyết này tương tợ như thuyết của Báo Ân Luận: Người tu Thiền tông ngộ điều mình tham cứu hay người đọc kinh mà giải ngộ, sau đó mới chuyên tu Tịnh Ðộ, nếu đạt được một niệm tịnh tín thì tương ứng với Phật trí, xưng danh hiệu Phật một câu cũng liền được vãng sinh.

Nhưng trong Tịnh tông, chữ “một niệm” hay “mười niệm” lại chỉ việc phàm phu xưng niệm Phật hiệu một câu hay mười câu. Chẳng hạn như trong Vô Lượng Thọ Kinh Sớ, ngài Nghĩa Tịch giảng: “Niệm chính là xưng Nam Mô A Di Ðà Phật. Vừa hết sáu chữ ấy là một niệm”.

Quán kinh bảo Hạ Phẩm Hạ Sinh: “chí tâm như thế khiến cho chẳng ngớt tiếng, đầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Ðà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Lúc mạng chung thấy hoa sen vàng lớn như bánh xe. Như trong khoảng một niệm liền được vãng sinh Cực Lạc thế giới”. Do vậy, ta thấy rằng “mười niệm” chính là “mười câu” Nam mô A Di

Đà Phật, thậm chí chỉ một niệm lúc lâm chung đều được vãng sinh. Như ông Bành Tế Thanh nói: “Như thật hồi hướng, một niệm niệm Phật thì không ai chẳng vãng sinh; đó là do sức bổn nguyện của Phật vậy”.

Nếu so với cái tâm “nhất niệm” vừa bàn ở trên và mười niệm lúc lâm chung được giảng trong Quán Kinh vừa tương đồng cũng vừa dị biệt. Trong Sớ Sao, Liên Trì đại sư đã luận định điều này rất mực tinh xác như sau:

“Nên biết rằng chí tâm niệm A Di Ðà Phật một câu thì diệt được tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử; đấy chính là nói về ‘Lý nhất tâm’. Ắt có kẻ ngờ rằng: Tội đã nhiều kiếp, nghiệp nặng chướng sâu, phải siêng năng sám hối lâu ngày, tích tập công đức, dần dần mới có thể tiêu hết nổi, còn như niệm Phật một câu lại có thể diệt tội nhiều kiếp, nhân bé, quả to, làm sao tin nổi? 

Nay bảo rằng: Chí tâm chính là nhất tâm. Nếu là ‘Sự nhất tâm’ thì dẫu có thể diệt tội, nhưng do sức nó thưa mỏng, tội sẽ hiện trở lại. Niệm thật nhiều chỉ có thể tiêu diệt chút ít tội khiên.

Chí tâm ở đây chính là thuộc về ‘Lý nhất tâm’. Nhất tâm đã sáng tỏ thì bao điều vọng chứa chất liền tiêu ngay, giống như nhà tối ngàn năm, đem một ngọn đèn sáng vào, không lẽ bóng tối chẳng mất ngay sao? Vì vậy, lý lẽ ‘nhất xưng Nam Mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo’ (xưng Nam Mô Phật một câu, đều đã thành Phật đạo) chẳng phải riêng kinh Diệu Pháp Liên Hoa mới có! 

Kinh Pháp Hoa Tam Muội Quán nói: ‘Thập phương chúng sinh, nhất xưng Nam Mô Phật giả, giai đương tác Phật. Duy nhất Đại Thừa, vô hữu nhị tam. Nhất thiết chư pháp, nhất tướng, nhất môn, sở vị vô sinh vô diệt, Tất Cánh Không tướng’ (Mười phương chúng sinh một phen xưng Nam Mô Phật, đều sẽ thành Phật, chỉ có một Ðại Thừa, chẳng có hai hay ba. Hết thảy các pháp là nhất tướng, nhất môn, nghĩa là vô sinh, vô diệt, là tướng rốt ráo Không). Những lời như trên chẳng phải là (nói về) “Lý nhất tâm” hay sao”? .

Liên Trì đại sư bảo “chí tâm” nói trong Quán kinh chính là

“Lý nhất tâm”. Vì khi lâm chung chính mắt thấy lửa địa ngục liền sinh lòng tin chân thật nên có thể nhanh chóng dứt muôn duyên, chỉ tập trung vào một niệm; niệm niệm ly niệm, niệm niệm chính là tâm, niệm niệm khế hợp Chân Như, niệm niệm là Phật. Mười niệm lâm chung như vậy đã khế hợp “Lý nhất tâm” nên được diệt tội và được vãng sinh.

– Thế nào là chí tâm?

– Sách Vô Lượng Thọ Tông Yếu dùng ngay thí dụ của ngài

La Thập: Thí như có người gặp phải ác tặc đuổi theo toan giết. Người ấy rảo chạy, phải vượt sông mới thoát. Lúc ấy, chỉ nghĩ cách vượt sông:

“Chỉ có niệm ấy chẳng có niệm khác. Cái ý niệm vượt sông khi ấy chính là nhất niệm. Thập niệm nầy chẳng xen lẫn niệm nào khác. Hành giả cũng thế: Hoặc niệm danh hiệu Phật, hoặc niệm tướng hảo của Phật v.v. niệm Phật không gián đoạn cho đến mười niệm. Chí tâm như thế gọi là mười niệm”. Có nghĩa là  hành giả lúc lâm chung mà nhất tâm niệm được như thế cho đến mười niệm, thậm chí chỉ một niệm cũng được vãng sinh. Ðó là thầm hợp diệu đạo, khéo nhập Vô Sinh. Vì thế, Ngũ Nghịch, Thập Ác lâm chung niệm Phật, cũng được vãng sinh. Ðiều nầy hiển lộ Di Ðà bổn nguyện thật chẳng thể nghĩ bàn! Cái quả do Bồ Tát Pháp Tạng tu tập chính là ở chỗ này. Pháp môn Tịnh Ðộ có thể khiến phàm phu ác nghịch thầm hợp nhất tâm, nên A Di Ðà Phật được gọi là đấng Nguyện Vương thật cũng không ngoa.

Trong An Lạc Tập, đại sư Ðạo Xước cũng luận về thập niệm vãng sinh như sau:

“Ông bảo ác nghiệp trong một đời là nặng, xem điều thiện mười niệm của hạng Hạ Phẩm là nhẹ thì tôi nay sẽ dùng nghĩa lý để so sánh. Nghĩa của nặng hay nhẹ rõ ràng là cốt ở tại tâm, tại duyên, tại quyết định, chớ chẳng phải tại nơi thời tiết lâu, gần, nhiều, ít.

1. – Một, thế nào là tại tâm? Lúc người ấy tạo tội, tự nương dựa vào tâm hư vọng điên đảo để sinh khởi. Còn thập niệm đây lại dựa vào thiện tri thức phương tiện an ủi, do nghe pháp Thật Tướng mà sinh. Một đằng thật, một đằng hư, lẽ nào so sánh được?

Vì sao? Ví như nhà tối ngàn năm, nếu ánh sáng tạm chiếu vào sẽ liền sáng tỏ. Há bảo rằng bóng tối ngàn năm trong nhà chẳng bị mất đi hay sao? Vì vậy kinh Di Nhật Ma Ni Bảo nói: ‘Phật cáo Ca Diếp Bồ Tát: – Chúng sinh tuy phục sổ thiên cự ức vạn kiếp, tại ái dục trung, vị tội sở phú, nhược văn Phật kinh, nhất phản thiện niệm, tội tức tiêu tận dã’ (Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: – Chúng sinh tuy trong mấy ngàn cự ức vạn kiếp ở trong ái dục, bị tội che lấp, nếu nghe kinh Phật, một phen nghĩ đến điều lành thì tội liền tiêu hết). Ðấy gọi là tại tâm”.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích:

Câu “chúng sinh tuy phục sổ thiên cự ức vạn kiếp, tại ái dục trung, vi tội sở phú” (chúng sinh tuy trong mấy ngàn cự ức vạn kiếp, ở trong ái dục, bị tội che lấp): Đây là nói chúng sinh từ vô lượng kiếp đến nay bị đọa lạc trong luân hồi lục đạo. Trong luân hồi lục đạo, nặng nhất là ái dục.

“Nhược văn Phật kinh, nhất phản thiện niệm, tội tức tiêu tận dã” (Nếu nghe kinh Phật, một phen nghĩ đến điều lành thì tội liền tiêu hết): “Văn Phật kinh”, nghe kinh Phật là điều rất khó! Bây giờ, nhiều người nghe kinh, nghe mấy chục năm cũng không tiêu hết tội! Nhưng, quả thật có người chỉ nghe một lần liền khai ngộ, nghiệp của họ trong vô thỉ kiếp đến nay hoàn toàn tiêu hết. – Người đó là ai? – Là Ngài huệ Năng. – Vì sao Ngài được như vậy còn chúng ta thì không thể? – Ngài dùng tâm chí thành, tâm cung kính mà nghe kinh.

Chúng ta ngày nay thiếu tâm thành kính, nên không thể thành tựu!

Rõ ràng là “cốt ở tại tâm”, cho nên Đại sư mới nêu ra ví dụ: “như nhà tối ngàn năm, nếu có ánh sáng tạm chiếu vào sẽ liền sáng tỏ”, bóng tối liền tan. Như người tạo nghiệp rất nặng, đến phút lâm chung, tướng địa ngục hiện ra, lúc nầy chỉ cần có người bên cạnh nhắc nhở, khai thị, họ chân thật sám hối, chí tâm niệm danh hiệu Phật liền được vãng sinh.

2. – Hai, thế nào là tại duyên? Người ấy lúc tạo ác, tự dựa vào vọng tưởng, dựa vào phiền não, quả báo, chúng sinh mà sinh; còn mười niệm đây, y chỉ tín tâm vô thượng, nương vào danh hiệu thanh tịnh chân thật vô lượng công đức của A Di Ðà Phật mà sinh.

Ví như có người bị trúng tên độc đứt gân, gãy xương, nếu nghe âm thanh của cái trống thuốc có tên là Diệt Trừ, thì mũi tên độc liền rớt ra, độc liền trừ, há có thể bảo rằng mũi tên ấy ngập sâu, thuốc độc ấy quá mạnh, dù có nghe tiếng trống cũng chẳng thể nhổ tên, khử độc được hay sao? Ðấy gọi là tại duyên”.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích như sau: Vọng tưởng phiền não là duyên (phiền não là tham, sân, si, mạn, nghi, thất tình, ngũ dục…). Quả báo là duyên, chúng sinh là duyên. Khi họ tạo tội, thọ quả báo là do những duyên này sinh ra.

“Còn mười niệm đây, y chỉ tín tâm vô thượng”: Tin có thế giới Tây phương Cực Lạc là tín tâm vô thượng, tin có Phật A Di Đà là tín tâm vô thượng “nương vào danh hiệu thanh tịnh chân thật vô lượng công đức của A Di Đà Phật mà sinh”: Đây là Phật duyên, là vô lượng công đức chân thật thanh tịnh. Danh hiệu Phật A Di Đà không phải vọng tâm, không phải phiền não, thế nên quả báo chúng sinh không giống nhau.

“Ví như người bị trúng tên độc, đứt gân, gãy xương”: Đây là bị trúng tên độc rất nặng. “Nhược văn Diệt Trừ dược cổ thanh, tức tiển xuất độc trừ”: Có nghĩa là nếu nghe tiếng trống thuốc  Diệt Trừ, thì mũi tên độc nầy tự nhiên liền rớt ra khỏi thân, không cần nhổ, vết thương của họ sẽ liền lại. Đây là câu chuyện “bị độc tiển sở trúng” trong kinh Phật. “Há có thể bảo rằng mũi tên ấy ngập sâu, thuốc độc ấy quá mạnh, dù có nghe tiếng trống cũng chẳng thể nhổ tên, khử độc được hay sao?”: Đây là nói, người thông thường luôn có kiến giải như vậy. Họ chưa thấy lần nào, có kể cho họ, họ cũng không tin, cho là chuyện ngụ ngôn, thần thoại. Đây gọi là Phật pháp khó tin!

Người có niềm tin là người thật sự có phước báo. Người không tin, bỏ qua cơ hội trước mắt, thật đáng tiếc! Cho nên, kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín vi đạo nguyên công đức mẫu” (Niềm tin là mẹ của công đức). Tín tâm thật vô cùng khó lập! Tin được Phật pháp, cung kính chư Phật, Bồ tát, đời nầy chắc chắn được lìa khổ được vui, có thể vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi lục đạo.

Trong kinh thường nói: “Phật không độ được người vô duyên”. – Ai là người không có duyên với Phật? – Là người dùng vọng tâm, người không tin tưởng chánh pháp, người không lý giải được kinh Phật, người không y giáo phụng hành… là những người không có duyên với Phật.

Thời đại hiện nay, lợi dụng vệ tinh, đường truyền internet làm tăng thượng duyên. Rất nhiều nơi xa xôi trên địa cầu, tuy không cùng một nơi, đều có thể nghe, xem được, đó là những người có duyên. Người có kiên nhẫn xem, nghe băng đĩa, sách vở kinh Phật cũng là người có duyên. Lưu Tố Vân nghe được bộ kinh Vô Lượng Thọ, bộ băng đĩa đó là duyên đã giúp bà thành tựu. Tóm lại, “duyên” rất quan trọng; nếu không có duyên, suốt đời cũng không gặp. Cho nên, khi có nhân duyên, phải cố gắng nỗ lực, phải trân quý, không nên để luống qua.

3. – Ba, thế nào là tại quyết định? Người ấy lúc tạo tội, tự nương vào tâm hữu hậu, tâm hữu gián mà sinh; còn thập niệm đây y chỉ vào tâm vô hậu, tâm vô gián mà khởi. Ðấy gọi là quyết định.

“Quyết định” cũng là điều then chốt. “Người ấy lúc tạo tội, tự nương vào tâm hữu hậu, tâm hữu gián mà sinh”: “Tâm hữu hậu” là tâm tương tục bất thiện, theo sau đều là niệm niệm bất thiện, họ đã tạo nghiệp ác rồi! “Tâm hữu gián” là tâm có gián đoạn, tâm này là “bất định tâm”, là vọng tâm. Còn thập niệm ở đây là “y chỉ vào tâm vô hậu, tâm vô gián mà khởi, đấy gọi là quyết định”: Mười niệm này đều là niệm niệm tương tục, không gián đoạn. Nếu là chân tâm thì công đức vô cùng thù thắng. Tâm tương tục, tâm vô gián chính là lời của Bồ tát Đại Thế Chí nói “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương tục”. Tịnh niệm là tâm vô hậu, tương tục là tâm vô gián. Đây là điều thứ ba, là điều quyết định.

Trí Ðộ Luận lại bảo: “Hết thảy chúng sinh lúc lâm chung bị đao phong cắt thân hình, tử khổ đến bức bách, sinh lòng hoảng sợ lớn lao. Vì vậy, gặp thiện tri thức liền phát đại dũng mãnh, tâm tâm liên tục; mười niệm chính là thiện căn tăng thượng, nên liền được vãng sinh. Lại cũng giống như kẻ đối địch phá trận, cùng lúc tận dụng hết sức lực nơi thân mình. Ðiều lành thập niệm cũng giống như vậy”.

Lại có kẻ nghĩ lâm chung thập niệm quá dễ dàng, nên toan tính đợi lúc lâm chung mới chuyên niệm Phật. Sách An Lạc Tập đả phá quan điểm ấy như sau:

“Thập niệm liên tục tựa hồ chẳng khó, nhưng kẻ phàm phu tâm như ngựa hoang, thức quá khỉ vượn, rong ruổi sáu trần chưa từng tạm dừng. Ai nấy phải nên phát lòng tin, tự hạn định tu niệm trước để tích tập thành thói quen cho thiện căn kiên cố, như Phật đã bảo đại vương: ‘Nhân tích thiện hạnh, tử vô ác niệm. Như thụ tiên khuynh, khuynh tất tùy dã’ (Người tích hạnh lành, khi chết không có ác niệm. Như cây trước nghiêng về hướng nào,  khi đổ sẽ ngã về hướng đó). Một phen đao phong xảy đến, trăm khổ quấy thân, nếu trước đó chẳng từng tu tập thì (lúc ấy) làm sao niệm nổi?

Ai nấy nên cùng với năm, ba người cùng chí hướng kết thệ sẵn để lúc lâm chung thay phiên nhau đến giảng giải, vì họ xưng danh hiệu Di Ðà, nguyện sinh cõi An Lạc, tiếng niệm tiếp nối cho thành mười niệm. Ví như ấn sáp ấn xuống đất bùn, ấn dẫu hoại nhưng các đường khắc trên ấn đã in xuống. Lúc mạng này dứt chính là lúc vãng sinh An Lạc quốc. Một khi đã nhập vào Chánh Định Tụ thì còn lo lắng gì. Ai nấy đều nên suy nghĩ cái lợi lớn này, sao còn chưa định sẵn số hạn để niệm đi”. 

Câu “Thập niệm tựa hồ chẳng khó”; Nhưng, kẻ phàm phu “tâm như dã mã, thức kịch viên hầu” (tâm như ngựa hoang, thức quá khỉ vượn), “rong ruổi sáu trần chưa từng tạm dừng”, đây là sự thật! Mười niệm xem ra có vẻ đơn giản, nhưng phàm phu chúng ta không dễ đạt được! – Không dễ ở chỗ nào? – Ở chỗ tâm còn bồng bột, chưa dứt vọng niệm thì mười niệm nhất tâm nầy làm sao niệm được! Đừng nói chi đến mười niệm, một niệm cũng không được! Đây là người thiếu thiện căn, phước đức. Người không tin tưởng, đó là người không có thiện căn; không chịu làm, còn hoài nghi, còn tình chấp, còn nuối tiếc v.v. là không có phước đức.

Ngày xưa ở Trung Quốc, nơi nơi đều có Từ Đường, miếu Thành Hoàng, miếu Thổ Địa, miếu Thần… rất phổ biến; miếu Khổng Tử thì ít hơn, hình như chỉ ở đô thị mới có. Người xưa kính quỉ thần, tin nhân quả, không dám có niệm ác. Niệm ác không có thì làm sao có làm ác. Người hiện nay xem đó là mê tín nên hủy bỏ, dẫn đến xã hội không an định, thiên tai dồn dập!

Sách An Lạc Tập khuyên chúng ta phải dự bị lo trước, phải có lòng tin, phải khắc phục vọng niệm, bằng cách chí tâm niệm Phật. vọng niệm là nghiệp; khắc phục vọng niệm là tiêu trừ tội nghiệp. “Như Phật cáo đại vương, nhân tích thiện hạnh, tử vô ác niệm” (Như Phật bảo đại vương, người tích hạnh lành, khi chết không có ác niệm). Hai câu nầy rất quan trọng! Con người phải làm điều thiện, phải tích công lũy đức, lúc lâm chung mới không có ác niệm.

“Như thọ tiên khuynh, đảo tất tùy dã” (Như cây trước nghiêng về hướng nào, khi đổ sẽ ngã về hướng đó). “Một phen đao phong xảy đến, trăm nỗi khổ quấy thân”. Đây là nói con người khi mạng chung, thần thức rời khỏi thân thể thì vô cùng thống khổ. “Nếu trước đó chẳng từng tu tập thì lúc ấy làm sao niệm nổi?” Cho nên, trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta phải nuôi dưỡng tập khí niệm Phật, đến lúc lâm chung mới dễ niệm được danh hiệu Phật. Bình thường không niệm Phật, đến lúc lâm chung e không niệm được!

Kế đến là nói tầm quan trọng của trợ niệm lúc lâm chung. “Ai nấy nên cùng với năm, ba người cùng chí hướng, kết thệ sẵn”: Nếu ai đi trước, người còn lại phải giúp họ trợ niệm, bảo họ niệm theo mọi người cho đến khi thấy Phật A Di Đà là đi được; chưa thấy Phật A Di Đà thì tuyệt đối không đi theo họ, cho dù là Phật hay Bồ tát nào đến tiếp dẫn cũng không đi. Điều này rất quan trọng, lúc lâm chung đặc biệt phải nhắc nhở họ.

Sau cùng đưa ra ví dụ “thí như lạp ấn” (ví như ấn sáp): Lấy sáp khắc hình con dấu, rồi dùng kim loại để đúc thành con dấu đó; giống như con dấu bằng đồng, đem đồng đổ lên khuôn sáp nầy; sáp nầy chảy hết thì thành con dấu. Đây là cách đúc con dấu ngày xưa. Dùng ví dụ nầy để ví: Niệm Phật giống như “ấn sáp”; vãng sinh giống như “con dấu”.

Nên nhớ: Khi lâm chung, lúc chưa đoạn khí, thấy A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, nên nói với mọi người: “Phật đến tiếp dẫn tôi rồi, tôi đi đây, chào tất cả mọi người”. Đây là họ thật sự được vãng sinh. Cũng có khi, bệnh người đó quá nặng, lúc nhìn thấy Phật, nhưng không thể nói thành tiếng, chỉ thấy môi họ mấp máy. Họ muốn nói gì, chúng ta không biết. Nhưng, họ ra đi rất nhẹ nhàng, có đoan tướng xuất hiện; có người về báo mộng cho người thân rằng họ đã vãng sinh. Đây là chuyện có thật. Nếu chưa vãng sinh, họ không thể về báo mộng được. Đây cũng là việc tốt, một loại công đức, vì họ đã chứng minh cho mọi người, tăng trưởng tín tâm.

Cho nên, vừa đoạn khí ở đây, thì đã vãng sinh thế giới Cực Lạc rồi. “Nhập Chánh Định Tụ”, đây là lợi ích lớn, không phải Tà định mà là tâm thanh tịnh hiện tiền. Pháp môn Tịnh Độ, đời nầy chúng ta đã gặp được “hà bất dự khắc niệm dã”, vì sao không sớm khắc phục vọng niệm của mình? Chỉ cần khắc phục được vọng niệm thì chắc chắn được vãng sinh.

Sách Di Ðà Yếu Giải cũng nói:

“Nếu lúc bình thời chẳng có công phu bảy ngày thì làm sao lúc lâm chung đạt được mười niệm hay một niệm. Vả lại, kẻ Ngũ Nghịch Thập Ác trong Hạ Hạ phẩm đều là do túc nghiệp chín muồi nên lúc lâm chung mới gặp thiện hữu khai ngộ liền tín nguyện. Ðiều nầy trong muôn trường hợp chưa có được một, há nên cầu may như thế ư?”.  

Đoạn trên đây Đại sư Ngẫu Ích khai thị rất hay! Niệm Phật có được vãng sinh hay không là quyết định ở một niệm sau cùng.

Nhưng, phải biết rằng: Nếu thường ngày không nỗ lực tu tập niệm Phật, không quy định thời khóa, thì rất khó thành tựu. Ngoài “định thời khóa” còn có “tán thời khóa”, tức là nhớ lúc nào thì niệm lúc đó.

Niệm Phật là chánh niệm, không niệm Phật là tà niệm. Vì thế, bình thường công phu bảy ngày là rất quan trọng. Thường ngày có công phu, lúc lâm chung mới có cảm ứng. Cảm ứng nầy tức là một niệm, mười niệm lúc lâm chung. Nếu thường ngày không có công phu thì cảm ứng lúc lâm chung rất khó nói! Nếu nghiệp chướng hiện tiền thì cuộc đời mình kể như trôi qua một cách vô ích!

Nên nhớ: “Kẻ Ngũ Nghịch Thập Ác trong Hạ Hạ phẩm, do túc nghiệp chín muồi nên lúc lâm chung mới gặp thiện hữu khai ngộ liền phát tín nguyện”: “Túc nghiệp chín muồi” chính là nhờ nhân niệm Phật từ kiếp trước, đến phút lâm chung đã thành thục, nên mới có quả báo thù thắng như vậy. “Điều này trong muôn trường hợp chưa được một”. Vì sao? – Bởi phút lâm chung đòi hỏi bạn phải có đủ ba điều kiện. Ba điều kiện ở phút lâm chung là:

– Thứ nhất: Đầu óc phải minh mẫn. Người già bây giờ thường bị chứng mất trí, nếu mất trí cho dù có trợ niệm cũng không thể vãng sinh! Có người lâm bệnh nặng, ngay cả người nhà cũng không nhận ra, lấy gì tỉnh táo để niệm Phật?! Vậy là phiền phức rồi!

– Thứ hai: Gặp được thiện tri thức có tu tập, có hiểu biết về Tịnh Độ nhắc nhở, khai thị. Điều này cũng không phải dễ!

– Thứ ba: Khi nghe thiện tri thức khai thị, phải lập tức thật sự tin nhận, thật sự nghe theo và phát tâm niệm Phật thì mới có thành tựu được vãng sinh.

Ba điều kiện lâm chung nầy thử hỏi có mấy ai được đầy đủ? Cho nên, hàng ngày phải cố gắng tu tập, hạ thủ công phu niệm Phật, luôn nghĩ đến điều tốt, luôn làm các việc thiện, tích công lũy đức, hồi hướng đến phút lâm chung được vãng sinh theo Phật. Tuyệt đối không nên có ý nghĩ cầu may mà hy vọng được thành tựu. Điều này không đáng tin cậy!

Ngẫu Ích đại sư bảo:

“Ðức Phật trong một câu niệm hiện tiền cũng vốn đã siêu tình ly kiến, sao lại còn mất công bàn huyền, luận diệu, chỉ cốt tin cho chắc, giữ cho bền, cứ thẳng thét mà niệm. Suốt ngày đêm hoặc là mười vạn tiếng, hoặc năm vạn, ba vạn làm số nhất định hoặc chẳng định số làm chuẩn. Trọn cả một đời nầy thề chẳng biến đổi. Nếu chẳng được vãng sinh thì tam thế chư Phật thành ra nói dối hay sao?”

Ngài còn nói:

Muốn đạt đến cảnh giới nhất tâm bất loạn, chẳng có thuật gì khác. Bước đầu tu tập thì dùng xâu chuỗi để nhớ số cho rành rẽ, nhằm ấn định công khóa quyết định chẳng thiếu. Lâu ngày thuần thục chẳng niệm mà tự niệm. Lúc đó, nhớ số cũng được, chẳng nhớ số cũng được!

Nếu là kẻ sơ tâm mà lại toan nói chỉ ưa học khán thoại đầu, chẳng nên chấp tướng, muốn học viên dung tự tại, thì đó chỉ toàn là kẻ tin không sâu, hành chẳng tận sức vậy”.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích: “Ðức Phật trong một câu niệm hiện tiền cũng vốn đã siêu tình ly kiến”, có nghĩa là hiện tiền một câu “A Di Đà Phật”, hoặc “Nam mô A Di Đà Phật”, vốn đã siêu tình ly kiến.

– Tình là gì? – Là tình chấp, là luân hồi lục đạo. Nhân của luân hồi lục đạo chính là“tình”; không đoạn tình chấp thì không thể thoát ly lục đạo.

-“Kiến” là gì? – Là Kiến chấp. Pháp giới tứ thánh họ không có tình chấp cũng không có kiến chấp. Kiến chấp là phân biệt, tình chấp là chấp trước.

Một câu danh hiệu Phật vượt ra ngoài lục đạo và thập pháp giới nên gọi là “siêu tình ly kiến”. Cảm ứng của câu Phật hiệu là ở thế giới Tây phương Cực Lạc, không tương ưng với những thế giới khác.

“Hà lao thuyết diệu thuyết huyền” (Sao còn nhọc công bàn huyền, luận diệu):

– Câu “thuyết huyền thuyết diệu” nghĩa là gì?

– Là nghiên cứu kinh điển!

Ý nói: Người chân chánh niệm Phật, nhất tâm quy y Phật A Di Đà, nhất hướng cầu sinh Tịnh Độ, thân cận Phật A Di Đà thì không cần kinh điển nữa. Vì sao vậy? -Vì kinh giáo không còn kịp nữa! Nghiên cứu kinh điển là hiểu được một chút đạo lý, nhưng không thể vãng sinh. Không nghiên cứu kinh điển, tuy chẳng hiểu gì cả, nhưng họ có thể vãng sinh đến thế giới Cực Lạc. Đến được  thế giới Cực Lạc, thì điều gì họ cũng biết. Nói cách khác, người nhất tâm niệm Phật là “Bát Nhã Vô Tri”, đến thế giới Cực Lạc họ là “Vô Sở Bất Tri”.

“Chỉ cốt tin cho chắc” là thật sự tin tưởng, “Giữ cho bền, cứ thẳng thét mà niệm” là không chút hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. “Suốt ngày đêm hoặc là mười vạn tiếng, hoặc năm vạn, ba vạn làm số nhất định hoặc chẳng định số làm chuẩn”: Ý nói, chọn phương cách niệm Phật như thế nào cho phù hợp với sinh hoạt của chính mình. Pháp môn niệm Phật không quan tâm ở niệm Phật nhiều hay ít, mà quan trọng là ở chỗ nhiếp tâm, không nghi ngờ, không xen tạp, không gián đoạn.

“Trọn cả đời thề chẳng biến đổi”: Đây là kiên trì niệm danh hiệu Phật, thành tựu niệm Phật tam-muội, thành tựu tương ưng với Phật, mọi vọng tưởng đều buông bỏ, trong tâm chỉ có Phật A Di Đà, thì nhất định vãng sinh.

Đại sư khuyên chúng ta “muốn đạt cảnh giới nhất tâm bất loạn”, phương tiện đầu tiên là “dùng xâu chuỗi để nhớ số cho rành rẽ, nhằm ấn định công khóa quyết định chẳng thiếu”, như một ngày niệm mười xâu, hai mươi xâu v.v. “Nếu là kẻ sơ tâm mà lại toan nói chỉ ưa học khán thoại đầu, chẳng nên chấp tướng, muốn học viên dung tự tại, thì đó chỉ toàn là kẻ không tin sâu, hành chẳng tận sức vậy”. Ý nói: Kẻ sơ tâm là kẻ mới phát tâm học Phật, đã học tông môn, học không chấp tướng, học giáo môn, học “viên dung tự tại” tức là học đàm huyền thuyết diệu, “thì đó chỉ toàn là kẻ không tin sâu, hành chẳng tận sức vậy”. Đấy là sự thật! Có rất nhiều người mắc phải căn bệnh này!

Ðạo Xước đại sư cũng dạy: “Nếu người mới học chưa thể phá tướng thì cứ nương vào tướng mà chuyên chí, không ai chẳng được vãng sinh, đừng nghi ngờ gì!”. Trong kinh Kim Cang có nói đến bốn tướng: Ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng và thọ giả tướng. Sơ Quả của Tiểu thừa đã phá được bốn tướng này .Nếu người mới học chưa phá được bốn tướng  này, tức là chưa vào được cửa Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Ý nói người không có năng lực, trình độ vào cửa Đại thừa, có thể y theo pháp môn Tịnh Độ mà chuyên chí niệm Phật cũng được vãng sinh. Bởi pháp môn Tịnh Độ không cần phải phá tướng, cũng không cần đoạn phiền não mà chỉ cần phục phiền não bằng cách “chuyên chí, nhất tâm niệm Phật” là thành tựu.

Sách An Lạc Tập cũng nêu lời vấn đáp như sau:

Hỏi: “Nếu xưng niệm danh hiệu A Di Ðà Phật sẽ trừ được vô minh hắc ám của mười phương chúng sinh và được vãng sinh thì sao lại có chúng sinh xưng danh, ức niệm mà vô minh vẫn còn, chẳng được mãn nguyện, nghĩa là  sao?

Ðáp: Do chẳng tu hành đúng như thật, chẳng tương ứng với danh nghĩa. Vì cớ sao thế? Vì chẳng biết Như Lai là thân Thật Tướng mà lại cho là thân vật chất. Lại có ba điều chẳng tương ưng:

– Một là tín tâm không thuần, lúc còn, lúc mất.

– Hai là tín tâm không chuyên, nghĩa là chẳng quyết định.

– Ba là tín tâm không tương tục, nghĩa là có các niệm khác xen vào…

Nếu tâm tương tục chính là nhất tâm, chỉ giữ được nhất tâm, chính là thuần tâm. Đủ ba tâm ấy mà không được vãng sinh thì chẳng bao giờ có lẽ ấy!”

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích như sau:

Nếu xưng danh, ức niệm Phật A Di Đà mà vô minh vẫn còn là do họ “chẳng tu hành đúng như thật, chẳng tương ưng với danh nghĩa”. Họ niệm Phật A Di Đà, nhưng tâm họ không tương ưng với Phật. Thế nào là tương ưng? Là niệm niệm cầu sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, đó là tương ưng. Nếu chỉ cầu danh văn lợi dưỡng ở thế gian thì không tương ưng, gọi là “bất như thật tu hành” (chẳng tu hành đúng như thật).

Ý nghĩa danh hiệu Phật A Di Đà là Vô Lượng Giác, Vô Lượng Trí, Vô Lượng Từ, Vô Lượng Bi v.v… Tâm lượng của họ quá nhỏ làm sao tương ưng với Phật được! Cho nên, không thể vãng sinh. Hơn nữa, họ “chẳng biết Như Lai là thân Thật Tướng, lại cho là thân vật chất”. Điều nầy có ý nghĩa gì? – “Thân Thật Tướng” chính là thân Pháp tánh, là Tự tánh. Phật A Di Đà đích thật là Pháp tánh thân, thế giới Cực Lạc là cõi Pháp tánh, khác với thân và quốc độ của thế giới chúng ta. Thân ở thế giới chúng ta là thân vật chất, thân sinh diệt; quốc độ chúng ta là quốc độ vật chất, quốc độ sinh diệt nên vô thường. Thân của Phật A Di Đà là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang. Cõi thế giới Cực Lạc, mọi sự vật đều không có biến đổi, tức là vĩnh hằng, bất biến. Cho nên gọi thân Phật A Di Đà là Pháp tánh thân, là thân Thật Tướng; thân chúng ta là Pháp Tướng thân, là thân Giả Tướng.

Thân Phật A Di Đà còn gọi là “Vi vật thân”: “Vật” ở đây là vạn vật. Ý nói sở dĩ Phật A Di Đà hiện thân là vì tất cả chúng sinh, không vì bản thân Ngài. Chúng ta hôm nay có mặt ở thế gian nầy là vì bản thân hay vì chúng sinh? Nếu vì bản thân thì đó là thân nghiệp báo. Mỗi ngày chúng ta đều “nguyện tiêu tam chướng, trừ phiền não”, nhưng sao nghiệp chướng, phiền não cứ vẫn còn nguyên! Là vì sao? Vì chúng ta quá xem trọng cái thân này! Người khác có khổ nạn cũng mặc họ, như vậy là không tương ưng với Phật A Di Đà! Bên dưới, Ngài nêu ra ba điều không tương ưng với Phật A Di Đà như sau:

– “Một là tín tâm không thuần, lúc còn, lúc mất”: “Không thuần” nghĩa là không chân thật. Tâm này lúc có, lúc không. Bình thường giống như có, nhưng gặp sự cố cấp bách thì quên hết, hoàn toàn là vì bản thân, vì cái nhục thể này, thật vô cùng sai lầm!

– “Hai là tín tâm không chuyên, nghĩa là không quyết định”:

Ấy là do tham dục, yêu thích của họ quá nhiều. Học Phật, tông phái nào cũng thích, muốn học rộng nghe nhiều, muốn làm nhà bác học. Tâm như vậy gọi là tâm “không chuyên”; họ không thể thành tựu, có chăng chỉ là một số kiến thức Phật học thông thường.

“Ba là tín tâm không tương tục” nghĩa là có quá nhiều tạp niệm.

Ba loại bất tương ưng trên đây, thật sự là căn bệnh nặng của thời đại hiện nay.

“Nếu tâm tương tục chính là nhất tâm. Giữ được nhất tâm chính là thuần tâm”. Nếu “đủ ba tâm ấy mà chẳng được vãng sinh” thì đó là “vô hữu thị xứ”, tức là không có lẽ đó. Cho nên, chúng ta tu hành niệm Phật, nhất định phải buông bỏ ba loại bất tương ưng này mới đạt được: Tín tâm thuần, tín tâm chuyên tín tâm tương tục thì chắc chắn được vãng sinh.

Theo chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ:

Lời luận trên đây đã chỉ đúng ngay căn bệnh của hành nhân tu Tịnh nghiệp hiện đời. Quả thật là có rất nhiều người niệm Phật mà không thể vãng sinh. Ðấy là do “chẳng biết Như Lai là thân Thật Tướng”, nhận lầm thân Ngài là “thân vật chất”, chấp trước vào tướng, lầm lẫn sinh phân biệt,  không có trí tuệ, hiểu sai nghĩa Trung Ðạo, tức là mất đi sự cân bằng, trật tự bình thường. Lại còn mắc ba thứ không tương ưng. Ba thứ không tương ưng đó có thể dùng một câu để bao quát tất cả, đó là: Tín tâm không đủ! Tư lương để vãng sinh là Tín, Nguyện, Hạnh, khuyết một chẳng thể được. Theo sách Yếu Giải: “Nếu thiếu tín nguyện thì dẫu trì danh như tường đồng, vách sắt, mưa gió chẳng lọt, cũng không được vãng sinh”.

 Trụ Đại Thừa giả” chỉ những người chuyên tu học các pháp Đại thừa, như phẩm Thí Dụ của kinh Pháp Hoa có nói: “Nếu có chúng sinh nghe pháp từ đức Phật Thế Tôn mà tin nhận, siêng tu tinh tấn, cầu Nhất Thiết Trí, Phật Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Sư Trí, Như Lai tri kiến, lực, vô sở úy, lân mẫn, an vui vô lượng chúng sinh, lợi ích trời, người, độ thoát hết thảy, thì gọi là Ðại Thừa”: Chữ “lực, vô sở uý” ở đây là chỉ cho đức Phật có mười lực và bốn vô sở uý. Hai thứ nầy họp lại gọi là trí tuệ đức tướng của Như Lai.

Sách Thập Nhị Môn Luận cũng nói:

“Ma Ha Diễn (Mahayana) cao hơn Nhị Thừa nên gọi là Ðại Thừa. Chư Phật lớn nhất mà thừa nầy đạt đến được nên gọi là Ðại. Chư Phật đại nhân dùng thừa nầy nên gọi là Ðại. Ðại Thừa lại có thể diệt trừ nỗi khổ lớn của chúng sinh, ban cho sự đại lợi ích nên gọi là Ðại. Lại dùng thừa nầy có thể thấu triệt đến tận nguồn cội hết thảy các pháp nên gọi là Ðại”.

Câu “chư Phật đại nhân dùng thừa nầy nên gọi là Đại”: Ý nói, chư Phật đại nhân ngự trên cổ xe nầy nên gọi là “Đại”. Ngồi xe Đại thừa mới có thể thành Phật đạo. Xe Tiểu thừa chỉ đạt đến quả A La Hán. Xe Trung thừa đạt đến Bích Chi Phật, không thể đạt đến cảnh giới cứu cách viên mãn Phật.

“Lại có thể diệt trừ nỗi khổ lớn của chúng sinh”: “Nổi khổ lớn” nầy là trôi lăn trong luân hồi lục đạo, nhất là tam đồ địa ngục, địa ngục là khổ nhất!

– Địa ngục có thật hay không?

– Có thật! Không giả chút nào!

Điều nầy người tu học Đại thừa biết được: Cứ một niệm ác sinh khởi là hiện ra một địa ngục! Cho nên, luân hồi lục đạo, thiên đường hay địa ngục đều do tâm con người biến hiện ra, không phải do Thượng Đế hay Diêm La vương nào tạo. Như ban đêm chúng ta nằm mộng, mộng đó là do bản thân, ý thức chúng ta biến hiện ra. Luân hồi lục đạo hay tam đồ địa ngục cũng cùng một đạo lý này.

“Ban cho sự đại lợi ích nên gọi là Đại”: “Đại lợi ích” ở đây chính là thành Phật. Phật A Di Đà tạo nên thế giới Cực Lạc, đó là đại lợi ích cho tất cả chúng sinh trong biến pháp giới, hư không giới. Những chúng sinh bị đọa lạc trong luân hồi lục đạo, làm thế nào thoát ly được khổ hải? Làm thế nào chỉ trong đời nầy được trở về với tự tánh, thành tựu được Phật quả rốt ráo viên mãn? Thế giới Cực Lạc giúp chúng ta giải quyết những điều này, quan trọng là chúng ta phải thật tâm phát nguyện tu tập cầu sinh Cực Lạc.

“Lại dùng thừa này có thể thấu triệt tận cội nguồn hết thảy các pháp nên gọi là Đại”: Đại Thừa là một môn học vấn có thể thấu triệt đến tận nguồn cội của tất cả các pháp, trong đây bao gồm cả thế giới vi quan (thế giới nhỏ vô cùng đến không có trong) và thế giới vĩ quan (lớn không cùng tận đến không có ngoài).

Thế giới khoa học ngày nay chỉ có thể thấy được mười phần trăm của vũ trụ, còn chín mươi phần trăm họ hoàn toàn không thấy. Vậy chín mươi phần trăm vũ trụ đó ở đâu? Đã quy về tự tánh! Phàm những gì quy về tự tánh hay Thường Tịch Quang thì không thể nhìn thấy. Bởi trong tự tánh không có hiện tượng nên khoa học không thể nào vươn tới. Người tu Đại thừa không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước nên họ có thể duyên đến tất cả, thấy hết nguồn cội của vũ trụ “nên gọi là Đại”.

Quyển hai mươi tám kinh Ðại Bảo Tích có nói: “Chư Phật Như Lai chánh chân chánh giác sở hành chi đạo, bỉ thừa danh vi Đại Thừa” (Ðạo chánh chân, chánh giác của chư Phật Như Lai hành, thừa ấy gọi là Ðại Thừa).

“Trụ Đại Thừa giả”: Người trụ trong pháp Ðại Thừa đâu phải là phàm phu hay Tiểu Thừa; tuy họ mang nhục thân nhưng vẫn được gọi là Bồ Tát.

“Dĩ thanh tịnh tâm, hướng Vô Lượng Thọ” là dùng tâm vô ngại, vô cấu, tịnh tín (đã giải thích ở  phần trước) hướng về Phật Vô Lượng Thọ.

Kinh Trung A Hàm, quyển bốn mươi mốt bảo: “Thanh tịnh tâm tận thoát dâm nộ si, thành tựu ư Tam Minh” (Tâm thanh tịnh (là tâm) hoàn toàn hết sạch dâm, nộ, si, thành tựu Tam Minh). Tâm thanh tịnh như thế công đức khó nghĩ bàn. Vì vậy, phẩm “Thập Phương Phật Tán” có nói: “Nãi chí năng phát nhất niệm tịnh tín… tùy nguyện giai sinh” (Thậm chí có thể phát được một niệm tịnh tín… tùy nguyện vãng sinh). Dùng tâm thanh tịnh như trên để quy hướng Vô Lượng Thọ Phật nên bảo: “Dĩ thanh tịnh tâm, hướng Vô Lượng Thọ Phật”.

“Nãi chí thập niệm (Dẫu chỉ mười niệm),cũng được vãng sinh. Theo sách chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ: Mười niệm này gồm cả niệm lúc bình thời lẫn khi lâm chung.

* Mười niệm lúc bình thời, cũng có hai thứ:

– Một là như Thập Niệm do đức Phật giảng trong kinh Di Lặc Phát Vấn (phần trước đã nói qua), chẳng xen tạp kiết sử cho đến Bồ Tát niệm, chẳng phải là phàm phu niệm. Còn như kinh nầy dạy: “Dĩ thanh tịnh tâm, hướng Vô Lượng Thọ Phật, nãi chí thập niệm, nguyện sinh kỳ quốc” (Dùng tâm thanh tịnh hướng về Vô Lượng Thọ Phật, dẫu chỉ mười niệm, nguyện sinh cõi kia) chính là nói đến cái tâm đã hết sạch ba độc dâm, nộ, si, thành tựu trí đức Tam Minh. Dùng tâm như thế để trì danh hiệu Phật. Niệm Phật như vậy công đức khó thể nghĩ nổi. Dùng đây làm nhân thì khi lâm chung quyết định được vãng sinh, nhưng đấy chỉ là Thập Niệm của Bồ Tát.

– Hai là pháp Thập Niệm buổi sáng của ngài Từ Vân Sám Chủ: Mỗi ngày vào lúc sáng sớm, súc miệng, đốt hương, hướng về phía Tây chắp tay, niệm Phật đủ mười hơi. Trong mỗi hơi, tận lực niệm Phật hiệu, cứ hết một hơi là một niệm. Cách này để tiếp dẫn người bận rộn công việc hoặc siêng tu pháp khác chẳng có nhiều thời gian để tu Tịnh nghiệp. Trọn đời tu như vậy sẽ được bổn nguyện, oai thần của đức Phật gia bị nên cũng được vãng sinh.

Trong phần này, Hòa Thượng Tịnh Không giải thích như sau: “Chẳng xen tạp kiết sử”: “Kiết” là phiền não, “sử” “Kiến Tư”, cũng chính là nói không xen lẫn Kiến Tư phiền não. Kiến Tư phiền não phía trước chúng ta đã học qua gồm có: Kiến Hoặc là cái thấy sai lầm (như: Thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến, tà kiến) và Tư Hoặc là suy nghĩ sai lầm (như : Tham, sân, si, mạn, nghi). Hai thứ này họp lại thành mười “Kiết sử”.

Khi niệm Phật, trong tâm thanh tịnh, hoàn toàn không có mười “Kiết sử” này thì kiến giải, tư tưởng đều chánh “chính là Bồ tát niệm”. Phàm phu chúng ta chưa đoạn được Kiến Tư phiền não, chưa đạt đến tâm thanh tịnh, nên niệm Phật chỉ là “phàm phu niệm”.

Kinh này dạy chúng ta “dĩ thanh tịnh tâm, hướng Vô Lượng Thọ, nãi chí thập niệm”, chính là nói đến dùng cái tâm đã đoạn dứt tam độc dâm, nộ, si, thành tựu trí đức Tam Minh mà niệm Phật. Nên nhớ: Tam Minh và Lục Thông có liên quan mật thiết với nhau. Khi

Lục thông đạt đến cảnh giới cao nhất thì gọi là Tam Minh. Đạt đến

“Tam Minh”, phải ít nhất là  từ Pháp Thân Bồ tát trở lên mới có năng lực này:

Thứ nhất là “Thiên nhãn minh”, trong kinh này nói là “đổng thị”, thấy xuyên suốt khắp biến pháp giới, hư không giới. Thứ hai là “Túc mạng minh”, hoàn toàn thấy được vô lượng, vô biên từ vô thỉ kiếp đến nay. Thứ ba là “Lậu tận minh” (lậu là phiền não), họ đã đoạn sạch hết tập khí phiền não. Chứng được Tam Minh thì trí tuệ, đức năng của họ ngang bằng với trí tuệ, đức năng của chư Phật Như Lai. Đây là Bồ tát ở thế giới Tây phương Cực Lạc, thật không thể nghĩ bàn! Mười phương thế giới chư Phật không có hiện tượng này.

Dùng tâm thanh tịnh để trì danh hiệu Phật thì phút lâm chung quyết định được vãng sinh, nhưng đấy chỉ là Thập Niệm của Bồ tát, phàm phu chúng ta chưa thể làm được.

Hai là pháp Thập Niệm buổi sáng của Ngài Từ Vân Sám Chủ. Phương pháp của Ngài là mười hơi. Mội hơi là một niệm, bất luận là niệm được bao nhiêu câu: A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, hết một hơi là một niệm. Cũng có thể áp dụng phương pháp nầy vào lúc sớm tối.

Phương pháp Thập Niệm của Hòa Thượng Tịnh Không dạy là mười câu Phật hiệu. Mỗi câu Phật hiệu phải niệm thật rõ ràng, nghe thật rõ ràng, ghi nhớ rõ ràng. Mỗi ngày niệm chín lần, tập thành thói quen, không thể thiếu sót: Sáng sớm thức dậy niệm một lần; buổi tối trước khi đi ngủ niệm một lần; trước khi dùng cơm sáng, trưa, chiều chấp tay niệm mười câu là ba lần; trước lúc làm việc buổi sáng niệm mười câu, công việc xong, tan ca, niệm mười câu là hai lần; buổi chiều cũng hai lần, trước lúc làm việc và sau khi tan ca. Tổng cộng là chín lần niệm Phật trong một ngày. Đây là niệm niệm không quên Phật A Di Đà, thời gian rất ngắn, mỗi lần khoảng một hai phút là xong.

* Mười niệm lúc lâm chung là như Quán Kinh dạy, thầm hợp với Lý nhất tâm nên chắc chắn được vãng sinh. Theo Hòa Thượng Tịnh Không chẳng những họ được vãng sinh mà phẩm vị của họ rất cao là Thượng Bối vãng sinh.

Theo chú giải của cụ Hoàng: Nhìn chung, các thứ mười niệm vãng sinh đều do đại nguyện “mười niệm ắt được vãng sinh” của Di Ðà hoằng thệ cảm thành.

“Nãi chí hoạch đắc nhất niệm tịnh tâm, phát nhất niệm tâm, niệm ư bỉ Phật” ( Thậm chí đạt được nhất niệm tịnh tâm, phát nhất niệm tâm, niệm đức Phật kia)

Câu “Nhất niệm tịnh tâm”, “phát nhất niệm tâm” cũng như “nhất niệm tịnh tín” trong đoạn văn trước đều là “nhất niệm” cả. “Nhất niệm” này là bản thể của mười pháp giới, là tên gọi khác của Chân Thật Tướng, cũng chính là cái được kinh Na Tiên gọi là “tối vi đệ nhất” (thật là bậc nhất) hay Di Ðà Sớ Sao bảo: “Toàn thể là Phật”.

Câu “Phát nhất niệm tâm, niệm ư bỉ Phật” (Phát nhất niệm tâm, niệm đức Phật ấy) chính là giáo nghĩa Nhất Niệm của ngài Hạnh Tây Thị người Nhật đã đề xướng. Phàm phu nếu có thể dùng tín tâm tương ứng với Phật trí trong một niệm thì sẽ được vãng sinh.  Hơn nữa, “nhất niệm” ấy toàn thể là Phật, mà cái toàn thể ấy cũng chính là đức Phật trong một niệm. Do niệm đức Phật ấy nên trong một niệm liền được tương ưng. Vì vậy, “định sinh bỉ quốc, đắc Bất Thoái Chuyển Vô Thượng Bồ Đề” (quyết định sinh về cõi kia, được bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Ðề).

“Thử nhân lâm mạng chung thời, như tại mộng trung, kiến A Di Đà Phật” (Người ấy lúc mạng sắp dứt như trong giấc mộng, thấy Phật A Di Đà): Do nhất niệm vãng sinh cũng chia ra ba bậc nên có nhiều phẩm loại. Do đó, ảnh tượng lúc lâm chung cũng trở thành sai khác:

1. – Ðối với bậc Thượng, ý tưởng sinh tử đã hết, bản thể của phàm hay Thánh đều là không, hiểu rõ Phật chẳng đến, đi, mà thấy Phật hiện đến; hiểu rõ sinh tử vốn là không mà hóa hiện có vãng sinh; bỏ đây sinh kia đều như huyễn mộng, nên nói “như trong giấc mộng”.

2. – Bậc Trung hiểu rõ thế gian đều như mộng, huyễn, bọt, bóng thoáng qua, nên lúc lâm chung chẳng lưu luyến gì, xem như giấc mộng.

Chỗ này, Hòa Thượng Tịnh Không giải rõ thêm: Bậc Trung tuy hiểu thế gian đều như mộng, huyễn, bọt, bóng; nhưng cái hiểu của họ chỉ là giải ngộ không phải thân chứng như hàng Thượng Bối. Đây là chỉ cho hàng A La Hán, Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ tát chưa kiến tánh, khi lâm chung họ vãng sinh về cõi Hữu Dư.

3. – Bậc Hạ lúc lâm chung phảng phất tựa hồ trong mộng, thấy đức Phật ấy nên cũng được vãng sinh (chỉ có bậc Hạ trong ba bậc của “nhất tâm tam bối” là chẳng giống với bậc Hạ vãng sinh nói trong phần Chánh Tông, còn hai bậc Thượng và Trung thì giống. Ðấy là do “nhất tâm tam bối” là một loại riêng chẳng giống với thói thường).

Chỗ này, Hòa Thượng Tịnh Không nêu ra nghi vấn và giải thích như sau:

– Bậc Hạ là ai?

– Là phàm phu lục đạo! Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước dẫy đầy. Tuy học Phật, nghe giáo, nhưng chưa hiểu, tức là chưa giải ngộ. Trong cuộc sống hàng ngày đối nhân, xử thế, tiếp vật vẫn do tập khí phiền não làm chủ. Then chốt là họ có thật tin, thật nguyện, thật niệm Phật hay chăng? Nếu họ có đủ ba điều kiện nầy thì lúc lâm chung sẽ phảng phất như mộng, họ thấy được Phật A Di Đà đến tiếp dẫn, sẽ được vãng sinh.

Do những điều trên, ta thấy rằng phẩm loại của những người niệm Phật đạt đến nhất tâm, được vãng sinh thật khác xa lắm:

– Trên là thánh hiền, dưới đến phàm phu, niệm Phật đạt đến nhất tâm, thậm chí “năng phát nhất niệm tịnh tín” (phát được nhất niệm tịnh tín) “hoạch đắc nhất niệm tịnh tín, phát nhất niệm tâm niệm ư bỉ Phật” (đạt được nhất niệm tịnh tâm, phát nhất niệm tâm niệm đức Phật kia) thì đều được vãng sinh.

– Thấp nhất là kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác lúc lâm chung phát nguyện, chí tâm niệm Phật mười niệm liên tục, thậm chí chỉ niệm được một câu, do ngầm khế hợp với Lý nhất tâm nên cũng được vãng sinh. Ðiều này thể hiện rõ ràng công đức của nhất tâm thật là bậc nhất.

Pháp môn Tịnh Ðộ thật quá ư vi diệu: Ngũ Nghịch, Thập Ác lúc lâm chung niệm Phật còn thầm hợp diệu đạo, khế hợp Lý nhất tâm, liền vượt sinh tử, chứng ngôi Bất Thoái. Rõ ràng  pháp Trì Danh là phương tiện rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn!

Cũng theo cụ Hoàng; Trong hai loại vãng sinh vừa nói trên:

– Một là tam bối vãng sinh đều do “phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm”, đây chính là tông chỉ của kinh nầy.

– Hai là nhất niệm tịnh tín, nhất niệm vãng sinh đều do “nhất niệm”.

“Nhất niệm” là Thật Tướng, đó chính là bản thể Chân Như, là tự tánh của chính mình. Hơn nữa, toàn thể của “nhất niệm tịnh tâm” là Bồ Ðề tâm, “niệm đức Phật ấy” chính là chuyên niệm. Như vậy, “nhất tâm tam bối” cũng chẳng ra ngoài tông chỉ của kinh nầy.

Riêng về Ngũ Nghịch, Thập Ác; Quán kinh bảo là được vãng sinh; kinh nầy dạy “duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp” (chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp) không được vãng sinh. Trong Quán Kinh Nghĩa Sớ, ngài Gia Tường đã giải thích vấn nạn này như sau:

“Phẩm thứ ba nói về ba hạng người ác.

Trước hết, bàn về người tạo Thập Ác, tiếp đó bàn đến kẻ tạo tội Tứ Trọng, cuối cùng bàn về kẻ Ngũ Nghịch, chẳng bàn đến hạng Báng Pháp Xiển Ðề (kẻ báng pháp gọi là “xiển-đề”) nên gọi là ‘ác chẳng tận’.

Thập Ác, Tứ Trọng, Ngũ Nghịch đều được vãng sinh Tây phương. Nếu là kẻ báng pháp xiển-đề thì chẳng được vãng sinh! Xiển-đề chẳng tin pháp, khi lâm chung dẫu nói có đức Vô Lượng Thọ Phật, họ vẫn hoàn toàn không tin nên không được vãng sinh”.

“Thập ác” là sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, hai lưỡi, ỷ ngữ, ác khẩu, tham dục, sân khuể, ngu si. “Tứ trọng” là bốn giới trọng của người xuất gia: Sát sinh, trộm cắp, dâm dục, vọng ngữ.

Xét ra, chỗ này cũng nên lưu ý: Trong Ngũ giới của người tại gia, giới thứ ba là giới “Tà dâm”, không phải là giới “Dâm dục”như người xuất gia, nên có câu: “Tại gia Ngũ giới, duy chế tà dâm, xuất gia Thập giới, toàn đoạn dâm dục”. Có nghĩa là trong Ngũ giới tại gia, Đức Phật chỉ hạn chế không được tà dâm tức là không được quan hệ tình dục với người không phải là thê thiếp của mình, đồng thời cũng không được hành dâm quá mức với người phối ngẫu, đây cũng là tà dâm. Riêng đối với người xuất gia thì Phật cấm hẳn sự dâm dục. Nếu can phạm đến tất cả nam nữ trong thế gian đều là phạm giới cả.

Trong kinh Lăng Nghiêm có ghi: Tỳ kheo ni Bảo Liên Hương lén làm việc dâm dục, rồi chính mình tuyên nói: “Dâm dục phi sát phi thâu, vô hữu tội báo, toại cảm thân xuất mãnh hỏa, sinh hãm địa ngục” (Dâm dục không phải là giết thân ai, không phải trộm của ai, nên không có tội báo, do vậy mà cảm ra thân xuất lửa dữ, đang sống mà vùi xuống địa ngục).

Người đời vì dâm dục mà giết thân, mất nhà; xuất gia làm tăng sĩ há lại còn phạm ư?! Căn bản sinh tử, dục là thứ nhất nên kinh dạy: “ Tuy dâm dật nhi sinh, bất như trinh khiết nhi tử” ( tức là : Dẫu dâm dật mà sống, không bằng trinh tiết mà chết). Nên nhớ: Giới thứ ba của Sa di ni là không được dâm dật. “Không dâm dật” là nhất tâm thanh khiết: Thân không dâm dật, miệng không nói dâm dật, mắt không nhìn sắc dâm, tai không nghe tiếng dâm, mũi không ngửi hơi dâm, lưỡi không nói lời dâm, ý không nghĩ điều dâm. Phải quán thân là tứ đại (đất, nước, lửa, gió) vốn không thật có. Lại xét tứ đại ấy cũng không “ngã”, không “nhân”, không “thọ”, không “mạng”, vậy dâm dật cái gì? Vướng mắc vào đâu? Nên chí nguyện sống bằng “Tam Giải Thoát Môn” là : Không, Vô Tướng, Vô Nguyện.  

Về giới “vọng ngữ”, có bốn:

1- Nói dối: Phải bảo trái, trái bảo phải; thấy nói không, không nói thấy.

2- Nói thêu dệt: Trau chuốt, dùng từ ngữ hoa mỹ để dẫn dắt dục vọng, tăng thêm sầu bi cho người khác.

3- Nói thô ác: Nói thô tục, nói lời độc ác, mắng chửi người v.v…

4- Nói hai lưỡi: Đến người này nói người kia; đến người kia nói người này, li gián, khêu chọc, trước khen sau chê, rêu rao lỗi người v.v…đều là vọng ngữ. Riêng, chưa chứng quả mà nói chứng quả đó là “đại vọng ngữ”.

“Xiển-đề” là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là người không có căn lành, họ không tin tưởng Tịnh Độ, không tin có Phật A Di Đà, không tin có thế giới Tây phương Cực Lạc, làm sao có thể phát nguyện vãng sinh?!

Riêng tác phẩm Tứ Thiếp Sớ có quan điểm khác hẳn. Ngài Thiện Ðạo Đại sư viết: “Như trong bốn mươi tám nguyện lại loại trừ kẻ báng pháp, Ngũ Nghịch… Ðức Như Lai sợ chúng sinh tạo hai tội lỗi ấy nên phương tiện nói ngăn ngừa là chẳng được vãng sinh, chứ chẳng phải là không tiếp độ… Nếu trót tạo tội (rồi sám hối, phát nguyện, trì danh hiệu Phật) thì cũng được vãng sinh”.

Thiện Đạo Đại sư là Phật A Di Đà tái lai, nên lời trên đây cũng chính là Phật A Di Đà nói. Trong nguyện thứ hai mươi: “lâm chung tiếp dẫn” có nói: “Duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp”, chính là nói kẻ Ngũ Nghich, phỉ báng chánh pháp thì không được Phật tiếp dẫn. Đây là đức Phật Thích Ca sợ chúng sinh tạo hai tội lỗi ấy nên phương tiện nói không được vãng sinh.

Xét ra, hai bản sớ trên đây tuy giải thích khác nhau, nhưng thật sự chẳng mâu thuẫn nhau. Ngài Gia Tường bảo kẻ xiển-đề báng pháp chẳng thể khởi tín tâm nên không được vãng sinh. Ngài Thiện Ðạo bảo tuy họ là kẻ báng pháp Ngũ Nghịch, nhưng lúc lâm chung, nghe pháp có thể sinh lòng tin, chân thành sám hối, chí tâm tin ưa, nguyện sinh cõi kia, dẫu chỉ mười niệm, Phật cũng rủ lòng đại từ  đến tiếp dẫn họ vãng sinh Cực Lạc.

Như Thiên Thân Bồ tát, lúc trẻ học Tiểu thừa, hủy báng Đại thừa. Sau nầy Ngài giác ngộ, thành tâm sám hối, muốn cắt lưỡi mình. Anh Ngài khuyên chẳng cần phải như vậy, trước đây em dùng lưỡi phỉ báng Đại thừa, nay sao không dùng lưỡi để tán thán Đại thừa, có phải vẫn tốt hơn sao? Ngài tiếp nhận lời khuyên của anh mình. Sau nầy, Ngài soạn năm trăm bộ luận tán thán Đại thừa, Ngài đã vãng sinh Tịnh Độ. Ngạn ngữ có câu “người biết quay đầu thật đáng quý”. Huống hồ đức Thế Tôn từng dạy chúng ta “tất cả chúng sinh vốn dĩ thành Phật).

Tuy nhiên, những kẻ xiển-đề lúc lâm chung khởi được tín tâm thì thật là rất khó trong các điều khó. Kẻ lâm chung mười niệm vãng sinh như Quán Kinh dạy cũng là trong vạn vạn người mới có được một người. Còn như Tứ Thiếp Sớ bảo kẻ báng pháp Ngũ Nghịch lâm chung chí tâm tin ưa niệm Phật vãng sinh thì trong ức ức người mới có được một người. Lời nầy là Niệm lão khích lệ chúng ta, chớ nên ỷ lại cầu may, đợi đến lâm chung niệm Phật vẫn còn kịp, đây là ý nghĩ sai lầm, thật quá sai! Thử hỏi, lâm chung chúng ta có đủ ba điều kiện: Tỉnh táo, gần thiện tri thức nhắc nhở, khai thị; phát tâm niệm Phật hay chăng? Không đủ ba điều kiện này thì không thể vãng sinh!

Kinh Pháp Cổ lại bảo: “Nhược nhân lâm chung bất năng tác niệm, đản tri bỉ phương hữu Phật, tác vãng sinh ý, diệc đắc vãng sinh” (Nếu ai lúc lâm chung chẳng thể niệm nổi, chỉ biết là phương kia có Phật, liền khởi ý muốn vãng sinh thì cũng được vãng sinh). Như Lai từ đức vi diệu khó nghĩ bàn! Vì thế, sách An Lạc Tập bảo: “Phải biết rằng Như Lai có phương tiện thù thắng, nhiếp thủ hộ trì tín tâm, chính là: Dùng việc chuyên nhớ tưởng Phật làm nhân duyên để tùy nguyện vãng sinh”.

Sách còn khen ngợi: “Nếu nghe đức hiệu của A Di Ðà Phật mà hoan hỉ, khen ngợi, ngưỡng mộ, tâm quy y dẫu chỉ trong một niệm, liền được đại lợi, đầy đủ báu công đức. Giả sử lửa dậy khắp cõi Ðại Thiên cũng phải trực nghe qua danh hiệu Phật. Nghe danh A Di Ðà Phật thì chẳng thoái chuyển. Vì vậy hãy nên chí tâm thủ lễ”. Nói rõ hơn, chí tâm niệm Phật, cho dù lửa cháy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, họ đều có thể vượt qua.