ĐẢNH THƯỢNG HÓA PHẬT THỦ NHÃN
Đỉnh Thượng Hóa Phật Thủ (Tay nâng vị Hóa Phật trên đỉnh đầu)
Tay thứ hai trong tám tay thuộc Yết Ma Bộ của Mật Pháp, là Pháp Câu Triệu.
Câu thứ 47 trong Chú Đại Bi là:”Bồ đà dạ” dịch nghĩa là Trí giả Giác giả tức Đỉnh Thượng Hóa Phật Thủ Nhãn trong tướng tay Đại Bi.
– Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà La Ni: Bản dịch của Tam Tạng BẤT KHÔNG Pháp Sư ở Đời Đường, là tướng tay thứ 25 trong Kinh Văn:
“Nếu muốn mười phương chư Phật mau đến xoa đầu thọ ký thì nên cầu nơi tay Đảnh Thượng Hóa Phật”.
– Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh: Bản dịch của Tây Thiên Trúc GIÀ PHẠM ĐẠT MA Pháp Sư ở Đờii Đường, là tướng tay thứ 39:
“Nếu người nào vì chư Phật ở mười phương mau đến xoa đỉnh đầu thọ ký thì nên cầu nơi bàn tay Đảnh Thượng Hóa Phật”.
– Thiên Quang Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Bí Mật Pháp Kinh: Tướng tay Ấn thứ 39 là:
Nếu người muốn được tất cả Như Lai quán đỉnh thọ ký nên tu pháp Đảnh Thượng Hoá Phật. Tượng QUÁN ĐẢNH QUÁN TỰ TẠI….. chỉ có 2 tay quyền,trên đảnh đầu đặt vị Hóa Phật, vẽ tượng xong.
Tướng ấn là: Hai tay cài buộc bên trong, dựng kèm 2 ngón cái đè lên bên canh ngón trỏ. Đem ấn đặt ở đảnh đầu, rồi bung ấn.
39) Đảnh-Thượng Hóa-Phật Thủ Nhãn ấn pháp
Kinh nói rằng: “Nếu muốn 10 phương chư Phật mau đến xoa đầu Thọ-ký, nên cầu nơi Tay Đảnh-Thượng-Hóa-Phật.”
Thần-chú rằng: Bồ-Ðà Dạ [47]
𑖤𑗜𑖟𑖿𑖠𑖯𑖧
BUDDHĀYA
BUDDHĀYA (Tuệ giác, Trí giác)
[BUDDHĀYA BUDDHĀYA: Khiến cho khắp cả chúng sinh đạt được Tuệ Giác Trí Giác]
“Bồ Ðà Dạ Bồ Ðà Dạ”: Bồ Ðề Dạ và Bồ Ðà Dạ, khác nhau về chữ ở giữa. Câu này là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “Trí Giả”, còn gọi là “Giác Giả”. Ở trên là “giác đạo, giác tâm”, ở đây là “Trí Giả, Giác Giả”. Trí là trí huệ; giác là giác ngộ. Ðây là người có trí huệ và giác ngộ chân chánh.
Ðây là “Ðỉnh Thượng Hóa Phật Thủ Nhãn”. Hóa Phật ở trên đỉnh, Hóa Phật Thủ tức là Giác Giả (Bậc Giác Ngộ). Trí và giác vốn chẳng khác mấy. Trí là biết, là một giai đoạn ở trước sự giác ngộ; giác, tức là đã giác ngộ, tức là biết sự việc về sau. Cho nên khi trên đỉnh của bạn có hóa Phật, thành tựu Thủ Nhãn này thì lúc đó bạn là người có trí huệ chân chánh, tức cũng là Bậc Giác Ngộ. Bạn tu Thủ Nhãn này thì có thể được mười phương chư Phật cấp tốc đến rờ đầu thọ ký.
Chúng ta người tu đạo, đều có một sự cảm giác; hoặc là bạn niệm Phật, hoặc trì Chú hoặc tu thiền định. Có khi ở trên đầu cảm thấy giống như có vật gì đang đi, hoặc giống như có con gì bò đi bò lại, cảm thấy như có vật gì ở trên đỉnh đầu, bạn lấy tay rờ thì chẳng có gì hết. Tôi nói cho bạn biết, lúc đó là mười phương chư Phật đến rờ đầu thọ ký cho bạn, bất quá bạn chẳng đắc được thiên nhĩ thông nên bạn chẳng nghe được; bạn chẳng đắc được thiên nhãn thông nên bạn cũng chẳng thấy được. Song mười phương chư Phật hết lòng đến rờ đầu thọ ký cho bạn.
Cho nên nếu có tình hình này là bạn tu hành có sự cảm ứng, song đừng sinh tâm vui mừng, cũng đừng sinh tâm kiêu ngạo, đừng cho rằng Phật đích thân đến rờ đầu tôi, Phật đến gia trì cho tôi. Gia trì tức là dùng tay để rờ đầu bạn. Nếu bạn có tâm vui mừng, có tâm kiêu ngạo đều là một thứ chấp trước. Ðã là chấp trước thì dù cảnh giới tốt cũng sẽ biến thành không tốt. Giống như trong Kinh Lăng Nghiêm có đủ thứ cảnh giới, bạn vốn tu hành có cảm ứng, song nếu bạn cho rằng là bạn đắc được cảnh giới tốt, tức nhập vào đường tà, bị ma chướng. Cho nên tu hành phải như như bất động, Bất cứ là cảnh giới tốt, cảnh giới không tốt, cảnh giới lành, cảnh giới ác, đều không lay động. Nếu bạn không lay động thì có định lực; bạn có định lực thì sau đó sẽ sinh ra huệ lực chân chánh ; sinh ra huệ lực chân chánh thì bạn là bậc trí huệ, thì bạn là bậc giác ngộ.
Kệ:
Quán Âm thi hiện xú ác hình
Chiết phục cường bạo cải tâm linh
Đồng chứng vô sanh bat nha trí
Hoàn nhập sa bà độ hữu tình
Dịch:
Chọn tướng hôi dơ Đức Quán Âm hóa hiện
Quở trách kẻ hung hăng sửa đổi tánh tình
Bát nhã thâm sâu chứng được pháp vô sinh
Trở lại cõi sa bà giúp người và cứu vật.
Chân-ngôn rằng: Án– phạ nhựt-rị ni, phạ nhựt-lảm nghệ, tát-phạ hạ.
𑖌𑖼_ 𑖪𑖕𑖿𑖨 𑖪𑖰𑖾 , 𑖪𑖕𑖿𑖨𑖯𑖽𑖐𑖸 _ 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯
OṂ_ VAJRA VIḤ , VAJRĀṂGE _ SVĀHĀ
OṂ (Quy mệnh) VAJRA VIḤ (Kim Cương Tối Thắng) VAJRĀṂGE (Kim Cương Thân) SVĀHĀ (Viên mãn Cát Tường)
Tay Đỉnh Thượng Hóa Phật là hai tay nâng một vị Hóa Phật để trên đỉnh đầu. Vị Hóa Phật ở trên đỉnh đầu biểu thị cho nghĩa “Quán Đỉnh Thọ Ký”
Đồ hình tuy chỉ dùng một vị Phật, nhưng thật ra bao gồm tất cả chư Phật mười phương. Vì một khi Đức Phật đến xoa đầu thọ ký thì chư Phật đều âm thầm gia hộ. Đây là tướng “phi nhân phi quả”. Với vị Hóa Phật biểu thị cho “phi nhân”.
Bồ Tát biểu thị cho “phi quả”, do đó Tướng này biểu thị nghĩa “nhân quả bất nhị, lý trí nhất thể”.
Bồ Tát Quán Thế Âm dùng Bản Nguyện Từ Bi xông ướp Tam Muội Quán Đỉnh, nên hiện tay này biểu thị cho nghĩa “xoa đầu thọ ký khiến cho mau chóng thành Phật”.
Hành Giả khi theo Thầy Quán Đỉnh, y theo Bảo Bộ đội Liên Hoa Man (vòng hoa sen ) trong Liên Hoa Man an tượng Hóa Phật. Khi Hành Giả tác niệm tụng Chú thì vị Hóa Phật ấy sẽ xoa đầu mà thọ ký cho Hành Giả mau chóng thành Phật.
Kệ tụng:
Hóa Phật đảnh thượng pháp tối kỳ
Phổ cứu quần sinh xuất hãm ni
Công viên quả mãn siêu tam giới
Tức hoạch giác giả thọ thánh ký.
[Hóa Phật trên “ĐẢNH” pháp diệu kỳ
Cứu độ “QUẦN-SANH” khỏi “TRẦM-LUÂN”
Công viên qủa mãn ra “TAM-GIỚI”
Tức được THỌ-KÝ thành CHÁNH-GIÁC.]
Khi QUÝ-VỊ trì thủ nhãn này được THÀNH-TỰU, thì trên “ĐẢNH” của QÚY-VỊ, có HÓA-PHẬT xuất hiện, ngồi trên HOA-SEN báu, ý nói NHÂN-QUẢ ĐỒNG THỜI, nghĩa là qúy vị được chư phật 10 phương đến xoa đầu thọ-ký cho QỦA VÔ THƯỢNG BỒ-ĐỀ.
Được THỌ-KÝ thì có THỜI-GIAN thành PHẬT nhất định, không phải bị TRẦM-LUÂN mãi trong LUÂN-HỒI, mà không biết khi nào mới THÀNH PHẬT. (KINH PHÁP-HOA)
Khi được 10 PHƯƠNG PHẬT thọ ký rồi, thì thành tựu được TÍN-CĂN có khả năng THÂM NHẬP PHỔ-HIỀN HẠNH NGUYỆN, đi thẳng đến qủa DIỆU-GIÁC, thành tựu được TAM-THÂN, TỨ-TRÍ, NGŨ-NHÃN, LỤC-THÔNG, 18 PHÁP BẤT CỘNG…ra khỏi NHÀ LỬA trong TAM-GIỚI, rồi dùng ỨNG HÓA THÂN cứu độ chúng sanh trong ba cõi (TAM HỮU) không có hạn lượng, cho nên nói ĐẢNH PHÁP NẦY RẤT KỲ DIỆU RẤT LẠ KỲ là lý do nầy.
Cũng như THIỆN-TÀI đã trải qua 51 vị THIỆN-TRI-THỨC rồi, sự giác ngộ đã đến ĐẲNG–GIÁC BỒ-TÁT, cùng với DI-LẠC BỒ-TÁT không sai khác.
Vậy mà DI-LẠC bồ tát lại khuyên THIỆN TÀI nên trở về BỔN-SƯ của mình là BỒ-TÁT VĂN-THÙ, để trình bày SỞ HỌC, SỞ HÀNH, SỞ CHỨNG bồ-tát đạo và cầu sự thọ ký (ẤN CHỨNG) cho.
VĂN-THÙ bồ tát ẤN-CHỨNG như thế nào?
Ngài không hiện thân ra như các vị thiện tri thức khác, mà từ xa 110 DO-TUẦN, ngài đưa Tay XOA-ĐẦU THIỆN TÀI để ẤN CHỨNG , là ý nói ngài VĂN THÙ lúc nào cũng ở bên cạnh đệ tử của mình dù “XA” hay “GẦN”, cũng như THIỆN TÀI chưa bao giờ rời CĂN-BẢN TRÍ (TRÍ KIM-CANG) mà không tự biết, giống như KẼ CÙNG-TỬ trong KINH PHÁP-HOA, cho nên ngài phải XOA ĐẦU ẤN-CHỨNG cho.
Vì cảnh-giới của chư PHẬT không phải bậc ĐẲNG-GIÁC có thể hiểu được, phải dùng “TÍN-CĂN” mới chứng nhập được. “TÍN-CĂN” LÀ TIN MÌNH CÙNG VỚI PHÁP GIỚI CHÚNG-SANH CŨNG CÓ “ĐẦY ĐỦ ĐỨC-TƯỚNG TRÍ-HUỆ” NHƯ CHƯ PHẬT.
VĂN-THÙ-SƯ-LỢI BỒ TÁT
Vị Thiện Tri Thức thứ 52
dạy THIỆN TÀI về “TÍN-CĂN”
để thành tựu hạnh PHỔ-HIỀN và NHẬP PHÁP GIỚI được viên mãn.
KINH VĂN:
Y lời dạy của Di-lặc Bồ-Tát, Thiện-Tài đi qua hơn một trăm mười (110) thành đến nước Phổ-Môn, thành Tô-Ma-Na, ở nơi cửa thành suy tìm VĂN-THÙ SƯ-LỢI, trông được gặp gỡ kính thờ.
Bây giờ VĂN-THÙ SƯ-LỢI Bồ-Tát từ xa đưa tay hữu qua khỏi một trăm mười (110) do-tuần áp trên đầu (xoa đầu) THIỆN-TÀI mà nói rằng:
Lành thay! Lành thay! Nầy Thiện-nam-tử! Nếu rời “TÍN-CĂN” thời tâm yếu kém, lo sợ ăn-năn công-hạnh chẳng tròn đủ, thối thất tinh-cần, nơi một thiện-căn sanh lòng trụ trước, với chút ít công-đức đã cho là đủ. Chẳng thể phát khởi hạnh nguyện, chẳng được thiện-tri-thức nhiếp thọ, chẳng được Như-Lai ức niệm, chẳng biết được pháp-tánh như vậy, lý-thú như vậy, pháp-môn như vậy, công-hạnh như vậy, cảnh-giới như vậy, đều không thể biết khắp, biết nhiều, tột nguồn đáy, hiểu rõ, xu nhập giải-thoát, phân-biệt, chứng biết, chứng đắc, tất cả điều trên đây đều không thể được.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát tuyên nói pháp ấy cho THIỆN-TÀI được lợi ích hoan-hỷ thành-tựu vô-số pháp-môn, đầy đủ vô-lượng đại-trí quang-minh, khiến được Bồ-Tát vô-biên-tế đà-la-ni, vô-biên-tế nguyện, vô-biên-tế tam-muội, vô-biên-tế thần-thông, vô-biên-tế trí, khiến vào đạo-tràng phổ-hiền-hạnh.
Lại để Thiện-Tài ở tại chỗ cũ, Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát nhiếp thần-lực chẳng hiện.
Kệ tụng:
Niềm tin là bước đạo sơ nguyên,
Mà nỗi trần ai lắm sự duyên!
Thoạt tưởng sen lành say cõi Tịnh
Lại nghe mai đẹp mến non Thiền.
Bồ Đề gieo khéo nguyền viên-giác
Không hữu còn thương chấp nhị-biên
Tín-đức ví bền như hạnh nguyện
Mưa hoa đồng dạo cảnh Tây-thiên.
(Niệm Phật Phải DỨT-TRỪ-LÒNG-NGHI – HT THIỀN-TÂM )
Tóm lại, nếu QÚY-VỊ trì ĐẢNH-THƯỢNG-HÓA-PHẬT thủ nhãn ấn pháp được THÀNH-TỰU, tức là được chư PHẬT ở 10 phương XOA ĐẦU THỌ-KÝ cho thành CHÁNH-GIÁC, cũng như THIỆN-TÀI được bồ tát VĂN-THÙ XOA ĐẢNH ĐẦU THỌ-KÝ cho vậy, nên TÍN-CĂN được thành tựu, có khả năng THÂM NHẬP PHỔ-HIỀN HẠNH NGUYỆN, rồi tùy theo nguyện lực của mình RA VÀO trong nhà LỬA TAM GIỚI, hoặc thuận hoặc nghịch để cứu độ vô lượng vô biên chúng sanh khỏi trầm luân trong sanh tử, đi thẳng đến qủa DIỆU-GIÁC. Cho nên nói ĐẢNH PHÁP NẦY RẤT KỲ DIỆU RẤT LẠ KỲ là lý do nầy vậy.
Kệ tụng Việt dịch:
Hóa Phật đảnh thượng pháp diệu kỳ
Cứu độ quần sinh thoát bủa vây
Công quả viên thành qua ba cõi
Bồ đề thọ ký đắc thánh vị.
Đảnh-Thượng-Hóa-Phật Thủ Nhãn ấn pháp
Thứ Ba Mươi Chín
Bồ-Ðà Dạ [47]
𑖤𑗜𑖟𑖿𑖠𑖯𑖧
BUDDHĀYA
Án– phạ nhựt-rị ni, phạ nhựt-lảm nghệ, tát-phạ hạ.
𑖌𑖼_ 𑖪𑖕𑖿𑖨 𑖪𑖰𑖾 , 𑖪𑖕𑖿𑖨𑖯𑖽𑖐𑖸 _ 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯
OṂ_ VAJRA VIḤ , VAJRĀṂGE _ SVĀHĀ