OAN GIA
Tỳ kheo Thích Trí Siêu

 

Các chuyện oan gia

Chuyện oan gia của chúng sinh vô lượng vô biên, không ai có thể biết hết được.  Ở đây tôi chỉ kể tượng trưng vài chuyện góp nhặt từ kinh sách, trang mạng và sách báo.

1/ Mạt Lợi Phu Nhân và bốn tên khiêng kiệu

Một hôm nọ vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) và hoàng hậu Mạt Lợi phu nhân (Mallika) đến tịnh xá Kỳ Viên nghe Phật thuyết pháp. Vua cưỡi ngựa, còn hoàng hậu ngồi trên kiệu do bốn người Phiến Đề La[1] khiêng vác. Đến nơi, trong lúc vua và hoàng hậu vào nghe thuyết pháp thì bốn tên khiêng kiệu nằm chờ ở ngoài cổng tịnh xá. Trong lúc bọn chúng ngủ mê, một kẻ gian lén trộm lấy ngọc mani châu trên kiệu báu của hoàng hậu.  Khi ấy cận vệ của hoàng hậu ra ngoài xem chừng, thấy mất ngọc mani liền nghi bốn tên này ăn trộm nên nổi giận lấy roi đánh tụi nó. Bị đánh đau quá, một tên bỏ chạy vào tịnh xá kêu oan làm mọi người chú ý.

Phật bảo ngài A Nan:

– Ngươi hãy đi ra bảo cận vệ đừng đánh oan người vô tội. Vì bốn người này chính là thầy đời trước của hoàng hậu.

Hoàng hậu nghe Phật nói như vậy, liền đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Như lời Thế Tôn nói té ra bốn người khiêng kiệu cho con chính là thầy đời trước của con. Con thật mê muội không rõ, cúi xin Thế Tôn từ bi nói rõ nhân duyên cho chúng con được biết.

Phật nói như sau:

– Trong một kiếp quá khứ, gặp lúc hạn hán, thiên tai, dân chúng đói khát, khi ấy có năm vị tỳ kheo lười biếng, không học giáo lý, kinh luật, không tu hành nghiêm túc nên không ai cúng dường, bị đói khát khốn khổ. Năm người bày mưu với nhau: mỗi người đi xin, sắm được tọa cụ, tìm chỗ đồng trống quét dọn sạch sẽ, rồi làm bộ ngồi thiền nhập định để người đời trông thấy tưởng là thánh nhân, sẽ đem đồ ăn đến cúng dường. Và quả nhiên đúng như vậy! Dân chúng từ từ đồn nhau tới cúng dường bậc thánh nhân.

Khi ấy có một nữ cư sĩ thuần thành tên là Đề Vi nghe đồn liền sai người đi dò hư thực. Người đi dò tin về thưa rằng: “Có năm vị thánh nhân ngồi tu trong núi, người ta đua nhau xúm lại hầu hạ cúng dường”.

Đề Vi nghe xong, trong lòng rất hoan hỷ, sai người sắm sửa hương hoa kỹ nhạc, trăm món thức ăn đi đến chỗ năm thầy tỳ kheo để cúng dường. Đến nơi làm lễ, thiết đãi cúng dường năm thầy tỳ kheo xong. Đề Vi và quyến thuộc cung kính chắp tay thưa với năm thầy tỳ kheo rằng: “Quý ngài là bậc chân tu, đức dày phước lớn. Đệ tử muốn thỉnh quý ngài quang lâm đến bần xá, để trọn đời cúng dường hầu hạ. Nhà đệ tử có vườn cây thanh tịnh, suối ao trong mát, cúi xin quý ngài từ bi thương xót hứa khả”.

Thấy bà Đề Vi và quyến thuộc thành khẩn cầu thỉnh đôi ba lần, năm vị tỳ kheo nhận lời.

Đề Vi hoan hỷ từ tạ trở về, sai người chuẩn bị xe báu, đến rước năm thầy tỳ kheo về nhà cúng dường. Nhà bà có vườn cây vuông vức mười mẫu, trong đó có suối trong, ao mát, nhiều hoa thơm quả lạ. Bà cho xây dựng phòng ốc bằng bảy báu, sắm đủ giường nệm và tọa cụ tốt đẹp, rồi mời năm thầy tỳ kheo về ở và trọn đời cung cấp phụng sự đầy đủ.

Khi ấy, năm thầy tỳ kheo được chủ nhân cúng dường hậu hỷ, khởi nghĩ rằng: “Có gì sung sướng cho bằng. Người ta sinh ra ở đời phải tìm mọi cách kiếm sống qua ngày, dù được như ý nhưng cũng không thể bằng bọn ta, chẳng nhọc thân mà lại được hưởng phước lộc, đây há chẳng phải nhờ sức trí huệ hay sao?”

Năm thầy tỳ kheo tuy được bà Đề Vi hết lòng trọng đãi, cúng dường đầy đủ các thứ cần dùng, nhưng lòng tham chưa thỏa, muốn kiếm thêm tiền của để sau này thọ hưởng riêng thú vui ngũ dục.  Họ bàn với nhau, sai một người đi dạo trong làng xóm, rao nói mọi người: “Bốn thầy tỳ kheo kia, ở yên một chỗ vắng lặng, giữ gìn giới cấm, dứt hẳn rượu thịt, tu thiền chỉ quán, chứng nghiệp vô lậu. Chẳng bao lâu sẽ chứng quả A La Hán, thật là bậc vô thượng phước điền trong thiên hạ.”

Nhiều người nghe thấy, đua nhau mang đến đủ thứ tiền tài ẩm thực, cung kính cúng dường, như thế nhiều năm. Còn bà Đề Vi vẫn một lòng tin kính, tiếp tục cúng dường không chán. Sau khi chết, bà được tái sinh lên cõi trời Hóa Lạc.

Còn năm vị tỳ kheo kia, chuyên làm việc lừa đảo, lợi dụng lòng tốt của kẻ khác, nên sau khi mạng chung, sinh vào địa ngục tám nghìn ức kiếp chịu quả báo rất khổ. Sau khi hết tội địa ngục, phải chịu thân ngạ quỷ trải qua tám nghìn kiếp. Sau khi hết nghiệp ngạ quỷ, phải làm thân súc sinh để đền trả sự cúng dường đời trước cho chủ nhân.

Phật bảo vua Ba Tư Nặc:

– Bà Đề Vi thuở đó chính là hoàng hậu hiện nay. Còn năm thầy tỳ kheo, bây giờ là năm người khiêng kiệu cho hoàng hậu.

Vua bạch Phật rằng:

– Theo như lời Đức Thế Tôn nói thì có năm người, nhưng sao chỉ thấy có bốn người khiêng kiệu, còn một người nữa ở chỗ nào?

Phật bảo vua:

– Người thứ năm là người thường ở trong cung quét dọn cầu xí và đổ phân.

Hoàng hậu nghe xong rùng mình rởn ốc, ôm lòng kinh sợ, bạch với Phật rằng:

– Thưa Đức Thế Tôn! Nay con biết được họ là thầy của con đời trước, lòng con rất lo sợ phạm tội. Bởi vì đối với bậc thầy của mình thì phải cung kính lễ bái mới phải. Mà nay trở lại sai khiêng kiệu không khác gì trâu ngựa. Vì nhân duyên đó nên con rất lo sợ, cúi xin Phật thương xót dạy con sám hối.

Phật bảo hoàng hậu:

– Hoàng hậu không có tội lỗi gì nên chớ kinh sợ! Chúng sinh nhiều căn tánh, hạnh nghiệp không giống nhau, làm lành thì hưởng phước, làm ác thì thọ tai ương. Hoàng hậu đời trước tâm thanh tịnh, ưa cúng dường các bậc tu hành, nhờ phước đức đó nên sinh ra mỗi kiếp thường gặp minh sư. Cho đến ngày nay hưởng phước gặp Phật ra đời, được nghe Chánh pháp, tín thọ phụng hành, nên không có tội lỗi chi.

Sau khi nghe Phật khai thị, hoàng hậu muốn tha cho bốn tên Phiến Đề La, không dám sai khiến nữa và cầu xin Phật thuyết pháp cho chúng hiểu đạo, bỏ ác tu thiện để mau thoát khổ.

Phật bảo hoàng hậu:

– Nếu nay muốn Ta khai hóa thì phải nên gọi người đổ phân trong cung lại đây luôn.

Hoàng hậu liền sai sứ đi gọi người thứ năm đến. Sứ giả vâng lệnh đi gọi, trong giây phút cả năm người Phiến Đề La nhóm lại đứng trước Phật.

Đức Thế Tôn từ bi hỏi thăm:

– Các ngươi thân thể có được mạnh khỏe, an ổn, vui sướng chăng?

Năm người nổi giận nói rằng:

– Chúng tôi ngày đêm cực khổ, bị đánh đập sai sử không được nghỉ ngơi, có vui sướng gì đâu, Phật há không biết hay sao mà lại hỏi các ngươi có an ổn, vui sướng chăng?

Phật bảo năm người rằng:

– Sự khổ ngày nay của các ngươi đều do đời trước gian dối, nịnh hót, đem tâm bất thiện, lường gạt người khác để thọ hưởng cúng dường. Nghiệp tội đó đền trả đến nay vẫn còn chưa hết.  Nếu muốn thoát khỏi quả báo ác thì phải hết lòng sám hối, cải dữ tu lành.

Bọn Phiến Đề La nghe Phật nói, đùng đùng nổi giận, quay lưng đi, không muốn nghe nữa. Phật bèn dùng thần lực hiện ra một hóa Phật đứng trước mặt bọn chúng, dùng phương tiện khuyên bảo sám hối. Nhưng bọn chúng tức mình quay mặt về hướng Đông, cũng thấy hóa Phật đứng ở trước mặt. Quay về hướng Tây, cũng có hóa Phật. Quay về hướng nào cũng đều có Phật đứng ở trước mặt. Bọn chúng bí quá la lên:

– Chúng tôi là người tệ ác, Phật không thương xót mà còn bao vây, áp đảo thêm nữa!

Khi ấy, Thế Tôn liền thâu nhiếp hóa Phật lại thành một Phật và bảo đại chúng:

– Các ngươi phải biết chúng sinh tội nghiệp có hai món chướng. Một là Nghiệp chướng[2], hai là Phiền não chướng[3]. Người tội nhẹ thì có phiền não chướng, người tội nặng thì có nghiệp chướng. Bọn Phiến Đề La đây có đủ cả hai chướng. Vì tội chướng quá nặng nên không thể nghe được lời giáo hóa của Phật.

Hoàng hậu thấy bọn Phiến Đề La không chịu nghe lời Phật giáo hóa, buồn cảm thương tâm nói với năm người rằng:

– Ta nay đã rõ nhân duyên đời trước nên tha cho các ngươi, muốn đi đâu tùy ý.

Bọn chúng quỳ gối khóc lóc thưa với hoàng hậu:

– Muôn tâu lệnh bà, chúng tôi phụng sự hầu hạ không biết có làm lỗi gì mà lệnh bà lại đuổi chúng tôi? Nếu có gì không vừa ý, cúi xin lệnh bà rộng lòng tha thứ, cho chúng tôi hầu hạ như trước.

Hoàng hậu khiêm nhường từ chối đôi ba lần, nhưng bọn Phiến Đề La nhất định ở lại, không chịu đi đâu hết. Túng thế, hoàng hậu cầu cứu đến Phật:

– Thưa Thế Tôn! Con thiệt tình dung thứ cho bọn Phiến Đề La mà chúng không chịu đi, nhất định ở lại trả nợ, vậy phải làm sao đây?

Phật bảo hoàng hậu:

– Bọn chúng trả nợ đời trước chưa hết, nhân duyên bó buộc nên không đi được. Hoàng hậu chẳng cần làm sao, cứ để chúng phụng sự như trước, đến khi nào trả hết nợ thì tự động chúng sẽ ra đi.

Lời bình Đây là một trường hợp oan gia đặc biệt, trong đó chủ nợ là Mạt Lợi phu nhân, muốn tha cho con nợ, nhưng chúng nó không chịu bỏ đi.  Bởi vì luật nhân quả khiến chúng không đi được, phải ở lại để trả nợ cho xong.

2/ Vua A Xà Thế giết cha

Vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) và Hoàng hậu Vi Đề Hi (Kosaladevi) là người rất nhân đức và thương dân, nhưng lại không có con. Vua thiết tha mong có con nối nghiệp nên tìm đến một vị tiên nhân nổi danh trong nước để xin hướng dẫn. Ông này mách bảo có một đạo sĩ tu tiên ở trong rừng, là người có căn duyên với vợ chồng nhà vua và sẽ tái sinh làm thái tử. Ông đạo sĩ này tuổi đã già lắm nhưng chưa muốn chết và còn cố kéo dài tuổi thọ. Được chỉ dẫn nên vua tìm đến nơi ông tiên đang cư trú thỉnh cầu ông nhập diệt. Ông tiên chưa muốn chết nhưng vì vua cứ hối thúc hoài nên bất đắc dĩ phải xả định, không kéo dài tuổi thọ nữa và trong lòng rất uất hận nhà vua. Do chết với tâm sân hận vì bị bức tử, nên khi tái sinh trong hoàng cung, ông đã có ác cảm với vua cha. Khi lớn lên thái tử A Xà Thế bị Đề Bà Đạt Đa dụ dỗ xúi giục ông giết cha để chiếm ngôi, còn Đề Bà Đạt Đa thì giết Phật để lên lãnh đạo Tăng đoàn.

Chẳng may âm mưu bại lộ, A Xà Thế bị bắt quả tang. Các triều thần khuyên vua nên giết thái tử để trừ hậu họa, nhưng vua Tần Bà Sa La vì lòng từ bi thương con, không xử phạt mà còn nhường ngôi cho A Xà Thế. Ðể trả ơn, vị thái tử bất hiếu vừa lên ngôi liền hạ lệnh nhốt cha vào ngục và bỏ đói cho chết. Chỉ một mình Hoàng thái hậu được phép vào thăm.

Mỗi khi vào thăm chồng, bà tắm rửa sạch sẽ rồi thoa vào mình một thứ đồ ăn làm bằng mật ong và sữa để cho vua bóc lấy mà ăn. A Xà Thế biết được, nổi giận tính giết luôn cả mẹ, nhưng nhờ hai vị đại thần khuyên can nên ông ra lệnh nhốt mẹ vào thâm cung không cho ra nữa.

Lúc ấy vua Tần Bà Sa La cam chịu đói, nhưng lòng vẫn không oán trách con. Ông đã đắc quả Tu Ðà Hoàn nên thản nhiên, cố gắng kinh hành và thiền định trong ngục để thọ hưởng thức ăn tinh thần. Thấy cha vẫn còn sống mặc dù bị bỏ đói đã 21 ngày, A Xà Thế nhất định giết cho khuất mắt nên hạ lệnh cho người thợ cạo vào khám, lấy dao bén gọt gót chân vua, xát dấm và muối vào rồi hơ trên lửa nóng.

Khi người cha bất hạnh thấy người thợ cạo đến thì mừng thầm, ngỡ rằng con mình đã ăn năn hối cải, cho người đến cạo râu tóc để rước về. Ai ngờ, anh thợ cạo đến chỉ đem lại cho vua cái chết vô cùng thê thảm.

Cùng ngày ấy, vợ A Xà Thế hạ sinh một hoàng nam. Vua A Xà Thế vui mừng không sao kể xiết, cả người nhẹ nhàng vui sướng. Tình thương của một người cha lần đầu tiên chớm nở trong lòng, thấm vô từng khớp xương ống tủy. Ðứa con đầu lòng là một nguồn yêu thương, là cơ hội để cha mẹ thưởng thức một tình thương mới mẻ đậm đà. Cảm giác đầu tiên của người mới được đứa con đầu lòng dường như đưa họ vào cảnh giới kỳ lạ, khiến họ có cảm tưởng máu huyết mình đã đổ giọt ra để nối tiếp mình.

Tức khắc A Xà Thế vội vã chạy đi tìm mẹ để hỏi:

– Thưa mẫu hậu, khi con còn nhỏ Phụ hoàng có thương con không?

– Tại sao con hỏi lạ vậy? Mẹ tưởng trên thế gian này không tìm đâu ra một người cha lành như cha con. Ðể mẹ kể lại cho con nghe. Lúc mẹ còn mang thai con, ngày nọ bỗng nhiên mẹ cảm thấy thèm khát lạ lùng một món kỳ quái.  Mẹ thèm nút vài giọt máu trong bàn tay mặt của cha con. Mà nào mẹ dám nói ra. Rồi càng ngày mẹ càng xanh xao, và sau cùng phải thú thật với cha con.  Khi nghe vậy, cha con vui vẻ lấy dao rạch tay cho mẹ nút máu. Lúc ấy các nhà chiêm tinh trong triều tiên tri rằng con sẽ là kẻ thù của cha con. Do đó tên con là A Xà Thế (Ajatasattu, có nghĩa là kẻ thù chưa sinh).  Mẹ có ý định giết con ngay trong lòng nhưng cha con cản lại. Một hôm con có cái nhọt trên đầu ngón tay, nhức nhối vô cùng, khóc suốt ngày đêm, không ai dỗ được. Cha con đang cùng bá quan phân xử việc triều đình, nghe vậy cầm lòng không đặng, bế con trong lòng và không ngần ngại ngậm ngón tay của con trong miệng nhẹ nhẹ nút cho con đỡ đau. Gớm thay!  Cái mụn nhọt bể, máu mủ tuôn ra trong miệng cha con. Nhưng sợ nhả ra, con sẽ đau nên cha con nuốt luôn cả mủ lẫn máu vào bụng.

Nghe đến đó bỗng vua A Xà Thế đứng phắt dậy, kêu lên như điên: – Hãy chạy mau, thả ra lập tức người cha yêu quý của trẫm.

Nhưng than ôi!  Khi ấy người cha yêu quý đã bị ông ra lệnh giết chết mất rồi.

Lúc bấy giờ ông mới nhận ra rằng chỉ khi bắt đầu làm cha mới biết được tình cha thương con như thế nào.

Vua A Xà Thế sau này biết lỗi, ăn năn sám hối và trở thành một Phật tử thuần thành, hộ đạo bậc nhất, nhưng luật nhân quả, oan oan tương báo, khó tránh khỏi. Sau khi trị vì 32 năm, chính ông cũng bị con giết và chiếm ngôi y như mình đã làm khi xưa.

Lời bình: A Xà Thế chính là đứa con oan gia của vua Tần Bà Sa La, sinh ra làm con để trả thù. Vua Tần Bà Sa La lỡ tạo nghiệp xấu là ép vị tiên nhân chết sớm để tái sinh làm con mình để có người nối ngôi.  Nhưng sau đó nhờ gặp Phật nghe pháp tu hành, ông chứng quả Tu Đà Hoàn. Thay vì xử phạt A Xà Thế âm mưu chiếm ngôi, ông lại từ bi nhường ngôi cho con. Mặc dù ông bị nhốt, bỏ đói và giết chết nhưng ông không hề khởi tâm oán trách con. Ông đã trả nghiệp oan gia một cách tốt đẹp, do đó sau khi chết, ông tái sinh ngay lên cảnh trời Tứ thiên vương.

Phần hoàng hậu Vi Đề Hi, bị nhốt trong thâm cung không được đi thăm chồng, bà khổ sở than khóc, cầu nguyện đến Đức Phật. Ngài bèn hiện đến cùng với hai tôn giả Mục Kiền Liên và A Nan, khai thị cho bà thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

Do nhân duyên này mà có kinh Quán Vô Lượng Thọ, dạy về 16 phép quán để vãng sinh Cực Lạc.

3/ Người cha giết con trai ruột

Anh Trần Văn Hải[4] (44 tuổi), chém chết con trai là Trần Văn Tú (21 tuổi), vì nó hỗn với cha.

Ngồi buồn thiu trong phòng hỏi cung ở trại tạm giam công an, anh Hải trả lời chậm chạp và dường như không đúng trình tự thời gian. Đoạn nọ chắp đoạn kia rời rạc, vô cùng khó hiểu. Một lúc sau thì anh Hải bưng mặt khóc. Vì cay đắng bởi thân phận người đàn ông phải đi ở rể. Vì tài hèn sức mọn nên không có tiếng nói trong gia đình. Vì uất ức bởi đứa con trai luôn coi thường bố, sẵn sàng chửi tục, thậm chí đánh bố không thương tiếc.

Ngày 12-5, anh Hải đi chợ mua hai lạng thịt mỡ về rán và nhờ con trai canh chừng dùm rồi ra vườn dọn dẹp. Đến khoảng trưa trở về, anh thấy chảo mỡ đã cháy đen, liền biết là Tú không nghe lời, tính mắng con một trận. Nhưng lúc đó Tú đang nằm trò chuyện cùng anh Hiền, người bạn làng bên, nên anh Hải bỏ qua đi sang hàng xóm mua bia hơi, mang về đặt cạnh giường và mời Hiền, nhưng anh này từ chối. Thấy bố đi ra bàn nước, Tú chửi tục rồi vớ chai bia ném trúng bắp chân bố. Anh Hải không nói gì, nhặt chai bia lên và lại đặt cạnh chỗ anh Hiền tiếp tục mời anh này uống. Tú nhoài người tóm chai bia định ném bố tiếp thì bị anh Hiền giơ tay ngăn lại.

Khi ấy anh Hải lẳng lặng xuống bếp, lấy con dao phay lên chỗ cậu con trai đang nằm và bao nhiêu uất ức bấy lâu nay, Hải dồn hết sức chém một nhát vào cổ Tú. Tú chỉ kịp kêu một tiếng “ái” rồi đưa tay chặn vào vết thương. Anh Hiền vội vàng gọi người và gọi xe đưa bạn đi cấp cứu nhưng đã quá muộn. Gây án xong, anh Hải đi bộ tới trụ sở Ủy ban nhân dân đầu thú.

Cả thôn xóm bàng hoàng trước hung tin. Qua ngày hôm sau, khi đã được đưa về công an tỉnh, anh Hải mới biết tin con trai mình đã chết. Nhưng dường như mọi cảm xúc trong người anh đã chết.

Hải thừa nhận: “Em cũng hơi sai một tí vì lúc đó em nóng quá”.

– Anh lấy vợ năm nào?

– Em lấy năm 1987. Vợ chồng em được hai cháu, cháu gái lớn sinh năm 1989, lấy chồng ở riêng rồi, còn cháu trai là Tú. Nó không có việc và chẳng chịu làm ăn gì. Nó học hết lớp 9 thì nghỉ. Sau đó em nộp đơn ra xã xin cho cháu đi bộ đội.

– Tại sao anh lại muốn con mình đi bộ đội, lẽ ra phải cho nó học tiếp để có nghề nghiệp ổn định chứ?

– Em muốn cháu ngoan hơn nên xin cho nó đi bộ đội.

– Vậy bình thường nó hư lắm à?

– Nó không hư nhưng hay cãi láo, chửi bậy với bố mẹ. Nó xuất ngũ tháng 1-2012, em cho nó đi học nghề khai thác than nhưng nó lại bỏ rồi. Em tưởng nó ra ngoài xã hội học được một sàng khôn, không ngờ nó vẫn hỗn láo. Nó chưa từng giúp đỡ bố mẹ việc nhà và hàng ngày bố mẹ vừa đi làm vừa phải về nhà nấu cơm hầu ông con!

– Nghe nói anh hay say rượu lắm? Mỗi lần say là hai bố con lại cãi nhau?

– Em chỉ uống ba chén rượu là say. Mỗi lần say em hay sai cháu làm cái nọ cái kia, nó thường không nghe lời. Thế là em lại uất!  Máu bốc lên đầu, đau lắm. Mà mình vì chữ nghĩa chẳng biết, nên làm sao cãi lý lại được với nó.

– Anh học hết lớp mấy?

– Em học hết lớp 1.

– Có biết đọc, biết viết không?

– Không.

– Trong nhà anh, ai là người nắm kinh tế?

– Vợ em. Em ở rể mà. Ngày xưa có người mối lái, nhà em thì đông anh em, bố lại chết sớm, vợ em chỉ có một mình nên em về ở rể luôn. Em lái máy cày, cày thuê ruộng cho người ta, mỗi ngày cũng được hơn trăm nghìn. Tối về uống vài chén rượu rồi đi ngủ. Em toàn bị vợ bắt ngủ một mình thôi. Ở trong nhà, em là người yếu nhất.

– Anh có bao giờ đánh con chưa?

– Chưa hề. Từ bé đến giờ em chưa bao giờ dám đụng vào ai. Em yếu lắm. Yếu đuối nữa!

– Tú hay đánh bố lắm phải không?

Hải òa khóc lớn khoảng 15 phút rồi mới nói nên lời.

– Nó đánh em tất cả ba lần. Lần đầu là năm 2007.

Hôm đó cả nhà ra đồng cày giúp bà nội thửa ruộng.

Đất ruộng hơi cứng nên Tú cằn nhằn. Em mới bảo: “Ruộng của bà chứ của ai mà cằn nhằn”, vậy là nó xông vào đánh em ngã xuống ruộng. Lần thứ hai em không nhớ chính xác, hình như là năm 2010, lúc đó nhà em đang lắp cái cửa nách. Hôm ấy thợ thuyền tới lắp cửa, em mới nói là cửa này chưa lắp được đâu, thế là nó đấm em chảy máu mồm, mẻ cả răng cửa. Lần thứ ba thì mới đây thôi. Nó với chị nó cãi nhau chuyện gì đó, em mới hỏi: “Chị em chúng mày có chuyện gì mà lại cãi nhau”, nó bảo em: “Ông biết cái gì mà nói” rồi đạp em ngã từ cầu thang xuống đất, sưng vều môi.

– Khi đó vợ anh có mặt ở đó không?

– Có, lần đầu có cả đứa con gái nữa. Nhưng cả ba mẹ con nó đều xông vào đẩy em ngã.

– Vợ mà chẳng bênh chồng, để con láo nhỉ?

– Ba mẹ con nó vào hùa với nhau mà. Nếu hai vợ chồng mà đánh nhau chắc là em thua, vì vợ em khỏe hơn. Trong nhà, em là người yếu nhất. Mỗi lần bị con trai đánh, em kể hoặc vợ chứng kiến nhưng chỉ im lặng. Bà ấy bênh con trai lắm. Có lần hai vợ chồng to tiếng, bà ấy dọa: “Tôi về tôi bảo con tôi đánh cho ông một trận”.

– Bạn bè của Tú có biết chuyện anh ta đánh bố không?

Có. Mấy đứa đến chơi, em hỏi chúng nó: “Ở nhà, chúng mày có đánh bố chúng mày sưng vều môi không?” Chúng nó bảo thằng Tú không được làm vậy, nhưng nó chẳng nói gì. Lần sau bực mình, nó lại lôi bố ra đánh tiếp.

– Nhà ngoại không được, thì anh phải nhờ anh em đằng nội can thiệp, dạy con chứ anh?

– Anh em đằng nội em không kể nên không ai biết. Cũng có người biết muốn tham gia nhưng ngại. Em cũng xấu hổ, nhục lắm nên ngậm đắng nuốt cay.

– Việc anh Tú hỗn láo với bố, anh nghĩ có lỗi của mình không?

– Thì chắc cháu cũng tức với em hay say rượu, rồi lại sai nó làm cái nọ cái kia…Em cũng hơi sai.

– Anh có nghĩ rằng mình đã sai?

– Là do em nóng quá. Em cũng hơi sai một tí.

– Giết con mà sao lại chỉ hơi sai một tí?

– Vì nó hỗn láo quá mà.

– Lẽ ra anh không nên làm bậy, mà phải viết đơn gửi chính quyền nhờ can thiệp…

– Chính quyền xã cũng vào nhà mấy lần rồi, can thiệp nhiều rồi nhưng nó vẫn láo thế.

– Thế nên anh đã tự dạy con kiểu đó sao?

– Giờ thì em ân hận rồi. Em bị giam hơn một ngày thì công an báo cho em biết là Tú nó chết rồi. Em cũng không ngờ nó lại chết.

– Khi đó tâm trạng anh thế nào?

– Em cũng không biết phải nói thế nào. Mọi chuyện đã xảy ra rồi, em không muốn nói nữa[5].

Lời bình: Câu chuyện trên là một điển hình về oan gia con cái.  Đứa con trai đến đòi nợ người cha.  Nó không chịu học hành nên người, đã vậy lại còn hỗn láo, mất dạy, mắng chửi và đánh cả cha mình.  Anh Hải vô phước, nghiệp nặng, cả vợ và con gái đều hùa vào ăn hiếp anh.  Nếu hiểu được oan gia thì một là cố gắng nhẫn nhục chịu đựng cho yên thân, hai là nếu nhịn không nổi thì nên lánh xa, bỏ luôn vợ con đi chỗ khác, bởi vì không ai thèm đếm xỉa gì tới anh.  Anh không trả được nợ oan gia mà lại còn gây thêm nghiệp ác giết người, đời này phải tù tội, đời sau thằng con trai sẽ tìm lại để đòi nợ nặng hơn.

4/ Người cha cưỡng hiếp con gái 24 năm

Ngày 26 tháng 4 năm 2008, tại nước Áo, một người đàn ông tên Josef Fritzl, 73 tuổi, bị bắt vì tội nhốt và cưỡng hiếp con gái ruột trong một căn hầm dưới nhà ông suốt 24 năm. Ngày 29 tháng 8 năm 1984, cô Elisabeth bị người cha là Josef dụ xuống hầm (basement) ở dưới nhà[6] để phụ giúp ông khiêng và gắn một cánh cửa lớn. Trong lúc Elisabeth đang giữ cánh cửa thì ông lén chụp thuốc mê cho cô ngất xỉu rồi nhốt cô trong căn hầm. Trước khi thi hành mưu kế này, Josef, từng là một người thợ điện chuyên vẽ những họa đồ máy móc bán cho hãng xưởng, đã sửa sang lại căn hầm dưới nhà thật chắc chắn như một nhà tù cách âm (soundproof), bởi vậy sau khi tỉnh dậy Elisabeth la hét cách mấy cũng không ai nghe. Sau đó ông đi khai với nhà chức trách là con gái ông bị mất tích. Khoảng một tháng sau, ông đem một lá thư ra trình cảnh sát. Chính ông đã cưỡng bức con gái viết lá thư này, nói rằng cô chán ở với gia đình nên bỏ đi sống với người bạn trai và khuyến cáo cha mẹ đừng tìm kiếm cô nữa, nếu không cô sẽ rời bỏ nước Áo. Ông Josef còn cho cảnh sát hay là ông nghi con gái ông đã đi theo một giáo phái ngoại đạo nào đó. Trong suốt 24 năm, trung bình cứ ba ngày thì ông đem đồ ăn, thức uống và các vật dụng cần thiết xuống hầm cho con gái và cưỡng hiếp cô luôn. Ông đã làm cô mang thai đẻ ra bảy đứa con, trong số đó một đứa đã chết sau khi ra đời ba ngày vì chứng khó thở mà không có thuốc men. Xác đứa bé đã bị ông đem đốt để phi tang. Sáu đứa còn lại thì ông đem ba đứa lên trên nhà sống với vợ chồng ông và để lại ba đứa kia cho cô nuôi.

Làm thế nào ông có thể đem ba đứa nhỏ lên nhà mà không ai hay biết? Ông dựng chuyện nói với nhà chức trách rằng con gái ông đã sinh đẻ nhưng không chịu nuôi con mà đem bỏ trước cửa nhà ông nên ông đành phải nhận nuôi cháu.

Tuy nhốt con dưới hầm nhưng ông cũng cung cấp cho chúng tivi, radio, máy xem video, tủ lạnh và bếp nấu để chúng sống tự túc. Nhưng ông hăm họa chúng nếu tìm cách bỏ trốn thì ông sẽ xì hơi ga cho chết ngạt, hoặc đứa nào đụng vào cửa sắt sẽ bị điện giật chết. Lâu lâu ông dằn mặt tụi nó bằng cách cúp điện tối thui và không đem đồ ăn trong vài ngày.

Ngày 19 tháng 4 năm 2008, đứa con gái lớn của Elisabeth là Kerstin, 19 tuổi, bị bệnh nặng ngất xỉu, cô năn nỉ Josef đem con đi nhà thương. Không biết trời xui đất khiến làm sao mà ông ta xuôi lòng, chịu đưa Kerstin đi nhà thương. Đến nơi, các y tá và bác sĩ đòi gặp người mẹ để hỏi thêm chi tiết bệnh tình của Kerstin, nhưng Josef nói dối rằng không có tin tức của cô ta. Hai ngày sau, ông trở lại nhà thương nói rằng tìm thấy một mảnh giấy của Elisabeth nói về bệnh trạng của Kerstin. Các nhân viên y tế cảm thấy sự việc có vẻ mờ ám nên đã báo cho cảnh sát và họ nhờ cơ quan truyền tin như radio, tivi, loan báo kêu gọi người mẹ của Kerstin đang ở đâu hãy ra trình diện để cho biết thêm về quá trình bệnh trạng của con gái. Elisabeth tuy bị nhốt ở dưới hầm nhưng vẫn xem tivi và biết được sự thông báo này, nên cô đã ăn nỉ Josef cho cô tới nhà thương. Một tuần sau, ông thả Elisabeth và hai đứa con, đem chúng lên nhà và nói với vợ ông rằng Elisabeth đã hồi tâm đem con trở về nhà sau 24 năm đi hoang. Và sau đó ông đưa Elisabeth cùng đi đến nhà thương nơi Kerstin đang điều trị.  Một vị bác sĩ đã báo với cảnh sát tới bắt giữ cả hai cha con để điều tra, và Elisabeth đã khai hết sự thật.

Lời bình: Khi đọc câu chuyện trên, chắc chắn đa số chúng ta đều muốn trừng phạt nặng nề hay xử tử người cha tồi bại, vô luân thường và thương xót cho người con gái. Nhưng làm sao chúng ta biết được, có thể trong một kiếp trước nào đó, chính cô đã từng nhốt và hiếp người cha làm cho ông ta đau khổ oán hận. Nhân quả sắp xếp cho hai người gặp lại nhau, người cha có dịp trả thù, và người con phải kinh nghiệm những gì chính cô đã tạo trong kiếp xưa.

5/ Người vợ bị chồng đánh thủng màng nhĩ

Mười năm sống bên cạnh người đàn ông ấy, là chừng ấy thời gian chị không còn là một-con-người. Người đàn ông sau đám cưới đã hỏi chị rằng: “Em làm bao lâu nay để dành được bao nhiêu?”  Câu hỏi ấy lặp lại trong suốt mười năm ròng, trở thành sự dày vò, đay nghiến lẫn chỉ trích đối với chị. Người đàn ông sau đám cưới bỗng trở nên hồ nghi khi lật lại công việc chị từng làm “tiếp thị bia”. Câu nói: “Lấy anh nhé! Anh sẽ bắt đầu lại rồi chăm lo cho em” đã từng khiến chị mềm lòng.

Bao nhiêu tiền của để dành, chị dùng vào việc cưới xin. Chiếc xe chị mua từ thời con gái cũng phải bán nốt để trả nợ cho anh. Chị vay mượn người thân đưa anh lấy vốn làm ăn. Chị kể, giọng buồn thảm, hôm trước mua được chiếc xe, hôm sau anh ta mang đi bán, vay mượn thêm tiền để đổi chiếc khác “xịn” hơn. Chị không nhớ nổi bao nhiêu lần như thế.  Điện thoại di động của anh cũng vậy. “Đồ nghề” của anh là dàn máy cho thuê phục vụ các đám tiệc, nếu thấy chán, anh không ngần ngại bán tháo để mua một dàn mới. Sống với anh, chị trở thành con nợ, các chủ nợ luôn đến tìm chị. Anh không cho vợ đi làm, chị chỉ có thể vay mượn người thân, giật chỗ này, đắp chỗ kia, vá víu từng chút một.

Không cho chị đi làm, cũng vì anh ám ảnh ý nghĩ, trước khi đến với anh, có lẽ chị đã quen ai.  Mỗi lần gây nhau, anh nặng lời mắng nhiếc: “Mày là con đĩ!  Không ai dám lấy mày, chỉ tao mới lấy mày thôi.  Cả gia đình mày đều làm đĩ”.

Cũng vì từng buột miệng nói những lời ấy với người thân của chị nên anh phải dọn ra ngoài ở thuê. Chị đi theo chồng, bất lực trong vai trò cầu nối.  Mặc dù thương chị, nhưng gia đình không chấp nhận một chàng rể như vậy. Giúp chị xoay trả nợ nần, song họ khuyên chị buông bỏ anh, thoát khỏi cuộc sống đầy tủi nhục, bị đánh đập đến mức nhập viện vì thủng màng nhĩ. Chị nuốt nước mắt, nói đôi lần thấy xót xa, thương cho bản thân mình. Chị thèm một cuộc sống vợ chồng đúng nghĩa, hay đơn giản một đêm ngủ ngon, có cánh tay chồng làm gối hoặc ôm chị vào lòng.  Những điều ấy với bao người phụ nữ là bình thường, mà với chị sao quá xa vời. Lúc cần, người chồng ấy lao đến chị, hùng hục cho thỏa mãn bản năng, rồi ôm gối quay đi ngủ như chết. Chị ứa nước mắt trong ê chề.

Chị hạ mình thuyết phục, năn nỉ lẫn van nài, xin anh thay đổi song bất thành. Những lúc như vậy, anh ta càng quy kết chị là “thứ đàn bà đĩ thõa”, ăn bám chồng còn “lên mặt” đòi hỏi. Trong cảnh “ngục tù” này, chị từng bỏ trốn đi xa. Để rồi nghe chồng xuống giọng, dùng lời mật ngọt, chị lại mềm lòng.  Đến giờ thì chị không thể tiếp tục sống chung nữa, vì lẽ khi vợ chồng mở miệng với nhau thì toàn là lời khinh miệt, xúc phạm, sau đó là nắm đấm. Nợ nần thì dày lên theo tháng năm. Chị lo lắng, muốn bỏ đi nhưng sợ anh truy đuổi. Người đàn ông ấy đã lớn tiếng hăm dọa sẽ không để chị yên nếu chị bỏ trốn[7].

Lời bình: Đây là một điển hình về oan gia vợ chồng. Người chồng là oan gia tìm đến đòi nợ. Anh đã dùng lời mật ngọt dụ được chị lấy anh. Sau đó anh mới hiện nguyên hình oan gia đòi nợ một cách tàn bạo vũ phu. Khi gặp trường hợp oan gia đòi nợ dữ quá, như hành hung, mắng chửi, đánh đập, thậm chí hăm giết thì nên bỏ trốn, cầu cứu sự giúp đỡ bên ngoài. Đa số những người bị oan gia hành hung, hăm dọa thường bị khủng hoảng tinh thần, không dám bỏ trốn.  Những trường hợp này rất cần đến sự trợ giúp từ bên ngoài như các cơ quan bảo vệ phụ nữ hoặc giúp nạn nhân bạo hành gia đình.

6/ Tha thứ tích cực

Tha thứ có nghĩa là xả, thả trôi đi những khía cạnh xấu của một vấn đề, không để lòng dính mắc, vấn vương. Thí dụ, trong một khu vườn, nếu ta tưới nước vào cỏ dại chính là nuôi dưỡng vấn đề; không tưới nước gì hết thì giống như tha thứ; chỉ tưới nước cho bông hoa mà không tưới cỏ dại chính là “tha thứ tích cực” (positive forgiveness).

Khoảng 10 năm về trước, vào cuối buổi giảng pháp chiều thứ sáu hàng tuần ở Perth, một phụ nữ đã đến gặp tôi thưa chuyện. Tôi để ý biết cô từ lâu đã đến nghe giảng hàng tuần, nhưng đây là lần đầu tiên cô thưa chuyện với tôi. Cô muốn gửi lời cám ơn, không riêng đối với tôi, mà với tất cả chư tăng đã giảng dạy ở tu viện này, và cô giải thích tại sao.

Bảy năm trước, cô đã đến đây, nhưng không phải để tìm hiểu đạo Phật hay học thiền. Mục đích của cô là lấy cớ để ra khỏi nhà. Bởi vì chồng cô là một người rất hung bạo, và cô là nạn nhân của sự bạo hành gia đình. Vào thời buổi đó, chưa có những cơ quan giúp đỡ các nạn nhân như vậy, và cô cũng chưa đủ sáng suốt để bỏ chồng. Do đó cô tìm đến trung tâm Phật giáo này, với ý nghĩ lánh nạn trong hai tiếng đồng hồ để không bị đánh đập.

Ai ngờ, những gì cô được nghe đã thay đổi hẳn cuộc đời cô. Cô nghe quý thầy giảng về sự “tha thứ tích cực”, và cô quyết định về áp dụng với người chồng. Cô nói mỗi lần bị anh đánh đập, thì cô tha thứ và xả.  Mỗi khi anh nói hay làm một điều gì dễ thương, dù không đáng bao nhiêu, nhưng cô vẫn ôm anh và tặng anh những nụ hôn, hoặc mọi cử chỉ yêu thương để cho anh biết rằng cô rất cảm kích sự dễ thương của anh.

Cô thở dài và cho biết đã làm như vậy suốt bảy năm qua. Nói tới đây, mắt cô long lanh ngấn lệ làm tôi cảm động theo. “Bảy năm dài”, cô nói tiếp, “và bây giờ, thầy sẽ không còn nhận ra người đàn ông cũ. Anh ấy đã thay đổi hoàn toàn. Chúng tôi có một gia đình hạnh phúc và hai đứa con rất dễ thương”. Lúc này, mặt cô hoan hỷ rạng ngời như một thiên thần và nói tiếp: “Thầy có thấy cái ghế nhỏ này không?  Anh đã tự tay đóng cái ghế ngồi thiền này để làm quà bất ngờ cho tôi trong tuần này. Nếu đây là bảy năm về trước thì có lẽ anh ấy đã dùng nó để đập tôi rồi!”

Tôi đang cảm động mà phải phì cười khi nghe cô nói như vậy. Tôi rất thán phục cô đã tạo dựng được hạnh phúc cho chính mình, và cùng lúc đã biến một con quỷ hung bạo trở thành một người chồng thương yêu lo lắng cho vợ.

Trên đây là một thí dụ hy hữu về sự tha thứ tích cực, đặc biệt dành cho những ai muốn hướng đến con đường thánh thiện. Ở đây tôi không có ý khuyên các nạn nhân bạo hành gia đình phải làm giống như vậy, nhưng nó cho thấy thành quả đạt được khi phối hợp sự tha thứ với sự tưới tẩm những đức tính tốt[8].

Lời bình: Người phụ nữ này đã chuyển được nghiệp oan gia thành ân gia. Âu cũng nhờ cô có phước, ghé đến chùa lánh nạn và được nghe pháp. Sau đó quyết tâm thực hành hạnh tha thứ và xả, dùng thương yêu hóa giải hận thù và cô đã thành công.

7/ Tâm sự người vợ nuôi chồng tâm thần

Một ngày đẹp trời, tự dưng người chồng chung sống với mình gần một phần tư thế kỷ bỗng nhìn mình và nói: “Chị mới qua Mỹ mà lái xe giỏi quá há!” thì mình cảm thấy như thế nào đây?

Tôi đã sửng sốt. Ngỡ rằng anh nói đùa. Nhưng đó là sự thật!

Sáu năm qua, kể từ ngày chồng tôi ngã bệnh, vừa là “dementia” – một dạng của bệnh mất trí nhớ Alzheimer, vừa là “Parkinson” dạng cứng đờ người, lại vừa có nước trong não, tôi đã bỏ hẳn việc đi làm để ở nhà chăm sóc cho anh.

Thế nhưng, điều đau khổ nhất là khi mình làm tất cả mọi chuyện, không còn nghĩ gì được đến bản thân, mà chồng lại không biết mình là ai hết.

Cách đây 6 năm, sau khi bị ung thư bàng quang, rồi lại được mổ khi có bướu trong cột sống, ngay dưới thắt lưng, chồng tôi vẫn là một người yêu thích thể thao, nhất là football. Anh thuộc tên tất cả các đội bóng, tên từng cầu thủ, tên những huấn luyện viên, không một trận football nào anh bỏ qua.

Ðùng một cái!

Anh không còn ham thích bất cứ thứ gì nữa. Không football, không sách báo, không phim ảnh, không tivi. Anh cứ lái xe đi mà không biết đi đâu.

Anh không ăn, không uống. Khi đó tôi vẫn đi làm, anh ở nhà nghỉ hưu non sau thời gian thất nghiệp. Tôi đưa anh đi bác sĩ. Anh bị trầm cảm, bác sĩ bảo vậy, và chuyển sang cho bác sĩ tâm lý.

Hơn một năm trời đi bác sĩ tâm lý, sức khỏe anh không tiến triển.

Cho đến ngày sinh nhật anh cách đây 6 năm, anh bị ói, tôi chở anh vào cấp cứu. Sau hai ngày ở bệnh viện ra, trên đường về nhà, anh nhìn tôi và nói, “Chị mới qua Mỹ mà lái xe giỏi quá há!” Tôi sửng sốt, ngỡ rằng anh nói đùa.

Nhưng khi anh cứ kêu tôi bằng “chị ba” và tỏ ra không hề biết tôi là ai, tôi lờ mờ hiểu ra mọi thứ. Thế giới gần như sụp đổ dưới chân tôi.

Bác sĩ chụp hình, làm các xét nghiệm, cho biết trong đầu anh có nước. Anh lại được chẩn đoán bị chứng mất trí “dementia” – một dạng của bệnh mất trí nhớ Alzheimer.

Anh không còn biết tự chủ trong vấn đề đi vệ sinh, tiểu tiện nữa. Có những ngày tôi đi làm về, mùi nước tiểu, mùi phân nồng nặc khắp nhà. Từ trên giường, ra đến bàn ghế ngoài phòng khách, phân anh trây trét đầy hết. Tôi phải đi lau, đi dọn.

Rồi anh lại mắc thêm chứng bệnh “Parkinson” dạng “freezing”, cả người anh đông cứng lại khi bị ai chạm vào. Lúc đó, anh không di chuyển, không xê dịch được, tôi phải lôi, phải kéo không khác gì một bao gạo. Anh không thể tự giữ thăng bằng cho mình, không thể ngồi vững, không thể đi. Lúc ngã ra, anh không thể xoay trở để tự ngồi dậy.

Bác sĩ nói bệnh anh không thể chữa trị. Tôi đưa anh về nhà để tự mình chăm sóc cho anh.

Ba tháng sau đó, bất kể mưa nắng, tôi tập đi cho anh, từ trong nhà ra đến ngoài sân. Anh có thể bước đi được, tuy không nhiều. Nhưng sợ nhất vẫn là những khi anh ngã. Bởi, anh như một bao gạo, không thể điều khiển được não của mình để có thể lay chuyển, nương theo sự giúp đỡ của người khác. Anh không thể vịn vào tôi để từ từ đứng lên. Tôi kê chiếc ghế bên này, kê thêm ghế bên kia, đỡ anh tựa đằng này, nâng anh phía đằng kia, bằng mọi cách phải nâng được anh đứng lên. Tôi sợ lắm, những lúc như thế.

Có những khi đang tắm cho anh, anh đi tiêu ngay lúc đó, tôi phải đưa tay hứng để bỏ vào bồn cầu, còn hơn là để lênh láng trong bồn tắm.

Có những lúc vừa tắm xong, đang lau mình cho anh, anh tiểu thẳng vào mặt tôi.

Tôi không còn nước mắt để khóc nữa, dù có những lúc tôi rất muốn khóc. Từ ngày anh bệnh, tôi bỏ hết mọi thú vui của mình, không shopping, không bạn bè, không phim ảnh. Tôi thấy mình như một con điên. Nỗi buồn chán vây kín chung quanh. Những lúc bận rộn với anh, với việc dọn dẹp, tôi không có thời gian suy nghĩ. Nhưng khi dứt việc, tôi chui vào một góc, khóc cho phận mình.

Có lúc lái xe trên đường, tôi muốn lao xe đâm đầu vào đâu đó để kết thúc cuộc đời.

Bởi lẽ
Mờ mịt quá, tương lai trước mắt tôi.
Tôi không có bạn để tâm sự những u uất.
Tôi không có con để san sẻ những buồn đau.

Có lúc tôi muốn gào lên, muốn hét lên. Như một cách giải tỏa những uất ức nhọc nhằn đó, bác sĩ khuyên tôi nên làm vậy, nếu không tim tôi sẽ vỡ.

Nhưng khi tôi la lên, thì cả người anh lại đông cứng, không thể nào lay chuyển, mắt anh nhìn tôi như hỏi: “Chuyện gì vậy?”

Tôi lại phải dịu dàng, “Anh ngồi xuống đi, em đỡ anh đây, anh không té đâu”, “Anh ráng xoay qua đây thì em mới tắm cho anh được”… Chăm sóc một đứa bé bị bệnh, chăm sóc một người lớn bị ung thư, có lẽ còn dễ hơn rất nhiều so với chăm sóc một người bệnh mất trí nhớ cộng thêm Parkinson như anh. Bởi lẽ, họ hiểu mình nói gì, họ biết mình đau gì. Và hơn hết, họ còn điều khiển được trí não mình. Còn anh, anh không biết gì hết. Anh không nói gì hết. Anh chỉ cười những khi tôi dịu giọng. Và anh “khóa chặt” người mỗi khi sợ hãi.

Có những người bạn Mỹ đề nghị họ đến trông chừng anh chừng vài tiếng để tôi có thể ra ngoài đi chơi cho khuây khỏa. Nhưng tôi không thiết. Bởi lẽ, đi ra ngoài nhìn người ta vui vẻ, hạnh phúc, trở về nhà đối diện với thực tại, tôi chỉ càng cảm thấy chán chường hơn.

Tôi cũng từng muốn đưa anh đi đây đi đó, nhưng những kinh nghiệm đau thương từng xảy ra khiến tôi phải chùn bước.

Tôi vẫn nhớ khi anh chưa bệnh nặng như bây giờ, tôi chở anh đi Las Vegas coi chương trình Paris By Night 100. Sau đó, tôi đưa anh đến ngồi chơi ở một máy kéo, chỉ anh cách nhấn nút. Rồi anh ói. Cả người anh dính đầy chất bẩn. Tôi đưa anh vào nhà vệ sinh để chùi rửa. Thế nhưng khi đó tôi không biết mình phải làm thế nào khi một bên là nhà vệ sinh nam, một bên là nhà vệ sinh nữ.  Tôi không thể vào bên nam, tôi cũng không thể đưa anh qua bên nữ. Tôi dặn anh đứng yên một chỗ, tôi chạy vào lấy giấy ra lau cho anh. Thế nhưng tôi vừa quay đi, anh cũng đi theo.  Người lao công la lên bảo anh phải đi ra. Tôi giải thích, nói anh đứng yên, nhưng anh có hiểu gì đâu!

Không còn cách nào khác, tôi đưa anh ra xe để về khách sạn tắm rửa cho anh. Tuy nhiên cả người anh đông cứng lại, không nhúc nhích. Tôi phải lôi anh đi, cố mà lôi anh đi. Người ta nhìn vào tôi, lạ lẫm. Ðến thang máy, tôi phải chờ người ta đi hết, rồi mới đến tôi và anh bước vào, vì thật sự là hôi lắm.

Một chuyến đi như vậy, có thể nào là vui không?

Tôi vẫn nhớ lần đám cưới cháu anh. Tôi muốn đưa anh đi cùng để anh vui. Tôi cũng muốn mình được mặc áo dài trong ngày hôm đó. Và tôi may một chiếc áo dài thật đẹp.

Sáng ra, tôi phải chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ cho anh, tắm rửa, mặc tã, thay đồ và mang anh ra xe ngồi trước khi tôi trở vào chuẩn bị thay quần áo cho mình. Bởi lẽ, anh không thể ngồi lên xe một cách bình thường dễ dàng như mọi người. Anh vịn cửa xe, nhưng để nhấc được chân trái lên xe mà tôi phải vừa nói, vừa giúp nhấc chân anh lên. Rồi anh chỉ có thể ghé một phần tư mông ngồi vào ghế. Anh không thể tự mình nhích vào trong để kéo chân phải lên tiếp. Lúc đầu tôi không biết cách, tôi đi qua ghế người lái để lôi anh vào, nhưng mà anh nặng hơn tôi rất nhiều. Tôi không lôi nổi.  Tôi phải dùng nhiều cách mới có thể để anh ngồi gọn vào trong trước khi cánh cửa xe đóng lại.

Tôi cũng thay được chiếc áo dài mà tôi mơ ước để chở anh đến nhà nhóm họ.

Anh gặp mọi người, anh vui. Anh cười. Người ta thấy anh cười, họ cũng vui theo.

Trước khi từ nhà cháu đến nhà hàng dự tiệc, tôi biết mình cần chuẩn bị trước việc thay tã cho anh. Khi đưa anh vào nhà vệ sinh rồi, tôi mới nhận ra rằng chiếc áo dài của mình bây giờ không còn phải để diện làm đẹp nữa mà nó trở nên vướng víu cho tôi trong việc chăm sóc anh. Tôi phải cởi hết quần áo mình ra, rồi mới cởi hết đồ anh ra thì mới có thể lau rửa cho anh được. Rồi lại đưa anh ra xe. Trời mưa lất phất. Anh đâu thể như người khác có thể ngồi nhanh vào trong. Anh ướt. Tôi cũng ướt. Tôi chợt nhận ra, mình làm đẹp để làm gì đây?

Chưa bao giờ tôi nghĩ đến chuyện bỏ cuộc trong việc chăm sóc anh, dù tôi biết mình không có hy vọng gì hết. Nhưng thật sự tôi cảm thấy mệt mỏi lắm. Tôi sẽ vẫn tiếp tục lo cho anh, đến ngày tôi không còn có thể làm được nữa.

Tôi sắp bước vào tuổi 60, tôi có còn gì đâu, một mai khi anh không còn nữa.

Người ta nói sau cơn mưa trời lại sáng. Nhưng cơn mưa đời tôi không biết khi nào mới tạnh đây?[9]

Lời bình:  Khi phải săn sóc cho những người bệnh bại liệt, lú lẩn, mất trí, v.v…ít có ai kiên nhẫn nổi, nhưng nếu họ là cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em của mình thì mình mới nhẫn nại chịu đựng được. Bởi vậy, oan gia mới tái sinh dưới hình thức người thân thì chúng ta mới học được bài học thương yêu đối với kẻ thù. Ở đây cả hai vợ chồng đều đang trả nghiệp. Người chồng trả nghiệp nặng hơn bởi vì anh là người bị bệnh và mất trí, không còn tự chủ được nên không thể chuyển nghiệp. Người vợ đang trả nghiệp với anh, vì phải lo cho anh từng ly từng tí như lo cho một đứa con, cộng thêm phần khổ tâm, tủi thân, vì tình thương của mình không được chồng hay biết và công nhận. Tuy nhiên cô vẫn có phước hơn anh là còn tỉnh táo, không bệnh tật, biết suy nghĩ, và có thể chuyển nghiệp. Cô thiếu nợ anh, nên phải lo cho anh, nhưng cùng lúc cô cũng đang trải qua một bài học thử thách về tình thương vô điều kiện. Một mai khi anh không còn nữa thì cô đã trả xong nghiệp oan gia và đậu được bài học thương yêu vô điều kiện. Đây là bài học của Mẹ Teresa, của Quán Thế Âm Bồ Tát.

8/ Người mẹ nuôi con gái nằm trong hôn mê 42 năm

Edwarda O’Bara là một bệnh nhân nằm trong hôn mê (coma) 42 năm, lâu nhất trong kỷ lục thế giới. Cô được mệnh danh là “Bạch tuyết ngủ” (Sleeping snow white).

Là người ở Miami, tiểu bang Florida, năm 16 tuổi, với tương lai đầy hứa hẹn đang đón chờ, cô bỗng nhiễm bệnh sưng phổi vào cuối năm 1969. Sáng ngày 3 tháng 1 năm 1970, cô thức dậy run rẩy, đau đớn vì thuốc insulin đã không có hiệu quả với cô. Gia đình đã vội vã đưa cô vào bệnh viện cấp cứu. Trong lúc nằm trên giường bệnh, cô quay sang nói với mẹ là Kaye O’Bara: “Hãy hứa với con là mẹ sẽ không rời bỏ con nghe mẹ”. Bà Kaye an ủi con gái: “Con yên tâm.  Mẹ hứa sẽ không bao giờ bỏ rơi con đâu, con cưng của mẹ”. Ai ngờ sau đó, Edwarda trở bệnh nặng và rơi vào coma.

Bà Kaye đã giữ đúng lời hứa với con gái. Suốt 38 năm, bà luôn túc trực bên cạnh săn sóc cô con gái với một sự hy sinh không ngừng nghỉ. Edwarda nằm mê man như cái xác không hồn. Để tránh cho con khỏi bị lở loét lưng khi nằm quá lâu, cứ mỗi hai tiếng, bà phải lăn trở người cô, do đó giấc ngủ dài nhất của bà chỉ khoảng 90 phút. Bà không muốn đưa con vào bệnh viện y tế, vì lý do không đủ tài chính và nhất là muốn giữ lời hứa với con. Ngoài việc lăn trở cô mỗi hai tiếng, bà còn phải tắm rửa, lau chùi, cho cô uống thuốc và thức ăn qua ống dẫn. Bấy nhiêu đó chưa đủ, bà còn đọc sách, chơi nhạc và kể chuyện cho cô nghe.

Ba cô, ông Joe, phải xin nghỉ làm để ở nhà giúp vợ săn sóc con gái. Có lẽ vì buồn và không chịu nổi sự cực nhọc nên ông đã bị bệnh tim và chết năm 1977, lúc 50 tuổi. Riêng bà Kaye, nhờ thương con và nuôi hy vọng sẽ có một ngày Edwarda tỉnh lại, nên bà chịu đựng nổi sự thử thách và qua đời vào ngày 7 tháng 3 năm 2008, lúc 80 tuổi.

Sau khi bà Kaye qua đời thì Colleen, em gái của Edwarda, đã xin nghỉ việc để dành trọn thời giờ lo cho chị. Bốn năm sau, Edwarda thực sự nhắm mắt lìa đời ngày 21 tháng 11 năm 2012, hưởng thọ 59 tuổi[10].

Lời bình: Bà này rất cực, suốt đời lo cho con không rời nửa bước, không thua gì những người vợ lo cho chồng bị bại liệt hay Alzheimer. Người con gái là một oan gia đến đòi bà sự thương yêu săn sóc. Bà vì tình thương, nên hy sinh trọn đời săn sóc cho con không biết mỏi mệt cho tới ngày bà chết.  Bà tuy trả nghiệp nhưng trả rất đẹp. Kiếp này bà đã vượt được sự thử thách về tình thương và sự hy sinh. Chắc chắn kiếp tới bà sẽ không còn phải học lại bài học này nữa.

9/ Chồng dị tật bán vé số nuôi vợ tâm thần

Đôi chân dị tật, cánh tay phải co quắp, những bước đi cà nhắc, khó nhọc… Mưa cũng như nắng chỉ với chiếc bánh mì lót dạ, anh đi hàng chục cây số, len lỏi qua từng ngõ ngách, mong sao bán hết vé số mỗi ngày để nuôi vợ con.

Tuổi thơ tủi hờn

Khi cất tiếng khóc chào đời, anh Trần Văn Hùng[11], bình thường như bao đứa trẻ khác. Nhưng bất hạnh đã ập đến với anh như một định mệnh, khi cậu bé mới hơn một tháng tuổi đã có dấu hiệu của bệnh tật. Một phần cơ thể bị biến dạng, cánh tay phải co quắp, đôi chân teo lại, đốt sống lưng cũng bị gập, phải lê lết khắp nhà…Từ đó bệnh của Hùng ngày càng trầm trọng hơn.

Không chịu khuất phục trước số phận nghiệt ngã, Hùng đã tìm mọi cách để cử động được đôi chân.

Mỗi ngày anh ráng nhích từng tí một, mãi lên 6 tuổi anh mới tập tễnh bước được những bước đầu tiên.

Sinh ra trong chiến tranh, loạn lạc, gia đình nghèo khó lại đông con nên cha mẹ anh chỉ biết nuốt nước mắt mà nhìn con, hy vọng một phép mầu. Anh lớn lên trong sự đau đớn và dày vò bản thân.  Mọi người nhìn anh với ánh mắt xa lánh, miệt thị, đi học thì bị đẩy xuống bàn cuối vì ai cũng sợ không dám ngồi gần. Tủi thân, cậu bé phải bỏ giữa chừng khi vừa học lớp 4.

Hùng đã phải chịu sống một tuổi thơ không may mắn. Có nhiều lúc Hùng đã nghĩ đến cái chết, nhưng bằng nghị lực của mình, anh đã vượt lên số phận để tiếp tục sống. Tuổi thanh niên, Hùng phải lê lết khắp đầu làng cuối phố để mưu sinh. Từ nhặt rác ở chợ rồi tới bán vé số.

Như duyên trời đã sắp đặt, năm 25 tuổi, anh gặp một người con gái tên Lan cùng đi bán vé số. Cảm thương cảnh nghèo khó, hai người đã cùng nhau sánh duyên vợ chồng với sự chứng kiến của gia đình và bạn bè. Anh Hùng ngỡ mình như đang trong “chuyện cổ tích”. Vợ chồng sống rất hạnh phúc. Trong “cái khó ló cái khôn”, ba đứa con lần lượt chào đời, khỏe mạnh và ngoan ngoãn, nhưng gánh nặng “cơm áo” lại đè nặng lên đôi vai gầy yếu của anh. Niềm vui chưa được bao lâu, tiếng cười chưa “tròn miệng” thì người vợ phát bệnh tâm thần, không làm được gì chỉ cười nói huyên thuyên suốt ngày… Giờ đây “trăm dâu lại đổ lên đầu tằm”.

Mặc dù sống trong nghèo khó nhưng anh chẳng bao giờ than vãn, hay làm một điều gì đó trái với lương tâm. Anh sống trong sạch, chẳng ngửa tay xin xỏ ai một đồng. Nhiều người trong xóm thấy thương tình nên cho chút gạo, thức ăn…dù chẳng là bao nhưng đó là tấm lòng của mọi người đối với gia đình anh.

Hy vọng một phép mầu

Nhìn vào công việc bán vé số thì không thể đủ tiền trang trải, anh đã phải bán thêm kem, bánh mì, yaourt… Lang thang khắp đường phố, bến xe, ga tàu với bàn chân cà nhắc nhưng anh vẫn như không hề biết mệt mỏi, chỉ mong sao kiếm thêm tiền mua gạo không để vợ con bị đói. “Cuộc sống cứ thế, mong sao là mình đừng đổ ốm ra. Có bữa trời mưa bão không đi bán được, đành nấu cháo ăn cho qua bữa. Nửa đêm mấy đứa trẻ đói bụng tỉnh giấc gọi ba, nhưng mình đành ngậm ngùi cố ru con ngủ trong cơn đói”, anh nói mà mắt đỏ hoe.

Nhiều năm qua, ngày mưa cũng như nắng, người ta vẫn thấy có một người đàn ông tật nguyền lê những bước chân cà nhắc, cánh tay co quắp, một tay cầm vé số, trên vai lại mang một cái xô đựng kem, yaourt cuốc bộ đi bán vé số.  Anh tâm sự: “Tui mà nghỉ bán thì lấy tiền đâu mua gạo, mua thuốc cho vợ.

Mình đau nhưng còn đi được thì cũng phải gắng. Mong sao ông bà, cha mẹ, trời đất phù hộ cho tui đừng ốm, ốm là cả nhà chết đói mất”.

Mỗi sớm, anh dậy lúc 3 giờ sáng lo cơm nước cho vợ con xong, 4 giờ anh đến quầy nhận vé để tiếp tục hành trình của mình. Nhiều người mua vé số quen gương mặt chất phác, tội nghiệp nên hễ hôm nào không thấy anh ghé qua là họ có vẻ không yên. Nhưng có những người thấy anh như thế hắt hủi, xa lánh và xua đuổi. Khi hỏi, nếu như ai cho anh những điều ước thì anh sẽ ước gì bây giờ, anh bảo: “Thứ nhất tui ước cho vợ tui khỏi bệnh, để giữa lúc đêm khuya không còn chứng kiến những cơn điên nổi lên mà vợ tui la hét đập phá. Thứ hai là cơ thể tui lành lặn trở lại, để đi bán vé số dễ dàng hơn. Đó là điều ước thôi chứ tui tin không có thật”.

Nói xong anh lại lật khật vặn mình bước đi trong khó nhọc, trên tay xấp vé số đang còn dày, chiếc xô vẫn đầy kem. Nhìn thấy cảnh đó chẳng ai cầm được lòng. Hàng ngày anh vẫn đi và đem đến niềm hy vọng cho bao nhiêu người, nhưng có ai biết anh cũng đang cần một niềm hy vọng và phép mầu như thế. Bóng anh đã khuất xa về phía cuối con đường, không biết xấp vé số trên tay lúc nào mới bán hết để anh được về bên người vợ và những đứa con đang trông ngóng chờ cha[12].

Lời bình: Anh này bản thân thiếu phước nên bị quả báo tật nguyền, lại thêm gánh nặng nuôi vợ và con, nhưng anh trả nợ rất sòng phẳng, kiên nhẫn và chăm chỉ.  Nếu tiếp tục thì anh có thể trả hết nghiệp oan gia, và sau này có thể trông cậy vào mấy đứa con.

10/ Cụ ông 79 tuổi nuôi vợ bệnh tật, con điên dại

Trong cơn ho sặc sụa vì lao phổi, ông phải gồng mình chặt tre, đan rổ, đóng giường để có tiền nuôi vợ bệnh tật, con tâm thần. Ông lão già nua ấy vẫn kiếm ăn qua ngày bằng sức lao động yếu ớt của mình. Đó là tình cảnh đáng thương của cụ Huỳnh (79 tuổi).

Ông Huỳnh một mình nuôi vợ là bà Hương (78 tuổi) bị bệnh và đứa con trai (38 tuổi) bị bệnh tâm thần. Ba người sống trong căn nhà xập xệ, chẳng có gì đáng giá ngoài chiếc giường tre rách nát và cái ti vi đã cũ.

Năm nay gần 80, tóc bạc trắng, trong cơn ho sặc sụa ông kể: “Vợ chồng tôi già cả rồi, chẳng làm gì ra tiền, đứa con thì điên dại. Thương con nên phải còng lưng mà kiếm ăn, dù là đói khát nhưng vẫn tròn cái tình cha con”.

Năm 2011, sau một đêm ngủ dậy, vợ ông bị tai biến, toàn thân không cử động được, miệng cứng đơ, phát âm không ra tiếng. Thế là ông chạy vạy, vay mượn bà con, hàng xóm để chạy chữa cho vợ.

Sau ba năm chữa trị, căn bệnh của cụ Hương có đỡ đi chút ít, kèm theo đó là số nợ ông phải làm để trả dần cho đến cuối đời. Hiện nay, cụ Hương đi lại khập khiễng, khó khăn, miệng bà vẫn không nói được lời nào. Hằng ngày, cụ vẫn uống thuốc để duy trì mạng sống của mình.

Dường như hai vợ chồng già chỉ giao tiếp với nhau bằng cử chỉ. Ông Huỳnh tâm sự: “Vợ chồng tôi gắn bó gần 50 năm rồi, lúc trước bà không bị tai biến thì cũng phụ tôi việc nhà cửa, đồng áng.  Bây giờ mang bệnh nên tôi phải gánh vác luôn phần của bà ấy. Ăn cũng không thể cầm đũa được, chỉ xúc bằng muỗng rồi đưa vô miệng”.

Lúc chúng tôi trò chuyện, trong căn phòng chật hẹp vẫn vang lên những tiếng hú từng hồi. Đó là tiếng của anh Tâm, đứa con gần 20 năm bị tâm thần. Suốt ngày, anh Tâm cứ ngơ ngơ, ngẩn ngẩn, chẳng làm việc gì, lâu lâu lại bỏ nhà đi hoang, rồi lại về.

Người cha già co ro, đau khổ vì căn bệnh của con. Những lúc lên cơn, đứa con này trở thành một người hoàn toàn khác, đuổi đánh hai vợ chồng cụ Huỳnh ra khỏi nhà.

Mặc dù tuổi cao, sức đã yếu, lại mang bệnh lao phổi, đau cột sống nhưng để có tiền nuôi vợ, chữa bệnh cho con, cụ Huỳnh không quản nắng mưa, hàng ngày vẫn quần quật chẻ tre đan rổ, đóng giường cho mọi nhà mong sao kiếm được chút tiền công ít ỏi.

Những lúc không có tiền, một mình ông lặn lội đi hái rau, bắt ốc để ăn qua bữa. Gần 20 năm ròng rã đau đớn, nhìn vợ, nhìn con vật vã chống chọi với bệnh tật cũng là chừng ấy thời gian nước mắt của ông lão khắc khổ này tuôn chảy, trách mình bất lực sinh con ra mà không đem được hạnh phúc đến cho con[13].

Lời bình: Ông lão này phải trả nghiệp oan gia khá nặng, nhưng ông cũng kiên nhẫn trả trong đau khổ và nước mắt.  Bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả.  Đời này trả quả đau khổ, có mấy ai biết rằng chính mình đã tạo nghiệp ác từ nhiều đời trước?

Oan gia vô hình

Ngoài những chuyện oan gia trong đời thường, còn có loại “oan gia vô hình”, đó là những người bị hại, bị giết oan, khi chết mang tâm oán hận, không đi đầu thai được, vất vưởng trong cõi âm để tìm cơ hội trả thù.

11/ Tâm Tín hay Tâm Tưởng

Vào khoảng năm 1978, chùa chúng tôi xảy ra một biến cố làm cho tất cả mọi người có thêm kinh nghiệm rùng rợn về tái sinh và nghiệp báo. Nếu biến cố này xảy ra trước 75 thì chắc chắn những tờ nhật báo tha hồ khai thác để làm tiền thiên hạ, và chùa chúng tôi cũng sẽ bị ảnh hưởng không ít vì cái cảnh dập dìu tài tử giai nhân đua nhau tới chùa tìm hiểu sự vụ hòng kiểm chứng những lời tường thuật của báo chí. Nhưng vì sự cố đã xảy ra vào một thời rất căng cho các chùa chiền, thêm nữa chùa chúng tôi ở nơi thật hẻo lánh trên núi thì còn ai biết được một sự cố hi hữu đã xảy đến.

Đương sự hiện nay là một ni cô đã ngoài ba mươi, tốt nghiệp đại học và đang ở Sài Gòn để theo cao học. Một hôm về thăm chốn tổ – chùa Trúc Lâm nằm trên đường đi lăng Khải Định – chúng tôi gặp nhau và nhân lúc cao hứng cô đã kể lại chuyện đời của cô cho tôi nghe.

Tâm Tưởng – pháp danh cô bé lúc mới vào chùa – trước kia vào khoảng 1978, là một nữ sinh viên đại học Sư phạm Huế sắp ra trường. Cả gia đình cô không ai biết đạo Phật là cái gì cả!  Cô đang lưu trú trong cư xá của đại học vì nhà ở tận dưới quê xa. Một hôm cô về thăm nhà, ở lại trong căn phòng nhỏ, thức đêm ôn bài cho kỳ thi tốt nghiệp sắp tới. Giữa khuya, thình lình có một con rắn lớn bò qua cửa sổ vào phòng. Cô hét lên, đánh thức cả nhà. Cha cô đang ngủ nhỏm dậy, cầm cây then cửa phóng về hướng con rắn và lập tức đập nó chết. Không lâu sau đó, ông tự nhiên bỏ ăn bỏ uống, nằm dài suốt ngày này qua tháng khác, thân hình mỗi lúc một tiều tụy. Chở đi bệnh viện thì bác sĩ không khám phá ra được bệnh gì, đành về nhà nằm tiếp. Cô gái trở lại đại học xá, đang học thi thì bỗng được tin cha chết. Cô chạy như bay về nhà, vào lúc giữa trưa đứng bóng. Cô chạy ngay giữa đường xe hơi nhưng kỳ lạ thay, không bị một chướng ngại gì suốt cả quãng đường dài gần 20 cây số. Người cha đã được khâm liệm bỏ vào quan tài, khằn kín mít chỉ chờ cô về để đưa ma vì phải làm theo giờ giấc mà ông thầy coi lịch số đã định.

Cô gái hùng hổ từ ngoài chạy vào nhà, gạt tất cả mọi người ra mà đâm bổ vào nơi đặt quan tài cha. Đến nơi, cô dùng hai tay trần bứt tất cả giây nịt quan tài, mở tung cái nắp hòm, moi vứt ra mọi vật dụng tẩm liệm rườm rà phủ trên xác chết cho đến khi lộ gương mặt thây ma. Rồi cô dùng 10 ngón tay cào cấu gương mặt ấy cho rách nát xong chạy ra giữa đường cười ha hả la lên: “Ta đã trả được mối thù! Ta đã trả được cả hai mối thù!”

Mọi người quá bất ngờ không kịp phản ứng vì cứ ngỡ cô gái thương cha muốn tới gần quan tài để khóc lóc cho hả. Đến khi cô làm mọi sự nói trên một cách chớp nhoáng, họ không kịp trở tay và vô cùng kinh ngạc trước sức mạnh phi thường của cô gái đang bị quỷ nhập. Nhiều người đàn ông lực lưỡng xông vào can ngăn nhưng đều bị gạt té nhào. Sau đó hồn ma ứng vào miệng cô để đọc lên một bài thơ dài, theo đó người ta được biết câu chuyện đại khái như sau:

Nguyên kiếp trước cô là một người đàn ông có vợ; người đàn ông này ngoại tình và lại còn về giết vợ. Người vợ chết trong tâm trạng uất hận nên đã tái sinh làm con rắn, còn người đàn ông (có lẽ do nghiệp ngoại tình) tái sinh làm cô gái trong đời hiện tại (thảo nào gương mặt cô bé do ấn tượng tiền kiếp vừa qua, không mang vẻ nữ tính cho lắm). Con rắn bò vào nhà toan mổ cô gái để trả mối thù xưa, thì lại bị cha cô đánh chết. Thần thức của người đàn bà bị tình phụ kiếp trước – tức của con rắn bị giết kiếp này – đã nhập vào cô con gái, bắt cô phải cào nát mặt cha cô.

Khi tỉnh dậy nghe thuật lại những gì mình đã làm, cô gái vô cùng đau khổ. Gia đình cô cũng từ đấy càng ngày càng sa sút. Hồn ma báo oán không những nhập vào cô gái làm cô khi tỉnh khi say mà còn khiến tất cả các thành viên trong gia đình cũng trở nên dở dở ương ương từ ngày cha cô chết. Đôi khi vào những ngày “thất thất trai tuần” của người cha, vị thầy đang tụng kinh phải rởn ốc vì tiếng cười rùng rợn của tất cả mọi người trong gia đình đang quỳ sau lưng.

Cô gái bỏ học, về nhà thức suốt ba đêm thắp hương giữa trời cầu khẩn vị nào có phép thần thông (cô chưa hề biết Phật) xin hãy giải mối oan khiên nghiệp chướng cho cô. Lời cầu nguyện của cô đã cảm đến một vị thiền sư trong cõi vô sắc. Vị ấy nhập vào xác cô gái bắt người anh phải đưa cô lên chùa Trúc Lâm xin Hòa thượng thế phát quy y. Trong nhà không ai biết đến chùa và Hòa thượng, nhưng cô gái cương quyết bảo người anh cứ theo cô là được. Nói xong cô gái lôi người anh chạy như bay giữa đường trường gần 20 cây số lên tới chùa Trúc Lâm.

Tới nơi trong khi người anh sụp lạy Hòa thượng trụ trì như tế sao, xin Hòa thượng cứu cho em gái, thì cô gái cứ đứng sừng sững ngang nhiên nhìn Hòa thượng mà mỉm cười. Hòa thượng quắc mắt nhìn cô gái, quát lên: “Quỳ xuống”.

Hồn ma trong xác cô vẫn không quy phục, cứ nhìn chằm chặp vào Hòa thượng mà cười ngạo nghễ. Khi Hòa thượng rút con roi bằng gỗ dâu sắp giáng lên người cô gái và quát lần thứ hai “quỳ xuống” thì cô gái mới từ từ quỳ xuống, nhưng vẫn nhìn Hòa thượng mà mỉm cười nói: “Vì muốn độ cho nữ này mà tôi phải quỳ trước sư đệ”.

Theo những gì xác cô gái nói, thì đấy là một thiền sư (mang một cái tên bằng tiếng Phạn) đã viên tịch 200 năm, hiện trú cõi vô sắc, vì cảm lời cầu khẩn của cô gái nên muốn giúp cô ta đi tu để giải thoát oan nghiệp nhiều đời giữa cô và con rắn. Theo vị thiền sư thì giữa đôi bên đã có oan nghiệp từ 500 năm chứ không phải mới đời trước và đời này. Thiền sư yêu cầu Hòa thượng độ cho cô gái xuất gia. Hòa thượng bèn gửi cô gái qua chùa ni bên cạnh cho sư trưởng tôi dạy bảo. Khi tỉnh cô gái sinh hoạt rất bình thường và tuyệt nhiên không nhớ được điều gì đã xảy ra trong khi vị thiền sư mượn xác cô để nói chuyện với Hòa thượng. Cũng do áp lực vô hình của vị thiền sư, cô lên trường đại học Sư phạm nhiều lần xin nghỉ học để xuất gia, nhưng nhà trường không chấp thuận. Cuối cùng một chuyện kỳ lạ xảy đến làm cho bạn bè và nhà trường phải chấp thuận cho cô nghỉ học vì lý do bệnh thần kinh. Mỗi lần bước vào cổng trường là cô tự nhiên bị câm không thể nói một tiếng nào cho đến khi ra khỏi cổng. Nhiều lần như vậy trước sự chứng kiến của những nhân viên trong trường, nên họ phải làm chứng cho cô được nghỉ học vì bệnh điên.  Trở về chùa, cô gái hành điệu như tất cả những người tập sự xuất gia khác, nhưng thỉnh thoảng cô lại bị oan hồn con rắn (mà cũng là bạn đời trong kiếp trước) nhập vào xác để quấy nhiễu, trách móc về chuyện không lo tu hành, có tư tưởng xấu, muốn bỏ về nhà. Mỗi lần như vậy xác cô gái lại bị một trận đòn nhừ tử của sư trưởng tôi. Một hôm sau khi bị đòn, cô gái khóc lóc đến quỳ trước sư trưởng mà bạch:

– Bạch sư trưởng, sư trưởng đánh con oan ức lắm. Y có ý nghĩ thối lui về nhà không muốn tu, nên con mới phá y. Con chỉ muốn cho y tu hành để giải oan nghiệp giữa con và y mà thôi.

Sư trưởng tôi bảo hồn ma:

– Bây giờ ta quy y cho ngươi. Hãy theo Phật, đừng theo nó nữa, ngươi chịu không?

– Dạ, dạ, thế thì tốt lắm, bạch sư trưởng (hồn ma có vẻ mừng rỡ, mượn xác cô gái để bày tỏ sự cám ơn). Xin sư trưởng quy y cho con luôn.

Sư trưởng tôi làm phép thọ tam quy y cho cả cô gái lẫn hồn ma đang mượn xác cô. Hồn ma được pháp danh Tâm Tín, còn cô gái pháp danh là Tâm Tưởng. Từ đấy cô gái được yên ổn tu hành không bị quấy nhiễu.

Bẵng đi một dạo khá lâu, bỗng một đêm kia, sau giờ “chỉ tịnh” (khoảng 9 giờ tối, giờ mà tất cả tu sĩ trong chùa đều leo lên bồ đoàn để tọa thiền niệm Phật trước khi nằm xuống ngủ), cô gái xồng xộc chạy vào “liêu” của sư trưởng trong khi người đang nhập thiền.

Người quát hỏi:

– Ai đó? Tâm Tín hay Tâm Tưởng?

Cô gái trả lời ngay:

– Dạ con là Tâm Tín.

Cô bé thị giả đang hầu quạt cho sư trưởng (vì lúc đó vào mùa an cư khí trời khá nóng nực) nghe mà ớn lạnh toàn thân, cả mình rởn ốc. Sư trưởng bình tĩnh dạy:

– Ta đã bảo ngươi hãy để yên cho nó tu, sao cứ theo nó hoài? Ngươi còn muốn theo nó tới bao giờ nữa? Có phải như vậy là cả ngươi lẫn nó cùng khổ cả không?

Hồn ma tỏ lộ sự vui vẻ, nói qua xác cô gái:

– Dạ, dạ bạch sư trưởng, con không theo nó nữa! Con chỉ muốn đến báo cho sư trưởng một tin mừng là con đã tìm được chốn đầu thai. Xin cảm tạ sư trưởng!

Nói xong cô gái chạy về chỗ ở dành cho chúng điệu, và từ đấy hồn ma không bao giờ trở lại.

Nghe xong chuyện ni cô kể (khi kể lại chuyện này thì cô gái đã là một tỳ kheo ni trong đạo) tôi củng cố được vài kinh nghiệm bổ ích cho việc tu hành. Trước hết là tính cách giả dối tạm thời của giới tính như nam hoặc nữ và của sinh vật như người hay súc sinh. Khi bị vô minh làm mờ ám thì người nam si mê người nữ và ngược lại, mà không ý thức được rằng hai yếu tố nam, nữ không có gì là chắc thực cố định  Mỗi người qua quá trình luân chuyển, ai cũng đã vô số lần khi mang thân người nam, khi khoác lốt người nữ, cho nên hai thứ mặc cảm tự tôn (khi mang thân nam nhi) và tự ti (khi khoác hình hài nữ nhân) đều vô lối; lại nữa bản chất mỗi người đều có đủ cả hai yếu tố nam nữ không ai thiếu ai. Chính cái cảm giác thiếu thốn tưởng tượng ấy đã đẻ ra vô số vấn đề xã hội và tâm lý.

Thứ hai, chẳng những nam nữ là huyễn hóa mà người và súc sinh cũng thay nhau như bỡn. Ta không thể quyết chắc mình sẽ được mãi mãi làm người. Nếu vô tình nổi một niệm sân si trước khi chết là ta có thể thác sinh làm rắn rết như chơi. Tỉ như người đàn bà bị phụ tình đời trước, vì chết trong cơn tức tối mà đã tái sinh làm thân rắn trong đời này, bất kể oan hay ưng. Vậy thì điều cốt yếu là đừng nên thù hiềm bất cứ ai, vì sẽ rất nguy hiểm cho chính bản thân mình.

Nên trong kinh Di Giáo Đức Phật có dạy: “Nếu ai cắt xẻ thân thể ngươi ra từng mảng từng đoạn, cũng đừng vì thế mà ôm lòng giận dữ.” Lạy Phật!  Mong sao cho tất cả mọi người đều ý thức được hạnh phúc hiếm có mình đang hưởng (là được tái sinh làm thân người) để lo tu học theo chánh pháp, không bỏ lỡ dịp may hiếm có này[14].

12/ Ngộ Đạt quốc sư

Đời vua Đường Ý Tông, ở Trường An có một vị sư người Ấn Độ mắc bệnh ghẻ lở, hằng ngày lang thang trong bộ y phục rách nát, thân hình gầy còm, tay chân lở loét, ai trông thấy cũng lánh xa.  Thỉnh thoảng một vài người động lòng trắc ẩn, bố thí cho một ít thức ăn, ngoài ra không ai dám đến gần nên chẳng ai biết tông tích của sư từ đâu đến.

Một hôm, vị sư này đi ngang ghé vào xin tá túc nơi chùa có sư Ngộ Đạt đang tu. Tăng chúng ở đó ai cũng ghê sợ, không dám đến gần vì trên thân nhà sư đang lở loét bốc mùi hôi thối. Duy chỉ có Ngộ Đạt từ bi thương xót, không ngại đứng ra chăm sóc cho vị sư. Mỗi ngày Ngộ Đạt đều lấy nước nóng lau rửa các mụn ghẻ cho vị sư Ấn, không hề tỏ vẻ gớm ghiếc hay ghê sợ.

Sau một thời gian, nhờ Ngộ Đạt chăm sóc tận tình nên bệnh của vị sư Ấn thuyên giảm và ngài xin từ giã ra đi.  Trước khi ra đi, vị sư nhắn nhủ Ngộ Đạt: – Ngày sau trên đường hoằng pháp, ông rất hiển đạt.  Nhưng có một điều phải hết sức cẩn thận mỗi khi được xưng tán, ca ngợi, vì không khéo có thể làm tổn thương đạo hạnh.  Tôi rất cảm kích lòng tốt của ông, nếu sau này ông gặp tai nạn gì thì hãy đến tìm tôi ở núi Cửu Lũng, Tây Thục, Bành Châu. Cứ lên đến lưng chừng núi, chỗ có hai cây tùng thật to mọc sát nhau gọi là Song Tùng Lãnh thì sẽ gặp được tôi.

Ngày tháng thấm thoát trôi qua, quả nhiên về sau Ngộ Đạt trở thành một vị danh tăng, ở kinh đô mọi người đều biết tiếng và khâm phục tài đức của sư.

Vua Ý Tông qua nhiều lần thăm dò thử thách mới thỉnh sư vào cung thuyết pháp. Thấy đạo hạnh, và tài đức cao thâm của sư, vua rất tôn kính, sủng ái nên phong làm quốc sư và ban cho một pháp tòa bằng gỗ trầm thơm quý.

Một hôm, khi đang ngồi trên pháp tòa bằng trầm thuyết pháp, sư bỗng khởi niệm nghĩ mình tài đức không ai bằng, được vua quan kính phục, trăm họ kính nể, sư cảm thấy không còn danh vọng nào cao hơn nữa. Lòng tự đắc dâng lên tột độ, ngay lúc đó bỗng có một luồng ánh sáng nhỏ từ trên không bay xẹt vào người làm sư xây xẩm mặt mày. Sư vội bảo đồ đệ dìu vào phương trượng, nằm mê man suốt hai ba giờ sau mới tỉnh lại. Cảm giác trong mình khó chịu, sư biết mình đã thọ bệnh, lấy tay rờ xuống đầu gối trái cảm thấy hơi đau, vội vén quần lên, thì thấy một mụn ghẻ to bằng quả chanh đã mọc lên từ lúc nào. Mỗi ngày mụn ghẻ càng sưng to và đau nhức vô cùng. Các danh y trong nước đều được vua mời đến chữa trị cho quốc sư, nhưng mỗi lần thoa thuốc là mỗi lần đau thấu xương, chết giấc chứ không thuyên giảm chút nào. Mụn ghẻ mỗi ngày càng lớn, to như trái bưởi, nứt nẻ có hình giống như mặt người, đầy đủ mắt, tai, mũi miệng, nhìn vào rất kinh sợ. Mụn ghẻ hành sư đau đớn ngày đêm, không bút mực nào tả xiết. Nhưng kỳ lạ thay, nếu đút thịt vào gần thì mụn ghẻ nứt ra như mở miệng ăn ngay và sư lại nghe trong người dễ chịu, thật là căn bệnh quái lạ chưa từng thấy!

Trong hơn một tháng trời chịu khổ sở đau đớn như vậy, sư ngẫm nghĩ lại thấy cuộc đời thật vô thường, chẳng có gì bền chắc, danh vọng vật chất trôi qua như giấc mơ. Chợt nhớ đến lời của vị sư Ấn khi xưa, sư như sực tỉnh cơn mộng, nhận ra khổ nạn của mình chắc chắn xuất phát từ sự khởi tâm kiêu mạn. Nhận ra điều này, sư bèn cố gắng cắn răng chịu đựng một mình lặng lẽ rời bỏ cung thành lên đường sang Tây Thục đi tìm cố nhân.

Sư đi rất vất vả khó nhọc vì chân đau, mỗi ngày chống gậy kéo lê từng bước, suốt mấy tuần mới đến được chân núi Cửu Lũng. Đường lên núi nhiều dốc quanh co, mãi đến hoàng hôn sư mới thấy bóng hai cây tùng thật to, mọc sát bên nhau, cao vút tận mây xanh. Khi bước qua khỏi hai cây tùng thì Ngộ Đạt quốc sư sửng sốt thấy trước mặt là một cung điện bằng vàng và ngọc bích nguy nga, tráng lệ. Đúng lúc đó thì cửa cung điện mở ra, vị sư Ấn khi xưa xuất hiện tướng hảo trang nghiêm như một Bồ tát, bước đến ân cần tiếp đón quốc sư.

Ngộ Đạt quốc sư vừa mừng vừa tủi, kể lại nỗi thống khổ của mình với căn bệnh kỳ quái. Vị sư Ấn ôn tồn an ủi:

– Ông đừng lo! Oan nghiệp của ông sắp đến hồi kết thúc. Có nợ thì phải trả, nhưng điều quan trọng là đừng vay thêm nữa. Ở phía sau cung điện này có một dòng suối tên là “Giải oan tuyền”, sáng mai ông tới đó lấy nước suối rửa vết thương thì sẽ khỏi bệnh.  Đêm hôm đó, quốc sư không tài nào ngủ được, chỉ mong cho trời mau sáng để đi ra suối. Khi trời vừa rạng sáng, quốc sư đã lần mò ra phía sau cung điện và nhìn thấy dòng suối trong vắt. Quốc sư đến gần bên suối đang tính vốc nước lên rửa thì bỗng nhiên cái mụn mặt người mở miệng hét to:

– Khoan, hãy khoan rửa. Ông là người trí thức uyên thâm, kiến văn quảng bác, chắc ông đã từng đọc qua chuyện Viên Áng và Triệu Thố trong “Tây Hán Thư”?

Ngộ Đạt quốc sư kinh ngạc trả lời:

– Đúng, ta đã từng đọc qua rồi.

Mụn mặt người nói:

– Ông chính là Viên Áng ngày trước, còn ta là Triệu Thố. Ông đã sàm tấu với vua, hại ta phải bị xử chém ngang lưng ở Đông Sơn. Do bị chết oan ức, nên ta đã theo tìm ông để trả thù. Nhưng suốt 10 kiếp vừa qua, ông đều là bậc cao tăng, tu hành giới luật tinh nghiêm, chư hộ pháp thường vây quanh bảo vệ nên ta không thể ám hại được. Gần đây, ông được vua sủng ái, kính trọng, phong làm quốc sư, lại còn ban cho pháp tòa trầm hương, tâm kiêu mạn của ông nổi lên, đạo đức bị tổn khuyết, chư hộ pháp bỏ đi, nên ta mới có dịp nhập vào để hại ông. Nhưng may nhờ Ca-nặc-ca (Kaniska) tôn giả từ bi ra tay giải cứu cho ông để đáp lại ân tình xưa khi ông chăm sóc cho ngài. Chính tôn giả đã dùng sức từ bi tam muội hóa hiện ra con suối này để giải mối oán thù giữa ta và ông. Vậy từ nay ông hãy cố gắng tinh tấn tu hành, viên thành đạo nghiệp.

Sau khi nghe xong, Ngộ Đạt quốc sư bất giác rùng mình kinh hãi, vội vàng vốc nước rửa mụn. Nước vừa chạm đến thịt, một cảm giác đau thấu xương làm quốc sư ngất xỉu.  Sau khi tỉnh lại thì mụn ghẻ không còn, da thịt đã liền lại như xưa. Quốc sư vui mừng khôn xiết, tính trở lên tạ ơn tôn giả Ca-nặc-ca, nhưng nhìn lại thì cung điện lộng lẫy hôm qua đã biến đâu mất.

Từ đó trở đi Ngộ Đạt quốc sư ở lại đây tu hành, suốt đời không rời ngọn núi này và ngài đã soạn ra bộ “Từ bi thủy sám”, một phương pháp sám hối khá thông dụng trong giới thiền môn.

***

[1] Phiến Đề La: hạng người cùng đinh, nô lệ.

[2] Nghiệp chướng: những sự khổ não đến từ bên ngoài, quả báo của nghiệp ác khi xưa.

[3] Phiền não chướng: những tâm sở bất thiện như buồn, giận, ganh, ghét, lo, sợ, v.v…

[4] Tên các nhân vật đã được thay đổi để bảo vệ đời tư cá nhân.

[5] Nguồn: baocalitoday

[6] Nhà ở Âu châu thường có hầm để chứa rượu hoặc đồ đạc.

[7] Nguồn: Phunuonline

[8] Bài này tôi trích dịch từ sách “Who ordered this truckload of dung?”, tác giả Ajahn Brahm.

[9] Ngọc Lan. Nguọn: nguoi-viet.com

[10] Nguồn: www.nairaland.com/floridas-after-years-coma-longest

[11] Tên các nhân vật đã được thay đổi.

[12] Nguồn: xosodientu.com

[13] Tuọn Zọ. Nguọn: vietnamnet.vn

[14] Chuyện này do Ni sư Trí Hải thuật lại trong nội san Tuệ Uyển, số 4, tháng 07/95.